Giải Phóng Để Làm Gì – Thật Là Nực Cười

 Nguyễn Trọng Dũng

Tôi không biết các bạn ở miền Bắc thế nào chứ ở trong Nam số người ăn mừng cái ngày “giải phóng” rất ít. Đa số người, như tôi và những người tôi biết, chỉ coi ngày này là ngày nghỉ mệt, không hơn không kém. Tôi rất thấy làm lạ với cái thuật ngữ “giải phóng.” Giải phóng? Giải phóng ai, giải phóng khỏi cái gì. Ai giải phóng ai?

  1. Giải phóng để làm gì khi đất nước tôi phải trải qua một cơn đói chưa từng có trong lịch sử.
  2. Giải phóng để làm gì khi hàng triệu gia đình bị tan nát và phá hoại.
  3. Giải phóng để làm gì khi hàng trăm ngàn người lính vô tội phải đi tù.
  4. Giải phóng để làm gì tài sản người dân tích lũy mấy đời mới có bỗng nhiên bị cướp sạch.
  5. Giải phóng để làm gì khi hàng triệu người phải bất chấp mạng sống để trốn chạy khỏi đất nước trên những con thuyền nhỏ bé; và hàng trăm ngàn người phải gọi đáy biển là mộ của mình.
  6. Giải phóng để làm gì khi dân tôi phải ăn bo bo và khoai mì để khỏi phải đói.
  7. Giải phóng để làm gì khi người Việt Nam đi đâu cũng bị khinh thường và soi mói.
  8. Giải phóng để làm gì khi cuộc chiến đã chấm dứt 48 năm rồi nhưng dân tộc vẫn bị chia rẽ.
  9. Giải phóng để làm gì hàng trăm ngàn người lại đi lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc hay đi bán thân mình dưới danh nghĩa “xuất khẩu lao động.”
  10. Giải phóng để làm gì khi sau 11 năm thảm họa, đất nước phải bắt đầu trở lại dưới danh nghĩa “Đổi Mới.”
  11. Giải phóng để làm gì khi cái lý tưởng của cuộc chiến chưa bao giờ thành công, cuối cùng thì phải áp dựng lý tưởng của địch để phát triển đất nước.
  12. Giải phóng để làm gì khi du học sinh đi du học không muốn về và kiều bào thì không muốn giữ quốc tịch.
  13. Giải phóng để làm gì khi đi đâu cũng thấy người bán vé số và ăn xin.
  14. Giải phóng để làm gì ngày nào cũng có dân oan than khóc vì bị cướp đất hoặc đền bù với giá rẻ mạt.
  15. Giải phóng để làm gì chính con cháu của những chiến sĩ giải phóng lại muốn từ bỏ đất nước, vậy cái lý tưởng chiến đấu ngày xưa có nghĩa gì?
  16. Giải phóng để làm gì khi chính những thành viên chính trị cũng đang chạy hồ sơ để mua quốc tịch nước ngoài.
  17. Giải phóng để làm gì khi bây giờ công lý chỉ là diễn viên hài và luật pháp có thể được mua chuộc bởi đồng tiền.
  18. Giải phóng để làm gì khi bây giờ lại kêu gọi các công ty tập đoàn nước ngoài vào nước đầu tư. Chứ không phải ngày xưa đã đánh đuổi họ đi sao?

19.Giải phóng để làm gì khi người Việt Nam chỉ coi đất nước là cái nhà trọ.

  1. Giải phóng để làm gì khi con gái Việt Nam bây giờ hám ngoại, dân thì sính ngoại, cái gì thuộc về “Tây” cũng được sùng bái ở đất nước này.
  2. Giải phóng để làm gì nhà nhà cho con em đi học tiếng Anh, trường quốc tế thì nở rộ như nấm.
  3. Giải phóng để làm gì khi giới trẻ chẳng quan tâm tới đất nước và bị ngu đần bởi hệ thống giáo dục.₫
  4. Giải phóng để làm gì khi bây giờ người Bắc Nam vẫn còn chửi nhau là “Bắc Kỳ-Nam Kỳ.”
  5. Giải phóng để làm gì khi bây giờ người dân phải ăn đồ hóa chất, ngửi không khí độc hại.
  6. Giải phóng để làm gì khi đất nước này ngày càng bị ảnh hưởng và lệ thuộc ngoại bang?
  7. Giải phóng để làm gì khi người dân không có tự do và công bằng.
  8. Giải phóng để làm gì khi chính những chiến sĩ ngày xưa hy sinh tuổi xuân để giải phóng bây giờ chẳng được gì ngoài tấm bằng khen.
  9. Giải phóng để làm gì khi người dân Việt Nam chỉ là công dân hạng hai trên chính đất nước của mình.
  10. Giải phóng để làm gì khi đất nước Việt Nam này lại thuộc về người khác mà không thuộc về người dân.
  11. Và giải phóng để làm gì để bây giờ chẳng ai còn tin hay tự hào về cái gọi là giải phóng cả.

Như vậy thì giải phóng để làm gì?

Vì lý tưởng? Không thể nào.

Vì tự do? Càng không thể.

Vì dân tộc? Thật vô lý.

Vì độc lập? Càng vô lý nữa.

Giải phóng để làm gì để bây giờ đất nước Việt Nam ngày đang vỡ nát. Tôi chẳng thấy một điều tích cực nào đến từ cái gọi là giải phóng cả.

Vậy ai giải phóng ai và giải phóng để làm gì?

Nguyễn Trọng Dũng

Nguồn: Truong Le

THÁNG NGÀY TAO LOẠN-Vĩnh Chánh

THÁNG NGÀY TAO LOẠN

Không một ai ở Miền Nam Việt Nam có thể quên được sự hoang mang cay đắng, những uất hận nghẹn ngào, những đau đớn nhục lụy, những chết chóc tang thương trên những đại lộ, tỉnh lộ “kinh hoàng”, những hãi hùng hỗn độn, xô đẩy tìm đường thoát ở những phi trường, những quân cảng, bãi biển…, của triệu triệu người trốn chạy sự “giải phóng” của Cộng Quân, theo sau cuộc di tản chiến thuật Tây Nguyên trong tháng 3, 1975, rồi từ từ lan rộng khắp Miền Trung thuộc các quân khu 1, 2 rồi đến quân khu 3. Trong cương vị nhỏ nhoi của một quân y sĩ Nhảy Dù theo sát bên cạnh đơn vị Dù tác chiến, cá nhân tôi đã sống trọn vẹn với đồng đội cho đến giờ phút cuối cùng của cuộc chiếm: Ngày 30 Tháng 4, 1975.

Trong một ngày vào tháng 2, 1975 khi Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù (viết tắt TĐ1 ND) với Thiếu Tá Ngô Tùng Châu làm TĐ Trưởng đang dưỡng quân tại đèo Phước Tượng nằm trên Quốc Lộ 1 giữa Huế và Đà Nẵng, sau chiến trận ở Thường Đức/Đại Lộc, Y Sĩ Thiếu Tá ND Trinh đích thân đưa BS Bùi Cao Đẳng, người bạn thân đồng môn đồng khóa của tôi, đến Bộ Chỉ Huy TĐ thay tôi làm Y Sĩ Trưởng TĐ 1 ND. Và ngay sau khi bàn giao, tôi được chở thẳng đến phi trường Đà Nẵng để trong cùng ngày, trước Tết 1975, vào Sài Gòn lãnh một nhiệm vụ mới, Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 15 ND. Các Tiểu Đoàn tân lập 12, 14, 15 ND cùng với Đại Đội 4 ND Trinh Sát và Tiểu Đoàn 4 Pháo Binh ND là thành phần chủ lực cho Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Minh Ngọc, vừa được thành lập vào đầu năm 1975.

Trên chuyến bay về Sài Gòn, lòng tôi có nhiều xúc động mâu thuẫn. Dù tôi chỉ phục vụ TĐ1 ND trong 6 tháng kể từ ngày trình diện làm Y Sĩ Trưởng TĐ 1 vào cuối tháng 7, 1974, đúng vào lúc TĐ1 ND nhảy vào trận chiến ở Đại Lộc/Thường Đức, tôi đã có quá nhiều kỷ niệm với đơn vị tác chiến lừng danh hàng đầu của Sư Đoàn ND. Trong ngày đầu tiên ở mặt trận, tôi được đích thân người con trai của Cô ruột tôi là Đại Úy Trần Văn Thể, đại đội trưởng xuất sắc của ĐĐ 11, chỉ bày những căn bản thực tế ở trận địa như định hướng của ta và địch, phân biệt pháo ta hay pháo địch, đào hố cá nhân ở bất cứ nơi dừng quân nào, đi trên dấu giày của người đi trước để tránh đạp phải mìn, luôn đội nón sắt và mang áo giáp, ngay cả khi sử dụng hố tiêu… Làm sao kể cho xiết những ngày dài lội bộ trong rừng sâu, trên những sườn đồi trơn trợt, lầm lũi quanh co theo chân các binh sĩ, chia nhau từng điếu thuốc, từng ngụm cà phê pha chung với đế, chuyền nhau từng ca cơm dưới những cơn mưa tưởng không bao giờ dứt.

Làm sao tôi quên được những tiếng la hét, ra lệnh trong điện đài giữa cấp chỉ huy Tiểu Đoàn, Đại Đội và Trung Đội trong bước tiến xung phong đánh chiếm mục tiêu, giữ vững vị trí hay buộc rời bỏ vị trí dước áp lực của địch để rồi lại phản công, cận chiến và tái chiếm lại mục tiêu tại từng ngọn đồi, trước nhỏ nhưng về sau càng lớn càng cao. Tại từng ven rừng hay trong rừng rậm, tại từng con suối, bờ dốc. Trong đêm khuya, hay giữa trưa. Vào sáng sớm hay cuối ngày. Trong mưa, trong nắng hoặc trong sương mù. Vì làm gì có giới hạn thời gian trong trận chiến. Vì làm gì có thời tiết thuận lợi khi xung phong. Và làm gì có được sự công bằng khi địch nằm sẵn trong các công sự trên đồi chờ ta đánh vào. Nhưng ta phải đánh để dành lại từng tấc đất, từng ngọn đồi. Giết giặc nhưng không vì hận thù. Hy sinh và gian khổ để đánh đuổi kẻ xâm lược và bảo vệ miền đất tự do. Vì vậy, còn gì hãnh diện hơn khi tôi chứng kiến hàng nghìn người dân lục tục kéo về lại thôn xóm khi đơn vị ND vừa xuất hiện trong vùng.

Rồi những báo cáo vượt đồi, tràn xuống suối, đánh bạt lên đồi, đánh chéo qua sườn đồi, bắt tay với cánh quân bạn, tiếng kêu gọi yểm trợ phi pháo, cho tọa độ, tiếng máy bay phản lực gầm thét trên trời, tiếng bom nổ, đạn đại bác rít trong không khí trước khi nổ dồn, tiếng phành phạch của các trực thăng võ trang hay tản thương… để rồi cùng nhau chung mừng nghe tin chiến thắng nhỏ rồi lớn, hay hồi hộp lắng nghe báo cáo tổn thất của ta kéo theo là chuẩn bị đón nhận thương binh, phân loại nặng nhẹ, cấp cứu, cầm máu, chuyền nước biển, chích morphine chống đau, chùi rửa băng bó vết thương, viết phiếu tản thương ghim vào áo thương binh, xin tiếp liệu…

Qua nhiều ngày với TĐ1 ND, tôi có dần kinh nghiệm để phân biệt được tiếng pháo của ta hay địch, khi nằm dưới hố cá nhân hoặc trong hầm với bộ chỉ huy, ngày ngày 3 cữ sáng trưa chiều, nhìn lên thấy từng làn chớp sáng của đạn địch chụp trên các ngọn cây lớn kèm theo tiếng nổ đinh tai với ngàn mảnh đạn và cành lá văng tứ phía. Đã bao lần tôi cảm thấy bất lực trước những vết thương quá nặng của thương binh đang chết dần khi chờ đợi tản thương, bèn đành đốt điếu thuốc lá đưa vào môi cho từng người để rồi đoán chừng cái chết đến khi khói điếu thuốc thôi bay. Và cũng bao lần tôi đã cúi đầu khóc thầm khi thấy những xác chết, cả quan lẫn quân, được gói chặt trong poncho nằm từng hàng dài hai bên bãi đáp chờ được bốc đi.

Nhớ và nhớ hình ảnh uy nghiêm đầy khí phách của các sĩ quan và bao khuôn mặt non trẻ nhưng dạn dày phong sương của các binh sĩ tuy đầy kinh nghiệm chiến trường, nhưng họ vẫn giữ một tâm hồn đơn sơ thật hồn nhiên mà tôi biết được qua những lần trò chuyện, những tâm sự trong đêm dài hay qua những lần dừng quân ngắn trong khi cùng nhau vui đùa. Với họ, tôi đã yêu những bản nhạc lính mà trước đây tôi từng chê là sến. Với họ, tôi đã tìm thấy tình đồng đội qua thử thách trong máu lửa. Với họ, bổn phận và trách nhiệm luôn được gắn liền với 4 chữ Nhảy Dù Cố Gắng. Và với họ, tôi quên hẳn cái chết đàng sau và nguy hiểm chờ đợi phía trước.

Sau chiến thắng ở Đồi 1062 tại Thường Đức, Thiếu tá Nguyễn Văn Phú, Tiểu Đoàn Phó của TĐ1 ND, được đề cử làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 15 ND tân lập, và trước khi rời vùng, TTá Phú đặc biệt xin cho tôi được đi theo với Tiểu Đoàn tân lập của ông. TTá Phú và tôi đã có những giao hữu tốt đẹp trong thời gian ông trực tiếp chỉ huy cánh phó với 2 ĐĐ đánh thẳng vào trận chiến. Tôi có gởi rượu và thuốc lá đến cho TTá Phú ở mặt trận, đúng lúc phe ta cần chút chất nóng để đánh đấm cũng như để ăn mừng chiến thắng. Thêm vào đó, tôi còn có cơ duyên giúp cho TTá Phú về thăm vợ ở Sài Gòn đúng lúc, vì nhờ lần thăm này mà vợ ông mới có thai lần đầu kể từ khi lấy chồng vào cuối năm 1968.

Nếu được thuyên chuyển về Sài Gòn, tôi chắc mọi quân nhân của binh chủng ND đều vui mừng vì không những đây là hậu cứ của Sư Đoàn ND, xa hẳn nguy hiểm của chiến trường, mà còn là thủ đô, là nơi phồn hoa đô hội với nhiều chốn ăn chơi. Riêng với tôi, không những tôi được về gần nhà mình ở trong Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa với Măng của tôi, mà đây còn là một cơ hội quý báu để tôi có dịp gặp lại người tôi yêu và theo đuổi qua suốt 9 năm, kể từ thời Dự Bị Y Khoa, sau nhiều năm cách trở. Cuộc thử thách riêng tư này coi vậy chứ có lắm khó khăn và nhiều gay go so với cuộc chiến tôi vừa trải qua ở mặt trận.

Tôi đến trình diện TTá Phú tại bộ chỉ huy TĐ 15 ND ở Trại Cây Mai trong Chợ Lớn và bắt tay ngay vào nhiệm vụ của mình trong khi TĐ đang chỉnh đốn quân số, quân trang, huấn luyện… Tôi làm quen với các sĩ quan tác chiến của bộ chỉ huy TĐ như vị TĐ Phó, sĩ quan trưởng Ban 3 cùng các sĩ quan ĐĐ Trưởng, cũng như làm quen với các y tá thuộc cấp trong Trung Đội Quân Y của tôi và thiết lập danh sách tiếp liệu y dược. Vì Lữ Đoàn 4 ND có nhiệm vụ bảo vệ Thủ Đô, nên vấn đề tiếp liệu quân trang, quân nhu cho TĐ tác chiến nói chung và và tiếp liệu y dược của tôi nói riêng, có phần nào được ưu tiên. Trong trại quân, tôi đã có những buổi dạy về cấp cứu căn bản ở chiến trường như cầm máu, băng bó…, về y khoa phòng ngừa cho bệnh sốt rét, bệnh tiêu chảy, bệnh hoa liễu cho riêng các y tá của tôi và cho toàn thể binh sĩ của TĐ.

Tuy TĐ được lệnh cắm trại và ứng chiến 100%, TTá Phú thường làm ngơ cho tôi vài ba giờ những khi tôi ghé về nhà thăm Măng của tôi, cũng như thông cảm cho tôi khi tôi rời trại vào buổi chiều, nhảy lên xe ôm đến thẳng nhà người con gái tôi yêu, nhất là sau khi nghe tôi kể về cuộc tình 9 năm trời lận đận dang dở và ước muốn hàn gắn nối lại mối tình đầu đời của tôi. Người tôi yêu đang học năm cuối của khoa Chính Trị Kinh Doanh tại Viện ĐH Đà Lạt. Vào chiều Mồng Một Tết, hiên ngang trong bộ đồ hoa dù và chững chạc trong phong cách, hạnh phúc dồn dập đến với tôi khi tôi gặp lại nàng tại nhà, sau hơn 3 năm xa cách. Sau đó tôi tiếp tục tranh thủ ráo riết chinh phục nàng qua những lá thư đậm đà tình thương nhớ viết từ trại quân hay trong khi đi hành quân, hoặc qua những dịp thăm viếng nhà nàng, trổ tài miệng lưỡi chiếm được cảm tình của gia đình họ hàng. Mối tình của tôi từ từ chuyển hướng thuận lợi. Trong bối cảnh chao đảo của chiến sự, càng ngày chúng tôi càng cảm thấy gần gũi sâu đậm hơn.

 Với các bạn cùng khóa 16 Trưng Tập Quân Y tình nguyện vào Nhảy Dù. Hình We Were Once Soldiers QYND1974, từ trái qua phải: Các Y Sĩ Trung Úy Nguyễn Đức Vượng, Nguyễn Văn Thắng, Bùi Cao Đẳng, Vĩnh Chánh, Nguyễn Thành Liêm, Y Sĩ Thiếu Tá Tá Trần Quý Nhiếp, Lê Quang Tiến, Nguyễn Tấn Cương, Dược Sĩ Khánh.

 Đó cũng là thời gian TĐ15 ND bắt đầu trực tiếp tham dự những cuộc hành quân ở vòng đai Biệt Khu Thủ Đô, truy lùng các toán du kích Việt Cọng nổi lên đây đó hậu thuẫn cho cuộc tiến công của quân CS. Bấy giờ toàn bộ Miền Trung đã mất vào tay Cộng Quân. Cùng chung một số phận với các đại đơn vị khác của những quân khu và của Lực Lượng Tổng Trừ Bị như các Lữ Đoàn của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, các Liên Đoàn Biệt Động Quân, Lữ Đoàn 3 ND, rồi LĐ 2 ND lần lượt chịu những thiệt hại lớn tại Khánh Dương, rồi Phan Rang. Những chiến thắng thường có của bao năm trước nay dần được thay thế bởi những tin thất trận, những rã ngũ không chờ đợi, những triệt thoái vô lý, những thành phố bỏ ngõ, hay những trận đánh bất cân xứng, những vùng vẫy tuyệt vọng kéo theo bao hy sinh quý báu trong giờ thứ 25 bất chấp lệnh trên, những mất mát sinh mạng quá lớn của cả quan, lẫn lính và dân.

Ở Sài Gòn, tình hình chính trị lẫn quân sự càng lúc càng khẩn trương và đen tối. Sài Gòn với giới nghiêm sau 12 giờ đêm. Sài Gòn với hàng trăm ngàn quân dân cán chính từ bao tỉnh đàng ngoài, trắng tay chạy lấy mạng liên tục đổ về thành phố để lánh nạn, mang theo bao câu chuyện thương tâm trên các con đường di tản. Dòng đời chao đảo, đầy gian khó.  Người đời hoang mang vì mất lòng tin ở chính quyền hay qua những tin đồn nhiều nhân vật tên tuổi bắt đầu rời nước trong khi một số khác bàn đến chuyện phải ra đi dù chưa biết đi đâu. Đâu đâu cũng lo tích trữ thức ăn chuẩn bị cho một cuộc tử thủ với viễn ảnh thành phố sẽ tắm trong máu lửa. Ngoài đường người đông hẳn, ai nấy bước đi vội vã, ánh mắt âu buồn trầm tư. Trong nhà các gia đình ngồi triền miên trước đài truyền hình hay lắng nghe tin tức từ BBC và VOA, bàn chuyện to nhỏ.

Sau trận đánh vào đơn vị du kích lớn ở giữa Tây Ninh và Sài Gòn, TĐ15 được lệnh về đóng quân tạm ở vùng Hóc Môn Bà Điểm. Khi TTá Phú và tôi đi tìm gặp nói chuyện với vị Giám Đốc của hảng dệt Công Thành để ngỏ lời cho TĐ15 ND đóng bộ chỉ huy tại hảng dệt, một ngạc nhiên đầy thú vị xẩy ra khi ông Giám Đốc buột miệng hỏi tôi “có phải đây là anh Chánh, con rể ông Thạch không?”. Tôi ngất ngây trả lời “dạ đúng” cùng lúc nhận ra Chú Ngưng, chồng của Dì ruột nàng ở Thủ Đức mà tôi có dịp gặp trước đây. Ngày hôm sau, trong sự bất ngờ vui sướng của tôi, Chú Ngưng chở nàng với người em gái đến thăm tôi ngay bộ chỉ huy TĐ. Khi ngồi ăn trưa với bữa cơm dã chiến, nàng có vẻ “thấm” cái đời sống phong trần lính chiến của tôi, và đã e thẹn cười khi TTá Phú nói chọc “ Bác Sĩ nhỏ con, người yêu BS còn nhỏ con hơn, chắc 2 người sẽ đẻ ra những thằn lằn con nhỏ chút xíu!”

Khoảng gần một tuần sau, trong đêm 23 tháng 4, TĐ15 ND được điều động đến bố trí ở cầu Bình Triệu, trên trục xa lộ Đại Hàn. Đó cũng là thời gian thị xã Xuân Lộc vừa bị mất sau một trận chiến kinh hồn kéo dài nhiều ngày đêm trong đó Sư Đoàn 18 Bộ Binh của Tướng Lê Minh Đảo cùng với sự hỗ trợ của LĐ 1 ND, Liên Đoàn 82 Biệt Kích Dù và Không quân với sự sử dụng đầu tiên những quả bom lớn 5 tấn Daisy Cutter, đã đánh trả và phản công dữ dội trong 13 ngày đêm liên tiếp, chận đứng bước tiến của quân đoàn  4 của CS Bắc Việt gồm có các sư đoàn 5, 6, 7 và 34 với hàng trăm chiến xa với đại bác, gây thiệt hại rất nặng nề cho quân địch (*) Dù trễ, trận đánh đã gây một tiếng vang lớn xa gần và khiến những chiến sĩ như tôi và xung quanh tôi lên tinh thần và tìm lại khí thế hào hùng.

Như những quân nhân bảo vệ Xuân Lộc bị dồn vào chân tường nên đã quyết tâm anh dũng chiến đấu, chúng tôi vẫn đang còn đây, cho đến giờ phút này, chờ đợi đến lượt mình trong trận thư hùng cuối cùng. Rất đơn giản và dễ hiểu vì đằng trước, đàng sau và hai bên, trên đầu hay dưới đất, ở đâu rồi cũng phải chiến đấu cho danh dự, cho màu cờ của đơn vị mình. Chiến đấu vì trách nhiệm bổn phận của người trai thế hệ ly loạn. Sống chết trong tình huynh đệ đã thử thách qua gian khổ và trưởng thành trong khói lửa. Khi nước mất nhà tan thì ta có còn cũng sẽ làm được chi!? Đã vậy, con người chẳng thể chết 2 lần, như đã có người từng nói với tôi như vậy. Và cứ thế, TĐ15 ND đóng chốt ở đây, được lệnh cố thủ bảo vệ cây cầu cho đến phút cuối cùng, hay cho đến người lính cuối cùng.

Trong những ngày kế tiếp, từ sáng sớm cho đến chiều tối, tôi chứng kiến hàng trăm hàng ngàn xe 2 bánh, từ xe đạp cho đến các xe Honda, Lambretta…, xe quân đội lớn nhỏ, xe chở hàng cồng kềnh đầy người và đồ vật, lính tráng thuộc đủ binh chủng và thường dân, lũ lượt kéo nhau chạy trong hỗn độn từ hướng Biên Hòa về Sài Gòn, ngang qua cầu Bình Triệu. Có lúc tôi tự hỏi làm sao biết được trong đám người chạy loạn này, ai là bọn VC cố ý len lỏi theo đám đông vào nội thành để hoạt động nội tuyến!? TĐ15 ND bung quân làm nhiều nút chặn ở cả phía bên này và bên kia cây cầu. Tôi nhận thấy TĐ có bố trí 2 xe jeeps có mang đại bác 106 ly chống chiến xa và 2 xe jeeps khác với trang bị hỏa tiễn Tow, trong khi ấy đa số các binh sĩ đều có mang trên lưng loại rocket M 72 chống tăng, trong vị trí sẵn sàng chống trả mãnh liệt bước tiến của quân thù. Trong tư thế Y Sĩ Trưởng TĐ, tôi có chuẩn bị trong khả năng của mình để cấp cứu và tản thương theo hàng dọc.

Trong đêm 28 tháng 4, địch pháo kích vào trại Hoàng Hoa Thám và căn cứ không quân Tân Sơn Nhất.  Những tiếng nổ lớn cộng với những cột lửa cháy bùng trong đêm làm tôi thao thức và băn khoăn gần suốt đêm. Lệnh trên vẫn muốn TĐ án binh bất động trong tư thế sẵn sàng tác chiến. Bộ chỉ huy TĐ cấp tốc dời qua phía bên này cầu.

Sáng ngày 29, tôi nhìn thấy nhiều trực thăng của Mỹ bay trên trời, kể luôn cả cặp phi cơ phản lực bay vòng vòng như thể hộ tống. Xung quanh tôi ai cũng mường tượng có một chuyện gì đang xẩy ra ở Sài Gòn, nhưng chẳng một ai biết đích thực. Không lẽ Thủy Quân Lục Chiến Mỹ nhảy vào lại cuộc chiến? Tôi ngây thơ mơ tưởng hay tự dối lòng ?! Nếu được như vậy, ít ra cuộc chiến sẽ kéo dài thêm, ta sẽ cũng cố lại, tình hình tốt đẹp hơn…

Gần trưa, tôi bước đến nhà thờ Đức Mẹ Fatima ở bên kia cầu Bình Triệu. Nhà thờ mở cửa nhưng không một bóng người ngoài tôi. Tôi quỳ đọc kinh và kính cẩn cầu nguyện, xin Chúa ban ơn phước cho đơn vị Nhảy Dù của tôi, cho gia đình Măng tôi và gia đình nàng được bình an và nàng đừng rời nước để chúng tôi còn gặp lại nhau. Khi định rời nhà thờ, tôi bỗng nhìn thấy chiếc máy điện thoại nằm trong góc và nẩy ra ý liên lạc với nàng dù biết nhà nàng không có điện thoại. May mắn thay, từ cuốn niên giám cũ bên cạnh điện thoại, tôi tìm ra số ĐT của Cụ Mai Văn An, một Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện ở cùng cao ốc với nhà nàng. Sau khi Cụ An cho biết là gia đình nàng còn nguyên vẹn đây, tôi cám ơn Cụ và nhờ Cụ nhắn lại với ba của nàng là tôi, tự nhận là con rể, bình yên và đang đóng quân ở cầu Bình Triệu. Rời khuôn viên nhà thờ, lòng tôi cảm thấy thanh thản, phó mặc mọi sự trong tay Chúa an bài…

Trong đêm 29 Cộng Quân lại pháo kích dữ dội vào Tân Sơn Nhất và trại Hoàng Hoa Thám của Sư Đoàn ND. Tín hiệu vô tuyến của Trung Tá Lê Minh Ngọc, Lữ Đoàn Trưởng LĐ 4 ND hoàn toàn im lặng. Sau đó liên lạc vô tuyến giữa TD15 ND với bộ Tư Lệnh SĐ ND cũng bị gián đoạn. Tuy nhiên 3 TĐ 12, 14 và 15 ND và Lữ Đoàn Phó vẫn còn giữ liên lạc với nhau. Trong cùng đêm, TĐ15 ND có đụng nhẹ với các toán đặc công VC ở phía bên cầu. Lại một đêm chập chờn, không ngủ, bên cạnh những ly cà phê đậm đặc và thuốc lá đốt không ngừng! Mọi người ngồi bất động, tư lự xung quanh các máy vô tuyến kêu rè rè, thỉnh thoảng mới có một vài báo cáo từ các đại đội. Không một ai muốn lên tiếng. Người nào cũng có những suy tư riêng. Người nào cũng có những câu hỏi mà chẳng ai có thể trả lời.

Qua sáng ngày Thứ Tư, 30 tháng 4, 1975, tại bộ chỉ huy TĐ15 ND, tôi đón nhận 4 người thương binh của TĐ. Trong số đó có một thương binh nặng cần phải tản thương gấp vì trúng đạn vào bụng. Sau khi tôi chuyền nước biển và viết tờ tản thương, Ban 3 TĐ cho biết không tản thương được vì không liên lạc được với bất cứ đơn vị quân y nào như BV Đỗ Vinh, Tổng Y Viện Cộng Hòa. Tôi suy nghĩ đôi chút và trình bày với TTá Phú ý định tôi sẽ chuyễn thương binh này đến BV dân sự Nguyễn Văn Học.

Trong khi chúng tôi đứng cách xa người thương binh để bàn tính chuyện tản thương, anh ta bỗng kêu lên “xin đừng chuyển tôi đi đâu cả. Để cho tôi chết ở đây…” và trong tích tắc, anh lấy ngay khẩu súng M16 nằm dọc cạnh anh trên chiếc băng ca, lên cò một cái rẹt, quay mũi súng vào ngay dưới cằm. Mọi người la toáng lên nhưng không kịp. Một tiếng nổ chát tai khiến mọi người bất động, rồi tất cả đổ xô chạy về anh chỉ để thấy anh đang ngáp cá, người run nhẹ, vết thương mở rộng ở mặt và đầu, máu văng tung tóe khắp nơi. Tôi cầm chặt bàn tay anh, người y tá lấy tay vuốt mắt anh. Cơ thể anh từ từ giãn ra. Anh từ từ đi vào cõi chết.

Những người có mặt giữ im lặng trong bầu không khí đau thương. Chỉ trong một thời gian quá ngắn, chúng tôi chứng kiến người lính trẻ đã làm một quyết định nhanh chóng và dứt khoát, cho thấy được khí thế anh hùng bất khuất của một chiến sĩ. Một cái chết hiên ngang khi cuộc chiến đang dần tàn. Anh đạt ước nguyện chết trong danh dự với sự hiện diện của đồng đội chung quanh. Toàn thể bộ chỉ huy cùng đứng nghiêm, cố ngăn dòng lệ rơi, đồng đưa tay chào vĩnh biệt.

Trong khi sự tự vận bất ngờ của người thương binh đang gây xốn xang đau lòng cho bộ chỉ huy TĐ, từ radio chúng tôi nghe bản tuyên bố đầu hàng của TThống Dương Văn Minh được lập lại nhiều lần. Sau một thời gian dài trên vô tuyến, TTá Phú quay về phía tôi và không một lời giải thích, bảo tôi đi theo với ông. Tôi ngồi sau lưng TTá Phú trên cùng một chiếc xe jeep, bên cạnh người lính truyền tin và 2 cận vệ. Người sĩ quan Ban 3 đi xe thứ hai với một toán lính khác. TĐ Phó ở lại bộ chỉ huy TĐ.

Tôi chẳng biết đoàn xe đang chạy về đâu, cho đến khi xe ngừng trong sân tòa Tỉnh Trưởng Gia Định. Nhìn xung quanh, tôi thấy cả trăm người dân chạy hỗn độn trong sân, tranh dành vác những bao gạo từ trong tòa tỉnh đi ra. TTá Phú đến bên tôi nói nhẹ “BS đi đi”, rồi ông quay lưng lại tiến vào phía bên trong tòa tỉnh với toán binh sĩ của ông. Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy TTá Phú tại Việt Nam. Và đó cũng là lần cuối tôi rời vĩnh viễn TĐ15 ND. Tôi cúi đầu, trong nghẹn ngào. Sững sờ, trong đê hèn. Bàng hoàng, trong đau đớn. Muốn gào thét nhưng miệng khô đắng. Muốn khóc nhưng mắt khô vì tủi nhục. Còn cái chết?! Tôi chưa một lần nghĩ đến.

Đang đứng ngơ ngác không biết phải làm gì thì một người đàn ông bước ngang bên cạnh tôi nói liền “ông cổi bỏ súng xuống và thay đồ nhanh lên”. Như cái máy, tôi vội chạy đến gần gốc cây lớn, định cổi bỏ tất cả. Nhưng sực nhớ lại, tôi chẳng có bộ áo quần dân sự nào trong ba lô. Vừa lúc ấy, có một thanh niên chạy ngang tôi với bao gạo trên vai. Tôi chận anh ta lại và xin bộ quần áo anh ta đang mặc trên người, cùng lúc tôi lục ví đưa tờ 500 đồng cho anh. Không một do dự anh ta thả bao gạo xuống đất, rồi vừa nhìn tôi như thông cảm anh ta cởi áo quần đưa cho tôi, cho luôn cả đôi dép nhật nữa. Tôi cổi áo giáp, giây ba chạc có súng, bi đông nước… xuống đất cùng với chiếc nón sắt, rồi nhanh chóng cổi đôi giày lính và bộ đồ quân phục, gom lại để vào dưới gốc cây. Rồi tôi mặc cái áo màu xanh da trời nhớp nhúa và xỏ cái quần đậm màu, đi nhanh ra phía đường lớn đón chiếc xe ôm, bảo chở về đường Cao Thắng ở Sài Gòn. Nhà nàng.

Chiếc xe ôm chở tôi đi qua nhiều đoạn đường vắng, mọi nhà đóng cửa. Đây đó là những đống áo quần trận, nón sắt, áo giáp và súng đạn rải rác hai bên vệ đường. Có những đoạn đường người đi lại khá đông hay tụ tập hai bên đường, và có những chiếc xe chở đầy người với mặt mày sắt máu, hô to khẩu hiệu và phất cờ MTGPMN… Cũng những con đường ấy tôi thường chạy qua lại, mà sao bây giờ trở thành quá xa lạ, mờ ảo như tôi đang đi vào một cõi âm. Những âm thanh la hét, còi xe, đang lùng bùng trong tai tôi. Mắt tôi thấy mọi hình ảnh bên ngoài, nhưng chẳng thấu hiểu; lòng tôi như tê dại, chẳng thể suy nghĩ sâu xa. Nhớ đến người thương binh tự vận chết sáng hôm nay, tôi ngước nhìn lên trời. Một màu tang tóc đang đổ xuống trên thành phố thân yêu.

Nàng là người đầu tiên từ trên balcon nhìn thấy tôi bước xuống xe ôm. Nàng và các em chạy nhanh xuống mở cổng đưa tôi vào. Khi đến thang lầu, tôi phải vịn vào vai nàng để bước từng bước lên lầu, hình như thân thể tôi đang rã rời và tinh thần tôi thật khủng hoảng, chẳng hiểu được vì sao mình lại về đến nhà an toàn. Hầu như mọi người đều thông cảm và tôn trọng sự yên lặng của ba nàng và của tôi. Chiều đến, tôi đạp xe về nhà Măng tôi ở cư xá Sĩ Quan Chí Hòa cho bà cụ yên tâm, rồi tôi chở Măng tôi đến nhà nàng xin ba mẹ nàng cho phép tôi ở tạm nơi đây, vì cư xá SQ CH nguy hiểm.

Tối ngày 30 tháng 4, chúng tôi ngồi ở balcon nói chuyện với nhau thật khuya. Trước đây, trong một lá thư gởi cho nàng, tôi có viết “anh xin làm bóng mát trên con đường em đi”. Giờ đây, với sự đổi đời, tương lai tôi sẽ mù mịt, viễn ảnh những năm tháng sắp tới là chuỗi ngày đen tối với đọa đày và tôi e ngại tôi chẳng còn khả năng làm bóng mát cho em. Nàng ngồi nghe tôi nói nhiều hơn trả lời. Vì có lẽ câu trả lời đã được quyết định tự lúc nào.

Em yêu dấu, tôi viết bài này mến tặng Em, người đã can cường cứu vớt đời tôi khi quyết định thành vợ thành chồng với tôi trong một đám cưới quá đơn giản tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng, 3 ngày sau khi mất nước, và đã cùng tôi vượt qua bao thử thách trước và sau khi đến bến bờ tự do.

Ba ngày sau 30 Tháng Tư 75: lễ cưới được Cha Laroche của Dồng Chúa Cứu Thế chủ hôn. Với chúng tôi, đây là “đám cươi chạy tang khi mất nước”, diễn ra trong đạm bạc, cô dâu không áo cưới.

 Tôi cũng viết bài này để tưởng nhớ đến người bạn thân, BS Bùi Cao Đẳng, Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 1 ND, bạn đồng môn đồng khóa và đồng binh chủng Quân Y ND với tôi, người được sinh ra vào ngày 30 tháng 4, năm 1946, cùng tan hàng rã ngũ như tôi vào ngày 30 tháng 4, năm 1975 và đã vĩnh viễn ra đi cũng vào ngày 30 tháng 4 năm 2012 tại MD, USA.

Thân tặng các chiến hữu của Tiểu Đoàn 1 ND và của Tiểu Đoàn 15 ND, đã chết trong bão tố khói lửa hay đang sống thầm lặng, hiện đang tự do ở hải ngoại hay ê chề ở trong nhà tù lớn tại VN, với những kỷ niệm chinh chiến không thể nào quên.

“Cho tôi xin lại ngọn đồi, ở nơi tôi dừng quân cũ

Cho tôi xin lại bờ rừng, nơi từng chiến đấu bên nhau.

Cho tôi xin một lần chào, chào bao nhiêu người đã khuất

Xin cho tôi được nằm gần, bên ngàn chiến hữu của tôi.”

Viết trong tháng 4, 2013, tại California

Vĩnh Chánh

(*)Tài liệu tham khảo cho bài viết:

  1. Chiến Sử Sư Đoàn Nhảy Dù
  2. Battle of Xuan Loc, by Phillip B. Davision
  3. Fighting is an art, by George J. Weight
  4. Fighting to the end, by Brigadier General Trần Q. Khôi
  5. vietnamwar.net
  6. sudoan18bobinh.com

Văn bút Hoa Kỳ: Việt Nam đứng thứ sáu thế giới về bỏ tù nhà văn trong năm 2022

RFA

2023.05.04

Công an ngăn cản người chụp hình một vụ biểu tình phản đối Trung Quốc ở Nhà hát lớn, Hà Nội năm 2012 (minh hoạ)

 Reuters

Trong phúc trình Chỉ số về tự do của người viết năm 2022, tổ chức Văn bút Hoa Kỳ (PEN America) xếp Việt Nam đứng thứ sáu thế giới với 16 nhà văn, nhà báo đang bị cầm tù và đứng thứ 10 trong danh sách các quốc gia cần quan tâm với 27 người đang bị hiểm nguy.

Chính phủ Việt Nam tiếp tục đàn áp giới bất đồng chính kiến, đặc biệt tập trung vào việc kiểm soát quyền truy cập phương tiện truyền thông xã hội của công chúng và mở rộng khả năng của chính phủ để có quyền truy cập vào dữ liệu cá nhân,” Văn bút Hoa Kỳ trình bày trong báo cáo công bố ngày 27/4 vừa qua

Theo tổ chức có trụ sở ở New York, Việt Nam thông qua Luật An ninh mạng vào năm 2018, yêu cầu các nền tảng lưu trữ dữ liệu cục bộ và trao cho Chính phủ quyền kiểm soát nội dung và dữ liệu trực tuyến.

Bốn năm sau, vào năm 2022, Chính phủ Việt Nam đã thông qua Nghị định 53 quy định chi tiết việc thi hành Luật An ninh mạng, tăng cường quyền truy cập của Chính phủ vào dữ liệu cá nhân và do đó tăng khả năng đàn áp những người bất đồng chính kiến.

Nhiều nhà văn, nhà báo bị cầm tù, số khác ở tình trạng hiểm nguy

Tổ chức này cho biết, có 16 người viết/nhà văn (writers) bị giam giữ tại Việt Nam vào năm 2022, 15 trong số họ là những nhà bình luận trực tuyến.

Trong số này có nhà bình luận trực tuyến Bùi Văn Thuận với những lời giễu cợt và chế giễu Chính phủ Việt Nam trên trang Facebook của mình, Trần Hoàng Huấn với nhiều bài đăng trên Facebook chỉ trích Chính phủ Việt Nam trong việc phân phối vắc-xin COVID-19 của hãng Trung Quốc Sinopharm, và nhà báo tự do Lê Mạnh Hà với nhiều video clip trên YouTube và bài viết trên Facebook về tranh chấp đất đai và tham nhũng.

Trong năm 2022, cả ba đều bị kết án tám năm tù giam về tội danh “Tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 117 của Bộ luật Hình sự 2015.

Một thành viên của liên minh Văn bút Quốc tế cũng nhắc lại việc xét xử nhà báo độc lập Lê Anh Hùng thiếu các chuẩn mực quốc tế về phiên toà công bằng và việc bắt giữ nhà hoạt động Nguyễn Lân Thắng, blogger của Đài Á Châu Tự Do (RFA).

Tổ chức này nói Việt Nam có xu hướng áp dụng các bản án nặng nề nhiều năm tù giam bất chấp sự lên án từ Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc và các tổ chức nhân quyền.

Trong báo cáo của mình, Văn bút Hoa Kỳ cũng đưa ra danh sách 27 nhà văn, nhà báo Việt Nam đang gặp hiểm nguy, trong đó có bốn cựu tù nhân lương tâm: nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, blogger Nguyễn Hữu Vinh (Ba Sàm), nhà báo Nguyễn Vũ Bình, và nhạc sĩ Trần Vũ Anh Bình.

Nhạc sĩ Trần Vũ Anh Bình, người mãn hạn tù sáu năm vào giữa năm 2017, cho biết sau khi kết thúc án hai năm quản chế , ông vẫn bị canh giữ gắt gao bởi lực lượng an ninh thành phố Hồ Chí Minh.

Trong đợt nghỉ lễ kéo dài năm ngày vừa qua, công an địa phương đưa người đến canh giữ gần nhà ông Bình liên tục từ ngày 29/4 đến tối ngày 02/5, ông nói với RFA ngày 04/5.

Những người bất đồng chính kiến ở quốc nội bị kê vào danh sách đen để mà họ canh giữ.

Là một người nghệ sĩ, tôi nhìn thấy hình đất nước thế nào thì tôi cất tiếng lên. Chính vì nỗi lòng của tôi mà tôi bị bôi dấu đen trong con mắt và suy nghĩ của nhà cầm quyền Việt Nam.”

Tuy nhiên, ông cho biết ông không thể im lặng trước hiện tình đất nước cho dù có thể bị bắt lần nữa. Ông khẳng định:

Tôi chỉ thổn thức với nỗi đau của quê hương. Tôi luôn sẵn sàng chịu khổ đau một lần nữa, nếu như nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đặt cái tên tôi vào giấy khởi tố lần thứ hai.”

Chia sẻ với RFA, ông cho biết không chỉ đưa người canh giữ thường xuyên tư gia của ông, lực lượng an ninh còn can thiệp vào cuộc sống tình cảm, khiến ông không thể đến được với người mình yêu và làm cho cuộc sống của ông còn “tệ hơn ở trong tù.”

Phóng viên gửi email cho Bộ Ngoại giao Việt Nam đề nghị bình luận về phúc trình mới nhất của Văn bút Hoa Kỳ nhưng chưa lập tức nhận được phản hồi. Chính phủ Việt Nam thường phớt lờ các đề nghị bình luận của RFA.

Cả hai chỉ số và cơ sở dữ liệu do PEN America thu thập, Việt Nam đều nằm trong top 10 thế giới. Ảnh: PEN America/ RFA Việt hóa

Áp dụng việc báo cáo hàng loạt để dập tắt tiếng nói bất đồng

Văn bút Hoa Kỳ nhắc lại việc Chính phủ Việt Nam thành lập Lực lượng 47 gồm 10.000 lính tác chiến mạng của quân đội hồi năm 2015, hay bên cạnh Lực lượng dân sự có tên là E47 để tấn công những tiếng nói phản biện trên mạng xã hội, giúp Nhà nước giám sát chặt chẽ và hạn chế quyền tự do ngôn luận trên các nền tảng kỹ thuật số.

Hai lực lượng trên sử dụng chiến lược báo cáo hàng loạt “vi phạm” tiêu chuẩn cộng đồng trên Facebook, khiến nền tảng này gỡ bỏ các trang hoặc thậm chí cấm chúng. Chiến lược này tận dụng quy trình khiếu nại rườm rà của Facebook trong bối cảnh công ty công nghệ của Mỹ thiếu chuyên gia nói tiếng Việt trợ giúp quá trình khiếu nại.

Trong khi đó, Chính phủ Việt Nam đang gia tăng yêu cầu đối với các nền tảng, bao gồm yêu cầu gỡ bỏ những gì họ xác định là “tin giả” trong vòng 24 giờ.

Nạn nhân của các cuộc tấn công trực tuyến thực hiện bởi hai nhóm trên bao gồm các nhà báo tự do ở trong nước và cả ở nước ngoài, như cựu tù nhân lương tâm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (tức blogger Mẹ Nấm), người đang sống lưu vong ở Hoa Kỳ.

Cuộc tấn công đa hướng vào quyền tự do ngôn luận của chính quyền đặt các nhà văn Việt Nam vào nguy cơ rất lớn, Văn bút Hoa Kỳ nói.

Văn bút Hoa Kỳ kêu gọi Nhà nước Việt Nam bãi bỏ Điều 117 của Bộ luật Hình sự 2015 vốn được sử dụng thường xuyên để bỏ tù nhà báo, blogger và người bất đồng chính kiến.

Tổ chức này cũng kêu gọi Hoa Kỳ tái giới thiệu và thông qua Dự luật Nhân quyền Việt Nam của lưỡng đảng, và yêu cầu Chính phủ Việt Nam tuân thủ các quyên tắc nhân quyền và tự do ngôn luận như một yếu tố nền tảng của mối quan hệ song phương đang mở rộng giữa hai quốc gia.

Hoa Kỳ cần cộng tác với các đối tác ASEAN để tiếp tục vận động cho việc trả tự do cho các nhà văn bị cầm tù và trợ giúp các nhà văn Việt Nam lưu vong, tổ chức này nói.

Dự luật Nhân quyền Việt Nam, được xây dựng bởi Dân biểu của hai đảng, nếu được thông qua, sẽ cho phép Hoa Kỳ trừng phạt các quan chức Việt Nam và những người khác đồng lõa với các hành vi vi phạm có hệ thống các quyền con người được quốc tế công nhận, bao gồm các vi phạm đặc biệt nghiêm trọng đối với quyền tự do tôn giáo.

Một vụ án bất thường

Hoàng HuyềnCâu nói hay mỗi ngày

Nghệ An, một vụ án:

Làm “thất thoát” gần 45 triệu đồng trong 6 năm,

Bị cáo bị giam hơn 1 năm mới đem ra xét xử,

Xử trong 4 ngày,

Lần lượt đuổi cả 2 luật sư ra khỏi phòng xử án,

Đến ngày thứ 4 bị cáo phải tự bào chữa (vì không còn luật sư).

Bị kết án 5 năm tù giam,

Bị cáo phủ nhận toàn bộ cáo trạng và bản án.

Và phát biểu:

“Pháp luật là tối thượng và bất khả vi phạm, không ai có quyền đứng trên luật để hành xử và thực thi nhiệm vụ. Trong vụ án này, căn cứ buộc tội tôi không đúng, không có; trình tự thủ tục tố tụng vi phạm pháp luật hết sức nghiêm trọng nhưng vẫn buộc tội tôi, là vi phạm, gây oan sai cho tôi.

Việc đẩy một người vô tội vào tù là tội ác trời không dung, pháp luật không tha, luật nhân quả không trừ.

Tôi đề nghị trả tự do cho tôi và có biện pháp khắc phục oan sai, đồng thời xử lý nghiêm đối với những người vi phạm pháp luật.

Đây là một vụ án bất thường.

Tôi tin chắc rằng vụ án này sẽ chấn động cả nước, đặc biệt là đến ngành tư pháp và ban tư pháp của Quốc hội. Vì tôi tin chắc rằng, luật sư của tôi, gia đình bạn bè, đồng nghiệp, học sinh cũ, phụ huynh, bà con làng xóm và nhân dân sẽ có tiếng nói kêu oan cho tôi”.

(Lời cô giáo Lê Thị Dung sau khi tự bào chữa sắc bén, đanh thép và lịch lãm tại tòa, lúc 2 luật sư của bà đã lần lượt bị đuổi ra)

Đây là một người đàn bà thép, một nhà giáo bản lĩnh, một công chức hiểu biết và một nhân cách tử tế.

Tg: Thái Hạo

Vài câu hỏi nhức nhối ngày 30-4

Báo Tiếng Dân

04/05/2023

Từ Thức

48 năm! Gần một nửa thế kỷ trôi qua, vết thương vẫn chưa lành. Và chắc sẽ không bao giờ lành đối với hàng triệu gia đình, trong khi có những người khác, đứng đầu là nhà nước, có cơ hội “hát trên những xác người” để ăn mừng chiến thắng. Có cơ hội để khoe khoang, đánh bóng quá khứ, để dân quên thực tại đất nước không có gì đáng kiêu hãnh.

Vài câu hỏi nhức nhối nhiều người đặt ra, hay tự hỏi:

Thứ nhất, có nên tổ chức tưởng niệm ngày 30/4, nửa thế kỷ sau?

Thứ hai, có nên tiếp tục hoạt động chống Cộng, trong khi “càng chống, Cộng sản càng mạnh?”

Thứ ba, mỗi người, dù chân yếu tay mềm, dù không phải là anh hùng, có thể làm gì, đóng góp gì cho công cuộc chung? (1)

1.- Có nên tưởng niệm mỗi năm?

Có người nghĩ nửa thế kỷ sau, có lẽ nên quên chuyện cũ, để hướng về tương lai.

Trái lại, muốn chuẩn bị tương lai, phải ôn lại quá khứ.

Một cộng đồng, một dân tộc không có quá khứ, sẽ không biết mình là ai, không biết phải đi ngả nào. Không có quá khứ, sẽ không có hiện tại, không có tương lại. Ôn lại quá khứ, rút tỉa những kinh nghiệm xương máu, để tìm đường đi cho mình và cho thế hệ sau.

Tưởng niệm ngày 30 tháng 4 để không quên hàng trăm ngàn người đã bỏ mạng trên rừng, trên đường mòn biên giới, trên biển cả với hy vọng được sống tự do.

Quốc gia văn minh nào cũng tưởng niệm những người đã hy sinh trong các cuộc chiến tranh Đệ Nhất, Đệ Nhị Thế chiến, hay xa hơn nữa, bởi vì người chết bị quên lãng sẽ chết lần thứ hai.

Forgive, but not forget. Có thể tha thứ, nhưng không thể quên.

Người Việt có phong tục rất hay, là cúng giỗ. Đặt bàn thờ, hương hoa, hay cả thức ăn, không phải là dấu hiệu của mê tín dị đoan, trái lại, là một cách rất văn minh, để chứng tỏ người chết vẫn ở đâu đó, bên cạnh. Người chết không bao giờ thực sự chết.

Ngày 30/4 là ngày giỗ của hàng triệu gia đình.

Người ta hy vọng, nhưng chắc khó toại nguyện, trong khi hàng triệu đồng bào của mình đang khóc những người chết oan, tức tưởi, những người khác, nhất là những người cầm quyền, không nên nhẫn tâm reo hò, nhẩy múa. Đó là một thái độ man rợ nhất.

Dù hăng say chiến thắng tới đâu, vẫn còn 364 ngày mỗi năm, để tha hồ reo hò, mạ lỵ, chửi rủa, đấu tố, oán thù.

Một lý do nữa để tưởng niệm ngày 30/4: nhắc lại cho thế hệ sau những gì đã xẩy ra nửa thế kỷ trước, cho gia đình, cho cha mẹ của họ.

Hàng triệu người đã liều mạng vượt biển, với cái hy vọng mơ hồ là trôi dạt đến một nơi nào đó có tự do.

Bỏ nước ra đi là một chuyện kinh thiên, động địa với một dân tộc gắn liền với đất nước-đất và nước-đa số chưa hề rời làng mạc, khu phố mình đã sinh ra, lớn lên.

Hàng trăm ngàn người bỏ mạng trên biển cả.

Người Cộng Sản, sở trường trong việc viết lại lịch sử, đã bôi nhọ những người ra đi là chạy theo Mỹ, và sau đó, khi cần tiền họ gởi về, thân ái phong cho họ là những “khúc ruột ngàn dặm”.

Howard Zinn nói, “khi những con thỏ chưa có sử gia, lịch sử sẽ được viết bởi những người đi săn”.

Tưởng niệm ngày 30/4 là nhắc lại sự thực lịch sử. Lịch sử của chiến tranh, lịch sử của một trong những cuộc di cư lánh nạn khủng khiếp, kinh hoàng nhất trong lịch sử nhân loại

2.- Có nên tiếp tục tranh đấu cho tự do?

Nhiều người tự hỏi: có nên tiếp tục tranh đấu chống Cộng hay không, bởi vì nửa thế kỷ sau, Cộng sản vẫn còn đó, hung hăng, tàn bạo? Chưa thấy một hy vọng tự do nào le lói cuối đường hầm.

Điều đó khó chối cãi. 48 năm sau, xã hội VN băng hoại hơn bao giờ hết. Biển đảo bị chiếm đóng, môi trường bị huỷ hoại, bất công tràn lan, tham nhũng khủng khiếp, khiến người Việt, sau nửa thế kỷ đất nước thống nhất, “tự do, dân chủ, cộng hoà, độc lập, tự do, hạnh phúc”, chỉ hy vọng được trốn ra nước ngoài, để lấy chồng, để trồng cần sa, bán dâm, để làm nô lệ.

Trong bối cảnh đó, người Việt hoàn toàn thụ động.

Sau nửa thế kỷ cai trị miền Nam, ¾ thế kỷ miền Bắc, Cộng Sản đã thành công trong công cuộc “thụ nhân” (trồng người), đào tạo một thế hệ vô cảm.

Một mặt, sự đàn áp dã man, chà đạp nhân quyền, ngồi xổm trên những quyền tự do tối thiểu của con người, chế độ đã tạo một dân tộc biết sợ. Và trên cả cái sợ, cái cùm tự kiểm duyệt, coi như đó là một nhân sinh quan, một triết lý sống.

Mặt khác, kinh tế phát triển nhờ nhân công rẻ, ngoan ngoãn, trong một thời đại hoàn cầu hoá, nhờ hàng chục tỷ dollars của các “khúc ruột ngàn dặm” đổ về, nhờ tiền xuất cảng lao động, xuất cảng phụ nữ, Việt Nam biến thành một xã hội tiêu thụ.

Một số người được tiêu pha, chơi bời thả cửa, có ảo tưởng được tự do, hài lòng với thân phận của mình, chấp nhận hay ủng hộ chế độ. Việt Nam trở thành một nhà tù lộ thiên, trong đó tù nhân không muốn vượt ngục nữa (2).

Trong bối cảnh đó, những phong trào tranh đấu cho tự do, dân chủ yếu dần.

Trong nước, những người tranh đấu bị đàn áp dã man; 10, 15 năm tù, cái án dành cho những người cướp của giết người ở những nước bình thường, chỉ vì đã lên tiếng chống cướp nhà, cướp đất, hay đòi quyền thở, quyền sống.

Ở đây, phải bày tỏ sự khâm phục đối với những người vô danh, hay nổi tiếng, đã can đảm tranh đấu trong hoàn cảnh khắc nghiệt, và nhất là trong sự cô đơn, giữa một biển vô cảm.

Ở hải ngoại, phong trào cũng yếu dần, vì chia rẽ, vì bệnh cá nhân chủ nghĩa, vì cái tôi quá lớn (3), vì tổ chức luộm thuộm, khái niệm rất mơ hồ về dân chủ, rất mơ hồ về sự hữu hiệu của mỗi hành động.

Nhiều người có cảm tưởng họ chống nhau, hơn là chống Cộng. Sẵn sàng chụp mũ nhau là Cộng Sản, chỉ vì một câu nói vụng về, một câu trích khỏi một bài, trái hẳn với ý của người viết. Đôi khi chỉ vì tỵ hiềm cá nhân, vì ganh ghét, vì độc ác. Trong khi đó, Công Sản gộc, thứ thiệt, ngang nhiên mua nhà cửa, họp hành, ra báo, lập đài phát thanh, truyền hình, lộng hành trước mắt bàn dân, thiên hạ, ngay giữa cộng đồng tỵ nạn.

Nhiều khi những người chống Cộng hăng say chống nhau, quên cả chống Cộng.

Quả thực là tình trạng đáng ngao ngán, khiến nhiều người muốn bỏ cuộc.

Nhưng suy nghĩ lại, có quả thực là các hoạt động đó hoàn toàn vô bổ không?

Nếu Việt Nam chưa phải là Bắc Hàn, bởi vì CS không muốn đóng cửa để mất nguồn ngoại tệ khổng lồ, nhưng cũng bởi vì có những người kiên trì tranh đấu ở hải ngoại, tiếp tay với những người tranh đấu trong nước, lên tiếng tố cáo các chính sách đàn áp, các hành động đàn áp dã man của nhà nước.

Cộng sản chùn tay, không phải vì muốn được kính trọng đôi chút, nhưng bởi vì còn muốn làm ăn, buôn bán với thế giới bên ngoài.

Những hoạt động hải ngoại, dù chưa đạt kết quả mong muốn, dù có nhiều khuyết điểm, vẫn chứng tỏ có những người không bỏ cuộc, nửa thế kỷ sau ngày 30/4/75.

Tại sao không thể bỏ cuộc lúc này. Bởi vì cuộc chiến trở thành một mặt trận văn hoá. Ai cũng nghĩ và mong có thay đổi chính trị ở VN, bởi vì một nhóm người cai trị gần 100 triệu dân, vô thời hạn, là một chuyện quái đản ở thế kỷ 21.

Nhưng chỉ có thay đổi nếu hội đủ 2 điều kiện: Thứ nhất, người dân ý thức mình đang sống trong một nhà tù không tường, mặc dù được hưởng những tự do phù phiếm như ăn chơi, tiêu thụ. Thứ hai, mọi người nghĩ những thay đổi sẽ có kết quả tốt cho chính mình, cho gia đình mình.

Dân chủ đối với đa số vẫn còn là một ý niệm mơ hồ, nếu không phải là đề tài để nhạo báng. Đa số vẫn chưa ý thức rằng tất cả những vấn đề của VN, từ bất công khủng khiếp, tới tham nhũng kinh hoàng, giáo dục bế tắc sẽ không bao giờ giải quyết được, nếu không có một thể chế dân chủ.

Việc thuyết phục người đồng hương là chuyện của mỗi chúng ta, mỗi ngày.

3.- Mỗi người có thể làm gì?

Không phải ai cũng là anh hùng, không phải ai cũng là những nhà hoạt động, sẵn sàng hy sinh. Nhưng mọi người đều có thể đóng góp.

Khi tôi giải thích cho con cháu lịch sử cận đại của VN, tôi đóng góp cho việc chống lại âm mưu viết lại lịch sử của tập đoàn cầm quyền.

Khi tôi kể cho bạn bè trong nước những sinh hoạt dân chủ nơi tôi đang sống, tôi đóng góp vào việc phát triển ý thức, và kiến thức dân chủ.

Khi tôi liên lạc với các giới chức, các hội đoàn nơi tôi đang sống, hay với những du khách tới VN, để nói về những vi phạm nhân quyền, tôi đóng góp vào việc cho thế giới bên ngoài biết về thực trạng VN.

Đó chỉ là những thí dụ. Còn hàng ngàn những chuyện khác, mọi người có thể làm. Nếu một triệu người làm những việc nhỏ, kết quả sẽ rất lớn.

Một câu nói nổi tiếng mà người ta gán cho Lão Tử: Hãy thắp một ngọn nến, còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối. Đôi khi chúng ta quên cả nguyền rủa bóng tối, vì còn say sưa nguyền rủa nhau.

Những khuyết điểm, những sai lầm của những người chống Cộng đã khiến hai chữ “chống Cộng” mất dần ý nghĩa

Nhiều người xa lánh, không muốn liên luỵ tới những chuyện đánh phá cá nhân, bè phái.

Albert Camus nói, cuộc đời là những cuộc tranh đấu, nếu không tranh đấu cho lẽ phải, không nổi giận trước những bất công, cuộc đời chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Nhưng Camus nói thêm: nổi loạn, hay phẫn nộ phải có đối tượng, không bao giờ mù quáng, vô vạ, miễn phí (la révolte est ciblée, jamais aveugle ni gratuite).

Chống Cộng, nửa thế kỷ sau, không phải vì oán thù, không phải vì bị cướp nhà cướp đất, mà bởi vì nghĩ rằng, biết rằng chế độ Cộng Sản đưa tới bế tắc cho dân tộc. Bế tắc và diệt vong.

Tôi chống Cộng bởi vì không muốn nước tôi không có giáo dục, chỉ có nhồi sọ; không có văn hoá, chỉ có tuyên truyền; không có quyền làm người, chỉ có quyền tuân lệnh; không có quyền suy nghĩ, chỉ có quyền ăn chơi.

Hiểu theo nghĩa đó, chống Cộng là một nghĩa vụ trong sáng nhất, khẩn cấp nhất. Không phải là chuyện phù phiếm, như nhiều người nghĩ. Có người thành thực nghĩ như vậy, có người mượn đó là một cái cớ để buông tay, hay đồng loã với cái ác.

_________

(1) Bài này ghi lại và bổ túc bài nói chuyện trong cuộc hội luận ngày 29/4/2023 do Cộng Đồng Người Việt Quốc gia Tư Do tổ chức, tại Paris, Pháp.

Tự do báo chí toàn cầu: Việt Nam tụt bốn bậc xuống nhóm ba quốc gia cuối bảng

RFA

2023.05.03

Việt Nam nằm trong khu vực đỏ (không có tự do báo chí) trong bản đồ của RSF 2023

Ảnh chụp màn hình báo cáo của RSF

Tự do báo chí toàn cầu: Việt Nam tụt bốn bậc xuống nhóm ba quốc gia cuối bảng

Báo cáo toàn cầu về tự do báo chí năm 2023 của tổ chức Phóng viên Không biên giới (RSF) xếp Việt Nam vào nhóm ba quốc gia đứng cuối  bảng. Hai nước còn lại là Trung Quốc và Bắc Triều Tiên.

Trong báo cáo được RSF công bố nhân ngày Báo chí Toàn cầu 03/5, Việt Nam tụt bốn hạng kể từ năm ngoái và hiện đứng thứ 178 trên tổng số 180 quốc gia và vùng lãnh thổ được khảo sát, chỉ trên Trung Quốc (179) và Bắc Triều Tiên (180).

Trong năm tiêu chí đánh giá của RSF, Việt Nam có ba tiêu chí bị suy giảm so với năm 2022. Cụ thể, chỉ số chính trị giảm từ hạng 173 xuống 179, chỉ số kinh tế giảm từ 176 xuống 180, và chỉ số lập pháp từ 172 xuống 177.

Tuy nhiên, Việt Nam có hai tiêu chí chỉ số xã hội và chỉ số an ninh tăng trong năm 2023: đều từ vị trí 170 của năm 2022 lên vị trí 163 năm 2023.

Thứ hạng 178 năm nay là vị trí thấp nhất của Việt Nam kể từ khi RSF đưa ra bảng xếp hạng hồi năm 2002. Năm 2020 Việt Nam có thứ hạng 172, năm 2021- 175, và 174 trong năm 2022. Điều này cho thấy tự do báo chí của Việt Nam ngày càng suy giảm.

Báo chí truyền thống của Việt Nam bị kiểm soát chặt chẽ bởi một đảng. Các nhà báo tự do và blogger thường xuyên bị cầm tù, biến Việt Nam thành nhà tù lớn thứ ba trên thế giới đối với nhà báo,” RSF nói về Việt Nam trong báo cáo năm 2023, kèm theo con số 42 nhà báo hiện đang bị bỏ tù ở quốc gia độc đảng này.

Trong số các nhà báo đang bị giam cầm có bốn blogger và cộng tác viên của Đài Á Châu Tự Do (RFA), đó là các ông Nguyễn Tường Thuỵ, Trương Duy Nhất, Nguyễn Lân Thắng, và Nguyễn Văn Hoá.

Bình luận về tự do báo chí ở Việt Nam, một nhà báo đề nghị giấu danh tính vì lý do an ninh, nói với RFA trong ngày thứ tư 03/5 rằng ông đồng tình với báo cáo của RSF:

Có thể nói, chưa bao giờ giới bất đồng chính kiến, mà đại diện là các nhà báo độc lập ở Việt Nam rơi vào cảnh bị đàn áp khốc liệt như bây giờ.”

RSF chỉ trích bản án 8 năm tù cho cựu nhà báo Trần Thị Tuyết Diệu - Xa ...

Người này cho rằng đàn áp tự do báo chí trở nên khốc liệt hơn từ khi Luật An ninh Mạng ra đời (2019), cùng với việc nhà cầm quyền sử dụng các điều khoản 117 và 331 của Bộ luật Hình sự 2015 trong việc kết án người đấu tranh. Thậm chí, Điều khoản 331 còn được sử dụng để giải quyết những tranh chấp dân sự.

Dường như nhà cầm quyền Việt Nam bất chấp các chỉ trích quốc tế về vi phạm nhân quyền. Các cường quốc cần áp dụng các chế tài cụ thể về kinh tế, chính trị và văn hoá để buộc Hà Nội phải cải thiện hồ sơ nhân quyền, trong đó có quyền tự do báo chí và thông tin,” người này nói.

Bức tranh về truyền thông

Theo RSF, ở Việt Nam, các blogger và nhà báo độc lập là những nguồn tin tức và thông tin được đưa tin tự do duy nhất ở một đất nước mà tất cả các phương tiện truyền thông đều tuân theo chỉ đạo của Đảng Cộng sản vốn toàn quyền cai trị quốc gia từ năm 1975.

-Việt Nam: Lại một đợt đàn áp các blogger và nhà hoạt động nhân quyền ...

Với 64 triệu người dùng – con số cao thứ bảy trên thế giới – Facebook là mạng xã hội lớn nhất, nền tảng trực tuyến phổ biến và phục vụ như một công cụ chính để lưu hành tin tức và thông tin ở Việt Nam. Ứng dụng nhắn tin Zalo của Việt Nam cũng được sử dụng rộng rãi để chia sẻ thông tin.

Bối cảnh chính trị

Nhà nước độc đảng đặt mục tiêu kiểm soát mọi thứ và để đạt được mục tiêu này, quân đội đã phát triển Lực lượng 47, một đơn vị với 10.000 binh sĩ mạng có nhiệm vụ bảo vệ đường lối của đảng và tấn công tất cả những người bất đồng chính kiến trên mạng.

Luật An ninh Mạng 2019 yêu cầu các nền tảng lưu trữ dữ liệu người dùng ở Việt Nam và chuyển giao cho cơ quan chức năng khi có yêu cầu.

Khuôn khổ pháp lý

Quyền tự do báo chí được ghi trong Điều 19 của Hiến pháp 2013. Tuy nhiên, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ pháp lý để bỏ tù bất kỳ người nào đưa tin tức và thông tin gây hại cho chế độ.

Đó là các Điều 109 “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền,” Điều 117 “Tuyên truyền chống nhà nước,” và Điều 331 “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ” với mức án cao nhất có thể lên đến 20 năm tù giam.

Bối cảnh văn hóa xã hội

Nhiều chủ đề bị kiểm duyệt bao gồm các nhà bất đồng chính kiến, các vụ tham nhũng liên quan đến các quan chức cấp cao, tính hợp pháp của Đảng, quan hệ với Trung Quốc và, tất nhiên, các vấn đề nhân quyền.

Các chủ đề được coi là ít nhạy cảm hơn, chẳng hạn như các vấn đề môi trường hoặc quyền của người đồng tính và người chuyển giới (LGBT), đang được xã hội quan tâm.

Sự năng động của cộng đồng người Việt hải ngoại đóng vai trò cơ bản trong việc trợ giúp và chuyển tiếp tiếng nói độc lập của đất nước, RSF nói trong báo cáo.

Sự an toàn của nhà báo

Theo RSF, Nhà nước Việt Nam gia tăng trấn áp đối với các nhà báo độc lập từ khi Tổng bí thư Đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng áp đặt một đường lối bảo thủ hơn vào năm 2016. Bộ máy này đàn áp tất cả các sáng kiến báo chí xuất phát từ xã hội dân sự, chẳng hạn như Báo Sạch và Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam.

Bà Phạm Đoan Trang, người được trao Giải thưởng Tự do Báo chí của RSF năm 2019, đã bị kết án chín năm tù, RFS nhấn mạnh.

Vietnam: Immediately release independent journalist and human… | OMCT

Phóng viên RFA gọi điện và gửi email cho Bộ Ngoại giao Việt Nam để đề nghị bình luận về báo cáo của RSF nhưng không nhận được phản hồi.

RSF thường xuyên lên tiếng khi Việt Nam đàn áp báo chí tự do. Gần đây nhất là lời kêu gọi Hà Nội công khai tình trạng của blogger Đường Văn Thái và phóng thích ông trở lại Thái Lan, nơi ông tị nạn chính trị từ đầu năm 2019.

Blogger này mất tích ở Thái Lan vào ngày 13/4 vừa qua, ba ngày sau, báo chí Nhà nước loan tin ông bị bắt khi “nhập cảnh bất hợp pháp” từ Lào vào Việt Nam ngày 14/4.

Từ đó đến nay, công an và truyền thông Nhà nước hoàn toàn im lặng, không công bố bất cứ thông tin nào liên quan đến nhà báo tự do chuyên đưa tin “nội bộ” về tham nhũng và tranh giành quyền lực của quan chức chế độ.

Tháng trước, sau khi toà án Hà Nội kết án nhà hoạt động Nguyễn Lân Thắng, blogger của RFA, với bản án sáu năm tù giam và hai năm quản chế, RSF cũng chỉ trích Việt Nam và yêu cầu trả tự do cho ông ngay lập tức và vô điều kiện.

Trên bình diện quốc tế, RSF nhận định tự do báo chí rơi vào tình trạng “rất nghiêm trọng” tại 31 quốc gia, “khó khăn” tại 42 quốc gia khác, “có vấn đề” tại 55 nước, và “tốt” hoặc “đạt yêu cầu” tại 52 quốc gia còn lại.

Chuẩn mực đạo đức thời cũ và cán bộ, đảng viên thời nay!

Đài Á Châu Tự Do 

Cựu Trung tá Vũ Minh Trí, từng công tác tại Tổng cục II, hôm 2/5/2023, cho rằng:

“Càng hô hào nhiều thì tư cách cán bộ ngày càng đi xuống, phẩm chất của cán bộ ngày càng hủ bại. Ta có thể thấy điều này rất rõ qua số lượng cán bộ bị kỷ luật, bị truy tố xét xử và bị bắt bỏ tù theo từng năm. Nếu trước kia chỉ ở những cán bộ cấp thấp, thì bây giờ đã khá phổ biến ở những cán bộ cấp rất cao. Cho nên đảng càng hô hào, càng tán dương, càng có cuộc vận động nọ kia, thì phẩm chất cán bộ ngày càng đi xuống.”

Theo ông Trí, tiêu chuẩn của cán bộ hiện hoàn toàn xa rời với thực tế, vẫn lấy những tiêu chuẩn cũ từ thời kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp, cách nay 50-60 năm áp dụng cho bây giờ, trong đó đòi hỏi cán bộ phải không có tham vọng quyền lực. Ông Trí nói tiếp:

“Trong khi lòng tham, động cơ cá nhân là một trong những động lực mạnh nhất giúp cho con người ta tiến bộ, phấn đấu. Nếu cán bộ không có tham vọng quyền lực, không có tham tiền thì chẳng ai đi làm cán bộ, người ta đi tu hết. Tôi nhớ đã có một câu nói ‘không chọn những người có tham vọng quyền lực’… theo tôi rất là vô duyên. Cho nên thời buổi này tư tưởng phải khác hẳn cách đây 50-60 năm. Ví dụ như vừa rồi có cuộc vận động hoàn toàn thất bại là ‘học tập và làm việc theo gương đạo đức Hồ Chí Minh’… Khi tổng kết có 3 bí thư tỉnh ủy và một số tổng giám đốc được khen thưởng toàn quốc. Về sau thì một Tổng giám đốc đi tù, một Bí thư tỉnh ủy Huế là Hồ Xuân Mãn bị phát hiện gian trá và bị tước danh hiệu anh hùng.”

Vì thế Ông Trí cho rằng, đem áp dụng một tiêu chuẩn của thời cũ vào thời mới này thì hoàn toàn không đúng, nhưng vì đã phát động nên cán bộ đua nhau hót theo. Ông Trí cho biết thêm:

“Nhưng tôi nghĩ, kể cả ông Hồ sống lại thì cũng không được bổ nhiệm, thậm chí bị đi tù vì có những phát ngôn hoàn toàn sai với thực tế bây giờ. Ví dụ ông Hồ nói nếu chính phủ hư hỏng thì nhân dân có quyền đuổi chính phủ đi. Ông mà nói câu đấy bây giờ thì có thể ông bị can tội tuyên truyền chống chế độ, hay âm mưu lật đổ chính quyền. Hay ông Hồ nói ‘nước độc lập mà dân chưa có tự do, thì độc lập ấy chẳng có ý nghĩa gì’… nhưng rõ ràng dân bây giờ đâu có được tự do. Nếu so với bản yêu sách của nhân dân Đông Dương mà ông Hồ gửi đến Hội nghị Versaille năm 1919 thì đa số những quyền tự do trong đấy, đến bây giờ dân Việt Nam vẫn chưa có.”

Nên ông Trí cho rằng, đem một cái tiêu chuẩn cũ để xây dựng cho một cán bộ mới là hoàn toàn không đúng.

(Photo by Nhac NGUYEN / AFP)

RFA.ORG

Chuẩn mực đạo đức thời cũ và cán bộ, đảng viên thời nay!

Vận động ngoại giao cuối cùng trước ngày 30-04-1975

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả:  Trần Gia Phụng

Bản đồ từ Google (Internet)

Trong cuộc chiến 1954-1975 giữa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở Bắc Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa ở Nam Việt Nam, khi tình hình càng ngày càng căng thẳng và bất lợi cho Nam Việt Nam, thì Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, một nước cộng sản, mở cuộc vận động ngoại giao nhằm tránh sự sụp đổ của Nam Việt Nam.  Đây là một diễn biến khá bất thường, nên để tìm hiểu việc nầy, xin quay trở lại chủ trương ngoại giao của CHND Trung Hoa từ năm 1954 về vấn đề Đông Dương.

Nguyên sau hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia hai Việt Nam ở vĩ tuyến 17, nhà cầm quyền CHND Trung Hoa chẳng những bang giao với nhà cầm quyền cộng sản ở Bắc Việt Nam, mà còn đề nghị bang giao với chế độ tương lai thân tây phương ở Nam Việt Nam.  Tuy nhiên Nam Việt Nam đã từ chối. (Stanley Karnov, Vietnam A History, New York: The Viking Press, 1983, tr. 204.  Nguyễn Văn Duệ, Nhớ lại những ngày ở cạnh tổng thống Ngô Đình Diệm, California, 2003, tt. 33-34.)

Sự kiện nầy cho thấy tuy Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHND Trung Hoa) theo chủ nghĩa cộng sản, nhưng chủ trương mở rộng ngoại giao với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt học thuyết hay chủ nghĩa chính trị, dù cộng sản hay tư bản, miễn sao có lợi cho CHND Trung Hoa.

Ngày 8-3-1965, ở Nam Việt Nam, thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đổ bộ vào Đà Nẵng để giúp quân đội Nam Việt Nam chống quân đội cộng sản từ bắc vào nam.

Hai tháng sau (5-1965) CHND Trung Hoa bắt đầu gởi quân qua giúp Bắc Việt Nam, nói rằng để giúp Bắc Việt Nam xây dựng hạ tầng cơ sở, đường sá, thiết lộ, cầu cống. Số quân nầy tăng dần lên tối đa trên 310,000 quân.  Quân đội CHND Trung Hoa chẳng những chỉ giúp Bắc Việt Nam, mà còn để bảo vệ mặt nam CHND Trung Hoa.  Lực lượng CHND Trung Hoa đóng rãi rác khắp các tỉnh thành ở phía bắc sông Hồng.

Nguồn ảnh: The Blade, Toledo, Ohio: Thứ Ba 16-5-1989. (Trích lại từ DCVOnline.net, ngày 13-8-2012.)

Trong nội bộ khối cộng sản quốc tế, sau khi Stalin chết năm 1953, hai bên CHND Trung Hoa và Liên Xô bắt đầu tranh chấp nhau, rồi sau đó vào tháng 3-1969, quân đội hai nước thực sự đánh nhau tại vùng sông Ussuri (Ô Tô Lý), một phụ lưu của sông Amur, ở biên giới phía đông bắc Trung Hoa, nên hai bên càng thêm đố kỵ nhau.

Vị trí đóng quân của quân đội CHND Trung Hoa ở Bắc Việt Nam
Chú thích: PLA = People Liberation
Army = Nhân Dân Giải Phóng Quân.
Nguồn: Xiaobing Li, A History of the Modern Chinese Army,
The University Press of Kentucky, 2007, tr.2

Trong khi tranh chấp với CHND Trung Hoa, Liên Xô tăng viện mạnh mẽ cho Bắc Việt Nam vừa để Bắc Việt Nam cầm chân Hoa Kỳ tại Á Châu, vừa để lôi cuốn Bắc Việt Nam về phía Liên Xô trong khối cộng sản quốc tế.

Điều nầy khiến cho CHND Trung Hoa quan ngại rằng một khi Bắc Việt Nam chiến thắng Nam Việt Nam, làm chủ toàn bộ Việt Nam, thì đảng cộng sản Việt Nam sẽ rảnh tay phía nam, có thể liên kết với Liên Xô chống CHND Trung Hoa.

Trong trường hợp Bắc Việt Nam thành công ở Việt Nam, CHND Trung Hoa có thể sẽ lâm vào thế hai đầu gặp địch: Liên Xô ở phía bắc, cộng sản Việt Nam ở phía nam.  Vì vậy CHND Trung Hoa ra sức vận động nhằm giữ cho Việt Nam Cộng Hòa ở Nam Việt Nam khỏi sụp đổ, để cầm chân Bắc Việt Nam.  Đồng thời CHND Trung Hoa bắt đầu thay đổi thái độ đối với Hoa Kỳ. (George J. Veith, sđd. tt. 555-556.)

Về phía Hoa Kỳ, vào cuối thập niên 60, học thuyết địa lý chính trị (geopolitics) mới thịnh hành, cho rằng Bắc Việt Nam không nguy hiểm đối với Hoa Kỳ bằng Liên Xô và CHND Trung Hoa, là hai nước cộng sản thủ đắc võ khí nguyên tử, có thể bất ngờ tấn công hủy diệt Hoa Kỳ.  Học thuyết nầy khuyến khích Hoa Kỳ hòa hoãn với Liên Xô và CHND Trung Hoa, đồng thời rút quân ra khỏi Nam Việt Nam để tránh khiêu khích CHND Trung Hoa.

Thêm vào đó, lúc bấy giờ lại diễn ra những cuộc biểu tình phản chiến, chống chiến tranh Việt Nam rầm rộ khắp thế giới và tại nội địa Hoa Kỳ.  Sự kiện nầy ảnh hưởng đến cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vào đầu tháng 11-1968.  Trong cuộc bầu cử năm nầy, dân chúng Hoa Kỳ chọn Richard Nixon làm tổng thống.  Khi tranh cử, Nixon hứa hẹn với dân chúng sẽ đem lại “hòa bình trong danh dự” cho Hoa Kỳ.

Như thế, trước đây tuy đối địch nhau, nhưng nay Hoa Kỳ và CHND Trung Hoa đều có nhu cầu xích lại gần nhau.  Dấu hiệu thân thiện công khai đầu tiên của cả hai bên là: CHND Trung Hoa mời đoàn tuyển thủ bóng bàn Hoa Kỳ sang thi đấu giao hữu tại Bắc Kinh ngày 14-4-1971; và cũng trong ngày nầy, Hoa Kỳ quyết định bãi bỏ lệnh cấm vận CHND Trung Hoa, mà Hoa Kỳ đã thiết lập từ năm 1949.

Cũng trong năm 1971, trong một cuộc tiếp tân tại tòa đại sứ Miến Điện ở Paris, đại diện của thủ tướng CHND Trung Hoa gặp gỡ và đàm đạo với tiến sĩ Nguyễn Xuân Phong, một thành viên trong phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa đang tham dự hội nghị Paris.  Ông Phong đã từng cầm đầu phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc họp tại Paris ngày 18-1-1969 giữa bốn bên Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, để bàn về thủ tục hội nghị Paris sắp bắt đầu.

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Phong không công bố nội dung cuộc gặp gỡ với đại diện của CHND Trung Hoa.  Về sau, ông cho biết sơ lược rằng đại diện của CHND Trung Hoa tỏ ý tìm cách liên lạc với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, nhưng tổng thống Thiệu không trả lời. (George J. Veith: “China and the Fall of South Vietnam: the Last Great Secret of the Vietnam War”. Internet: 9-2-2022: History and Public Policy Program.)

Vào đầu năm 1972, khi gặp Alexander Haig (lúc đó là Deputy National Security Advisor của tổng thống Hoa Kỳ) đến Bắc Kinh để bàn thảo chương trình thăm viếng CHND Trung Hoa của tổng thống Richard Nixon, thủ tướng CHND Trung Hoa là Châu Ân Lai đã dặn dò Haig rằng: “Do not lose in Vietnam.” (“Đừng để thua ở Việt Nam.”)  Theo Haig, CHND Trung Hoa quan ngại rằng Hoa Kỳ rút lui khỏi Đông Nam Á là điều nguy hiểm cho CHND Trung Hoa. (George J. Veith, sđd. tr. 557.)

Ngoài ra, cựu phó tổng thống Việt Nam Cộng Hòa là Nguyễn Cao Kỳ (nhiệm kỳ 1967-1971), còn cho biết rằng CHND Trung Hoa đã cử đại diện tiếp xúc với ông tại Sài Gòn vào cuối năm 1972, đề nghị ông Kỳ đảo chánh lật đổ tổng thống Thiệu, rồi tuyên bố Nam Viêt Nam trung lập, không theo Hoa Kỳ, cũng không theo Liên Xô, thì CHND Trung Hoa sẽ ủng hộ ông Kỳ giữ cho Việt Nam Cộng Hòa khỏi sụp đổ. Tuy nhiên ông Kỳ đã từ chối đề nghị nầy. (George J. Veith, sđd. tr. 557.).

Sau trận Hoàng Sa ngày 19-1-1974, khi trả tù binh Việt Nam Cộng Hòa về nước, CHND Trung Hoa đề nghị với Việt Nam Cộng Hòa mở một cuộc họp giữa hai bên.  Việt Nam Cộng Hòa không trả lời.  Vào mùa hè năm đó (1974), CHND Trung Hoa nhờ người nói chuyện lần nữa với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, nhưng người nầy lại trình bày với đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn là Graham Martin, và đại sứ Martin cũng im lặng luôn. (George J. Veith, sđd. tr. 557.)

Tất cả những sự kiện trên đây cho thấy ngay từ trước hiệp định Paris (27-01-1973) và trước khi CHND Trung Hoa rút hết quân ra khỏi Bắc Việt Nam (1973), CHND Trung Hoa muốn duy trì nguyên trạng miền Nam Việt Nam, không để Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ.

Xin đừng quên lúc đó người Việt gốc Hoa chẳng những tập trung khá đông ở Chợ Lớn (Sài Gòn), Biên Hòa, mà còn sống rãi rác tại các thành phố dọc duyên hải Nam Việt Nam và các thành phố miền tây nam Việt Nam, qua tận Cambodia, hoạt động thương mại rất nhộn nhịp.

Bên cạnh những vận động của CHND Trung Hoa, một người Pháp cũng góp sức nhằm duy trì Nam Việt Nam tránh sụp đổ năm 1975 là Paul Vanuxem.

Paul Vanuxem đã từng tham chiến ở Việt Nam trước năm 1954 khi còn cấp bậc đại tá.  Về Pháp, ông thăng dần lên cấp trung tướng, rồi xuất ngũ vào giữa thập niên 60 và hoạt động trong ngành báo chí.  Tháng 4-1975, Paul Vanuxem đến Nam Việt Nam với tư cách là đặc phái viên của tuần báo Carrefour.

Sáng ngày 30-4-1975, Paul Vanuxem đến dinh Độc Lập, gặp cựu đại tướng Dương Văn Minh, vừa nhận chức tổng thống chiều ngày 28-4-1975.  Hai bên có thể đã từng quen biết nhau từ thời còn là sĩ quan trong quân đội Liên Hiệp Pháp trước 1954.  Trong lúc Paul Vanuxem và Dương Văn Minh đàm luận, có ba người chứng kiến là Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn Võ Diệp và Lý Quý Chung.

Nguyễn Hữu Hạnh nguyên là chuẩn tướng quân lực Việt Nam Cộng Hòa, giải ngũ tháng 4-1974, được tân tổng thống Dương Văn Minh giao chức phó tổng tham mưu trưởng quân đội. Sau ngày 30-4-1975, người ta mới biết Nguyễn Hữu Hạnh là kẻ “nằm vùng”, bí mật hợp tác với cộng sản khi còn tại ngũ.  Trong một cuộc phỏng vấn của đài truyền hình PBS (Hoa Kỳ) năm 1981, Nguyễn Hữu Hạnh tiết lộ chi tiết cuộc gặp gỡ trên đây giữa hai cựu tướng Pháp-Việt. (George J. Veith, Drawn Swords in a Distant Land, New York: Encounter Books, 2021, tr. 559.)  (PBS = Public Broadcasting Service – Series Vietnam: A Television History.)

Nguyễn Võ Diệp đã từng giữ chức tổng trưởng bộ thương mại và kinh tế chính phủ Nguyễn Bá Cẩn ngày 14-4-1975, tức chính phủ cuối cùng thời tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

Lý Quý Chung là dân biểu nền Đệ Nhị Cộng Hòa, được cựu đại tướng Dương Văn Minh mời làm tổng trưởng thông tin.  Lý Quý Chung cho biết:  Trong cuộc nói chuyện tại dinh Độc Lập ngày 30-4-1975, khi Paul Vanuxem đưa ra đề nghị với cưu đại tướng Dương Văn Minh hãy kêu gọi CHND Trung Hoa giúp đỡ để cứu vãn tình hình, thì cựu đại tướng Minh cười lớn và trả lời Vanuxem rằng: “…Tôi xin cảm ơn các ý định tốt đẹp của ông, nhưng trong đời tôi, tôi đã phục vụ như kẻ tay sai của Pháp, rồi kẻ tay sai của Mỹ.  Đủ rồi, tôi không muốn làm tay sai lần nữa...” (“… I thank you for your good intentions, but during my life I have already served as a lackey for the French and then as a lackey for the Americans.  That is enough, I do not want to be a lackey again…” (George J. Veith, sđd. tr. 560.)  [Lý Quý Chung sau năm 1975 là nhà báo Chánh Trinh, chuyên viết về thể thao.]

Chính phủ Pháp không lên tiếng về việc nầy vì nguyên tắc ngoại giao quốc tế là không can thiệp vào nội tình nước khác.  Trong khi đó, theo gia đình Paul Vanuxem, không thể có chuyện chính phủ Pháp giao cho ông việc liên lạc với cựu đại tướng Dương Văn Minh, vì Paul Vanuxem từng bị chính phủ Pháp khiển trách do ông đã liên hệ đến biến động ngày 21-4-1961 về vấn đề Algérie. Hơn nữa, vào năm 1975, chính phủ Pháp có sẵn tòa đại sứ tại Sài Gòn, thì chính phủ Pháp đâu cần đến Vanuxem. (George J. Veith, “China and the Fall of South Vietnam: the Last Great Secret of the Vietnam War”. Internet: 9-2-2022.)

Ngang đây, một câu hỏi được đặt ra là nếu Paul Vanuxem tự mình đứng ra vận động, thì ông vận động để làm gì? Vận động cho ai?  Thêm nữa, trước khi đề nghị với cựu đại tướng Minh kêu gọi CHND Trung Hoa giúp đỡ, phải chăng Paul Vanuxem đã liên lac trước với các giới chức CHND Trung Hoa nên ông mới biết dự tính của nước nầy, hay Vanuxem chỉ tiên đoán ý định của CHND Trung Hoa?  Vẫn chưa có câu trả lời.

Lúc đó, Pháp còn nhiều quyền lợi ở Nam Việt Nam, nhứt là việc giao thương và các đồn điền Pháp ở Nam Việt Nam. Việt Nam còn được Pháp sắp vào nhóm “francophonie” (cộng đồng Pháp ngữ).

Vào năm 1975, sau khi quân đội Bắc Việt Nam chiếm quân khu I ngày 29-3-1975, chiếm quân khu II ngày 18-4-1975, và tiến xuống phía nam, đe dọa Sài Gòn, thì đại sứ Pháp là Jean Marie Mérillon cố gắng thuyết phục đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin áp lực tổng thống Thiệu từ chức. (Chính Đạo, 55 ngày đêm: Cuộc sụp đổ của VNCH, Houston, Nxb. Văn Hóa, 1999, tt. 309-312.)

Lúc đó tại Sài Gòn lan truyền những tin đồn rằng cộng sản sẵn sàng thương thuyết nếu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra đi, nhưng tin tình báo của Hoa Kỳ từ Tây Ninh ngày 8-4 cho biết Bắc Việt Nam quyết đánh sập Việt Nam Cộng Hòa dầu tổng thống Thiệu từ chức. (Thomas L. Ahern Jr., CIA and the Generals,1998, Center for the Study of Intelligence, tr. 175.)

Cuối cùng, do tình hình biến chuyển mau lẹ, Graham Martin gởi điện văn tối mật ngày 17-4 về Washington DC, xin chính phủ Hoa Kỳ cho ông thuyết phục tổng thống Thiệu từ chức.  Ông được ngoại trưởng lúc đó là Henry Kissinger đồng ý. (Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter, Hồ sơ mật dinh Độc Lập, Los Angeles: C&K Promotions, INC. 1987, tt. 554-556.)

Tối thứ Bảy 19-4-1975, Graham Martin cử Charles Timmes, một nhân viên CIA (Central Intelligence Agency) trong phái bộ DAO (Decentralized Autonomous Organization) đến thuyết phục tổng thống Thiệu từ chức.

Hôm sau, 20-4-1975, đích thân đại sứ Martin đến gặp tổng thống Thiệu.  Đại sứ Hoa Kỳ nói với tổng thống Thiệu rằng ông không yêu cầu tổng thống từ chức, nhưng chỉ còn một ít thời gian để tránh việc cộng sản tấn công Sài Gòn, nếu tổng thống không từ chức thì các tướng lãnh sẽ có thể yêu cầu điều đó. (Thomas L. Ahern, Jr., sđd. tr. 189.)

Cuối cùng, tối 21-4-1975, tại phủ tổng thống (dinh Độc Lập), tổng thống Nguyễn Văn Thiệu loan báo quyết định từ chức và theo hiến định, giao quyền cho phó tổng thống Trần Văn Hương.

Trước khi nhận chức, giáo sư Trần Văn Hương mời cựu đại tướng Dương Văn Minh cộng tác và làm thủ tướng chính phủ, nhưng cựu đại tướng Minh từ chối và nói rằng: “Thầy [chỉ ông Hương] đã hy sinh đến mức này, thôi xin thầy ráng hy sinh một bước nữa mà thầy trao trọn quyền cho tôi.” (Nguyên văn lời trong diễn văn nhận chức của tổng thống Trần Văn Hương.) (Internet).

Giáo sư Trần Văn Hương cho rằng làm như thế là trái với hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa, nên ông không đồng ý đề nghị của cựu đại tướng Minh.

Sau khi ông Hương nhận chức ngày 21-4-1975, CHND Trung Hoa cử đại diện đến gặp và đề nghị tiếp viện cho Việt Nam Cộng Hòa, nhưng ông Hương từ chối.  Ông nói với giới thân cận: “Cho Trung Cộng vào, chiến cuộc tiếp diễn trên lãnh thổ ta, ngay cả nếu chiến thắng thì khi nào mới đuổi Trung Cộng ra được…” (Đoàn Kim Định ghi lại trong “Lời tâm sự thay cho lời tựa” thi tập Bó Hoa Cuối Mùa của Trần Văn Hương, tái bản tại Hoa Kỳ, 2023, trang X.)

Tân tổng thống Hương mời gặp một người bạn cũ để tham khảo ý kiến là tiến sĩ Nguyễn Xuân Phong.  (Đã viết về hoạt động của ông Phong ở trên.).  Khi gặp nhau, tiến sĩ Phong nói với tổng thống Hương rằng nếu ông Hương còn cầm quyền, thì chắc chắn Bắc Việt Nam sẽ không thương thuyết với Nam Việt Nam.  (George J. Veith, “China and the Fall of South Vietnam…” Internet: 9-2-2022.)

Sau cuộc gặp gỡ nầy, tổng thống Hương quyết định từ chức chiều 28-4-1975 và giao cho quốc hội tùy nghi quyết định người thay thế.  Tuy không được hiến pháp quy định, nhưng do thời cuộc đột biến cấp bách, cuối cùng quốc hội suy cử cựu đại tướng Dương Văn Minh lên thay.

Lúc đó, Pháp đề nghị thêm rằng cựu đại tướng Minh nên liên lạc với Cộng Hòa Lâm Thời Miền Nam Việt Nam để thành lập một chính phủ liên hiệp do cựu đại tướng Minh đứng đầu để thương thuyết với Bắc Việt Nam, nhưng cựu đại tướng Minh không theo kế sách nầy. (George J. Veith, bài đã dẫn: “China and the Fall of South Vietnam…”),

Vì quá cấp bách, không vận động đủ nhân sự, nên khi nhận chức chiều 28-4-1975, chính phủ của tân tổng thống Dương Văn Minh chỉ gồm bốn thành viên là Dương Văn Minh (tổng thống), Nguyễn Văn Huyền (phó tổng thống), Vũ Văn Mẫu (thủ tướng), Lý Quý Chung (tổng trưởng thông tin).

Hôm sau bổ sung thêm các ông Hồ Văn Minh (phó thủ tướng), Bùi Tường Huân (tổng trưởng quốc phòng), Nguyễn Võ Diệu (tổng trưởng kinh tế), trung tướng Vĩnh Lộc (tổng tham mưu trưởng quân đội), Nguyễn Hữu Hạnh (phó tổng tham mưu trưởng quân đội), Triệu Quốc Mạnh (giám đốc nha Cảnh sát Đô thành).  (Lý Quý Chung, Hồi ký không tên, Nxb. Trẻ, 2004, ch. 12.)

Điều đáng chú ý là tại Hà Nội, cuộc họp của bộ chính trị đảng Lao Động từ 30-9 đến 8-10-1974 đưa ra kế hoạch quân sự tại miền Nam năm 1975 là tiếp tục lấn đất giành dân, chỉ sử dụng 10% võ khí dự trữ; đến cuối năm 1976, khi diễn ra cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ thì sẽ tổng tấn công để chiếm toàn bộ Nam Việt Nam.  (Viện Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác Lênin, Lịch sử đảng Cộng Sản Việt Nam, tập II (1954-1975), Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 1995, tr. 648.)  Như thế có nghĩa là Bắc Việt Nam chưa dự tính đánh chiếm Nam Việt Nam trong năm 1975, nhưng do hoàn cảnh thuận lợi, Bắc Việt Nam mới thay đổi kế hoạch.

Nguyên vào lúc đó, tại Hoa Kỳ, quốc hội thông qua “tu chính án Jackson – Vanik”, sửa đổi điều 301 của “Đạo luật Thương mại năm 1974”, đưa ra những điều kiện khó khăn, nhằm hạn chế việc giao thương với các nước cộng sản, mà chính yếu là Liên Xô và CHND Trung Hoa, và được tổng thống Gerald Ford ban hành ngày 3-1-1975. (Wikipedia)

Để trả đũa Hoa Kỳ, Liên Xô gởi đại tướng Viktor Kulikov, thứ trưởng bộ Quốc phòng, đến Hà Nội ngày 22-12-1974, nói là để chào mừng lễ kỷ niệm 30 năm thành lập quân đội Bắc Việt Nam (1944-1974), nhưng thực tế là để nghiên cứu tình hình tại chỗ, tìm cách chống lại Hoa Kỳ.

Khi Viktor Kulikov về nước, Liên Xô tăng viện gấp bốn lần cho Bắc Việt Nam. (Henry Kissinger, Years of Renewal, New York: Simon & Schuster, 1999, tt. 27-28, 481.  Trần Đông Phong, Việt Nam Cộng Hòa, 10 ngày cuối cùng, Fountain Valley, CA: Nxb. Nam Việt, 2006, tt. 29-30.)   Nhờ số viện trợ lớn lao của Liên Xô, Bắc Việt Nam tung quân tấn công mạnh mẽ ở Nam Việt Nam từ đầu năm 1975.

Trong khi đó, quốc hội Hoa Kỳ cắt gỉảm tất cả những chi phí quân sự ở Đông Dương từ tháng 01-1973. (Richard Nixon, No more Vietnam, London: W.H.Allen, 1986, tt. 169-170.)  Viện trợ Hoa Kỳ giúp Việt Nam Cộng Hòa xuống đến độ chỉ đủ cung ứng một nửa nhu cầu của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. (Cao Văn Viên, Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa (Nguyên bản: The final Collapse, Nguyễn Kỳ Phong dịch, Vietnambibliography, 2003, tr. 83-85.)  Quân đội Việt Nam Cộng Hòa thiếu phương tiện chiến đấu, nhứt là xăng dầu, đạn dược…, nên  cuối cùng đành phải buông súng.

Tóm lại, trước ngày 30-4-1975, hai nước CHND Trung Hoa và Pháp vì những quyền lợi riêng tư, đã mở những cuộc vận động ngoại giao quốc tế để tránh sự sụp đổ của chính thể Việt Nam Cộng Hòa ở Nam Việt Nam. Tuy nhiên, những cố gắng của hai nước nầy đã quá trễ, nên cuối cùng đều thất bại.

Hy vọng trong tương lai sẽ còn có nhiều tài liệu khác dần dần được bạch hóa, để có thể làm sáng tỏ hơn nữa lịch sử hiện đại của đất nước chúng ta.

TRẦN GIA PHỤNG

(Đã trình bày tại Viện Việt Học, California, 26-3-2023)

(California, 26-3-2023)

Tin người làm vườn, nữ Việt kiều Mỹ bị ‘dàn cảnh’ lấy trộm $60,000

Báo Nguoi-viet

May 2, 2023

HẬU GIANG, Việt Nam (NV)  Chiều 2 Tháng Năm, Phòng Cảnh Sát Hình Sự Công An tỉnh Hậu Giang đã bắt giữ nghi can Lê Minh Trang, 54 tuổi, ngụ tỉnh Cà Mau, để điều tra về tội “trộm cắp tài sản và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.”

Theo báo Tuổi Trẻ, hôm 1 Tháng Năm, một nữ Việt kiều Mỹ, 50 tuổi, đến Công An xã Đông Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang, trình báo bị mất trộm $60,000, cùng 5 triệu đồng ($213), một điện thoại di động và một số giấy tờ tại nhà ở ấp Phú Lợi, xã Đông Phú.

Nghi can Lê Minh Trang cùng tang vật vụ trộm. (Hình: Huy Phách/Tuổi Trẻ)

Qua điều tra, công an nghi ngờ ông Trang, người làm vườn thuê cho nữ Việt kiều, có nhiều biểu hiện nghi vấn nên mời lên làm việc.

Chiều cùng ngày, nghi can Trang thừa nhận mình lấy trộm tài sản. Kiểm tra hiện trường nơi ông ta cất giấu tài sản, công an thu được nhiều tiền đô la và khoảng 300 triệu đồng ($12,785), cùng giấy tờ của nạn nhân.

Khai với cơ quan điều tra, ông Trang cho biết mình được bà chủ Việt kiều tin tưởng gửi về nhờ giữ dùm $47,000 từ đầu năm đến nay. Nổi lòng tham, ông Trang chiếm đoạt tiêu xài. Gần đây, khi bà chủ từ Mỹ về Việt Nam, sợ bại lộ ông ta lên kế hoạch đối phó.

Sáng 1 Tháng Năm, ông Trang lén lấy hơn $13,000, điện thoại và giấy tờ của bà chủ đem giấu trong bụi cây gần nhà. Sau đó ông ta dàn cảnh hiện trường giả là bị trộm đột nhập lấy tài sản của bà chủ, kể cả số tiền $47,000 mà mình đang giữ dùm. Tá hỏa, nạn nhân trình báo công an.

Bản tin của báo Tuổi Trẻ không tiết lộ danh tính của nữ Việt kiều Mỹ này. (Tr.N) [kn]

Không chấp nhận ‘đa nguyên, đa đảng’ nhưng có thể đa… vương (Phần 1)

Báo Tiếng Dân

Blog VOA

Trân Văn

2-5-2023

Ở những quốc gia văn minh, không bao giờ xảy ra tình trạng, dẫu đã phát giác tội phạm nhưng hệ thống bảo vệ và thực thi pháp luật dân sự phải ngừng lại vì nghi can làm việc cho… Bộ Quốc phòng. Ảnh minh họa. Nguồn: Reuters

Hai nhóm – một đại diện cho… “công an nhân dân”, một đại diện cho… “quân đội nhân dân” – cùng thuộc… “lực lượng vũ trang nhân dân” đã tranh cãi kịch liệt về… “trách nhiệm, quyền hạn” của mỗi bên suốt từ 21 giờ 30 đến sau 23:00…

Sắp tròn hai tuần kể từ ngày công an huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị đối đầu với Biên phòng tỉnh Quảng Trị nhưng các viên chức hữu trách từ địa phương đến trung ương vẫn án binh, bất động.

Cuộc đối đầu vừa kể xảy ra hôm 22/4/2023 ở xã Triệu An, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị là bằng chứng mới nhất về tình trạng sau khi… thống nhất, Việt Nam có rất nhiều lãnh chúa chia nhau làm chủ các lãnh địa và nắm trong tay đủ loại kiêu binh…

***

Cách nay mươi ngày, gần như tất cả các cơ quan truyền thông chính thức tại Việt Nam cùng tường thuật về chuyện biên phòng vây công an ở Quảng Trị… Theo đó, khoảng 8 giờ 30 tối 22/4/2023, một tổ tuần tra của Công an huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị đã lập chốt, chặn những người đang di chuyển trên quốc lộ 49C đoạn chạy qua xã Triệu An để kiểm tra mức độ cồn trong máu của họ. Bởi một trong những người bị chặn lại từ chối thực hiện yêu cầu đo mức độ cồn trong máu nên công an quyết định tạm giữ phương tiện mà người này đang điều khiển với lý do… “không chấp hành yêu cầu kiểm tra về nồng độ cồn của người thi hành công vụ”.

Ngay sau đó một viên trung tá là Đồn trưởng Đồn Biên phòng Triệu Vân dẫn một đoàn xe chở sĩ quan và lính trong đồn đến hiện trường. Lúc đầu nhóm sĩ quan và lính biên phòng yêu cầu công an trả lại phương tiện cho người từ chối “kiểm tra về nồng độ cồn” vì đó là sĩ quan đang làm việc tại đồn. Do công an không đáp ứng, nhóm sĩ quan và lính biên phòng đã vây nhóm công an rồi đòi các cá nhân trong nhóm công an… “xuất trình giấy tờ”. Hai nhóm – một đại diện cho… “công an nhân dân”, một đại diện cho… “quân đội nhân dân” – cùng thuộc… “lực lượng vũ trang nhân dân” đã tranh cãi kịch liệt về… “trách nhiệm, quyền hạn” của mỗi bên suốt từ 21 giờ 30 đến sau 23:00…

Nhiều người chứng kiến đã ghi lại cảnh các bên thuộc… “lực lượng vũ trang nhân dân” thóa mạ, hăm dọa nhau rồi đưa lên Internet. Các cơ quan truyền thông chính thức tại Việt Nam thông tin thêm: Cả Công an huyện Triệu Phong lẫn Đồn Biên phòng Triệu Vân đều đã gửi báo cáo cho các cơ quan hữu trách cấp trên. Công an huyện Triệu Phong tố giác biên phòng “cản trở công an thi hành nhiệm vụ”. Đồn Biên phòng Triệu Vân thì báo cáo, trên đường tuần tra đã phát giác sáu kẻ mặc cảnh phục đang hiện diện trong khu vực mà đồn có trách nhiệm bảo vệ nên đã kiểm tra giấy tờ của cả sáu nhưng các đương sự không chấp hành, do vậy biên phòng đã… lập biên bản (1)!

Nếu gạch bỏ các từ “công an” và “biên phòng” ra khỏi những tin, bài tường thuật về sự kiện vừa đề cập thì diễn biến của sự kiện đó chẳng khác gì tin, bài tường thuật về các nhóm du đãng đang tranh giành quyền kiểm soát khu vực nào đó! Tuy chiến tranh đã chấm dứt cách nay 48 năm song cung cách quản trị, điều hành xã hội Việt Nam vẫn như thời chiến, công an và quân đội – những thực thể cấu thành “lực lượng vũ trang nhân dân” vẫn là các lãnh địa riêng, hoạt động theo kiểu “nước sông không được phạm vào… nước giếng”, do vậy khi điều tra về tham nhũng trong quá trình thực hiện các chuyến bay “giải cứu”, Bộ Công an không thể đụng đến những cá nhân thuộc Bộ Quốc phòng (2).

Cần lưu ý, cho dù quân đội có sự khác biệt với dân sự nhưng chắc chắn không thể tìm thấy bất kỳ quốc gia văn minh nào chấp nhận quân đội là một thực thể độc lập trong điều tra và xử lý các vi phạm pháp luật, đặc biệt là những vi phạm pháp luật liên quan đến sinh hoạt dân sự như Việt Nam. Chẳng hạn hồi tháng 2 vừa qua, sau khi bị cảnh sát thành phố Shalimar, quận Okaloosa, tiểu bang Florida tạm giữ vì “lái xe khi đang say rượu”, Trung tá Collin Charlie Christopherson – Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Bảo trì phương tiện phục vụ hoạt động của Không đoàn 1 chuyên thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt thuộc Không quân Mỹ – đã bị cách chức ngay lập tức.

Vào thời điểm đó, đại diện Không đoàn 1 lặp lại điều mà quân đội Mỹ luôn luôn khẳng định: Không bao giờ dung thứ cho bất kỳ vi phạm pháp luật nào ở cả bên trong lẫn bên ngoài căn cứ quân sự và cấp bậc, chức vụ càng cao thì việc xử lý càng nghiêm khắcKhông đoàn 1 cam kết hỗ trợ cảnh sát địa phương điều tra và xử lý Trung tá Christopherson (3). Khác với Việt Nam, nhiều quốc gia, trong đó có Mỹ, buộc quân đội phải tôn trọng thẩm quyền của hệ thống bảo vệ và thực thi pháp luật dân sự. Nếu quân nhân vi phạm pháp luật trong sinh hoạt bên ngoài căn cứ quân sự, thẩm quyền điều tra – truy tố – xét xử sẽ thuộc về hệ thống bảo vệ và thực thi pháp luật dân sự.

Ở những quốc gia văn minh, không bao giờ xảy ra tình trạng, dẫu đã phát giác tội phạm nhưng hệ thống bảo vệ và thực thi pháp luật dân sự phải ngừng lại vì nghi can làm việc cho… Bộ Quốc phòng và ngoài việc… “đề nghị” Bộ Quốc phòng… điều tra, hệ thống bảo vệ và thực thi pháp luật dân sự không thể làm gì khác hơn. Còn tại Việt Nam, hoạt động điều tra những hành vi trái pháp luật liên quan đến việc tổ chức – thực hiện các chuyến bay “giải cứu” đã kết thúc, phía công tố đã hoàn tất cáo trạng nhưng chỉ có những cá nhân không khoác áo quân nhân bị truy tố, còn Bộ Quốc phòng có làm gì đối với những cá nhân là quân nhân đã nhận hối lộ hay không thì không ai có quyền được biết!

(Còn tiếp)

Chú thích

(1) https://vtc.vn/quang-tri-tranh-cai-khi-mot-can-bo-bien-phong-bi-csgt-bat-do-nong-do-con-ar769357.html

(2) https://thanhnien.vn/vu-chuyen-bay-giai-cuu-co-dau-hieu-nhan-hoi-lo-tai-bo-quoc-phong-185230404165154679.htm

(3) https://www.military.com/daily-news/2023/02/21/special-operations-commander-fired-after-being-arrested-alleged-drunk-driving-hit-and-run.html

CÂU CHUYỆN NGÀY 30 THÁNG 4: AI LÀ KẺ THÙ?

Xuyên Sơn

Sách Cổ Học Tinh Hoa có câu chuyện sau:

[Trích dẫn]

Tựa:

QUÝ LỜI NÓI PHẢI

Vua nước Tấn đi chơi thuyền.

Các quan đi hầu đông đủ cả.

Vua hỏi:

– Loan Doanh ta đã cấm cố một nơi,

con là Loan Phường trốn chạy ra ngoại quốc. Có ai biết Loan Phường bây giờ ở đâu không?

Các quan yên lặng, không ai nói gì cả.

Người lái thuyền tên là Thanh Quyên buông tay chèo đứng dậy thưa rằng: -Nhà vua hỏi Loan Phường làm gì?

Vua nói:

– Từ khi ta đánh được họ Loan đến nay, nghe họ Loan người già chưa chết hết, người trẻ đã lớn lên. Ta lo họ phục thù, cho nên ta mới hỏi.

Thanh Quyên:

– Nếu nhà vua khéo sửa sang chính sách nước Tấn, trong được lòng quan, ngoài được lòng dân, thì dù cho còn con họ nhà Loan mà làm gì được nhà vua. Nhưng nếu nhà vua không sửa sang chính sách nước Tấn, trong mất lòng quan, ngoài mất lòng dân thì ngay cả những người ngồi trong thuyền này ai cũng là con nhà họ Loan cả.

Vua khen:

– Ngươi nói phải lắm.

Rồi sáng hôm sau cho đòi Thanh Quyên đến, ban cho một vạn mẫu ruộng.

Thanh Quyên từ không nhận.

Vua nói:

– Lấy một vạn mẫu ruộng ấy đổi lấy một lời nói kia, kể ra nhà người còn thiệt mà quả nhân còn lợi nhiều, nhà ngươi cứ lấy.

Ấy người đời cổ quý lời nói phải như thế đấy.

[Hết trích dẫn]

Vua Tấn trong câu chuyện trên là

Tấn Bình Công thời Xuân Thu ở Trung Quốc.

Loan Doanh là bầy tôi của vua Tấn.

Vì bị gièm pha mưu hại nên ông ta chạy sang nước Tề.

Vua Tề muốn dùng Loan Doanh chống Tấn nên cấp quân cho họ Loan quay về đánh Tấn.

Loan Doanh đánh úp kinh thành Giáng Đô, khiến Tấn Bình Công phải bỏ chạy. Nhờ có Phạm Mang giúp,

quân Tấn sau đánh bại được Loan Doanh.

Cả họ Loan sau đó bị diệt tộc,

chỉ còn Loan Phường trốn thoát sang nước Tống.

Vua Tấn tuy diệt được cả họ Loan, nhưng vẫn còn Loan Phường sống sót nên thâm tâm ông ta vẫn lo sợ có ngày họ Loan báo thù, vì vậy mà có câu chuyện trên.

Chuyện xưa đã trên hai ngàn năm, tưởng chỉ kể cho vui, nhưng ai biết được rằng đời nay có câu chuyện giống như vậy đang xảy ra?

****

Năm xưa, quân Cộng Sản miền Bắc tiến chiếm miền Nam, cuộc chiến kết thúc ngày 30 tháng Tư 1975.

Sau khi chiến thắng,

Cộng Sản hứa sẽ “khoan hồng” cho tất cả người đã từng chiến đấu trong quân đội miền Nam hoặc làm việc cho chính quyền miền Nam, kêu gọi hòa giải dân tộc, cùng tái thiết đất nước.

* Nhưng những gì CS nói và CS làm khác xa nhau.

CS đã lùa hàng triệu quân cán chính của chế độ miền Nam cũ vào các trại gọi là để “học tập cải tạo”,

kỳ thực là các trại lao động khổ sai,

để cho họ chết lần mòn vì lao động quá sức, thiếu ăn, thiếu thuốc men.

Ai trốn trại bị xử bắn không thương tiếc.

Vợ con những người này cũng không được buông tha, họ bị ép đi các vùng gọi là “kinh tế mới”, là những nơi đất hoang chưa được khai thác.

Họ phải bỏ nhà cửa ở thành phố lên những vùng đất hoang đó,

được cấp lương thực chỉ đủ vài tháng, với nhiệm vụ khai khẩn đất đai.

Nhiều người sau khi hết lương thực phải mò về lại thành phố kiếm sống,

nhưng nhà cửa đã bị chính quyền CS chiếm, họ trở thành những kẻ vô gia cư, sống lây lất đầu đường xó chợ.

Ai may mắn còn giữ được nhà thì trở thành những công dân hạng hai trong chế độ mới. Họ bị liệt vào thành phần “ngụy”, không được nhận vào các cơ quan nhà nước, không được vào làm các công ty quốc doanh

(thời đó hầu hết các công ty đều là quốc doanh),

không được kết nạp vào Đảng CS hay Đoàn Thanh Niên CS,

thi vào đại học bị xếp cuối bảng thứ tự ưu tiên, phải được điểm thật cao thì may ra mới đậu.

Không sống được với CS, hàng triệu người đã bỏ nước ra đi bằng cách đào thoát trên những chiếc thuyền mong manh.

Hàng trăm ngàn người đã bỏ xác trên biển cả, vì bão tố, vì thiếu xăng dầu, vì thiếu lương thực, vì lạc hướng, vì hải tặc, và nhiều lý do khác nữa.

Có những người vượt biên bằng đường bộ qua Campuchia định đến Thái Lan thì gặp phải quân kháng chiến Cộng Sản Khmer Đỏ.

Vốn thù hận CS Việt Nam nên họ trút giận lên những người Việt nào rơi vào tay họ.

Họ hãm hiếp phụ nữ, giết chết nam giới, trấn lột, hoặc bắt cóc đòi tiền chuộc mạng.

CS đã gọi những người bỏ nước ra đi là “rác rưởi trôi dạt về bên kia bờ đại dương”.

Những người ở lại cũng không được yên. CS đã mở các chiến dịch gọi là

“đánh tư sản mại bản” nhằm vào những người có chút ít của cải.

CS lập ra những đội kiểm tra, bất cứ nhà nào có chút của cải là các đội kiểm tra ập vào kiểm kê. Họ xáo tung đồ đạc để tìm tiền, vàng bạc hoặc các đồ quý giá.

Nhà nào bị kiểm kê là coi như tan hoang, dù không giàu có, của cải vẫn bị tịch thu.

Không có luật lệ, quy định nào về việc kiểm kê này, đội kiểm kê muốn lấy gì thì tùy thích.

Thời đó, ai chống đối thì bị ghép vào tội “phản cách mạng” là coi như đi tù rục xương.

Tất cả những của cải thu được không ai biết nó đi đâu.

Trên danh nghĩa nó được thu về cho “chính quyền cách mạng”

để “xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa”, nhưng thực tế nó vào túi các cán bộ kiểm kê và những người lãnh đạo.

Năm 1979, Trung Quốc xua quân tràn qua biên giới phía bắc Việt Nam để “dạy cho Việt Nam một bài học” vì Việt Nam đã đưa quân sang xâm lăng Campuchia mấy tháng trước đó.

Cuộc chiến chỉ kéo dài gần một tháng và kẻ được học “bài học” không phải là Việt Nam mà là Trung Quốc.

Trong cuộc chiến này quân đội Trung Quốc đã bị tổn thất nặng nề về nhân mạng.

Sau khi quân Trung Quốc rút khỏi Việt Nam, chính quyền CS Việt Nam coi người Việt gốc Hoa là những đối tượng bị nghi ngờ.

Đa số người gốc Hoa đã sinh sống lâu đời ở Việt Nam. Nhiều người sinh trưởng ở Việt Nam, chưa từng về Trung Quốc.

Có người không còn liên hệ gì với Trung Quốc, dù vẫn còn nói được tiếng Hoa. Nay họ bỗng trở thành đối tượng bị nghi kỵ.

Chính quyền CSVN đã ép họ phải hồi hương, tức là quay về lại Trung Quốc. Hàng trăm ngàn người Việt gốc Hoa đã phải bỏ nhà cửa, tài sản, cơ nghiệp xây dựng từ mấy đời, để đi qua biên giới Trung-Việt.

Trung Quốc thì lại không muốn nhận những người này, cho nên rốt cuộc họ bị kẹt ở biên giới (phía bên Trung Quốc).

Sự kiện này được gọi là “Nạn Kiều” hay “Hoa Kiều Hồi Hương”.

CSVN luôn đổ lỗi cho Trung Quốc xúi giục người gốc Hoa hồi hương,

sự thực là chính CSVN đã ép họ đi.

Gần nửa thế kỷ đã trôi qua, những người mà CS gọi là

“ngụy quân ngụy quyền” phần lớn đã qua đời, hoặc ra đi nước ngoài.

Những người còn sống thì đã già nua. Thế nhưng bất cứ ai trong lý lịch 3 đời còn dính tới “ngụy” là vẫn bị phân biệt đối xử.

Sách giáo khoa dạy cho trẻ em vẫn đầy những từ ngữ hằn học, cay cú về cái chế độ từ lâu đã không còn tồn tại, tựa như nó vẫn còn là mối đe dọa với chế độ CS vậy.

Nếu như sau gần 50 năm, CSVN xây dựng được một chế độ dân chủ, tiến bộ, xã hội công bằng, thì cho dù cái đám con cái “ngụy” còn đông đúc đi nữa, thì họ có làm được gì để xoay chuyển tình thế?

Nhưng rõ ràng là CSVN đã không làm được điều đó.

Họ không xây dựng được chế độ dân chủ, không đem lại công bằng cho xã hội.

Chính quyền đầy những quan chức tham nhũng, thối nát.

Xã hội đầy dẫy bất công, giàu nghèo cách biệt.

Công an, cảnh sát sách nhiễu dân. Nhà cửa, đất đai của dân bị cưỡng chế vô cớ, tòa án xét xử bất công. Đâu đâu cũng có dân oan.

Chính sự thối nát của chính quyền CSVN là điều kiện tốt để giúp cho bọn “ngụy”, bọn “ba que” ngóc đầu lên, vì khi dân chúng oán giận thì họ phải tìm ai đó đồng cảm với mình để ta thán, và những người đồng cảm đó không ai khác hơn là bọn “ngụy”.

Nếu như chính quyền CSVN mà tốt đẹp, trong sạch, thì những trang facebook, những kênh Youtube của bọn “phản động”, “ba que” trong và ngoài nước như Anh Chỉ Râu Đen, Trương Quốc Huy, Lisa Phạm, v.v… chẳng có mấy ai thèm đọc hay nghe, vì bọn họ đâu có chuyện gì để nói!

Năm 1861, nước Mỹ xảy ra nội chiến, liên bang miền Bắc và liên minh miền Nam đánh nhau vì bất đồng về chế độ nô lệ.

Miền Bắc muốn xóa bỏ chế độ nô lệ trong khi miền Nam muốn duy trì.

Vì kinh tế miền Nam chủ yếu dựa vào nông nghiệp, nên họ muốn có nô lệ người da đen để làm công việc đồng áng.

Kết quả miền Bắc chiến thắng vào năm 1865.

Sau khi chiến thắng, có hai khuynh hướng đối nghịch nhau trong chính quyền liên bang miền Bắc, một phe thì muốn trừng phạt miền Nam,

một phe chủ trương xóa bỏ hận thù, cùng chung tay tái thiết đất nước.

Cuối cùng phe xóa bỏ hận thù thắng thế.

Chính quyền liên bang đã chú tâm vào việc xóa bỏ chế độ nô lệ và tái thiết kinh tế miền Nam.

Không có trả thù, không có sự phân biệt đối xử với người miền Nam.

Chỉ sau vài thập niên, Hoa Kỳ là một quốc gia hoàn toàn thống nhất, không chỉ về địa lý, chính trị, mà thống nhất cả lòng người.

CSVN đã bỏ lỡ cơ hội thu phục nhân tâm, thống nhất lòng người sau năm 1975.

Nhưng họ có …. cả gần nửa thế kỷ để làm chuyện đó, mà có vẻ như họ không muốn làm.

Cái mà họ quan tâm là làm sao tận diệt được bọn “ngụy, ba que”,

không cho chúng ngóc đầu lên, làm sao để bảo vệ chế độ CS đến cùng.

Họ vẫn tiếp tục bóp méo lịch sử, nhồi nhét vô đầu thế hệ trẻ những lời tuyên truyền dối trá mà họ gọi đó là lịch sử.

Chả trách sao bây giờ các nhà giáo vẫn thường hay kêu ca là học sinh bây giờ dốt sử.

Viết sử, dạy sử không nhằm mục đích nâng cao kiến thức mà chỉ nhằm mục đích tuyên truyền nhồi sọ thì làm sao học sinh thích học được.

Trở lại chuyện nước Tấn. Sau đời vua Tấn Bỉnh Công, nước Tấn còn tồn tại thêm hơn 100 năm nữa.

Đến đời vua Tấn Tĩnh Công, ba gia tộc Hàn, Triệu, Ngụy vốn là bầy tôi của nhà Tấn, đã có âm mưu cướp nước từ lâu, truất phế vua Tấn.

Nước Tấn bị diệt vong, lãnh thổ bị chia thành ba nước Hàn, Triệu, Ngụy.

Rốt cuộc nước Tấn không bị con cháu họ Loan tiêu diệt như Tấn Bình Công lo sợ, mà bị chính những gia tộc được coi là “công thần” tiêu diệt.

Như người chèo thuyền Thanh Quyên đã nói:

nếu không sửa sang chính sự,

thì chính những người đang ở bên cạnh mình sẽ là kẻ thù tiêu diệt mình.

******

Ghi chú:

Sách “Cổ học tinh hoa” do hai học giả Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân biên soạn năm 1926.

Sách này gom góp những câu chuyện hay trong lịch sử và văn chương Trung Quốc với ý nghĩa răn đời.

Sách có thể được xem miễn phí trên mạng

(dùng Google tìm kiếm).

Blogger: Người Vá Trời

https://nguoivatroi.blogspot.com/

Việt Nam: Gần 800 người chết, hơn 45.000 người nhập viện dịp lễ 30/4

VOA Tiếng Việt

Có đến 786 ca tử vong, hơn 45.000 người nhập viện trong hai ngày nghỉ lễ dịp 30/4 – 1/5 tại Việt Nam, truyền thông Việt Nam dẫn thông tin từ Bộ Y tế cho biết.

Số liệu thống kê được Cục Quản lý khám chữa bệnh tổng hợp từ các cơ sở y tế ở 63 tỉnh thành cho biết tổng số người bệnh đi khám, cấp cứu tại các cơ sở y tế trong 2 ngày là 110.443 người.

Trong số các ca tử vong, có 34 nạn nhân tai nạn giao thông và 7 ca liên quan đến Covid-19. Số người bệnh tử vong bao gồm cả tử vong tại cơ sở khám chữa bệnh, trên đường đến cơ sở khám chữa bệnh và tiên lượng tử vong xin về.

Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ tử vong do tai nạn giao thông hàng đầu thế giới. Trong năm 2022, toàn quốc xảy ra hơn 11.000 vụ tai nạn giao thông, làm chết hơn 6.000 người, bị thương hơn 7.000 người, theo thống kê của Cục Cảnh sát giao thông, Bộ Công an Việt Nam.

Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tỉ lệ tai nạn giao thông cao tại Việt Nam là tình trạng uống rượu bia.

Việt Nam xếp thứ hai trong các nước khu vực Đông Nam Á, xếp thứ 3 châu Á về mức tiêu thụ bình quân rượu bia/người.

Báo cáo toàn cầu năm 2018 cho thấy mức tiêu thụ rượu bia bình quân/người trưởng thành quy đổi ra cồn nguyên chất là 8,3 lít/năm (cao hơn mức trung bình của thế giới là 6,4 lít/năm).

Ước tính chi phí trực tiếp cho tiêu thụ rượu bia ở Việt Nam năm 2017 là 4 tỷ USD, gần bằng 7% số thu ngân sách của nhà nước, chưa tính đến chi phí gián tiếp.

Ngoài ra, ngộ độc thực phẩm, hỏa hoạn… cũng là những nguyên nhân khiến tỉ lệ nhập viện, tử vong tại Việt Nam tăng rất cao vào các dịp lễ tết.

Thông tin của Bộ Y tế Việt Nam cũng cho biết riêng về khám chữa bệnh liên quan đến Covid-19, trong hai ngày nghỉ lễ, có hơn 2.000 ca tới khám, hơn 1.100 ca nhập viện điều trị nội trú, số ca tử vong là 7 người. Hiện còn 78 ca Covid-19 ở mức độ nặng, nguy kịch đang được điều trị.

DDPZUAZ44QX0T.CLOUDFRONT.NET

Việt Nam: Gần 800 người chết, hơn 45.000 người nhập viện dịp lễ 30/4