S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Chết không nhắm mắt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Báo Đàn Chim Việt

Tôi tình cờ “nhặt” trên FB một tác phẩm khá độc đáo của Marc Riboud. Ông “chớp” được cảnh một anh bộ đội (với con búp bê nằm dưới nắp ba lô, và cái sắc cầm tay) đang trên đường trở về quê cũ.

Cùng với bức ảnh là lời bình, cũng độc đáo không kém, của FB Nguyễn Hoàng : “Thằng này coi vậy mà hiền, chỉ lấy con búp bê cho con và cái bóp đầm cho vợ mà thôi.”

Thằng chả hiền thiệt chớ. Cái ba lô xẹp lép hà. Ngó thấy mà thương. Là kẻ cầm súng, thuộc phe thắng trận, đương sự có thể thu góp được chiến lợi phẩm nhiều hơn thế.

Bên thua cuộc, rõ ràng, không mất mát chi nhiều mà Bắc/Nam đã được “nối vòng tay lớn” – theo như cách nói của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn. Rồi ra, tác giả còn dự tưởng, sẽ có những đoàn tầu thống nhất “toả khói trắng hai bên đường,” những đám “trẻ thơ đi hát đồng dao” khắp ngõ, và “mọi người ra phố mời rao nụ cười.”

Họ Trịnh, có lẽ, thực lòng tin tưởng như thế. Niềm tin của ông cũng được không ít người cùng thời chia sẻ. Sự thực, tiếc thay, khác thế. Sau ngày “Nam/Bắc hoà lời ca” thì nụ cười gần như biến mất trên môi của mọi người dân Việt.

Dù thuộc bên thắng cuộc, những bộ đội phục viên cũng không hề được hân hoan cười đón khi họ trở về :

“Tôi đã được chứng kiến cảnh hẫng hụt của nhiều người khi họ … ngơ ngác tìm kế sinh nhai, đã không ít người đòi đảng, chính quyền cơ sở phải chia ruộng đất cho họ, và tất nhiên đảng, chính quyền không thể moi đâu ra ruộng đất để cho họ cày, cực chẳng đã, nhiều người đã trực tiếp đòi ruộng cha ông mà ngày trước họ đã góp vào hợp tác xã, không ít người đã tự ý đi cày ruộng cha ông của mình, thế là … họ được quy là công thần gây rối, chống lại đường lối của đảng, nhà nước, kết cục có người bị đuổi ra khỏi đảng, có người bị bắt lên xã, lên huyện tạm giam để xử lý vì đã ngang nhiên lấn chiếm đất đai của nhà nước đã giao cho người khác.” (Vi Đức Hồi – Đối Mặt, Chương II).

Đoạn hồi ký thượng dẫn giúp cho độc giả hiểu tại sao vỉa hè Hà Nội lại đông đảo những người làm nghề cửu vạn. Họ sống ra sao?

“Mỗi tối thuê cái chiếu nằm gầm cầu, có tiền bạc của nả thì gối đầu, giắt lên ngực. Bốn bên lủng củng người nằm, nói anh bỏ lỗi, nó đéo nhau huỳnh huỵch rồi lại chửi nhau, quát nhau to tiếng hơn ô tô chạy ngoài đường.” (Tô Hoài. Chiều Chiều. Phương Nam, Hà Nội: 2014).

Giữa Thủ Đô Của Lương Tâm Nhân Loại mà trải chiếu “đéo nhau huỳnh huỵch” thì (ngó) cũng hơi khó coi. Tuy thế – và được thế – vẫn hơn hẳn nhiều bạn đồng đội (không may) khác, đang “nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng.”

Hạnh phúc hay đau khổ (nghĩ cho cùng) chỉ là sự so chiếu, và mọi so chiếu đều tương đối cả. Nói chi đến những người lính vô danh, ngay cả một nhân vật tiếng tăm cỡ như thi sĩ Tế Hanh (“từng là ủy viên ban chấp hành hoặc thường vụ Hội Nhà Văn VN, từng mười năm liền phụ trách đối ngoại của hội, từng có chân trong ban phụ trách nhà xuất bản Văn học”) đến cuối đời cũng đành chép miệng : “Trải qua hai cuộc chiến tranh mình còn được sống, được làm thơ, còn may mắn hơn khối người khác, thế là được rồi.” (Vương Trí Nhàn. Cây Bút Đời Người. Phương Nam, Hà Nội: 2002).

Vâng, đúng thế. Còn sống là “may mắn hơn khối người” rồi!

Theo thống kê (chắc không khả tín) của Tổng Cục Chính Trị thì đến năm 2012, toàn quốc chỉ có 1.146.250 liệt sĩ và khoảng 600.000 thương binh, trong đó có 849.018 liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ. Wikipedia tiếng Việt cho biết thêm :

“Từ tháng 12 năm 1994 đến hết năm 2001, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phong tặng và truy tặng danh hiệu cao quý cho 44.253 Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng.”

Có bà bị lọt sổ vì không đủ “kiên trinh” nên đã (lỡ) đi thêm bước nữa – theo như tường trình của Tuổi Trẻ Online :

“Chúng tôi đến khi bà Trần Thị M. đang ăn tối ngay trên giường. Bà đã ở trên giường như vậy gần ba năm rồi, kể từ khi đôi chân không còn tự đứng lên được nữa. Ấy thế nhưng khi hỏi đến chuyện xưa, đôi mắt bà sáng lên.

Bà say sưa kể về những ngày hoạt động cách mạng, những ngày tù ngục đòn roi tra tấn, thương tích tới 75% (thương binh hạng 2/4)… Vượt qua được hết, chỉ không chịu nổi mỗi lúc nghe tin chồng, tin con thôi” – bà chợt trầm giọng. Ba lần ‘không chịu nổi’ ấy là vào năm 1962, ông Võ Mười, chồng bà, hi sinh khi bà mới 30 tuổi; năm 1964, con trai út Võ Danh của bà bị bắn chết khi vừa 6 tuổi, đang được giao việc cảnh giới cho các chú cán bộ họp; năm 1971, con trai lớn Võ Thái làm giao liên cho ban binh vận Khu ủy Khu V hi sinh ở tuổi 16.

Còn lại một mình giữa đạn bom, hai lần bị bắt, giam cầm tra khảo ở nhà lao Quảng Ngãi, năm 1974 bà gá nghĩa với một người đồng đội, ông Thái Văn Thới. Chiến tranh vẫn ác liệt, đâu biết mai này sống chết thế nào. Thương nhau, thông cảm hoàn cảnh của nhau thì về với nhau thôi” – bà kể. Ngày 21-2-2014, UBND P.12, Q.Bình Thạnh đã tổ chức cuộc họp để xét duyệt và đề nghị Nhà nước tặng danh hiệu Bà mẹ VN anh hùng cho bà. Phường đã có tờ trình về trường hợp của bà gửi Phòng Lao động – thương binh và xã hội (LĐ-TB&XH) Q.Bình Thạnh, Sở LĐ-TB&XH TP.HCM. Tuy nhiên, sau đó gia đình bà nhận được thông báo bà chưa được lập hồ sơ đề nghị phong tặng danh hiệu Bà mẹ VN anh hùng do đã… tái giá.”

Phải chi cái hồi giao “công tác cách mạng” cho hai đứa nhỏ (6 tuổi và 16 tuổi) mà Nhà Nước cũng xét (nét) kỹ càng như vậy thì đỡ cho mẹ Trần Thị M. biết mấy. Dù sao, vẫn còn có điều an ủi là nhờ đang sống ở thành phố mang tên Bác nên tờ trình về trường hợp của bà cũng đã được gửi tới Sở LĐ -TB&XH TP.HCM và đã được cứu xét (rồi) từ chối!

Có mẹ không nhận được danh hiệu anh hùng chỉ vì lỡ “chui rúc” ở những nơi hoang vu quá. Bên Kia Đèo Bá Thở là một nơi như thế :

“Trên bản đồ quân sự cũng như bản đồ của nha Ðịa Dư không bao giờ có địa danh ‘Ðèo Bá Thở’. Bởi vì đặt cái tên cho ngọn đèo này chính là tôi và một vài người bạn… Ngọn đồi nằm không xa trại giam chúng tôi trong tỉnh Yên Bái. Ngày ngày đội chúng tôi có mười anh em phải băng qua bên kia cái đèo khốn nạn này, tới một khu rừng toàn thị là tre, nứa, giang…

Mấy ngày đầu chúng tôi không chú ý tới cuối dốc bên kia có một cái nhà tranh đã sập. Người chủ căn nhà lấy vài thân tre to, chống cái mái lên, nên mái nhà chạm đất. Tất nhiên trong tình trạng đó nó không có cửa. Chúng tôi đã vài lần đi về ngang đó và tưởng nó đã bỏ hoang, bởi vì trông nó còn thua một cái chòi chăn vịt ở miền Nam.

Một hôm cả bọn chúng tôi thấy trời còn sớm, nên nghỉ lại bên kia dốc một lát trước khi ‘bá thở’. Chúng tôi nghe lục đục trong cái chòi bỏ hoang, và phát giác đuợc một cụ già thật già. Nét mặt bà cụ nhăn nheo hệt như những vết nẻ của ruộng bị hạn hán nhiều ngày.

Bà già có một cặp mắt nâu đục, lờ đờ và đầy rỉ mắt. Bà già mặc một cái áo bông vá chằng vá đụp. Phải gọi đây là cái áo vá trên những miếng vá. Nó nặng dễ chừng đến năm ký chứ không chơi. Chúng tôi gạ chuyện, song tất nhiên bà già biết chúng tôi là tù ‘Ngụy’ nên không hé răng một nửa lời.

Hôm sau trong lúc đốn tre chúng tôi hội ý. Chúng tôi lấy dư ra mỗi ngày vài cây về giấu ở gần căn lều của bà cụ. Ðược vài ngày đủ tre để dựng lại căn lều, chúng tôi để hai người lại sửa còn tám người vào rừng đốn tre cho đủ số lượng của mười người. Chúng tôi cũng cắt tranh về để dậm lại những chỗ quá mục nát. Căn nhà sửa xong, có cửa để chui ra chui vào. Bà già khi đó tự động nói chuyện với tụi tôi :

– Lão có ba đứa con, một đứa đã có giấy tử sĩ, hai đứa kia thì hoà bình lâu rồi, nhưng lão không hề nhận được một chữ của chúng từ ngày chúng đi. Lão mới có giấy mẹ liệt sĩ, mỗi tháng có tiền nhưng chả vào đâu.” (Hoàng Khởi Phong. “Bên Kia Ðèo Bá Thở.” Cây Tùng Trước Bão. Thời Văn, Hoa Kỳ: 2001).

Bà lão hẳn đã qua đời từ lâu. Những người lính thắng trận trên đường về quê (với con búp bê cầm tay) hơn 40 năm trước e cũng không còn mấy ai sống sót. Đám mẹ ngụy và lũ con thua cuộc cũng thế, cũng đều đã lần lượt đi vào lòng đất.

Kẻ Bắc/người Nam, bên thua/bên thắng nên họ đã phải trải qua những hoàn cảnh và kinh nghiệm sống khác nhau. Duy có điều này thì chắc chắc là hoàn toàn không khác: khi họ chết không ai nhắm mắt!

Nhà nước CSVN có chủ trương hòa giải và hòa hợp dân tộc hay không?

Báo Tiếng Dân

Trương Nhân Tuấn

1-5-2023

Đọc một số bài viết trên các trang mạng BBC, VOA, RFA… nhân nói về biến cố 30 tháng 4 năm 1975, ta thấy một số bài có nội dung phê bình việc nhà nước CSVN “nói mà không làm” về chủ trương “hòa giải dân tộc”. Năm nào cũng cũng có những bài viết tương tự như vậy chớ không phải đặc biệt năm nay.

Chuyện này không mới. Trong cộng đồng người Việt tị nạn thì mỗi khi có ai nói về “hòa giải hòa hợp dân tộc” tức khắc người đó bị chụp cho cái mũ “thằng đó Việt cộng”.

Điều này có thể thông cảm vì không thiếu tình trạng những người VNCH cũ quay đầu phục vụ cho CSVN. Những người này tuyên truyền trong cộng đồng người Việt nước ngoài về “chủ trương hòa giảỉ hòa hợp dân tộc” của đảng và nhà nước CSVN.

Sự thật ra sao? Sự thật theo tôi là nhà nước CSVN chưa bao giờ có chủ trương “hòa giải” (hay hòa giải hòa hợp dân tộc) với bất kỳ một đối tượng nào.

Cá nhân tôi nhiều lần rà tới rà lui, “đỏ mắt” đọc toàn bộ 70 năm “văn kiện đảng” cùng với “cả đống” các nghị định, các bộ luật của nhà nước CSVN mà không hề thấy bất cứ một văn kiện nào dính dáng, hay nói về vấn đề “hòa giải”.

Ngoại trừ diễn văn 15-5-1975 của Lê Duẩn – đăng trên báo Nhân Dân ngày 16-5-1975 có nói về “tinh thần” hòa giải hòa hợp dân tộc, nguyên văn như sau:

Với tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, nhân dân đã tỏ rõ lượng khoan hồng đối với tất cả những ai đã lầm đường lối, bất kể quá khứ của họ như thế nào, nay trở về với dân tộc. Miễn là họ thành tâm hối cải, thành tâm mang hết tài năng ra phục vụ Tổ quốc thì vị trí của họ trong lòng dân tộc sẽ được bảo đảm, mọi sự ô nhục mà kẻ tội phạm gây ra là đế quốc Mỹ sẽ được rửa sạch“.

Tôi nhấn mạnh chữ “tinh thần” trong câu “tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc”. “Tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc” khác với “chủ trương” HG&HHDT.

Những gì thuộc “chủ trương của nhà nước” (thí dụ chủ trương của nhà nước về HG&HHDT) thì chủ trương này luôn đi kèm với một hệ thống văn bản, hay một bộ luật (như Luật về Hòa giải quốc gia), để việc thi hành “có giá trị pháp lý ràng buộc”.

Còn “tinh thần” thì diễn giải sao cũng được, không có gì bó buộc hết cả.Tinh thần HG&HHDT của Lê Duẩn là sự khoan hồng đối với những người phục tùng đảng CSVN.

Tôi có thể kết luận (mà không sợ sai lầm) rằng đảng và nhà nước CSVN chưa bao giờ có chủ trương về hòa giải (hay HG&HH DT).

“Hòa giải-réconciliation” là hành vi chỉ có ở những dân tộc văn minh.

Những động tác tuyên truyền của ban kiều vận, thông qua các cá nhân VNCH cũ, có mục đích khoác lên chủ trương “chiêu dụ” của CSVN bộ áo nhân văn mang tên “hòa giải và hòa hợp dân tộc”.

Cá nhân tôi có đặt câu hỏi đến một số tác giả các bài viết liên quan. Không một ai đưa được bằng chứng về sự hiện hữu “chủ trương” hòa giải dân tộc của đảng, hay của nhà nước CSVN.

Một số người đưa bằng chứng là Nghị quyết 36. Theo tôi thấy có sự ngộ nhận.

Nghị quyền 36 về “Công tác đối với người Việt ở nước ngoài”, toàn bộ văn bản không hề có có chữ “hòa giải”. Ngay cả nội dung của nghị quyết 36 cũng không có đoạn nào có nội dung mang ý nghĩa “hòa giải” hết cả.

Bởi vì nội dung Nghị quyết 36 nói về chủ trương “Đại đoàn kết dân tộc”, hiện hữu từ thời Hồ Chí Minh.

Phần II, đoạn 1 Nghị quyết 36: “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài cần thể hiện đầy đủ truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc“.

Truyền thống “đại đoàn kết dân tộc” được áp dụng trong thời kỳ mới là gì? Đó là: “Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, lý do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc“.

Vô số người miền Nam bị mất nhà, mất tài sản, thân bị tù tội hàng chục năm … Người bị qui vào tội “ngụy quân ngụy quyền”, người bị qui vào “tư sản”… Họ bị tước đoạt mọi của cải, tài sản mà không thông qua môt bản án nào.

Bây giờ thì nhà nước có chủ trương “kinh tế thị trường”, cho phép dân làm ăn như thời VNCH. “Làm chủ tài sản” ngày trước là môt trọng tội. Nay lại là một “quyền”. Chính sách của nhà nước phải nhứt quán. Không thể “lúc này lúc khác” được.

Vấn đề là những nạn nhân bị mất tài sản, mất đất đai, nhà cửa trước kia… không được nhà nước bồi thường thiệt hại.

Làm sao người ta có thể “xóa bỏ mặc cảm, định kiến để hướng tới tương lai”?

Không hòa giải, tức nhà nước CSVN không nhìn nhận sai lầm và sửa sai qua hình thức trả lại tài sản, hay đền bồi cho nạn nhân, thì làm sao người ta có thể “xóa bỏ định kiến”? Mà sự thật không phải là “định kiến”.

Chuyện “đánh tư sản” chỉ là một hạt cát trong sa mạc sai lầm của đảng và nhà nước CSVN.

Câu hỏi đặt ra là tại sao các nhà báo, các sử gia, học giả v.v… lại luôn nói rằng “chủ trương hòa giải hòa hợp dân tộc” là của nhà nước CSVN?

Còn trong “quần chúng nhân dân”, phe “cờ vàng” luôn qui kết những người bàn về “hòa giải hòa hợp dân tộc” là cộng sản.

Cá nhân tôi nhiều năm trước có chủ trương yêu cầu nhà nước CSVN phải ra một bộ luật về Hòa giải quốc gia. Mục đích “kế thừa danh nghĩa VNCH” để củng cố hồ sơ chủ quyền Hoàng sa và Trường Sa.

Ý kiến này đến với tôi sau khi tôi tham khảo tài liệu (La représentation du Viet-Nam dans les institutions spécialisées) của học giả Joele Duy Tân Nguyen, một giáo sư về Luật quốc tế ở Pháp. Những dòng cuối tập tài liệu, bà đặt câu hỏi (đại ý): Nhà nước CSVN hôm nay lấy tư cách nào để kế thừa di sản VNCH trong khi họ vẫn luôn gọi thực thể này là “ngụy”?

Không lẽ tôi cũng là VC?

Tôi không nghĩ tác giả các bài báo (nói chủ trương HG&HHDT là của nhà nước CSVN) có nhiệm vụ sơn son thiếp vàng chính sách “đại đoàn kết dân tộc” của CSVN.

Vấn đề là các tác giả, cũng như phe “cờ vàng”, có cùng mục đích với đảng và nhà nước CSVN.

MỘT NGÀY LỊCH SỬ (30/4)

Xuyên Sơn

MỘT NGÀY LỊCH SỬ.

 

Hôm nay (30/4) là một ngày lịch sử.

Bốn mươi sáu năm trước đúng vào ngày này, chánh thể VNCH sụp đổ,

và thay vào đó là một thể chế mới mà hậu quả còn kéo dài cho đến ngày hôm nay.

Nhiều khi tôi tự hỏi:

nếu không có ngày 30/4/1975 thì tôi và nhà tôi đã ra sao?

Khó đoán ngược lịch sử ở bình diện lớn, nhưng ở cấp độ gia đình thì đoán được.

  • Không phải là ‘Ngày giải phóng’ Tôi chắc rằng nếu không có ngày định mệnh đó, ba má tôi đã mua thêm 1-2 chiếc máy cày để bổ sung cho 2 chiếc đang phục vụ cho cả làng.

Ba má tôi cũng có thể có thêm vài chục, thậm chí cả trăm công đất để canh tác.

Nói chung là gia đình làm ăn khấm khá.

Anh Hai tôi chắc chắn đã không vượt biển để rồi mất tích cùng 20 người khác trên Biển Đông.

Anh Hai sẽ vẫn là ‘star’ của cả dòng họ vì học giỏi, đẹp trai và là kỹ sư tài ba.

Cả dòng họ ai cũng tự hào vì ảnh.

Tôi và ông anh cùng nhỏ em gái chắc chắn cũng sẽ không ở Úc như ngày hôm nay.

Tôi sẽ tốt nghiệp và có công ăn việc làm khá giả ở trong nước, tuy không phải là star như anh Hai, nhưng không đến nỗi phải đi lột củ hành ở Sydney.

Anh tôi sẽ thay thế ba tôi điều hành cái business gia đình, và sẽ cùng với mấy người anh họ mở rộng business.

Mấy người em gái tôi tốt nghiệp trung hay đại học và có thể phụ giúp điều hành cái ‘business’ của gia đình.

Tụi nó có thể sẽ dọn ra Rạch Giá hay lên Sài Gòn.

Thế nhưng ngày 30/4/75 đã đến.

Theo sau đó là biết bao nhiêu đổi thay. Ba má tôi bị nhà nước lấy hết ruộng đất, chỉ để lại chừng 20 công đủ sống.

Máy cày thì bị tịch thu, và mất luôn.

Cả nhà lâm vào cảnh khốn khó chỉ sau 1-2 năm với chế độ mới.

Tuy không đến nỗi ăn bo bo như nhiều gia đình khác, nhưng kinh tế gia đình suy sụp thấy rõ.

Anh Hai tôi vượt biển và mất tích, làm cho Má tôi suy sụp một thời gian. Tôi và anh em cũng vượt biên nhưng may mắn sống sót.

Tụi tôi ở nước ngoài phải ‘chi viện’ mỗi tháng cho gia đình bên VN,

 

vì lúc đó ba má tôi không còn business nữa và ruộng thì chỉ làm đủ sống.

Từ một gia đình sung túc bổng trở thành nghèo khó chỉ trong vòng 2 năm gì đó.

Do đó, đối với nhà tôi thì ngày 30/4 không phải là ngày giải phóng.

Đó là ngày mà cả kinh tế gia đình bị suy thoái đến mức khốn khó.

Mà, không phải chỉ gia đình tôi đâu, nhìn chung quanh ai cũng vậy.

100% đều bị lâm vào cảnh khốn khó. 100%.

Thành ra, gọi là ngày giải phóng không chỉ là áp đặt, ngạo mạn,

mà còn rất bậy bạ.

  • Nhìn ‘bức tranh lớn’ Có thể nói rằng chế độ mới đã kéo lùi sự tiến bộ của Việt Nam (hay nói đúng hơn là miền Nam Việt Nam) cả nửa thế kỷ.

Phải đi vòng quanh các nước như Singapore, Thái Lan, và Mã Lai mới thấy Việt Nam mình nghèo và lạc hậu ra sao.

Sau 30/4/1975, Chính Quyền VNCH Để Lại Nhiều Vàng Và USD, Tại Sao Nước ...

Ngay cả hôm nay, Việt Nam tuy có khá hơn chút, nhưng nhìn kỹ thì không khá chút nào đâu vì kinh tế lệ thuộc vào vài ba tập đoàn nước ngoài, và chúng ta đa phần chỉ là những kẻ gia công lương thấp mà thôi.

Chỉ một công ty Samsung mà đã chiếm 28% tổng GDP quốc gia!

Nếu công ty này (và cả Formosa) hắt hơi thì chắc kinh tế Việt Nam sẽ bị cảm lạnh.

Trong nửa thế kỷ đó, người hưởng lợi nhiều nhứt là các đồng hương miền Bắc và người bị hại nhiều nhứt là người miền Nam.

Từ đó gây ra một sự chia rẽ mà thể chế mới không chịu ghi nhận.

Ngay từ những ngày sau 1975, người miền Nam đã bị đối xử như công dân hạng hai trên quê hương mình, và theo thời gian tình hình tạo ra một lợi thế cho bên gọi là ‘thắng cuộc’.

Ông Nguyễn Hiến Lê là một học giả nổi tiếng trước 1975.

Ông là người gốc Hà Nội nhưng từng ở Long Xuyên trong một thời gian dài, nơi ông soạn nhiều quyển sách có giá trị.

Ông tự nhận là người “có cảm tình với ‘cách mạng'”.

Nhưng sau 1975 thì ông vỡ mộng, và có viết hồi ký.

Sau đây là những trang/dòng bị kiểm duyệt trong cuốn hồi ký viết về những gì xảy ra sau 1975 [2].

Trong cuốn hồi ký ông ghi lại những thất bại sau 1975.

Đó là sự mất đoàn kết,

phân chia giai cấp,

thiếu kỷ luật,

suy sụp kinh tế.

Ông viết về một xã hội sa đoạ, với tham nhũng tràn lan, ăn cắp,

và buôn lậu, và kỳ thị Bắc – Nam.

Ông tóm tắt về một thời mà có lẽ ngày nay ít ai quan tâm hay biết đến:

  • Sự ngạo mạn của những người ‘thắng cuộc’: những biện pháp nhằm san bằng chế độ cũ để không để lại dấu vết nào cả.

“Phải đuổi hết các nhân viên cũ, để anh em cách mạng chia nhau tất cả các chức vụ lớn nhỏ”.

Nhưng khổ nỗi những nhân viên cũ là những người có học và thực tài,

còn người mới thì vừa dốt, vừa ngạo mạn, nên chẳng làm được gì!

Dot sach

  • Chia rẽ Nam – Bắc: ngay từ thời đó (1980) dấu hiệu chia rẽ Nam – Bắc đã rõ nét.

Ông viết:

“Chẳng bao lâu người Nam thấy đa số những kẻ tự xưng là kháng chiến,

cách mạng đó, được Hồ chủ tịch dạy dỗ trong mấy chục năm đó,

chẳng những dốt về văn hóa, kỹ thuật – điều này không có gì đáng chê, vì chiến tranh, họ không được học

– thèm khát hưởng lạc, ăn cắp, hối lộ, nói xấu lẫn nhau, chài bẩy nhau…

Từ đó người Nam chẳng những có tâm trạng khinh kháng chiến mà còn tự hào mình là ngụy nữa, vì ngụy có tư cách hơn kháng chiến.”

  • Ngay cả cùng phe cũng chẳng có đoàn kết:

“Cùng là công nhân viên cả, mà bọn ở Bắc vô không ưa bọn Liên khu 5;

hai hạng đó đều khinh bọn ở bưng trong Nam về; bọn này lại không chơi với bọn trước kia tập kết ra Bắc, nay trở vô Nam; bọn ‘nằm vùng’ cũng không ưa bọn tập kết về đó.”

  • Khinh miệt:

ông so sánh: “[…] Trước ngày 30-4-75, miền Nam rất chia rẽ:

nhiều giáo phái, đảng phái nhưng tiến bộ hơn miền Bắc nhiều về mức sống, kỹ thuật, nghệ thuật, văn hóa; nhờ ngôn luận được tương đối tự do, nhờ được đọc sách báo ngoại quốc, biết tin tức thế giới, du lịch ngoại quốc, tiếp xúc với người ngoại quốc […]

cả về đạo đức nữa: vì đủ ăn, người ta ít thèm khát mọi thứ,

ít gian tham (tôi nói số đông), ít chịu làm cái việc bỉ ổi là tố cáo người hàng xóm chứ đừng nói là người thân, nói chung là không có hành động nhơ nhớp như nhiều cán bộ ở Bắc tôi đã kể ở trên.

Tôi còn nhận thấy vì người Nam bị coi là ngụy hết, nên càng đoàn kết với nhau, thương nhau: cùng là ngụy với nhau mà!”

Cách đây vài năm, một bài báo trên Bloomberg chỉ ra những

‘khoảng cách’ Bắc Nam:

  • Khoảng 70% thành viên nội các chánh phủ là người miền Bắc,

chỉ có 30% là từ miền Nam và Trung;

  • Khoảng 68% (2 phần 3) đảng viên đảng cộng sản Việt Nam là từ Quảng Trị trở ra phía Bắc;
  • 25 tập đoàn kinh tế được đặt tổng hành dinh ở Hà Nội, nhưng họ làm ăn trong Nam.

Ngay cả cái trụ sở uỷ hội sông Cửu Long cũng được đặt ở Hà Nội, cho nên thỉnh thoảng nghe các vị ấy phát biểu người miền Tây chỉ cười ngất.

Do đó, không ngạc nhiên khi những vị trí lãnh đạo các ngành mà người trong nước gọi ‘thơm’ đều do người miền Bắc nắm giữ:

hàng không,

hải quan,

dầu khí, v.v.

Người miền Nam chỉ làm phụ hay được bổ nhiệm cho có ‘hoa lá cành’.

Trớ trêu một điều là những người làm thất thoát cho Nhà nước nhiều nhứt cũng là người Bắc.

Những ai có dịp ra ngoài Bắc sẽ thấy cơ sở hạ tầng (như đường xá) được đầu tư rất tốt.

Từ Ninh Bình đi Hà Nội chỉ mất chừng hơn 1 giờ đồng hồ vì đường xá rất tốt mà ít xe.

Có một tấm hình người dân ngồi nhậu trên xa lộ miền Bắc!

Ngược lại, ở trong Nam thì chỉ có 2 đường cao tốc ngắn mà lúc nào cũng kẹt xe.

Con đường từ Sài Gòn về Kiên Giang chỉ 260 km mà phải mất 6 giờ đường! Thành ra, ở trong nước người dân miền Nam chỉ ra rằng ngoài Bắc thừa đường mà thiếu xe, nhưng trong Nam thì thiếu đường mà thừa xe.

Nhưng ai mà nói ra trên mặt báo là bị phạt vì ‘chia rẽ Bắc Nam’.

Thực tế đã là chia rẽ rồi. Ví dụ như người dân Sài Gòn làm 100 đồng thì chỉ được giữ 18 đồng (con số năm 2017)

thì tiền đâu mà chi cho cơ sở hạ tầng. Hiện nay, Việt Nam có khoảng 1000 km đường cao tốc, nhưng chỉ có chừng 106 km là ở miền Nam.

Giải thích như thế nào về sự khác biệt đó cũng không thể thuyết phục người dân vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, nơi đóng góp mỗi năm hơn 15 tỉ USD cho xuất khẩu và ngân sách Nhà nước.

Trong bài báo trên Bloomberg, người ta trích dẫn nhận định của một nhà báo kỳ cựu Huy Đức

(tác giả quyển sách ‘Bên thắng cuộc’) rằng:

‘This present regime has never seriously thought of true reconciliation issues, […] They always affirm themselves as the winner of the war and the master of the nation’

(dịch: chế độ này chưa bao giờ nghĩ đến hoà giải dân tộc thật sự […]

Họ luôn tự khẳng định mình là kẻ thắng cuộc trong chiến tranh và là chủ nhân ông của đất nước).

Không thể nào ngồi xuống nói chuyện khi mà một bên vẫn dùng những cách nói và từ ngữ xúc phạm, ngông ngênh, không có thật.

Không thể nào có hoà giải và hoà hợp, khi một bên vẫn còn khuấy sâu một cách thích thú vào nỗi đau của phía bên kia.

Phía bên kia cũng chẳng ai xa lạ, mà chỉ là anh em trong một nhà.

Viết ra những điều này chẳng phải thù oán gì cả, mà chỉ đặt sự thật lịch sử để mọi bên có thể hiểu với nhau.

***

Nhiều người tre trẻ, thậm chí có tuổi ở miền Bắc, hay than phiền rằng những kẻ như tôi hay thế hệ tôi hay nhớ chuyện xưa.

Họ nói rằng người trong nước không ai còn nghĩ chuyện xưa đó nữa.

Sai.

Ở trong nước người ta vẫn ăn mừng ‘chiến thắng’ đó chớ,

vẫn nói về ‘giải phóng miền Nam’ (ôi! mỉa mai làm sao),

vẫn ra rả chửi chánh thể VNCH

(nhưng lại vui vẻ nhận thành tựu của nó).

Tôi nghĩ đó là một kiểu chạy trốn lịch sử.

Nó chẳng khác gì kẻ làm cho nạn nhân đau khổ, lấy nhà người ta, lấy đất của nạn nhân, thậm chí giết chết thân nhân, rồi quay lại vỗ vai dạy nạn nhân rằng ‘hãy quên quá khứ.’

Một sự xúc phạm đến nạn nhân.

Một sự ngạo mạn với lịch sử.

Thật ra ở trong nước có vài thế hệ bị tẩy não lịch sử, nên họ chẳng biết gì về một giai đoạn đầy biến động và tang thương.

Ngay cả nhiều người trong chánh phủ hiện nay (sanh ra sau 1975) cũng chẳng biết gì về một giai đoạn bi thảm mà hàng trăm ngàn người Việt bỏ mạng trên biển, hàng vạn người chết trong các trại tập trung gọi là ‘cải tạo’, hàng triệu người bị đày vào rừng sâu và sống lây lất vì chánh sách

‘vùng kinh tế mới’,

hàng trăm ngàn người bị cướp tài sản và tiền bạc.

Ôi, viết ra những thảm hoạ này thì đòi hỏi cả pho sách, và có lẽ là việc làm của các sử gia trong tương lai.

Những người gây ra những tang thương đó đã qua đời,

nhưng con cháu họ thì ngày nay vẫn còn và đang tận hưởng ‘thành tích’ của cha ông họ.

Họ thường là những người hay nói ra những lời nói nồng nàn nhưng vô nghĩa.

Điều cần thiết nhứt hiện nay là sự thành thật với lịch sử,

là tử tế với người miền Nam,

và trả lại sự công bằng cho miền Nam.

nguồn fb Nguyen Tuan

____

[1] https://www.bloomberg.com/…/vietnam-s-divide-slow…

[2] https://nguyenvantuan.info/…/ngay-30-4-doc-lai-hoi-ki…/

GS Vũ Tường: VNCH chỉ thua về quân sự nhưng “thắng hầu hết” các lĩnh vực khác

Đài Á Châu Tự Do

Có thể thất bại về mặt quân sự, nhưng rõ ràng Việt Nam Cộng Hòa đã chiến thắng phe Cộng Sản Bắc Việt trên hầu hết các mặt trận khác, và thất bại về mặt quân sự cuối cùng đó mặc dù vậy, chỉ là một thất bại trên mặt quân sự mà thôi,” nhà nghiên cứu chính trị học, Giáo sư Vũ Tường, Chủ nhiệm Khoa Khoa học Chính trị, Đại học Oregon của Hoa Kỳ trong dịp này nói với Đài Á Châu Tự Do.

“Qua sự nghiên cứu về văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội, giáo dục, nghệ thuật v.v…, chúng tôi thấy câu hỏi phải đặt ra là tại sao Việt Nam Cộng Hòa lại chiến thắng về những mặt đó?

Tức là tất cả những mặt đó, Việt Nam Cộng Hòa đều hơn phe cộng sản cả, và di sản của Việt Nam Cộng Hòa vẫn tồn tại cho đến ngày nay và vẫn đang phát triển, mặc dù sau bao nhiêu năm bị đàn áp, như vậy câu hỏi đã hoàn toàn lật ngược lại.”

#RFAVietnamese #Vietnam #VIetnamCongHoa #VNCH #Saigon

RFA.ORG

GS Vũ Tường: VNCH chỉ thua về quân sự nhưng “thắng hầu hết” các lĩnh vực khác

Di sản của Việt Nam Cộng Hòa mặc dù qua năm thập niên bị đàn áp, vẫn trường tồn và phát triển

 

‘Cú sốc’ giáo dục

Nguyễn Tuấn

Nhân ngày 30/4 báo chí thỉnh thoảng có những bài ghi lại những cảm nhận của những người từ miền ngoài vào ‘tiếp quản’ Sài Gòn lúc đó (1975). Bài này (đăng ngày 30/4/2018) do Vietnamnet chạy cái tít hơi giật gân, nhưng nội dung thì rất đáng đọc vì viết về cảm nhận về nền giáo dục thời trước 1975 của một người trong cuộc.

Ts Nguyễn Kim Hồng là cựu hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm TPHCM (trước đây là một phân khoa của Viện Đại học Sài Gòn thời VNCH). Ông kể rằng khi được phân công vào ‘tiếp quản’ nơi đây, ông đã bị sốc. Cú sốc đầu tiên là ông ‘không ngờ Sài Gòn lớn và đẹp đến như vậy.’

Vào phân khoa sư phạm, ông ngạc nhiên khi thấy cơ sở vật chất của phân khoa tốt hơn hẳn ngoài Hà Nội. Thời đó mà đã có các camera truyền hình ảnh trực tiếp. Về giảng viên, ông nhận xét rằng:

“Trong lĩnh vực khoa học xã hội, theo tôi những giảng viên trước 1975 ở miền Nam được đào tạo tốt hơn.”

Nhưng ông còn sốc hơn khi tiếp xúc với sinh viên miền Nam. Ông nói:

“Sinh viên Sài Gòn rất lễ phép. Đa phần sinh viên Sài Gòn thời điểm đó đều xưng con với tôi, mặc dù tôi chỉ hơn họ 3-4 tuổi thôi. Việc khoanh tay để chào khách, chào thầy, cô ở miền Bắc được coi là hiếm nhưng ở Sài Gòn lại như một điều tất nhiên. Tôi cảm giác nhà trường và các gia đình Nam Bộ chú ý nhiều hơn đến việc dạy lễ cho con em mình

[…]

Tôi cho rằng trước năm 1975, họ đã được dạy về những giá trị cá nhân của con người nên không bao giờ để chuyện này xen vào công việc, vào đời sống chính trị. Đó là những điểm văn hóa rất khác với người miền Bắc.”

Nhà văn Vương Trí Nhàn cũng có những nhận xét về nền văn học, giáo dục miền Nam và người Nam giống giống như vậy. Ông còn cho biết rằng nhiều người miền Bắc khi vào miền Nam đều nghĩ vậy nhưng chẳng ai viết ra. Nhưng Ts Nguyễn Kim Hồng và Nhà văn Vương Trí Nhàn thì viết ra, và họ đóng góp vào một cái nhìn công tâm hơn về nền giáo dục thời xưa. Nhà văn viết:

“Nhìn rộng ra thấy không chỉ kinh tế tốt hơn mà giáo dục miền Nam lúc đó cũng hơn; không chỉ đường xá tốt, mà tư cách cá nhân của con người trong đó nói chung cũng trưởng thành hơn con người miền Bắc, trình độ hiểu biết và tuân thủ luật pháp tốt, giữa người với người có mối quan hệ tử tế, thanh thiếu niên lúc đó ham học và biết học hơn.”

Ngày nay, một số bạn trẻ cứ thắc mắc hỏi tại sao những người có tuổi thường hay nhắc về nền giáo dục thời xưa, thì hai vị này đã giúp cho họ có câu trả lời. Hồi đó, triết lí giáo dục được tóm lược trong 3 chữ: nhân bản, dân tộc, và khai phóng.

  • Nhân bản có nghĩa là lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Với triết lí nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
  • Dân tộc có nghĩa là đề cập đến việc tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác.
  • Khai phóng có nghĩa là cởi mở và cấp tiến, không phải đóng cửa và bảo thủ. Sẵn sàng tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.

Thời gian gần đây nhiều học giả than phiền rằng Việt Nam chưa có một triết lí giáo dục. Theo tôi, cứ lấy triết lí Nhân bản – Dân tộc – Khai phóng làm nền tảng cho nền giáo dục là thực tế nhứt, chẳng cần phải đi tìm đâu xa xôi.

Ps. Xin giới thiệu bài Hành Khúc Học Sinh của nhạc sĩ Lê Thương. Thời đó, học sinh nào cũng thuộc bài này:

30 THÁNG TƯ, 1975 – Thái Bá Tân

TRANG VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM  

Join

Niềm Vui Nhỏ

Những bài thơ ngắn chân thành cho ngày…

30 THÁNG TƯ, 1975

Thái Bá Tân

Bộ đội Miền Bắc chết

Một triệu một trăm nghìn.

Số lính Miền Nam chết –

Hai trăm tám hai nghìn.

Vì chiến tranh, dân chết

Trên dưới hai triệu người.

Lính Miền Nam cải tạo,

Ngồi tù một triệu người.

Trong số một triệu ấy,

Một trăm sáu lăm nghìn

Chết vì đói, lao lực,

Vì không còn niềm tin.

Trốn chạy khỏi cộng sản

Hơn một triệu rưỡi người.

Hai trăm nghìn đã chết,

Bỏ xác ngoài biển khơi.

Từ đấy, dẫu đất nước

Hết chiến sự, bình yên,

Chín mươi triệu người Việt

Mất tự do, nhân quyền.

Vậy xin hỏi các vị:

Ngày ấy là ngày gì?

Vui mừng và kỷ niệm?

Nhưng vui mừng cái gì?

***

BÊN THUA CUỘC

Chất của Bên Thắng Cuộc

Ngấm dần sang bên Thua

Qua các đợt học tập,

Ra quân và thi đua.

Rồi làng, phố văn hóa,

Rồi xã, huyện anh hùng.

Rồi những câu khẩu hiệu

Điên điên và khùng khùng.

Rồi quần chúng tự phát,

Rồi dân phòng, an ninh,

Rồi công an chìm nổi,

Đủ các loại kiêu binh.

Rồi thanh niên xung kích,

Rồi các sư hổ mang.

Rồi kiểm điểm dân phố

Rồi cờ đỏ ngập làng.

Rồi thịt mèo, thịt chó,

Rồi khí thế công nông,

Dép cao su, mũ cối,

Chất bầy đàn, lên đồng.

Rồi chi bộ, đoàn thể.

Rồi cải tạo công thương…

Tóm lại, gì cũng có

Từ xứ sở thiên đường.

Và rồi dân Thua Cuộc,

Vốn giản dị, hiền lành

Nhiễm dần từ bên Thắng

Thói giả dối, ma lanh.

Người Miền Nam thua cuộc

Sau chiến tranh kéo dài.

Và bây giờ, thật tiếc,

Lại thua cuộc lần hai.

Chưa nói chuyện dân Bắc

Tranh hết cả việc làm,

Tranh hết chức lãnh đạo,

Giàu hơn dân Miền Nam.

***

Tội ác kinh khủng nhất

Một chế độ, vương triều

Không hẳn là đốt sách,

Chết chóc và đói nghèo.

Mà làm cả dân tộc

Thành ích kỷ, nhỏ nhen,

Khôn lỏi và mê muội,

Độc ác và đớn hèn.

***

GIÁO SƯ VÀ THẰNG DU CÔN

Ông giáo sư giàu có

Và gã nghèo du côn,

Nếu đánh nhau, phần thắng

Thuộc về thằng du côn.

Tuy nhiên, sau khi thắng,

Cướp được tiền, thằng này

Không còn gì để cướp,

Phải quay sang ăn mày.

Ăn mày kẻ mình thắng,

Cả tiền, cả trí khôn.

Là cái vốn không có

Ở một thằng du côn.

Xưa, du mục Mông Cổ

Chiếm được đất Trung Hoa,

Rồi sau bị đồng hóa,

Biến thành người Trung Hoa.

Nay, Miền Bắc cộng sản

Xua quân chiếm Sài Gòn,

Cũng đang bị đồng hóa

Bởi văn minh Sài Gòn.

Vậy thì bên thắng cuộc

Chưa hẳn Bắc Việt Nam.

Thắng mà rồi thua đấy.

Thua chế độ Miền Nam.

***

THẾ HỆ CHÚNG TÔI

Sinh ra trong nghèo đói.

Lớn lên trong chiến tranh.

Về già, nếu còn sống –

Đất nước chẳng yên lành.

Thế hệ chúng tôi đấy,

U sáu mươi, bảy mươi.

Không may dính cộng sản,

Coi như uổng cả đời.

Một thế hệ khốn nạn,

Vĩ đại và quang vinh.

Đáng cháu con thương hại.

Cũng đáng cháu con khinh.

***

Mà thương hại cũng đúng.

Khinh càng đúng, than ôi,

Vì tiếp tay cộng sản

Là thế hệ chúng tôi.

***

VÌ SAO?

Nghìn năm Tàu đô hộ,

Người Việt không ra đi.

Bị Pháp, Mỹ xâm lược,

Người Việt không ra đi.

Lạ, cộng sản thắng lợi,

Cả Miền Bắc, Miền Nam,

Sao nhiều triệu người Việt

Lại rời bỏ Việt Nam?

?????

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Nước Ẩn & Sóng Ngầm

RFA

Ảnh của tuongnangtien

Thứ Năm, 04/27/2023  — tuongnangtien

Không hiểu có chuyện chi bất bình (hay mất vui, hoặc mất lòng) mà nhà báo Từ Thức đã lên tiếng phàn nàn về “cái tôi” của người mình quá xá:

Nước Việt nghèo, chậm tiến, lạc hậu, thua thiên hạ mọi mặt. Đáng lẽ người Việt phải khiêm nhượng, biết người, biết mình. Nhưng không, trong tự điển cá nhân của người Việt không có chữ khiêm tốn…

Ở đâu cũng có những cái tôi, nhưng ở người Việt, nó đạt một tỷ số đáng ngại. Mỗi lần, hiếm hoi, gặp một người đồng hương có khả năng nhưng khiêm tốn, tôi nghĩ bụng: ông nội này mất gốc rồi

Quả là hiếm hoi thật (và hiếm hoi lắm) nhưng số người Việt “mất gốc” này, nói nào ngay, vẫn còn kha khá. Họ khiêm tốn thấy rõ, và xem “cái tôi” tựa như cọng rác thôi hà. Báo Lao Động cho hay:

Trước kia, học sinh và người dân ở thôn CuPua đi lại, vận chuyển nông sản phải đánh đu trên hai sợi cáp này để vượt sông Đak Rông, đây là con đường độc đạo duy nhất nối thôn CuPua với bên ngoài… đường vào thôn CuPua nay đã đổi khác, hai sợi cáp hoen gỉ đã được thay thế bởi một chiếc cầu và đoạn đường bêtông thẳng tắp.

Công trình này được xây dựng “thần tốc” trong 6 ngày … dưới dạng “tự phát” với chi phí 30 triệu đồng, do một người đàn ông hỗ trợ. Bỏ tiền ra giúp dân xây cầu, nhưng người đàn ông chỉ tiết lộ tên “cúng cơm” của mình là Tèo, quê ở Sài Gòn. Vì vậy, đồng bào Vân Kiều ở thôn CuPua đặt tên cho công trình là “Cầu anh Tèo Sài Gòn”.

Có không ít những anh Tèo/chị Tèo như thế trong khắp các hang cùng ngõ hẹp, trên đất nước này. Họ là chủ nhân của những quán ăn không đồng, những thùng bánh mì từ thiện, những rổ phong bì (tiền) dành cho người chạy dịch, những ly trà đá miễn phí … có thể tìm thấy ở bất cứ đâu.

Người ta cũng có thể bất ngờ – hay tình cờ – nhìn thấy họ chợt dừng xe, dúi vội vào tay một kẻ bộ hành (thất thểu giữa trưa nắng chang chang) đôi chai nước lạnh. Hay họ đang lui hui tháo đôi dép đang đi, để mang vào cho một kẻ khuyết tật chân không – ngồi ở giữa đường. Toàn những chuyện hơi khó tin nhưng vẫn được nghe kể hàng ngày, cùng với hình ảnh rõ ràng, qua FB.

Nhà thơ Inra Sara ví von những nghĩa cử cao đẹp và thầm lặng này là “những dòng nước ẩn,” với niềm tin tưởng mãnh liệt rằng: “Những dòng nước ấy có mặt ở mọi thành phần, dưới mọi hình tướng, tình huống, cấp độ. Chúng ẩn mình giữa miền đất hình chữ S này, âm thầm chảy, khiêm cung nhưng đầy sức mạnh. Chúng sẽ trồi lên một ngày nào đó, chắc chắn.”

Ngoài những dòng nước ẩn, đất nước, cũng có vô số những lượn sóng ngầm. Chúng cũng “khiêm cung nhưng đầy sức mạnh” và “sẽ trồi lên một ngày nào đó – chắc chắn.” Rảnh, thử nghe qua “tiếng sóng trong lòng” của dăm ba công dân nước Việt:

  • Nguyễn Hoàng ViHồi nẳm, sống trong tình cảnh luôn bị an ninh canh và theo sát, mời làm việc, dụ dỗ có, đe doạ có… Đến nước cuối, họ đành tác động lên phía các nhà đài là đối tác cty mình, khi hết hợp đồng, đồng loạt các nhà đài không được ký hợp đồng tiếp với phía cty mình nữa…

      Đứng trước tình thế như vậy, sếp đành cho mình nghỉ việc. Ngày mình rời cty, từ cty ra bãi giữ xe, nước mắt mình chực muốn trào ra vì sự phẫn uất lẫn sự lo lắng không biết những ngày tới gia đình mình sẽ sống ra sao.

      Một bầy an ninh xếp hàng dài từ cty đến bãi giữ xe và đoạn đường dẫn ra đầu ngõ, họ cười chễm chệ như một sự mỉa mai, chế giễu dành cho mình. Bao nhiêu nước mắt nuốt ngược vào trong, mình lướt qua họ với gương mặt lạnh tanh, tư thế ngẩng cao đầu và niềm kiêu hãnh “dù có thế nào đi nữa thì bọn mày làm gì có đủ tư cách sánh với tao mà cười giễu?”Những năm tháng sau này, nghĩ lại mình thấy tội nghiệp cho họ, tội họ mình ghi sổ chờ chế độ trả cả vốn lẫn lời…

  • Vũ Huy Hoàng:Tôi từng bị mời lên trụ sở công an nhiều lần chỉ để bị hạch hỏi về các quan điểm chính trị. Bị gây khó khăn trong công việc mưu sinh. Tôi từng bị bắt, bị đánh, bị ném gạch đá chất bẩn vào nhà nhiều lần chỉ vì tham gia biểu tình ôn hoà bảo vệ môi trường, bảo vệ chủ quyền biển đảo trước sự xâm lấn của Tàu cộng.

Tôi không muốn kể lể về mình vì so với nhiều người khác, những đóng góp của tôi vô cùng nhỏ bé. Tôi cũng không muốn kể về những khó khăn, hiểm nguy mà mình đã, đang gặp phải vì nhiều anh chị em khác còn đang khốn khó hơn tôi. Tôi chấp nhận một cách vui vẻ và hoàn toàn tự nguyện …

  • Nguyễn Hồ Nhật Thành:Mình mong muốn xã hội, đất nước này phải thay đổi phải dân chủ hơn, phải nhân quyền hơn. Đó là quan điểm của mình. Còn bây giờ nếu họ nghĩ mình có tội thì họ bắt mình đi mình sẵn sàng trả giá cho việc ngồi tù để mình nói lên tiếng nói đòi lại dân quyền của mình, nói lên tiếng nói tự do, nói lên lý tưởng mà mình nghĩ rằng tất cả cha ông đã hy sinh để đòi lại một thứ đó chính là tự do cho người dân, đó là chính dân quyền.”

Nguyễn Hoàng Vi là một bà mẹ đơn thân, đã nhiều lần bị đe dọa, sách nhiễu, hành hung (và cuối cùng đã bị mất việc) chỉ vì chính kiến. Thay vì “đầu hàng chế độ” để được yên thân nuôi con thơ dại, bà đã “không cho phép nỗi sợ hãi làm tê liệt bản thân” và đã vượt qua được tất cả mọi nghịch cảnh, trong khi không quên “ghi sổ chờ chế độ trả cả vốn lẫn lời.”

Còn Vũ Huy Hoàng là một tài xế taxi (“từng bị bắt, bị đánh, bị ném gạch đá chất bẩn vào nhà nhiều lần chỉ vì tham gia biểu tình ôn hoà bảo vệ môi trường, bảo vệ chủ quyền biển đảo”) nhưng nhân vật này chưa bao giờ nao núng. Ông sẵn sàng “chấp nhận” mọi hệ lụy, chứ nhất định không từ bỏ quan niệm sống đã chọn.

Thái độ của vợ chồng doanh nhân Nguyễn Hồ Nhật Thành và Trịnh Kim Tiến cũng thế. Họ đã bị “công an chĩa súng vào đầu đe dọa chỉ vì “dám” mở cửa hàng No-U Shop, rồi kêu gọi tẩy chay hàng hóa độc hại của Trung Quốc, và thản nhiên xem “mọi sự sách nhiễu, gây khó khăn của các anh càng cho tôi động lực để sống với lý tưởng của mình.”

Nhất định “sống với lý tưởng của mình” (như Nguyễn Hồ Nhật ThànhTrịnh Kim Tiến, Vũ Huy Hoàng, Nguyễn Hoàng Vi …) giữa lòng một chế độ được đặt nền móng và duy trì bởi cường quyền, bạo lực, cùng dối trá – rõ ràng – là chuyện không dễ dàng chi. Thời gian và thời thế, tuy thế, đang đứng về phía họ.

Số công dân Việt Nam lựa chọn một cung cách sống với tinh thần trách nhiệm, rõ ràng, mỗi lúc một thêm đông. Số người nhận thức rõ được nghĩa vụ, cũng như quyền lợi của mình, cũng vậy. FB Nguyễn Thủy Tiên xác tín: “Mình tin rồi đây sẽ có nhiều người chọn cách ngẩng đầu thay vì cúi đầu.” Chỉ nhẹ nhàng, mềm mỏng và khiêm cung thế thôi nhưng đừng thấy biển lặng mà tưởng lòng đại dương không có sóng.

Chuyến Vượt Biên Của Tôi – Thanh Nhàn

Nguồn: Tongphuochiep

Một chiếc ghe nhỏ chở người Việt vượt biên giữa đại dương, năm 1982

Tôi đến Vàm Láng vào một buổi chiều và được xuồng nhỏ chở ra biển. Tôi ra biển để chờ “cá lớn”. Theo lời người trong nhóm tổ chức thì “cá lớn” (ghe vượt biên) sẽ đến vào lúc mười một giờ tối nay. Tôi và hai người vượt biên khác ngồi trên xuồng chờ cho đến hơn một giờ sáng của ngày hôm sau mà vẫn chưa thấy tăm hơi của con “cá lớn” ở đâu.

Gần ba giờ sáng “cá lớn” vẫn chưa xuất hiện. Tôi bắt đầu nghĩ tới chuyện đón đò trở ngược về Mỹ Tho. Tôi chỉ sợ đổ bể, du kích chận ở bến đò xét hỏi giấy tờ và hỏi lý do tại sao xuống đây thì thật sự tôi không biết làm sao mà trả lời.

Trong lúc tôi ngỡ chuyến vượt biên nầy không thành, thì hơn ba giờ rưỡi sáng tôi nghe tiếng máy nổ xình xịch nho nhỏ từ rất xa của một chiếc ghe nào đó, tiếng máy nổ càng lúc càng gần. Chú chèo xuồng chở chúng tôi la lên: “cá lớn tới” rồi chú chụp vội lấy đèn pin phát tín hiệu chớp tắt ba lần, chiếc ghe vượt biên đã lộ rõ cũng phát tín hiệu đáp lại. Tôi mừng quá, xuồng tôi chèo nhanh cập vào “cá lớn”.

Tôi tưởng chỉ có một chiếc xuồng của tôi, vừa cập vào ghe tôi thấy bốn, năm chiếc xuồng nhỏ khác không biết từ đâu, xuất hiện từ lúc nào cũng ào ào cập vào. Tôi vịn thành ghe đu người phóng qua, chỉ trong vòng vài phút mọi người từ những xuồng nhỏ khác đã leo được lên ghe. Các xuồng vội vã rời đi, lúc đó đã gần bốn giờ sáng.

Đi được không bao lâu ghe tôi gặp sóng to, từng đợt sóng cao hai, ba thước đánh vào ghe, nâng ghe lên cao rồi hạ xuống thấp, chúng tôi bị say sóng ói mửa liên tục. Ghe tôi vật lộn với sóng gió cho đến chiều tối mới hết. Đêm đến, ánh trăng với một chút vầng khuyết của Mùng Chín âm lịch soi một màu vàng nhạt lung linh trên biển. Chỉ còn sáu ngày nữa là Tết Trung Thu. Tết Trung Thu năm nay có thêm người Việt lưu lạc nơi xứ người. Tôi tự hỏi tại sao quê hương tôi phải chịu cảnh phân ly – người vượt biên, kẻ tù đày?

Sau hơn một ngày trên ghe vượt biên, tôi không thấy đói nhưng rất khát. Chúng tôi được phát chút đỉnh cơm, nhưng phần nước rất hạn chế. Tôi nghe nói hầm chứa nước bị rỉ, nước còn rất ít. Đến chiều, ghe tôi ra tới hải phận quốc tế, một số người bắt đầu vứt bỏ giấy tờ liên quan đến Việt Nam xuống biển, tôi cũng vứt bỏ giấy chứng minh nhân dân của mình.

Tối hôm đó có vài ba chiếc tàu buôn đi qua, chúng tôi đem chăn mền ra đốt để tạo sự chú ý nhưng không có chiếc nào dừng lại để cứu giúp.

Ngày kế tiếp tôi rất khát, sau gần ba ngày vượt biên chúng tôi chỉ được uống nước tổng cộng vài ba lần, mỗi lần được một cốc nước nhỏ chỉ vài ba hớp nước, uống xong, mười lăm phút sau cái khát lại quay trở lại. Có cô gái nhỏ ngồi gần bên tôi lim dim ngủ, tôi thấy cô ta tự dưng đưa tay ra chụp một cái gì đó rồi giựt mình tỉnh dậy. Tôi hỏi: “em làm gì vậy?” Cô nói: “em nằm chiêm bao thấy khát nước quá, má em làm cho em một ly nước đá sữa đậu nành, em mừng quá đưa tay chụp định uống thì tỉnh dậy, uổng quá!” nói xong cô cười, tôi cũng cười.

Đến trưa ghe tôi bị hư máy, chủ ghe cho biết có đem theo máy sơ cua và sau hơn một giờ sửa chữa, thay máy, ghe tôi lại tiếp tục lên đường. Chiều hôm đó tôi được phát chút đỉnh cơm, mấy người trên ghe cho biết nước gần như đã cạn. Biển hôm đó không có sóng to, một điều kỳ thú là tôi thấy một đàn cá to hàng chục con, chúng bơi lội theo ghe tôi hơn nửa giờ rồi biến mất.

Buổi sáng ngày thứ tư của cuộc hành trình, vào khoảng chín giờ sáng, chúng tôi thấy một chiếc tàu ở rất xa, mọi người mừng rỡ đem ống nhòm ra nhìn xem tàu đó ra sao. Một điều tức cười là mắt thường thì nhìn thấy con tàu nhỏ xíu ở xa, mà nhìn trong ống nhòm thì con tàu lại biến mất. Không cần ống nhòm, ghe chúng tôi hướng theo con tàu phía trước mà rú ga chạy tới.

Chạy gần một tiếng rưỡi mới tới, lần đầu tiên trong đời tôi thấy một con tàu lớn như vậy. Tôi nghĩ đó là tàu Hải Quân của một quốc gia nào đó, nhưng càng lại gần thì càng không phải. Đâu có Hải Quân nước nào mà lính mặc xà rông ở trần trùng trục như đám người lố nhố trên tàu kia. Khi tới gần tôi thấy khoảng chục tên ở trần mặc xà rông, tên nào tên nấy nước da đen bóng, thân hình rắn chắc vạm vỡ. Thì ra đó là tàu đánh cá của một nước nào đó.

Khi ghe tôi còn cách tàu kia chừng năm mươi mét. Tôi thấy đám người bên tàu đó có sự thay đổi, hơn phân nửa chạy rút vào phòng trong, chỉ để lại ba, bốn người ở ngoài. Ghe tôi tiếp tục tiến tới. Còn cách hơn mười mét, bọn tôi đứng dậy, tay chỉ vào ngực mình rồi cùng la lên: “Việt Nam! Việt Nam” rồi có người nói tiếp: “refugee – người tị nạn” phía bên kia tôi nghe tiếng đáp lại: “Thái Lan! Thái Lan!”

Ghe tôi xáp tới, mũi ghe tôi đối diện với mũi tàu Thái. Vài người trên ghe tôi hỏi: “ai biết nói tiếng Anh?” Có hai người lên tiếng. Một chú trước là thông dịch viên cho quân đội Mỹ, còn một anh nữa biết nói tiếng Anh và có thời gian ngắn du học bên Thái Lan trước 1975. Một tấm ván dài dược bắc qua nối liền hai con tàu, hai “sứ giả” của ghe tôi bước qua tàu Thái. Chúng tôi ngồi dưới ghe hồi hộp chờ tin tức.

Năm, bảy phút sau, một trong hai người trở xuống ghe cho chúng tôi biết, chủ tàu là người Thái trắng, biết nói tiếng Anh, có vẻ học thức và hiền. Ông ta sẽ thỏa mãn yêu cầu của chúng tôi là cung cấp nước và sẵn sàng giúp đỡ về lương thực nếu cần. Sau khi giúp xác định vị trí của ghe chúng tôi trên biển, chủ tàu Thái cho biết chúng tôi chỉ còn cách bờ biển Mã Lai hơn hai ngày đường. Sau đó, họ thả vòi nước xuống, trong lúc vội vã chúng tôi không tìm được một can không nào đựng nước, ngoại trừ mấy can dầu đã cạn, nước được bơm vào mấy can dầu cạn đó. Khi uống nước tôi thấy chút ít vết dầu trong ly nước, uống vào có mùi dầu máy xông lên nhưng vì khát quá và không có cách nào khác, tôi uống một hơi mấy ly nước đầy, mấy người trên ghe tôi cũng vậy.

Thấy tàu Thái tử tế, ghe tôi muốn tặng vật lưu niệm cho họ mà không tìm ra thứ gì để tặng. Cuối cùng, chúng tôi tìm được nắp hộp của một chiếc hộp đựng bút học trò (chỉ có cái nắp không có cái hộp), nắp bằng gỗ, phần trên của nắp có mảnh gương soi mặt nhỏ, phía dưới là hình một cô gái Việt Nam mặc áo dài với mái tóc dài buông xõa, đầu cô đội nón lá che nghiêng và trên tay cầm một đóa hoa hồng. Phía sau nắp hộp, người thông dịch viết hàng chữ bằng tiếng Anh đại khái nói: “Người tị nạn Việt Nam chúng tôi thân tặng các anh để kỷ niệm ngày chúng ta gặp nhau”. Theo lời anh thông dịch, khi người chủ tàu Thái dịch câu đó ra tiếng Thái, đám ngư phủ Thái Lan đứng chung quanh vỗ tay reo hò ra vẻ thích thú lắm.

Chủ tàu Thái cũng cho chúng tôi biết là ba, bốn ngày nữa sẽ có bão. Ông ta giục chúng tôi đi nhanh. Cảm động nhất là lúc chia tay, toàn bộ người trên ghe tôi đều đứng dọc hai bên khoang ghe vẫy tay chào từ biệt. Bên kia tàu Thái, toàn bộ ngư phủ và chủ tàu đứng dọc trên boong tàu vẫy tay cho đến lúc ghe tôi đi thật xa.

Vào ngày thứ năm của cuộc hành trình, khoảng chín giờ sáng chúng tôi thấy có nhiều lưới và phao nhỏ nổi trên biển. Có một điều lạ là lúc đó chưa thấy đất liền mà tôi thấy chuồn chuồn ở đâu mà bay ra rất nhiều đến hàng ngàn con, chúng bay rất thấp chỉ cách mặt biển có một, hai mét và đậu trên những chiếc phao đó.

Khoảng ba giờ trưa, chúng tôi thấy đất liền xuất hiện ở phía xa. Sau đó, chúng tôi lại gặp một tàu đánh cá khác của Thái Lan, qua sự tiếp xúc họ cho biết ghe chúng tôi đang ở gần ranh giới lãnh hải của hai nước Thái Lan và Mã Lai.

Chúng tôi thật sự may mắn, bao nhiêu ghe, thuyền vượt biên của người Việt mình bị hải tặc Thái Lan cướp bóc, giết hại. Chúng tôi hai lần gặp tàu Thái Lan mà vẫn bình an vô sự.

Những người Việt vượt biên đến bờ biển Mã Lai

Đêm hôm đó gần mười hai giờ khuya, ghe chúng tôi theo con sông nhỏ nối liền với biển tiến vào đất Mã Lai. Lần đầu tiên sau gần sáu ngày lênh đênh trên biển, chúng tôi bước lên bờ. Đêm đó trăng sáng vằng vặc, chúng tôi bước lên bờ chập choạng, ngã nghiêng chân thấp chân cao, mặt đất dường như không chịu đứng yên mà nhấp nhô như sóng biển.

Tôi đặt chân xuống mà sợ chân mình không đụng đất, mỗi lần bước đi phải chầm chậm từ từ như sợ mình bước hụt. Mấy người đi kế bên tôi la lên: “tụi mình đang bị say đất”. Lần đầu tiên trong đời tôi nghe danh từ “say đất” và cũng là lần đầu tiên trong đời tôi mới biết được cảm giác “say đất” ra sao, hiện tượng đó kéo dài mấy phút sau đó mới trở lại bình thường.

Chúng tôi tìm một khoảng đất trống ngồi xuống, vài ba anh thanh niên háo hức cất bước tiến về khu nhà của dân địa phương ở phía xa. Một lúc khá lâu mấy anh trở về cho biết người dân địa phương để xe đạp, xe gắn máy ở phía sau nhà, không xe nào có khóa cả. Mấy anh còn cho biết có một quán nhỏ vẫn còn mở cửa, cô chủ quán người Mã Lai nói trọ trẹ được vài câu tiếng Việt. Trên vách quán có ghi ngày tháng và tên bằng tiếng Việt, chứng tỏ trước chúng tôi, ghe tàu vượt biên của người mình đã đến nơi đây. Mấy anh còn khoe được cô chủ quán cho uống “coca cola” mà không phải trả tiền.

Sau khi mọi người đã trở về đầy đủ, chúng tôi gom lá dừa khô lại để đốt. Mọi người quây quần chung quanh đám lửa nhỏ trò chuyện, một cô ngồi kế bên tôi khe khẽ hát:

Chiều nay sương khói lên khơi
Thùy dương rũ bóng tơi bời
Làn mây hồng pha ráng trời
Sóng Đà Giang thuyền qua xứ người…

Nghe cô hát thật buồn, nhất là trong hoàn cảnh nầy. Nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác nhạc phẩm “Thuyền Viễn Xứ” vào năm 1952 khi đất nước chưa phân đôi. “Thuyền Viễn Xứ” thời đó bất quá tới một nơi nào đó ở cuối sông Hồng, hoặc xa xôi lắm là đến tận cùng của dòng sông Cửu Long, vẫn còn đâu đó trên đất Việt. “Thuyền Viễn Xứ” của chúng tôi bây giờ đi xa diệu vợi, vượt qua một đại dương bao la đến những bến bờ xa lạ và giao tiếp với những người không cùng màu da, ngôn ngữ, bỏ lại đằng sau một nước Việt Nam yêu dấu ngàn đời…

Chúng tôi ở đó chơi cho đến gần hai giờ sáng, rồi lại xuống ghe nhổ neo đi tiếp. Chúng tôi dự định cho ghe chạy dọc theo bờ biển Mã Lai để đến Singapore.

Khoảng chín giờ sáng của ngày thứ sáu của cuộc hành trình, ghe chúng tôi chạy cách bờ biển Mã Lai không tới một cây số và càng lúc càng tiến lại gần bờ. Trên đường tiến sát vào bờ biển Mã Lai tôi thấy vài ba chú cá heo bơi lội nô đùa trên sóng nước.

Bờ biển Mã Lai thật đẹp, từng bãi cát trắng chạy dài, chạy dọc theo bờ biển là những ngọn đồi con nho nhỏ. Mỗi một ngọn đồi có một màu sắc riêng biệt, có ngọn đồi phủ toàn một màu vàng của hoa, có ngọn đồi phủ một màu xanh của cây lá, và có ngọn đồi tím ngắt một màu nổi bật trên nền cát trắng.

Có lúc ghe tôi chạy qua một bãi biển có nhiều dừa, tôi thấy mấy cô gái Mã Lai với đôi mắt to đen, áo quần thướt tha, tay cầm dù che nắng đi dạo trông thật dễ thương.

Gần mười một giờ, có nhiều người mặc thường phục và quân phục đứng trên bờ, họ ngoắc tay ra dấu cho chúng tôi tấp ghe vào, chúng tôi lắc đầu tiếp tục đi. Vài phút sau, một chiếc ca nô từ bờ phóng ra đuổi theo ghe chúng tôi, trên đó có một ông mặc thường phục và một người lính Mã Lai, họ nhảy lên ghe yêu cầu chúng tôi phải tấp ghe vào bờ, lúc đầu chúng tôi không chịu nhưng thấy họ cương quyết, chúng tôi đành phải chịu phép.

Ghe vào bờ rồi, tôi thấy gia đình người chủ ghe mang theo nồi niêu, xoong chảo và gần nửa bao gạo – đó là số gạo trên ghe chúng tôi còn sót lại sau sáu ngày lênh đênh trên biển. Mọi người bước lên bờ rồi chỉ còn ghe tôi nằm trơ trội, cô độc sát bờ. Tôi hỏi mấy người đi bên cạnh: “vậy ghe mình tính sao?” một người trả lời: “người Mã sẽ kéo ghe mình ra biển rồi đánh chìm”.

Chúng tôi – tổng cộng 45 người, đi bộ theo hai người Mã Lai tới một vườn dừa thì thấy có sáu, bảy người lính Mã hiện diện ở đó từ lúc nào, họ hỏi ai là người đại diện ghe và muốn chúng tôi cung cấp danh sách bao gồm tên tuổi, giới tính, nghề nghiệp của tất cả người trên ghe và đưa cho họ. Thế là hai người thông dịch viên của ghe lại bận rộn cầm giấy bút đến hỏi từng người. Sau đó, mấy người lính Mã căng dây thành hình chữ nhật giữa bốn gốc dừa và bảo chúng tôi vào trong đó ngồi.

Trại tị nạn ở đảo Bidong

Chúng tôi ngồi đó chờ đợi, không biết kế tiếp mình sẽ đi về đâu. Xế trưa có hai chiếc xe buýt của hội Trăng lưỡi liềm đỏ Mã Lai tiến vào, họ ra dấu cho chúng tôi lên xe. Tôi bước lên xe tìm chỗ ngồi, lòng thầm hỏi không biết xe nầy sẽ đưa chúng tôi đến nơi nào?

Xe chở chúng tôi chạy qua những thị trấn, làng mạc Mã Lai. Đường xá ở đây được tráng nhựa, hệ thống cầu đường khá tốt. Hơn một giờ sau, xe tấp vào một khu trại có đề chữ “Marang Transit Camp (Trại chuyển tiếp Marang)”. Xe dừng lại, tôi thấy có nhiều người tiến lại gần xe, rồi nghe loáng thoáng có tiếng nói như là tiếng Việt. Bọn tôi trên xe nhao nhao hỏi: “Việt Nam phải không?” mấy người đứng phía dưới cùng trả lời: “Việt Nam”. Tôi mừng quá, tôi cứ tưởng vượt biên, rời khỏi nước không còn có cơ hội gặp lại người Việt mình nữa. Những người đứng dưới xe là những người vượt biên vừa tới trại nầy vào tối hôm qua.

Trại chuyển tiếp Marang cách trại tị nạn Sungei Besi hơn 430 cây số và cách đảo Bidong hơn 45 cây số. Đây là nơi tất cả người tị nạn Việt Nam khi đặt chân đến Mã Lai đều phải đến đó ở một, hai ngày chờ tàu chở ra đảo Bidong để làm thủ tục định cư, và ngược lại, những người tị nạn từ đảo Bidong trên đường tới trại tị nạn Sungei Besi – tọa lạc ở ngoại ô thủ đô Kuala Lumpur, để chờ chuyến bay đi định cư ở nước thứ ba hoặc được tiếp tục phỏng vấn bởi phái đoàn các nước – đặc biệt là phái đoàn Mỹ, cho việc định cư của mình đều tới trại chuyển tiếp Marang ở đó ít nhất một đêm để chờ xe buýt chở đi.

Bọn tôi xuống xe, có người hướng dẫn vào một tòa nhà lớn có nhiều giường đôi hai tầng. Tôi chọn một chiếc giường ở tầng dưới và đặt túi xách đựng quần áo của mình xuống. Mấy người trên ghe tôi cũng vậy, mỗi người chiếm cứ một giường. Sau đó tụi tôi tìm nơi tắm rửa. Trại có hai dãy phòng tắm riêng biệt dành cho nam và nữ.

Sau hơn sáu ngày phong trần, tôi mặc có mỗi một bộ đồ, kể từ lúc bước xuống đò Vàm Láng để vượt biên, chưa được tắm rửa lần nào, giờ đây được xả nước tắm thoải mái để gội rửa bụi “vượt biên”. Không thể nào diễn tả được cảm xúc vui sướng của tôi lúc bấy giờ, nhất là thấy mình đã an toàn đến bến bờ tự do. Mới hơn bảy ngày trước còn ở Việt Nam với bao lo âu, buồn phiền mà bây giờ đã đặt chân đến Mã Lai – vùng đất ước mơ của bao người Việt Nam ôm mộng vượt biên lúc bấy giờ. Tắm xong bước ra ngoài mà tôi ngỡ mình đang nằm mơ.

Chiều hôm đó sau khi ăn uống xong xuôi, tiết mục kế tiếp mà tôi chờ đợi mấy ngày qua là… được ngủ. Sáu đêm ngủ ngồi, tôi gần như không ngủ. Gần bảy giờ tối, tôi leo lên giường làm một giấc thẳng cẳng cho tới ngày hôm sau.

Những người Việt tị nạn trên đảo Bidong, Mã Lai

Gần mười giờ sáng ngày hôm sau có người vỗ vai đánh thức tôi dậy, một anh đi cùng ghe cho tôi biết một giờ trưa hôm nay sẽ có tàu đưa chúng tôi ra Bidong. Anh ta nói: “ông làm gì mà ngủ say như chết vậy? Hồi hôm mấy bà, mấy cô la oai oái làm mọi người thức dậy”. Tôi hỏi: “sao mấy bà, mấy cô la?”, anh ta cho biết, lợi dụng lúc mấy cô đang ngủ, một vài tên lính Mã Lai có ý định sờ mó, sàm sỡ làm mấy cô la lên, mấy bà ngủ gần đó không biết ất giáp gì nghe mấy cô la, mấy bả cũng la làm đám đàn ông mình tỉnh giấc ngồi dậy, mấy tên lính Mã Lai thấy thế sợ quá biến mất. Anh ta còn cười cười nói: “may cho ông đó, ông mà là mấy cô mà ngủ kiểu nầy là tụi nó vác ông chạy vô rừng là tan nát đời hoa”, nói xong anh ta phá ra cười.

Chúng tôi ở trại chuyển tiếp Marang vỏn vẹn chỉ có một ngày. Một giờ trưa ngày hôm đó, xe buýt của hội Trăng lưỡi liềm đỏ Mã Lai đến chở chúng tôi ra bến tàu. Tới nơi, chúng tôi được hướng dẫn xuống một con tàu mang tên Blue Dart mà người tị nạn chúng tôi vẫn thường gọi đùa, tàu đó là tàu “bi đát”. Gần một giờ sau chúng tôi đã có mặt ở Bidong – hòn đảo “thiên đường” của người Việt Nam tị nạn Cộng sản, bắt đầu cho một cuộc sống lưu vong nơi xứ người.

Thanh Nhàn

Nguồn: https://saigonnhonews.com/muon-neo-duong-doi/chuyen-vuot-bien-cua-toi/

Chiếm miền Nam, cướp cả tên trường!(RFA)

Báo Tiếng Dân

Blog RFA

Gió Bấc

Sau tháng Tư đen, không chỉ Sài Gòn mà hầu hết những ngôi trường học tiếng tăm, có truyền thống lịch sử lâu đời đều bị cướp tên.

Đường lối “hòa hợp hòa giải dân tộc” được thực thi nghiệt ngã đến độ hàng trăm trường phổ thông tư thục Bồ Đề, Thánh Mẫu của các Phật giáo, Thiên Chúa giáo khắp các tỉnh thành miền Nam đều “tự nguyện” giải thể, hiến tặng hoặc cho nhà nước mượn không có ngày hoàn trả. Các Viện đại học tư như Vạn Hạnh, Minh Đức, Hòa Hảo…. cũng cùng chung số phận.

Rộng lớn nhất là các trường trung tiểu học công lập đươc xem là loại chiến lợi phẩm và chính quyền quân quản, tùy tiện thay tên đổi họ theo ý thích, theo quan điểm chính trị mà không hề xem xét các yếu tố giáo dục, tâm lý xã hội, giá trị nhân văn.

Việc đặt tên trường ở thời VNCH hướng đến giá trị giáo dục, cho các học sinh noi gương tiền nhân trong học tập, tạo ra bản sắc của hiệu đoàn. Tên trường không chỉ danh xưng mà bao hàm những giá trị hiệu đoàn tiếp nối nhau qua nhiều năm tháng. Tên trường là niềm tự hào, yêu thương của mỗi thành viên, là hoài niệm hồi ức khi đã xa trường.

Các tên trường thường là những danh nhân lịch sử gắn với giá trị văn hóa và hoàn toàn phi chính trị. Không có quan chức, tướng lãnh nào dù là tử trận hay đương chức được đặt tên trường học. Không có trường Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu hay Đỗ Cao Trí, Nguyễn Viết Thanh…. Chỉ có Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Thái Học, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh…

Ấy mà sau tháng Tư đen những cái tên trường đã bị nhuộm đỏ.

Thử điểm qua một số ngôi trường lớn của Sài Gòn. Trường trung học đầu tiên của cả miền Nam từ thời Pháp thuộc đã được Việt hóa với tên Petrus Ký, nhà bác học, người chuẩn hóa và phổ cập chữ Quốc Ngữ, bị thay bằng Lê Hồng Phong, một lãnh tụ cộng sản học hành lèm bèm chủ nghĩa Mác Lê, không có chút đóng góp nào cho giáo dục.

Tương tự, trường nữ trung học đầu tiên mang tên Gia Long, vị vua thống nhất đất nước, khai hóa học thuật cho Nam Kỳ, bị gán vào tên Nguyễn Thị Minh Khai, công lao lớn nhất là phát động cuộc khởi nghĩa đẫm máu ở Nam Kỳ.

Nữ sinh trường Gia Long. Nguồn: gialong.org

Trường trung học đầu tiên của Lục tỉnh là Phan Thanh Giản Cần Thơ, vị Tiến sĩ đầu tiên của Nam Kỳ, chủ biên nhiều bộ sử, địa chí trong triều Nguyễn, bị thay bằng Châu Văn Liêm, cũng một cán bộ cộng sản chuyên kích động nổi loạn.

Trường Tống Phước Hiệp mang tên vị quan Trấn Thủ Vĩnh Long thời mở cõi bị thay bằng tên Lưu Văn Liệt, một học sinh lớp 10 bị tuyên truyền sách động, mang lựu đạn vào quán bar gây án vào lúc đông người.

Những cái tên được nhà cầm quyền sính sử dụng để đặt cho trường học thường là hình tượng những tên khủng bố có thật hoặc do tưởng tượng như Võ Thị Sáu, Lê Văn Tám, Mai Thi Non….

Theo nhà thơ Nguyễn Duy, Võ Thị Sáu là cô bé thất học, tâm thần bị kích động, đi ném lựu đạn giết một quan chức hành chính địa phương. Theo giáo sư Phan Huy Lê, Lê Văn Tám thiếu nhi lấy thân làm đuốc sống đốt kho xăng Nhà Bè là sản phẩm tưởng tượng của sử gia cộng sản Trần Huy Liệu. Mai Thị Non cũng là một nữ sinh bị lừa mang mìn hẹn giờ trong cặp sách vào đồn lính, mìn nổ sớm trước giờ, Non chết mà không giết được ai.

Những hình tượng mà chính quyền cộng sản áp đặt vào đầu óc non nớt của học trò không khác chi hành vi của những kẻ khủng bố đánh bom liều chết, bị cả thế giới loài người lên án. Chỉ khác chăng là bọn đánh bom liều chết hướng đến dân tộc khác, quân đội nước ngoài, còn các chiến sĩ cộng sản anh hùng nhà ta liều chết với những người Việt, ngay trên miền Nam ruột thịt của mình.

Không thể thống kê hết tên trường ở các địa phương Miền Nam được dán nhãn bằng tên gọi là anh hùng nhưng thực tế là những tấm gương khủng bố: Hồ Thị Kỷ, Phan Ngọc Hiển…

Thử hỏi tại sao suốt chiều dài lịch sử của Miền Nam ngay từ thời Pháp thuộc đến hai nền cộng hòa, học sinh có bãi khóa, có biểu tình nhưng không có khái niệm “bạo lực học đường” diễn ra hàng ngày như trong thời đại Hồ Chí Minh ‘rực rỡ tên vàng’ hiện nay? Ấn tượng từ tấm gương Võ Thị Sáu, Lê Văn Tám … những bài học về chủ nghĩa anh hùng cách mạng tất yếu sinh ra bạo lực học đường, bạo lực xã hội và cả gia đình. Đưa tấm gương khủng bố lên tên trường học, dạy trẻ con bắn giết mà không tạo ra những băng đảng khủng bố mới là chuyện lạ.

Một sự thay đổi tên trường hết sức tùy tiện khác là đổi theo sự thay đổi đia danh hành chính. Tỉnh Kiến Tường trước 1975 có trung học Kiến Tường, sau 1975, tỉnh Kiến Tường trở thành Huyện Mộc Hóa và Trung Học Kiến Tường cũng bị đổi tên theo. Ở Gò Công trước 75 có trường trung học Hòa Tân, sau 1975 Gò Công bị hạ xuống thành huyện và trường Hòa Tân bị đổi tên thành Tân Tây. Cứ như vậy có nhiều ngôi trường bị đổi đi đổi lại nhiều lần.

Với miền Nam, ngôi trường không chỉ thể chỉ xem xét cơ học là cái nhà để cho người ta ngồi học nhồi nhét kiến thức, tranh giành mảnh bằng. Trường học là không gian sống học tập, yêu thương, sáng tạo của tuổi hoa niên đẹp đẻ nhất đời người. Đó là tình cảm bạn bè, thầy trò sáng trong vun đắp từ từng giờ chơi, tiết học, kết nối các thành viên thành khối hiệu đoàn.

Tùy theo từng trường họ có thể tạo ra bản sắc văn hóa riêng, một truyền thống riêng. Trường nữ trung học Trưng Vương Sài Gòn được giao nhiệm vụ dẫn đầu đoàn diễu hành trong lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng hàng năm, đã sáng tạo ra những nhạc cảnh Đêm Mê Linh, Đêm Lam Sơn hoành tráng. Những nữ sinh Trưng Vương trưởng thành theo nghề sư phạm, đã gieo mầm các nhạc cảnh này cho khắp miền Nam. Trường Võ Trường Toản nổi tiếng tổ chức ấn hành nội san học đường khơi dậy phong trào sáng tác học sinh. Trường khác có thế mạnh thể thao, võ thuật.

Ngôi trường, mùa hè, mùa thi đã trở thành đề tài của biết bao tác phẩm thi ca, văn học làm nao lòng người và vẫn còn sức sống sau hơn 60 -70 năm tuổi. Đó là: “Ngựa chứng trong sân trường”, “Vòng tay học trò”, “Trường cũ tình xưa”, “Nỗi buồn hoa phượng”, “Ngày xưa Hoàng Thị”….

Trong điều kiện ấy, tên trường không chỉ là tên gọi hành chính mà hàm chứa kỷ niệm, tình cảm gắn bó suốt cả đời người. Trong hồi ký chiến tranh Về Kontum, trung tá Pháo binh Nhảy Dù kể lại câu chuyện khó khăn tưởng chừng bất khả thi khi phối hợp với Không quân bốc cánh quân Bravo của tiểu đoàn 9 Dù trong rừng gần căn cứ Võ Định về Kontum. Đơn vị này đang bị một đại đơn vị quân Bắc Việt bám sát, lưới lửa phòng không dày đặc, hợp đoàn trực thăng nhiều lần tiếp cận nhưng không thể đáp được. Biết tính khí của sĩ quan chỉ huy hợp đoàn trực thăng quý trọng tình nghĩa với trường cũ Chu Văn An, ông Lạc phải nói dối là “Đường – Đại úy Dù chỉ huy cảnh quân Bravo – cũng học Chu Văn An sau mình hai khóa! Rán cứu nó!” Nghe đến thằng em Chu Văn An, viên sĩ quan không quân đã liều chết đưa hợp đoàn trực thăng bốc toàn bộ cánh Bravo hơn 200 quân của Tiểu Đoàn 9 về Kontum không sót một người. (1)

Không chỉ tình cảm bạn bè cùng trường, tình thầy trò, và đồng nghiệp cùng trường cũng rất sâu dày. Báo chí Việt Nam còn đăng câu chuyện thầy Nguyễn Hữu Hệ từng dạy ở ba trường Trung học Kiến Tường, Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức và Marie Curie, lớn tuổi vẫn sống độc thân, được các cựu học sinh cả ba trường thường xuyên thăm viếng. Được tin thầy bệnh tâm thầ,n cả ba nhóm đến thăm, nuôi bệnh, thì phát hiện ra cô osin đã lừa thầy sang tên ngôi nhà cho cô ấy cùng với toàn bộ số tiền vài trăm triệu mà họ đã quyên góp hỗ trợ thầy. Ba nhóm cựu học sinh phải cử người rước thầy về nhà riêng nuôi dưỡng, tìm kiếm người thân con cháu của thầy và kiện cáo đòi lại căn nhà. Họ tự điều tra, có đầy đủ bằng chứng vụ lừa đảo nhưng công an, tòa án cứ làm lơ. (2)

Đó không phải là câu chuyện cá biệt về tình cũ trường xưa mà trong bối cảnh đau thương của miền Nam bị giải phóng, đất nước bị thống nhất vào tay bên thắng cuộc, trường cũ bị xóa tên, người miền Nam bị ly tán tha hương khắp nơi trên thế giới họ vẫn kết nối nhau trong những hội đoàn cựu học sinh và đều có website riêng. Một số trường có bề dày truyền thống như Trung học Chu Văn An, Võ Trường Toản, lại có nhiều hội đoàn ở nhiều quốc gia, châu lục khác nhau. Cá biệt trường Petrus Ký có đến 10 hội đoàn Ái hữu Petrus Trương Vĩnh Ký ở bắc Mỹ, nam Mỹ, Canada, Âu, Úc, Việt Nam (3)

Ở tỉnh đồng bằng, Trường Tống Phước Hiệp có hội Ái hữu Cựu học sinh Tống Phước Hiệp (4).

Kiến Tường là tỉnh mới lập trong vùng Đồng Tháp Mười heo hút, chỉ hơn 10 năm đã bị xoá tên nhưng các cựu học sinh Kiến Tường vẫn lập hội nối hai đầu cầu Việt – Mỹ và sinh hoạt rất mạnh mẽ (5).

Hầu hết các hội đoàn này đều hoạt động sôi nổi, quan hệ gặp gỡ, tương thân tương ái, chia sẻ kiến thức, sáng tác, hồi ức kỷ niệm ….

Nhiều thành viên của các hội đoàn là những người thành đạt, có kiến thức, có vai trò nhất định trong xã hội, là những nguồn lực khả dĩ có thể hỗ trợ các thế hệ nối tiếp ở ngôi trường cũ, tình cảm nhiệt huyết của họ cũng không thiếu. Nhưng rất tiếc, trường cũ bị xóa tên, đổi tên, ngôi trường bây giờ không còn là trường của họ. Mối liên hệ thương yêu đã bị cắt đứt thành nỗi đau từ năm 1975 nên họ khó có lý do, động lực để quay lại ngôi trường. Họ thừa nhiệt tình để tìm kiếm, thăm hỏi hỗ trợ nhau dù khoảng cách địa lý rất xa đến nửa vòng trái đất, nhưng hầu hết đều đóng khung sự chia sẻ, tương thân trong các thành viên trước 1975.

Việc xóa tên, đổi tên trường của chính quyền cộng sản không chỉ phá hủy không gian văn hóa đẹp của nền giáo dục miền Nam, cướp đi ký ức đẹp của các cựu học sinh miền Nam mà còn phá hủy mối dây liên hệ, tước đi cơ hội tiếp nhận sự hỗ trợ từ thế hệ học sinh trước đây với thế hệ ngày nay.

_______

Chú thích:

1- https://danviet.vn/bi-an-lao-vo-su-ban-nha-6-ty-gia-700-trieuky-2-chau-gai-la-ai-7777712475.htm

2- https://www.youtube.com/watch?v=ygp5XR97O_M&t=366s

3- http://www.petrusky.de/index.php/lienkethoidoan

4- https://tongphuochiep-vinhlong.com/2017/07/hoat-dong-cua-ho%CC%A3i-ai-hu%CC%83u-chs-tong-phuoc-hie%CC%A3p/

5- https://trunghockientuong.com/

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Tuẫn tiết

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

28/04/2023

Bên Thắng Cuộc phát hành cuối năm 2012, và được bỉnh bút Nguyễn Hùng (BBC) liệt kê là một trong “mười chuyện nổi bật” nhất trong năm. Cùng lúc, biên tập viên Mặc Lâm (RFA) cũng nhận xét rằng “cuốn sách đang gây sôi nổi cho cư dân mạng cả trong và ngoài nước” và đã khiến cho “người đọc ngỡ ngàng” vì “cái nhìn” của tác giả – một người sinh trưởng “từ bên kia” chiến tuyến:

“Trong chương 1, Ba mươi Tháng Tư, Huy Đức đặt một tiểu tựa khiến người đọc ngỡ ngàng. Họ ngỡ ngàng vì biết tác giả là người trưởng thành từ bên kia nhưng dùng hai chữ Tuẫn Tiết đặt cho câu chuyện của các tướng lãnh bên này tự kết liễu đời mình trong ngày chế độ sụp đổ.

Các tướng lãnh như Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ hay Đại tá Đặng Sĩ Vinh lần lượt kết liễu đời mình trước sự chứng kiến của thuộc hạ hay vợ con dưới cái nhìn của Huy Đức là một sự tuẫn tiết…

Một điểm quan trọng nữa, Huy Đức viết: ‘Nhưng đấy vẫn chưa phải là những phát súng cuối cùng của cuộc chiến tranh. Nhiều quân nhân vô danh vẫn tìm đến cái chết trong những ngày sau đó.”

Mãi đến bốn mươi sáu năm sau, độc giả của nhật báo Người Việt – số phát hành vào hôm 6/12/2021 – mới có dịp biết đến tên tuổi của một số “quân nhân vô danh” này qua bài viết (“Những Anh Hùng Tuẫn Tiết Trong Ngày Tàn Cuộc Chiến Tại Việt Nam”) của ký giả Vann Phan :

“Ngoài ‘Ngũ Hổ Tướng’ ra, còn có các sĩ quan khác cùng các hạ sĩ quan trong Quân Lực VNCH và Cảnh Sát Quốc Gia đã chọn cái chết để đền nợ nước trước, trong và sau ngày 30 Tháng Tư, thay vì đầu hàng quân Cộng Sản…

Còn một số quân nhân thuộc nhiều binh chủng khác nhau trong Quân Lực VNCH thì đã tự sát tập thể để khỏi rơi vào tay quân địch, bằng cách cùng nhau mở lựu đạn hoặc đồng loạt nổ súng vào đầu nhau trong biến cố 30 Tháng Tư, 1975, thật vô cùng bi tráng.”

Nỗi “bi tráng vô cùng” này đã được nhà văn Cao Xuân Huy ghi nhận bằng đôi mắt ráo hoảnh, cùng những câu chữ trần trụi và khô khốc:

Lại có rất nhiều người tự tử. Bây giờ họ không tự tử từng người, từng cá nhân mà họ tự tử tập thể. Không rủ, không hẹn và hầu như họ đều không quen biết nhau trước hoặc có quen biết đi nữa, bạn bè đi nữa họ cũng không thể nhận ra nhau trước khi cùng chết với nhau một lúc. Dòng người chúng tôi đang chạy, một người tách ra ngồi lại trên cát, một người khác cũng tách dòng người ra ngồi chung, người thứ ba, người thứ tư, người thứ năm nhập bọn, họ ngồi tụm với nhau thành một vòng tròn nhỏ, một quả lựu đạn nổ bung ở giữa.”

Cựu quân nhân Nguyễn Hữu Luyện bình luận: “Khi một binh nhì kê súng vào đầu mình để bóp cò, người ấy chỉ có một nguyên nhân uất hận được bộc lộ qua khí phách của quân nhân QLVNCH. Do đó, hành động tự sát của anh binh nhì nói lên cái khí phách tột đỉnh và tấm lòng son sắt vô song …”

Khí phách cùng tấm lòng sắt son của những người lính trận – buồn thay – vẫn thường bị lãng quên, nhất là khi họ thuộc bên thua cuộc:

“… những người lính chết trận và mất tích ở phía VNCH, chính thể đã sụp đổ vào tháng 4/1975, ít được biết tới và nhiều lúc đã trở thành đề tài cấm kỵ tại Việt Nam thời hậu chiến. Bị chính quyền mới ghẻ lạnh, đồng minh Mỹ lãng quên, các quân nhân VNCH tử trận chỉ được người thân, đồng đội cũ tưởng nhớ và kiếm tìm.” (Bùi Thư. “Hành Trình Tìm Hài Cốt Lính VNCH: 39 Năm, Anh Em Nằm Dưới Nền Đất Lạnh.” BBC – 28.04.2020)

Ở vào hoàn cảnh của những kẻ thuộc phe bại trận thì việc thu nhặt hài cốt hay tìm kiếm những nấm mồ vô thừa nhận của bạn đồng đội – tất nhiên – chả dễ dàng chi, và cũng không mấy khi có được kết quả như mong đợi. Tuy thế, thỉnh thoảng, vẫn có những sự kiện ấm lòng :

  • Ngày 19 tháng 4 năm 2022, FB Dominic Pham cho biết thêm một tin vui: “Người dân Vũng Liêm, Tam Bình, Vĩnh Long đã đào được hài cốt người lính VNCH, với tấm thẻ bài: Nguyễn Văn Hài SQ 50/680.585LM A RH+. Hài cốt của anh đã được đưa vào Chùa. Xin vui lòng gọi 038 663 3049, 093 284 8449 để biết thêm chi tiết.”
  • Hôm 15 tháng 03 năm 2022 , trên trang FB Tìm Hài Cốt Chiến Sĩ VNCHcũng cho biết một tin mừng khác, đã được thực hiện từ 10 năm trước. Xin lược thuật :

Ngày 19-08-2011, ba cựu quân nhân VNCH đã đến Thị Xã Bà Rịa-Vũng Tàu vì nghe nơi đây có bốn ngôi mộ không bia của đồng đội, nằm trong vườn nhà ông Hai Lì – một cán bộ địa phương… Ông Hai Lì kể:

 “Tôi là dân Gia Đình Cách Mạng, mấy Ông Rằn Ri này gan lì lắm, mấy Ổng chống đến cùng dù có lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh 30-04-1975, mấy Ổng chiến đấu cho đến trưa 01-05-1975 rồi cùng nhau tự sát và chính tôi là người chôn cất mấy Ổng, giấy tờ từng Ông tôi bỏ vào một cái hộp chôn theo các Ông.”

 Công việc bốc mộ được tiến hành, tất cả mọi người cùng hồi hộp chờ đợi từ nhát cuốc đầu tiên chạm vào ngôi mộ, sau đó hé lộ dần những hình hài của Các Anh đã chôn vùi nơi đây hơn 36 năm dài đằng đẵng…không Quan Tài, mà cũng chẳng có PONCHO bọc xác, chẳng còn gì với cát bụi thời gian, ngoài những mảnh xương tàn, quần áo đã mục nát …

 Chúng tôi cố tìm những mảnh giấy tờ đã được chôn theo Các Anh sau khi đã lượm lặt từng khúc xương còn sót lại, rồi cho vào từng hũ sành, ghi tên Các Anh, gởi vào Chùa và cầu xin cho Các Anh được siêu thoát khỏi chốn dương trần đầy khổ đau, tủi nhục này và điều mong muốn mãnh liệt nhất là thân nhân Các Anh sớm tìm gặp lại Các Anh sau bao năm dài vắng bặt tin tức…

Tất cả mọi người cùng ứa lệ mừng vui khi tìm được những tấm thẻ bài, giấy tờ, tên tuổi Các Anh …và đây là những vị Anh Hùng của chúng ta:

  • Ngôi mộ thứ nhất: Có Thẻ Bài tên TRƯƠNG VI CỬ SQ: 75/115.815.
  • Ngôi Mộ thứ hai: có Thẻ Bài tên VÕ QUANG HẰNG SQ: 68/123.320.
  • Ngôi Mộ thứ ba: (gồm có 02 người) trong đó Một Vô Danh không Thẻ Bài. Người có Thẻ Bài tên: TRẦN VĂN HÀ SQ: 67/824.827.

Sau khi Bốc mộ xong, chúng tôi đã đem 04 hũ cốt gởi Chùa Báo Ân. Địa chỉ: Khu Công Nhân, Thị Trấn Ngãi Giao, huyện Châu Đức, Bà Rịa-Vũng Tàu. Còn các Di Vật và giấy tờ liên quan kể trên, chúng tôi nhờ MĐ Đẹp giữ. Nếu tình cờ Quý Vị nào hoặc ai đọc được tin tức này hoặc cần biết thêm chi tiết cụ thể, xin vui lòng liên lạc theo số Phone, dưới đây: Nguyễn Văn Thành ĐT: 01645462458 hay

Lê Văn Đẹp ĐT: 01684118839.

Dù không phải là kẻ vô thần, tôi là một người vô đạo (hay khô đạo) bất kể đạo gì! Tuy thế, những dòng thông tin muộn màng (ghi trên) về bạn đồng đội vẫn khiến cho tôi cảm thấy có đôi chút an tâm và vô cùng an ủi.

Xin cảm ơn Trời, Đất, Chúa, Phật, Thánh Thần… Xin cảm ơn tất cả mọi người đã không ngại công khó, đã lập đài tưởng niệm, đã cải táng, đã lập mộ (cùng khói nhang ấm áp) cho những kẻ thuộc bên thất trận – dù chúng tôi đã không chu toàn được trách nhiệm bảo quốc an dân.

Tưởng Năng Tiến

Hưng Nguyên và Nghệ An

Báo Tiếng Dân

Thái Hạo

Trong vụ án cô giáo Lê Thị Dung đang làm rúng động dư luận cả nước, có những tình tiết đặc biệt quan trọng liên quan trực tiếp đến việc bắt giữ và kết tội bà. Đó là lá đơn tố cáo của bà trước khi bị bắt, chứ không phải chỉ là những khiếu nại đối với án kỷ luật bà như báo chí đã đưa tin.

Xin nhắc lại một chút về những việc xung quanh án kỷ luật này. Ban đầu là Sở GD Nghệ An “tuyển dụng chui” rồi đẩy người về cho Trung tâm, trong khi nơi này đã đủ giáo viên, và ép giám đốc (cô Dung) phải nhận người. Cô không ký hợp đồng không thời hạn, và rồi sau đó bị kỷ luật. Án kỷ luật ấy không có cơ sở, cô Dung khiếu nại, UBND tỉnh Nghê An thừa nhận cô Dung đúng, nhưng lạ thay, án kỷ luật vẫn không bị thu hồi. Cô Dung tiếp tục khiếu nại.

Đến ngày 16 tháng 9 năm 2021, thì cô giáo Lê Thị Dung đã làm đơn tố cáo Ban thường trực huyện ủy Hưng Nguyên nhiệm kỳ 2015-2020 về nhiều nội dung, gửi lên Bí thư tỉnh ủy Nghệ An.

Phải chăng đây chính là lý do trực tiếp và quan trọng nhất dẫn đến việc bà bị bắt và kết án 5 năm tù giam, chứ không phải là vấn đề của số tiền gần 45 triệu đồng “thất thoát” trong 6 năm kia?

Tại sao nói như thế? Căn cứ vào lời tự bào chữa tại tòa của cô Lê Thị Dung sau khi cả 2 luật sư của cô đều đã bị đuổi ra khỏi phòng xét xử, dư luận khó mà nghĩ khác được. Cụ thể, cô Dung nói: “Có người nói tôi rút đơn đi [chính là lá đơn tố cáo nói trên], không có là lệnh bắt này! Như vậy, ngay từ đầu đã có sự xây dựng để kết tội. Trước xét xử cũng tiếp tục hỏi và định mức án cho tôi là 5 năm. Đã xét xử đâu, đã biết đúng sai đâu nhưng vẫn mức án bỏ túi 5 năm! Căn cứ buộc tội thì không đúng pháp luật, trình tự tố tụng sai phạm từ đầu đến cuối, nhưng vẫn bất chấp luật, vẫn kết tội… Khủng khiếp quá” (Trích lời tự bào chữa của bị cáo Lê Thị Dung tại tòa án Hưng Nguyên – Nghệ An).

Chính vì nhiều lý do của cuộc sống cá nhân và những áp lực này (không phải chỉ từ cấp huyện), cô Dung đã rút đơn tố cáo. Nhưng, chỉ khoảng 1 tuần sau khi rút đơn thì cô Dung bị bắt và bị giam hơn 1 năm trời cho đến cuối tháng Tư này thì bị đưa ra xét xử và bị kết án 5 năm tù bằng một phiên tòa có nhiều tình tiết làm dậy sóng như đã thấy.

Phải chăng, từ những gì đã thấy, việc kêu oan cho cô Dung khó mà có kết quả nếu chỉ khu biệt lại và luẩn quẩn trong phạm vi các cấp chính quyền tỉnh Nghệ An?

Lời bàn: Mọi người Việt Nam đều là tù nhân dự khuyết ngay cả đang là đảng viên.!

VĂN HÓA XHCN HAY TÔI KHÔNG TIN ĐƯỢC!

– Tôi tin được không khi cán bộ đội  chống ma tuý  là trùm  buôn bán  ma tuý?

– Tôi tin được không  khi sĩ quan cao cấp công an  chống cờ bạc  lại là  trùm cờ bạc ?

– Tôi tin được không  khi một  thượng toạ chức sắc của  Phật giáo  lại không hiểu gì  đạo Phật?

– Tôi tin được không  khi  Bộ trưởng Giáo dục  lại là  kẻ đạo văn và xài bằng giả ?

– Tôi tin được không  khi  Bộ trưởng y tế  lại là  chỗ dựa lưng  cho bọn buôn thuốc dỏm giá cao?

– Tôi tin được không  khi một  tổng biên tập tờ báo  lớn miệng luôn mồm yêu nước, thương dân, sống chết với đồng bào, gắn bó với đảng, ray rứt với hiện tình đất nước, sau khi  thu vén được món tiền to  liền đem hết vợ con, cháu chắt chuồn qua Mỹ, mua nhà, sắm xe, mở công ty?

– Tôi tin được không  những cán  bộ lương chẳng bao nhiêu  mà xây nhà hàng trăm tỷ,  con học  nước ngoài, vợ toàn xài hàng hiệu,  rượu uống  một chai hàng chục triệu?

– Tôi tin được không  khi những  quan chức ngành giáo dục  khắp nơi trên đất nước  bán chỗ dạy  học cho các giáo viên với giá hàng trăm triệu?

– Tôi tin được không  những  cán bộ, nhân viên  có nhiệm vụ giữ rừng  lại là những tên lâm tặc  phá rừng?

– Tôi tin được không những cán bộ giữ cánh cửa biên giới  lại  là những kẻ buôn lậu hoặc tiếp tay  cho buôn lậu mang những chất độc giết người vào cho nhân dân tiêu thụ đầu độc người dùng?

– Tôi tin được không những  cán bộ thanh tra, lực lượng chống tham nhũng  lại là  những kẻ tham nhũng  kinh khiếp nhất?

– Tôi tin được không những  tổng biên tập báo , những  nhà báo chống tiêu cực  lại là  thành viên thân cận với những quan chức tham ô, hối lộ, những doanh nghiệp vi phạm nghiêm trọng, những đám xã hội đen, những tập đoàn mafia.

– Tôi tin được không khi những  cảnh sát giao thông  không làm đúng chức trách của mình là giữ gìn và điều tiết giao thông  mà chỉ  đi thu tiền mãi lộ?

– Tôi tin được không  khi  những lãnh đạo hôm qua còn hò hét quốc kế dân sinh  hô hào  phong trào yêu nước, chống tội phạm…  hôm nay đã là kẻ phạm tội  đứng trước vành móng ngựa?

– Tôi tin được không  khi  lãnh đạo giáo dục  bắt các cô giáo phải đi  hầu rượu  quan chức như gái bia ôm?

– Tôi tin được không  khi  bệnh nhân vào cấp cứu  với bệnh trạng thập tử nhất sinh, muốn được thăm khám  phải đóng đủ tiền  thì các cán bộ y tế mới cho phép tiến hành cứu người?

– Tôi tin được không  khi  bệnh nhân  phải nằm bốn người trên một giường và  bộ trưởng y tế  khi đến thăm lại  lấy làm ngạc nhiên  với tình trạng quá tải ấy?

– Tôi tin được không  khi hàng ngàn Tiến sĩ không rành về lãnh vực mình được cấp bằng, cũng chẳng biết một ngoại ngữ nào và gần 60% là quan chức hoặc công chức. Người ta  còn có dự án  tiêu chuẩn hoá Tiến sĩ  xuống tận cấp phường.  Muốn có bằng, họ phải tốn tiền hàng trăm triệu cho đến tiền tỷ?

– Tôi tin được không  khi biết rằng  đa số thực phẩm  đều có chứa chất độc nhưng  rồi cũng phải tiêu thụ nó  để tiếp tục sống dù biết đó là con đường ngắn nhất đi đến nghĩa trang ?

– Tôi tin được không  khi  những người viết sử  có thể lãng quên những anh hùng liệt sĩ của cuộc chiến tranh chống xâm lược phương Bắc,  bóp méo lịch sử  vì sợ mất lòng kẻ thù ?

– Tôi tin được không  khi  người lãnh đạo cao cấp nhất của quân đội  lại ra lệnh cho chiến sĩ của mình  không được nổ súng  khi kẻ thù chiếm đảo để biến họ thành những tấm bia cho quân xâm lược tập bắn ?

– Tôi tin được không  trong thời đại này  người ta có thể đưa hết  con cháu, bà con xa gần, sui gia, dâu rể  ra làm quan, nắm hết chức vụ quan trọng  trong địa phương mình phụ trách ?

– Tôi tin được không  khi  người ta có thể đăng tin cung cấp luận án tốt nghiệp, bán bằng giả  trên mạng xã hội với địa chỉ và số điện thoại rõ ràng. Và đa số cán bộ đều sử dụng loại bằng này. Trong lúc  hàng ngàn sinh viên tốt nghiệp chính quy  phải thất nghiệp, lái xe ôm ?

– Tôi tin được không  khi có thứ  chính quyền đi cướp đất của dân, mua đất của dân  giá rẻ mạt, không mua được thì cưỡng chế, sau đó  bán lại  cho doanh nghiệp với giá gấp trăm lần để bỏ túi ?

– Tôi tin được không  khi người ta  bị bắt  vào đồn công an  sau đó  bị chết vì lý do tự tử bằng sợi dây thun ?

– Tôi tin được không  khi có  những người đảng viên , đang làm quan chức lại  đã, đang và sẽ  có trong mình cái thẻ xanh sẵn sàng định cư ở ngoại quốc ?

– Tôi tin được không  những  người cộng sản  lại giàu có và ăn chơi, tiêu xài gấp trăm lần những tài phiệt tư bản. Họ  vung tiền  khiến cho những đại gia tư bản phải xanh mặt. Ca sĩ, diễn viên nổi tiếng thế giới phải cúi đầu?

– Tôi tin được không  khi có  những vùng  mưa chưa tới, bão chưa qua mà lãnh đạo địa phương  đã ngồi lại làm báo cáo thiệt hại ?…

***

Trong xã hội Việt Nam ngày nay,  còn vô số điều tương tự, không thể tin được  mà “vưỡn” phải tin đấy Em à!

From: TRUONG LE