Chồng đi VN chơi ba tuần, về nghe vợ muốn ly dị liền siết cổ cho chết

 


Bà Michelle tại tiệm Penn Nails

MINNEAPOLIS – Thảm kịch của đời một người làm nail. Những người thân quen và thân chủ của một tiệm làm móng tay ở thị xã Richfield đã bày tỏ sự thương yêu dành cho một phụ nữ vừa bị sát hại. Nạn nhân là chủ tiệm nail và bị chồng giết tại tư gia.

Tony Lê sau khi bị cảnh sát bắt (Hennepin County)

Theo tin của đài WCCO, vào sáng thứ Hai, 25 tháng Chín, 2017, cảnh sát nhận được một cú gọi 911 và liền đến nhà của bà Michelle Lê ở ngoại ô phía nam thành phố Minneapolis.

Vào trong nhà, cảnh sát thấy xác của Michelle Lê nằm cuộn mình trong phòng tắm ở tầng trệt.
Họ đã bắt ông Tony Lê, 55 tuổi, chồng của bà Michelle, 48 tuổi. Vào ngày thứ Ba, 26 tháng Chín, ông Tony Lê bị truy tố tội sát nhân với mức nghiêm trọng ở cấp bậc thứ hai.


Bà Michelle Lê (WCCO)

Cặp vợ chồng này đã sống với nhau được 20 năm. Cảnh sát nói rằng bà Michelle Lê bị siết cổ chết bằng dây điện thoại.

Người gọi số 911 chính là ông Tony Lê. Cảnh sát rằng ông Tony Lê mới trở lại Minnesota sau ba tuần đi “vacation” ở Việt Nam. Ông đã nổi nóng khi nghe vợ đã làm đơn ly dị.


Ông Tony Lê bị bắt ngày thứ Hai, sau khi giết bà Michelle ở trong nhà của họ tại Minneapolis, Minnesota. (WCCO)

Ông Tony có nói với cảnh sát rằng hôn nhân của họ đang có khó khăn. Và sau chuyến đi Việt Nam thì ông đã nổi nóng khi nghe vợ đã làm đơn ly dị.

Người chồng này kể với cảnh sát rằng vào sáng sớm thứ Hai, ông đã đợi cho đến 3 hoặc 4 giờ sáng để chờ vợ về. Sau đó hai người đã cãi nhau kịch liệt.

Tony Lê nói rằng ông đi theo vợ vào phòng tắm, nơi mà ông dùng dây điện thoại để siết cổ vợ từ đằng sau lưng, trong lúc bà Michelle chống cự mãnh liệt.
Sau khi vợ bị nghẹt thở, ông gọi số 911. Ban đầu ông nói ông không biết tại sao vợ chết.
Khi cảnh sát đến nhà vào lúc 9 giờ sáng, ông đã mở cửa đón họ và nói “vợ tôi đã chết.”
Sau khi bị bắt, ông mới thú thật rằng ông đã giết bà Michelle.

Hai con trai đã lớn của họ và những người bạn của gia đình cũng cho biết trong thời gian gần đây Michelle Lê đã nói với chồng rằng bà muốn ly dị.


Các thân chủ chụp hình lưu niệm tại tiệm Penn Nails ở Richfield. (Facebook)

Tại tiệm nail, nhiều thân chủ nói rằng họ quí mến bà Michelle rất nhiều, không phải chỉ vì bà phục vụ họ tận tâm.

Bà Karen Stone nói với đài truyền hình WCCO ngày thứ Ba, “Tôi sẽ thương nhớ bà ấy rất lâu. Bà không chỉ là một người làm móng, mà còn là một người bạn tốt.”
Như một số thân chủ của Michelle Lê, bà Karen Stone đã đi theo bà Michelle từ tiệm nail này đến tiệm nail khác, và cuối cùng là tại Penn Nails và Spa ở Richfield, nơi mà Michelle Lê đã mua và làm chủ năm năm trước.


Hình bên ngoài tiệm Penn Nails ở Richfield đăng trên Facebook của tiệm.

“Tôi rất đau buồn,” bà Karn Stone nói. “Tôi đã quen Michelle suốt 17 năm. Tôi đã từng ăn tối ở nhà bà ấy.”
Bà Stone không là người duy nhất nói về khiếu nấu ăn món Việt Nam của bà Michelle Lê, và tình thương yêu mà bà Michelle đã dành cho hai con trai ở tuổi mới trưởng thành.
Vào ngày thứ Ba, bà Barb Gellatly, một thân chủ lâu năm của Michelle, đã nhận trách nhiệm làm việc ở quày tiếp khách.

Bà Barb nói với đài WCCO về việc đứng tiếp khách ở tiệm Penn Nails, “Đây là vinh dự. Tôi rất hân hạnh được giúp đỡ bà Michelle.”

Ông Charles Parsons, một cựu chiến binh từ thời chiến Việt Nam, cho biết ông từng được bà Michelle Lê trợ giúp với đôi chân bị đau của ông. Cựu chiến binh này kể rằng hai người thường trao đổi những mẩu chuyện về Việt Nam.

“Bà ấy là một trong những người rất đặc biệt. Bạn không thể nào quên,” ông Charles Parsons nói. “Thật đáng buồn khi bà ấy không còn ở đây với chúng ta nữa.”

Bà Michelle Lê từng tâm sự với vài thân chủ là bà có vấn đề khó khăn trong hôn nhân.
Ba ngày trước khi bị chồng giết, bà có ghé văn phòng của một luật sư chuyên về ly dị. Thế nhưng đối với những ai từng biết ông Tony Lê, họ đã kinh ngạc khi hay tin ông đã giết vợ.

“Thật không thể ngờ,” bà Barb Gellatly nói. “Làm sao mà chuyện đó có thể xảy ra?”
Tại tiệm nail, nhiều người đã mang hóa đến phúng điếu. Họ tạo một bàn thờ nhỏ theo nghi thức Phật giáo.
Các thân chủ nói rằng họ sẽ vận động để giúp gia đình điều hành tiệm móng tay, vì họ tin rằng bà Michelle Lê muốn tiệm được duy trì.

Tổng thống Trump và phu nhân sẽ tới VN dự APEC

From facebook: Phan Thị Hồng‘s post.
 
 
Image may contain: 1 person, standing and suit
Phan Thị Hồng

1 hr · 

 

Tổng thống Trump và phu nhân sẽ tới VN dự APEC

Ảnh: Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ thăm 5 quốc gia châu Á trong tháng 11. Bản quyền hình ảnh REUTERS

Tổng thống Mỹ Donald Trump loan báo thăm 5 quốc gia châu Á trong tháng 11, trong đó có chặng dừng tại Việt Nam dự hội nghị APEC.

Nhà Trắng cho hay hôm thứ Sáu rằng ông Trump sẽ thăm Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, Việt Nam và Philippines từ 3 đến 14/11.

Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ thúc đẩy nghị trình thương mại của ông tại APEC ở Việt Nam và hội nghị ASEAN ở Philippines.

Theo BBC

Cảnh giác nước dừa ngon ngọt

 From facebook:  shared Biên Hòa – Đồng Nai‘s post.
 
Image may contain: one or more people, motorcycle, tree and outdoor

 
Biên Hòa – Đồng Nai added a photo and a video — in Biên Hòa.

 

⛔️ Cảnh giác nước dừa ngon ngọt

Thông tin do bạn “Huỳnh Giang” chia sẻ: Sáng bảnh mắt ngồi ngoài đường thấy xe ba gác bán dừa tươi đậu dưới lòng đường Nguyễn Thị Minh Khai, lạ một điều anh bán dừa cứ thập thò ngó trước ngó sau. Quan sát một hồi mới vỡ lẽ là kế bịch ống hút có một bịch nylon đen bọc một chai nước suối, trong chai nước suối là hóa chất, chai này cắm sẵn cái ống hút. Kết quả là ai mua dừa chặt sẵn sẽ được khuyến mãi hóa chất từ cái ống hút vào trái dừa. Ảnh làm điêu luyện hơn nghệ sĩ ảo thuật nên mua rần rần mà chẳng ai biết.Thấy bực quá phải đến mua một trái 12k và hỏi ảnh ở đâu đến bán, ảnh nói ảnh Bến Tre lên bán. Mình hỏi cái chai trong bọc đen đựng cái gì? Đưa đây, thì ảnh chối và tìm cách đổ bỏ phi tang..   

Cỗ xe tăng Đức lừ lừ áp sát khung thành và sút!

 
 
From facebook:  Trần Bang 

Cỗ xe tăng Đức lừ lừ áp sát khung thành và sút!

Thoibao.de:
Đức từ chối cấp Visa cho đoàn công tác nhà nước,
Và tạm ngưng cấp Visa cho du học sinh VN vào Đức!

“Sau khi phía Đức nhận được từ Việt Nam thư trả lời về vụ việc ông Trịnh Xuân Thanh, nội các chính phủ nước này đã có cuộc họp và đi đến nhất trí đưa ra quyết định hôm 22.9 tạm thời đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược giữa Đức và Việt Nam, đồng thời trục xuất thêm 1 cán bộ ngoại giao tại Đại sứ quán Việt Nam ở Berlin.

Cùng ngày Đại sứ quán Đức ở Hà Nội đã lập tức phổ biến trên trang web và Faecebook của mình Thông cáo báo chí của Bộ Ngoại Đức về những quyết định kể trên.

Các nước trong Liên minh châu Âu (EU) cũng đã bắt đầu đồng hành với nước Đức. Gần như đồng loạt, Đại sứ quán các nước EU như Pháp, Bỉ, Hà Lan, Ý, Thụy Điển đã đăng trên Facebook của mình bản Thông cáo báo chí của Bộ Ngoại giao Đức để ủng hộ tuyên bố này của Chính phủ Đức.”

Người Việt trong và ngoài nước bàng hoàng vì quyết định cứng rắn này đã được Bộ Ngoại giao Đức đưa ra chỉ 2 ngày trước bầu cử, điều đó nói lên quyết tâm của nước này đã thực hiện đúng lời tuyên bố của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đức Gabriel đưa ra trước đó đối với Việt Nam: „Chúng tôi không thể dung thứ và sẽ không dung thứ.“

Biện pháp hạ mức quan hệ ngoại giao này lập tức đã có tác động ngay tới các giao thương giữa hai nước khi đoàn công tác tới gần 20 người với vị Chủ tịch một tỉnh lớn ở miền bắc Việt Nam bị phía Đức từ chối cấp Visa sang công tác vào dịp cuối tháng 9, các kế hoạch gặp gỡ đối tác Đức của tỉnh này đã phải hủy gấp.

Hội nghị giới thiệu, kêu gọi đầu tư để tạo việc làm cho nhân dân tỉnh nhà tại Việt Haus Berlin vào ngày 2.10 sắp tới cũng không thể tiến hành như dự định.

Giới sinh viên, học sinh đang du học và lao động Việt Nam đang làm việc tại Đức cũng đang xôn xao lo lắng, không biết tình trạng căng thẳng quan hệ giữa hai nước căng thẳng như trên có làm ảnh hưởng đến công việc cũng như tình trạng cư trú của họ hay không?

Bên cạnh đó, lịch đăng ký phỏng vấn xin Visa cho thời gian cư trú trên 90 ngày (du học, học nghề và làm việc) cũng bị đóng băng ít nhất tới hết tháng 01.2018 mà không có lời giải thích nào.

Có thể thấy, do cuộc khủng hoảng ngoại giao kéo dài giữa 2 nước, nhiều sinh viên học sinh đang chuẩn bị xin thị thực đến Đức sẽ ít nhiều gặp trở ngại trong quá trình xin Visa. Đây là một thiệt thòi lớn cho thế hệ trẻ, sinh viên học sinh Việt Nam đang muốn đăng ký du học hoặc học nghề tại CHLB Đức.

Tại Berlin, nhiều doanh nghiệp kiều bào tỏ rõ lo lắng với các khoản mà họ đã đầu tư về Việt Nam và cho biết ´´ Chúng tôi đang rút dần khỏi Việt Nam để đầu tư ngay tại châu Âu cho an toàn´´, các tín hiệu xấu ngày càng hiện rõ với nhiều khó khăn trong thời gian tới, việc bất ổn về ngoại giao do vụ bắt cóc ông Trịnh Xuân Thanh ở Berlin đã dẫn đến khủng hoảng niềm tin đối với vài lãnh tụ cổ hủ, không còn thích hợp cho nền chính trị Việt Nam đang cần sự đổi mới toàn diện với một nhà nước pháp quyền để có thể giúp đất nước đủ năng lực hợp tác quốc tế và cạnh tranh với thế giới…

http://thoibao.de/…/duc-tu-choi-cap-visa-cho-doan-cong-tac-…

No automatic alt text available.
 

Đòi chế độ cộng sản bồi thường tài sản: Con đường thứ ba là con đường rộng nhất

Đòi chế độ cộng sản bồi thường tài sản: Con đường thứ ba là con đường rộng nhất

  • Điều đình ngoài luật: Bài học từ cộng đồng tị nạn Nicaragua
  • Cơ hội để giúp “dân oan” ở Việt Nam

  • Công thức áp dụng cho người Việt ở các quốc gia khác

Ts. Nguyễn Đình Thắng

Ngày 25 tháng 9, 2017

http://machsongmedia.com

Ngoài con đường kiện ra toà và con đường giải quyết hành chính của Uỷ Hội FCSC, chúng tôi còn thực hiện con đường thứ ba: điều đình trực tiếp giữa nạn nhân và chế độ đã cưỡng đoạt tài sản, với sự theo dõi và hỗ trợ của chính quyền Hoa Kỳ.  Con đường này có những lợi điểm sau đây:

(1)    Các hồ sơ không hội đủ tiêu chuẩn cho 2 con đường đầu tiên có thể được giải quyết qua điều đình;

(2)    Chúng tôi có thể đưa vào cuộc điều đình một số điều kiện liên quan đến người dân ở Việt Nam;

(3)    Con đường này có thể làm khuôn mẫu cho các người Việt có quốc tịch Canada, Đức, Pháp, Úc… muốn đòi bồi thường tài sản.

Muốn chính quyền Việt Nam ngồi vào bàn điều đình, chúng tôi sẽ phải chứng minh rằng đấy là con đường ít tại hại và ít rủi ro nhất họ.  BPSOS đã bắt đầu công cuộc này vào cuối tháng 7 vừa qua, qua việc đánh chặn thoả thuận giữa tiểu bang Virginia và 6 tỉnh thành Việt Nam. Tuần này, chúng tôi nới rộng nó ra toàn quốc và leo thang lên cấp liên bang.

Phương thức điều đình để đòi bồi thường tài sản không là điều mới lạ. Cách đây 20 năm, cộng đồng tị nạn Nicaragua ở Hoa Kỳ đã thành công trong việc ép chính quyền Nicaragua phải bồi thường trên 1 tỉ Mỹ kim tại bàn điều đình. Họ đã chọn con đường điều đình vì có đến 2/3 số tài sản thuộc các người tị nạn Nicaragua chưa là công dân khi bị tịch thu.

 

Nhiều công ty doanh nghiệp Việt Nam và hợp doanh với ngoại quốc đang sử dụng tài sản do chính quyền cưỡng đoạt của công dân Hoa Kỳ gốc Việt (ảnh BPSOS)

Tấm gương Nicaragua

Năm 1979 nhóm kháng chiến quân Sandinista cướp chính quyền ở Nicaragua và lập tức quốc hữu hoá tài sản của các người có “máu mặt”. Trong đó có gần 5 nghìn tài sản của công dân Hoa Kỳ, và 23,000 của người Nicaragua. Ngay sau khi nhóm Sandinista lên nắm chính quyền, khoảng 20 nghìn người Nicaragua bỏ nước đến Hoa Kỳ tị nạn. Trong 10 năm sau đó, có thêm khoảng 100 nghìn người Nicaragua định cư Hoa Kỳ. Theo cuộc kiểm tra dân số gần đây nhất, năm 2010 dân số người Nicaragua ở Hoa Kỳ là 348 nghìn, bằng ¼ dân số người Việt ở Hoa Kỳ. Trong số người tị nạn Nicaragua, có khoảng 10 nghìn trường hợp bị chính quyền Sandinista tịch thu tài sản.

Tuy với dân số ít và hãy còn chân ướt chân ráo ở Hoa Kỳ, cộng đồng tị nạn Nicaragua đã vận động mạnh mẽ và hiệu quả. Trong những năm 1990, Hành Pháp Bill Clinton thương thảo với Việt Nam về thiết lập bang giao và lờ đi việc bồi thường tài sản cho người Mỹ gốc Việt, nhưng lại áp lực chính quyền Nicaragua bồi thường tài sản đã tịch thu của các người Nicaragua đang ti nạn ở Hoa Kỳ. Điểm cần lưu ý là, không như trường hợp ở Việt Nam, chính quyền Sandinista quốc hữu hoá ngay tất cả các tài sản mà họ tịch thu. Do đó, hầu như không người tị nạn Nicaragua nào có quốc tịch Hoa Kỳ khi bị mất tài sản. Thành ra, Uỷ Hội FCSC không thể can thiệp.

Cộng đồng Nicaragua tị nạn đã chọn giải pháp là vận động cả Hành Pháp và Quốc Hội Hoa Kỳ  đe doạ trừng phạt nặng nề, bao gồm cúp viện trợ, ngưng phát triển mậu dịch và chặn mọi khoản vay của Ngân Hàng Thế Giới … nếu chính quyền Nicaragua không chịu giải quyết các đòi hỏi bồi thường tài sản của người tị nạn gốc Nicaragua. Để tăng áp lực, năm 1995 Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua luật cho phép Hành Pháp trừng phạt Nicaragua nếu chậm trễ trong việc bồi thường.

Dưới áp lực ngày càng leo thang, chính quyền Nicaragua đồng ý ngồi vào bàn điều đình với toán đại diện cho các người tị nạn Nicaragua có hồ sơ đòi bồi thường. Cuộc điều đình diễn ra dưới sự quan sát chặt chẽ của Hành Pháp và Quốc Hội Hoa Kỳ. Tiến trình điều đình đến đâu bồi thường đến đó kéo dài 20 năm. Tháng 8 năm 2015, chính quyền Nicaragua giải quyết việc bồi thường cho hồ sơ cuối cùng của người tị nạn Nicaragua. Tổng cộng số tiền bồi thường vượt trên 1 tỉ Mỹ kim. Xem tường trình của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ về việc này: https://www.state.gov/e/eb/rls/othr/ics/2016/wha/254545.htm

Người tị nạn Nicaragua đã thành công vì họ không chỉ dốc sức vận động mà còn khôn khéo nhờ cộng đồng bạn là người Mỹ gốc Cuba, vốn có kinh nghiệm về đòi bồi thường tài sản, yểm trợ. Đó là bài học cho chúng ta. Cộng đồng tị nạn Nicaragua ít ỏi hơn chúng ta, mới mẻ hơn chúng ta nhưng đã gặt hái kết quả nhờ làm đúng cách.

Con đường thứ ba cho công dân Hoa Kỳ gốc Việt

Cộng đồng người Việt tị nạn có nhiều lợi thế hơn cộng đồng tị nạn Nicaragua. Thứ nhất, dân số người  Việt đông gấp hơn 4 lần dân số người Nicaragua ở Hoa Kỳ; trên nguyên tắc cộng đồng Mỹ gốc Việt phải có nhiều ảnh hưởng đối với chính giới Hoa Kỳ hơn hẳng cộng đồng Nicaragua tị nạn. Thứ hai, tuyệt đại đa số tài sản của người  Mỹ gốc Việt hội đủ tiêu chuẩn để được phán quyết bởi Uỷ Hội FCSC. Không như Nicaragua, chính quyền Việt Nam đã không quốc hữu hoá ngay các tài sản của người bỏ nước ra đi mà chỉ quản lý tạm thời; mãi sau này họ mới có chính sách quốc hữu hoá. Lúc ấy thì tuyệt đại đa số người Việt tị nạn và di dân đã trở thành công dân Hoa Kỳ.

Theo ước lượng của chúng tôi, khoảng 50% tổng số hồ sơ của người Mỹ gốc Việt có thể giải quyết qua con đường phán quyết của Uỷ Hội FCSC và 20% có thể điều kiện để kiện ra toà. Nghĩa là 30% tổng số hồ sơ chỉ có thể giải quyết bằng con đường thứ ba.

Ngoài ra, thể thức điều đình tạo cơ hội để hai bên thương lượng. Chẳng hạn, chúng tôi có thể đặt điều kiện là chính quyền Việt Nam phải đình chỉ các lệnh cưỡng chế đất đai ở Việt Nam cho đến khi hai bên cùng thoả mãn rằng tài sản của công dân Hoa Kỳ sẽ không bị xâm phạm. Nhắc lại, mọi vùng đất ở Việt Nam, kể cả ở trong Nam lẫn ngoài Bắc, đều có thể có tài sản của công dân Hoa Kỳ lẫn trong đó, tương tự trường hợp của Giáo Xứ Cồn Dầu, Đà Nẵng.  Bởi vậy, mỗi lệnh cưỡng chế đều phải đi kèm với thủ tục loan báo ở Hoa Kỳ, và cho đủ thời gian để mọi công dân Hoa Kỳ có thể lên tiếng nếu bị ảnh hưởng. Khi ấy, chính quyền Việt Nam phải bảo đảm mức bồi thường cho công dân Hoa Kỳ sẽ tuân theo công thức của Hoa Kỳ hay quốc tế chứ không tuỳ tiện như hiện nay. Nếu vậy, chính quyền cũng sẽ phải áp dụng cùng mức bồi thường cho mọi người dân trong khu đất bị cưỡng chế. Trên đây một ví dụ về các điều kiện có thể đưa ra tại bàn điều đình và chỉ tại bàn điều đình chứ không thể tại toà án hay với Uỷ Hội FCSC.

Các giai đoạn của cuộc vận động

Cuộc vận động cho giải pháp điều đình sẽ được tiến hành song song với các vụ kiện ra toà và cuộc vận động Uỷ Hội FCSC mở chương trình cho người Mỹ gốc Việt. Cuộc vận động này gồm có:

(1)    Vận động cắt viện trợ, chặn chương trình vay vốn quốc tế cho Việt Nam:

Luật pháp Hoa Kỳ có những biện pháp trừng phạt mạnh mẽ đối với quốc gia nào cưỡng đoạt tài sản của công dân Hoa Kỳ. Một trong những luật này là Tu Chính Án Helms (Helms Amendment) được Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua ngày 30 tháng 4, 1994. Tu Chính Án này do Thượng Nghị Sĩ Jesse Helms (Cộng Hoà, North Carolina) đề xướng. Ngôn ngữ của Tu Chính Án Helms:  http://uscode.house.gov/view.xhtml?req=(title:22%20section:2370a%20edition:prelim

Theo đó, Bộ Ngoại Giao phải phúc trình hàng năm cho Quốc Hội danh sách các trường hợp tài sản của công dân Hoa Kỳ bị cưỡng đoạt ở từng quốc gia và nỗ lực phối hợp giữa Hoa Kỳ và quốc gia ấy để giải quyết các đòi hỏi bồi thường của công dân Hoa Kỳ.

Luật này đòi hỏi Tổng Thống Hoa Kỳ ngưng viện trợ cho quốc gia nào không bồi thường công dân Hoa Kỳ cho các tài sản bị họ tịch thu mà được nêu lên trong bản phúc trình của Bộ Ngoại Giao. Không những vậy, Tổng Thống còn phải chỉ định đại diện của Hoa Kỳ tại các định chế tài chính và ngân hàng quốc tế ngăn chặn không cho quốc gia ấy vay vốn.

Cuộc vận động này bắt đầu trong tuần này. Chúng tôi sẽ phối hợp các “khổ chủ” mà chúng tôi đang có hồ sơ để liên lạc và yêu cầu các dân biểu và thượng nghị sĩ của họ đòi hỏi Hành Pháp Trump thực thi Tu Chính Án Helms.

(2)    Đẩy lùi nỗ lực của Việt Nam để xin đặc quyền mậu dịch:

Luật Mâu Dịch (Trade Act of 1974) của Hoa Kỳ ngăn cản Tổng Thống không được cấp những đặc quyền thuế quan cho các quốc gia nào cưỡng đoạt tài sản của công dân Hoa Kỳ. Xem:  https://fas.org/sgp/crs/misc/RL33663.pdf

Trước khi tham gia cuộc thương thảo Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership, hay TPP), Việt Nam ráo riết vận động Hoa Kỳ cho hưởng Hệ Thống Ưu Đãi Thuế Quan Tổng Quát Hoá (Generalized System of Preferences, hay GSP) để được giảm thuế đánh lên các mặt hàng xuất cảng vào Hoa Kỳ. Nay Tổng Thống Trump đã rút Hoa Kỳ khỏi TPP, Việt Nam đang quay trở lại vận động các đặc quyền mậu dịch song phương với Hoa Kỳ.

Nếu Việt Nam không chứng tỏ là họ chấp nhận bồi thường hoặc điều đình việc bồi thường, họ sẽ không thể xin xỏ các đặc quyền về thuế quan. Chúng tôi bắt đầu xúc tiến nỗ lực này vào cuối tháng 6 vừa qua.

(3)    Đánh chặn mọi nỗ lực đi cửa sau của Việt Nam để thu hút mậu dịch và đầu tư:

Bị sa lầy về cả GSP lẫn TPP, chế độ ở Việt Nam đã mở đường đối tác theo công thức kết nghĩa chị em giữa các thành phố Hoa Kỳ và Việt Nam. Gần đây, Bộ Ngoại Giao Việt Nam đạt được thoả thuận thư giữa 6 tỉnh thành Việt Nam với chính quyền Virginia về đầu tư và mậu dịch. Đây có thể xem như bước đột phá để mở đường cho các thoả thuận tương tự với nhiều tiểu bang khác của Hoa Kỳ.

Cuối tháng 7, chúng tôi đã thực hiện cuộc đánh chặn thoả thuận này bằng cách yêu cầu Thống Đốc và Quốc Hội Virginia đòi hỏi Việt Nam phải tôn trọng tài sản của người Mỹ gốc Việt sinh sống tại Virginia trước đã. Cuộc đánh chặn này được một số dân biểu và thượng nghị sĩ tiểu bang hậu thuẫn. Mục đích của chúng tôi là cho chế độ ở Việt Nam thấy mọi nỗ lực đi cửa sau của họ sẽ vấp phải chướng ngại là số tài sản của công dân Hoa Kỳ mà họ đã cưỡng đoạt không bồi thường.

Chúng tôi đang theo dõi những nỗ lực đi cửa sau tương tự ở các thành phố và tiểu bang Hoa Kỳ để sẵn sàng đánh chặn.

(4)    Lôi cuốn sự quan tâm của những doanh nhân và nhà đầu tư Hoa Kỳ:

Cuối tháng 7 BPSOS đã gửi đến tất cả các phòng thương mại trong tiểu bang Virginia thông tin về tình trạng cưỡng đoạt không bồi thường tài sản của công dân Hoa Kỳ. Trong những tháng tới đây, chúng tôi sẽ tuần tự gửi thông tin đến các phòng thương mại ở từng tiểu bang Hoa Kỳ, cho đủ 50 tiểu bang.

Chúng tôi cũng khai thác mọi cơ hội để nêu lên tình trạng chính quyền Việt Nam cưỡng đoạt tài sản của công dân Hoa Kỳ. Chẳng hạn, trong số 8 danh sách mà chúng tôi đề nghị trừng phạt theo Luật Magnitsky Toàn Cầu, có trường hợp thành phố Đà Nẵng đã xâm phạm tài sản của 12 công dân Hoa Kỳ.

Tại sao chế độ ở trong nước chấp nhận điều đình?

Chính quyền Việt Nam sẽ chỉ chấp nhận ngồi vào bàn điều đình khi hiểu ra rằng nếu không điều đình thì sẽ bị thiệt hại nhiều hơn.

Trước hết, họ sẽ không muốn ra hầu toà vì sợ bị đối chất về yếu tố bạo tàn lồng trong chính sách cưỡng đoạt tài sản: bắt người đi tập trung cải tạo, đuổi người đi kinh tế mới, xoá trắng cả một cộng đồng bản địa hay tôn giáo, tra tấn, đánh đập, bỏ tù, sát hại… Khi yếu tố bạo tàn này bị phanh phui trước toà, nó không những trở thành một vế nhơ lớn cho chế độ về mặt dư luận, mà còn tăng rủi ro bị toà áp đặt mức phạt gấp 3 lần trị giá của tài sản phải bồi thường. Điều này đã xảy ra cho chính quyền Cuba trong vụ kiện của Ông Gustavo Villoldo, người Mỹ gốc Cuba, năm 2008 toà tiểu bang Florida phán quyết Cuba phải trả gấp 3 lần trị giá tài sản mà họ đã tịch thu, tổng cộng lên đến 1.2 tỉ Mỹ kim.

Chế độ ở Việt Nam cũng không muốn bị rơi vào thế bó tay trước các phán quyết của Uỷ Hội FCSC. Họ đã có kinh nghiệm không vui ấy khi năm 1986 Uỷ Hội FCSC đơn phương phán quyết Việt Nam phải bồi thường cho 192 hồ sơ người Mỹ bị cưỡng đoạt tài sản năm 1975. Năm 1995 Việt Nam đã phải chấp nhận bồi thường số tiền trên 208 triệu Mỹ kim mà không được phép phản bác, phân trần, giải thích hay kháng cáo. Thiếu hợp tác thì sẽ bị trừng phạt về mậu dịch, viện trợ và vay vốn các ngân hàng quốc tế.

Cộng vào đó là cuộc vận động đánh chặn mọi toan tính đi cửa sau, có thể ảnh hưởng đến nỗ lực của chính quyền Việt Nam nhằm đạt mức 6.7% về tăng trưởng kinh tế. Nay TPP không còn và thương ước mậu dịch tự do Liên Âu – Việt Nam bị đẩy lùi, chế độ ở Việt Nam sẽ cân nhắc việc ngồi vào bàn điều đình để giảm tổn hại. Điều kiện tiên quyết của họ, nếu có điều đình, chắc chắn sẽ là đình chỉ các vụ kiện và con đường giải quyết theo Uỷ Hội FCSC. Đấy sẽ là điều mà chúng tôi cùng với toán luật sư tư vấn sẽ phải cân nhắc.

Người Việt ở các quốc gia khác có thể đòi bồi thường?

Trong thời gian qua, chúng tôi đã nhận được email của nhiều đồng hương ở Canada, Pháp, Đức và Úc hỏi về cách thức để đòi bồi thường tài sản đã bị chính quyền Việt Nam cưỡng đoạt. Dĩ nhiên, luật pháp Hoa Kỳ chỉ binh vực và can thiệp cho lợi ích của công dân Hoa Kỳ. Và có lẽ Hoa Kỳ có luật mạnh mẽ nhất để bảo vệ tài sản của công dân.

Chúng tôi không rõ luật pháp của các quốc gia khác về bảo vệ tài sản của công dân. Ngay dù một quốc gia không có luật bảo vệ tài sản công dân, nạn nhân bị cưỡng đoạt tài sản vẫn có thể đòi hỏi chính quyền của mình can thiệp và ép chế độ ở Việt Nam phải điều đình việc bồi thường. Bảo vệ tài sản của công dân là trách nhiệm đương nhiên của một chính quyền dân chủ, và được ghi đúc trong Điều 17 của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền viết:

(1)    Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản cá nhân cũng như tập thể.

(2)    Không ai có thể bị tước đoạt tài sản của mình một cách tuỳ tiện.

Chính quyền của quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc không những phải tôn trọng mà còn phải bảo vệ quyền này của công dân. Do đó, khi công dân bị một quốc gia khác xâm phạm tài sản, chính quyền có nghĩa vụ phải can thiệp. Hơn nữa, cưỡng đoạt tài sản của công dân một quốc gia khác là vi phạm những cam kết quốc tế giữa các quốc gia thành viên của LHQ với nhau. Công pháp quốc tế đã đề ra một số nguyên tắc để ngăn chặn sự vi phạm ấy: nguyên tắc không kỳ thị, nguyên tắc “vì công ích”, nguyên tắc bồi thường đầy đủ… Tuy nhiên, chính quyền sẽ không tự động can thiệp nếu họ không được thuyết phục rằng một số đông công dân đã bị xâm phạm tài sản khi đã là công dân.

Trước khi vận động chính quyền sở tại, bước chuẩn bị là thu gom hồ sơ. Lý tưởng là có khoảng 100 trở lên và “khổ chủ” đã là công dân của quốc gia sở tại khi tài sản bị quốc hữu hoá. Trong một bài trước tôi đã giải thích là nhà, đất của những người bỏ nước ra chỉ bị quản lý tạm thời bởi nhà nước. Đến cuối năm 1991 mới có quyết định của chính phủ là nhà, đất đang được quản lý đều trở thành tài sản của nhà nước; tuy nhiên việc thực hiện quyết định này rất tuỳ tiện và qua loa. Mãi đến năm 2003, Quốc Hội Việt Nam mới ra nghị quyết yêu cầu Uỷ Ban Nhân Dân các cấp tỉnh, thành phải hoàn tất việc quốc hữu hoá các tài sản do nhà nước quan lý tạm thời. Thời hạn thự thi là từ tháng 10, 2005 đến cuối tháng 6, 2009. Năm 1991, nhiều người Việt đã trở thành công dân của các quốc gia định cư. Trong khoảng thời gian 2005 – 2009, phần lớn người tị nạn và di dân Việt Nam đều đã là công dân của các quốc gia định cư.

Đối với các đồng hương ở Pháp, Canada, Đức, Úc và những quốc gia khác nữa, tôi đề nghị những người có hồ sơ đòi bồi thường tài sản phối hợp với nhau theo quốc gia.  Mỗi nhóm phối hợp cần bắt tay ngay vào việc phổ biến thông tin và thu thập hồ sơ, đồng thời nghiên cứu luật pháp và chính sách ở quốc gia mình về bảo vệ tài sản của công dân. BPSOS sẽ làm việc trực tiếp với các nhóm này để cập nhật thông tin và phối hợp hành động. Trong trường hợp chưa có nhóm phối hợp, đồng hương vẫn có thể gửi hồ sơ đến cho BPSOS qua email: taisan@bpsos.org. Chúng tôi sẽ lưu giữ hồ sơ và chuyển cho nhóm phối hợp khi được hình thành và nếu có sự đồng ý của chủ nhân của hồ sơ.

Con đường vận động sẽ không đơn giản. Tuy nhiên, nếu đi sau cuộc vận động ở Hoa Kỳ một bước thì có thể sẽ nhẹ đi gánh nặng nghiên cứu hồ sơ và nghiên cứu luật và thể thức quốc tế. Việc vận động cũng có thể sẽ nhẹ đi sau khi cuộc vận động của chúng tôi ở Hoa Kỳ tạo ra tiền lệ.

Lời kêu gọi

Cuộc vận động chính giới Hoa Kỳ cho giải pháp điều đình sẽ đòi hỏi một lượng lớn hồ sơ rải ra ở nhiều tiểu bang, thành phố, và địa hạt cử tri. Chúng tôi do đó rất cần sự hợp tác của đồng hương ở trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ. Quý vị nào có hồ sơ đòi tài sản, xin liên lác với chúng tôi qua email: taisan@bpsos.orghay qua số điện thoại: 703-538-2190. Dù không có hồ sơ, xin quý vị giúp chúng tôi chuyển thông tin này đến những người quen có hồ sơ.     Xin cảm ơn.

Các thông tin về Chương Trình Đòi Tài Sản của BPSOS được lưu trữ tại: http://www.doitaisan.org

Bài liên quan:

Đòi bồi thường tài sản: Khi nào chính quyền Hoa Kỳ can thiệp?
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1254-2017-09-19-16-01-56.html

Công dân Mỹ gốc Việt đòi tài sản: thể thức phán quyết hành chính
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1250-2017-09-11-01-10-19.html

BPSOS công bố chương trình công dân Mỹ gốc Việt đòi tài sản
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1245-2017-08-30-22-18-18.html

Đòi bồi thường tài sản bị cưỡng đoạt: Khai thác luật Hoa Kỳ
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1246-2017-08-31-04-16-57.html

Đòi bồi thường tài sản bị cưỡng đoạt: Thế kẹt của chính quyền khi bị kiện
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1247-2017-09-01-17-16-30.html

Đòi bồi thường tài sản bị cưỡng đoạt: Người ở trong nước có thể tiếp tay
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1248-2017-09-05-01-10-13.html

Tác phẩm Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh bị cấm phát hành

Tác phẩm Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh bị cấm phát hành

2017-09-22
 

Bìa quyển tiểu thuyết Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh.

Bìa quyển tiểu thuyết Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh.

 Ảnh chụp màn hình.
 

Tác phẩm Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh bị cấm phát hành. Đây được cho là tác phẩm văn học đầu tiên viết về người dân bị lấy đất một cách phi pháp tại Việt Nam lâu nay.

Công văn do ông Chu Văn Hòa, Cục trưởng Cục xuất bản in và phát hành, thuộc Bộ Thông tin và truyền thông, ký vào trung tuần tháng 9  gửi đến Nhà xuất bản Hội nhà văn yêu cầu đình chỉ việc phát hành quyển sách vừa nêu.

Theo trình bày của ông Chu Văn Hòa thì tác phẩm Mối Chúa đã mô tả xã hội và hệ thống cầm quyền từ thấp đến cao như là một hệ thống đen tối, tham lam và tàn nhẫn, trong đó nêu lên chuyện cưỡng chế đất đai của nông dân như là một lực lượng thù địch.

Theo trang Facebook của Luật sư Trần Vũ Hải, quyển sách Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh, với bút danh Đãng Khấu đã được Nhà xuất bản Hội nhà văn Việt Nam phối hợp với Công ty văn hóa Nhã Nam xuất bản, nhưng nay bị dừng phát hành.

Một số cư dân mạng cho rằng họ đang tìm cách để đọc được tác phẩm bị cấm phát hành như vừa nêu.

Phim Vietnam War.

Phim Vietnam War.

  Trong công việc sưu tầm tài liệu cho Việt Museum, chúng tôi phải xem và đọc biết bao nhiêu tài liệu, đặc biệt phim về chiến tranh Việt Nam. Hết sức đau lòng. Xem bộ phim Vietnam War mới đây lại thêm đau lòng. Vẫn hiểu rằng đây là phim của người Mỹ làm cho khán giả Mỹ. Không phải dành cho người Mỹ gốc Việt. Tôi viết bài nhận xét sau đây, đã phổ biến nhưng phần lớn không đến tay các bạn. Xin gửi lại thêm một lần nữa. Nếu nhận được xin vui lòng cho biết. Cảm ơn.

Phim tài liVietnam War  

Cuc thm bi tái din

Giao Ch, San Jose

  

blank

Tin tức thời sự chính trị nước Mỹ vẫn tràn ngập trên diễn đàn truyền thông. Thiên tai vừa trải qua với cuồng phong và mưa bão tại miền Đông Nam Hoa Kỳ rồi tiếp đến động đất Mễ Tây Cơ. Bộ phim 10 tập 18 giờ do hai nhà làm phim Ken Burns và Lynn Novick bỏra mười năm với 30 triệu mỹ kim mới hoàn tất vẫn làm xôn xao dưluận. Phần lớn các nhà bình luận, các chính khách và nhân vật cộng đồng Hoa Kỳ đều hết lòng khen ngợi. Riêng phần chúng tôi có nhận định khác biệt. Là quân nhân của phe bại trận với niềm đau thương gặm nhấm suốt cuộc đời. Mất nước là mất tất cả. Một lần bại trận và phải đào thoát ngay trên quê hương. Từ đó thấy lại biết bao lần thảm bại tái diễn trên phim ảnh, làm sao mà vui mừng khi nhìn lại vết thương. Sau 42 năm phe tự do thua trận, với bộ phim công phu phổ biến năm nay, cuộc thảm bại trên chiến trường Việt Nam lại một lần nữa tái diễn. Xin có đôi lời đóng góp ý kiến như sau.         
                                            

 1) Vẫn hình ảnh đau thương cũ:  
Các nhà làm phim mới đã soạn lại tài liệu cũ. Thêm tài liệu sưu tầm trong thập niên qua. Cắt ráp và bình luận công phu, nhạc đệm xuất sắc. Phỏng vấn khoảng 100 người trong đó có chừng 30 nhân vật từ cả hai phía quốc cộng Nam Bắc Việt Nam. Đặc biệt có những hình ảnh và lời bình luận khen chê cả hai bên. Lần đầu tiên có đề cập đến vai trò của chiến binh Việt Nam Cộng Hòa cũng như vụ Việt cộng thảm sát Mậu Thân. Nhưng sau cùng khán giả của thế hệ hôm nay thuộc thế kỷ21 đều thấy rằng những nhà làm phim đã gián tiếp xác định sựchiến thắng của Cộng sản Việt Nam là hữu lý và tất yếu. Hình ảnh sau cùng vẫn là một dân tộc chống ngoại xâm và thống nhất đất nước. Dù hy sinh bao nhiêu họ cũng vẫn khoác danh hiệu chống Pháp xâm lược, chiến thắng trận Điện Biên thần thánh. Dủ chết thêm bao nhiêu cũng giữ được hào quang đánh Mỹ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bốn mươi năm sau chiến tranh, Hoa Kỳ vẫn còn vẳng nghe tiếng hô vang của hàng triệu thành viên phản chiến. Thế hệ Hoa Kỳ ngày nay làm sao hiểu được những khúc mắc phức tạp của cuộc chiến tranh Quốc Cộng. Trong lãnh vực truyền thông, hình ảnh sống động vẫn có khả năng thuyết phục hơn cảngàn lời nói. Một bên là chiến binh đồng minh dù là lính Pháp, lính Mỹ hay chiến binh miền Nam mặc quân phục, trang bị đầy đủ được yểm trợ bằng phi pháo hùng mạnh. Phía bên địch toàn là hình ảnh nữ dân quân, vũ khí thô sơ, chân dép áo nâu quyết tâm chiến đấu. Phe ta thua trên từng thước phim. Hình ảnh hàng ngũ lãnh đạo miền Bắc. Ốm yếu khắc khổ, cuộc sống thanh đạm và ý chí chiến đấu mãnh liệt. Tất cả đều đã vào tù ra khám. Trong khi đó phe ta là hình ánh quan lại, xiêm áo lịch sự, xa cách quần chúng, không chứng tỏ được tinh thần hy sinh cho dân và quyết tâm bảo vệ đất nước. Hình ảnh vị tướng VNCH đích thân lạnh lùng xử bắn tù binh trước ống kính của báo chí quốc tế, hình em bé trần truồng chạy bom. Những bức hình đã mang danh hiệu biểu tượng đau thương của cả thế kỷ. Và rất nhiều hình ảnh sẵn có phô diễn những sai lầm dã man của phe ta mà không có chứng tích tội ác của đối phương. Không thể nào có đủ lời lẽđể giải thích nguồn cơn. Dù 40 năm trước hay bốn mươi năm sau, một lần nữa chúng ta thua trận trên từng thước phim.

 2) Không th tranh lun được vi s thành công.  
Chúng ta phải chấp nhận rằng phe cộng sản đã chiến thắng phe tự do trong cuộc chiến Việt Nam. Hoa Kỳ từ tổng thống Johnson thực sự đã từng quyết tâm chiến thắng. Sau vụ hỏa mù trên Vịnh Bắc Việt, quốc hội Hoa Kỳ đã biểu quyết đồng thuận cho tổng thống toàn quyền. Nhưng sau cùng ý chí của chính phủ Mỹ thua ý chí của phe cộng sản. Nga, Tàu và Việt cộng không hề nao núng. Phong trào phản chiến đánh gục ý chí của chính phủ Hoa Kỳ. Mỹ thua trận ngay từ trong lòng dân chúng quốc nội.. Tiếp theo chính thức thua trận trên giấy tờ ký hiệp định Paris 1973. Sau cũng là cuộc bỏ chạy cùng Việt Nam Cộng Hòa trên nóc tòa đại sứ. Trong chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ đã thua hết sức cay đắng, nhưng vẫn còn vượt qua được vì đây chỉ là một chiến dịch trong chiều dài của lịch sử Hoa kỳ. Đối với Mỹ, Việt Nam chỉ là một mặt trận. Một cuộc chiến. Thế giới Tự do thua trong một cuộc chiến nhưng 20 năm sau đã toàn thắng khi liên bang Sô viết xụp đổ tại Nga. Với Nam Việt Nam năm 1972 thắng trận Bình Long, Kon Tum và lấy lại được Quảng Trị. Nhưng thua trận 75 là mất tất cả. Dù sau này một lần hay là 10 lần cờ đỏ phải hạ xuống ở điện Cẩm Linh thì Việt Nam Cộng Hoà cũng đã mất tất cả. Bao nhiêu sự hy sinh trong 21 năm chiến đấu và xây dựng 2 nền cộng hòa của miền Nam đều đổ ra sông ra biển.
 

3) Vì đâu nên nỗi: 
Phía Hoa Kỳ sai lầm hẳn đã học được bài học chiến tranh Việt Nam. Dù trở thành cơn ác mộng nhưng người Mỹvẫn còn sống. Nam Việt Nam thì hoàn toàn đã chết qua sự sai lầm trong chiến tranh. Đối với miền Nam Việt Nam thì việc thất trận là một thảm kịch vô cùng đau thương, không có điều gì có thể bào chữa ngoài lý do duy nhất là lỗi ở chính chúng ta. Kết quả mất nước là mất tất cả. Lỗi lầm không phải tại đồng minh không quyết tâm, cũng không phải bởi kẻ thù quá mạnh. Lỗi lầm là lãnh đạo ta không đủ sức vượt qua những khó khăn lớn lao và toàn dân không được vận động để quyết tâm tham chiến. Trong cuộc chiến 2 thập niên, trong khi miền Bắc vận dụng toàn dân tấn công thì miền Nam chỉ xử dụng được một phần rất nhỏ để tự vệ. Lãnh đạo lè phè và dân chúng thờ ơ.  Tất cả tùy thuộc vào Hoa Kỳ. Mỹ trực tiếp tham chiến đã cứu Việt Nam nhưng đồng thời cũng làm mất Việt Nam.Việt Nam mất khả năng tự chủ. Không dùng hết khả năng vào công việc phòng thủ. Không vận động được dư luận thế giới và đồng minh. Bị đồng minh Hoa Kỳ và thế giới bỏ rơi và chính nhân dân miền Nam cũng bỏ rơi cuộc chiến. Cho đến khi cả chính quyền và nhân dân miền Nam mất nước mới biết là mất tất cả. 
 

4) Nhng cuc chiến sau chiến tranh.  
Khi miền Bắc chiếm được miền Nam, hàng trăm ngàn chiến binh bị tù đầy, hàng triệu người miền Nam trở thành dân “Ngụy.” Lúc đó mới bừng tỉnh và tham dự vào hai cuộc chiến sau chiến tranh.  Cuộc chiến trong tủ đầy chiến đấu để tồn tại, và không bị khuất phục. Cuộc chiến của người dân bên ngoài tiếp tục chịu đựng phấn đấu đểnuôi tù và toàn dân tìm đường vượt thoát. Trong chiến tranh, hàng trăm ngàn chiến binh cộng sản đã được miền Nam Chiêu Hồi. Sau cuộc chiến, hàng trăm ngàn chiến binh VNCH bị tù đầy. Dù bịtuyên truyền và bỏ mặc đói rét. Dù bị hành hạ lao động khổ sai. Dù tuyệt đường tương lai, vô hy vọng có ngày tự do, nhưng tuyệt nhiên không hề đầu hàng cộng sản. Không một ai trở thành cộng sản. Đó là chiến thắng sau chiến tranh.Trong chiến tranh, đa sốdân miền Nam vẫn sống trong thanh bình tại các đô thị. Sau chiến tranh bắt đầu cuộc sống phải chiếu đấu khi được kẻ thù “Giải phóng” Đây là lúc toàn dân miền Nam tham gia chiến dịch chiến đấu để đào thoát. Cuộc chiến dành cho tất cả mọi người tham dự. Người già, em bé. Nam phụ lão ấu cùng tìm đường vượt biên. Đàn bà có bầu và trẻ sơ sinh. Tu sĩ và thầy chùa. Các nông dân và các giáo sư, bác sĩ. Trên đường tìm tự do đã hy sinh hàng trăm ngàn người. Tù đầy, sóng gió và hải tặc. Mọi người dù thất bại năm mười lần vẫn tiếp tục lên đường. Đó là cuộc chiến sau chiến tranh.
 

5) Ý nghĩa ca chiến thng:      
Kết quả ngày nay phe chiến thắng trở thành lũ độc tài đảng trị trăm lần tham nhũng, bất công. Kết quả ngày nay sau khi cả ngàn ngôi mộ hoang nằm lại trên các trại tù cải tạo và hàng trăm ngàn người vượt biên nằm dưới đáy biển. Đây mới là lúc luận bàn thắng bại trong chiến tranh Việt Nam. Nếu ngày nay, sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam trởthành quốc gia dân chủ tự do không cộng sản. Việt Nam trở thành một con rồng châu Á như Nam Hàn, Singapore, Hồng Kông, Đài Loan..Dân Việt Nam từ Bắc vào Nam đều sống trong tự đó hạnh phúc. Dân trí mở mang, các tệ trạng xã hội được giải quyết. Không kỳ thị về chính trị và tôn giáo. Không quá cách biệt giầu nghèo. Người dân Việt được kính trọng trên 5 châu 4 bể.  Được như vậy thì sự thất bại của Nam Việt Nam cũng là chuyện đáng cam chịu. Được như vậy thì cuộc chiến thắng của miền Bắc mới là điều cho Hoa Kỳ và chúng ta cần học hỏi. Nhưng Việt Nam ngày nay là nước độc tài đảng trị, tham nhũng và bị cả thế giới coi thường. Cuộc chiến thắng do đó trở thành vô nghĩa. Mọi hy sinh của người miền Bắc đều trởnên vô nghĩa. Và những tổn thất của miền Nam cũng như sự hy sinh của Hoa Kỳ vẫn muôn đời là những ghi dấu vô cùng cay đắng. Không, chúng ta không thể kết luận là Hoa Kỳ đã chiến thắng trong chiến tranh Việt Nam. Chỉ có thể nhận định rằng Miền Bắc đã chiến thắng trong một cuộc chiến nhưng không đem lại hạnh phúc cho toàn dân.

Riêng tại Hoa Kỳ, không có ai làm phim chiến thắng cho những người bại trận. Không bao giờ có vòng hoa cho người chiến bại. Sau chiến tranh Đông Dương, đại diện Khmer Đỏ với bàn tay diệt chủng giết cả triệu dân bước vào diễn đàn Liên Hiệp Quốc với những tiếng vỗ tay vang dội. Tiếp theo, tiếng vỗ tay lại vang dội nhiều hơn khi đại diện Hà Nội trở thành hội viên chính thức với thành tích đánh thắng 2 đế quốc Pháp và Mỹ. Sau gần nửa thế kỷ, dù thiên đàng Sô Viết đã tan rã, Việt Nam thống nhất đã biến hình ảnh những người nữ dân quân anh hùng trở thành nạn nhân nô lệ tình dục khắp Đông Nam Á. Trong chiến tranh, dù ở bên này hay bên kia, chỉ những người chết mới là người thua cuộc. Nhân chứng không phải là sự thực. Lời bình luận không phài là sự thực và ngay cả những thước phim cũng không phải là sự thực. Dù là phim tài liệu Vietnam War trị giá 30 triệu mỹ kim, 10 năm sưu tầm kéo dài 18 giờ qua 10 phim tập. Sự thực đã chôn vùi cùng những người lính trẻ ở cả hai bên chiến tuyến.

—   

Giao Chi San Jose.   giaochi12@gmail.com  (408) 316 8393

Phim “The Vietnam War” Gây Khó Chịu Cho Người Miền Nam Việt Nam – VBF

Phim “The Vietnam War” Gây Khó Chịu Cho Người Miền Nam Việt Nam – VBF

September 23, 2017

Phim “The Vietnam War” đang được quảng bá khắp nước Mỹ. Chủ đề đang rất “hot” với Tết Mậu Thân, nhưng người Nam Việt Nam đang bực. Họ bị giết hại rất nhiều nhưng lại chỉ được nhắc đến qua loa.

Hình ảnh này đã không được nói đến trong phim tài liệu “The Vietnam War”. Trong hình, người dân tại Huế đang mang ra ngoài những thi hài được tìm thấy từ một mồ chôn tập thể. Trong cuộc thảm sát Tết Mậu Thân 1968 tại Huế, Việt Cộng đã giết từ 3,000 đến 6,000 thường dân. Mồ chôn tập thể thứ nhất tìm thấy được tìm ngay sau khi Quân Lực VNCH chiếm lại Huế. Mồ này có hơn 1,100 xác người mà trong đó hai vị linh mục và hai sư huynh Dòng Lasan.

Về loạt phim tài liệu The Vietnam War đang được quảng cáo rầm rộ trên khắp nước Mỹ và chiếu trên đài truyền hình PBS từ cuối tuần qua, một độc giả gốc Việt đã gởi thư đến nhật báo The Washington Post và nêu ý kiến vắn tắt về những gì mà ông đã xem qua. Thư của ông Nguyễn Dương từ thành phố McLean, Virginia đã được báo Washington Post đăng trên mục Ý Kiến (Opinion) ngày thứ Tư, 20 tháng Chín, 2017. Lược dịch như sau kèm nguyên bản tiếng Anh.

Phía Miền Nam Việt Nam ở đâu?

Tôi đã đọc qua nhiều bài viết về phim tài liệu “The Vietnam War” của ông Ken Burns được chiếu trên đài PBS, kể cả bài luận văn của ông Mark Atwood Lawrence, “Cuộc chiến Việt Nam nhìn qua cuộc đời của những người bị ảnh hưởng do nó gây ra”, đăng ngày 17 tháng Chín.

Và tôi đi đến kết luận rằng người Mỹ chỉ chú trọng đến quan điểm của họ và của đối thủ của họ là chế độ Cộng Sản Hà Nội. Những nạn nhân vô tội tại Miền Nam Việt Nam chỉ là chuyện bên lề. Vụ tàn sát tại Mỹ Lai đã giết chết vài trăm người và được đưa lên tầm mức xấu hổ quốc gia của Mỹ, trong khi vụ thảm sát tại Huế (khoảng 6,000 người dân Miền Nam bị Việt Cộng sát hại, một số người bị chôn sống, kể cả ba giáo sư y khoa Đức và một người vợ của một trong ba người này) thì chỉ được nhắc sơ qua.

Điều đó có công bình không? Quan điểm của người Miền Nam Việt Nam ở đâu?

Sau đây là thư tiếng Anh của ông Nguyễn Dương:

Where is the South Vietnamese side?

Reading the many reviews about Ken Burns’ “The Vietnam War” PBS series, including Mark Atwood Lawrence’ s Sept. 17 Outlook essay, “Vietnam War through the lives of those profoundly shaped by it,”

I came to the conclusion that Americans care only about their side and their enemy, the communist regime of Hanoi. The innocent South Vietnamese civilian casualties are only a bystander story. The My Lai massacre of a few hundred Vietnamese civilians was elevated to a national disgrace, while the Hue massacre (about 6,000 South Vietnamese civilians killed, some buried alive, including three German medical professors and ones wife) was barely mentioned.

Is that fair? Where is the South Vietnamese side?

Duong Nguyen, McLean

httpv://www.youtube.com/watch?v=PuIDF2kExhg

Tiết lộ của một Việt kiều về điều hay nhất của nước Mỹ

 From facebook:  Chanh Dang

Tiết lộ của một Việt kiều về điều hay nhất của nước Mỹ

Nước Mỹ không phải thiên đàng, nhưng cũng không phải địa ngục. Nước Mỹ hay nhất thế giới ở chỗ chấp nhận những người đến đây làm việc, cố gắng, cần cù.

Thấy tôi du lịch khắp nơi, nhiều bạn tưởng tôi nhiều tiền. Sự thật tôi chỉ là một người Mỹ trung bình. Thời tuổi trẻ tôi làm việc hùng hục như người Mỹ. Làm việc nhiều, đóng thuế nhiều, để dành nhiều.

Ngày già, tôi cũng như nhiều người Mỹ thuộc giới trung lưu, có lợi tức khả quan, lãnh mỗi tháng đến chết. Những người Việt Nam không may mắn đến đây lúc tuổi già, lãnh tiền nhân đạo mỗi tháng 500-600 đô la đem về Việt Nam sống là vua rồi. Người Mỹ trung bình lương hưu trí nhiều hơn vậy nên cuộc sống đáng sống lắm.

Đầu tháng 5 năm 1975, chúng tôi đã đến New York, theo phái đoàn nhân viên ngân hàng Chase Sài Gòn. Lúc đó, báo chí Mỹ như tờ “The New York Times” đều đăng tin. Mỗi gia đình nhân viên Chase Sài Gòn được một gia đình chức sắc Chase New York nhận về giúp đỡ một thời gian. Lúc chúng tôi hiểu rõ hơn về đời sống ở Mỹ, và thoải mái phần nào với tiếng Mỹ, chúng tôi được ra riêng, dọn về khu phố nhiều người Việt Nam sống.

Ưu điểm của người Việt ở Mỹ là cần cù, cố gắng làm việc, tinh thần trách nhiệm, làm việc hết mình, không so đo, cải cọ hay bực bội với sếp hay đồng nghiệp. (Ảnh minh họa)

Lúc chúng tôi ra riêng, ở khu tôi ở có một vài gia đình người Việt Nam cũng mới đến đây như tôi. Sống chung với đồng hương trong xóm cũng hay lắm. Thỉnh thoảng, ngày nghỉ đi chợ, nghe họ nói tiếng Việt với nhau, tôi thấy trong lòng vui quá, đỡ nhớ nhà.

Thời mới đến, tôi nhớ nhà nhiều lắm. Mỗi lần nghe John Denver ca bản “Country road take me home” (Đường làng ơi, hãy đưa tôi về nhà…) tôi lại khóc tức tưởi, rất buồn. Hoặc mỗi lần nghe Madonna ca bản “Don’t Cry For Me Argentina” (Argentina ơi, đừng khóc cho tôi…), tôi bắt đầu khóc.

Lúc ban đầu, trong xóm tôi ở chỉ có vài gia đình ngân hàng Chase. Nhân viên Chase Sài Gòn được chia làm hai nhóm định cư.

Nhóm có lợi tức cao, gia đình ít con, mướn nhà ở một khu khang trang bên Hoboken, tiểu bang New Jersey, bên kia sông Hudson.

Nhóm có lợi tức thấp, gia đình đông con, mướn nhà ở một khu rẻ tiền hơn ở quận Queens thành phố New York. Gia đình tôi ở khu này, vợ chồng và 4 con ở chen chúc trong căn hộ (apartment) 2 phòng ngủ.

Dần dà người Việt Nam từ từ dọn đến khu tôi ở, vừa rẻ, vừa có sẵn một nhóm Việt Nam, vui lắm. Người Việt tới đông quá, nên tôi thường gọi đây là Xóm Việt Nam. Lúc đó chúng tôi đối xử với nhau như người Việt Nam sống xa quê hương, không phân biệt Công Giáo, Phật Giáo, hay địa phương.

Hoàn cảnh lịch sử làm chúng tôi hiểu nhau hơn, thương nhau hơn, đời sống tinh thần của chúng tôi phong phú hơn. Người Nam nấu ăn món Nam, xong mời bạn bè Bắc và Trung thưởng thức. Ngược lại, tôi cũng được các gia đình Trung và Bắc mời mọc, nên chúng tôi hiểu văn hóa của nhau nhiều hơn, chấp nhận nhau hơn lúc ở Sài Gòn.

Gia đình của tôi sau này là một nước Việt Nam nho nhỏ. Con rể của tôi là người Bắc Hà Nội di cư. Dâu của tôi người Huế, chưa bao giờ biết Sài Gòn. Đặc biệt gia đình bên dâu của tôi gốc người Hoa (người Việt gốc Hoa). Đúng như một người nào đó nói, Mỹ là một “melting pot (nồi lẩu), một nơi hóa giải mọi khác biệt màu da, chủng tộc, và địa phương.

Nhờ sống chung với nhau trong xóm, nên chúng tôi ủng hộ tinh thần lẫn nhau, mạnh dạn bắt đầu lại. Chúng tôi cùng chung hoàn cảnh, nên hiểu nhau, chia sẻ kinh nghiệm với nhau, nên mặc dầu sống dưới đáy xã hội, chúng tôi cũng chịu được. Ai cũng cố gắng tìm việc làm, ai cũng có gắng gởi thùng đồ về cho gia đình bên Việt Nam bán lại.

Sống trong xóm Việt Nam vui lắm. Lúc đó trong xóm có hai bà, một bà đui và một bà què. Bà đui cõng bà què đi chợ, nói chuyện tiếng Việt inh ỏi, ngồi uống cà phê ngó ra cửa sổ nhìn cảnh tượng này, tôi thấy thương người Việt Nam mình vô cùng.

Nhờ sống gần nhau, nên mỗi dịp cuối tuần, các bà bày ra nấu ăn món này món kia, thí nghiệm cách dùng “ingredient” (nguyên liệu) tìm được ở chợ Mỹ, để biến chế nấu nướng các món ăn Việt Nam. Đây là một kỹ năng quí giá, ai học được, hay nói đúng hơn khám phá ra được cách nấu, truyền thụ và chia sẻ với các bạn trong xóm, nên cuộc đời dễ chịu lắm. Ở Mỹ mà còn ăn được thức ăn Việt Nam, lúc đó quý lắm.

Gần xóm tôi ở có một nhà thờ Công giáo. Ở đây có một Cha người Việt từ Rome qua sống. Nhờ ông tổ chức thỉnh thoảng người Việt Nam gặp nhau, ăn cơm Việt, ca hát tiếng Việt. Tinh thần Việt Nam trong xóm nhờ vậy đỡ cô đơn, sống lây lất qua ngày mấy năm. Mỗi lần tổ chức như vậy, vợ tôi nấu nướng một số thức ăn đem tới, con tôi tham gia văn nghệ giúp vui, cuộc sống như vậy cũng bận rộn, nếu không muốn nói là vui.

Tôi bận rộn nhiều, vừa học vừa đi làm. Cuộc đời chỉ dễ thở khi tôi dứt khoác với quá khứ dạy học, viết văn, làm sách ở Sài Gòn, để học MBA chuyên môn về vi tính áp dụng trong thương mại. MBA là Master of Business Administration (Thạc sĩ quản trị kinh doanh). Hơn 35 năm trước, Phố Wall cần tự động hoá (automation), nên những người như tôi dễ kiếm việc làm lắm. Cuộc đời tôi thay đổi từ đó.

“Tôi thấy nhiều bạn hiểu sai về xã hội Mỹ. Nhiều bạn nói đến Mỹ không cần làm gì cả, cuối tháng Obama liệng tiền qua cửa sổ cho bạn xài” (Ảnh minh họa)

Các bạn trẻ muốn tới Mỹ học hoặc làm việc, các bạn có biết ưu điểm và điểm yếu của người Mỹ gốc Việt là gì không? Ưu điểm của chúng ta là cần cù, cố gắng làm việc, tinh thần trách nhiệm, làm việc hết mình, không so đo, cãi cọ hay bực bội với sếp hay đồng nghiệp.

Ưu điểm của người Mỹ gốc Việt thế hệ tôi ra đi năm 1975, là chúng tôi đã có sẵn một mớ kiến thức đại học, nên dễ dàng học lại ở Mỹ. Học xong MBA, tôi còn học thêm nhiều “Advanced Certificate” về Tài Chánh (Finance) và Business Economics (Kinh tế học áp dụng trong quản trị xí nghiệp) v.v.., nên khả năng chuyên môn được quý trọng ở Phố Wall lúc đó.

Ở Mỹ nếu các bạn tìm được việc làm đúng khả năng, lương bổng ở đây thoải mái lắm. Làm việc ở Phố Wall vài năm, lần vui nhất là tôi được hãng Consultant (Cố vấn, chuyên viên) nơi tôi làm việc thưởng một chuyến du lịch Âu Châu cho vợ chồng. Lúc đó họ nói là tặng chúng tôi “A trip for two” (một chuyến du hành cho 2 người), hay lắm.

Từ đó cuộc đời tôi đã đổi khác. Thú vui du lịch, đi, thấy, và hiểu thế giới bao la ngoài Việt Nam và Mỹ, bắt đầu nảy nở từ chuyến đi này. Từ Mỹ tôi bay qua London thăm viếng thành phố này, sau đó đi Pháp, Bỉ, Tây Đức, Áo, Ý Đại Lợi, và Paris, sau đó bay trở về Mỹ. Thật là một chuyến du hành mở mang kiến thức về thế giới.

Bây giờ nghĩ lại tôi thấy nước Mỹ không phải thiên đàng, nhưng cũng không phải địa ngục. Nước Mỹ hay nhất thế giới ở chỗ chấp nhận những người đến đây làm việc, cố gắng, cần cù.

Đặc biệt, họ rất đãi ngộ những chuyên viên giúp đất nước này khá hơn. Các bạn nghe nói nhiều về một vài người Việt Nam thành công ở Mỹ, giàu có, tiếng tăm, quyền lực.

Tôi chỉ là một người Mỹ trung bình, không quyền lực, không tiếng tăm, không giàu có nhưng tôi cũng sống được tự do như mọi người. Đó là điểm son của xã hội Mỹ.

Đọc blog các bạn, tôi thấy nhiều bạn hiểu sai về xã hội Mỹ. Nhiều bạn nói đến Mỹ không cần làm gì cả, cuối tháng, Tổng thống Obama liệng tiền qua cửa sổ cho bạn xài. Cứ ở không tha hồ đi chơi, ở Mỹ ăn mì gói, để dành tiền về Việt Nam làm Vua.Thật tình ở Mỹ, nếu các bạn ở không các bạn cũng sống được, nhưng không huy hoàng và đáng sống bằng người cố gắng làm việc.

Người Mỹ trả lương theo khả năng. Nếu các bạn có bằng kỹ sư mà người Mỹ cần, họ có thể trả bạn trung bình $60,000 lúc mới ra trường, từ đó đi lên.

Ở đây các bạn không cần tham nhũng, ức hiếp dân lành, cũng đủ tiền sống cuộc đời đáng sống. Cháu tôi đang học đại học năm tới ra trường. Mùa hè vừa qua cháu làm việc, lương tương đương với một người $60,000 một năm.

Lê Thanh Hoàng Dân (người Việt sống ở Mỹ từ năm 1975 đến nay)

Theo tinnuocmy.com

LS. Nguyễn Thị Thúy – Viện trưởng gốc Việt đầu tiên tại đại học Hoa Kỳ

Thanh Trúc, phóng viên RFA

 
Đại Học Cộng Đồng Foothill College tiểu bang California, Hoa Kỳ.

Đại Học Cộng Đồng Foothill College tiểu bang California, Hoa Kỳ.

Hình do Luật sư Nguyễn Thị Thúy cung cấp
 
 

Foothill College là một trong những Đại Học Cộng Đồng  của tiểu bang California, liên tục 3 năm qua được báo Chronicle of Higher Education đánh giá là trường Đại Học Cộng Đồng uy tín và có chất lượng giáo dục cao.

Thành công của người Mỹ gốc Việt

Ngày 1 tháng Bảy vừa qua, Đại Học Cộng Đồng Foothill chính thức có một viện trưởng người Mỹ gốc Việt, bà Nguyễn Thị Thúy.

Luật sư Nguyễn Thị Thúy đã vượt qua ba ứng viên khác để trở thành viện trưởng người Mỹ gốc Việt đầu tiên tại một trường đại học ở California nói riêng và trên toàn nước Mỹ nói chung.

Luật sư Nguyễn Quốc Lân, ủy viên giáo dục, Hội Đồng Giáo Dục học khu Garden Grove, Nam California, chia sẻ:

Việc bổ nhiệm luật sư Nguyễn Thị Thúy vào chức vụ viện trưởng một viện đại học lớn như vậy phản ảnh khả năng đặc biệt của luật sư Thúy cũng như sự trưởng thành của cộng đồng Việt Nam nói chung về phương diện giáo dục.

Là một người tị nạn, một thuyền nhân, đến định cư tại Hoa Kỳ trong hoàn cảnh khó khăn như bao người Việt Nam nhưng  luật sư Thúy đã thành công từ những trường đại học lớn . Cô đã quay trở lại, dùng khả năng chuyên môn của mình để đấu tranh cho quyền lợi, không những của người Việt Nam mà cho những người thiểu số thấp cổ bé miệng. Nhờ sự hiểu biết như vậy luật sư Thúy mới được tin tưởng và được bổ nhiệm những chức vụ cố vấn cho trường đại học cũng như hiện nay là chức vụ viện trưởng như vậy.

Đặc biệt khi bổ nhiệm thì trường đại học cũng muốn luật sư Thúy có thể hướng dẫn sinh viên giáo sư ở đó vươn lên, đưa đại học này đến một đỉnh cao hơn trong lãnh vực giáo dục.

Từ Bắc California, tiến sĩ Judy Miner, hiệu trưởng tiền nhiệm của Foothill College trước khi luật sư Nguyễn Thị Thúy nhậm chức, cho biết việc tuyển chọn khởi sự từ năm 2015 và là một tiến trình không đơn giản:

Việc bổ nhiệm luật sư Nguyễn Thị Thúy vào chức vụ viện trưởng một viện đại học lớn như vậy phản ảnh khả năng đặc biệt của luật sư Thúy cũng như sự trưởng thành của cộng đồng Việt Nam nói chung về phương diện giáo dục. 
– Luật sư Nguyễn Quốc Lân 

Tiến trình tuyển chọn có sự tham dự của những ủy viên đại diện sinh viên các cấp, các học giả chuyên môn, các nhân viên hành chín hvà cả những người đại diện cộng đồng.

Điều tôi thấy được rõ nhất là sự hào hứng và đồng tình trong việc tuyển chọn luật sư Nguyễn, một trong ba finalists, vào chức vụ viện trưởng của Đại Học Cộng Đồng Foothill. Tôi quen  luật sư Nguyễn nhiều năm nay, với tôi cô ấy là người có đức, có tài lãnh đạo, một người tận tụy với công việc. Tôi thật hài lòng khi biết cô ấy nộp đơn vào chức vụ viện trưởng hầu có thể mang tài năng của mình phục vụ cho đại học cộng đồng như Foothill College.

Được hỏi về những điều bà kỳ vọng nơi viện trưởng tân cử Nguyễn Thị Thúy, tiến sĩ Judy Miner cho rằng cân bằng việc học và giảm bớt khoảng cách học vấn giữa các cộng đồng thiểu số, làm sao nâng số sinh viên gốc Châu Mỹ La Tinh, đang chiếm đa số trong học khu, lên cao hơn mức 23% hiện tại là  điều mà ban giám hiệu Đại Học Cộng Đồng Foothill tin rằng luật sư Nguyễn Thị Thùy có thể thực hiện được, chưa  kể mong đợi là từng đô la đầu tư mà trường chi ra phải mang lại kết quả tương xứng:

Tôi cũng hy vọng Foothill hấp dẫn người trẻ Việt Nam trong các cộng đồng Mỹ gốc Việt quanh đây khi trường có một viện trưởng tiêu biểu và gương mẫu như luật sư Thúy. Tôi đã tiếp xúc với khá nhiều người Mỹ gốc việt trong vùng, tôi thấy họ có vẻ phấn khởi khi Foothill có một vị nữ hiệu trưởng gốc Việt Nam mà theo tôi biết thì  trước giờ cả California và cả nước Mỹ chưa bao giờ có. Chúng tôi hãnh diện vì Thúy Nguyễn đã chọn trường chúng tôi và cho chúng tôi cơ hội tuyển chọn cô.

Muốn giúp cộng đồng thiểu số

MinerNguyen2016(web).jpg-400.jpg
Bà Nguyễn Thị Thúy (phải), viện trưởng tân cử Đại Học Cộng Đồng Foothill, và viện trưởng tiền nhiệm, tiến sĩ Judy Miner. Hình do LS Nguyễn Thị Thúy cung cấp. Bà Nguyễn Thị Thúy (phải), viện trưởng tân cử Đại Học Cộng Đồng Foothill, và viện trưởng tiền nhiệm, tiến sĩ Judy Miner. Hình do LS Nguyễn Thị Thúy cung cấp.

Foothill Community College là Đại Học Cộng Đồng nổi tiếng của vùng Silicon Valley, San Francisco, San Jose và Oakland Bay Area. Liên tục trong ba năm, trường Foothill được Chronicle of Higher Education, tờ báo uy tín về giáo dục ở địa phương, đánh giá cao về học trình cũng như chất lượng giảng dạy tốt, đặc biệt những chương trình học gọi là online classes.

Ngày 1 tháng Bảy cũng là ngày đầu tiên tôi nhận chức vụ viện trưởng của trường Đại Học Foothill. Là viện trưởng Mỹ gốc Việt đầu tiên nên đó cũng là niềm hân hạnh cho tôi với gia đình tôi. Đại Học Foothill là một trường được nhiều phần thưởng hạng nhất hạng nhì của nước Mỹ trong tất cả các Đại Học Cộng Đồng về mọi môn. Foothill có hơn 13.000 sinh viên, có hơn 300 nhân viên và thầy cô. Trong hơn 13.000 sinh viên mỗi năm thì khoảng 5% là sinh viên Mỹ gốc Việt.

Từ năm 3 tuổi, cô bé Nguyễn Thị Thúy cùng gia đình vượt biên và đến Mỹ năm 1978. Năm 14 tuổi, cô là học sinh xuất sắc của trung học Castlemont của thành phố Oakland. Tốt nghiệp thủ khoa từ Castlemont High, Nguyễn Thị Thúy vào đại học Yale chuyên ngành triết học, tiếp đến văn bằng  Luật tại UCLA Đại Học California ở Los Angeles.

Thoạt đầu, luật sư Thúy kể, là bà muốn trở thành bác sĩ, nhưng khi  dấn thân vào những sinh hoạt cộng đồng bà chợt nhận ra ngành Luật có lẽ thích hợp với cá tính của mình hơn:

Đặc biệt là đòi hỏi những quyền lợi cho những cộng đồng thiểu số. Nước Mỹ là một nước có cơ hội, trọng người tài,  ai cũng có thể có cơ hội học hành để tiến thân được hết.

Đặc biệt là đòi hỏi những quyền lợi cho những cộng đồng thiểu số. Nước Mỹ là một nước có cơ hội, trọng người tài,  ai cũng có thể có cơ hội học hành để tiến thân được hết. 
– Luật sư Nguyễn Thị Thúy 

Nhưng cái đẹp đó cũng đòi hỏi rất nhiều, trong đó cái đòi hỏi của những cộng đồng thiểu số có cơ hội để vươn lên. Tôi làm luật sư vì tôi muốn giúp cộng đồng thiểu số. Trong cả 13 năm làm việc thì tôi có nhiều vai trò, một trong những vai trò đặc biệt là làm luật sư chính gọi là General Counsel của một số cơ quan trong Đại Học Cộng Đồng. Và chức vụ mới đây là luật sư chính Interim General Counsel của hệ thống Đại Học Cộng Đồng tiểu bang California ở Sacramento.

Khi tôi làm luật sư cố vấn cho một cơ quan của Đại Học Cộng Đồng vùng Oakland thì tôi thấy chỉ khoảng chừng 20% luật sư tại Cali là người thiểu số mà tiểu bang lại hơn 60% là người thiểu số. Trong vai trò cố vấn luật tôi cảm thấy nên làm sao để khuyến khích chỉ dẫn học sinh thiểu số để các em muốn đi đường luật để làm luật sư. Vì đó mà tôi làm việc với State Bar, cơ quan cai quản các luật sư ở tiểu bang.

Trong thời gian đó, luật sư Nguyễn Thị Thúy đã tiếp xúc và làm việc với 6 trường luật ở California, trở thành người sáng lập và chủ tịch California L.A.W Pathway, một tổ chức vô vị lợi:

Thì trong chương trình có 29 trường Đại Học Cộng Đồng ở Cali, 6 trường undergrade và 6 trường luật ký một hợp đồng để giúp các học sinh đi vào đường luật.

Chiều dài hoạt động và bề dày kinh nghiệm như vậy khiến luật sư Nguyễn Thị Thúy dễ dàng trúng tuyển chức vụ viện trưởng Đại Học Cộng Đồng Foothill.

Về áp lực và  thử thách khi đảm nhận chức viện trưởng Foothill College,  luật sư Thúy nói:

Trước đó thì mình cố vấn những viện trưởng khác và có một thời gian tôi là giám đốc điều hành của Liên Đoàn Đại Học Cộng Đồng California, cơ quan đó đặc biệt giúp tranh đấu cho ngân khoản. Trong việc làm đó thì tôi được hiểu biết rất nhiều về những đòi hỏi của các trường học, các học sinh, các nhân viên  vân vân…

Nhưng bây giờ trong vai trò viện trưởng tôi có cơ hội giúp đỡ sinh viên một cách trực tiếp hơn. Nói về thử thách trong việc làm của một viện trưởng thì tất nhiên nó nhiều lắm. Chức vụ viện trưởng bao gồm mọi việc liên hệ tới trường, có thể chia làm hai là nội vụ và ngoại vụ.

Nội vụ, như tôi nói, có hơn 13.000  học sinh, có hơn 300 nhân viên, mình phải bảo đảm công tác, việc làm hoàn mỹ cho học sinh, nhiều cái chẳng hạn trường lớp, hệ thống PC, chọn lựa những môn học cho sinh viên có nhu cầu và khi các em ra trường có việc làm. Đó coi như là nội vụ của trường.

Còn ngoại vụ thì cũng nhiều lắm, ví dụ nói chuyện với báo chí như ngày hôm nay, kêu gọi những lãnh đạo trong cộng đồng, chú ý về ngân khoản hoặc cho tiền, sách cho các sinh viên. Ngoại vụ cũng là một trong những khó khăn trong việc làm của một viện trưởng.

Tiếng Việt còn thì nước còn…”

Untitled-1.jpg-400.jpg
Luật sư Nguyễn Thi Thúy (thứ tư từ trái) cùng các nhân viên của trường Foothill College. Hình do LS Nguyễn Thị Thúy cung cấp. Luật sư Nguyễn Thi Thúy (thứ tư từ trái) cùng các nhân viên của trường Foothill College. Hình do LS Nguyễn Thị Thúy cung cấp.

Đối với học sinh sinh viên Việt Nam, đã tốt nghiệp trung học ở Mỹ hoặc  mới từ Việt Nam sang, lựa chọn vào Community College  Đại Học Cộng Đồng nhiều phần là một quyết định  hợp lý do tiền học phí thấp. Luật sư Nguyễn Thị Thúy giải thích:

Và phần đông học sinh Mỹ gốc Việt được Financial Aid trợ cấp tài chính. Thứ nữa mình cứ nghĩ các em sẽ giỏi môn này môn kia nhưng thực sự các em cần học bổ túc, cần những giáo sư có thể dạy các em được. Nhiều sinh viên di dân nếu không vững tiếng Anh thì có thể đến với Đại Học Cộng Đồng, vì vậy Đại học Cộng Đồng có nhiều di dân từ mọi nước đến học. Đó là một trong những ví dụ để sinh viên người Mỹ gốc Việt có cơ hội tiến thân. Đặc biệt từ  Foothill College vẫn có cơ hội chuyển qua đại học Stanford hoặc UC Berkeley nếu các em muốn đi.

Tại Hoa Kỳ, thống kê mới đây nhất của Hội Đồng Giáo Dục Mỹ Châu cho thấy con số viện trưởng gốc Á tại các đại học 2 năm hoặc 4 năm chỉ vào khoảng 1,5% mà thôi, bà Nguyễn Thị Thúy là khuôn mặt phụ nữ Mỹ gốc Việt trong số hiếm hoi đó.

Điểm thú vị là năm 2000, cô sinh viên Luật Nguyễn Thị Thúy từng là đồng tác giả quyển sách Anh ngữ “25 Vietnamese Americans in 25 Years”, “25 Chân Dung Mỹ Gốc Việt Trong 25 Năm”. Đây có thể được coi là một trong những quyền sách đầu tiên nói về sự thành công của người Việt ở Hoa Kỳ:

Tưởng niệm ngày 30 tháng Tư thì báo chí phần đông đều nói về chiến tranh Việt Nam, cái đó cũng quan trọng nhưng   cũng nên nói về người Việt Nam ở Mỹ. Nên khi 25 năm tới thì tôi cảm thấy mình phải viết một quyền sách để nói về những đóng góp của cộng đồng Việt Nam cho nước Mỹ. Quyển sách đó phỏng vấn 25 người Mỹ gốc Việt, đặc biệt nói lên cái tiểu sử của người Việt Nam tại nước Mỹ. Tôi hân hạnh được 70 bạn trẻ cùng với tôi, lúc đó tôi còn học trường Luật, ra cuốn sách này. Hiện tại quyền sách đang ở Library Congress, Thư Viện Quốc Hội, ở Washington DC.

Biết một ngôn ngữ khác, đặc biệt ngôn ngữ của mình, là có nhiều cơ hội cho mình tiến thân.  
– Luật sư Nguyễn Thị Thúy 

Cô cũng là người nói tiếng Việt trôi chảy không thua tiếng Anh là ngôn ngữ cô học cũng như giao tiếp hàng ngày:

Đến Mỹ lúc 3 tuổi nhưng làm sao tôi biết tiếng Việt? Tác giả Phạm Quỳnh từng nói “Tiếng Việt còn thì nước còn, tiếng Việt mất thì nước mất, cái mất đó không sao vãn hồi lại được.”

Bố mẹ tôi thấy rất quan trọng cho tôi nói tiếng Việt, bố mẹ cho đi học trường Giáo lý Việt ngữ. Gia đình tôi cũng thích xem phim bộ Tàu với Đài Loan dịch ra tiếng Việt, những  phim đó lại bổ túc thêm vào tiếng Việt của tôi. Đặc biệt nữa là tôi thích nghe nhạc Việt. Nhạc Việt rất sâu sắc rất tình cảm. Tôi cứ chạy nhạc rồi viết những chữ xuống, coi như tập chính tả luôn.

Đó là lý do tại sao hôm nay  tôi có thể nói tiếng Việt đến cộng đồng Việt Nam. Biết  một ngôn ngữ khác, đặc biệt ngôn ngữ của mình, là có nhiều cơ hội cho mình tiến thân.

Đó là luật sư Nguyễn Thị Thúy, viện trưởng gốc Á đầu tiên của Đại Học Cộng Đồng Foothill, cũng là người Mỹ gốc Việt đầu tiên  được chọn vào chức vụ hiệu trưởng một trường đại học trên toàn nước Mỹ.