“Đại gia” cũng khóc
Đoàn Dự ghi chép
Bước sang năm mới 2016, đại gia Lê Ân cũng vừa tròn 78 cái xuân xanh. Thế nhưng không ai nghĩ ông là một cụ già, bởi lẽ ông vẫn còn khẩu khí ngút trời và luôn có những hành động khó đoán. Sau một thời gian dài theo đuổi vụ kiện về căn nhà với người con trai cả cùng máu mủ, đại gia Lê Ân đã giành phần thắng trong phiên tòa ngày 23-12-2015. Tuy nhiên, kết quả ấy đồng nghĩa với nụ cười hay nước mắt? Bởi vì ông cực kỳ giàu có, sở hữu các tài sản hàng ngàn tỷ đồng, chỉ riêng chiếc xe Rolls Royce rước dâu ông “mua chơi” khi làm đám cưới với cô vợ thứ 5 mới 20 tuổi đã là 26 tỷ đồng, tức cỡ 1,5 triệu đo-la lúc ấy (2011), vậy thì căn nhà đối với ông đâu có nhằm nhò gì. Dù khỏe ông cũng không thể sống tới vài trăm tuổi được. Các tài sản lớn như núi ông sẽ để lại cho ai ngoài cô vợ trẻ? Cha con lôi nhau ra tòa, nếu suy nghĩ kỹ “đại gia” sẽ thấy ngậm ngùi và cái đó người ta kêu là… đại gia cũng khóc!
Trong số những đại gia vẫn hãnh diện khoe số tài sản hơn một ngàn tỷ của mình tại Việt Nam hiện nay, Lê Ân là trường hợp không dễ hiểu chút nào. Cuộc đời ông nhiều thăng trầm, nhiều ngang trái mà cũng nhiều… ngông nghênh. Vì vậy chuyện ông kiện tụng người con cả ruột thịt không hẳn bởi một căn nhà, mà chủ yếu là để chứng minh công lý phải thuộc về phía ông.
Người con trai tranh chấp tài sản với đại gia Lê Ân có cái tên khá đặc biệt do chính ông đặt: Lê Đa Ni En. Đó là con trai lớn nhất ông có với bà vợ đầu tiên tên Lê Thị Ngọc Lan, đã gắn bó với ông từ thuở hàn vi. Để hiểu rõ vụ kiện một cách đơn giản, chúng ta có thể tóm tắt như sau:
Căn nhà số 408 ngoài mặt đường Cách Mạng Tháng 8 được vợ chồng ông Lê Ân mua và sinh sống từ năm 1970, diện tích 76m2. Năm 1984, Lê Ân ly dị bà Ngọc Lan, để lại căn nhà này cho vợ cùng 5 người con ở và buôn bán.
Ông “làm lại cuộc đời” với người vợ thứ hai lai Mỹ, cô này có một đứa con, bỏ lại cho ông nuôi rồi đi mất. Ông hàn gắn với người thứ ba tên Kim Thu, đồng thời năm 1970, để gần gũi với máu mủ ruột rà, ông mua căn nhà ở ngay phía sau sát sau sát với căn nhà 408 Cách Mạng Tháng 8, có diện tích 149,7m2.Từ năm 1990, Lê Ân chuyển ra Vũng Tàu, mua nhà ở Vũng Tàu, căn nhà 149,7m2 (tức căn phía trong) khóa cửa bỏ không.
Bẵng đi một dạo, Lê Ân phát hiện ra Lê Đa Ni En đứng tên chủ quyền căn nhà 408 Cách Mạng Tháng 8 với diện tích lên đến 225,7m2, tức bao gồm luôn cả căn bỏ không phía trong, điều đó có nghĩa Đa Ni En đã gộp hai căn làm một và điều lạ lùng là cơ quan hành chánh quận Tân Bình Sài Gòn vẫn làm giấy tờ cho Đa Ni En làm chủ trong khi cả hai căn đều đứng tên Lê Ân. Ông Lê Ân điên tiết, bèn khởi kiện con trai ra tòa để đòi lại tài sản của mình.
Sau 25 năm kiện tụng, ngày 23-12-2015 đại gia Lê Ân đã thắng con trai mình về mặt pháp lý. Còn về mặt đạo đức thì thật ê chề khi hai cha con coi nhau như thù địch. Thậm chí trước tòa họ không xưng hô với nhau có chút tình nghĩa, mà ông Lê Ân gọi con trai mình là “ông Đa Ni En”, còn Đa Ni En gọi ông là “đại gia Lê Ân”. Ông Lê Ân biện giải với tòa rằng ông muốn lấy lại căn nhà để sẽ bán đi, chia đều cho các con.Tuy nhiên, mọi thứ dường như đã bị đẩy đi quá xa khi, cũng trước tòa, ông nói về con trai: “Con cả của tôi không có cái tâm. Tôi nhìn mặt nó không phải mặt người mà là mặt quỷ. Mấy chục năm qua nó định đánh tôi nhưng tôi đều chạy. Chả lẽ tôi đánh lại nó thì bằng với nó hay sao? Là một người cha mà có đứa con ngỗ nghịch như vậy thì tôi đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Cay đắng lắm nhưng tôi không biết làm thế nào”. Ối trời cao đất dầy, cha con mà cạn tàu tráo máng như thế thì đúng là cay đắng thật!
Thẳng thắn mà nói, ông Lê Ân là một người rất sòng phẳng. Ông luôn quyết liệt kiểu ăn miếng trả miếng, ơn thì đền, oán thì trả. Trước khi cưới cô Mai Thị Mai (báo chí thường gọi là cô Mai Mai) nhỏ hơn ông 55 tuổi làm vợ thứ 5, đại gia rất hận ba người vợ trước đó, nhân lúc mình nguy khốn đã phụ bạc mình. Để thỏa cơn uất hận, ông cho tạc ba bức tượng của ba bà vợ cũ và trưng bày ngay trước khuôn viên Khu du lịch Chí Linh của ông ở Vũng Tàu. Đến nay ông vẫn bộc bạch với báo chí hầu như chưa nguôi cơn giận: “Tui cho tạc tượng mấy bả để khắc cốt ghi tâm những gì mấy bả đã đối xử với tui. Mỗi lần nhìn tượng mấy bả, tui càng có thêm nghị lực để vươn lên, nhắc nhở mình rằng không nên sa lầy vào những cuộc hôn nhân không tốt đẹp như vậy nữa!”Dĩ nhiên yếu tố để được gọi là đại gia là tiền bạc chứ không ai đòi hỏi đại gia phải có phẩm chất của bậc đại trượng phu, bao dung, độ lượng!
Tuổi thơ nghèo khó
Ông Lê Ân sinh năm 1938 (Mậu Dần) trong một gia đình đông anh em ở Quảng Nam. Ông là người con thứ 5.
Lê Ân có tuổi thơ nghèo khó, túng thiếu. Biến cố đầu tiên của cuộc đời ông chỉ xuất hiện khi, năm 1958, 20 tuổi, ông trốn quân dịch, vào thị xã An Lộc, tỉnh Bình Long (nay là tỉnh Bình Phước) dưới chế độ TT Ngô Đình Diệm.
Vào An Lộc, Lê Ân mưu sinh bằng cách thuê một chiếc máy may hiệu Singer đã cũ – loại máy sử dụng bàn đạp bằng chân – rồi đặt trước doanh trại quân đội An Lộc, phía trên vỉa hè để sửa thuê quần áo lính. Ông sửa rẻ, lại đẹp nên lính đem ra sửa rất đông, nhiều khi làm không hở tay.Hơn năm sau, Lê Ân đã có đủ tiền mua lại cái máy may đã thuê đồng thời mua thêm 2 cái máy may khác để mướn thợ làm phụ với mình.
Một lần, Lê Ân có một vị khách lạ. Ông cụ này từ Bắc vào Nam từ năm 1948. Khách bảo “Thấy cậu khéo tay, lại cần mẫn làm ăn. Nếu muốn học may áo vest thì tôi truyền cho”. Như hạn hán gặp cơn mưa, Lê Ân nhận lời ngay lập tức và trở thành đệ tử của vị khách.
Sau khi đã học hết nghề, với một tấm giấy hoãn dịch giả mua được của một sĩ quan ở An Lộc, Lê Ân gom hết vốn liếng, về Sài Gòn thuê một căn nhà trên đường Trần Quý Cáp (nay là Võ Văn Tần, quận 3) rồi mở một tiệm chuyên may đồ vest với tên gọi Chiến’s Tailor.
Chỉ một thời gian ngắn, Chiến’s Tailor trở thành một trong những tiệm may đồ vest hàng đầu của Sài Gòn với cách thức do ông đặt ra: vải tốt, may đẹp, giá hạ và đúng hẹn. Tiền vào như nước nên chẳng bao lâu sau Chiến’s Tailor trở thành một trung tâm Âu phục danh tiếng. Ông nói: “Để quảng cáo cho mình, cứ hễ bước ra đường là tôi mặc đồ vest và là đồ do chính tôi may”. Cái thói quen ấy Lê Ân vẫn còn giữ mãi tới ngày nay, áo vest ông mặc phải nói là rất đẹp.
Có tiền, Lê Ân bắt đầu mở rộng thêm các ngành nghề kinh doanh khác, như thành lập xưởng sản xuất giày dép da hiệu Italy; kinh doanh xe lam, xe buýt chạy đường Sài Gòn – Bảy Hiền – Bà Chiểu; thành lập công ty kinh doanh địa ốc; mua trái phiếu người cày có ruộng của nhà nước và công khố phiếu quốc gia..vv.
Tiếp theo đó, Lê Ân dồn toàn bộ vốn liếng thành lập một ngân hàng tư nhân của riêng mình. Tuy nhiên, ngân hàng này chưa kịp kinh doanh có lời thì Sài Gòn “giải phóng”. Toàn bộ trái phiếu, công khố phiếu quốc gia và các chứng từ có giá trị lớn của ông dưới chế độ cũ đều biến thành… giấy lộn!
Cái đáng quý nhất còn sót lại của Lê Ân sau khi ngân hàng của ông bị “đứt bóng” là uy tín. Chính vì có uy tín nên mặc dầu trắng tay nhưng ông vẫn có những người bạn cho mượn vốn. Ông kể: “Tôi bắt đầu lại bằng cách xin đấu thầu thu gom sắt thép phế liệu thời hậu chiến. Thời đó, đây chính là một nguồn lợi khổng lồ”.
Ngoài việc kinh doanh phế liệu, Lê Ân còn lao vào một lãnh vực hoàn toàn mới mẻ đối với ông. Thời điểm này, người Việt ở các nước ngoài đã bắt đầu gửi quà về cho gia đình, mà quà đa số là những thùng thuốc tây. Hợp tác với một dược sĩ tên Gia, ông lập một hệ thống tư nhân thu mua thuốc tây – trong đó đặc biệt là các loại thuốc “ngậm” – tức những thứ thuốc đặc trị các bệnh ít gặp. Ông nói: “Chính vì là thuốc “ngậm” rất ít người mua nên khi thu vào giá rất rẻ, nhưng nếu có ai cần đến thì lại bán được với giá rất cao. Mới nghe qua người ta thấy phi đạo đức, nhưng cứ thử nghĩ, tôi bỏ ra một cây vàng chẳng hạn để mua một thùng thuốc “ngậm”, rồi một năm sau, không bán được cho ai, thuốc hết “đát” phải vứt bỏ là tôi mất luôn cả một cây vàng”.
Với việc dám mua bán các loại thuốc đặc trị, Lê Ân thu được những khoản lời khổng lồ. Đặc biệt nhất là sau 2 năm kinh doanh thuốc tây, hầu như ông thuộc lòng các mặt hàng thuốc, từ tên gọi cho tới công dụng, liều dùng, giá cả v.v…
Từ những khoản lợi nhuận này, ông tiếp tục đầu tư làm xưởng sản xuất xe đạp và nhà máy chế biến xà bông, đồng thời thành lập tiệm vàng Chiến Thành với giấy phép kinh doanh là gia công vàng bạc nữ trang. Tuy nhiên, mỗi đêm Lê Ân lại âm thầm phân kim hàng chục lượng vàng đã mua được từ nhiều nguồn khác nhau, thêm bạc vào đó (gọi là vàng “xanh”, kém chất lượng) để bán lại cho những người muốn đi vượt biên. Chính vì hành vi này mà Lê Ân bị bắt và bị đi cải tạo một thời gian khá dài về tội giúp đỡ phương tiện cho người vượt biên.
Bị đi kinh tế mới
Sau khi ra tù, Lê Ân bị cú sốc thứ hai khi nhà nước CSVN thực hiện chủ trương đánh tư sản mại bản, gia đình ông thuộc thành phần bị đuổi đi kinh tế mới.Một người như Lê Ân đâu có chịu ở nơi rừng rú, khỉ ho cò gáy, thiếu thốn đủ mọi thứ. Từ kinh tế mới, ông đem gia đình trốn về Nha Trang để không ai biết gốc tích của mình, rồi mua nhà, lập cửa hàng bán đồ phụ tùng xe đạp, sản xuất khung xe đạp và mua bán vải tại Chợ Đầm Nha Trang.
Tuy nhiên, sai lầm lớn nhất của ông là giao toàn bộ tài sản, tiền bạc, vàng và kim cương hột xoàn cho người vợ đầu gối tay ấp đã có với mình 5 mặt con, tức bà Lê Thị Ngọc Lan. Năm 1984, bà này làm đơn ra tòa xin ly dị với lý do là ông luôn luôn mèo chuột, có nhân tình nhân ngãi hà rầm bà không chịu nổi. Ông không có giấy tờ gì chứng minh mình là chủ các tài sản đã giao cho vợ nên lại một lần nữa trắng tay.
Quá thất vọng, Lê Ân bỏ Nha Trang trở về Sài Gòn. Ông “làm lại cuộc đời” bằng cách mở một shop nhỏ buôn bán quần áo thời trang tại quận 3 Sài Gòn. Bàn tay Lê Ân dường như có ma thuật, shop tuy nhỏ nhưng buôn bán hết sức thành công. Sau đó ông mở thêm một chuỗi các cửa hàng tại nhiều quận khác tại Sài Gòn. Có tiền, ông lập thêm các tiệm thuốc tây tại các quận 1, 3 và quận 10.
Khi có nhiều tiền, ông thành lập Qũy tín dụng Hòa Hưng (đây là tên do ông đặt ra với ý nghĩa vừa an hòa vừa hưng thịnh chứ không phải Hòa Hưng ở khu Ngã ba Ông Tạ). Ông mua đồng rúp và lập thêm nhiều chi nhánh kinh doanh vàng bạc. Ngoài ra ông còn có cổ phần lớn tại nhiều trung tâm tín dụng khác.
Đối diện với án tử hình
Như một quy luật phát triển, Quỹ tín dụng Hòa Hưng được chấp thuận cho phép nâng cấp thành Ngân hàng cổ phần Đại Nam. Tuy nhiên, lúc có giấy phép thì tên của ông không có trong hội đồng quản trị.Sau khi bị loại khỏi cuộc chơi này, Lê Ân trở thành thành viên của các tổ chức tín dụng nằm trong một khối liên kết mà trước đó ông được bầu làm chủ tịch.
Ông đề xuất sáp nhập Qũy tín dụng Phú Đông với Quỹ tín dụng Thống Nhất vì hai quỹ này đang làm ăn lỗ lã, rồi ông bỏ vốn ra cứu nó sống lại và được các thành viên bầu làm chủ tịch. Ông cũng “cứu sống” Quỹ tín dụng Phụ nữ Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo và nâng cấp nó thành Ngân hàng Thương mại cổ phần Vũng Tàu (VCSB). Ngân hàng này chính thức được khai trương tại Vũng Tàu ngày 9/10/1991 do Lê Ân đứng đầu Hội đồng quản trị.
Tiếp đến, Lê Ân thành lập Công ty Lê Hoàng để lập Khu du lịch Chí Linh. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước không cho phép VCSB lập khu du lịch bởi vì ngân hàng không có chức năng làm du lịch. VCSB chuyển toàn bộ dự án kinh doanh khu du lịch Chí Linh cho Công ty Lê Hoàng. Chính vì vậy có dư luận cho rằng Lê Ân lạm quyền, chi 82 tỉ đồng lấy từ VCSB cho Công ty Lê Hoàng nơi Lê Ân làm chủ tịch Hội đồng quản trị..
Thanh tra Ngân hàng Nhà nước khởi tố vụ án. Ngày 11/2/2000, Lê Ân cùng 6 thành viên trong Ban lãnh đạo VCSB bị bắt, và ngày 28/5/2001, ông bị tuyên án tử hình về tội lừa đảo, chiếm dụng vốn liếng của VCSB, còn 6 thành viên kia thì bị các mức án tù khác nhau.
Lê Ân làm đơn kháng cáo và giao nộp toàn bộ các chứng từ của VCSB cho cơ quan điều tra để chứng minh mình vô tội. Toàn là tiền vốn do ông đã bỏ ra cho VCSB hoạt động mà thôi, nếu ông chuyển một số vốn “của mình” sang Công ty Lê Hoàng thì đâu có gì là trái? Ông đã thành công và được giảm án từ tử hình xuống 12 năm tù.
Trong thời gian thụ án, do cải tạo tốt nên Lê Ân được cho ra ở nhà phía ngoài, không bị nhốt chung với các tội nhân khác. Và ngày 31/8/2005, Lê Ân được thả sau hơn 5,5 năm bị giam giữ (tính cả 1 năm bị bắt giữ và ra tòa trước khi tuyên án).Ông ra tù thì tài sản phải trả lại cho ông. Bởi vậy hiện nay Lê Ân rất giàu, ngoài Trung tâm Du lịch Chí Linh ông còn làm chủ một bãi tắm tại Vũng Tàu thuê của nhà nước, có bán vé để chuyên đón tiếp khách du lịch nước ngoài, và nhiều cơ sở kinh doanh lớn khác.
Các bà vợ của Lê Ân
Người vợ đầu tiên của đại gia Lê Ân là bà Lê Thị Ngọc Lan (năm nay 72 tuổi tức kém ông 6 tuổi). Hai người đã có với nhau 5 mặt con. Tuy nhiên, trong thời gian ông ở tù, bà này làm đơn xin ly dị, đem vào trong tù cho ông ký và chiếm hết tài sản của ông. (Tượng phía bên trái, hình người đàn bà mặc áo dài miền Trung, bưng bình nước đổ đi coi như đã dứt hết tình nghĩa).
Người vợ thứ hai là một phụ nữ Việt lai Mỹ, ở với ông được một năm thì bỏ đi làm ăn xa và mất tích, để lại cho ông một con trai. (Người này không bị “lên tượng” vì ông không căm hờn).Người vợ thứ ba tên Nguyễn Kim Thu (khi cưới mới 20 tuổi), là một cô gái xinh đẹp, có học thức, người gốc Bắc. Đám cưới của hai người diễn ra hoành tráng nổi tiếng ở Sài Gòn lúc đó. Tuy nhiên, chỉ được mấy tháng, cô này đã bộc lộ nhiều thủ đoạn, trong đó có cả việc uống thuốc ngừa thai để không có con với ông. Cưới nhau chưa đầy 6 tháng, cô ôm toàn bộ tiền và vàng của ông bỏ trốn. (Tượng thứ ba phía bên phải, mặc áo tứ thân miền Bắc, tay cầm nón quai thao cho biết gốc Bắc chứ cô không liên quan gì tới nghệ sĩ Quan Họ Bắc Ninh).
Người vợ thứ 4, tên Khanh, gốc Phan Thiết. Rất tin vợ, ông đặt cô vào vị trí Phó chủ tịch Hội đồng quản trị công ty Lê Hoàng. Khi Ngân hàng VCSB “đứt bóng” và ông lâm cảnh tù tội, việc điều hành công ty được ông giao lại cho cô này. Tuy nhiên, trong thời gian ông ở tù, cô âm thầm chuyển giao toàn bộ tài sản lẫn quyền lực của ông cho “người tình” là một trưởng phòng trong công ty của ông. Kết cục của cuộc hôn nhân thứ 4 này cũng là một cuộc ly dị trước tòa. (Tượng giữa).Người vợ thứ 5 hiện nay, tên Mai Thị Mai. Cô là một cô gái khá đẹp, kém đại gia Lê Ân 55 tuổi. Ông làm đám cưới cực kỳ hoành tráng với cô cách đây 3 năm, khi ông 75 tuổi còn cô 20 tuổi.
Mai Mai thuộc một gia đình “thường thường bậc trung” ở huyện Đất Đỏ tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, sau khi tốt nghiệp trung học đã xin được vào làm thư ký trong Khu du lịch Chí Linh của đại gia Lê Ân năm cô 19 tuổi. Không để ý tới khoảng cách tuổi tác, đại gia yêu cô, cầu hôn với cô và dùng siêu xe Rolls Royce Phantom trị giá hơn 1 triệu đô để … rước nàng về dinh, mời tất cả mọi người ở Bà Rịa ai đi đám cưới thì có xe đưa rước và ăn uống hoàn toàn miễn phí theo kiểu buffet trong 3 ngày tại Khu Du lịch Chí Linh.Muốn bày tỏ sự cưng chiều cô vợ trẻ, ông còn mua cho cô một chiếc xe hơn 500 ngàn đô la và bỏ ra 6 tỷ đồng đặt mua chiếc giường đẳng cấp Hoàng gia Anh để mỹ nhân 20 tuổi ngả lưng khi mỏi mệt. Ông lớn hơn bố mẹ vợ hơn chục tuổi nên gọi bố mẹ vợ là “cậu, mợ”, xưng “tôi”, còn bố mẹ vợ gọi ông bằng “anh”, xưng “cậu, mợ”.
Mai Mai là người như thế nào? Vị đại gia nay 78 tuổi này cho biết: “Cuộc sống hiện tại của tôi rất hạnh phúc. Mai Mai có cái tâm tu, tâm tiên chứ không phải tâm con người. Tâm của con người thì đâu có được như thế. Cô ấy chăm sóc tôi rất chu đáo. Mặc dầu đã hơn 3 năm rồi mà chúng tôi không có con nhưng cô ấy vẫn làm tròn trách nhiệm của một người vợ, không hề có điều tiếng gì. Sáng nào chúng tôi cũng cùng nhau dậy sớm, tập thể dục xong tôi đưa vợ đi ăn sáng rồi mới về làm việc. Ngày nào ăn thức ăn còn dư cô ấy cũng không để tôi ăn lại vào ngày hôm sau vì sợ tôi tuổi cao, sức đề kháng cơ thể không tốt, nên chính cô ấy ăn thức ăn cũ còn tôi ăn thức ăn mới. Khi nào mua đồ ăn lạ về, người giúp việc làm xong, cô ấy đều ăn thử trước xem thế nào rồi mới đưa tôi ăn. Thật sự nhiều khi tôi rớt nước vì có được người vợ như vậy”.
Ông Ân kể tiếp: “Tiền bạc của cải tôi làm ra nhiều nhưng kiếm được một người vợ như vợ tôi không phải chuyện dễ. Quê vợ tôi ở cách chỗ chúng tôi chỉ khoảng 30 phút lái xe thôi, nhưng cả tháng hay 3 – 4 tháng cô ấy mới về một lần, còn thì chỉ quanh quẩn ở nhà giúp tôi làm việc và chăm sóc tôi. Ban đêm tôi làm hồ sơ, vợ tôi nhập máy vi tính. Thử hỏi người đàn ông nào nếu có người vợ như vậy thì họ có cảm thấy mãn nguyện không?”. (Không, tui không mãn nguyện bởi vì ban đêm ngồi viết bài, tui mần thẳng trên máy vi tính, nếu có người ngồi bên cạnh thì tui chịu không nổi dù đó là “người yêu quý gần 40 năm trước” của tui!- ĐD).
Nói thêm về đức độ của người vợ trẻ, đại gia Lê Ân cho biết: “Hiện tại, vợ tôi đang muốn tôi làm một quán cơm từ thiện nhưng tôi chưa có thời gian. Người ta làm quán cơm từ thiện 1.000$, 2.000$/bữa, 3 món canh, xào, mặn; còn cô ấy muốn quán cơm của chúng tôi phải hoàn toàn miễn phí. Một ngày gần đây tôi sẽ thu xếp thời gian để làm một quán cơm như vậy cho cô ấy vừa lòng. Tiền bạc đối với tôi không thiếu nhưng tôi chỉ thiếu thời gian mà thôi”.
“Đại gia” và con trai tại tòa
Nói tóm lại, tổng cộng ông Lê Ân có 5 người vợ và 6 người con (kể cả 1 người là con của bà thứ 2 Việt lai Mỹ). Tuy nhiên, trở lại quá khứ, thậm chí cả trong hiện tại, ông có mối quan hệ không lấy gì làm tốt đẹp nếu không muốn nói là hết sức tồi tệ với bà vợ đầu tiên đã ly dị Lê Thị Ngọc Lan và người con cả Lê Đa Ni En.
Đa Ni En là con trai lớn của ông Lê Ân với bà Ngọc Lan. Sau khi ly dị với bà Lan, ông Ân đã nhiều lần kiện tụng, đòi mẹ con bà phải trả lại ngôi nhà 3 tầng ở số 408 đường CMT8, quận Tân Bình, Sài Gòn. Cũng chính vì căn nhà này mà mối quan hệ cha con của ông hết sức căng thẳng.Ông Lê Ân cho biết: “Thằng trưởng nam (trong Nam kêu là “anh Hai”) của tôi đối xử với tôi không ra gì. Tôi nói thiệt, nói ra thấy quá phũ phàng chứ sự thiệt tôi không dám về căn nhà số 408 Cách Mạng Tháng 8 vì sợ bị cậu “quý tử” này đánh. Nó khăng khăng là căn nhà đó của má nó, nó dùng võ lực cấm tôi bước chân vô. Khi tôi kiện má nó để đòi lại căn nhà này, nó lên báo chửi tôi rất nhiều. Mọi người nói với tôi: “Anh đã mất một đứa con rồi…”. Tôi nói: “Tôi biết là đã mất nó lâu rồi”. Trong di chúc tôi viết rất rõ: “Tôi dứt khoát khai trừ đứa con này. Tôi còn sống cũng như tôi chết, nó không phải là máu mủ, ruột rà với tui…”.
Mới đây, ông Lê Ân lại tiếp tục đưa đơn kiện đòi bà Lê Ngọc Lan và anh Lê Đa Ni En để đỏi lại nhà. Báo Một thế giới thông tin: “Tại Tòa án Nhân dân quận Tân Bình Sài Gòn vào chiều 23.12.2015, hai người đàn ông có mối quan hệ ruột thịt đã xem nhau như người xa lạ. Trước hội đồng xét xử, ông Lê Ân gọi anh Đa Ni En là “ông Lê Đa Ni En”. Ngược lại, anh Đa Ni En gọi ông Lê Ân là “đại gia Lê Ân”. Và trong suốt phiên tòa, hai người đàn ông gần như không một lần nhìn mặt nhau”.
Phiên tòa kết thúc, phần thắng thuộc về ông Lê Ân và hội đồng xét xử bác đơn kiện của anh Lê Đa Ni En.
Sau khi rời tòa, ông Lê Ân và anh Lê Đa Ni-En bước nhanh ra khỏi TAND Q.Tân Bình, tránh nhìn mặt nhau. Chỉ khi đi chung chiếc cầu thang, lối đi duy nhất để ra xe, có cơ hội nhìn nhau nhưng anh Đa Ni En dấn bước đi rất nhanh, còn ông Lê Ân lặng lẽ đi phía sau, cố tình làm bộ chăm chú vào các bậc thang, coi như không thấy đứa con đang tranh giành tài sản với mình.Ông Lê Ân nói: “Khi đối diện với chính con đẻ của mình trước tòa, trông thấy mặt nó tôi không thể nào bình tĩnh nữa. Tôi đã đeo đuổi vụ kiện vợ phản chồng, con phản cha trong hơn 25 năm nay, quyết tâm đòi lại căn nhà cho bằng được”.
Thế đấy, “đại gia cũng khóc” là ở chỗ đó.
Đoàn Dự
VN xôn xao tin ‘cụ rùa qua đời’
VN xôn xao tin ‘cụ rùa qua đời’
Tin cụ rùa hồ Gươm qua đời trở thành tâm điểm bàn luận tại Việt Nam trong lúc sắp diễn ra Đại hội Đảng XII.
Một số trang báo ở Việt Nam gỡ tin rồi lại đăng tin ‘cụ rùa hồ Gươm qua đời’, trong lúc người dùng Facebook ở Việt Nam tiếp tục bàn tán tin này hôm 19/1.
Image captionHình chụp rùa Hồ Gươm hồi 2011
Báo Tuổi Trẻ là một trong các báo đưa tin cụ rùa hồ Hoàn Kiếm (hồ Gươm) đã chết vào khoảng 16g30 chiều cùng ngày.
Báo Tuổi Trẻ viết “lực lượng quản lý hồ Gươm đã phát hiện cụ rùa hồ Gươm chết và nổi ở trong hồ gần khu vực đường Lê Thái Tổ”.
Ông Nguyễn Đức Chung, chủ tịch UBND TP Hà Nội, cũng đã đến hiện trường, theo báo.
Tối cùng ngày, bản tin Tuổi Trẻ đã bị xóa.
Nhưng sau đó vài giờ, báo Tuổi Trẻ lại đăng tin này.
Một số báo khác tại Việt Nam đã xóa tin này.
Ảnh chụp hôm 8/3/2011 khi thành phố Hà Nội định ‘vây bắt’ cụ rùa hồ Hoàn Kiếm (hồ Gươm) để tiến hành chữa trị.
Và cũng có báo như tờ Thanh Niên vẫn đăng tin này.
Bản tin của Thanh Niên khẳng định cụ rùa đã chết và “nhiều người dân Hà Nội đã bất ngờ và tỏ ý buồn với thông tin này”.
Một phóng viên bình luận trên Facebook rằng “báo chí giờ đến khổ” trong lúc có tin đồn rằng chính phủ Việt Nam không cho báo trong nước đăng tin này.
Xem the^m:
Rùa Hồ Gươm chết, truyền thông Việt Nam rối loạn (Nguoi-viet.com)
Tuy các báo ở Việt Nam đều đã loan tin trở lại về sự kiện rùa Hồ Gươm đã chết, nhưng trên mạng xã hội, đặc biệt là Facebook, nhiều người cho rằng việc “cụ” rùa chết trước ngày khai mạc đại hội đảng CSVN là một điềm gở và cách mà Ban Tuyên Giáo Trung Ương muốn báo chí hạn chế loan tin này là sự mê tín của giới lãnh đạo Cộng Sản ở Việt Nam tuy nói là “vô thần.”
Mạng xã hội Việt Nam ‘nóng’ vì rùa Hồ Gươm qua đời (VOA)
‘Cụ Rùa’ nổi lên ở hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội, ngày 3/4/2011. Cái chết của ‘cụ Rùa’ được xem là linh thiêng 1 ngày trước khi Đại hội Đảng khai mạc khiến nhiều người sử dụng Facebook coi đây là “điềm xấu”.
Tháng chạp của những người già neo đơn
Tháng chạp của những người già neo đơn
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2016-01-17
Các cụ già hàng ngày phải vào rừng hái rau dại. (Minh họa)
AFP PHOTO
Your browser does not support the audio element.
Cuối năm, với những người già neo đơn, thiếu vắng bóng dáng con cái và người thân, thời khắc này bao giờ cũng lạnh và buồn hơn rất nhiều so với những người có đầy đủ con cháu và so với thời gian khác trong năm. Đặc biệt, với những người cao tuổi nghèo khổ, cái Tết đến với họ như những hạt muối rơi chạm vết thương. Sự nghèo khổ của những người già sống trên đất Hướng Hóa, Quảng Trị là một dấu lặng tháng Chạp.
Lo từng bữa ăn, thiếu thốn mọi bề
Cụ bà Hồ Thị Lữ, 75 tuổi, người xã A Dơi, huyện Hướng Hóa, Quảng Trị, chia sẻ: “Năm nay mệ (bà) 79 tuổi, sang năm mới được 80 tuổi. Khi được 80 tuổi thì hàng tháng mệ được cho một trăm mấy ngàn, chừ thì chưa, mệ chưa đủ tuổi, 80 mới đủ tuổi. Mệ chuẩn bị đi hái măng rừng với mấy đứa trong xóm, đi sớm, nó dậy rồi nó đợi mệ cùng đi, mệ hái được nhiều, ra sớm thì mệ lên chợ bán cũng được mấy chục.”
Theo cụ Lữ, suốt nhiều năm không có con cái, cụ sống một mình dưới mái nhà xập xệ do cha mẹ để lại. Nơi nào dột thì cụ mua tôn về lợp. Số tiền tích lũy được do bán rau rừng cũng đủ để vài năm mua một tấm tôn lợp dặm vào những chỗ nhìn thấy trời, mà che mưa che nắng.
Hằng ngày, cụ thức dậy lúc ba giờ sáng để quét dọn nhà cửa. Nói là quét dọn nhà cửa nhưng thực sự cũng chẳng có gì để quét dọn, chỉ làm việc giết thời gian đợi trời sáng vì không thể nào ngủ được. Đến khi trời hừng sáng, ăn vội miếng cơm nguội để lại từ tối qua với nước mắm kho quẹt hoặc chút cá kho khô để lâu ngày. Ăn xong lại lên đường vào rừng hái rau dại mang xuống chợ bán.
Mưa hay nắng, trừ những khi đau ốm không thể nhấc mình khỏi giường thì ở nhà, những ngày còn lại cụ đều đặn vào rừng hái rau rừng. Hái rau vừa giúp cho cụ có cái để ăn qua ngày, có cái để dành phòng khi đau ốm và giết ngày dài buồn tủi, cô đơn lúc tuổi già.
Sau khi vào rừng hái rau dại, các cụ phải mang xuống chợ bán. (Minh họa)
Trung bình mỗi ngày, đi từ lúc năm giờ sáng và về nhà lúc năm giờ chiều, cụ Lữ kiếm được từ mười ngàn đồng đến ba chục ngàn đồng. Bữa nào kiếm được mười ngàn đồng thì bỏ ra hai ngàn để mua gạo, hai ngàn mua gói mì ăn liền loại rẻ và cất dành sáu ngàn đồng bỏ ống.
Bữa nào kiếm được nhiều rau, kiếm thêm được măng rừng hay bắp chuối rừng, bán được từ hai lăm đến ba chục ngàn đồng, cụ Lữ tự thưởng cho mình một dĩa cơm mười ngàn đồng ở hàng cơm trong chợ. Với cụ, đó là bữa tiệc trọng đại trong tháng bởi vì có khi suốt cả tháng ròng mới có được ngày bán rau thu vào ba chục ngàn đồng.
Khi chúng tôi hỏi thăm về chế độ bảo hiểm dành cho người nghèo cũng như các khoản hỗ trợ người nghèo từ phía nhà nước. Cụ Lữ buồn bã nói rằng các khoản này không phải ai cũng có được, có thể người nghèo không bao giờ có nhưng nhưng người không nghèo lại hưởng được nhiều khoản trợ cấp của người nghèo. Cụ Lữ cho rằng nghèo là cái tội, và cụ mang tội rất lớn với tổ tiên, với đất nước bởi sự nghèo của cụ.
Giải thích về cái tội nghèo, cụ Lữ nói rằng nghèo thì không đóng góp được gì cho bà con, thậm chí làm cho bà con thấy ái ngại mỗi khi mình xuất hiện. Nhưng cái tội lớn nhất là tiếp tay cho tội ác. Bởi nhiều kẻ quyền thế đã lợi dụng cái nghèo để lấy tiền của nhà nước, của nhân dân. Nếu không còn những người nghèo như cụ thì những kẻ kia lấy đâu ra cái cớ để lợi dụng lòng thương, dựa vào nhà nước để ăn tiền.
Nhưng đó chỉ là câu nói đùa của cụ Lữ, cụ nói rằng trong sâu thẳm lòng mình, cụ vẫn thấy nghèo, cô đơn là một vết thương mà mỗi dịp Tết về, nhìn mọi gia đình khác đoàn viên, sum họp, cụ chỉ biết khóc thầm một mình. Ba ngày Tết cụ cũng không dám đến nhà ai vì sợ mình mang cái nghèo, cái neo đơn của mình đến nhà người khác đầu năm. Đã mấy mươi cái Tết như vậy đi qua cuộc đời cụ Lữ và gần như cụ đã quen với nỗi buồn hằng Tết.
Chứ cũng ứa nước mắt, mỗi ngày bán ngoài chợ được cỡ tám ngàn thôi, ăn hàng (ăn sáng) hai ngàn bạc cháo, hai ngàn tiền dù che mưa che nắng là bốn ngàn, một ngàn tiền thuế chợ là năm. Mà có ngày bán được chục ngàn, có ngày bán được có năm ngàn, lời không được năm ngàn bạc nữa, khổ ơi!
Chờ để được già
Cụ Dương, 79 tuổi, làm dâu trên đất Hướng Hóa, Quảng Trị gần sáu chục năm nay, buồn bã chia sẻ: “Chứ cũng ứa nước mắt, mỗi ngày bán ngoài chợ được cỡ tám ngàn thôi, ăn hàng (ăn sáng) hai ngàn bạc cháo, hai ngàn tiền dù che mưa che nắng là bốn ngàn, một ngàn tiền thuế chợ là năm. Mà có ngày bán được chục ngàn, có ngày bán được có năm ngàn, lời không được năm ngàn bạc nữa, khổ ơi!”
Theo cụ, phần đông người cao tuổi neo đơn ở đây không có đủ cơm để ăn và hằng ngày phải bươn bả đủ mọi việc để kiếm sống. Thu nhập trung bình của những người như cụ sẽ dao động từ mười ngàn đồng đến hai mươi ngàn đồng trên mỗi ngày, không thể nhiều hơn. Và hầu như không có ai được hưởng bất kì chế độ đãi ngộ nào từ phía nhà nước.
Bởi nếu muốn hưởng tiêu chuẩn của người cao tuổi, cụ phải đợi thêm sáu năm nữa, khi đó đủ tám mươi lăm tuổi thì sẽ hưởng được mỗi tháng một trăm tám mươi ngàn đồng trợ cấp của nhà nước. Và với số tiền một trăm tám mươi ngàn đồng đó, theo cụ Dương là không đủ để làm bất cứ việc gì. Nếu trong làng có đám cưới, có thiệp mời thì nhận xong một trăm tám mươi ngàn đồng của nhà nước, các cụ phải đi vay thêm hai mươi ngàn đồng nữa để bỏ phong bì tặng quà cưới. Bởi vì mức giá chung cho phong bì quà cưới hiện tại là hai trăm ngàn đồng.
Và cũng theo cụ Dương, với khoản tiền một trăm tám mươi ngàn đồng trên một tháng, cụ vẫn phải bươn bả ra rừng hái rau lên chợ bán hay mua củ quả của nhà vườn ra chợ ngồi bán. Bởi vì số tiền này nếu mua gạo thì thiếu mắm thiếu muối, nếu mua mắm muối thì thiếu gạo. Cụ nói rằng dù có thắt lưng buộc bụng gì đi nữa thì cũng không thể nào sống một tháng với một trăm tám mươi ngàn đồng.
Nhưng đó là chuyện của sáu năm nữa, còn hiện tại, cũng như nhiều người già neo đơn, không con không cháu khác, cụ Dương phải ra chợ eo sèo mua bán hoặc lên rừng lục lọi từng ngọn cỏ, lùm cây để theo mùa mà hái rau rừng về bán dưới chợ. Cũng may rau rừng bây giờ có giá nhưng người hái lại quá nhiều.
Thêm một cái Tết nữa đang về, hoàn cảnh của nhiều người già neo đơn vẫn chưa có gì thay đổi ngoài những bữa cơm hẩm hiu tự mình biết riêng mình. Và mỗi cái Tết như một lời thách thức của cái nghèo, sự cô đơn, cô độc và tuổi già trước thời gian, trước sự hờ hững của cuộc đời!
Chủ đề: Giấc mơ nước Mỹ
Chủ đề: Giấc mơ nước Mỹ
Tác giả : Nguyên Giang
Bài dự thi viết về nước Mỹ gửi từ Sài Gòn bằng email, được đăng nguyên văn, không thêm bớt. Bài viết ngắn, tác giả 30 tuổi, cho biết đây là những câu hỏi mong được các chú bác anh em ở Mỹ trả lời.
Tôi muốn được đặt chân tới Mỹ!
Đó là điều mơ ước cháy bỏng của tôi từ khi biết nhận thức sau khi rời Trung Học để bước vào đời. Vì sao ư? Để tôi tìm hiểu về nền văn hóa, chính trị, giáo dục, kinh tế của nước này. Để tôi tự trả lời cho nhiều câu hỏi cứ thôi thúc trong đầu mình bao nhiêu năm qua từ khi tôi biết nhận thức về đời sống.
Tôi muốn đến Mỹ, để tôi hỏi vì sao đồng bào tôi có mặt ở đây, và sự ra đi này kéo dài hơn một thế hệ rồi, mà đến bây giờ hằng ngày đi ngang Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn vẫn còn lũ lượt người chờ đợi một tấm vé đặt chân vào Mỹ, dù đất nước Việt tôi đã im tiếng súng đã lâu, từ khi tôi chưa chào đời.
Tôi muốn đến Mỹ xem coi có phải đó là Thiên Đường không mà đồng bào tôi, bạn bè tôi sau khi định cư vài năm có trở về thăm quê họ như một con người khác, lịch sự nhã nhặn, có kiến thức giỏi giang hơn rất nhiều. Tôi tự hỏi điều gì đã làm nên đôi hia bảy dăm đó?
Tôi muốn đi để hỏi các cô gái lấy chồng “Việt Kiều Mỹ” niềm vui rạng ngời hơn các cô gái phải bán thân đi Đài Loan, Hàn Quốc, Campuchia?
Tôi muốn đi để thấy, để biết Tổng Thống Mỹ có phải ông Trời không mà sao cả thế giới phải nghe ngóng, chờ đợi mỗi mùa bầu cử Tổng Thống Mỹ?
Và tôi muốn đi để hỏi các Chú Bác những chiến hữu của Ba tôi ngày xưa được chìa khóa HO để đến thiên đường nước Mỹ, có còn nhớ đến bạn bè chiến hữu, quê hương hay không. Mà sao ai cũng chen chân bỏ lại “chùm khế ngọt” mà hân hoan làm kẻ lưu vong?
Tôi muốn gặp những người cùng lứa tuổi tôi là Người Mỹ Gốc Việt để thử xem cách xa hai nửa bán cầu, tuổi trẻ có gì giống và khác nhau.
Cuối cùng tôi muốn đi để xem vì sao, hấp lực gì mà hàng triệu người miền Nam đổ xô ra biển không định hướng những năm sau 1975 đến những năm 1990 và tiếp tục đến bây giờ bằng nhiều cách.
Nhưng đường đến nước Mỹ với mình chắc xa diệu vợi. Thôi thì các Chú, Bác anh em đồng bào ở Mỹ có ai còn tâm tình với những người bên này vui lòng trả lời dùm tôi, một thanh niên 30 tuổi những câu hỏi vừa nêu, để tôi khỏi khắc khoải về một nước Mỹ vô cùng lạ lẫm, và thần kỳ. Nếu vậy thì âu cũng là một niềm vui lớn rồi, chứ chưa dám nghĩ ngày nào đó mình đạt chân đến Mỹ quốc!
Mong lắm thay!
Nguyên Giang
Rạp Hưng Đạo ngày xưa của ai ?
Rạp Hưng Đạo ngày xưa của ai ?
Năm 1940 tại góc đường Général Marchand và Gallieni (Nguyễn C…ư Trinh và Trần Hưng Đạo ngày nay) thường ngày vẫn có một cậu con trai khoảng 18 – 20 tuổi ngồi cặm cụi sửa vá xe đạp bên vệ đường. Thời đó người dân chính gốc thành phố còn thất nghiệp dài dài, nói chi đến những dân nhập cư từ tỉnh thành xa, do đó người ta xem việc một thanh niên sửa xe như vậy là chuyện bình thường.Những người lui tới con đường đó, đặc biệt là những khách hàng từng đôi ba lần xe đến sửa xe ấy là một chàng trai hiền hậu, dễ thương, lại chăm chỉ, cẩn thận. Xe hư đâu sửa đó, đảm bảo chất lượng, tiền công vừa phải, đôi khi với những khách hàng già cậu ta còn tự nguyện sửa miễn phí “để làm quen”. Lâu dần, khách hàng càng lúc càng đông, thậm chí có người bị hư xe ở xa cũng ráng dẫn bộ tới, để cậu sửa. Chàng trai ấy tên là Niệm.
Một năm sau ngày ra nghề, người ta thấy chỗ bức tường phía sau lưng anh thợ sửa xe ngồi, có treo lủng lẳng vài chiếc vỏ, ruột xe đạp, cùng với một ít những phụ tùng khác. Anh giải thích “Để khi nào khách có cần thì mình thay cho tiện”. Thời đó không có chợ phụ tùng hoặc các loại phụ tùng xe được bày bán khắp nơi như ngày nay, cho nên việc phục vụ linh hoạt của cậu Niệm được bà con ủng hộ. Hai năm sau, khách hàng nhìn thấy có thêm một hai chiếc xe đạp lắp ráp hoàn chỉnh dựng ở đó. Cậu Niệm lại giới thiệu “Nhân tiện ráp sẵn, nếu bà con nào có cần thì mình nhường lại, giá phải chăng”. Tất nhiên, bởi sẵn có uy tín hàng của cậu ta ráp đến đâu bán được đến đó.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp, trong lúc Sài Gòn đang hoảng loạn vì những cuộc dội bom của phi cơ đồng minh xuống thành phố, dân chúng lo chạy tránh bom, thì góc đường đó, chàng trai sửa xe vẫn cứ bám trụ với “cơ ngơi của mình, gồm 4 chiếc xe đạp vừa mới ráp, cộng với một thùng phụ tùng mới. Với cậu giữa cái chết do bom đạm và chết đói, cậu ta sợ chết đói hơn, vả lại trong đầu cậu trai nghèo này, chừng như còn nuôi một hoài bão.
Chiến tranh thế giới thứ hai vừa kết thúc, cũng là lúc người ta ngạc nhiên khi thấy chàng trai đó đứng ra thuê hẳn một góc nhà (chỗ căn phố mà suốt mấy năm qua cậu ta vẫn ngồi phía trước hiên nhà để hành nghề) và khai trương bảng hiệu: “Nguyễn Thành Niệm, sửa xe và bán phụ tùng xe đạp”. Thì ra, do khéo dành dụm trong nhiều năm qua, đến lúc đó cậu ta đã có được số vốn nho nhỏ, đủ để “dựng tiệm”. Cậu tâm sự với những người quen biết “Cái nghèo nó làm cho mình phải bỏ dở chuyện học hành, mà không học thì khó bề lập thân. Bây giờ chỉ có một cách là phải chí thú làm ăn phải đi lên con đường thương mại….”. 5 năm sau, đầu thập niên 50, cả một dãy phố từ đầu đường Nguyễn Cư Trinh chạy dọc theo đường Trần Hưng Đạo, đến gần đường hẻm Nguyễn Văn Dụng, đã quy về một mối, do một người làm chủ: Nguyễn Thành Niệm.
Cậu ta trúng nghề phụ tùng xe đạp là chủ yếu, nhưng cũng phải kể đến yếu tố cần kiệm và óc nhạy bén với thị trường. Chỉ trong vòng 10 năm, từ một chàng sửa xe đạp tầm thường, Nguyễn Thành Niệm tậu được đến gần 30 căn phố mặt tiền đường Gallieni (Trần Hưng Đaọ). Có người nói, sở dĩ Nguyễn Thành Niệm mua được nhiều nhà như thế là bởi vì thời đó mọi người vừa trải qua một giai đoạn khủng hoảng do cuộc chiến tranh, bị lung lạc tinh thần, muốn bán rẻ nhà cửa để hồi hương lập nghiệp, nên giá nhà rẻ, và Niệm đã chộp đúng thời cơ.
Con đường “lập thân” của Nguyễn Thành Niệm đã mở rộng. Anh ta chuyển sang kinh đoanh đa dạng hơn, gồm cả phụ tùng xe gắn máy, xe hơi, máy móc cơ giới nói chung. Và thế là một công ty nhập khẩu phụ tùng xe, máy được hình thành. Công ty Indo – Comptoir của Nguyễn Thành Niệm cuối thập niên 50 là một trong 10 công ty xuất nhập khẩu phụ tùng xe cơ giới lớn nhất Sài Gòn có chi nhánh ở khắp miền Nam, vươn tới Nam Vang, Vientian, Pakse (Lào). Nguyễn Thành Niệm trở thành một tỷ phú.
Đầu thập niên 60, tại dãy phố góc đường Nguyễn Cư Trinh – Trần Hưng Đạo, cạnh trụ sở của công ty Nguyễn Thành Niệm, người ta thấy mọc lên một toà nhà đồ sộ với chữ hiệu trên mặt tiền rất nổi: Rạp hát Hưng Đạo. Thì ra, đúng nơi mấy chục năm trước Niệm ngồi sửa se đạp, giờ đã được dựng lên một rạp hát lớn nhất thành phố, lại do chính ông làm chủ. Có lần Nguyễn Thành Niệm đã nói với bạn bè “Cuộc đời cũng giống như một sân khấu, mình cố làm sao cho sân khấu lộng lẫy thì càng hay…”
Thượng Hồng
Nguyễn Bích Lan – Người thắp lửa
Nguyễn Bích Lan – Người thắp lửa
Mời quí anh chị đọc cho vui một bài viết về một cô bé ở 1 làng quê nghèo bên bờ sông Hồng tỉnhThái Bình. Em đã dũng cảm chống lại định mệnh khắc nghiệt gây ra bởi bệnh Muscle Diseases (Muscular Dystrophy) đau đớn làm liệt 2 chân ở tuổi 13 và không có thuốc chữa. Nhà nghèo không sắm nổi xe lăn; hàng ngày khi bố mẹ đi làm, em chỉ biết ngồi giam mình trong phòng và nhìn đời qua khung cửa sổ trước mặt mà buồn cho thân phận. Rồi trong đớn đau tuyệt vọng, em tìm đọc sách và tự học English, mở lớp dậy anh văn miễn phí trước sân nhà cho trẻ em làng xóm, tự học sử dụng computer, internet, rồi bắt đầu dịch thuật những tác phẩm của các văn hào nổi tiếng trên thế giới cho các nhà xuất bản ở Hànội. Em cũng làm thơ, viết văn và cho xuất bản mấy cuốn sách thuộc loại best seller cho lớp trẻ VN hiện nay. Em cũng đoạt nhiều giải thưởng văn học, và được nhiều người mến mộ.
Cách nay hơn 10 năm tôi tình cờ quen biết em khi ủy ban xây dựng thánh đường quê tôi đã tới nhà em gần đó, nhờ em làm trung gian gởi các tin tức tiến triển về công trình xây dựng thánh đường qua emails cho tôi để tôi quyên góp trợ giúp tài chánh. Và vì thế tôi được biết hoàn cảnh bệnh tật ngặt nghèo của em. Bẵng đi 1 thời gian không liên lạc nhau vì gia đình em dọn lên Hànội để tiện việc chữa bệnh và em làm việc với các xuất bản sách. Mới đây tôi tình cờ vào Facebook và liên lạc lại được với em. Dưới đây là tin nhắn của em gởi cho tôi, kèm theo 1 bài báo viết về em. Mời quí anh chị đọc cho vui.
Thân mến,
tn- B
Nguyễn Bích Lan – Người thắp lửa
TP – Gần đây, khi đến thăm bảo tàng Phụ nữ Việt Nam, tôi thấy một nhóm người nước ngoài đang trầm trồ trước khu trưng bày vinh danh tám người phụ nữ Việt Nam hiện đại. Họ dừng lại rất lâu trước những bức ảnh của một cô gái gầy gò – người trẻ nhất trong số tám nhân vật được tôn vinh.
Rồi họ lặng đi trước câu chuyện về tài năng và tấm gương nghị lực của cô gái ấy. Đứng cạnh họ, lòng tôi trào dâng niềm tự hào. Niềm tự hào ấy khởi nguồn từ bốn năm về trước, vào ngày 23/1/2011, khi tôi quan sát chính cô gái gầy gò ấy lên sân khấu nhận giải thưởng dịch thuật từ Hội Nhà văn Việt Nam: Giải thưởng Văn học năm 2010 cho bản dịch tiểu thuyết Triệu phú khu ổ chuột. Dù được em trai dìu đi, từng bước chân của cô gái – dịch giả, nhà văn Nguyễn Bích Lan – khó nhọc và chậm rãi. Cô nở nụ cười trấn an những người đang lo lắng. Hình dáng nhỏ bé của cô dường như lọt thỏm giữa sân khấu lớn, nhưng ánh mắt của cô bừng lên ánh sáng ấm áp của niềm tin và nghị lực.
Khi đôi chân không thuộc về mình
Những ai biết Bích Lan nhiều năm về trước chắc hẳn khó tưởng tượng rằng một ngày cô gái có bề ngoài dễ vỡ ấy có thể chinh phục được số phận, vượt qua bệnh tật và sự rình rập của cái chết để đứng trong hàng ngũ những nhà văn, dịch giả có đóng góp đáng trân trọng cho sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại.
Sinh năm 1976 tại một làng quê nhỏ ở Thái Bình, Bích Lan chưa kịp đi qua tuổi học trò ngây thơ thì thế giới đổ sụp xuống cô. Một ngày mùa đông, ở tuổi mười ba đầy trong trẻo, Bích Lan đang hăm hở đạp xe lướt đi trên con đường nhỏ xuyên qua những cánh đồng lúa xanh rì rào để đến trường thì đôi chân của cô bất ngờ mất khả năng cử động. Sự hoảng sợ thít chặt lấy cô, và cô ngã nhào từ xe xuống chiếc mương lõng bõng bùn nước. Càng vùng vẫy, Bích Lan càng tuyệt vọng. Đôi chân dường như không thuộc về cô nữa. Cô không thể nào đứng dậy được. Cô chỉ có thể thoát ra khỏi cái mương sâu hoắm ấy, khỏi sự giá lạnh và sợ hãi khi một người bạn cùng lớp ào xuống, kéo cô lên. Nhưng cũng từ đó, sự đau đớn dai dẳng đeo bám cô và triền miên hành hạ cô. Từ nhiều tháng trước đó, Bích Lan đã bị sụt cân, và giờ đây cô phải nằm bẹp trên giường, bất lực nhìn cuộc sống chầm chậm trôi qua. Cô ngơ ngác không hiểu điều gì đang xảy ra với mình.
Gia đình cô đã đưa cô đi chạy chữa khắp nơi. Rồi khi thầy thuốc tìm ra căn bệnh của cô, mọi hy vọng trong cô dường như bị dập tắt: bệnh của cô là một loại bệnh hiếm gặp và hiện chưa có thuốc chữa – bệnh loạn dưỡng cơ. Các bác sĩ cảnh báo căn bệnh này sẽ khiến cho cơ thể của cô ngày càng suy yếu, khiến cô dần mất khả năng di chuyển. Thậm chí nhiều bác sĩ tin rằng Bích Lan sẽ chỉ sống được một thời gian ngắn, vì căn bệnh sẽ khiến cô suy nhược trầm trọng.
Nguyễn Bích Lan.
Học để được sống
Những ngày ấy, sự đớn đau thể xác, bóng tối dày đặc của tương lai, và sự kiệt quệ về tài chính rất dễ khiến một người bình thường buông xuôi tất cả. Và sẽ thật dễ dàng khi Bích Lan để sự chán nản và tự ti chiếm lĩnh lấy cô. Nhưng thật kỳ diệu, chính trong những giây phút tăm tối nhất, Bích Lan khao khát được sống. Không chỉ sống, mà sống có ý nghĩa. Như cô đã viết trong truyện ngắn Những ngọn lửa: “Tôi cảm thấy từ một góc bí mật nào đó rất sâu trong con người mình, một ngọn lửa bắt đầu được nhóm lên. Mãi về sau tôi mới biết gọi tên ngọn lửa đó là ước mơ”.
“Tôi cảm thấy từ một góc bí mật nào đó rất sâu trong con người mình, một ngọn lửa bắt đầu được nhóm lên. Mãi về sau tôi mới biết gọi tên ngọn lửa đó là ước mơ”.
Nguyễn Bích Lan
Bích Lan ước mơ chinh phục số phận của mình. Và trong căn phòng nhỏ bé nơi cô đã phải giam mình trong thời gian dài, cô gái bé nhỏ 14 tuổi ấy bắt đầu hành trình tiếp thu tri thức của thế giới. Vượt qua tất cả mọi đau đớn thể xác, cô lao vào đọc sách. Cô đọc và đọc tất cả những quyển sách mà cô mượn được, về tất cả các lĩnh vực. Không có được diễm phúc đến trường, cô tự học một cách mê say. Học để quên đi đau đớn. Học để được sống. Học để một ngày có cơ hội báo hiếu với mẹ.
Một hôm, nhìn em trai học tiếng Anh, Bích Lan quyết định tiếp cận với môn ngoại ngữ ấy- môn học còn rất xa lạ với rất nhiều học sinh thời đó – bằng những quyển sách mà cô mượn được, bằng băng cassette và bằng trí thông minh và tinh thần kiên định. Rồi cô chập chững bước những bước đầu tiên vào biển tri thức vốn đã tồn tại hàng nghìn năm nay ở thứ ngôn ngữ thông dụng nhất thế giới – tiếng Anh. Càng đọc, càng học, cô càng đứng vững trên đôi chân của trí tuệ. Rồi cô bước đi, cô chạy, cô tung tăng vùng vẫy trong biển tri thức. Ở đó, Bích Lan tìm thấy chiếc chìa khoá để tự cứu mình và sống có ý nghĩa: cô bắt đầu dịch các tác phẩm văn học mà cô yêu thích.
Những ngón tay nhỏ bé và gầy guộc của Bích Lan, yếu đến nỗi không thể cầm vững chiếc bút, nay được tiếp thêm sức mạnh khi chúng giúp cô chuyển tải vẻ đẹp của văn học thế giới sang ngôn ngữ Việt. Thật kỳ diệu khi trong vòng 13 năm qua, giữa những cơn đau thể xác vẫn dai dẳng khôn nguôi, Bích Lan miệt mài làm việc, cho ra đời 30 quyển sách dịch, tất cả đều là những tác phẩm văn học kinh điển hoặc những quyển sách đầy ắp tính nhân văn. Hàng triệu người Việt đã được truyền thêm nghị lực sống từ “người không tay không chân” Nick Vujicic, qua bốn quyển sách của anh mà cô là dịch giả. Cũng qua Bích Lan, bạn đọc Việt Nam được đắm mình trong vẻ đẹp huyền ảo và trí tuệ sâu sắc trong các tác phẩm của những nhà văn lừng danh thế giới như William Faulkner, Rabindranath Tagore, JP. Donleavy, Vikas Swarup, Julia Otsuka…
Những ngọn lửa
Nhưng dịch thuật chưa đủ, Bích Lan gửi trọn tâm huyết và khát khao sống mãnh liệt của mình qua từng trang viết. Cô sáng tạo miệt mài, cẩn trọng, đầy trách nhiệm và say mê như thể mỗi phút giây của cuộc đời này là giây phút cuối. Cô đều đặn có những tác phẩm thơ, văn xuôi, và báo chí nóng hổi tính thời đại in đều đặn trên các tờ báo uy tín. Đến giờ, Nguyễn Bích Lan đã là tác giả của những quyển sách như Không gục ngã (Tự truyện, Nhà xuất bản Trẻ, 2010), Sống trong chờ đợi (Thơ và truyện ngắn, NXB Trẻ, 2012).
Là người dõi theo các sáng tác của Bích Lan, tôi hồi hộp mở tập truyện ngắn mới nhất của cô – Những ngọn lửa (NXB Phụ nữ, 2015). Và như tôi đã mong đợi, Bích Lan không làm tôi thất vọng. Mỗi câu chuyện trong quyển sách này kéo tuột tôi vào từng ngóc ngách sâu thẳm của một xã hội Việt Nam thời hiện đại. Ở nơi ấy, áp lực kinh tế đang khiến con người sống vô cảm, tàn nhẫn với nhau. Con vô cảm với mẹ ruột, mẹ ruột vô cảm với con, thầy vô cảm với trò… Bằng giọng văn sắc sảo, lúc thì đầy ắp chất thơ, lúc thì dịu dàng, nóng bỏng, lúc thì chua chát, ngoa ngoắt, Bích Lan phác thảo rõ nét những sắc thái của cuộc sống thời hiện đại, để những câu chuyện của cô cứa vào chúng ta sắc lẹm như những lưỡi dao. Bóng tối của lòng tham, của sự ích kỷ đang phủ trùm lên chúng ta. Cô thắp lên những ngọn lửa – những ngọn lửa của hy vọng, của lòng nhân ái, vị tha, của tình yêu giữa con người với con người vẫn tồn tại đâu đó trên cõi đời này.
Đọc quyển sách, ta không khỏi khát khao thay đổi bản thân mình, nhắc nhở mình phải sống tốt hơn, nhân ái hơn với những người xung quanh.
Vài năm trước, khi đại diện của quỹ văn học Akademie Solitude (Đức) nhờ tôi giới thiệu một nhà văn Việt Nam để họ trao học bổng sáng tác, tôi không ngần ngại đề cử Nguyễn Bích Lan. Tôi rất vui khi quỹ Akademie Solitude trao học bổng cho Bích Lan năm ấy sau khi đánh giá tầm ảnh hưởng của những tác phẩm văn học của cô.
Hiện nay, Bích Lan vẫn chỉ nặng 28kg. Cô miệt mài làm việc 9 tiếng một ngày, tuân thủ những nguyên tắc khắt khe nhất của một người sống bằng nghề viết. Từ thứ Hai đến thứ Sáu, cô dịch sách. Vào thứ Bảy và Chủ nhật, cô viết hoặc dịch bài cho báo. Xen kẽ vào những công việc ấy, cô viết truyện ngắn hoặc thơ.
Độc giả Diệu Trâm từ Hội An, sau khi đọc các tác phẩm của Bích Lan, chia sẻ: Đôi khi gục lên ngã xuống nhiều lần để rồi nhận ra chuyến hành trình của mình không là gì cả so với những gì tôi biết được biết về chị Bích Lan, về những gì mà chị đã từng đối mặt và vẫn đang vượt qua… Tôi muốn gửi đến chị lời cảm ơn vì đã nhóm lên ngọn lửa niềm tin và hi vọng trong cuộc sống vốn dĩ rất ngắn ngủi này.
Không phàn nàn về số phận
Bích Lan cho biết, cô không có gì phải phàn nàn về hoàn cảnh của mình hiện tại. Cô cảm thấy ổn cho dù vẫn đau yếu bởi cô đã tìm ra cách sống chung với bệnh tật để ngày nào của mình cũng là một ngày hữu ích. Trong năm nay, ngoài tập thơ Ru và tập truyện ngắn Những ngọn lửa, Bích Lan sẽ hoàn thành bản dịch truyện cổ Andersen, và cuốn Màu của nước – tiểu thuyết nổi tiếng về phân biệt chủng tộc của nhà văn Mỹ James McBride.
Xin khép lại bài viết này với lời chia sẻ của bà Tống Thị Ninh, mẹ của Bích Lan: Bích Lan tuy không được trời cho một sức khỏe tốt, nhưng lại có được tinh thần mạnh mẽ. Những cuốn sách mà Lan đã dịch và viết mang đến cho bản thân cháu và gia đình rất nhiều người bạn đáng quý ở trong và ngoài nước. Tôi thật vui vì cháu dám sống một cuộc đời hữu ích.
Anh chị Thụ & Mai gởi
11 người Việt bị bắt vì buôn bán ma túy tại Séc
11 người Việt bị bắt vì buôn bán ma túy tại Séc
VOA
Hình minh họa: Một người lính bảo vệ hiện trường tiêu hủy cần sa ở Tijuana, Mexico.
13.01.2016
Cảnh sát cộng hòa Séc cho biết họ đã phá một đường dây được cho là sản xuất một lượng lớn ma túy đá để bán bất hợp pháp ở Tây Âu.
Tổng cục trưởng cảnh sát Tomas Tuhy cho biết, tổng cộng có 13 kẻ tình nghi đã bị bắt tại Cộng hòa Séc và 11 người trong số đó là người Việt. 6 người khác bị bắt ở Ba Lan.
Trong cuộc bố ráp, cảnh sát đã thu giữ tổng cộng 50kg ma túy.
Người đứng đầu đơn vị chống ma túy Jakub Frydrych cho biết, hầu hết ma túy đá được sản xuất bởi nhóm này được đưa đến Đức, thị trường truyền thống cho ma túy đá sản xuất ở Séc, nhưng đồng thời cũng dành cho thị trường Cộng hòa Séc, các quốc gia Tây Âu và Úc.
Ông Jakub Frydrych cũng cho biết, hầu hết các chất hóa học cần thiết cho việc sản xuất ma túy đều được nhập lậu từ Thổ Nhĩ Kỳ.
Theo AP, ABC News
Nếu trúng Powerball $1.5 tỉ: Đừng tậu ngay nhà to vườn rộng
Nếu trúng Powerball $1.5 tỉ: Đừng tậu ngay nhà to vườn rộng
Nguoi-viet.com
TALLAHASSEE, Florida (NV) – Với lô độc đắc Powerball xổ vào đêm Thứ Tư tuần này có thể trên $1.5 tỉ, và một ai đó sẽ trở thành tỉ phú. Tuy nhiên nếu được may mắn ấy, quí vị cần biết nên làm gì.
![]() |
Xếp hàng mua vé số Powerball trước tiệm Kavanagh Liquors ở San Lorenzo, California. (Hình: AP/Marcio Jose Sanchez) |
Theo USA Today, quí vị cần có chút ít kiến thức về quản trị tài chánh, cũng như làm cách nào để loại hết những kẻ bất lương, kể cả những người tham lam xấu bụng trong vòng họ hàng thân thích.
Điều sai lầm lớn nhất của một người trúng số là vội loan báo đi khắp nơi, theo lời của ông Andrew Stoltmann, luật sư chứng khoán ở Chicago, người đại diện cho nhiều thân chủ trúng số trong những vụ kiện lừa đảo về đầu tư.
Ông Stoltmann nói, người trúng số “trở thành một trong những mục tiêu bị nhắm đến kỹ nhất trên thế giới.”
Đừng quên câu “chữ tài liền với chữ tai một vần,” có người trúng số từng trở thành phá sản hoặc chết bất đắc kỳ tử hay bị giết; trong khi có người bị bắt cóc đòi tiền chuộc.
Lập ngay một nhóm gồm các luật sư, kế toán viên có bằng hành nghề và các nhà cố vấn tài chánh đáng tin cậy, những người có thể giúp quí vị lo liệu về trách nhiệm thuế má, tránh khỏi những lừa đảo rình rập.
Quí vị cần có tất cả những người này trước khi bắt đầu chính thức nhận mình là người trúng số.
Ngoại trừ những người hết sức thân thuộc trong gia đình, quí vị nên giữ kín càng nhiều càng tốt.
Do tính cách dè dặt thường lệ, một số tiểu bang cho phép người trúng số được giấu tên.
Hãy cất kỹ vé đừng để mất hoặc bị đánh cắp vì kẻ nào lấy được đem đi nhận giải, kiện tụng để lấy lại không phải là chuyện đơn giản.
Thời gian vé số hết hạn thay đổi theo mỗi tiểu bang nhưng hầu hết các loại xổ số đều hết hạn trong vòng từ 90 ngày đến một năm.
Chọn người làm cố vấn, có thể là một bạn thân hay người trong gia đình, để giúp quí vị xem xét kỹ những đòi hỏi xin tiền của quí vị, dù đó là từ mẹ và cha hay một cơ quan từ thiện địa phương.
Lô trúng có thể được trả trong một lần hay trả dần trong nhiều năm. Cách trả trong nhiều năm giúp quí vị có thêm thời gian để học cách quản trị một số tiền quá lớn và có được những chọn lựa một cách có trách nhiệm hơn.
Gần 70% người trúng số cuối cùng trở thành trắng tay, nhiều người bị phá sản chỉ trong một vài năm. Tốt nhất là nên tham khảo ý kiến của các nhà chuyên môn, nên lãnh hết một lượt hay trong 30 năm.
Điều kế tiếp là đừng phô trương và chớ nên tin bất kỳ một ai.
Không vội bỏ làm, đừng tậu ngay nhà to vườn rộng. Ít nhất khoan làm ngay điều ấy.
Tốt nhất là hãy thận trọng và kiên nhẫn.
Nhất là không nên tin bất kỳ ai ngoại trừ sự phán đoán của chính quí vị. (TP)
LUPE
LUPE
Giuse Ngô Văn Chữ, S.J.
“Hãy đuổi con mẹ Jo đó ra khỏi chỗ này đi, nó hôi như cứt vậy, chẳng ai chịu nổi,” những người vô gia cư khác phàn nàn về cô Jo với bà Lupe. Bà Lupe làm thiện nguyện trong phòng tắm nữ dành cho người vô gia cư cũng được cả năm rồi, đây là một trong các chương trình của Bánh và Cá (Loaves & Fishes) ở thành phố Sacramento, California, dưới sự điều hành của Nữ tu Libby Fernandez. Người ta xua đuổi Jo cũng phải vì thật sự cô ta hôi quá, khi Jo đi khập khiễng đến quầy gặp bà Lupe để nhận khăn tắm và xà bông, bà cũng phải nín thở để chào Jo và đưa đồ cho cô ta. Hình như Jo không tắm rửa gì cả tháng rồi.
Jo khệ nệ lê lết thân xác to lớn của mình vào phòng tắm, ngồi trên cái băng ghế tắm dùng cho người già và khuyết tật. Loay hoay mãi không cởi đồ được, Jo đành phải nhờ một cách ngại ngùng: “Bà Lupe ơi, nhờ bà giúp cởi đồ cho tôi được không?” Ngần ngừ giây lát rồi bà cũng ráng đến giúp cho cô. Khi cởi áo Jo, bà mới thấy rõ cái vai phải của Jo đã bị trật qua một bên đã nhiều năm rồi, nên lâu nay Jo không thể giơ cánh tay lên được nữa, và đó là lý do Jo không thể tự cởi đồ hay tắm giặt gì được.
“Nhờ bà tắm cho tôi được không?” Jo lại vụt miệng nhờ nữa. Quả là khi giúp cởi đồ cho Jo, bà Lupe cũng đã choáng váng với cái mùi hôi không tưởng của cô rồi, thế mà bây giờ lại còn nhờ tắm giúp nữa, với lại bà cũng chưa hề tắm cho ai, ngoại trừ hồi xưa tắm cho hai đứa con nhỏ của bà. Nhìn Jo thấy thương quá nên qua vài giây im lặng ngại ngùng, bà cũng ráng giúp tắm cho Jo.
Tắm cho Jo là một tình huống rất đặc biệt. Thân hình của Jo to gấp bốn lần bà Lupe với những lớp mỡ chảy trệ xuống, tắm cho Jo như tắm cho một khối thịt khổng lồ vậy. Bà Lupe bắt đầu dùng vòi sen xả nước ấm lên người Jo. Jo ngồi im lặng thưởng thức từng giọt nước ấm tưới lên cơ thể mình, và tận hưởng bàn tay xoa xà bông và chà xát của bà Lupe lên người cô.
Hồi đầu bà Lupe chỉ tính giúp qua loa cho mau thôi để còn đi làm các công việc khác vì bà không cảm thấy thoải mái với chuyện tắm rửa này, nhưng rồi bà chợt nhận ra bà đang bước vào một vùng đất “rất thánh”, như xưa kia Môsê ở trong sa mạc gặp gỡ Thiên Chúa nơi bụi gai cháy rực. Bà nghe như Chúa đang nói với mình: “Con ơi, hãy cởi giày ra, vì nơi con đứng là vùng đất thánh.” Ở nơi sa mạc đầy sỏi đá và gai góc, mà cởi giày ra đi chân không thì phải bước từng bước một cẩn thận và mắt luôn nhìn xuống đất để tránh không giẵm phải đá và gai sắc nhọn. Bà Lupe nhận biết bà đang đi vào “vùng đất thánh” của Jo và bà cần phải “cởi giày ra” để bước đi từng bước chậm rãi từ tốn, nhẹ nhàng và kỹ lưỡng để Jo không bị tổn thương. Bà tháo đôi găng tay cao su y tế đang mang để chạm vào thân thể Jo bằng chính đôi tay trần của mình.
Bà Lupe đã ở với Jo gần nửa tiếng trong cái không gian nhỏ bé đó, và cái kinh nghiệm của những giây phút thánh thiêng đã để lại một dấu ấn sâu xa, ngọt ngào cho bà trong suốt tuần lễ. Bây giờ thì không còn là chuyện tắm cho Jo nữa, mà là cả một câu chuyện gặp gỡ thiêng liêng giữa bà với Jo trong cái không gian chập hẹp và trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó. Bà có cảm tưởng như thời gian dừng lại. Cùng với những giọt nước mắt thổn thức như đang muốn trào ra, bà như muốn nuốt trọn vào tâm hồn từng hơi thở của một cuộc đời bị xã hội khinh rẻ và bỏ rơi của Jo vào lòng. Bà ngỡ ngàng vì Chúa đến với bà trong một tình huống khó tả và nhạy cảm như vậy. Bà có cảm tưởng như bà là Thiên Chúa đang chạm bàn tay từ ái vào một tội nhân đáng thương bị con người ruồng bỏ. Đồng thời bà cũng cảm nhận bà chính là Jo, bà đang ngồi đó và được Thiên Chúa chạm vào thể xác cũng như tâm hồn để xóa sạch những vết bùn nhơ, bóng tối tội lỗi và hận thù trong lòng bà. Lúc đầu bà tưởng bà ra tay giúp Jo, không ngờ chính Jo đang giúp bà gặp gỡ Thiên Chúa của bà. Bà nghe văng vẳng đâu đó như có tiếng các Thiên Thần đang xướng ca…
Lạy Chúa, trong một năm vừa qua, Chúa đã đi ngang qua nhà con nhiều lần lắm nhưng mấy khi con nhận ra Chúa vì con quá bận rộn và say mê với những chương trình của con. Đã mấy lần con thấy Chúa nhưng con không tha thiết ở lại trong những khoảnh khắc thánh thiêng ấy để chiêm ngắm Chúa. Con đã để những giây phút thánh và không gian thánh ấy qua đi quá dễ dàng trong đời con.
Lạy Chúa, hôm nay đã bắt đầu bước qua năm mới rồi, năm mà Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mỗi người tín hữu sống với tâm tình “Lòng thương xót Chúa.” Xin giúp con biết dừng chân lại để biết nhận ra và thưởng thức những cuộc gặp gỡ nhỏ bé, thầm lắng, chóng vánh, nhưng thật thánh thiêng vì Chúa đang tỏ lòng thương xót Chúa cho con. Xin Chúa tiếp tục dạy bảo con biết chia sẻ lòng thương xót Chúa mà con đã được nhận nhưng không, cho những anh chị em con gặp gỡ mỗi ngày, nhất là những anh chị em nghèo khổ và bị ruồng bỏ, đặc biệt trong năm Thánh này.
Giuse Ngô Văn Chữ, S.J.
January 1, 2016
Kỳ lạ ga tàu chỉ chở một nữ sinh trung học suốt 3 năm
Kỳ lạ ga tàu chỉ chở một nữ sinh trung học suốt 3 năm
TPO – Ga Kami-Shirataki được đặt tại vùng cực Bắc đảo Hokkaido (Nhật Bản) chỉ có đúng một hành khách sử dụng, một nữ sinh trung học.
Ga tàu Kami-Shirataki do nằm tại vùng hẻo lánh xa xôi tại đảo Hokkaido, Nhật Bản số người sử dụng ga tàu giảm mạnh, thậm chí, một số hãng hàng không buộc phải huỷ chuyến bay tới khu vực này. Ban đầu, ban giám đốc ga Hami-Shirataki có ý định đóng cửa ga đường sắt này, tuy nhiên, do nhận thấy vẫn còn một hành khách sử dụng tàu hoả hàng ngày, họ đã tạm dừng quyết định đó.
Hành khách này là một nữ sinh trung học hàng ngày phải đi tàu đến trường. Ban giám đốc ga tuyên bố sẽ tiếp tục duy trì ga tàu cho đến khi nữ sinh tốt nghiệp trung học vào tháng 3/2016. Không những thế, lịch trình của những chuyến tàu cũng được điều chỉnh để phù hợp với lịch học của nữ sinh. Sau khi cô gái tốt nghiệp trung học, ga tàu sẽ được “khai tử” hoàn toàn.
Trả lời phỏng vấn của các phóng viên, người đứng đầu doanh nghiệp đường sắt Kami-Shirataki cho biết, cho dù các chi phí để duy trì một ga tàu là rất lớn, nhưng vì muốn khuyến khích sự nghiệp “đèn sách” của nữ sinh trung học, họ sẽ mở ga tàu cho đến khi cô còn đi học.
Quyết định này của chính phủ Nhật khiến cả thế giới phải ngả mũ và là một hoạt động nằm trong chiến dịch phát triển giáo dục tại đất nước Mặt trời mọc.
Tuyển dụng kiểu Google: Không thông báo, không phỏng vấn, không xem bằng cấp…
Tuyển dụng kiểu Google: Không thông báo, không phỏng vấn, không xem bằng cấp…
Một hôm tôi cùng cậu con trai nói chuyện phiếm với nhau. Con trai tôi đột nhiên kể rằng bạn của cậu đã được nhận vào làm việc cho Google. Qua lời kể, con trai tôi có vẻ rất ngưỡng mộ điều đó.
Cha con tôi đều cho rằng Microsoft và Google đều là những công ty lớn, có sức ảnh hưởng và họ đang âm thầm cải biến thế giới xung quanh mình. Nên cả hai cha con tôi đều ngưỡng mộ họ.
Câu chuyện về bạn của con tôi được tuyển vào làm việc cho Google như sau:
Tình cờ một hôm, cậu này thấy được trên tấm bảng thông báo của trường có một tờ quảng cáo nhỏ. Trên tờ quảng cáo này không ghi gì ngoài tên miền địa chỉ website và một ký hiệu toán học rất lạ. Cậu ta cảm thấy thú vị liền ghi nhớ địa chỉ website này.
Khi về nhà, bạn của con trai tôi liền truy cập vào địa chỉ website đó và chỉ thấy hiện ra một đề toán rất khó hiểu. Cậu ta cảm thấy thú vị liền lập tức giải bài toán này. Nhưng quả thực đề bài không phải dễ, vật lộn hơn nửa tiếng đồng hồ cậu ta mới giải xong bài toán.
Sau khi giải xong, trang web liền hiện ra một tờ khai yêu cầu cậu ta điền thông tin và cửa vào làm việc cho Google cứ thế mở ra.
Văn phòng làm việc của Google
Hãy cùng phân tích một chút về kiểu tuyển dụng này nhé:
Trên một bảng thông báo đầy màu sắc mà chỉ chú ý đến một tờ quảng cáo nhỏ không có gì nổi bật: Đây rõ là một người cẩn thận, lưu ý đến mọi vật xung quanh mình.
Xem qua địa chỉ website liền ghi nhớ trong đầu: Người này xem qua liền nhớ, trí nhớ không phải tệ.
Về nhà liền truy cập vào website đó: Người này rất hiếu kỳ, muốn khám phá và tìm hiểu.
Nhìn thấy một đề toán “không có đầu không có đuôi” mà vẫn quyết định muốn giải: Điều này nói rõ đây là người thích động não.
Giải được bài toán: Chỉ số thông minh của người này không phải thấp.
Cuối cùng: Không xem lý lịch, không xem bằng cấp, không thông báo tuyển dụng, không phỏng vấn tuyển chọn, không tiêu tốn một đồng, Google đã tìm được nhân viên lý tưởng cho mình.
Đây chính là cách Google tìm kiếm nhân tài!
“1 Gia Đình 1 Thương Phế Binh”
-
Xin quý vị hảo tâm cho biết muốn bảo trợ bao nhiêu TPB mỗi năm? Chúng tôi đề nghị mỗi cá nhân hoặc một gia đình ở hải ngoại chỉ nên bảo trợ từ 1 cho đến 5 hồ sơ TPB/VNCH mà thôi, và tiêu chuẩn giúp đỡ được chia ra như sau:A: Bảo trợ cho một (1) Thương Phế Binh nặng: US$240.00 mỗi năm.(Nặng: Cụt 2 tay, cụt 2 chân, mù hai mắt, cụt 1 tay + cụt 1 chân, hoặc bị liệt)B: Bảo trợ cho một (1) Thương Phế Binh nhẹ: US$120.00 mỗi năm.(Nhẹ: Cụt 1 tay, cụt 1 chân, mù một mắt, hoặc bị nội thương)
-
Khi ghi danh bảo trợ, xin quý ân nhân cho Hội HO/TPB/QP/VNCH biết:A: Quý danh cùng địa chỉ nhận thư (để Hội gởi copy hồ sơ TPB đến ân nhân).B: Số điện thoại (cả phone tay cũng như điện thọai nhà nếu có).C: Địa chỉ email (nếu có).
-
Sau khi nhận được các tin tức trên thì Hội chúng tôi sẽ cung cấp đầy đủ chi tiết cùng lý lịch của người TPB theo ý muốn của quý vị (ở địa phương nào cũng được) đến địa chỉ ân nhân qua đường bưu điện để quý vị GỞI TIỀN TRỰC TIẾP về thẳng Việt Nam cho người thương binh đó. Hoặc nếu có cơ hội về thăm quê hương quý vị ân nhân đến thăm hỏi và trực tiếp trao tiền thì còn quý giá, an ủi và ý nghĩa biết bao.
-
Mỗi lần gởi tiền giúp đỡ TPB, xin thông báo cho Hội biết để ghi lại lưu vào sổ.
-
Đúng một năm, kể từ khi hồ sơ được gởi ra, chúng tôi sẽ theo dõi và xin phép được nhắc nhở để biết quý ân nhân còn tiếp tục bảo trợ nữa hay không?
-
Thời gian bảo trợ dài hạn: Ít nhất là ba (3) năm trở lên. Tuy nhiên, nếu vì bất cứ lý do gì mà ân nhân không còn bảo trợ nữa, xin cho Hội biết càng sớm càng tốt để chúng tôi mở lại hồ sơ và tiếp tục giúp đỡ người TPB đó kẻo họ chờ mong tội nghiệp!