Tham vọng đối địch với Tesla của Vingroup đang đối diện một con đường gập ghềnh

Báo Tiếng Dân

Nikkei Asia

Tác giảYuji Nitta

Cù Tuấn, biên dịch

4-8-2023

Bà Thủy, CEO VinFast nói chuyện với Chủ tịch HĐQT Phạm Nhật Vượng. Ảnh trên mạng

Tóm tắt: VinFast đang rất khó khăn để tạo ra lợi nhuận trong bối cảnh tiền đầu tư trả trước quá lớn.

HÀ NỘI – Tập đoàn Vingroup của Việt Nam đã đặt cược lớn vào việc toàn cầu sẽ chuyển sang dùng xe điện. Nhưng hoạt động kinh doanh xe điện của họ rất khó để cất cánh, bị sa lầy do thị trường nội địa chậm tiếp nhận điện khí hóa và việc triển khai gặp khó khăn trên thị trường Mỹ.

VinFast, nhánh xe điện của tập đoàn này, tự hào có một cơ sở sản xuất tiên tiến trên đảo Cát Hải ở thành phố cảng Hải Phòng.

Đây là “cơ sở sản xuất đẳng cấp thế giới với 90% quy trình được tự động hóa”, Giám đốc điều hành VinFast Lê Thị Thu Thủy cho biết trong chuyến thăm địa điểm này gần đây.

Bà Thủy nói: “Sức mạnh của VinFast nằm ở tốc độ. Chúng tôi có thể làm những việc mà các nhà sản xuất hiện có với hệ thống [ra quyết định] phức tạp không thể làm được“.

Năm 2019, VinFast trở thành công ty Việt Nam đầu tiên sản xuất xe xăng tại Việt Nam. Công ty này đã chuyển sang xe điện vào năm 2021 trong nỗ lực thúc đẩy quá trình điện khí hóa toàn cầu, trước khi từ bỏ hoàn toàn việc sản xuất xe chạy bằng xăng vào năm 2022.

Thiết kế nội thất cho các dòng xe của VinFast bắt chước xe điện của gã khổng lồ Tesla trong việc loại bỏ các đồng hồ đo vật lý và công tắc để chuyển sang một màn hình lớn ở trung tâm bảng điều khiển. Tất cả bốn mẫu xe điện của công ty, bao gồm cả xe thể thao đa dụng, đều được sản xuất tại nhà máy ở Hải Phòng, với đội ngũ nhân viên bao gồm các kỹ thuật viên và kỹ sư nước ngoài đến từ khoảng 30 quốc gia.

Một chuyên gia máy ép đến từ Brazil với gần 30 năm kinh nghiệm tại Hyundai Motor và các nhà sản xuất ô tô khác cho biết ông gia nhập Vinfast để đón nhận một thách thức mới. Một chuyên gia Thổ Nhĩ Kỳ giám sát quá trình lắp ráp đến từ nhà sản xuất ô tô châu Âu Stellantis. Các công nhân khác đã đến đây từ Toyota Motor, General Motors và Tesla.

Nhưng tỷ lệ sử dụng vẫn còn thấp tại nhà máy Hải Phòng trên, trong bối cảnh nhu cầu trong nước khá ảm đạm. Thị trường xe truyền động 4 bánh (4WD) của Việt Nam còn nhỏ, với quy mô hàng năm từ 400.000 đến 500.000 chiếc do xe truyền động 2 bánh (2WD) giá rẻ được ưa chuộng hơn tại quốc gia này. Xe điện, bao gồm cả xe điện của các công ty đối thủ như Tesla, hiếm khi xuất hiện trên đường phố.

VinFast chỉ bán được 7.400 xe vào năm 2022. Giả sử năng lực sản xuất của nhà máy ở Hải Phòng là 38 chiếc mỗi giờ, hoặc tối đa là 250.000 chiếc mỗi năm, thì hiệu suất sử dụng nhà máy đối với việc sản xuất xe điện vào năm ngoái chỉ ở mức khoảng 3%.

Ngoài việc lắp đặt các cơ sở sạc điện tại các khu vực đô thị như Hà Nội, Vingroup đang sản xuất pin ô tô cùng với công ty Contemporary Amperex Technology của Trung Quốc (CATL) và cũng đã bắt đầu tái chế pin. Công ty này đã tham gia vào thị trường taxi xe điện và đang hợp tác với một công ty khởi nghiệp ứng dụng gọi xe.

Để khuyến khích những người tiêu dùng còn nghi ngờ về xe điện, công ty thậm chí đã bắt đầu quảng bá dịch vụ mua lại những chiếc xe điện đã qua sử dụng sau 5 năm.

Các công ty trong Vingroup bổ sung cho nhau và chuyên môn của chúng tôi có thể tạo ra sức mạnh tổng hợp”, bà Thủy nói.

Trong khi cố gắng nuôi dưỡng thị trường trong nước, VinFast cũng có ý định giành lấy một phần thị trường khổng lồ ở Mỹ, nhưng việc tung xe điện ra quá vội vàng đã dẫn đến một chuyến đi gập ghềnh.

Sau một thời gian trì hoãn, công ty này đã buộc phải thu hồi tất cả 999 chiếc xe đã được vận chuyển đến Mỹ trong đợt đầu tiên. Lỗi phần mềm gây ra việc thu hồi là một mối lo ngại ngay cả trước khi xuất khẩu xe sang Mỹ. Việc khởi động sản xuất tại nhà máy của VinFast ở Mỹ, dự kiến có công suất sản xuất hàng năm là 150.000 chiếc, cũng đã bị lùi lại từ tháng 7 năm 2024 đến năm 2025 hoặc muộn hơn.

Do phải chi trước nhiều khoản tiền, hoạt động kinh doanh sản xuất của VinFast – bao gồm cả xe điện – đang báo lỗ 14 nghìn tỷ đồng (khoảng 590 triệu USD) trong nửa đầu năm 2023. Con số này là cải thiện nhẹ so với cùng kỳ năm ngoái với khoản lỗ 16 nghìn tỷ đồng.

Đến năm 2024, doanh số sẽ đạt 60.000 đến 70.000 xe và EBITA [thu nhập trước lãi vay, thuế và khấu hao] sẽ là hòa vốn”, nhà sáng lập Vingroup Phạm Nhật Vượng cho biết vào tháng 5. “Chúng tôi sẽ có thể tạo ra lợi nhuận trong năm tài chính 2025“. Nhưng triển vọng khá u ám.

Ông Vượng được mệnh danh là ông vua bất động sản Việt Nam. Công việc kinh doanh mì ăn liền mà ông bắt đầu ở Ukraine vào năm 1993 là bước đi đầu tiên của ông với tư cách là một doanh nhân. Vào những năm 2000, ông đã đầu tư số tiền kiếm được từ liên doanh đó vào một cơ sở thương mại và một khu nghỉ dưỡng ở quê nhà. Đón đầu làn sóng tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, ông trở thành một trong những người giàu nhất Việt Nam.

Ông Vượng là một người nhạy bén, dám chấp nhận rủi ro và nhanh chóng từ bỏ công việc kinh doanh khi ông thấy chúng sẽ thất bại. Trước đây, Vingroup đã từng lấn sân sang điện thoại thông minh và TV, nhưng ông Vượng đã quyết định rút lui chỉ sau hai hoặc ba năm. Ông đã tìm cách tạo ra một thương hiệu đồ gia dụng trong nước nhưng không thể cạnh tranh với các đối thủ hàng đầu của Trung Quốc và Hàn Quốc.

Đó là lý do tại sao quyết định của ông Vượng nhằm hỗ trợ VinFast với 1 tỷ đô la từ tài sản cá nhân của chính mình vào mùa xuân này có thể được coi là một dấu hiệu cho thấy cam kết sâu sắc của ông đối với hoạt động kinh doanh xe điện.

Tuy nhiên, ông Vượng không thể chỉ ngồi chờ VinFast cất cánh. Mặc dù đã đầu tư hàng tỷ đô la, nhưng chi phí trả trước sẽ còn tăng thêm do việc xây dựng nhà máy ở Mỹ, cũng như chi phí nghiên cứu và phát triển.

Doanh thu của toàn tập đoàn đã tăng lên trong 10 năm qua, nhưng lợi nhuận đã không theo kịp, khiến tập đoàn rơi vào tình trạng lỗ ròng vào năm 2021. Khi tổng tài sản của tập đoàn tăng nhanh sau năm 2019, khi công ty bắt đầu sản xuất xe ô tô chạy xăng, hiệu quả sử dụng tài sản của công ty trở nên xấu đi. Giá cổ phiếu của Vingroup hiện tại chưa bằng một nửa so với mức đỉnh trước khi bắt đầu sản xuất xe điện.

Việc niêm yết chứng khoán của VinFast tại Mỹ, vốn được chờ đợi từ lâu, cũng gặp nhiều khó khăn. VinFast đã gấp rút nộp đơn đăng ký niêm yết vào cuối năm 2022, nhưng con đường đến với đợt chào bán lần đầu ra công chúng gặp nhiều cản trở. Vào tháng 5, VinFast chuyển sang niêm yết thông qua việc sáp nhập với một công ty mua lại đặc biệt, công ty này sẽ tổ chức cuộc họp cổ đông vào ngày 10 tháng 8 để thông qua việc sáp nhập.

Biết thua để nhường chỗ cho công lý

Báo Tiếng Dân

Huy Đức

9-8-2023

Trong lịch sử tư pháp của Việt Nam mà tôi quan sát, hiếm khi có một vụ trọng án mà cơ quan điều tra chịu bó tay. Không ít vụ án được phá trong một thời gian kỷ lục. Nhưng, cũng hiếm khi tôi thấy những vụ án oan nghiêm trọng nhất được chủ động phát hiện bởi các cơ quan tố tụng.

Năm 1983, cho dù mang “trái tim trong trắng” [kịch Lưu Quang Vũ], ông Nguyễn Sỹ Lý vẫn bị giam cầm 2.000 ngày. Và, ông Lý chỉ được minh oan khi một người bạn tù được tha trước, âm thầm giúp ông tìm ra thủ phạm. Ông Huỳnh Văn Nén cũng chỉ nhìn thấy ánh sáng sau 17 năm nhờ hung thủ, bị giữ tình cờ trong một vụ vi phạm luật giao thông, tự thú. Ông Nguyễn Thanh Chấn ở tù 10 năm cho đến khi hung thủ tự đến đồn công an.

Chuyện không phải của thời mông muội. Chỉ mới cách đây 10 năm, 7 thanh niên ở Sóc Trăng cũng chỉ được minh oan sau 4 tháng tạm giam nhờ hai nữ hung thủ cướp của giết người ra đầu thú.

Những người chịu “án oan thế kỷ”, trong phòng tạm giam, đều khai nhận “hành vì giết người” hoàn hảo. Trừ 7 thanh niên ở Sóc Trăng, tất cả, khi đứng trước tòa, đều phản cung và đều bị tòa căn cứ “án tại hồ sơ”, bác bỏ. Và, chỉ khi hung thủ thật bị lương tâm cắn rứt khai ra, những gì họ tố cáo bị bức cung mới được xác nhận hóa ra là đúng.

Với hai tử tù Nguyễn Văn Chưởng và Hồ Duy Hải, nếu thực sự oan, không rõ, chúng ta có thể chờ đợi lương tâm của những người đã tiến hành tố tụng hay lại phải chờ lương tâm hung thủ.

Khi nhậm chức, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng yêu cầu công tác xét xử “không được để xảy ra oan sai”. Đây là điều mà những người tiền nhiệm ông cũng đều nhấn mạnh.

Không phải lúc nào thông điệp này cũng được diễn dịch giống nhau. Nó tùy thuộc vào một hệ thống tư pháp sợ OAN cho thường dân hay chỉ sợ cái SAI của mình bị phát hiện.

Tôi không biết hiện nay, ngành tòa án có còn giữ tiêu chí “án bị cải sửa” làm căn cứ bình xét thi đua và căn cứ để tái bổ nhiệm thẩm phán nữa không. Sợ sai, sợ án bị cải sửa là lý do mà các cơ quan tố tụng rất khó từ bỏ một tiền lệ rất sai là họp án [“ba bộ đồng tình…”] và thỉnh thị án.

Nếu một nền tư pháp vận hành theo hướng để dân không bị OAN, nền tư pháp đó phải luôn đặt ra khả năng tố tụng có thể SAI. Không phải tự nhiên mà ngay từ xa xưa loài người đã nghĩ đến việc tách bạch các cơ quan tố tụng và phân ra nhiều cấp xét xử.

Một nền tư pháp mà hướng tới mục tiêu hoàn hảo, các cơ quan tố tụng không bao giờ sai thì chỗ của những người thực sự bị oan là ở trong tù chứ chưa chắc đã phải là những người được tuyên vô tội.

Tôi đã từng phỏng vấn tử tù “Phước Tám Ngón” và có mặt tại pháp trường cái buổi sáng 3 bị án trong vụ Tamexco bị bắn. Trừ những loại giết người do bệnh lý, thích chơi trò cân não với cơ quan điều tra, phần lớn những hung thủ thật sự giết người rất ít khi kêu oan. Chúng chấp nhận đã vay [mạng người] thì trả.

Chúng ta đang nghe những lời kêu oan từ hai bị án Nguyễn Văn Chưởng và Hồ Duy Hải. Chúng ta có thể vĩnh viễn không biết sự thật nằm ở đâu. Nhưng, tôi nghĩ những người tiến hành tố tụng trong hai vụ án này biết rõ.

Chúng ta đã phải đợi cho đến khi hung thủ thật sự ra đầu thú mới biết là Nguyễn Sỹ Lý, Huỳnh Văn Nén, Nguyễn Thanh Chấn bị oan. Nhưng, những người tiến hành tố tụng chắc chắn đã biết điều đó khi họ bắt đầu sử dụng nhục hình và mớm cung bị cáo.

Đã từng có khá nhiều hung thủ thật ra đầu thú để minh oan cho người gánh án thay mình; nhưng, trong nền tư pháp nước ta, ít khi có một cán bộ từng tiến hành tố tụng tự nhận là mình sai để minh oan cho nạn nhân của chính mình và cộng sự.

Trong các vụ án oan như Nguyễn Sỹ Lý, Huỳnh Văn Nén, Nguyễn Thanh Chấn… đều có vi phạm tố tụng nghiêm trọng. Chúng ta chứng kiến, việc khăng khăng tuyên bố “sai phạm tố tụng” nhưng “không làm thay đổi bản chất vụ án” đáng sợ thế nào.

Một nền tư pháp mà chỉ sợ lộ ra cái SAI sẽ không bao giờ tránh được OAN [khiên – cho dân].

Cứ tống vào tù một dân oan là cấp phép tự do cho một tên tội phạm [hung thủ trong vụ án Huỳnh Văn Nén từng gây án đâm, chém trong thời gian ông Nén bị tù oan].

Không có mô hình tư pháp nào hoàn hảo. Mô hình ưu việt hơn không phải là có khả năng lập thành tích “phá án 100%”, là không phải không có “án bị cải sửa” mà là có khả năng tự phát hiện sai sót.

Mục tiêu của một nền tư pháp là công lý chứ không chỉ là phá án. Chính vì thế mà trong nhiều trường hợp, các cơ quan tố tụng phải chấp nhận thua; bởi, một khi các cơ quan tố tụng cứ khăng khăng thắng sẽ không có chỗ cho công lý.

VNTB – Nhà văn Sơn Nam

10.08.2023 2:04

 S.T.T.D Tưởng Năng Tiến 

(VNTB) – Sơn Nam qua đời vào ngày 13 tháng 8 năm 2008 nhưng ông đã chết (trong tôi) hơi lâu, trước đó.

Mấy năm trước, sau khi ghé thăm Lý Chánh Trung, giáo sư Nguyễn Văn Lục đã có nhận xét như sau về người bạn đồng nghiệp cũ :

“… sau 1975 … có mấy nhà văn, nhà báo trong Nam được cầm bút lại như Lý Chánh Trung. Con số đếm chưa hết một bàn tay… Trước 75, ông viết như thể một người nhập cuộc, kẻ lên đường, kẻ làm chứng, người trí thức dấn thân. Ông viết với một tấm lòng nhiệt huyết. Sau 1975, ông viết như một kẻ đứng bên lề, xem đá banh và vỗ tay.”

Tôi có ngồi học với giáo sư Lý Chánh Trung đâu chừng cỡ… nửa giờ, ở trường Văn Khoa Đà Lạt. Nhất tự vi sư, bán tự vi sư. Tôi không dám bàn luận lôi thôi gì (thêm) về chuyện viết lách của một người thầy học cũ.

Nhận xét dẫn thượng, chả hiểu sao, bỗng khiến tôi nhớ đến nhà văn Sơn Nam. Ông cũng là một trong những người may mắn hiếm hoi của miền Nam (trong “con số đếm chưa hết một bàn tay”) vẫn được phép cầm viết, sau 1975, và là một trong những nhà văn mà tôi vô cùng mến mộ.

Tác phẩm (có lẽ) đắc ý nhất của Sơn Nam là cuốn Hương Rừng Cà Mau, trong đó có truyện “Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư.” Tác giả kể lại chuyện một người dân ở U Minh Hạ, đặt mua báo dài hạn nhưng không trả tiền nên nhà báo phải cử người đi đòi nợ. Xin trích vài đoạn đọc chơi cho nó … đã :

“- Từ đây tới nhà ông Trần Văn Có gần hay xa vậy thầy?

Thầy xã trưởng đáp:

– Ở xóm Cà Bây Ngọp lận! Để tôi ra lịnh cho phó hương ấp đòi tên đó lên công sở… 

Thầy phái viên nhà báo “Chim Trời” giựt mình:

– Tôi là phái viên, đâu có quyền hạn đó đối với quí vị độc giả thân mến gần xa.

Thầy xã hỏi:

-Phái viên là gì vậy thầy?

– Là người thay mặt cho tờ báo đi cổ động và thu tiền.” (Sơn Nam. “Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư.” Hương Rừng Cà Mau. Sài Gòn: Trí Đăng, 1972).

Nhân vật chính trong truyện, ông Trần Văn Có, theo như lời dân cùng xóm, là một người độc thân, làm nghề giăng câu, nuôi heo, lấy tổ ong, và hơi ba hoa chút đỉnh: “Anh ta công kích tờ Lục Tỉnh Tân Văn của nhà nước Lang Sa gởi xuống công sở; đi ăn giỗ thì nói chuyện Hít-le, chuyện nước Ý đánh nước Á, chừng hỏi kỹ mấy nước đó ở đâu, anh ta bí lối nói lảng qua chuyện Tầu…”

Nghe nói vậy nhưng không phải vậy. Khi phái viên báo Chim Trời giáp mặt độc giả Trần Văn Có, ngay tại nơi cư trú của ông, cuộc hội kiến – rõ ràng – rất là trang trọng và (vô cùng) thắm thiết:

“Buổi cơm chiều ngon lành làm sao! Ăn cá lóc nướng trui, uống rượu… Tư Có kèm thầy phái viên ở lại ngủ một đêm, chú hứa sáng mai bơi xuồng đưa thầy trở lại công sở mà đón tàu đi. Thếp đèn dầu cá kèo thêm một tim thứ nhì nữa, cháy khá sáng. Bếp un dưới đất tỏa lên cuồn cuộn, tỏ rõ từng sợi khói mịn màng như mành lưới tơ giăng bủa khắp căn chòi nhỏ hẹp.

Tư Có bỏ mùng xuống, chun vô tấn ba phía rồi mời:

– Thầy Hai vô trong này ngồi nói chuyện cho vui. Ở ngoài muỗi cắn. Khói như vậy mà muỗi cứ bu lại rớt lềnh trong thếp đèn dầu cá đó.

Ngượng nghịu, thầy phái viên nhà báo Chim Trời rón rén dở mí mùng, chui lẹ vào ngồi kế bên:

– Xứ gì lạ quá! Anh Tư ở đây hồi sanh bịnh chết.

Tư Có đáp:

– Xứ Cà Bây Ngọp, tiếng Khơ Me nghĩa là trâu chết. Hồi đó nghe nói trâu “len” tới đây thất bại, phong thổ ẩm thấp trâu chết nhiều quá. Họ đặt tên kỷ niệm luôn… Bởi vậy dân tình bịnh hoạn, thưa thớt, làng này chưa cất nổi cái trường học.

Thầy phái viên trố mắt:

– Vậy à? Còn mấy làng khác?

– Ðông Thái, Ðông Hồ, Ðông Hưng, Vân Khánh Ðông… không làng nào có trường hết. Thầy nghĩ coi…

– Hèn chi miệt này chỉ một mình anh Tư là độc giả báo Chim Trời của chúng tôi… Báo có thích hợp không anh Tư?

– Làm báo thì cần nhiều trí óc lắm phải không thầy phái viên? Tiếc là hồi nhỏ cha tôi chết sớm. Hồi đó, ổng làm thầy giáo cũng đặt thơ bát cú, tứ cú. Cha tôi chết, má tôi giữ mấy pho sách, dạy lại tôi. Ðó là sách Quốc Văn giáo khoa thư, thầy còn nhớ không?

Thầy phái viên cười:

– Nhớ chớ. Làm sao mà quên được! Hồi nhỏ tôi hớt “ca rê”, tay xách toòng teng bình mực đi học ở trường làng. Hồi đó, trí óc minh sáng suốt, nhớ dai lắm. Bây giờ lớn tuổi, đầu bạc hoa râm, đi làm ăn rày đây mai đó, nhớ nhà, nhớ trường học, nhớ làng xưa.

Tư Có nói:

– Chắc là thầy muốn nói bài ‘chốn quê hương đẹp hơn cả’ chớ gì?

Rồi chú đọc một hơi:

– Một người đi du lịch đã nhiều nơi. Hôm về nhà, kẻ quen người thuộc, làng xóm, láng giềng đến chơi đông lắm. Một người bạn hỏi: ông đi du sơn du thủy…

– Ðó đa! Ðó đa! Anh Tư nhớ kỹ quá… Người du lịch mới trả lời: ở chốn quê hương… từ cái bụi tre ở xó vườn cho đến con đường khúc khuỷu trong làng, cái gì cũng gợi cho tôi những mối cảm tình chứa chan… Bài đó có hình ông già mang kiếng, chống gậy nói chuyện với mấy người khăn đống áo dài.

– Thì hình nào cũng khăn đống áo dài. Trừ ra cái hình thằng nhỏ chăn trâu cầm roi: ai bảo chăn trâu là khổ… Không, chăn trâu sướng lắm chứ.

Thầy phái viên phụ họa theo như cùng hợp xướng:

– Ðầu đội nón mê như lọng che, tay cầm cành tre như roi ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tôi nghe chim hót trong chòm cây, mắt trông bướm lượn trên đám cỏ…

Không ai bảo ai, hai người lại nằm xuống lim dim… 

Giọng Tư Có nói nhỏ:

– Ngủ chưa, thầy phái viên?

– Ngủ chưa anh Tư?

– Chưa!

– Tôi nãy giờ cũng vậy, muốn ngủ sớm để mai về nhà, mà không thấy mệt.

Im lặng một hồi lâu, rất lâu, Tư Có nói ngậm ngùi sau một tiếng thở dài:

– Biết lấy gì làm sở phí cho thầy. Thầy nói thiệt tình nghe coi… Chắc thầy tới đây thâu tiền.

– Ðâu có! Ðâu có! Mình là bạn đời với nhau…

– Thầy hiểu cảnh tôi. Không lẽ gởi cá lóc, rùa, mật ong… nhờ thầy đem về Sài Gòn gọi là tiền của tôi trả cho nhà báo. Tôi “đăng” là vì ái mộ báo Chim Trời chớ ít đọc lắm. Mấy thầy viết cao quá. Tôi mua để dành về sau cho đủ bộ.

– Anh Tư đừng ngại chuyện đó. Cứ tiếp tục đọc. Lâu lâu dò nơi mục Thư tín không chừng có lời của tôi thăm hỏi anh Tư. Nếu thấy báo đăng đòi tiền các độc giả, xin anh Tư hiểu rằng đó là nhắc nhở các người khác. Tôi hứa nói lại với ông chủ nhiệm mỗi kỳ gởi tặng anh Tư một số báo, hoài  hoài cho tới số chót.
Chú Tư Có vô cùng cảm động…”
(sđd 111-116).

Tôi đọc truyện “Tình Nghĩa Gíao Khoa Thư” khi còn ở tuổi đôi mươi. Tuổi trẻ bao giờ cũng nhiều lý tưởng. Tôi và bè bạn vẫn tâm nguyện rằng, sau cuộc chiến, thế hệ của mình sẽ cố góp hết sức để dựng xây những phần đất quê hương (bị lãng quên) như vùng U Minh Hạ.

Hòa bình, tiếc thay, đã không mang lại cuộc sống an bình như mọi người mong muốn. Không những thế, nó còn khiến cho hàng triệu kẻ đã phải liều mạng rời bỏ quê hương, để mưu cầu một cuộc sống khả kham (hơn) nơi đất lạ quê người.

Tôi là một trong những kẻ đã (đành đoạn) bỏ đi như thế. Vài chục năm sau, khi tóc đã điểm sương, ở một góc trời xa, tình cờ đọc được bài báo (“Tiếng Kêu Giữa Rừng U Minh Hạ”) của phóng viên Hoàng Trí Dũng mà không khỏi băn khoăn nhớ về quê cũ :

Tôi đã đến nhiều miền quê nghèo khó vùng sông nước ĐBSCL, nhưng có lẽ chưa lần nào tôi bị ‘sốc’ như chuyến đi lần này. Nơi tôi đến là một vùng quê giáp ranh giữa hai tỉnh Kiên Giang – Cà Mau, cách không xa trung tâm hai thành phố Rạch Giá và Cà Mau, vậy mà đã 30 năm sau ngày đất nước thống nhất vùng quê ấy vẫn còn là bức tranh buồn thảm với nhiều nỗi bức xúc: không điện, đường, trường, không trạm xá, không hộ khẩu, không đất sản xuất…”

“Trái ngược với hình ảnh ấy là cơ ngơi của các quan chức địa phương – những người đang giành giật đất đai của dân. Đó là chuyện thật ở ngay một góc Lâm trường U Minh 2, ấp 4, xã Khánh Hịa, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.”

“Cách đây hai năm một cháu bé tên Hằng, 10 tuổi, con của hai vợ chồng trẻ không may bị bệnh viêm ruột thừa cấp tính, nhưng ở giữa rừng không có trạm y tế, mà lòng kênh trơ đáy khô queo, còn trên bờ thì không có đường đi rốt cuộc đành ngồi nhìn con chết mà bất lực vì không cách nào chuyển đi bệnh viện. ..”

“Ông chủ nhà Nguyễn Trung Liệt – một lão nông có uy tín trong vùng – vào chuyện: ‘Trên 60 tuổi rồi, hơn chục năm, ba thế hệ với hơn 30 người sinh ra và lớn lên tại khu rừng này, nhưng ngặt một nỗi nhà tui không ai có được tấm hộ khẩu, cũng chẳng hề có giấy chứng minh nhân dân. Người lớn còn đỡ chứ tội nghiệp sắp nhỏ, năm đứa cháu nội ngoại ra đời trong ruột rừng này hiện tại đều thất học như ông cha nó…’
Chú Ba Vinh thì kêu:“Cả trăm gia đình bà con ở đây khổ lắm, không thua gì thời kỳ Pháp thuộc…” 

Chú Ba Vinh (nào đó) tuổi đời – có lẽ – còn hơi ít nên không biết rõ cảnh sống của dân chúng ở U Minh Hạ vào thời Pháp thuộc. Chớ hồi đó, cứ theo như lời kể của ông già Nam Bộ Sơn Nam, nơi đây đã có người đặt mua dài hạn báo Chim Trời ở tận Sài Gòn, có kẻ giữa bữa giỗ (dám) bàn chuyện quốc sự và lớn tiếng chê bai tờ Lục Tỉnh Tân Văn của nhà nước Lang sa.

Những chuyện “tầm ruồng” như thế, xem ra, có vẻ như một giấc mơ (đã) xa xôi lắm đối với người dân ở U Minh Hạ – bây giờ. Trong bài phóng sự (thượng dẫn) không nghe phóng viên báo Tuổi Trẻ kể lại chuyện có bữa nhậu lai rai mấy con cá lóc nướng trui với người dân địa phương, và dùng chung với họ một bữa cơm chiều (“ngon làm sao”) như đặc phái viên của báo Chim Trời – hồi đó. Chuyện người ta ăn ở cư xử tử tế với nhau, theo kiểu “Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư” (ngó bộ) cũng miễn có luôn.

Ở U Minh Hạ, ngày nay, theo như nguyên văn tường thuật của nhà báo Hoàng Trí Dũng: “30 năm sau ngày đất nước thống nhất vùng quê ấy vẫn còn là bức tranh buồn thảm với nhiều nỗi bức xúc: không điện, đường, trường, không trạm xá, không hộ khẩu, không đất sản xuất.” Có chăng chỉ là tiếng kêu gào ai oán, của những người dân khốn cùng và uất hận, vì bị cướp bóc trắng trợn mà thôi.

Sơn Nam, có lẽ, vì tuổi đời đã cao nên không còn nghe và thấy được những tiếng kêu thương và cảnh đời vô vọng (đến thế) từ nơi sinh trưởng của ông. Ngày 18 tháng 8 năm 2008, trên diễn đàn talawas, tôi nghe nhà văn Lê Phú Khải kể chuyện này :

“Có lần tôi nhờ ông viết một bài cho Đài Tiếng nói Việt Nam để kỷ niệm Cách mạng tháng Tám ở Nam bộ. Mấy ngày sau, cũng tại quán café ở Gò Vấp, ông đưa tôi bài: ‘Nhớ ngày Cách mạng tháng Tám ở U Minh’, đánh máy bằng cái máy chữ, chữ nhỏ li ti như con kiến. Ðài phát xong tôi thấy ‘tiếc’ quá! Vì chữ nghĩa phát lên trời rồi gió bay đi… Tôi bèn gửi bài đó cho báo Cà Mau.

Khi bài báo đó được in trên giấy trắng mực đen ở Cà Mau thì bạn đọc, cán bộ, đồng bào và các nhà nghiên cứu của vùng đất này đều kinh ngạc về trí nhớ của Sơn Nam. Bài báo đó là một tư liệu lịch sử sống động về Cách mạng tháng Tám ở U Minh, chưa từng được ai ghi chép lại sinh động như thế. Thư gửi về toà soạn tới tấp… Xin trích đăng lại đoạn cuối của bài báo đó :

“Tại dinh chủ quận trước kia, cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Từ những thôn xóm hẻo lánh, đồng bào đến dự ngày lịch sử trọng đại. Ðã có ban trật tự sắp xếp chỗ đậu xuồng ghe. Ðồng bào người Khmer cũng đến dự với các sãi áo vàng. Xuồng ghe đậu dài hàng kilômét. Nhiều người trung niên ‘quần bao áo bố’ cõng con trên vai để nó trông lên khán đài.

Tiếng loa phát ra vang vang, báo tin đại diện của tỉnh bộ Việt Minh đã đến. Có múa lân. Vài ông lão tụ tập lại, dạy võ thuật cho thanh niên. Loa lại vang lên, khuyên đồng bào yên tâm, cứ chịu đói buổi sáng, sau đó sẽ có phân phát bánh tét, ăn thay cơm. Trời chuyển mưa. Ðồng bào vẫn đứng chịu mưa tại chỗ.”

Câu chuyện này cũng lại khiến tôi liên tưởng đến nhận xét của giáo sư Nguyễn Văn Lục về một vị thầy học cũ của mình :

“Trước 75, ông viết như thể một người nhập cuộc, kẻ lên đường, kẻ làm chứng, người trí thức dấn thân. Ông viết với một tấm lòng nhiệt huyết. Sau 1975, ông viết như một kẻ đứng bên lề, xem đá banh và vỗ tay.”

Sơn Nam qua đời vào ngày 13 tháng 8 năm 2008 nhưng ông đã chết (trong tôi) hơi lâu, trước đó.

Tưởng Năng Tiến – 8/2011

BA BÓNG ĐEN TRÙM XUỐNG BẢN ÁN TỬ HÌNH OAN NGUYỄN VĂN CHƯỞNG

PHẠM ĐÌNH TRỌNG

Án mạng giết hại thiếu tá công an Nguyễn Văn Sinh đêm 14.7.2007 ở đường vào cảng Đình Vũ, thành phố Hải Phòng là bản án quá đơn giản, không có gì phức tạp, không khó phá án, không khó tìm ra bàn tay vấy máu nạn nhân Nguyễn Văn Sinh.

Nhưng cũng như vụ án hai cô gái ở bưu điện Cầu Voi, Thủ Thừa, Long An bị giết hại tối 13.1.2008, cơ quan điều tra không hướng vào truy tìm kẻ thủ ác đích thực nên vội vàng huỷ tang vật vụ án. Con dao, cái thớt ở chỗ hai cô gái bị giết, dính máu nạn nhân đương nhiên cũng có cả dấu vết bàn tay tội ác. Con dao bị giấu nhẹm. Cái thớt bị thiêu trong đống lửa. Cảnh sát điều tra ra chợ mua dao thớt mới thay thế chỉ cốt cho có tang vật thì rõ ràng họ không cần truy tìm kẻ đích thực giết hai cô gái.

Tang chứng của thủ phạm đích thực bị huỷ bỏ mất tăm tích để tạo ra tang chứng áp đặt bằng bạo lực nhục hình ép cung, buộc tội người ngoại phạm. Bạo lực nhục hình ép cung đã tạo ra nhiều bản án tử hình oan rải ra trong không gian rộng lớn trên cả nước và kéo dài trong thời gian nhiều chục năm qua mà những tử tù oan Huỳnh Văn Nén, Hàn Đức Long, Nguyễn Thanh Chấn và những cái chết oan như Ngô Thanh Kiều là dẫn chứng.

Bản án tử hình Nguyễn Văn Chưởng cũng trong vòng xoáy bạo lực nhục hình, ép cung như bản án tử hình với Huỳnh Văn Nén, Nguyễn Thanh Chấn, Hàn Đức Long nhưng khủng khiếp hơn, trắng trợn hơn và trùng trùng nhiều tầng lớp áp đặt hơn. Thiếu minh bạch, không có ánh sáng công lí nên trong bản án tử hình oan Nguyễn Văn Chưởng thấy lù lù những bóng đen, những khoảng tối trùm xuống bản án . Bịt bùng nhất, nặng nề nhất và khủng khiếp nhất là ba bóng đen Đỗ Hữu Ca, Dương Tự Trọng và Trương Hoà Bình.

Trong đó hai bóng đen tạo ra bản án tử hình oan cho Chưởng là Đỗ Hữu Ca và Dương Tự Trọng. Bóng đen Trương Hoà Bình, Chánh án Toà án Tối Cao đủ tầm bao phủ chặn kín cánh cửa giải oan, xoá án oan cho dân đen lương thiện Nguyễn Văn Chưởng. Bóng đen bịt kín buồng giam tử tù Nguyễn Văn Chưởng không còn một khe hở cho ánh sáng công lí soi vào đến nỗi Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Quốc hội Nguyễn Văn Hiện đã từng là Chánh án Toà án Tối cao phải ngửa mặt lên trời than cho phận dân đen phải chịu oan khiên tức tưởi và tuyệt vọng: “Vụ án Nguyễn Văn Chưởng có phát hiện sai sót thì cũng hết đường kháng nghị!”

Án mạng giết thiếu tá công an Nguyễn Văn Sinh đêm mưa gió 14.7.2007 ở đường vào cảng Đình Vũ, Hải Phòng xảy ra khi đại tá Ca đang là trưởng phòng điều tra tội phạm kiêm phó giám đốc công an Hải Phòng. Vụ án xảy ra khi Ca đang hau háu nhìn lên chiếc ghế giám đốc và thượng tá Trọng là phó của Ca ở phòng điều tra tội phạm đang nôn nóng chờ Ca lên giám đốc để lại chiếc ghế trưởng phòng điều tra tội phạm kiêm phó giám đốc công an thành phố cho Trọng. Thèm khát chức quyền, có vụ án xảy ra, cả hai đều lấy bạo lực, nhục hình, ép cung làm phép màu phá án nhanh. Ca và Trọng đều rất rành phá án nhanh bằng bạo lực. Lúc này càng phải tỏ ra là người hùng phá án nhanh, ghi điểm son để lên chức.

Người dân và chính quyền tranh chấp đất đai chỉ là tranh chấp dân sự thường tình của cuộc sống vốn luôn phát sinh mâu thuẫn. Tranh chấp đất đai đã và đang diễn ra gay gắt trên khấp đất nước. Công an cưỡng chế thu hồi đất tay khiên, tay dùi cui dàn hàng ngang đối mặt với hàng ngàn dân giữ đất kéo dài suốt nhiều năm. Khi căng thẳng nhất công an cũng chỉ vung tay, vung chân với dân. Dữ dội nhất cũng chỉ dùi cui khua loang loáng, gạch đá bay rào rào. Không ở đâu công an nỡ dàn trận, xả súng bắn dân tranh chấp đất đai với chính quyền.

Nhưng trong tranh chấp giữa gia đình nông dân Đoàn Văn Vươn với chính quyền huyện Tiên Lãng, Hải Phòng về mảnh đất gia đình Vươn đã đổ mồ hôi, đổ cả máu khai hoang lấn biển, Ca và Trọng đã huy động hơn một trăm tay súng công an dàn thế trận đối đầu bằng súng đạn với dân, xả đạn vào ngôi nhà đơn sơ, mỏng manh nơi vợ con Vươn, nơi đàn bà và trẻ con đang nương náu. Nổ súng bắn vào đàn bà, trẻ con, bắn vào người dân một nắng hai sương khai hoang lấn biển, mở đất sản xuất làm ra của cải và đóng thuế cho nhà nước mà Ca hỉ hả sung sướng khoe trận đánh đẹp. Phá án nhanh của đại tá Ca, của thượng tá Trọng là vậy! Phá án bằng bạo lực tàn bạo, man rợ, không còn tính người.

Án mạng giết thiếu tá Sinh có màu sắc, có bóng dáng cuộc thanh toán của xã hội đen, của thế giới ngầm. Không hề có chỉ dấu của vụ giết người, cướp của. Giết người cướp của phải nhằm vào người có của và tay không, yếu thế. Chẳng dại gì nhằm vào công an có súng. Công an đi công vụ trong đêm cũng chẳng ai mang theo của. Có chăng chỉ vài đồng tiền lẻ. Một vụ cướp có tổ chức, có chủ mưu mà Chưởng bị vu cho là chủ mưu không khi nào ra tay giết một mạng người chỉ vì vài đồng tiền lẻ.

Trời mưa gió. Đêm khuya. Đường vắng. Thiếu tá Sinh mặc áo mưa đi xe máy một mình thì không thể là đi tuần. Lâu không thấy Sinh về, đồng đội của Sinh là cảnh sát Phạm Hồng Quang đi tìm thấy Sinh bị giết thì ứng xử của Quang cũng cũng không phải là ứng xử của một cảnh sát với một án mạng, lại là án mạng với đồng đội của mình.

Với cảnh sát, xử lí án mạng là việc thường ngày, là kĩ năng nghiệp vụ. Nghiệp vụ phá án hàng đầu cảnh sát nào cũng phải thuộc lòng là bảo vệ hiện trường, bảo quản nguyên trạng tang vật. Nhưng Quang đến nơi Sinh bị giết liền xoá bỏ ngay hiện trường, thu giấu ngay tang vật.

Quang lột áo mưa, áo cảnh sát, dép…của Sinh gửi ở phòng bảo vệ công ty gần nơi án mạng. Quang thu giữ điện thoại di động, khẩu súng ngắn của Sinh đến chiều hôm sau, 15.7.2007 mới giao lại cho đơn vị đưa vào tang vật vụ án. Quang giữ điện thoại của Sinh một đêm và nửa ngày, liệu lịch sử những cuốc liên lạc của điện thoại có còn nguyên vẹn và đầy đủ?

Vội vàng xoá bỏ nguyên trạng hiện trường vụ án, Quang như muốn che giấu nguyên nhân đích thực dẫn đến cái chết của Sinh. Đây là chi tiết rất quan trong, một hướng cần khai thác đến nơi đến chốn để truy tìm ra kẻ thủ ác đích thực.

Nhưng Ca và Trọng không quan tâm đến sự việc và con người có thật trong vụ án. Ỷ vào bạo lực, có sự táng tận lương tâm, có sự trống rỗng tính người để bắt bất kì dân đen, thân cô thế cô nào cho nếm bạo lực “trận đánh đẹp” của Ca, cho nếm nhục hình, ép cung của đàn em Ca và Trọng, đều phải nhận tội giết người. Đó là thủ thuật phá án nhanh nhất của Ca và Trọng.

Chưởng đã kê khai các cuộc gọi đi, gọi đến điện thoại của Chưởng, 0974.863.087, tối ngày 14.7.2007 là căn cứ rất xác đáng, đủ cơ sở xác định vị trí và hành vi của Chưởng ở thời điểm xảy ra vụ án giết thiếu tá Sinh. Xác minh điều đó là xác minh sự ngoại phạm của Chưởng nên Ca và Trọng lờ đi. Ca và Trọng chỉ dùng bạo lực, nhục hình, ép cung mới nhanh chóng buộc Chưởng phải nhận tội giết thiếu tá Sinh đêm 14.7.2007!

Bạo lực nhục hình, ép cung của lũ cô hồn trong trại giam của công an Hải Phòng chưa đủ, Ca và Trọng còn liên kết với công an Bắc Giang, nơi có nhà gim Kế với những cô hồn máu lạnh, thành thục xài bạo lực, nhục hình, ép cung tạo ra những án oan tử hình Nguyễn Thanh Chấn, Hàn Đức Long chấn động cả nước. Bị đòn nhừ tử ở trại giam công an Hải Phòng, Nguyễn Văn Chưởng lại bị dẫn giải lên Bắc Giang, tống vào nhà giam Kế cho những cô hồn đã buộc Hàn Đức Long, Nguyễn Thanh Chấn chỉ được lựa chọn một trong hai sự nghiệt ngã: Hoặc nhận tội giết người. Hoặc ân đòn đến chết. Với sự ra đòn của những cô hồn đó, dù không giết người, Chưởng cũng phải nhận tội giết người để được sống mà kêu oan.

Bạo lực, nhục hình, ép cung cả với những tiếng nói trung thực. Nguyễn Trọng Đoàn, em Chưởng, Trần Quang Tuất, Trịnh Xuân Trường cùng quê với Chưởng đã viết giấy xác nhận tối 14.7.2007 Chưởng có mặt ở quê, thôn Trung Tính, xã Bình Dân, huyện Kim Thành, Hải Dương, cách nơi án mạng giết thiếu tá Sinh 40 cây số. Bạo lực, nhục hình, ép cung buộc Đoàn, Tuất, Trường phải viết giấy bác bỏ giấy xác nhận cũ, phải viết lại theo lời mớm của công an.

Đỗ Hữu Ca và Dương Tự Trọng đã làm ra bản án tử hình của Nguyễn Văn Chưởng bằng bạo lực nhục hình, ép cung như vậy. Những bản án tử hình oan với Huỳnh Văn Nén, Hàn Đức Long, Nguyễn Thanh Chấn, Nguyễn Văn Chưởng, Hồ Duy Hải tạo nên bóng đen trung cổ man rợ trùm lên nền văn minh sông Hồng, trùm lên đất nước văn hiến đang cùng loài người đi vào nền văn minh sáng lạn, văn minh tin học.

Nhà hoạt động Hoàng Văn Vương bị tuyên 5 năm tù, gia đình không hay biết

Quyền được biết

RFA

Toà án Nhân dân huyện Thống Nhất (tỉnh Đồng Nai) kết án năm năm tù đối với ông Hoàng Văn Vương về tội danh “lợi dụng quyền tự do dân chủ” trong một phiên xử hồi tháng tư, không luật sư bào chữa và gia đình hoàn toàn không được thông báo.

 Nhà hoạt động Hoàng Văn Vương – Fb Hoàng Văn Vương

Ông Vương, 45 tuổi, một nhà hoạt động dân chủ ít tiếng tăm, bị Công an huyện Thống Nhất bắt giữ vào ngày 03/1/2023.

Một ngày sau, Cơ quan Cảnh sát Điều tra của Công an huyện Thống Nhất gửi cho gia đình văn bản có tiêu đề “Thông báo về áp dụng biện pháp tạm giam” đối với ông Vương. Theo văn bản này, cơ quan trên giam giữ ông Vương trong vòng hai tháng nhưng không nêu rõ lý do.

Đó là văn bản duy nhất mà cho tới nay gia đình tôi nhận được từ chính quyền địa phương về việc liên quan đến Hoàng Văn Vương,” một người thân không muốn nêu danh tính của ông nói với Đài Á Châu Tự Do (RFA) trong ngày 07/8.

Đầu tháng năm, gia đình tôi nhận được cuộc gọi từ Trại tạm giam B5 của Công an tỉnh Đồng Nai, báo rằng Hoàng Văn Vương đang bị giam ở đây, và gia đình có thể đến để thăm nuôi,” người này nói.

Gia đình sau đó đến nơi tạm giam và được ông Vương cho biết, bản thân đã bị kết án năm năm tù về tội danh “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” theo Điều 331 của Bộ luật Hình sự trong một phiên toà không có luật sư vào ngày 18/4.

Trại tạm giam của Công an tỉnh Đồng Nai cấp cho gia đình ông Hoàng Văn Vương cuốn sổ thăm gặp, trong đó có ghi “Hành vi phạm tội: Lợi dụng quyền tự do dân chủ” và “Án phạt: 5 năm.”

Ông Vương nói với gia đình, sau phiên tòa sơ thẩm ông đã làm đơn kháng cáo nhưng sau đó lại rút đơn.

Phóng viên gọi điện thoại cho Công an huyện Thống Nhất nhưng không ai nghe máy. Phóng viên cũng gọi điện cho Toà án Nhân dân tỉnh Đồng Nai và người trực điện thoại đề nghị phóng viên đến trụ sở cơ quan để được cung cấp thông tin.

Truyền thông nhà nước không đưa tin gì về việc bắt giữ và kết án ông Vương kể từ đầu năm đến nay.

Ông Vương lên tiếng phản biện trên mạng xã hội từ năm 2011, đã từng bị bắt và bị đánh đập trong những năm 2011-2012 vì tham gia biểu tình ôn hoà phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông và bất công ở nhiều nơi của Việt Nam.

Một số nhà hoạt động cho biết, ông Vương thường xuyên trợ giúp gia đình một số tù nhân lương tâm và người hoạt động gặp hiểm nguy như ông Đinh Văn Hải và bà Hoàng Thị Thu Vang cho dù điều kiện kinh tế của gia đình ông còn khó khăn.

Trong năm 2018, ông nhiều lần bị Công an huyện Thống Nhất triệu tập lên đồn vì lên tiếng về xả thải của Công ty Cổ phần Dịch vụ Sonadezi ở thành phố Biên Hoà.

Ông Vương là người bất đồng chính kiến thứ hai bị kết án từ đầu năm đến nay về tội danh “lợi dụng quyền tự do dân chủ.” Cũng trong thời gian này, mười người đã bị bắt giữ về cáo buộc theo Điều 331, theo thống kê của RFA.

Cuối tháng trước, toà án Hà Nội đã kết án ông Nguyễn Sơn Lộ, cựu viện trưởng Viện nghiên cứu và phát triển SENA, với bản án ba năm tù giam vì “đã phát tán năm tài liệu với tổng hơn 1.000 trang và ba đơn khiếu nại có nội dung xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.” Ông còn bị thêm án hai năm tù giam vì “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ.”

Đại đa số người lao động tại Việt Nam kiếm không đủ sống

Báo Nguoi-viet

August 8, 2023

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) .- Đa số dân lao động tại Việt Nam kiếm không đủ sống, theo khảo sát mới được công bố ở Hà Nội trong ngày Thứ Ba mùng 8 Tháng Tám.

Các báo tại Việt Nam đưa tin Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, một bộ phận ngoại vi của đảng CSVN, công bố bản khảo sát về tình hình đời sống của người lao động, nói chỉ có hơn 26% công nhân là có khả năng mua thịt cá ăn hàng ngày.

Nhóm công nhân xây dựng một căn nhà ở thành phố Hà Nội. Đa số người lao động kiếm không đủ sống. (Hình: Roslan Rahman/AFP/Getty Images)

Bản khảo sát vừa kể nói 75.5% dân lao động “thu nhập không đủ đáp ứng nhu cầu”, tức tiền kiếm được không đủ sống. Thậm chí, có đến 45% người lao động chỉ đáp ứng nổi “45% nhu cầu”. Đầu tháng Bảy vừa qua, Tổng cục Thống kê nói trung bình dân lao động kiếm được lối 7 triệu đồng một tháng (tính ra khoảng $300 đô la) nhưng nếu phân tích chi tiết hơn thì đám người kiếm không đủ sống đông đảo hơn.

Nhưng bản khảo sát kể trên nói rằng trung bình người lao động chỉ kiếm được lối 6 triệu đồng/tháng (khoảng $250 USD). Nếu họ có cơ hội làm thêm giờ phụ trội và được hãng xưởng phụ cấp mới có thêm tiền để tạm sống. Vì vậy, rất nhiều người phải kiếm thêm một công viện gì đó để có thêm tiền trang trải cho các nhu cầu hàng ngày.

Vì lương không đủ sống, 17.6% cặp vợ chồng phải gửi con cái cho ông bà nuôi dùm ở dưới quê cho đỡ tốn kém. Có tới 46.5% người lao động chỉ đủ tiền mua các loại thuốc căn bản để chữa bệnh, trong khi 6.3% không có dư tiền để mua thuốc chữa bệnh.

Vì tiền kiếm được không đủ trang trải mọi chi phí cho cuộc sống hàng ngày, bản khảo sát kể trên nói 17.3% công nhân “phải vay nợ thường xuyên” dẫn đến tình trạng bị đe dọa, khủng bố, đời sống của họ đầy bất an. Số tiền kiếm được trung bình chưa tới 8 triệu đồng một tháng trong khi số tiền phải chi ra cho mọi thứ có thể tới gần 12 triệu đồng (lối $500 đô la) cho thấy đời sống giới lao động tại Việt Nam thê thảm như thế nào.

Bản công bố về lương bổng và đời sống của giới công nhân tại Việt Nam được đưa ra khi mấy tháng gần đây có tin tình hình sản xuất của các hãng xưởng sử dụng đông đảo nhân công như dệt may, da giày theo nhau sa thải bớt công nhân vì họ thiếu hụt đơn đặt hàng mới. Đời sống của giới công nhân đã thê thảm lại sẽ còn có thể thê thảm hơn nữa.

Người lao động chuyển các bao xi măng xuống một xà lan ở bờ sông Hồng khu vực Hà Nội. (Hình: Nhạc Nguyễn/AFP/Getty Images)

Cuối tháng trước, ông Vương Đình Huệ, chủ tịch quốc hội, tuyên truyền tại “Diễn đàn người lao động 2023” rằng sẽ “xem xét điều chỉ mức lương tối thiểu vùng dựa trên nguyên tắc bảo đảm mức sống tối thiểu”. Tuy nhiên, khi nào thì cái quốc hội “con dấu cao su” sẽ họp để thông qua một thứ nghị quyết tăng lương tối thiểu thì không thấy ông ta nói.

Trong một cuộc bàn cãi về tăng lương tối thiểu cho công nhân gần đây của “Hội đồng tiền lương quốc gia”, đại diện phía công nhân đề nghị tăng 30% mới đủ sống, trong khi phe chủ nhân chỉ muốn tăng 10%. Nếu lấy trung bình giữa hai phe tức chỉ tăng 15% thôi thì “mới chỉ đáp ứng được 75% nhu cầu cuộc sống” của người lao động.(TN)

Vì sao “Báo chí Cách mạng” câm miệng trước việc tử hình oan?

Báo Tiếng Dân

Blog RFA

Gió Bấc

8-8-2023

Ba ngày qua, trước nguy cơ cái chết oan ức được báo trước của “tử tù” Nguyễn Văn Chưởng, dư luận xã hội mang Facebook sôi sục kêu oan, kiến nghị hoãn thi hành án… Ngược lại, 800 tổ chức Báo chí Cách mạng là “cơ quan ngôn luận của đảng, là tiếng nói của nhân dân” lại đồng loạt im lặng.

Sư im lặng bối rối, sự im lặng ngoan ngoãn của đàn cừu phục tùng ngọn roi của kẻ chăn, bỏ mặc cho sinh mạng của đồng loại, đồng bào. Cơ quan ngôn luận của đảng cạn chữ, tiếng nói của nhân dân lại yếu hơi đến thế sao? Phải giương cao chính nghĩa chỉ ra đích danh “thế lực thù địch” đang chống phá đi chứ?

Ngay chiều 4-8, khi nhà báo Nguyễn Đức đưa thông tin gia đình “tử tù” Nguyễn Văn Chưởng kêu cứu xin hoãn thi hành án, mạng xã hội Facebook và báo chí truyền thông tiếng Việt đã bùng lên cơn bão thông tin phản đối, kiến nghị. 21 giờ ngày 6-8, dùng từ khóa “tử hình Nguyễn Văn Chưởng” trên mạng tìm kiếm Google có đến 1,420,000 lượt kết quả (1).

Từ các cơ quan truyền thông quốc tế như BBC, RFA, …. báo chí việt ngữ ở hải ngoại như Người Việt, Đất Việt, Sài Gòn Nhỏ … các trang mạng xã hội như báo Tiếng Dân, Chân Trời Mới, Luật Khoa tạp chí đồng loạt đăng thông tin kêu cứu từ gia đình Nguyễn Văn Chưởng, ý kiến của những người có liên quan như Luật sư Lê Văn Hòa, nguyên Vụ trưởng Ban Nội Chính Trung Ương, từng là tổ trưởng tổ giám sát vụ án này 8 năm trước, phân tích hồ sơ vụ án có nhiều sai phạm tố tụng nghiêm trọng, nhiều hồ sơ bị mất, vật chứng vụ án bị đánh tráo, nhiều bị cáo khai bị tra tấn, ép cung, chứng cứ ngoại phạm Nguyễn Văn Chưởng, vào thời điểm xảy ra vụ án Chưởng có mặt tại Hải Dương cách hiện trường vụ án hơn 40km không được xem xét. Tất cả các kênh thông tin này đều theo một hướng phản biện, cho rằng việc buộc tội Nguyễn Văn Chưởng giết người là không có cơ sở và thi hành án tử hình oan là nền tư pháp tăm tối và phi nhân.

Những hình ảnh ông Nguyễn Trường Chinh, cha ruột Chưởng, cắt tay lấy máu viết thư kêu oan cho con, mẹ và em Chưởng trương lời kêu gọi hoãn thi hành án, liên tục cập nhật trên mạng xã hội, gây xúc động lòng người.

Đặc biệt từ ngày 5-8, trên mạng xã hội đã có trang đăng KIẾN NGHỊ HOÃN THI HÀNH ÁN TỬ TÙ NGUYỄN VĂN CHƯỞNG thu thập được gần 3000 chữ ký và đang tiếp tục cập nhật. Thỉnh nguyện thư này gửi đến Chủ tịch Nước Võ Văn Thưởng, tóm tắt ý kiến của Luật sư Hoàng Văn Quánh (Ðoàn luật sư TP Hà Nội), người bảo vệ cho Nguyễn Văn Chưởng ở phiên phúc thẩm, cho biết, tại tòa, cả hai anh em Chưởng khai bị đánh đập nên phải nhận tội. Các bản cung phía dưới chữ ký Chưởng đều viết chữ “EC” (tức bị ép cung). “Tôi cho rằng việc kết tội Chưởng giết người là chưa có cơ sở”.

Thỉnh nguyện thư cũng nhắc quan điểm của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao quyết nghị Giám đốc Thẩm vụ án đề nghị Tòa án nhân dân tối cao hủy bản án hình sự phúc thẩm. Quyết định kháng nghị nêu rõ vụ án có một số vấn đề cần phải làm rõ, đề nghị xem xét về phần hình phạt theo hướng giảm nhẹ cho Nguyễn Văn Chưởng từ tử hình xuống chung thân. Nhưng TANDTC đã bác bỏ kiến nghị này mà không có cơ sở buộc tội vững chắc. Gia đình bị án liên tục kêu oan từ đó đến nay.

Thư Thỉnh Nguyện đề nghị: “Chúng tôi khẩn thiết kiến nghị Chủ tịch nước ra quyết định hoãn thi hành án để bảo vệ mạng sống của công dân Nguyễn Văn Chưởng trong vụ việc có dấu hiệu oan sai. Quyết định của Chủ tịch nước cũng là cơ hội để thể hiện cam kết cải thiện nền tư pháp, bảo vệ quyền con người của công dân” (2).

Đặc biệt, nhà báo Nguyễn Đức, Biên Tập viên báo Pháp Luật TP.HCM, liên tục tác nghiệp và cập nhật thông tin trên Facebook cá nhân và kênh Youtube về những diễn tiến mới của vụ việc. Đích thân Nguyễn Đức đã gửi tin nhắn và nhận được tin nhắn phản hồi từ Chủ Tịch Nước Võ Văn Thưởng. Một số đại biểu Quốc Hội gửi tin nhắn cho Chủ Tịch Nước và cũng nhận được phản hồi. Ông Lưu Bình Nhưỡng, nguyên đại biểu Quốc Hội nhiều khóa, hiện là Phó Ban Dân Nguyện Quốc Hội, cũng gửi tin nhắn cho Chủ tịch Nước và nhận được phản hồi.

Nguyễn Đức cũng gặp, trao đổi và ghi lại phát biểu ý kiến ông Lưu Bình Nhưỡng, khẳng định rằng “Có đủ căn cứ để Chủ tịch nước cho hoãn thi hành án tử và giao cấp thẩm quyền xem xét theo thủ tục đặc biệt đối với tử tù Nguyễn Văn Chưởng… để tránh oan khuất” (2b).

Ông Lưu Bình Nhưỡng đã nêu ra những vi phạm tố tụng, thiếu cơ sở buộc tội của bản án đã được Viện Kiểm Sát Tối Cao quyết nghị, đồng thời chỉ ra Bộ Luật Tố Tụng năm 2015 đã mở ra điều luật mới để xem xét lại các bản án Giám Đốc Thẩm có vi phạm nghiêm trọng. Ông Nhưỡng còn khẳng định, ngoài Hồ Duy Hải và Nguyễn Văn Chưởng, Việt Nam còn có nhiều bản án tử hình chưa có cơ sở vững chắc, vì vậy ông kiến nghị Chủ Tịch Nước cần cân nhắc hết sức thận trọng khi ký các quyết định bác các đơn xin ân xá.

Để khách quan, Chủ Tịch Nước không nên nghe ý kiến một chiều từ các cơ quan giúp việc, mà phải thành lập Hội Đồng Tư Vấn xét đơn ân xá độc lập. Theo ông đây là vấn đề cần hết sức cẩn trọng vì là công lý của nền tư pháp và còn là quyền con người.

Phải nói là các tác nghiệp của nhà báo Nguyễn Đức thật sắc sảo, nhạy bén và rất chính danh, bảo vệ sự công bằng, minh bạch của nền tư pháp. Nhưng đáng tiếc là toàn bộ các nội dung tác nghiệp ấp không được chuyển tải lên tờ báo Pháp Luật TP.HCM mà Nguyễn Đức đang là Biên Tập Viên, mà chỉ phổ cập trên Facebook cá nhân.

Xét về tôn chỉ, mục đích thì đề tài này đúng hoàn toàn phù hợp và là sở trường đắc địa của báo Pháp Luật TP.HCM. Hơn 20 năm trước, tờ báo này cũng từng đi đầu đấu tranh xây dựng nền tư pháp công bằng nói chung và đấu tranh cho những nạn nhân bị án oan. Báo từng theo đuổi đấu tranh cho một tử tù ở Đồng Nai bị oan nhưng theo pháp luật thời đó đã hết cấp xét xử. Bị án chết vì bệnh. Ông Vũ Đức Khiển, Phó chủ Tịch Quốc Hội, thời đó đã thân hành đến gia đình tử tù này thắp nhang như một cách giải oan. Vậy tại sao trong lần này Nguyễn Đức phải đơn độc lên tiếng với tư cách cá nhân mà không có điểm tựa từ cơ quan báo chí mà mình đang cộng sự?

Nhìn lại kết quả tìm kiếm trên Google, không riêng báo Pháp Luật TP.HCM mà toàn bộ 800 tờ báo lề phải đều đồng lòng ngậm miệng trước bản án oan này. Trên 1 triệu lượt thông tin về thi hành án Nguyễn Văn Chưởng đếu từ báo chí nước ngoài và mạng xã hội. Ngay tờ báo Tuổi Trẻ từng có những thông tin tường thuật có giá trị về vụ án thì bài mới nhất thông tin về vụ này là “Vụ tử tù Nguyễn Văn Chưởng đã “hết đường” kháng nghị” từ năm 2014 (3)

Vì sao 800 tờ báo đảng, báo nhà nước, báo chí cách mạng hay còn gọi là báo lề phải báo quốc doanh lại tự nguyện câm lặng, tự khước từ quyền thông tin trước một sự kiện quan trọng ảnh hưởng đến sinh mạng của công dân? Bản án đúng sai còn là  lằn ranh giữa minh bạch, công bằng, nhân đạo hoặc tối tăm, bất công và man rợ của nền tư pháp. Lựa chọn sư im lặng trước bản án tử hình oan ức là a tòng với nền tư pháp man rợ, phục tòng và phục vụ cho một thế lực ác quỷ đội lốt con người.

Phải chăng đúng như người ta nói 800 tờ báo này có chung ông Tổng Biên Tập và chính ông Tổng ra lệnh cấm hoặc chưa cho phát lệnh nói nên tất cả đồng thủ khẩu như bình.

Nhà nước công sản hằng rêu rao vai trò của báo chí. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã từng xưng tụng theo bài bản chung về vai trò báo chí là “Báo chí đã trở thành lực lượng xung kích, tin cậy của Đảng và Nhà nước trên mặt trận thông tin, tuyên truyền. Với đội ngũ hùng hậu trên 18.000 nhà báo được cấp thẻ, có tính chuyên nghiệp cao và tiếp cận nhanh với công nghệ báo chí, truyền thông hiện đại, người làm báo thực sự là người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hóa như Bác Hồ kính yêu đã dạy: “Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính, trừ tà”.

Vị Thủ Tướng cũng chia sẻ vấn đề hết sức “xôi thịt” trong cuộc cạnh tranh báo chí và mạng xã hội là “ “Tôi cũng xin chia sẻ những khó khăn mà báo chí và đội ngũ những người làm báo đang phải đối mặt, nhất là trong bối cảnh báo chí chính thống bị mạng xã hội cạnh tranh khốc liệt cả về mức độ ảnh hưởng, thị phần thông tin và quảng cáo…” (4)

Báo chí chiến đấu hết mình vì đảng, cạnh tranh giành quảng cáo với mạng xã hội còn chuyện sống chết, oan ưng của dân, chuyện công bằng xã hội, chuyên chế của ông an, bất công của tòa án, báo chí cách mạng ngậm miệng ăn tiền dành phần cho mạng xã hội.

Một nhiệm vụ quan trọng, chiêu sở trường của báo chí cách mạng là gắp lửa bỏ tay người đã được Tuyên Giáo đảng khẳng định trong bài “Vai trò của báo chí trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch”. Ngay trong vụ chuyến bay giải cứu hàng đàn cán bộ cấp cao của 5 bộ ngành bóp cổ hút máu dân ngay cơn hoạn nạn, báo CAND vẫn tìm thấy thế lực thù địch nói xấu nhà nước.

Sao đến nay báo chí chưa xuất chiêu này? Chắc còn bất ngờ, trí tuệ của những con … người quen đi theo lề phải chưa phân định được Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao, ông Phó Ban Dân Nguyện Quốc Hội, nhà báo Nguyễn Đức ai sẽ là kẻ xấu, là thù địch.

Sự dũng cảm đơn độc tác nghiệp trên mạng xã hội của nhà báo Nguyễn Đức quả là sự đơn độc đến mong manh. Mong rằng đừng có thêm oan án mới!

1- https://www.bing.com/search?q=t%e1%bb%ad+h%c3%acnh+nguy%e1%bb%85n+v%c4%83n+ch%c6%b0%e1%bb%9fng&FPIG=9FED807D7A1342069CEC98687FC7A36C&first=11&FORM=PERE

2-https://secure.avaaz.org/community_petitions/en/chu_tich_nuoc_vo_van_thuong_chanh_an_tand_tp_hai_p_kien_nghi_hoan_thi_hanh_an_tu_tu_nguyen_van_chuong/

2b- https://www.facebook.com/nxdien2k15/videos/296830626263902

3- https://tuoitre.vn/vu-tu-tu-nguyen-van-chuong-da-het-duong-khang-nghi-723209.htm

4- https://dantri.com.vn/xa-hoi/thu-tuong-bao-chi-dang-phai-canh-tranh-khoc-liet-voi-mang-xa-hoi-20190621223044483.htm

Ân Xá Quốc Tế thúc CSVN dừng vụ hành quyết Nguyễn Văn Chưởng

Báo Nguoi-viet

August 7, 2023

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế thúc giục CSVN dừng vụ hành quyết tử tù Nguyễn Văn Chưởng để xét lại các khuất tất của vụ án.

“Nhà cầm quyền Việt Nam phải dừng ngay chương trình hành quyết người đàn ông của vụ án đầy ngập những lo ngại bị tra tấn và vi phạm quyền được xét xử công bằng. Chúng tôi yêu cầu khởi động ngay cuộc điều tra độc lập và không thiên vị về những cáo buộc tra tấn và các nhục hình để ép cung.”

Ông Nguyễn Trường Chinh và bà vợ với biểu ngữ kêu gọi công lý cho con trai Nguyễn Văn Chưởng. (Hình: Amnesty International)

Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International thường được viết tắt là AI) viết trong bản tuyên bố phổ biến trên trang nhà của tổ chức này ngày 7 Tháng Tám về vụ hành quyết tử tù Nguyễn Văn Chưởng mà họ được biết thông tin từ Việt Nam.

Ngày 4 Tháng Tám, gia đình ông Nguyễn Trường Chinh, bố của Nguyễn Văn Chưởng, được thông báo tới trụ sở xã ở Hải Dương, nơi gia đình ông đang cư ngụ, để nhận văn thư thông báo làm thủ tục với tòa án ở Hải Phòng để nhận xác hoặc tro cốt của Nguyễn Văn Chương sau khi bị hành quyết. Ông chỉ có ba ngày để nộp đơn.

Ông cho hay con ông vô tội mà cố tình thi hành án tử hình thì ông “sẽ nhận xác và đem xác đấy lên cơ quan trung ương đảng, nhà nước Việt Nam để kêu oan cho con,” lời ông nói với đài RFA. Dịp này, ông cho hay ông hỏi có quyết định thi hành án không mà có thông báo nhận tro cốt hay xác, thì họ nói “có quyết định thi hành án rồi.”

Tuy nhiên, ông lại không được cho biết thi hành án ngày nào và cha mẹ của tử tù “không nhận được quyết định thi hành án,” trái với luật tố tụng hình sự. Điều này cho thấy sự mập mờ khiến gia đình tử tù không biết thật sự Nguyễn Văn Chưởng đã bị hành quyết hay chưa, và ở đâu, khi nào.

Sau khi gặp viên chức nhà nước, ông Nguyễn Trường Chinh đã báo động cho mọi người biết và cầm đơn kêu gửi đi Hà Nội xin gặp chủ tịch nước, các chức sắc cấp cao của chế độ, kêu gọi họ cho lệnh dừng hành quyết để điều tra lại thay vì giết oan một người vô tội. Nguyễn Văn Chưởng là một trong những nạn nhân điển hình của nền tư pháp CSVN dựa trên tra tấn nhục hình và ép cung, thay vì dựa trên chứng cứ cụ thể.

Nguyễn Văn Chưởng, năm nay 40 tuổi, bị bắt năm 2007 cùng với một số người khác bị vu cho là đã giết một thiếu tá công an tên Sinh tại Đình Vũ, Hải Phòng, để cướp tiền mua ma túy. Nhiều người gồm cả em trai của Chưởng đều khai lúc xảy ra vụ án thì Chưởng đang có mặt ở quê, Hải Dương, cách nơi xảy ra án mạng 40 km, thì không thể nào là thủ phạm.

Tuy nhiên, tòa án Hải Phòng chỉ căn cứ vào bản cung khai của Nguyễn Văn Chưởng khi bị giam giữ để lên án tử hình. Khi ra tòa, Chưởng đã phản cung, nói rằng ông đã bị tra tấn khủng khiếp vô cùng tàn bạo nên đã buộc lòng nhận tội và ký vào bản cung khai theo chỉ dẫn của điều tra viên dù hoàn toàn không liên quan gì đến vụ sát hại công an tên Sinh.

Các phiên tòa phúc thẩm, giám đốc thẩm cũng đều tảng lờ các lời kêu oan và các nhân chứng xác nhận Nguyễn Văn Chưởng vô tội, trong khi các chứng cứ mà cơ quan điều tra đưa ra đều không có gì xác định liên quan đến Nguyễn Văn Chưởng.

Ông Nguyễn Trường Chinh ngất xỉu trên đường phố Hà Nội khi đi kêu gọi hoãn hành quyết con trai ông. (Hình: FB Nguyễn Trường Chinh)

Ngày 7 Tháng Tám, Luật Sư Lê Văn Hòa công bố trên trang Facebook của ông bức thư Nguyễn Văn Chưởng gửi về cho cha mẹ, kể lại chi tiết những lần đã bị tra tấn nhục hình khủng khiếp như thế nào nên thúc đẩy ông phải ký vào bản cung khai nhận tội tưởng tượng, theo sự ép buộc của kẻ tra tấn mình, để có hy vọng sống sót mà kêu oan. Luật Sư Lê Văn Hòa khi trình bày tóm tắt lại vụ án Nguyễn Văn Chưởng đã nêu ra rất nhiều những vi phạm tố tụng hình sự của vụ án.

Nếu nhà cầm quyền CSVN thi hành vụ hành quyết Nguyễn Văn Chưởng tức là họ ngang nhiên tước đoạt mạng sống của ông ta mà thôi, Montse Ferrer, quyền giám đốc nghiên cứu của AI nhận định. Trên Internet, đã có 3,644 người đã ký trên trang mạng của tổ chức thỉnh nguyện thư công khai avaaz.org thúc giục ông Chủ Tịch Nước Võ Văn Thưởng hoãn hành hình Nguyễn Văn Chưởng.

Một số báo tại Việt Nam cũng từng nêu ra các chi tiết đầy nghi vấn trong vụ án để kêu gọi xét lại bản án. Ông Nguyễn Trường Chinh vì nhiều ngày căng thẳng và đi vận động cứu mạng con trai đã ngất xỉu phải đưa vào bệnh viện cấp cứu ở Hà Nội ngày 7 Tháng Tám. (TN)

Gặp cô giáo Lê Thị Dung – người bị loại

Báo Tiếng Dân

Thái Hạo

7-8-2023

Cô giáo Lê Thị Dung và tác giả. Ảnh: FB tác giả

Chiều qua cô giáo Lê Thị Dung cùng con trai ghé chơi Tào Sơn. Đây là lần đầu tiên tôi được gặp và trò chuyện cùng cô, sau câu chuyện dài bi thương từ một bản án mà có lẽ tất cả chúng ta đều đã biết.

Chúng tôi không ngồi cùng nhau được lâu, vì trời chiều sắp tối và đường về thì xa. Khoảng 1 giờ đồng hồ, cảm xúc lẫn lộn, buồn vui… Trong câu chuyện của chúng tôi có Nguyễn Văn Chưởng, có những cô Lịch, cô Tuất, cô Giang…

Tôi hỏi cô những băn khoăn mà lâu nay vẫn giữ trong lòng.

– Cô có hận những kẻ đã gây nên oan khốc cho mình không?

– Không. Nhưng vẫn tiếp tục kêu oan.

Sau những đày đọa, phẫn nộ, đau xót, uất ức của một trận “sóng gió bất kỳ”, giờ ngồi trước mặt tôi là một cô giáo nhẹ nhõm, nhìn những gì đã qua như nhìn một tai nạn trong cuộc đời. Cái tai nạn mà cô gọi là “trong họa có phúc”.

Tôi nói, nhìn thấy cô trên những trang FB của bạn bè sau khi cô được trở về nhà, tấm hình nào cũng đẫm nước mắt. Cô nói, không, cô chỉ khóc với những người thân yêu, chưa từng khóc trước công an, tòa án.

Trong hoàn cảnh tù đày, “người ta” đề nghị với cô rằng “nhận đi, rồi sẽ được về”, gia đình cũng vì thương, sợ và tin vào “lời hứa” mà khuyên cô nhượng bộ. Cô nói, “Thuê luật sư cho mẹ. Cái mẹ cần là danh dự. Mẹ có thể chết ở đây, chứ không thể đánh mất danh dự”.

Cô tâm sự rằng, trước khi sự ác đổ sập xuống đầu mình, cô là một người “vô cùng Mác-xít”, là một người “rất Bôn-sê-vích”. Cô lý tưởng và tin một cách trong sáng vào những điều tốt đẹp. Cô đã tận tâm và giữ mình trong sạch, ngay thẳng, một lòng với giáo dục, với tổ chức và các đồng chí của mình. Sự việc xảy ra khiến cô không giải thích được, rằng tại sao bỗng chốc tất cả đều trở nên xa lạ và méo mó đến không thể nhận ra được nữa. Tất cả mọi thứ bỗng sụp đổ ngay trước mắt, từ một tòa lâu đài nguy nga đêm trước, đến đống gạch vụn ngổn ngang sáng hôm sau.

Bị giam cầm khắc nghiệt hơn 15 tháng, cái “phúc” của cô là khỏi bệnh, không còn đau đầu, bệnh dạ dày cũng biến mất. Cô nói, khi còn công tác, vừa lao tâm khổ tứ với công việc lại vừa phải đương đầu triền miên với đơn tố cáo, với áp lực thanh tra nhũng nhiễu, thường xuyên phải “làm việc” và chống chọi với đủ ban ngành, cấp bậc; rồi ròng rã đi đòi sự thật, công lý và danh dự. Cô như kiệt sức và sinh ra đủ thứ bệnh trên thân.

Niềm tin sụp đổ, cũng như người gánh nặng đường xa bỗng một ngày phát hiện ra một sự thật cay đắng rằng trên vai là đá chứ không phải bạc vàng. Trút bỏ, buồn đau ngơ ngác đấy, nhưng là buông xuống, thân tâm bỗng trở nên nhẹ nhàng, rồi cũng hồi sinh…

Chia tay, tôi cứ nghĩ mãi. Một người như cô giáo Dung, là một đảng viên ngay thật, tận tụy, coi danh dự trọng hơn sự sống, nhưng cuối cùng đã “bị loại”, là vì sao. Và rồi còn ai ở lại?

Nghĩ đến 25 nghìn giáo viên khối công lập đã bỏ việc trong 2 năm qua, rồi lại nghĩ đến bạn bè tôi – hàng chục đồng nghiệp giỏi giang và có phẩm cách nhà giáo tử tế – họ cũng đã rời bỏ bục giảng trong giằng xé ngậm ngùi, vì không chịu đựng được nữa những nhiêu khê, đè nén, bất công.

Tự hỏi, tương lai nào cho xã hội khi người tốt cứ mãi “bị loại” nốc-ao như thế?

Thêm 1 đại gia tư bản đỏ vào tù ở xứ thiên đường CSVN

Lmdc Viet Nam

Bộ Công An mới ra quyết định khởi tố, bắt tạm giam ông Nguyễn Cao Trí (Tổng Giám đốc CT Cổ phần Đầu tư Du lịch Sài Gòn-Đại Ninh) vì chiếm đoạt hơn 40 triệu USD của bà Trương Mỹ Lan, truyền thông Việt Nam đưa tin.

Tại cuộc họp báo chính phủ ngày 5/8, người phát ngôn Bộ Công an Tô Ân Xô cho biết ông Nguyễn Cao Trí bị khởi tố và tạm giam vì tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Tướng Tô Ân Xô cho biết bà Trương Mỹ Lan đã chuyển cho ông Trí hơn 40 triệu USD để kinh doanh, mua bán dự án, nhưng ông Trí đã “chỉ đạo một số nhân viên tiêu hủy toàn bộ giấy tờ, chứng cứ …với mục đích chiếm toàn bộ số tiền”.

Trung tướng Tô Ân Xô nhấn mạnh rằng pháp luật sẽ “nghiêm khắc xử lý những ai dùng thủ đoạn để chiếm đoạt tiền, tài sản mà đối tác chuyển giao nhưng khi đối tác vướng vào vòng lao lý lại tìm cách chiếm đoạt”.

Hồi tháng 10/2022, bà Trương Mỹ Lan, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, bị khởi tố, bắt tạm giam với cáo buộc lừa đảo chiếm đoạt tài sản liên quan đến việc phát hành mua bán trái phiếu của công ty An Đông.

Vụ việc gây xôn xao mạnh trong dư luận sau khi có đồn đoán bà Trương Mỹ Lan có giữ chức vụ trong ngân hàng SCB, điều mà SCB ra thông cáo bác bỏ.

* Ở VN hiên nay, có rất nhiều người, hôm nay là đại gia, ngày mai lại vào tù.

– Điều này cho thấy các bác đại gia tư bản đỏ đa số, dựa hơi vào 1 ông lãnh đạo “đảng” nào đó, kiếm tiền một cách bất minh, rồi khi bác lãnh đạo đó xuống thì ông đại gia kia nếu không cao bay xa chạy thì sẽ vào tù.

TL BBC

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Án oan

Báo Đàn Chim Việt

Tác GiảTưởng Năng Tiến

06/08/2023

Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh hớn hở gửi đến cho độc giả một tin vui (lớn) từ quê hương, bản quán của ông :

“Đà Nẵng vừa tổ chức Lễ Khánh Thành Nhà Giam Quận Hải Châu, vào ngày 4 tháng 10 vừa qua… Phát biểu tại buổi lễ, Đại tá Lê Quốc Dân – Phó Giám Đốc Công An Thành Phố cho biết, đây là công trình có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và công tác đảm bảo ANTT.”

Lực lượng công an Đà Nẵng (nói riêng) và giới công nhân viên Việt Nam (nói chung) rất ưa đình đám & lễ lạt:

  • Lễ Đón Nhận Danh Hiệu Anh Hùng
  • Lễ Đón Nhận Danh Hiệu Đoạt Chuẩn Quốc Gia
  • Lễ Trao Tặng Vinh Dự Nhà Nước
  • Lễ Trao Tặng Dụng Cụ Cho Học Sinh Nghèo
  • Lễ Trao Tặng Huy Hiệu Đảng
  • Lễ Đón Nhận Bằng Khen
  • Lễ Tôn Vinh Doanh Nghiệp Xuất Sắc & Doanh Nhân Tiêu Biểu
  • Lễ Tôn Vinh Thương Hiệu Phát Triển Bền Vững
  • Lễ Tiếp Nhận Cán Bộ Chuyên Trách Về Công Tác
  • Lễ Tiếp Nhận Thiết Bị Phòng Thí Nghiệm
  • Lễ Vinh Danh Các Doanh Nghiệp Du Lịch Hàng Đầu
  • Lễ Vinh Danh Báo Cáo Thường Niên Tốt

Cách đây chưa lâu, L.S Lê Công Định còn cho biết thêm một thứ nghi lễ nữa, chưa từng có trong lịch sử : Lễ Trao Giấy Chứng Nhận Chấp Hành Xong Án Phạt Quản Chế.

Thiệt là quá đã và … quá đáng!

Thảo nào xứ sở lúc nào cũng vui như Tết và nơi nao cũng lễ lạt, tiệc tùng, chè chén tùm lum… Chả phải vô cớ mà ông Nguyễn Xuân Phúc đã mạnh miệng tuyên bố một câu chắc nịch : “Việt Nam tuy là nước có thu nhập thấp nhưng có chỉ số hạnh phúc cao thứ 5 thế giới.”

Nói vậy là còn khiêm tốn. Thiệt ra “chỉ số hạnh phúc’ của dân Việt nếu không nhất thì (giá chót) cũng phải nhì, chớ không thể thấp hơn vì họ rất dễ vui và thường xuyên hạnh phúc – nếu cứ theo như ngôn từ của giới truyền thông ở xứ sở này.

Hồi anh em ông Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Quí mãn án tù, vào năm 2015, tất cả báo chí quốc doanh đều hớn hở loan tin :

–  Pháp Luật: “Gia đình vỡ òa trong niềm vui khi nghe tin chính thức anh em ông Đoàn Văn Vươn được đặc xá trong đợt 2-9.”

–  Tuổi Trẻ : “Niềm vui vỡ òa của người thân khi hai anh em ông Vươn bước ra khỏi cổng trại giam.”

–  Người Đưa Tin: “Gia Đình Đoàn Văn Vương Vỡ Oà Hạnh Phúc.”

–  Vietnamnet: “Chị Nguyễn Thị Thương, Nguyễn Thị Hiền, vợ của anh Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Qúi mấy ngày gần đây đang lâng lâng trong niềm hạnh phúc.”

Coi: khi khổng khi không thì đất đai bị cưỡng chế, nhà cửa bị san bằng, thân mình bị giam cầm rồi (cái) chồng “vỡ oà niềm vui” và vợ thì “lâng lâng hạnh phúc” chỉ vì … mãn hạn tù. Niềm vui và hạnh phúc ở đâu (ra) mà dễ ẹc và lãng xẹt vậy – mấy cha?

Gia đình hai ông Đoàn Văn Vươn và Đoàn Văn Quí tuy thế, vẫn chưa vui sướng và hạnh phúc bằng gia đình của ông Trần Bê. Báo Khánh Hoà đã hân hoan cho biết:

Tại UBND phường Ninh Giang (thị xã Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà), ông Trần Đình Hồng – Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh, đại diện cho cơ quan này, đã công khai xin lỗi, phục hồi danh dự cho ông Trần Bê (sinh năm 1957, trú Ninh Giang, Ninh Hoà, Khánh Hoà), người bị tạm giam oan về tội giết người cách đây 38 năm. Chứng kiến buổi xin lỗi có lãnh đạo cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh, đại diện UBND phường và người dân phường Ninh Giang.

Ông Hồng nêu, thời điểm đó, việc khởi tố, phê chuẩn bắt tạm giam đối với ông Bê là oan sai. VKSND tỉnh xin lỗi ông Bê và gia đình vì những oan sai mà VKSND tỉnh Phú Khánh gây ra. Ông Bê chấp nhận lời xin lỗi và yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần, vật chất mà ông phải gánh chịu suốt 38 năm qua. Tuy nhiên, ông Hồng cho biết, theo Luật Bồi thường nhà nước năm 2009, đã hết thời hiệu xem xét xin lỗi, cải chính công khai đối với ông nên VKSND tỉnh Khánh Hòa không thực hiện được.

Cứ theo hình chụp thì vợ chồng Trần Bê, ngó bộ, không được vui vẻ hay hạnh phúc gì cho lắm. Vui gì nổi, hả Trời? Ông Bê vào tù khi vợ chồng đang ở lứa tuổi đôi mươi, và được minh oan khi đã ngoại lục tuần, chỉ với một lời xin lỗi suông và hai bó hoa thôi, chứ không một cắc đền bù vì vụ án “đã quá thời hiệu theo luật bồi thường!”

Luật cái mả cha, định cái mả mẹ chúng mày gì mà đốn mạt đến thế? Cả một tập đoàn truyền thông cũng không đứa nào thử đặt ra một câu hỏi nhỏ : “Hai nạn nhân khốn khổ, khốn nạn của cái ngành tư pháp này sẽ sinh sống cách nào cho hết quãng đời (tàn) còn lại?” Bán vé số hay đi ăn mày?  Dù cách nào thì họ vẫn cứ được đám ký giả (hay kỹ giả – whorespondent) mô tả là những công dân hạnh phúc, loại hạnh phúc ma dzê in Việt Nam.

TÔI THẤY ĐAU

 

Riêng tôi, tôi dám chắc

Cậu Chưởng không giết người

Nếu tử hình cậu ấy

Là giết oan một người.

 

Nếu cố tình thực hiện

Xã hội thành bất minh

Ai cũng giật mình nghĩ

Lỡ ngày mai đến mình.

 

Mạng người đâu phải nhỏ

Thích là giết hay sao

Gọi trời kêu công lý

Công lý ở nơi nao?

 

Kêu trời xong, chợt nhớ

Vụ bưu điện Cầu Voi

Bằng chứng mua ở chợ

Nhưng trời nào có soi

***

#freeNguyenVanChuong