Bên Thắng Cuộc: Một cuốn sách hay (1)

Bên Thắng Cuộc: Một cuốn sách hay (1)

Nguyễn Hưng Quốc

11.02.2013

nguồn: VOA

Tôi có cuốn Bên Thắng Cuộc của Huy Đức đã khá lâu nhưng mấy ngày vừa rồi mới có thì giờ để đọc. Ấn tượng chung: Thích.

Thích nhất là về tư liệu. Đã có nhiều người, Việt Nam cũng như ngoại quốc, viết
về Việt Nam sau năm 1975 nhưng có lẽ chưa có cuốn sách nào bao quát nhiều khía
cạnh và dồi dào tư liệu đến như vậy. Các cuốn sách khác, cho đến nay, dưới hình
thức hồi ký hay biên khảo, thường chỉ tập trung vào một lãnh vực và từ một góc
độ cụ thể nào đó. Bên Thắng Cuộc, ngược lại, hầu như đề cập đến mọi góc
cạnh lớn, từ quân sự đến chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, từ tổ chức
chính quyền tại Sài Gòn sau năm 1975 đến các chiến dịch đánh tư sản, các trại
cải tạo, phong trào vượt biên, các nỗ lực “xé rào” về kinh tế, chính sách đổi
mới, chiến tranh với Campuchia cũng như với Trung Quốc và các cuộc tranh giành
quyền lực trong nội bộ đảng Cộng sản. Ở từng vấn đề, Huy Đức đều nêu lên thật
nhiều chi tiết. Các chi tiết ấy thuộc hai loại chính: Một, lời kể của các chứng
nhân được thu lượm qua các cuộc phỏng vấn hoặc qua các hồi ký – đã hoặc chưa
xuất bản – của họ; và hai, các tài liệu đã được công bố đây đó, bằng tiếng Việt
cũng như bằng tiếng Anh. Nguồn tài liệu thứ nhất được Huy Đức thực hiện với tư
cách một nhà báo; nguồn thứ hai, với tư cách một nhà nghiên cứu. Tôi cho sự kết
hợp giữa hai tư cách này là mặt mạnh nhất của Huy Đức đồng thời cũng là ưu điểm
chính của cuốn Bên Thắng Cuộc: Thường, các nhà báo Việt Nam chỉ “tác
nghiệp” theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa, dựa trên những gì mình nghe kể hoặc
quan sát được; còn các nhà nghiên cứu thì lại thiếu thực tế, do đó, hoặc chỉ
xào nấu từ các cuốn sách khác hoặc phải sa vào tư biện, tệ hại hơn nữa là tư
biện kiểu Việt Nam: cứ lải nhải những luận điệu rặt mùi tuyên truyền, tức những
luận điệu ai cũng biết, hơn nữa, biết là sai.

Trong Bên Thắng Cuộc, nguồn tài liệu từ sách vở chỉ có tính chất bổ
sung, chủ yếu để cung cấp số liệu và mở rộng kích thước lịch sử, từ đó, tăng
tính thuyết phục cho những vấn đề được đề cập. Ví dụ, nói về cuộc họp mặt với
khoảng 100 văn nghệ sĩ tại Hà Nội của Nguyễn Văn Linh vào ngày 6 và 7
tháng 10 năm 1987, Huy Đức quay trở lại với thời Nhân Văn Giai Phẩm, hoặc xa
hơn nữa, thời Trường Chinh viết “Đề cương văn hóa” năm 1943, thậm chí, một
chút, về lịch sử báo chí Việt Nam trước đó. Nói về kinh tế thị trường (lần đầu
tiên được đưa vào các văn kiện Đảng là năm 1991), anh quay trở lại vấn đề “lược
sử kinh tế tư nhân” ở Việt Nam từ cuối thế kỷ 19, đặc biệt, đầu thế kỷ 20, dưới
thời Pháp thuộc. Nói về các chính sách đối với người Hoa vào những năm 1978-79,
anh quay lại quan hệ giữa Việt Nam (chủ yếu là miền Bắc) với Trung Quốc trong
Hiệp định Geneve năm 1954 cũng như trong suốt cuộc chiến tranh Nam Bắc thời
1954-75, bao gồm cả chuyện Hoàng Sa năm 1974, v.v.. Những tài liệu này, thật
ra, không mới, nhưng chúng được trình bày một cách gọn ghẽ, sáng sủa và mạch
lạc, làm cho vấn đề có thêm bề dày của lịch sử.

Nhưng mặt mạnh nhất của Huy Đức là ở tư cách nhà báo. Không những chỉ là người
làm báo lâu năm, anh còn có ba đặc điểm mà không phải nhà báo kỳ cựu nào cũng
có: Một, quan hệ rộng; hai, có tầm nhìn dài; và, ba, có cách làm việc khoa học.

Tôi gặp Huy Đức một lần ở Hà Nội, hình như là vào cuối năm 2002 hay đầu năm
2005 gì đó. Buổi sáng, tôi đang ngồi uống cà phê với nhà thơ Phan Huyền Thư và
nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên thì anh và nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn đến nhập bọn. Phạm Xuân Nguyên giới thiệu Huy Đức với tôi: “nhà báo, đang làm ở tờ Thời báo Kinh tế Sài Gòn”. Lúc ấy, Huy Đức chưa có Osin blog, chưa có các bài bình
luận chính trị được phổ biến rộng rãi trên internet, cho nên, thú thật, tôi
không hề biết anh, kể cả cái tên. Mà Huy Đức cũng rất ít nói. Hôm ấy, anh chỉ
ngồi nghe bọn tôi nói hươu nói vượn về chuyện văn chương và cười. Đến lúc Phạm
Xuân Nguyên đọc một số bài ca dao mới chế giễu giới lãnh đạo Việt Nam, trong
đó, có cả Hồ Chí Minh, cả bọn cười ngất, riêng Huy Đức thì lôi trong túi ra một
cuốn sổ tay nhỏ và đề nghị Nguyên đọc lại, chầm chậm, cho anh chép. Sau đó,
trong suốt buổi nói chuyện, cứ hễ bắt gặp một câu gì hay hay, một chi tiết gì
thú vị, anh lại lôi sổ tay ra chép. Cung cách làm việc của anh khiến tôi để ý.
Và nhớ mãi.

Nhiều người trong giới nhà báo có ưu điểm là biết rộng nhưng phần lớn lại mắc
phải khuyết điểm là sa đà trong các sự kiện có tính chất giai thoại vụn vặt,
cuối cùng, chỉ viết được những bài báo ngăn ngắn, đầy tính thời sự, để được đọc
ngày hôm trước và bị quên lãng ngay vào ngày hôm sau. Huy Đức, khi theo dõi và
ghi chép các tin tức hằng ngày, đã có tham vọng sử dụng cho một bức tranh toàn
cảnh về sinh hoạt chính trị Việt Nam thời anh đang sống. Cuốn Bên Thắng Cuộc,
gồm hai tập, “Giải phóng” và “Quyền bính”, như anh tiết lộ trong lời nói đầu,
được hình thành trong 20 năm, chính là kết quả của tham vọng ấy.

Không phải nhà báo nào cũng có quen biết nhiều, đặc biệt trong giới lãnh đạo,
như Huy Đức. Ở Việt Nam, để có được những quan hệ rộng rãi như thế, không những
cần có tính cách thích hợp (quảng giao) mà còn có cả yếu tố “nhân thân” nữa:
Sinh trưởng ở miền Bắc, vốn là sĩ quan, từng làm việc ở Campuchia với tư cách
chuyên gia quân sự trong hơn ba năm trước khi về làm báo, anh có đủ điều kiện
để được tin cậy. Chính vì thế, anh được báo Tuổi Trẻ giao trách nhiệm tường
thuật các kỳ họp Quốc Hội, ở đó, anh có thể, ở “những thời điểm nóng bỏng
nhất”, “vào tận phòng làm việc hỏi chuyện Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan
Văn Khải” hoặc “đến nhà riêng, văn phòng làm việc của Tổng bí thư Đỗ Mười, Tổng
bí thư Lê Khả Phiêu… phỏng vấn”.  Trong “Mấy lời của tác giả”, anh cho
biết anh đã tiến hành “hàng ngàn cuộc phỏng vấn”; và theo “Lời cám ơn”, chúng
ta được biết, trong số những người được anh phỏng vấn, ngoài các tên tuổi nêu
trên, còn có Chủ tịch Nước Lê Đức Anh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Trà, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh,
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội
Lê Quang Đạo, Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết, Bộ trưởng Công an Lê Minh Hương, Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình, v.v.. Cả trăm người. Toàn những người lãnh đạo ở bậc cao nhất trong nước. Ngoài ra, anh còn phỏng vấn vợ họ, con họ và các
thư ký riêng của họ nữa.

Chắc chắn không có một nhà báo hay nhà biên khảo nào ở hải ngoại, kể cả người
ngoại quốc – vốn vừa ít bị nghi ngờ vừa được các trung tâm nghiên cứu lớn tài
trợ để có thể bỏ ra năm bảy năm thu thập tài liệu cho một cuốn sách – có thể
tiếp cận được đến chừng ấy người trong giới lãnh đạo Việt Nam. Ở trong nước,
làm được điều ấy, cũng không phải dễ. Nhìn từ góc độ xuất bản, có lẽ Huy Đức là
người đầu tiên. Điều này trở thành một thế mạnh đầu tiên của cuốn sách: Đó là
chuyện kể từ những người trong cuộc của “bên thắng cuộc”. Tính chất “trong
cuộc” ấy đã tạo nên những đặc trưng về thể loại và thẩm mỹ của cuốn sách.

Trong cái gọi là đặc trưng thẩm mỹ ấy, tôi chỉ xin tập trung vào một điểm: sự
hấp dẫn.

Phải nói ngay: hiếm có cuốn sách về chính trị nào hấp dẫn như cuốn Bên Thắng
Cuộc
. Điều đó có thể thấy qua những tiếng ồn nó gây ra trong mấy tháng vừa
qua. Lâu lắm rồi, giới cầm bút Việt Nam hầu như hoàn toàn bất lực trong việc
gây ồn. Hầu hết sách báo được xuất bản ở trong nước cũng như ở hải ngoại, đặc
biệt ở hải ngoại, đều rơi vào im lặng. Không phải chỉ là chuyện hay hay dở. Mà
chủ yếu ở tâm lý quần chúng: dửng dưng. Cuốn Bên Thắng Cuộc, ngược lại,
ngay từ lúc mới ra mắt ở hải ngoại, là đã gây ồn ào ngay. Kẻ bênh người chống,
bên nào cũng xôn xao và lên tiếng ỏm tỏi trên mọi diễn đàn, từ trên giấy đến
trên mạng. Những tiếng ồn ấy khiến cả những người chưa đọc cuốn sách, hoặc có
khi, không có ý định đọc cuốn sách, cũng quan tâm, thậm chí, như ở California,
xuống đường biểu tình đòi… đốt sách!

Bên Thắng Cuộc hấp dẫn thật. Đọc, chúng ta biết được rất nhiều
chuyện, từ những chuyện lớn liên quan đến chính sách đến những chuyện nhỏ, có
khi nhí nhách nữa, liên quan đến đời sống hàng ngày của một số người. Lớn, ví
dụ, những toan tính đằng sau các chính sách hay chiến dịch có ảnh hưởng đến
sinh mệnh cả hàng chục triệu người; những thay đổi trong tính cách của Lê Duẩn:
từ một cán bộ hay hy sinh cho người khác đến một lãnh tụ chuyên quyền và độc
đoán; trong thái độ của Trường Chinh: từ một người giáo điều và bảo thủ đến một
người đi đầu trong phong trào đổi mới; trong chủ trương của Nguyễn Văn Linh: từ
một người đổi mới đến một người phản-đối-mới. Cũng có thể xem là lớn mối quan
hệ giữa các lãnh tụ với nhau, như giữa Lê Duẩn với Hồ Chí Minh, Trường Chinh,
Võ Nguyên Giáp và Lê Đức Thọ; giữa Nguyễn Văn Linh với Võ Văn Kiệt, những chi
tiết liên quan đến cái chết của Đại tướng Lê Trọng Tấn vào tháng 12 năm 1986
vốn, theo lời Huy Đức, bị “lịch sử phi chính thống […] xếp vào hàng nghi án”
(“Giải phóng”- GP, tr. 151)… Còn nhỏ thì nhiều hơn, có khi lôi cuốn người đọc
hơn, chẳng hạn, chuyện vào ngày 30/4/1975, trong Dinh Độc Lập không hề có chiếc
máy ghi âm nào để thu lời tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh (GP, tr. 23);
chuyện các sĩ quan Bắc Việt đầu tiên vào chiếm Dinh không dám bước vào thang
máy vì thấy nó giống cái… hòm và họ sợ bị nhốt luôn trong đó (GP, tr. 22);
chuyện khuya ngày 5/7/1967, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh bị mệt, được đưa vào

bệnh viện Quân y 108 để cấp cứu, nhưng vừa đến nơi thì ông “phát ra một tiếng
kêu ‘ặc’ rồi mặt và toàn thân tím ngắt”; mấy tiếng đồng hô sau, ông mất…
(“Quyền bính” – QB, tr. 64) Có một số chuyện không biết là lớn hay nhỏ, như
chuyện khi Hiệp định Geneva được ký kết, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trưởng đoàn
Bắc Việt, không hề biết sông Bến Hải nằm ở đâu (vì tất cả đều đã được Trung
Quốc quyết định giùm!) (GP, tr. 52); chuyện Tôn Đức Thắng, Chủ tịch nước, vốn
là thợ cơ khí, nhiều lúc rảnh và buồn quá, lật “chiếc xe đạp của ông ra sửa để
giết thời gian” (GP, tr. 120); chuyện Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng,
biết trước vụ tổng tấn công hồi Tết Mậu thân chỉ có một ngày (QB, tr. 67);
chuyện khi đón tiếp Tổng thổng Bill Clinton trong chuyến thăm Việt Nam năm
2000, “Bộ Chính trị đã thống nhất là không được cười” (QB, tr. 137), v.v..

Nhiều chuyện có thể đã được người này người nọ kể đâu đó rồi. Nhưng theo chỗ
tôi biết, chưa có nơi nào các chuyện thuộc loại ấy được tập trung với mật độ
dày đặc như trong cuốn Bên Thắng Cuộc. Trang nào cũng đầy ắp chi tiết.
Có những chi tiết không dễ gì tìm được ở những nơi khác, ví dụ: Ở Sài Gòn,
trước tháng 4/1975, có bao nhiêu đảng viên Cộng sản nằm vùng? – 735 người! (GP,
tr. 27) Cũng ở Sài Gòn, sau tháng 4/1975, có bao nhiêu người ra trình diện để
“được đi học tập cải tạo”? – Có 443.360 người, trong đó, có 28 tướng, 362 đại
tá, 1.806 trung tá, 3.978 thiếu tá, 39.304 sĩ quan cấp uý, 35.564 cảnh sát,
1.932 nhân viên tình báo các loại, 1.469 viên chức cao cấp trong chính quyền,
và 9.306 người trong các đảng phái bị xem là “phản động’ (GP, tr. 29),
v.v..(Còn tiếp)

***

Chú thích: Số trang trong phần chú thích ghi theo bản “Smashworlds Edition” của
Bên Thắng Cuộc.

 

Biến đá cuội thành tác phẩm độc đáo

Biến đá cuội thành tác phẩm độc đáo

(Dân trí) – Đá cuội ở sông suối không phải là thứ xa lạ đối với hầu hết mọi người. Tuy nhiên, khi xem những viên đá cuội đã được nữ họa sĩ Ernestina Gallina “thổi hồn”, chắc chắn người xem không khỏi thán phục.

Biến đá cuội thành tác phẩm độc đáo

Họa sĩ Ernestina Gallina đến từ Cenestino, nước Ý từ khi còn là một đứa trẻ đã biết
cách biến những vật tầm thường thành những vật độc đáo lạ mắt. Lúc nhỏ, bà
Gallina rất đam mê lĩnh vực hội họa, thiết kế. Tuy nhiên, do gia đình Gallina
không ủng hộ sự lựa chọn này của bà cho nên bà không có cơ hội để phát triển kỹ
năng của mình cũng như đăng ký tham gia học tập tại bất kỳ trường nghệ thuật
chính thống. Bà chỉ thể hiện tài năng nghệ thuật của mình như là một thú vui
giải trí.

 

Biến đá cuội thành tác phẩm độc đáo

Năm 1987, bà cùng với gia đình chuyển đến thành phố Nairobi, ở Kenya để sinh sống. Tại đây sự nghiệp hội họa của bà được thăng hoa. Gallina kể lại, vào một hôm tại
thư viện, vô tình bà đã vấp phải một cuốn sách được trưng bày trên những bức
tranh đá. Từ hôm đó bà bắt đầu suy nghĩ về cách biến những viên đá cuội bình
thường ở sông suối thành những tác phẩm nghệ thuật. Đây chính là điểm mấu chốt
giúp bà kết hợp và phát huy được niềm đam mê nghệ thuật cùng với tình yêu thiên
nhiên đất trời. Kể từ đó, bà đến với nghệ thuật vẽ tranh trên đá như một điều
tất yếu và không bao giờ ngừng lại được.

Sau 3 năm làm quen với công việc vẽ tranh trên đá, bà Ernestina Gallina đã có thể dạy lại những bí quyết vẽ tranh trên đá cho nhiều học viên, đến năm 2003 bà đã thành lập câu lạc bộ vẽ trên đá đầu tiên tại Ý.

Chiêm ngưỡng một số tác phẩm của bà Ernestina Gallina:An TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn Tử

Muốn hạnh phúc, hãy tắt điện thoại

Muốn hạnh phúc, hãy tắt điện thoại

Bí quyết để luôn hạnh phúc là hãy tắt điện thoại di động và quan tâm đến bạn bè cũng như gia đình.

Giáo sư Paul Dolan, thuộc trường kinh tế London (Anh), tin rằng sự phổ biển của iPhone và các điện thoại thông minh khác khiến mọi người ít quan tâm hơn tới những người người thân và bạn bè của họ. Ông cảnh báo rằng nếu mọi người không thay đổi cách ứng xử hiện nay, họ có thể mắc bệnh tâm thần.

Sự phổ biến của các loại điện thoại thông minh khiến  mọi người ít quan tâm hơn tới người thân và bạn bè.

Sự phổ biến của các loại điện thoại thông minh khiến mọi người ít quan tâm hơn tới người thân và bạn bè.

Phát biểu tại sự kiện Hay Festival ở Cartagena (Colombia), giáo sư Paul Dolan cũng cảnh báo hội chứng nghiện Internet và hội chứng Phantom Vibration Syndrome (PVS) trở nên phổ biển trong giới trẻ. Hội chứng PVS xảy ra khi bạn có điện thoại di động trong túi và nghĩ rằng mình có tin nhắn, nhưng không phải.

“Hãy chú ý tới những gì bạn đang làm và những người đồng nghiệp của mình. Thay vì thường xuyên kiểm ra điện thoại và email, bạn hãy tắt điện thoại, nói chuyện và đi chơi cùng bạn bè và những người thân. Bởi vì những thói quen này giúp bạn hạnh phúc hơn”, giáo sư Paul Dolan cho biết.

Ông Paul Dolan cho biết giải pháp để duy trì cuộc sống luôn vui vẻ là tạo ra một số thay đổi trong môi trường mọi người sử dụng điện thoại di động. Ví dụ, trong một bữa ăn, bạn hãy để điện thoại di động tại bàn sau khi sử dụng và nói chuyện vui vẻ với mọi
người.

Khi nói về hạnh phúc, ông Paul Dolan cũng đưa ra một nghiên cứu khoa học cho thấy những người lập gia đình và theo tôn giáo hạnh phúc hơn những người độc thân
hay không theo tôn giáo nào
. Tuy nhiên, ông cũng cảnh báo rằng cuộc sống
hạnh phúc của các cặp vợ chồng tương đối ngắn chỉ kéo dài khoảng 3 năm, nếu các
mẫu thuẫn vợ chồng không được giải quyết.

Giáo sư Paul Dolan cũng cho biết những người giàu có thường ít cảm thấy hạnh phúc. Một cuộc khảo sát gần đây đã đánh Columbia là quốc gia hạnh phúc nhất trên thế giới, cho dù thu nhập bình quân theo đầu người của nước này chỉ là 5.000 bảng/năm.

Gọi điện thoại cũng bị ảnh hưởng do thời tiết

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Chó mòn mỏi đợi chủ

Sau khi chủ đã chết. Chó ngồi đợi chủ ở nhà thờ

Sau khi chủ nhân qua đời, chú chó Tommy ở Ý vẫn kiên trì ngồi đợi chủ ở nhà thờ và câu chuyện này đã khiến không ít người cảm động.

Chú chó Tommy ở nhà thờ

Chú chó Tommy ở nhà thờ

Khi tiếng chuông nhà thờ rung lên trong tang lễ của bà Maria Margherita Lochi vào tháng 11 vừa qua, chú chó Tommy đã chạy vào bên trong nhà thờ, đến bên cạnh quan tài bà Lochi trong giây phút cuối cùng nó được ở bên cạnh chủ.

Khi còn sống, bà Lochi đã mang Tommy về nhà nuôi sau khi phát hiện nó bị bỏ rơi ở một cánh đồng gần nhà tại Brindisi, miền nam nước Ý. Từ khi được bà Lochi nuôi dưỡng, Tommy đã trở thành một người bạn đồng hành trung thành nhất của bà Lochi.

Chú chó Tommy ở nhà thờ

Cha xứ Donato Panna nói: “Tommy luôn xuất hiện ở đây mỗi khi nhà thờ có lễ, nó rất ngoan ngoãn và biết nghe lời. Tommy cũng không bao giờ làm ồn, thậm chí tôi chưa bao giờ nghe thấy một tiếng sủa của nó từ khi nó xuất hiện ở đây.

Nó thường đến nhà thờ để trông ngóng bà Lochi dù bà ấy đã chết. Tôi đã để cho Tommy ngồi bên trong bởi vì nó rất ngoan, mọi người cũng không ai phàn nàn gì về sự xuất hiện của Tommy tại nhà thờ”.

Chú chó Tommy ở nhà thờ

Tommy là một giống chó Đức được bà Lochi nuôi từ nhỏ. Kể từ khi bà Lochi qua đời, những người dân trong làng đã thay nhau chăm sóc nó.

“Tommy đã được người dân trong làng nuôi dưỡng, và giờ đây nói đã trở thành bạn của tất cả mọi người. Mọi người thay nhau chăm lo, cơm nước cho Tommy. Nó vẫn thường đến nhà thờ kể sau đám tang của bà Lochi. Tommy đến và chỉ ngồi một cách lặng yên ở đó, có lẽ nó đang trông ngóng bà Lochi trở về”, cha Panna cho biết thêm.

Anh Nguyễn v Thập gởi

6 bức ảnh về tình yêu thương được “like” nhiều nhất tuần qua

6 bức ảnh về tình yêu thương được “like” nhiều nhất tuần qua

 

Những bức ảnh chia sẻ những câu chuyện xúc động trong cuộc sống, hay đơn giản chỉ là một cảm nhận về con người, tình yêu thương… đã khiến hàng ngàn trái tim thổn thức.

“Cảm ơn những người làm cha đã vất vả nuôi chúng con khôn lớn. Cảm ơn Cha
Mẹ vì tất cả mọi thứ”.

“Đây là một đám cưới rất đặc biệt vì cô dâu và chú rễ bị khiếm thị và chỉ
có thể cảm nhận được vẻ đẹp của nhau bằng con tim. Dành tặng 1 like chúc mừng
anh chị trăm năm hạnh phúc nhé”. Tình yêu của cặp vợ chồng khiếm thị được
cộng đồng mạng cảm phục, và hàng nghìn lời chúc hạnh phúc được gửi tới cặp đôi
này.

“Vượt lên số phận” là lời đề tựa cho bức tranh. Cảm phục trước nghị lực phi thường của người đàn ông tàn tật vượt lên số phận, thành viên mạng facebook đã dành tới hơn 15,000 lượt like cho bức ảnh này.

9,453 lượt like dành cho bức ảnh sau 5 giờ đăng tải. Với lời chú thích “Cuộc sống còn cần hơn nữa tình yêu thương” là thông điệp bức tranh gửi đến mọi người.

Bức hình đi kèm với bài thơ “Lời mẹ yêu” khiến hàng ngàn thành viên mạng xúc động và đồng cảm.

“Cha không hoàn hảo, nhưng cha luôn yêu thương con theo cách hoàn hảo nhất”. Bức tranh nói về tình cảm cha con khiến hơn 5,000 trái tim thổn thức.

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

 

Một cử nhân Mỹ gốc Việt vào học tiến sĩ ở đại học Harvard ở tuổi 17

Một cử nhân Mỹ gốc Việt vào học tiến sĩ ở đại học
Harvard ở tuổi 17
Trường Đại Học Cal State L.A. cho Vietnamese Daily biết em Alexandria
Huynh, một sinh viên gốc Việt vừa ra trường năm nay được trường đại học danh  tiếng Harvard nhận vào học chương trình tiến sĩ y khoa với học bổng toàn phần ở tuồi 17.
Em Alexandria Huynh vào đại học lúc mới tuổi 13 qua chương trình dành cho các  sinh viên vào đại học sớm trước tuổi (University’s Early Entrance Program), em Alexandria Huynh mới ra trường năm nay với bắng cử nhân sinh học hạng ưu. Cal State L.A. còn cho biết Alexandria Huynh là một sinh viên ra trường với bằng cử nhân trẻ nhất từ xưa đến nay của trường.
Em Alexandria Huynh không chỉ được trường Harvard chấp nhận vào học chương trình tiến sĩ mà còn có các trường danh tiếng khác như Đại học Yale và Đại học Pennsylvania cũng chấp nhận em.
Em Alexandria Huynh sẽ vào học ở Harvard mùa thu này với một học bổng toàn phần. Đây là niềm hãnh diện và tự hào của người Việt khắp nơi.

Du Lê

From:Nguyet Cao &
Anh chị Thụ & Mai gởi

Một bác sĩ Phật giáo trở thành Linh mục suốt đời phục vụ bệnh nhân phong

Một bác sĩ Phật giáo trở thành Linh mục suốt đời phục vụ bệnh nhân phong

Đỗ Tân Hưng

1/25/2013

nguồn:Vietcatholic.net

Linh mục Augustinô Nguyễn Viết Chung nguyên là một bác sĩ Phật giáo, chuyên môn về Da Liễu. Khi lên 18 tuổi, nhân đọc một bài báo nói về cái chết của Ðức
Cha Jean Cassaigne tại trại phong Di-Linh, cậu Chung cảm thấy cuộc sống đó quá
tốt đẹp và vô tình Ðức Cha Jean Cassaigne đã trở thành thần tượng của cậu. Khi
nhắc lại đoạn đời đó, cha Chung cho biết là ngài được rao giảng Tin Mừng bằng
đời sống, chứ không phải bằng lời nói. Từ đó cậu Chung có ý nguyện học làm bác
sĩ để phục vụ bệnh nhân phong như Ðức Cha Jean Cassaigne.

Khi bắt đầu học năm thứ nhất y khoa, nhân dịp tham dự Thánh lễ khai khóa của
linh mục giáo sư bác sĩ Lischenberg, cậu Chung nhận thấy con người khoa học
uyên bác của giáo sư Lischenberg đã biến thành một linh mục khả kính, trang
nghiêm siêu thoát, chìm đắm trong cõi phúc lạc thần thiêng. Ơn gọi làm linh mục
của cha Chung đã chớm nở từ đó.

Khi bác sĩ Chung phục vụ tại trại phong Bến Sắn, Dì Hai Loan thuộc Tu Hội Nữ Tử
Bác Ái là Phó Giám Ðốc. Dì là người đã phục vụ ở đây gần 17 năm, bất ngờ ngã
bệnh ung thư và mất đi sau mấy tháng. Khi Dì hấp hối, bác sĩ Chung đang sửa
soạn để đi với bác sĩ Quang, bác sĩ Bích Vân lên trại phong Di-Linh khám mắt
cho bệnh nhân. Vì xe chưa tới, bác sĩ Chung tiếc nuối những giây phút cuối cùng
còn lại với Dì Hai Loan nên đã trở lại giường bệnh của Dì. Lúc đó Dì Hai Loan
mở mắt ra, nhìn bác sĩ và đôi môi mấp máy như muốn nói điều gì. Dì Mười hiểu
được, liền nói: “Chung, Dì Hai Loan nói, tại sao chưa đi?”

Khi kể lại kỷ niệm nầy cho tôi, cha Chung đã dùng những ngón tay phải chỉ vào
cánh tay trái và cho biết lúc đó cha cảm thấy bị rởn da gà lên. Sau đó, bác sĩ
Chung về dự tang lễ của Dì Hai Loan và đã quyết định theo đạo. Một năm sau nữa
bác sĩ đã vào tu ở Tu Hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn và đã nhận lãnh Thánh chức
linh mục hơn một năm nay.

Ba vị đã tác động mạnh mẽ trên Ơn Gọi của cha Chung là giám mục Jean Cassaigne,
linh mục Lischenberg và Dì Hai Loan. Cả ba cùng có một mẫu số chung – như lời
cha Chung – đó là họ đã rao giảng Tin Mừng cho cha bằng cuộc sống chứ không
phải bằng lời nói!

Nguyện ước của cha Chung là được phục vụ bệnh nhân phong và bịnh nhân Aids rồi
cuối cùng ngã bệnh giữa những bệnh nhân mà cha yêu thương phục vụ, đúng như lời
Chúa Kitô đã phán dạy: “Không có Tình Yêu nào cao trọng cho bằng hy sinh mạng
sống mình vì kẻ mình yêu!”

NHỮNG TRỞ NGẠI VỀ PHÍA GIA ÐÌNH

Ðáp câu hỏi của tôi là trên con đường theo Chúa, có những trở ngại lớn lao nào
về phía gia đình không? Cha cho biết gia đình của cha là một gia đình nghèo.
Ðời sống gia đình thường xảy ra cảnh “cơm không lành, canh không ngọt”. Ðiều đó
đã ảnh hưởng cha từ thuở thiếu thời nên cha đã có ý định đi tu vì nhận thấy đời
sống gia đình không mang lại hạnh phúc.

Khi làm bác sĩ, trong hai năm đầu cha đã hành nghề để có thể trả nợ cho gia
đình. Trong những năm kế tiếp, cha đã giúp đỡ những người em ăn học và hiện có
một em trai là bác sĩ chuyên môn về phổi. Người em nầy đã thay thế cha phụng
dưỡng hai cụ thân sinh.

Khi còn là tu sĩ, chưa được thụ phong linh mục, một ngày kia được tin cụ thân
sinh bệnh, cha đi xe đạp về thăm. Vừa vào nhà, cụ thân sinh liền quở trách cha
là một người “không biết nhục”. Theo lời cụ, các bạn bè của cha đều đi xe hơi,
xây nhà lầu hai ba tầng cho bố mẹ ở. Còn cha, cha lại đạp chiếc xe đạp cọc cạch
về thăm nhà!

Trước đây khi cha ngõ ý với cụ bà là muốn đi tu thì cụ bà rất vui, vì tưởng cha
tu theo Phật giáo. Nhưng khi biết cha sẽ tu theo Công giáo thì cụ bà giữ im
lặng.

Sau khi được thụ phong linh mục vài ba hôm, cha về thăm gia đình. Mới bước vào
nhà, cụ bà cất tiếng nói: “Mẹ có điều nầy muốn nói với con.” Cha vội kéo ghế
mời cụ bà ngồi rồi nói: “Thưa Mẹ, xin Mẹ cứ nói, con xin nghe.” Bấy giờ cụ bà
đáp: “Mẹ muốn nói với con điều nầy là đạo Mẹ, Mẹ giữ, đạo con, con giữ.” Cha
liền thưa: “Xin Mẹ cứ giữ đạo của Mẹ. Con không bao giờ dám có ý nghĩ là sẽ
khuyên bảo Mẹ theo đạo của con.”

NHỮNG THỬ THÁCH TRÊN HÀNH TRÌNH TU TRÌ

Ðáp câu hỏi của tôi là trong thời gian đi tu cũng như làm linh mục, có lúc nào
cha cảm thấy những thử thách quá lớn và nảy sinh ý định muốn bỏ cuộc? Cha đăm
chiêu nhìn tôi một phút rồi chậm rãi trả lời: “Thật ra ở giai đoạn nào trong
đời sống tu trì cũng đều có những cám dỗ riêng: từ nhà tập đến khấn tạm rồi
khấn trọn đời và làm linh mục. Nhưng nếu tu sĩ biết tuân giữ ba lời khấn là
vâng lời, khiết tịnh và khó nghèo, đọc kinh Nhật Tụng, suy gẫm Phúc Âm thì sẽ
vượt qua những cơn cám dỗ.”

Cha Chung còn chia sẻ với tôi đôi điều có tính cách riêng tư nhưng có phần nào
ray rứt tâm can. Trong giờ phút cảm động đó, tôi đã đưa tâm hồn lên với Chúa,
cầu nguyện cho cha Chung và cho tất cả các linh mục cũng như nam nữ tu sĩ, đã
trải qua những giây phút cô đơn trong cuộc đời tu trì, bằng lời kinh “Phút Cô
Ðơn”, của Ludovic Giraud, (sách LKÐNTNK, trang 49-50):

“Lạy Chúa,

Con dâng lên Chúa những giờ phút cô đơn

Ðôi lần đến với con trong cuộc đời.

Con dâng lên Chúa

Lúc con phải làm việc một mình:

Trong sự tẻ nhạt của bổn phận nặng nề

Mà không có lấy một sự khích lệ đỡ nâng

Trong cộng đoàn.

Con dâng lên Chúa

Những lúc cô đơn,

Mò mẫm đi tìm trong hoài nghi,

Khi không còn biết con đường

Mình đang theo đuổi sẽ dẫn đến đâu

Và trên đó bóng đêm bao trùm.

Con dâng lên Chúa

Những giờ phút con phải

Ðau khổ âm thầm một mình,

Dù đang ở giữa những kẻ mà con phải

Bày tỏ Chúa cho họ và bị vô ơn hất hủi,

Do thờ ơ và thiếu cảm thông.

Con dâng lên Chúa

Những giây phút con phải yêu một mình

Giây phút thật nặng nề

Khi trái tim con khắc khoải,

Ði tìm sự tương giao

Mà không gặp thấy trong lòng người khác.

Và trong lòng những người con ưa thích

Tìm thấy một sự no thỏa mà không nếm cảm được.

Con dâng lên Chúa

Những giờ phút con phải đau khổ một mình,

Những giây phút Giếtsêmani của bản thân con.

Và chính trong những lúc ấy,

Lạy Chúa, con ước ao được nên giống Chúa.

Cũng như Chúa,

Con ước muốn và cầu xin

Cho chén khổ nầy ra khỏi con,

Nhưng xin Chúa cho con sức mạnh

Ðể chế ngự mình

Mà vâng theo Thánh ý Cha,

Ðấng Chúa yêu ngàn đời,

Cả khi Ngài chấp nhận thấy con đau khổ.

Lạy Chúa,

Xin đừng theo ý con

Nhưng cho ý Cha được thể hiện Amen.”

I. THÁP TÙNG CHA CHUNG: TRUNG TÂM MAI-HÒA

Cao điểm của những ngày về thăm Việt-Nam là việc tôi tháp tùng linh mục
Augustinô Nguyễn Viết Chung đi thăm viếng Trung Tâm Mai-Hòa. Cha Chung hiện là một trong ba bác sĩ phục vụ tại Trung Tâm đó do các Nữ Tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn
đảm trách. Mỗi thứ hai hằng tuần, cha Chung đều lên Mai-Hòa suốt ngày để dâng
Thánh Lễ và khám bệnh. Hai bác sĩ thiện nguyện khác sẽ khám bịnh cho bịnh nhân
vào ngày thứ tư và thứ bảy.

Hôm đó tôi rời Saigon đi xe honda “ôm” với cha Chung lúc 7 giờ 30 sáng để trực
chỉ Củ Chi, với đoạn đường dài trên 45 cây số. Lần đầu tiên tôi đi honda với
nón an toàn nặng trĩu trên đầu. Khi honda vừa chạy độ 5 phút, trời mưa lâm râm,
cha Chung đưa tôi mặc bộ quần áo mưa, trông chẳng khác nào hai phi hành gia bất
đắc dĩ. Nhưng xe chạy được mười lăm phút, trời tạnh mưa. Một ít lâu sau trời
bắt đầu nắng, nhưng cha Chung không hề dừng lại để cởi áo mưa. Sau khi rời
đường quốc lộ, xe còn chạy trên mười cây số nữa mới tới Trung Tâm Mai Hòa.

Hôm đó tôi mặc áo dài tay, quần tây dài, mang giày, để tỏ lòng kính trọng của
tôi đối với những chi thể đau khổ của Ðức Kitô. Thường ngày tôi chỉ mặc áo cụt
tay, quần đùi, đi dép để ứng phó với cái nóng bức của trời Saigon.

SƠ LƯỢC VỀ TRUNG TÂM MAI-HÒA

Ðây là Trung Tâm săn sóc bệnh nhân Aids ở giai đoạn cuối, không nơi nương tựa.
Ðây là một cơ sở Công giáo đầu tiên được chính thức thành lập để chăm sóc bịnh
nhân Aids tại Việt-Nam. Trung Tâm không nhận bệnh nhân đến trực tiếp mà chỉ
nhận bệnh nhân chuyển đến từ khoa nhiễm E thuộc Trung Tâm Bệnh Nhiệt Ðới, Trung Tâm Lao Phạm Ngọc Thạch và bệnh viện miễn phí An-Bình. Hiện Trung Tâm Mai-Hòa do nữ tu Nguyễn Kim Thoa (Dì Tuệ Linh) đảm trách.

Ðịa chỉ của Trung Tâm Mai-Hòa:

Ấp Lô 6, Xã An Nhơn Tây, Huyện Củ Chi, TPHCM.

Ðiện thoại: (848) 8 926 135

Ðịa chỉ email: aidsmaihoa@yahoo.com.vn

NHỮNG EM BÉ MỒ CÔI MẮC BỆNH AIDS

Khi tới nơi, cha Chung và tôi cởi nón an toàn và bộ quần áo mưa ra. Mồ hôi tôi
ướt đẫm như tắm. Nghe tiếng xe honda của cha Chung, mấy em bé năm sáu tuổi chạy
ra mừng rỡ la lớn: “Cha ơi! Cha!” chẳng khác nào cảnh tượng mẹ đi chợ về. Ban
đầu tôi cứ tưởng đó là những em còn khỏe mạnh mà cha mẹ đã qua đời vì bệnh liệt
kháng, không được ai chăm nuôi. Sau đó cha Chung cho biết tất cả các em đều mắc
bệnh, và mồ côi cha mẹ, ngoại trừ một em bé gái 4 tuổi còn mẹ.

Cách đây mấy tháng, mẹ của em nầy đã mang em lại để trước cổng chùa, với một
miếng giấy ghi mấy chữ vắn tắt: “xin nhà chùa nuôi giúp”. Ngoài ra mẹ em có cho
biết tên em và em được bốn tuổi. Vị sư trụ trì đã mang em vào chùa nuôi. Sau đó
em bị Viêm Phổi, đi khám nghiệm mới biết em nhiễm HIV, đã trở thành bịnh Aids.
Nhìn thân thể ốm yếu và nét mặt kém vui của em, tôi đoán biết em đang bị cơn
bẹạnh hoành hành và đang trên đà tiến tới giai đoạn hiểm nguy.

Cảm tưởng đầu tiên của tôi là Trung Tâm Mai-Hòa ngày nay đã được nhiều ân nhân
giúp đỡ, nhất là một số tòa đại sứ ngoại quốc nên nhà cửa khang trang hơn, chứ
không còn gây ấn tượng rùng rợn như khi xem cuốn video một năm trước đây.

THAM DỰ THÁNH LỄ VỚI NƯỚC MẮT CHAN HÒA

Ðây là Thánh lễ cảm động nhất mà tôi đã tham dự từ trước tới nay. Thánh Lễ được
cử hành đơn giản trong một căn nhà thủy tạ hình bát giác, bên dưới là một giòng
nước đục ngầu ứ đọng, không buồn chảy, chẳng khác gì giòng đời với chuỗi ngày
dài lê thê của những bệnh nhân ở đây.

Nghe những tiếng thưa đáp của các bệnh nhân trong Thánh lễ nhất là của các em
bé tôi không thể cầm được nước mắt. Suốt buổi lễ, nước mắt tôi chan hòa, khi
thấy các em vẫn hồn nhiên đọc kinh, hát xướng như thường, không chút ý thức về
số phận đen tối đang đè nặng trên các em. Những lưỡi hái của tử thần đang treo
lủng lẳng trên đầu các em và sẵn sàng rơi xuống để gặt hái các em trong một
ngày rất gần đây mà các em không chút hay biết.

Tôi nhớ lại sau đó, cha Chung đã vào thăm các em trong căn nhà dành riêng cho
các em. Các em đã xúm lại ôm chân cha, níu kéo cha và quyến luyến không muốn
rời khỏi cha. Có em đã được cha ẳm lên, vuốt ve một cách trìu mến. Tôi cũng nhớ
lại lúc xế trưa, các em đã vui đùa cười giỡn trong sân với chị nữ tu phụ trách.
Khi thấy các em vui đùa, tâm trạng của tôi lúc bấy giờ cũng giống như cha Ðông
trước kia: thấy các em cười nhưng tôi lại khóc.

MỘT BỮA ĂN ÐẠM BẠC

Hôm tôi lên Trung Tâm Mai-Hòa, tôi gặp bốn dì Nữ Tử Bác Ái phục vụ những bệnh
nhân liệt kháng ở giai đoạn chót. Dì Tuệ Linh là giám đốc, một Dì trước đây đã
phục vụ ở trại phong Di-Linh hơn hai mươi lăm năm, hiện làm y tá, một Dì săn
sóc các em bé và một Dì nấu ăn.

Hôm đó tôi thấy thức ăn gồm rau muống luộc, canh khổ qua nhồi thịt và đồ tráng
miệng là một miếng dưa hấu đỏ. Thức ăn nầy được dùng chung cho các nữ tu và
bệnh nhân. Các bệnh nhân chia làm ba nhóm ăn cơm chung với nhau, đó là nhóm các
trẻ em, những người bị lao phổi và những người nhiễm các bịnh khác.

Sau khi chia sẻ với tôi nhiều điều, cha Chung đã dẫn tôi sang phòng ăn Trung
Tâm và dùng bữa ăn trưa. Tôi khâm phục tài nấu nướng của chị nữ tu phụ trách
nhà bếp. Những món ăn rất ngon và đậm đà, hợp khẩu vị. Khi ăn trưa xong, đã hơn
hai giờ rưỡi chiều và cha Chung đã mất buổi nghỉ trưa.

Sau mấy tiếng đồng hồ được cha Chung chia sẻ tâm tình, tôi cầu xin Chúa cho tôi
được học hỏi đôi điều qua gương sống chứng nhân của cha, của các linh mục và
nam nữ tu sĩ khác, bằng bài thơ “Xin Cho Con Sức Mạnh” của R. Tagore do Ðỗ
Khánh Hoan dịch (Sách LKÐNTNK, trang 39):

“Lạy Thiên Chúa,

Ðây lời con cầu nguyện:

Xin tận diệt, tận diệt trong tim con

Mọi biển lận tầm thường.

Xin cho con sức mạnh thản nhiên

Ðể gánh chịu mọi buồn vui.

Xin cho con sức mạnh hiên ngang

Ðể đem tình yêu gánh vác việc đời.

Xin cho con sức mạnh ngoan cường

Ðể chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,

Hay cúi đầu khuất phục

Trước ngạo mạn, quyền uy.

Xin cho con sức mạnh dẻo dai

Ðể nâng tâm hồn vươn lên

Khỏi ti tiện hằng ngày.

Và cho con sức mạnh tràn trề

Ðể dâng mình theo ý Ngài luôn.”

II. TRUNG TÂM THIÊN PHƯỚC:

CƠ SỞ NUÔI DƯỠNG TRẺ EM KHUYẾT TẬT

Sau đó cha Chung dẫn tôi sang Cơ Sở Nuôi Trẻ Khuyết Tật Thiên Phước ở bên cạnh.
Cơ Sở nầy do một cộng đoàn nữ tu khác đảm trách.

Trong khi cha Chung lên lầu dâng Thánh lễ cho các nữ tu, tôi ngồi ở dưới lầu,
nơi có vài chục em dưới năm tuổi, nằm, ngồi hay bò hoặc đong đưa trong các
chiếc ghế xích đu. Có em bò lại gần tôi, lấy tay sờ vào chân tôi, rồi nhoẻn
miệng cười. Trông các em thật dễ thương và tội nghiệp. Khi nhìn các em, lòng
tôi se thắt!

Qua việc thăm viếng hai cơ sở nầy ố Trung Tâm Mai-Hòa và Trung Tâm Thiên Phước
ố tôi cầu xin Chúa cho tôi được mở mắt ra để thấy Chúa trong mọi cảnh huống của
cuộc đời:

“Lạy Chúa Giêsu,

Xin cho con thấy Chúa thật lớn lao,

Ðể đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.

Xin cho con thấy Chúa thật bao la,

Ðể cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.

Xin cho con thấy Chúa thật thẳm sâu,

Ðể con đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất.

Lạy Chúa Giêsu,

Xin làm cho con thật mạnh mẽ,

Ðể không nỗi thất vọng nào

Còn chạm được tới con.

Xin làm cho con thật đầy ắp,

Ðể ngay cả một ước muốn nhỏ,

Cũng không còn có chỗ trong con.

Xin làm cho con thật lặng lẽ,

Ðể con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi

Xin Chúa ngự trong con thật sống động,

Ðể không phải là con,

Mà chính Ngài đang sống.

(“Xin Cho Con Thấy” trích từ Rabbouni đăng trong sách LKÐNTNK trang 93)

NHỮNG NẮM TRO TÀN

Sau đó cha Chung và tôi trở lại Trung Tâm Mai Hòa. Trong một giờ đồng hồ, cha
Chung hoàn tất những hồ sơ bệnh lý, còn tôi đi dạo quanh vườn. Những bông hoa
cỏ dại mọc đó đây ở Trung Tâm Mai-Hòa gợi lên cho tôi sự hoang dại của kiếp
sống, cũng như số kiếp của những bệnh nhân ở đó.

“Lời Kinh Của Người Ðau Khổ” (Paradoxes Of Prayers) trong sách LKÐNTNK (trang
70-71) đã gói ghém trọn vẹn tâm tình của tôi trong giờ phút suy tư đó:

“Lạy Chúa,

Con cầu xin ơn mạnh mẽ

Ðể thành đạt trong cuộc đời,

Chúa lại làm cho con ra yếu ớt

Ðể biết vâng lời khiêm hạ.

Con cầu xin có sức khỏe

Ðể mong thực hiện những công trình lớn lao,

Chúa lại cho con chịu tàn tật

Ðể chỉ làm những việc nhỏ tốt lành.

Con cầu xin được giàu sang

Ðể sống sung sướng thoải mái,

Chúa lại cho con nghèo nàn

Ðể học biết thế nào là khôn ngoan.

Con cầu xin được có uy quyền

Ðể mọi người phải kính nể ca ngợi,

Chúa lại cho con sự thấp hèn

Ðể con biết con cần Chúa.

Con xin gì cũng chẳng được theo ý muốn.

Nhưng những điều con đáng phải mơ ước,

Mà con không hề biết thốt lên lời cầu xin,

Thì Chúa lại đã ban cho con

Thật dư đầy từ lâu.

Lạy Chúa,

Hóa ra, con lại là người hơn hết trên đời nầy,

Bởi con đã nhận được ơn Chúa vô vàn”

Trong lúc chờ đợi cha Chung, tôi ngồi đắm mình trong suy tư như thế trên một
ghế đá được một ngôi chùa trao tặng, trong cả chục chiếc ghế như thế được nhiều
ân nhân khác trao tặng Trung Tâm.

Sau khi hoàn tất hồ sơ bệnh lý, cha Chung dẫn tôi đi thăm nhà quàng của Trung
Tâm, mà phía ngoài một bức tường được dựng lên, có ngăn nhiều ô nhỏ để giữ tro
tàn những bệnh nhân đã vĩnh viễn ra đi, nhưng không có thân nhân thừa nhận.
Những tro tàn đó được chứa đựng trong những cái quách nhỏ với một tấm hình gắn
lên bên ngoài.

Trong số gần trăm cái quách đó, tôi để ý đến mấy em rất trẻ, khoảng đôi mươi,
trai cũng như gái, mới từ giã cuộc đời gần đây thôi. Trông hình các em rất
xinh! Lòng tôi quặng đau. Nếu không vì tai họa của Aids thì đời các em đẹp biết
bao!

Trong khi tôi đang miên man nghĩ ngợi, bỗng nhìn xuống đám cỏ xanh trên mặt
đất, phô bày đó đây mấy bông “hoa mười giờ”. Câu hát kết thúc bài ca Hoa Mười
Giờ “đời con gái chỉ đẹp lúc ban đầu!” khiến tâm hồn tôi càng thêm não nuột tê
tái. “Lúc ban đầu” của các em quá vắn vỏi và đầy đau thương! Ðúng là “Nửa chừng
xuân thoắt gãy cành thiên hương.” (Ðoạn Trường Tân Thanh).

Cha Chung chỉ vào hình một cô gái khoảng ba mươi tuổi. Cha cho biết là chị được
chồng chuộc ra khỏi một động mãi dâm ở Kampuchia. Nhưng về sau chị bị Aids và
đồng thời cũng phát hiện ra ông chồng bị lây luôn. Những thảm cảnh như thế nầy
không bút mực nào có thể diễn tả được.

TRÊN ÐƯỜNG VỀ

Trong khi cha Chung và tôi sửa soạn ra về thì một em bệnh nặng đang hấp hối. Ba
của em và bà nội vào thăm viếng em lần cuối. Lâu lâu vì không thể chịu đựng
được cảnh đau lòng nầy, người cha ra ngoài, đứng nhìn trời mây mà ứa nước mắt.

Lúc đó cha Chung đi ngang qua và buột miệng nói với tôi là trong tình huống
nầy, cha cũng không thể làm gì hơn được. Câu nói của cha Chung cho tôi thấy sự
bất lực của con người khi phải đối diện với tử thần. Xét về một phương diện nào
đó, cái chết trong trường hợp nầy là con đường giải thoát duy nhất cho những người
chẳng may mắc phải tai họa nầy.

Sau khi chạy honda ra khỏi Củ Chi để vào xa lộ trở về Saigon, cha Chung quay
lại hỏi tôi có buồn ngủ không. Thật tình tôi không buồn ngủ mà chỉ lo cho cha
Chung đã mất giấc nghỉ ban trưa và bây giờ phải cố thức tỉnh để lái honda trên
45 cây số nữa.

LỜI NGUYỆN CỦA CHỊ VÉRONIQUE

Lúc bấy giờ nền trời âm u, mây đen vần vũ, nhưng may mắn là không đổ mưa. Nhìn
những đám ruộng “nửa vàng nửa xanh” hai bên vệ đường, tôi liên tưởng đến cảnh
chết chóc đang xảy ra tại Trung Tâm Mai-Hòa. Chỉ trong tuần lễ trước đây, hung
thần Aids đã cướp đi bảy sinh mạng và trong tuần nầy cũng phải một hai mạng
người nữa.

Khi tâm tư tôi bị dằn vặt về những ưu tư liên quan đến những cái chết quá đau
thương cũng như đoạn chót cuộc đời đầy đau khổ của những bệnh nhân ở Trung Tâm
Mai Hòa, tôi bỗng đưa tâm hồn lên để quyện lòng mình với chị Véronique qua “LỜI
NGUYỆN” của chị được ghi lại trên tạp chí Prier, xuất bản năm 1979 (sách
LKÐNTNK, trang 13-16):

Chị Véronique là một người Pháp, tính đến năm 1979, được 58 tuổi, với 55 năm bị
mắc bệnh phong Hansen, 20 năm bị mù lòa, nhưng chị vẫn làm việc trong một xí
nghiệp sản xuất đồ dùng của người bệnh Hansen tại nước Cameroun, châu Phi.

“Lạy Chúa,

Chúa đã đến và đã xin con tất cả,

Và con, con cũng đã hiến dâng cho Chúa tất cả.

Xưa kia, con ưa thích đọc sách,

Và Chúa đã muốn mượn đôi mắt của con.

Ngày trước, con thích chạy nhảy trong những khu rừng thưa,

Và Chúa đã mượn đôi chân của con.

Mỗi độ xuân về,

Con tung tăng hái lượm những cánh hoa tuơi,

Và Chúa lại xin con đôi tay.

Bởi con là một phụ nữ,

Con ưa nhìn suối tóc óng ả của con,

Thế mà giờ đây,

Ðầu con hầu như chẳng còn sợi tóc nào,

Cũng chẳng còn đâu,

Những ngón tay hồng xinh xắn nữa,

Chỉ còn lại một vài que củi khô queo nham nhúa.

Chúa ơi, Chúa hãy nhìn xem:

Cái thân thể diễm kiều của con đã bị hủy hoại đến độ nào.

Thế nhưng, con không hề muốn nổi loạn,

Con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn.

Vâng, lạy Chúa,

Muôn đời con sẽ xin thưa hai chữ tạ ơn,

Bởi vì, nếu đêm nay,

Chúa truyền cho con phải ra đi vĩnh biệt cõi thế,

Con cũng sẽ chẳng tiếc hận gì.

Ðời con đã được quá ư đầy tràn diệu kỳ tột độ:

Ðó là con đã được sống

Ðắm mình trong Tình Yêu,

Ðã được Chúa lấp đầy

Chan chứa bằng Tình Yêu,

Vượt quá cả những gì tim con hằng mong ước.

Ôi lạy Chúa là Cha của con.

Cha đã đối xử quá tốt với bé gái Véronique của Cha.

Và chiều nay, ôi Tình Yêu của con,

Con xin dâng lời nguyện thiết tha,

Cho tất cả mọi người phong cùi trên mặt đất,

Xin Cha thương một cách đặc biệt,

Cả đến những người bị bệnh “cùi tâm hồn”

Ðang đè bẹp hủy hoại,

Con yêu thương đặc biệt những con người bất hạnh ấy.

Và chiều nay, trong âm thầm,

Con xin tận hiến đời con cho họ,

Bởi vì họ cũng là những người anh chị em con.

Ôi lạy Cha, Tình yêu của con,

Con xin dâng Cha

Căn bệnh phong cùi thân xác của con,

Ðể cho những người thân yêu kia

Ðừng bao giờ biết đến nữa,

Cái đắng cay, cái lạnh lẽo kinh hồn

Của căn bệnh “cùi tâm hồn”.

Con là bé gái thân thương của Cha,

Cha ơi, hãy nắm lấy bàn tay

Ðã tàn phế của con để dẫn con đi,

Như người mẹ hiền

Dắt tay đứa con gái cưng của mình.

Cha hãy ôm con vào lòng,

Như người cha ấp ủ đứa con cưng

Trong vòng tay của mình.

Cha hãy nhận chìm con sâu xuống tận đáy trái tim Cha,

Cho con được ở đấy

Cùng với mọi người thân yêu của con,

Bây giờ và cho đến mãi muôn đời Amen

GHI CHÚ: Những tên sách viết tắt:

– LKÐNTNK: “Lời Kinh Ðẹp Nhất Thiên Niên Kỷ”

– TTTVLÐT: “Tiếng Thì Thầm Và Lời Ðáp Trả” của Eileen, Nguyễn Thị Chung dịch.

Nhạc sỹ Phạm Duy qua đời

Nhạc sỹ Phạm Duy qua đời

Chủ nhật, 27 tháng 1, 2013

nguồn: BBC

Nhạc sỹ Phạm Duy trong một buổi ca nhạc

Nhạc sỹ Phạm Duy được cho như một trong những người đã kiến tạo nên nền tân nhạc Việt Nam

Người nhạc sỹ lớn của nền tân nhạc Việt Nam, Phạm Duy, vừa qua đời tại TP Hồ Chí Minh ở tuổi 93, các nguồn thân thiết với gia đình ông cho biết.

Nhà thơ Đỗ Trung Quân cho BBC hay ông được tin nhạc sỹ qua đời vào buổi trưa Chủ nhật 27/1. Có nguồn tin nói ông ra đi trong bệnh viện.

Nhạc sỹ Phạm Duy có tiền sử bệnh tim và từng qua hai lần giải phẫu tim.

Ông Đỗ Trung Quân không giấu nổi nghẹn ngào: “Tôi thực sự rất xúc động khi nghe tin ông [Phạm Duy] qua đời”.

“Ông là một trong những nhạc sỹ đã tạo nên diện mạo nền âm nhạc Việt Nam.”

Các tác phẩm âm nhạc của Phạm Duy đã kết hợp được những nét của âm nhạc cổ truyền, dân ca, với các trào lưu phong cách hiện đại.

Ông từng nói trong một cuộc phỏng vấn với BBC: “Tôi nghĩ rằng tôi là người Việt Nam, nếu tôi muốn được gọi là một nhạc sỹ Việt Nam, thì tôi phải làm nhạc dân ca. Đó là chuyện rất giản dị”.

“Tôi phải khởi sự sáng tác của tôi bằng những bản nhạc mang tinh thần Việt Nam và với chất liệu của Việt Nam nữa.”

Mới tháng trước, con trai lớn của nhạc sỹ Phạm Duy, ca sỹ Duy Quang, cũng qua đời tại Mỹ.

Vợ của ông là ca sỹ Thái Hằng, bà qua đời năm 1999.

Tài năng lớn

Nhạc sỹ Phạm Duy sinh ngày 5/10/1921. Tên thật của ông là Phạm Duy Cẩn.

Không chỉ là tác giả của một khối lượng đồ sộ các sáng tác, ông còn là nhà nghiên cứu âm nhạc lớn, với công trình khảo cứu về âm nhạc có giá trị.

Phạm Duy bắt đầu con đường âm nhạc trong vai trò ca sỹ. Ông từng tham gia kháng chiến chống Pháp, nhưng sau di cư vào Nam.

 

Sau sự kiện 30/4/1975, khi ông vượt biên sang Hoa Kỳ. Các ca khúc của ông bị cấm ở trong nước một thời gian dài.

Việc ông trở về Việt Nam định cư năm 2005 đã gây ra nhiều tranh cãi.

Kể từ đó, một số ca khúc của ông mới bắt đầu được phép phổ biến ở Việt Nam. Tuy nhiên cho tới nay, mới khoảng 1/10 số bài hát của ông được biểu diễn ở trong nước.

Trong cuộc trao đổi với BBC, nhạc sỹ kỳ cựu thừa nhận ông từng có giai đoạn sáng tác tuyên truyền trong các giai đoạn chiến tranh, nhưng cho rằng ông chỉ làm như vậy vì yêu nước.

“Lẽ tất nhiên bổn phận của chúng tôi là thế. Bổn phận của người nhạc sỹ khi đi theo kháng chiến, thì phải dùng cái đàn của mình để xưng tụng cuộc kháng chiến.”

“Ngoài những bản nhạc về tình ái, hay về những chuyện khác, thì những bản nhạc có tính chất gọi là tuyên truyền đó thực ra cũng là những bản nhạc yêu nước thôi. Đừng nói là tuyên truyền hay không tuyên truyền.”

Nhạc sỹ cho rằng âm nhạc của ông đa dạng và luôn biến đổi vì thân phận và tâm trạng của ông luôn “vui buồn” và “trôi nổi” theo vận nước.

25 Mùa Xuân… sống đời tận hiến với người bệnh phong

 
 
25 Mùa Xuân… sống đời tận hiến với người bệnh phong

Triều Dương
 
1/25/2013
 
Nguồn: Vietcatholic.net
 
Bỏ sau lưng cái tấp nập của Hà  Nội, tôi về thăm Bệnh viện Phong và Da liễu Bắc Ninh hay người ta vẫn quen  gọi là trại phong Quả Cảm vào một buổi chiều đông khi những cơn gió lạnh từ  phía Bắc vẫn dồn dập kéo nhau bay về. Không mặc chiếc áo của nữ tu mà thay vào  đó là chiếc áo blouse, cô Nguyễn Thị Xuân tiếp chúng tôi trong căn phòng  khách rộng chừng mười hai mét vuông bằng những câu chuyện nghe như truyện cổ  tích.

Xem hình ảnh

1. Nữ tu đến từ “hành tinh lạ”

Nằm cách trung tâm thành phố Bắc Ninh chừng 5km, Bệnh viện Phong và Da liễu  Bắc Ninh có diện tích khoảng 2ha tọa lạc trên mấy ngọn đồi thuộc xã Hòa Long  (Yên Phong, Bắc Ninh). Có cảm giác không gian ở đây như đặc sánh lại khi bước  chân vào khu nhà an dưỡng của các bệnh nhân. Vẻ u tịch càng tăng lên, vài dãy  nhà cấp bốn nằm lọt thỏm giữa những bóng cây xanh lá dù đang độ giữa đông .  Ngôi nhà thờ đổ nát trên đỉnh đồi giống như số phận của những bệnh nhân phong  nơi đây với chứng tích đau thương nhưng niềm tin vẫn luôn rực sáng.

Trại phong Quả Cảm (sau này được đổi tên thành Bệnh viện Phong và Da liễu Bắc  Ninh) được một linh mục ở tòa giám mục Bắc Ninh thành lập năm 1913, nhưng từ  năm 1954 đến nay nhà nước đã trưng thu và quản lý. Hiện nay, trại phong Quả  Cảm có hơn 100 thành viên, đa số họ là bệnh nhân đã khỏi bệnh nhưng vẫn còn  mang di chứng bệnh phong và con em của các bệnh nhân. Qua mấy chục năm trời  tồn tại, nơi đây là mái nhà chung cho những số phận không lành lặn.

Những người dân trong ngôi làng lạ này cho biết, kể từ năm 1954 khi nhà nước
quản lý thì gần như không có người lui đến đây thăm nom những người bệnh
ngoại trừ một vài y tá được cử đến. Trong thời gian chiến tranh, những người
có số phận không may ở nơi đây rơi vào cảnh cô độc. Cái bệnh cái tật không
đau đớn, không sợ hãi bằng nỗi cô độc. Họ như bị cách ly khỏi thế giới bên
ngoài, tự lao động để nuôi sống bản thân và chiến đấu với bệnh tật. Trại
phong Quả Cảm trở thành một nơi “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Dường như cả thế giới đã quên lãng những số phận bất hạnh đang âm thầm chịu đựng cả nỗi  đau thể xác và tinh thần.

Thế nhưng niềm vui đã trở lại khi năm 1988, tòa giám mục Bắc Ninh đã gửi cô
Nguyễn Thị Xuân một nữ tu thuộc tu hội Đức Mẹ Hiệp Nhất đến sống và phục vụ  các bệnh nhân. Ông Tâm – trưởng trại phong bồi hồi kể lại: “ngày đầu khi sơ  Xuân đến đây, mọi người trong này ngạc nhiên lắm, cứ tưởng cô là người đến từ  “hành tinh lạ” nào đó. Mấy chục năm không có ai quan tâm nay tự nhiên lại có  người bình thường đến ở cùng, sống ùng, ăn cùng, làm cùng ai mà không bất  ngờ, không vui sao được.

Kể từ đó đến nay thấm thoát đã hơn 20 năm trôi qua, mái tóc xanh ngày nào của  cô Xuân mà có người vẫn gọi là sơ Xuân đã điểm bạc. Nhưng với tình yêu
thương, bác ái, người nữ tu đến từ “hành tinh lạ” vẫn đang miệt mài, nỗ lực
để giúp cho những con người không được lành lặn về thể xác được lành lặn về
tinh thần.

2. Nữ tu khoác áo blouse

Sinh năm 1957 trong một gia đình Công giáo đạo đức thuộc giáo xứ Xuân Hòa ( xã Đại Xuân, huyện Quế Võ – Bắc Ninh) Nguyễn Thị Xuân đã thừa hướng một tài  sản Đức tin quý giá và tình yêu thương con người. Là chị cả của một gia đình  có 5 chị em, cha mẹ lại mất sớm nên Xuân phải nghỉ học đi làm chắt chiu từng  đồng để nuôi dạy các em. Ban ngày đi làm đồng cho hợp tác, tối về Xuân lại  tất bật ngồi đan lát kiếm thêm thu nhập.

Khi đương thời thiếu nữ có bao người theo đuổi nhưng Xuân không lấy chồng mà  quyết tâm theo con đường tận hiến. Đây là một bước ngoặt cực kỳ quan trọng và  chứa đầy mạo hiểm của cô Xuân bởi sự quản lý gắt gao về tôn giáo nên những ngày đó muốn đi tu cũng không phải là dễ. Trước những khó khăn thời cuộc, Đức  cố Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đình Tùng đã thành lập Tu Hội Hiệp Nhất Bắc Ninh  trong âm thầm nhằm quy tụ những chị em muốn sống tận hiến ngay giữa đời  thường. Xuân đã tìm hiểu và xin ra nhập vào Tu Hội đồng thời vào làm cô nuôi  dạy trẻ của một trường mầm non trong xã với tinh thần “làm tông đồ ở ngay  giữa đời”.

Trong thời gian này, cô Xuân đọc được một cuốn sách viết về một linh mục người  Pháp đã tự nguyện lên Di Linh (Lâm Đồng) chăm sóc những người dân tộc bị bệnh phong. Gấp cuốn sách lại, ở Xuân lại mở ra bao nhiêu suy tư trăn trở: “Cha ấy là người nước ngoài mà còn có tấm lòng với người Việt, còn mình
đã làm được gì cho những người có chung dòng máu chưa?”.

Năm 1987, sau khi đi thăm người bệnh tại Trại phong Di Linh, Lâm Đồng, tận
mắt chứng kiến cuộc sống của những người bị căn bệnh quái ác hành hạ khổ sở, tàn phế, đến mức nhiều người thân trong gia đình còn phải lánh xa. Ấy vậy mà  có nhiều chị nhà tu tự nguyện đến đây chăm sóc cho họ còn hơn cả người thân  trong gia đình khiến cô Xuân không khỏi xúc động.

Trở về nhà mang theo bao nỗi băn khoăn, cô Xuân đã nhiều lần đắn đo suy nghĩ. Năm 1988, cô tự nguyện xin Bề trên đến phục vụ trong trại phong. Ban đầu khi vừa nghe đề nghị của cô, Bề trên phải hỏi đi hỏi lại một cách chắc chắn. Rời xa công việc nuôi dậy trẻ, cô Xuân đến với trại phong. Những ngày đầu đến đây cô không khỏi ngỡ ngàng trước cuộc sống của những mảnh đời kém may mắn. Vượt qua những mặc cảm, cô Xuân đã sống cùng, ăn cùng và làm cùng họ. Cô chia sẻ những đắng cay ngọt bùi, những vui buồn trong cuộc sống với mọi người trong cả làng phong nhất là những người có chung đức tin với cô.

Cô Xuân xúc động kể lại: “Những ngày đầu đến đây khó khăn lắm, có nhiều người coi mình như người từ hành tinh lạ lạc đến. Dần dần họ cũng quen với sự có mặt của mình, và tất cả đã hòa nhập thành một gia đình. Cũng chẳng biết tự
khi nào mình đã coi đây là ngôi nhà thứ hai.”

Ở trại phong này vừa phải chăm sóc cho những số phận không may vừa phải giữ trọn vẹn đời sống tu trì quả là việc không dễ, nhưng đối với cô Xuân chăm sóc những người trong ngôi làng đặc biệt này cũng chính là động lực giúp cô sống trọn đời tận hiến. Ở đây người ta ít khi thấy cô Xuân mặc áo của một nữ tu. Có lẽ, chỉ khi nào đi cầu nguyện, cô Xuân mới mặc nó. Điều đó không phải do cô đã quên mình là một nữ tu mà chính chiếc áo nữ tu đã hóa thân vào chiếc áo blue mà cô vẫn đang mặc thường ngày.

2. Nữ tu trở thành “kỹ sư” sản xuất tay chân giả

…Một năm sau ngày tự nguyện đến đây, cô Xuân được gửi đi học tại Trại phong Quy Hòa (Quy Nhơn, Bình Định). Khi trở lại Bắc Ninh, công việc chủ yếu của cô là cấp phát thuốc cho các bệnh nhân. Nhận thấy đây là một công việc tốt nhưng chưa trực tiếp giúp đỡ được nhiều cho các bệnh nhân nên cô Xuân đã xin được trở lại vị trí hộ lý trước đây.

Lúc ấy, chuyện đi lại, sinh hoạt bình thường đối với bệnh nhân phong trở
thành một ước mơ xa xỉ. Con vi khuẩn Hansen tàn ác ăn mòn từ ngón tay, ngón chân cho đến bàn tay, bàn chân, ăn sang cả khủy tay, cẳng chân… Khổ nhất là những người bị vi khuẩn ăn đến đầu gối. Có người bị vi khuẩn ăn mất một chân, có người mất cả hai.

Không chịu khuất phục số phận, “cái khó ắt ló cái khôn” những bệnh nhân cụt
chân mày mò và nghĩ ra cách gò miếng tôn thành hình trụ, rồi độn lớp giẻ lên
trên, lắp vào chân để di chuyển. Tuy có nhúc nhắc đi lại được, song người
bệnh đau đớn vô cùng, chỗ tiếp xúc giữa chân với ống tôn sắc nhọn cứ loét
dần, máu rỉ ra thấm đầy vào rẻ.

Chứng kiến trực tiếp nỗi đau của bệnh nhân phong, cô Xuân không cầm nổi nước mắt. Dù gắn bó với bệnh nhân chưa lâu, song cô Xuân đã coi họ như những người thân trong gia đình mình. Họ đau cô cũng đau chẳng kém. Đêm đêm không ngủ được cô lại ngồi cầu nguyện xin Chúa soi sáng giúp cô có thể làm được việc gì đó để giảm bớt nỗi đau cho họ. Qua sự giới thiệu của bề trên về một trại phong trong Nam, người ta có thể tự sản xuất được dụng cụ sinh hoạt cho người bệnh rất tốt. Thế là năm 1992, cô Xuân lẽo đẽo một thân, một mình lên đường đi học nghề làm tay chân giả cho bệnh nhân phong.

Học hành xong xuôi, cô Xuân lại cơm đùm cơm nắm trở ra Bắc. Một nhà xưởng nho nhỏ được mở ngay trong Trại phong để cô Xuân hiện thực hóa mong ước của mình. Cô bảo, để uốn được một thanh nhôm vừa với chân người bệnh thì phải dồn tất cả tâm huyết vào đó, coi làm cho người cũng như làm cho mình. Lúc đầu, cô cũng phải nếm trải nhiều thất bại. Chân giả làm xong tới lúc thử thì không vừa chân người bệnh. Vậy là bao công sức lại đổ xuống sông, xuống biển; không nản chí cô Xuân tiếp tục mày mò suy ngẫm, cải tiến cách làm. Quả thực, thành công không bao giờ từ chỗi những người nhiệt tâm, tận lực.

Bao năm trôi qua, cô Xuân đã miệt mài làm việc không kể ngày đêm, mưa nắng vì lòng mến Chúa yêu người. Cô chia sẻ: “bất cứ khi nào ý tưởng vụt lóe lên trong đầu, thì tôi phải chạy lên xưởng thực hành ngay, không thì sợ lúc sau
quên mất”. Chính đời sống tận hiến phục vụ của cô Xuân giữa trại phong
Quả Cảm đã thành một nhân chứng Đức tin sống động cho Tin mừng Phục Sinh và có nhiều người đã xin theo Chúa.

Thời gian thấm thoát hơn 20 năm đã trôi qua, cô Xuân đã nỗ lực làm việc không phải vì những đồng lương nhỏ bé mà vì tình yêu vĩ đại dành cho những số phận không may mắn. Bởi thế mà giờ dù đã ở tuổi nghỉ hưu nhưng nữ tu Nguyễn Thị Xuân vẫn tình nguyện ở lại phục vụ bệnh nhân phong và tiếp tục đảm nhận công việc sản xuất tay giả, chân giả, các dụng cụ sinh hoạt… cho hơn 100 bệnh nhân phong ở đây. Các bệnh nhân đã dành tặng cho cô danh hiệu “người có bàn tay vàng”

Cũng qua tay “bà mối” Xuân nhiều gia đình đã hình thành và tràn ngập hạnh
phúc tại nơi từng được mệnh danh là “miền đất chết” này. Dẫu còn
gặp vô vàn khó khăn, sóng gió, song Quả Cảm đang trở thành một đại gia đình
đầm ấm. Đó cũng là niềm vui, niềm hạnh phúc của nữ tu kiêm “kỹ sư”
Nguyễn Thị Xuân.

Con đường tận hiến của cô Xuân thật đáng khâm phục. Cô vẫn làm việc âm thầm lặng lẽ với niềm tin yêu mãnh liệt. Chính sự hy sinh miệt mài ấy đã trở nên Men, nên Muối cho đời và bừng sáng niềm hy vọng nơi những người có số phận không lành lặn. Như cái tên của mình, người nữ tu ấy đã đem đến Quả Cảm 25 mùa Xuân ấm nồng với những chồi non xanh ngát để băng qua những mùa đông lạnh lẽo tưởng như có lúc ngủ vùi trong quên lãng.

Bắc Ninh, ngày 12 tháng 01 năm 2013

 

Blogger Tạ Phong Tần vào chung kết giải thưởng nhà báo 2013

Blogger Tạ Phong Tần vào chung kết giải thưởng nhà báo 2013
Đăng bởi lúc 9:13 Sáng 23/01/13
nguồn:chuacuuthe.com
VRNs (23.01.2013) – Ngày 21/01/2013, Index  on Censorhip đã công bố danh sách chính thức những nhà văn và nhà báo được chọn
vào vòng chung kết các Giải thưởng năm 2013,
trong đó có chị Maria Tạ Phong Tần thuộc lãnh vực báo chí. Trên website của tổ chức này, chúng ta có thể đọc thấy hình và bản văn giới thiệu chị Tần. Kết quả chung
kết sẽ được công bố vào ngày thứ năm 21 tháng ba tới.
VRNs xin giới thiệu bài viết trên website của tổ chức này:
————————-
Tạ Phong Tần, blogger người Việt bị giam cầm
Tạ Phong Tần, một trong ba blogger Việt Nam, hình thành nên nhóm có danh xưng là “Câu lạc bộ nhà báo tự do”, đã là tâm điểm của một chiến dịch đàn áp tàn bạo của nhà cầm quyền. Việt Nam là một trong những nước hạn chế nhất thế giới về tự do ngôn luận và tự do báo chí, chỉ khá hơn được Trung Quốc, Eritrea và Bắc Triều Tiên là những nước có chỉ số tự do báo chí thấp nhất theo đánh giá của Hội Ký Giả Không Biên Giới.

Tần (ảnh) và các blogger thân hữu của cô đã bị bắt giữ vào tháng 9 năm 2011 (ND) và bị buộc tội “tuyên truyền chống lại nhà nước” thông qua các bài viết bị cáo buộc là đã “bóp méo và chống đối” nhà nước Việt Nam.
Trong thực tế, qua hơn 700 bài viết trên blog Công Lý và Sự Thật, cô đã phơi bày trước ánh sáng qui mô của tệ nạn tham nhũng trong nước. Cô đưa ra một loạt các vấn đề xã hội, bao gồm việc ngược đãi trẻ em, tham nhũng, thuế má không công bằng và việc tịch thu đất bất hợp pháp của các quan chức của đảng tại các địa phương.
Trước khi trở thành một nhà báo, Tần đã là nữ cảnh sát trong guồng máy của Hà Nội. Điều này đem lại cho cô một cái nhìn sâu sắc về hoạt động của hệ thống cai trị. Ngày 24 tháng 09 năm 2012 (ND), sau một phiên tòa kéo dài chỉ một ngày, Tần đã bị kết án phải trải qua mười năm trong tù, và năm năm quản thúc sau khi được thả. Cô đã từ chối nhận tội.
Trong tháng này, một tòa án khác ở Vinh thuộc tỉnh Nghệ An, miền Bắc Việt Nam, đã lại kết án 14 nhà hoạt động, trong đó có nhiều blogger bị phán đến 13 năm tù giam cùng với nhiều năm bị quản thúc tại gia sau đó. Theo đài BBC, việc kết án họ dựa vào những điều luật về an ninh quốc gia có thể được giải thích tùy tiện – trong trường hợp cụ thể này là điều 79 của bộ luật hình sự, nghiêm cấm một cách mơ hồ các hoạt động
nhằm lật đổ chính quyền. Ủy ban Bảo vệ Nhà báo cũng tường trình rằng các quan
chức nhà nước đã đánh đập và lột trần truồng phóng viên Nguyễn Hoàng Vi khi cô
bị giam giữ tại một trụ sở công an ở thành phố Hồ Chí Minh.
Rupert Abbott, nhà nghiên cứu về Việt Nam của Tổ chức Ân xá Quốc tế, nói với tờ New York Times rằng “Những bản án tù kinh hoàng này xác nhận những lo ngại của chúng tôi về những khả năng tồi tệ nhất – đó là nhà nước Việt Nam đã lựa chọn những blogger này là điển hình để răn đe những người khác”. Ông nhấn mạnh thêm rằng tình trạng chà đạp quyền tự do ngôn luận tại Việt Nam là “nghiêm trọng và ngày càng tồi tệ.”
Trước khi phiên tòa bắt đầu, mẹ của Tần đã tự tử trong một cuộc tự thiêu để chống lại tình trạng đối xử tàn tệ đối với con gái bà, cũng như những bạo lực, quấy rối và đe dọa trục xuất nhắm vào gia đình bà.

Lòng Chúa Thương Xót tại Giáo xứ Thanh Đa

Lòng Chúa Thương Xót tại Giáo xứ Thanh Đa

Trầm Thiên Thu

1/12/2013                                         nguồn: Vietcatholic.net

TGP SAIGON – Chiều thứ Sáu, 11-1-2013, theo truyền thống tốt lành của giáo hạt Gia Định, các cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót (LCTX) của các giáo xứ trong giáo hạt Gia Định quy tụ về Gx Thanh Đa cùng tôn vinh LCTX. 14 giờ 30, mọi người lần Chuỗi LCTX; đúng “giờ linh” 3 giờ là Thánh Lễ do Lm Đaminh Nguyễn Đình Tân chủ tế.

Tôn kính LCTX là lòng sùng kính của thời đại chúng ta, thời cánh chúng. Khi làm việc sùng kính LCTX, cũng như các việc đạo đức khác, chúng ta cần tự cẩn trọng, vì có thể “quen quá hóa lờn”, lo hình thức và nghi thức mà quên tâm điểm phải là nội tâm chân thành với Thiên Chúa. Yêu thương là điều chúng ta nghe nói hằng ngày, càng cao niên càng nghe nhiều, mà Luật Chúa cũng chỉ có nhiêu đó, thế mà chúng ta vẫn chẳng thực hiện được bao nhiêu. Nói rất dễ, nhưng làm thì chẳng dễ chút nào!

Nhật Ký của Thánh Faustina, số 1541, ghi lại lời Chúa Giêsu: “Hãy khuyến khích
các linh hồn lần Chuỗi LTX mà Ta trao cho con. Chuỗi kinh này làm cho Ta vui
lòng ban cho mọi ơn mà họ cầu xin Ta qua Chuỗi kinh này. Khi các tội nhân lần
Chuỗi kinh này, Ta sẽ làm cho tâm hồn họ đầy sự bình an, và trong giờ chết họ
sẽ là người hạnh phúc”. Điều đó làm tăng lòng tin nơi chúng ta khi lần Chuỗi
LCTX và thêm tín thác nơi Thánh Tâm Thương Xót của Đức Kitô, Đấng đã chấp nhận
làm người để cứu độ nhân loại.

Thiên Chúa đã nói qua miệng ngôn sứ Êdêkien: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng
cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Ít-ra-en. Tại đó chúng sẽ
nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non
Ít-ra-en. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ.
Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương,
Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào
khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed
34:14-6). Rõ ràng Thiên Chúa yêu thương mọi người, không trừ ai, thậm chí con
chiên nào yếu thì càng được Ngài quan tâm chăm sóc, như Thánh Phaolô xác định:
“Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20).

Nói đi nói lại cũng vẫn là yêu thương. Tình yêu phát xuất từ Thánh Tâm, lòng
thương xót cũng phát xuất từ Thánh Tâm. Cách gọi khác nhau nhưng vẫn là MỘT:
Tình yêu à Thánh Tâm à LCTX.

Trong bài giảng, Lm Tân cũng nhấn mạnh đến chiều kích yêu thương khi tôn sùng
LCTX. Thánh Gioan là Tông đồ mệnh danh là người-được-Chúa-yêu và được tựa đầu
vào ngực Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly để nghe được nhịp-thổn-thức của LCTX,
thánh nhân nói rõ: “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên
Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8). Thậm chí thánh nhân còn nói “toạc móng heo” hơn:
“Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ
nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể
yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Nghe mà “nhột gáy” quá!

Thường thì ai cũng chỉ yêu người yêu mình, và không ưa người không ưa mình,
thậm chí ai không theo “phe” mình thì mình cũng “chơi tới bến”. Thế nhưng Chúa
Giêsu bảo rằng làm như vậy thì ai cũng làm được, người tội lỗi và người ngoại
cũng vẫn làm, sống LCTX là phải yêu cả kẻ thù (x. Mt 5:44; Lc 6:27 & 35).
“Căng” thật đấy!

Nhưng phải là như thế, không thế không được. Vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng
ta trước, yêu vô điều kiện, yêu ngay khi chúng ta là những tội nhân khốn nạn và
đáng chết, thậm chí còn chết vì các tội nhân là chính chúng ta. Chắc chắn chúng
ta không yêu thương nhau thì không xong với Chúa đâu, đừng “lẻo mép”! Chính
người đời còn nói: “Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa; chết vì yêu là sống trong
tình yêu” (Victor Hugo). Chết vì yêu lại là sống vì yêu. Lạ thật!

Yêu thương có liên quan mật thiết với tha thứ. Vĩ nhân Gandhi nói về lòng tha
thứ: “Cách xử thế vàng là biết tha thứ cho nhau”. Chính ông đã nói rằng “Bài
Giảng Trên Núi” (Bát Phúc hoặc Tám Mối Phúc Thật) của Chúa Giêsu là bản tuyên
ngôn độc lập tuyệt vời nhất.

LCTX đã có từ đời đời, chính Đức Maria đã tung hô: “Đời nọ tới đời kia, Chúa
hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1:50), nhưng rõ ràng nhất là “giờ
linh” trên đồi Can-vê. Trước đó, quân lính đã đánh giập ống chân hai tội nhân
cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu. Họ cũng định đánh giập ống chân Ngài luôn,
nhưng thấy Ngài đã tắt thở nên họ không đánh giập ống chân Ngài. Tuy nhiên, một
người lính lại “chơi khăm” mà lấy giáo đâm vào cạnh sườn Ngài. Nhân chứng Gioan
cho biết: “Tức thì, máu cùng nước chảy ra” (Ga 19:34). Đỉnh cao của LCTX là đó!

Xin “mở ngoặc” một chút. Nhà thờ Thanh Đa có ghi câu: “Hãy mang trong anh em
những tâm tư của Đức Kitô” (Pl 2:5), cả ở ngoài và trong nhà thờ. D(ó là câu
“châm ngôn” dành cho mọi người sống trong năm. Thiết nghĩ đây cũng là cách nhắc
nhở hay, vì sống kết hiệp với Chúa và cầu nguyện liên lỉ là điều rất cần thiết
cho bất kỳ ai.

Nói tới nhà thờ Thanh Đa, tưởng cũng nên nhắc lại “kỷ niệm đẹp” về Mẹ Têrêsa
Calcutta, người sáng lập Dòng Bác Ái Thừa sai. Gx Thanh Đa vùng ven của nội
thành Saigon nhưng đã được đặc ân đón tiếp Mẹ Thánh hai lần ghé thăm. Hiện nay,
nơi hàng ghế đầu của dãy bên trái nơi Nhà thờ Thanh Đa có di ảnh của Mẹ Thánh
nơi Mẹ đã quỳ tham dự Thánh lễ, và luôn có bình hoa tươi để tưởng nhớ Mẹ.

Chân phước Têrêsa Calcutta đến Nhà thờ Thanh Đa lần thứ nhất vào một buổi chiều
đầu tháng 11-1993, cùng đi với Mẹ có nữ tu Nirmala (nay là Bề trên Tổng quyền
Dòng Thừa Sai Bác ái), để tìm hiểu ơn gọi và xin mở cơ sở của Dòng tại đây.
Ngày 21-4-1994, Mẹ Têrêsa Calcutta đến Gx Thanh Đa lần hai, trao đổi với Lm
Đaminh Nguyễn Đình Tân về ý nguyện của Mẹ, Cha Đaminh rất cảm kích vì sự ưu ái
mà Mẹ dành cho giáo xứ và ngài sẵn sàng để ước nguyện của Mẹ thành sự thật. Rất
tiếc, do không được phép từ chính quyền, việc mở cơ sở tại đây vẫn chưa được
thực hiện.

Ngày 5-9-1997, Mẹ đã từ giã cõi đời để về Quê Thật theo tiếng gọi của Chúa,
ngày này cũng là ngày Giáo hội mừng kính Mẹ hằng năm.

Để tỏ lòng tôn kính và tri ân Mẹ Têrêsa Calcutta, ngày 14-5-2008, tượng đài của
Mẹ Thánh đã được trang trọng khánh thành trong khuôn viên thánh đường, gọi là
LINH ĐỊA TÊRÊSA CALCUTTA THANH ĐA.

Người Mỹ gốc Việt có tên trong danh sách ‘tài năng trẻ’ của Forbes

Người Mỹ gốc Việt có tên trong danh sách ‘tài năng trẻ’ của Forbes

Danh sách có tên gọi ’30 under 30’ của Forbes gồm 30 cá nhân xuất sắc nhất dưới 15
tuổi trong 15 lĩnh vực như tài chính, marketing hay công nghệ.

 

VOA Tiếng Việt

15.01.2013

Anh Nam Nguyễn, 29 tuổi, mới được tạp chí Forbes chọn vào danh sách những
thanh niên tài năng dưới 30 tuổi, có khả năng tạo nên sự thay đổi trên toàn thế
giới.

Danh sách có tên gọi ’30 under 30’ gồm 30 cá nhân xuất sắc nhất dưới 15 tuổi
trong 15 lĩnh vực như tài chính, marketing hay công nghệ.

Anh Nam Nguyễn dứng ở vị trí thứ 19 trong danh sách hơn 30 thanh niên xuất sắc nhất trong lĩnh
vực marketing và quảng cáo.

Trả lời VOA Việt Ngữ, anh Nam cho biết anh rất bất ngờ khi được Forbes lựa
chọn.

Anh Nam cho biết: “Đây không phải là điều tôi từng mong đợi, nhất là một
giải thưởng có quy mô như vậy. Forbes là một tạp chí danh tiếng, với lượng
người đọc có khả năng xuất sắc. Vì vậy nên khi được nêu tên trong danh sách ‘30
under 30’, tôi thực sự bị choáng ngợp, nhưng đồng thời cũng cảm thấy hết sức
vinh dự.”

Chàng thanh niên gốc việt 29 tuổi là giám đốc phụ trách về nội dung của công ty
360i.

Anh quản lý nội dung theo thời gian thực, tận dụng các dữ liệu về người tiêu
dùng để tạo ra các sản phẩm đa phương tiện cho các công ty lớn như Coca-Cola
hay Kraft Foods.

Anh Nam Nguyễn sinh ra và lớn lên tại California.  Nhưng anh cho biết Việt
Nam có một vị trí quan trọng trong anh và đó chính là lý do vì sao anh đã giữ
tên họ Việt Nam.

Anh Nam cũng mới cùng cha trở lại Việt Nam, và anh gọi đó là một ‘ước mơ đã
thành sự thật’.

Anh Nam nói: “Tôi sinh ra và lớn lên ở Hoa Kỳ, tôi luôn luôn tự hỏi về
nguồn gốc Việt Nam của mình. Dù là một người Mỹ nhưng tôi luôn tự hào là một
người gốc Việt. Tôi thất rất hạnh phúc khi được cảm nhận văn hóa Việt Nam từ âm
thanh của đường phố, quang cảnh, con người và ẩm thực của Việt Nam. Tôi thật sự
xúc động được trở về nơi đã sinh ra cha mẹ tôi.”

Anh Nam nói với VOA Việt Ngữ rằng anh hy vọng sẽ có dịp quay trở lại Việt Nam
trong tương lai.