Đà Nẵng bắt ‘nghịch tử’ đánh mẹ 81 tuổi vì ‘không chịu ăn cháo’

Báo Nguoi-viet

August 13, 2023

ĐÀ NẴNG, Việt Nam (NV) – Ông TVP, 54 tuổi, ở phường Hòa Phát, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, vừa bị bắt, khởi tố với cáo buộc đánh người mẹ 81 tuổi gây thương tích.

Theo tờ Thanh Niên hôm 13 Tháng Tám, ba ngày trước, Công An Phường Hòa Phát nhận được tin báo của người dân về việc ông TVP đánh mẹ ruột tại tư gia.

(Hình minh họa: Thanh Niên)

Khi công an xuất hiện, ông P. đã dừng tay, lúc này bà TTKV, 81 tuổi, mẹ ông này đã bị đánh sưng mặt, bầm tím khắp người.

Tường trình với công an, ông P. thừa nhận hành vi đánh mẹ do bà không chịu ăn cháo do ông đi mua về. Ông P. bực tức, lớn tiếng chửi bới và dùng tay, cầm dép nhựa đánh bà V., theo lời ông là để “hù dọa” cho mẹ ăn cháo.

Các vụ “nghịch tử” đánh, thậm chí dùng dao đâm chết cha mẹ liên tiếp xảy ra tại nhiều tỉnh, thành ở Việt Nam trong thời gian qua.

Báo Zing hồi đầu Tháng Bảy cho biết nghi can Nguyễn Ngọc Tám, 32 tuổi, ở huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận, bị bắt với cáo buộc đâm chết cha ruột là ông NNA, 60 tuổi, tại tư gia.

Vụ án mạng xảy ra khi nghi can Tám cãi vã với ông A. Sau đó, Tám đi ra sau bếp lấy con dao rồi đâm cha mình nhiều nhát khiến nạn nhân gục xuống nền nhà.

Người thân trong gia đình nhanh chóng đưa ông A. đi cấp cứu, nhưng ông này đã thiệt mạng. Kết quả giảo nghiệm tử thi cho thấy ông NNA chết do bị đâm thủng tim.

Trước đó, cũng tại huyện Bắc Bình từng xảy ra một bi kịch tương tự.

Theo báo Tuổi Trẻ, vào hôm 26 Tháng Năm, tại một căn nhà ở huyện Bắc Bình, nghi can Vòng Kháng Vềnh, 27 tuổi, bất ngờ cầm dao đạp ngã cha ruột là ông VKV, 57 tuổi.

Dù được mẹ mình can ngăn nhưng Vềnh vẫn dùng dao đâm rồi cứa cổ khiến ông V. nằm bất động. Hàng xóm thấy vậy lao vào khống chế nghi can Vềnh nhưng ông V. đã chết.

Sự việc xảy ra tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. (Hình minh họa: Đà Nẵng)

Báo Dân Việt dẫn lời một giới chức xã Hải Ninh cho biết thêm, nghi can Vềnh từng bị tâm thần và gia đình đã đưa đi chữa trị. Sau khi căn bệnh thuyên giảm, Vềnh được đón về nhà sinh sống như bình thường.

Được biết, một người chị của nghi can Vòng Kháng Vềnh cũng từng bị bệnh tâm thần. Do gia cảnh nghi can thuộc diện khó khăn, chính quyền địa phương đã giúp lo hậu sự cho ông VKV. (N.H.K)

Bớt nói dối đi

Báo Tiếng Dân

Phan Châu Thành

12-8-2023

Trước năm 1945, chúng ta du nhập phương pháp tuyên truyền dối trá của Liên Xô về. Hồi đó thông tin hạn chế, dân chúng ít học nên phương pháp đó đem lại hiệu quả, giúp miền Bắc chiến thắng trong cuộc nội chiến, càng làm người ta lầm tưởng vào sức mạnh của “tuyên truyền” và việc kiểm soát thông tin, nên mới lập ra “tuyên giáo” để “định hướng”.

Nhưng thời thế thay đổi, cùng với sự ra đời của internet, thông tin có thể dễ dàng tìm được và đến được với nhiều người, mọi thứ đang dần dần thay đổi. Dối trá, nói bừa thì dù có tuyên truyền kiểu gì cũng bị bóc mẽ, thành ra lại phản tác dụng. Lẽ ra, để thức thời, tuyên giáo phải sửa đổi để đi cùng sự thật, thì lại đi vào vết xe đổ, sử dụng bạo lực để đàn áp, khép tội “tuyên truyền chống phá nhà nước”, chụp mũ, đe nẹt, thậm chí tù đày – y chang Nga – mong có thể ép dân chúng “phải nghe theo”.

Nhưng làm sao mà quay lại được nữa? Thời thế thay đổi, bỏ tù hết kiểu gì đây? Mà bỏ tù cũng có làm ai phục đâu, khi mà họ cảm thấy hoàn toàn nói thật? Cứ lớp này rồi lớp khác, lại càng phản tác dụng, khi sự chống đối tiếp tục tăng lên cùng sự căm phẫn. Vậy thì bạo lực giải quyết cái gì? Con giun xéo mãi cũng oằn, không ai tính cửa ác giả – ác báo hay sao?

Mà dối trá có làm Đất nước hùng mạnh, Dân tộc hạnh phúc, ấm no hay không? Không hề. Ngược lại, dối trá là tấm màn, là môi trường để tham nhũng lan tràn, kéo ngược quốc gia về bờ thảm họa: môi trường bị hủy hoại, y tế, giáo dục kém cỏi, kinh tế yếu kém, nghèo nàn bởi luật pháp không nghiêm… tất cả đều bắt nguồn từ việc dối trá quá nhiều, nặng về hình thức – đang rất là phổ biến trong chúng ta – mà không có đủ thực tài.

Đa số người Việt Nam không hề dốt, rất linh hoạt, khéo léo, nhiều ý tưởng, khá chăm chỉ, không ngại khổ và cũng rất biết chia sẻ. Mỗi tội bị thứ “văn hóa Liên Xô” này thấm sâu, nên lẹt đẹt. Rồi suy bụng ta ra bụng người, nghĩ rằng “đâu đâu cũng dối trá” nên luẩn quẩn trong vòng xoáy đó, không ra nổi. Thật ra, muốn thay đổi, muốn Độc lập – Tự do – Hạnh phúc thực sự, ở năm 2023 này, chúng ta chỉ cần thay đổi, chú trọng tới thực lực. Mà muốn có thực lực thì lại phải biết rõ sự thật, thì mới quyết định được đúng, bỏi chỉ khi quyết định đúng, từ làm gì, với ai, như thế nào… mới lại “ra vấn đề”.

Dối trá có thể đem tới lợi ích nhỏ trước mắt, nhưng không đáng làm, vì tương lai lụn bại. Sự thật, sự tử tế có thể gây khó khăn, thậm chí làm chúng ta đau đớn, nhưng phải chấp nhận và bám theo, bởi về lâu dài, đó lại là nền móng vững chắc cho mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi tương lai.

Thế nên, muốn cuộc sống tốt đẹp lên, đất nước giàu có, hùng mạnh, sánh vai với cường quốc năm châu, việc đầu tiên lại đơn giản chỉ cần bớt nói dối đi thôi.

Còn lại là “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”. Và Nhân – Quả. Cùng thời gian, với sự tử tế, kiên nhẫn, bền bỉ, học hỏi, hoàn thiện không ngừng là mọi thứ sẽ đến, không thiếu gì luôn.

Mọi người thử ngẫm nhé.

Vụ tử tù Nguyễn Văn Chưởng: Liên Hiệp Quốc, Liên Âu và 13 tổ chức quốc tế đề nghị dừng thi hành án

RFA
2023.08.11

Ông Nguyễn Văn Chưởng trong một lần gặp người thân

FB Nguyễn Trường Chinh

Vụ tử tù Nguyễn Văn Chưởng: Liên Hiệp Quốc, Liên Âu và 13 tổ chức quốc tế đề nghị dừng thi hành án

00:00/06:22

Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Liên quan đến vụ tử tù Nguyễn Văn Chưởng có thể bị đưa ra thi hành án bất kỳ lúc nào, mới đây hàng loạt các cơ quan quốc tế và phái đoàn ngoại giao của các nước phương Tây kêu gọi cơ quan chức năng Việt Nam dừng thi hành án, và đảm bảo ông Chưởng được xét xử công bằng.

Ông Jeremy Laurence, người phát ngôn Văn phòng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (LHQ) hôm 11/8 ra thông cáo bày tỏ lo ngại trước các báo cáo về việc Việt Nam sắp xử tử Nguyễn Văn Chưởng, giữa những cáo buộc nghiêm trọng về tra tấn và vi phạm xét xử công bằng.

“Chúng tôi kêu gọi các nhà chức trách ngay lập tức dừng việc hành quyết và tiến hành một cuộc điều tra độc lập và vô tư về các cáo buộc tra tấn,” ông nói.

Dẫn lại thông tin tử tù này luôn kêu oan và khẳng định rằng, công an có được lời thú tội của ông Chưởng thông qua tra tấn và chính lời thú tội này được làm bằng chứng để kết tội, cơ quan của LHQ khẳng định:

“Việc sử dụng lời thú tội được trích xuất trong khi bị tra tấn dẫn đến kết án tử hình vi phạm cả việc cấm tuyệt đối tra tấn cũng như đảm bảo xét xử công bằng, khiến bản án trở nên tùy tiện và vi phạm quyền sống, như được quy định tại Điều 6 của Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị mà Việt Nam là một quốc gia thành viên.”

Ngày 11/8, luật sư Lê Văn Hòa, cựu Tổ trưởng tổ Kiểm tra án oan của Ban Nội chính Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng, các kiến nghị của các tổ chức quốc tế điển hình là của cơ quan nhân quyền Liên Hiệp Quốc và của các phái đoàn ngoại giao “chắc chắn sẽ có tác động lên ban lãnh đạo nhà nước Việt Nam”.

Ông nói qua điện thoại với phóng viên Đài Á Châu Tự Do như sau:

“Bởi vì đây là một vụ án rất nổi cộm ở Việt Nam hiện nay, dư luận trong nước người ta cũng có các kiến nghị lên lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam có chỉ đạo dừng thi hành án tử hình đối với tử tù Nguyễn Văn Chưởng, để có chỉ đạo kiểm tra, làm rõ. 

Bây giờ có thêm tiếng nói của các tổ chức quốc tế thì tôi nghĩ lãnh đạo Việt Nam chắc chắn phải quan tâm.” 

Cũng theo ông Jeremy Laurence, Việt Nam tiếp tục sử dụng hình phạt tử hình, phần lớn là bí mật, bất chấp xu hướng toàn cầu hướng tới việc bãi bỏ hình phạt tử hình.

Văn phòng của Liên Hiệp Quốc có trụ sở tại Geneve “nhắc nhở các nhà chức trách rằng sự minh bạch và tôn trọng đầy đủ các quyền của tù nhân và gia đình họ là yêu cầu tối thiểu đối với các chính phủ chưa bãi bỏ hình phạt tử hình. 

Thông tin cần thiết liên quan đến một vụ hành quyết theo kế hoạch cụ thể cần được cung cấp ngay cho tù nhân và gia đình họ, đồng thời thông tin liên quan đến án tử hình, thông báo và vụ hành quyết cũng cần được công bố rộng rãi.”

Ngoài ra, Liên Hiệp Quốc cũng kêu gọi Hà Nội ngay lập tức thiết lập một lệnh cấm chính thức đối với tất cả các vụ hành quyết nhằm xóa bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình.

Liên minh châu Âu (EU) nói sẽ hỗ trợ Việt Nam xóa bỏ án tử hình

Phái đoàn EU tại Việt Nam và các cơ quan đại diện ngoại giao của Canada, Vương quốc Na Uy và Vương quốc Anh ngày 10/8 ra tuyên bố chung, kêu gọi các cơ quan thẩm quyền Việt Nam dừng việc thi hành án tử hình ông Nguyễn Văn Chưởng. Tuyên bố có đoạn:

“Chúng tôi cực lực phản đối việc áp dụng hình phạt tử hình trong mọi thời điểm, mọi hoàn cảnh, đây là một hình phạt tàn ác, vô nhân đạo, hạ thấp nhân phẩm và không bao giờ có thể biện minh được, đồng thời vận động Việt Nam hoãn thi hành tất cả các án tử hình.

Ngày nay, hơn hai phần ba các quốc gia trên thế giới đã trở thành những quốc gia bãi bỏ (án tử hình-PV) trong luật pháp hoặc trên thực tiễn, điều này khẳng định xu hướng toàn cầu ủng hộ việc bãi bỏ án tử hình. Không có bằng chứng nào cho thấy hình phạt tử hình có tác dụng răn đe tội phạm hiệu quả hơn hình phạt tù. “

Liên minh châu Âu cho rằng, việc cải tạo với vai trò như một mục tiêu của luật hình sự hiện đại không thể thực hiện được bằng việc áp dụng hình phạt tử hình. Không những thế, bất kỳ sai sót nào – điều không thể tránh khỏi trong bất kỳ hệ thống luật pháp nào – đều không thể đảo ngược.

Các phái đoàn ngoại giao cho biết, sẽ tiếp tục tích cực nỗ lực để thúc đẩy xu hướng chung hướng tới loại bỏ hình phạt tử hình và sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam trên con đường tiến tới việc xóa bỏ hình thức này.

Ông Lê Văn Hòa sau khi rời cơ quan nhà nước và nghỉ hưu, ông đã trở thành luật sư và tư vấn pháp lý cho gia đình tử tù Nguyễn Văn Chưởng. Theo ông Hòa, hiện nay chỉ có quyết định của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng mới cứu được người tù nay khỏi bị thi hành án, ông nói:

“Trong tình hình này đã rất cấp bách rồi, Chánh án TAND tối cao thành phố Hải Phòng đã ký quyết định thi hành án trong ngày 4/8 vừa rồi, bây giờ chỉ có sự quan tâm, xem xét của lãnh đạo nhà nước Việt Nam. 

Trong đó quyết định của Chủ tịch nước Việt Nam là quan trọng nhất, nếu ông ấy có chỉ đạo để Chánh án tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng dừng việc thi hành án để kiểm tra, làm rõ thì mới dừng được.”

Theo luật sư Hòa, nếu Chủ tịch nước không chỉ đạo cũng như các cơ quan chức năng không có kiến nghị và đề nghị xem xét lại bản án phúc thẩm thì điều đó sẽ rất nguy hiểm. Việc thi hành án sau quyết định của Chánh án TAND tối cao thành phố Hải Phòng sẽ diễn ra bất kỳ lúc nào.

13 tổ chức nhân quyền quốc tế gửi thư đến Chủ tịch nước Việt Nam

Nêu đích danh của người đứng đầu nhà nước Việt Nam trong bức thư chung, 13 tổ chức nhân quyền quốc tế, trong đó có các tổ chức nổi tiếng như Ân Xá Quốc tế, FORUM-ASIA, People In Need… kêu gọi ông Võ Văn Thưởng và các cơ quan có trách nhiệm “đảm bảo dừng việc thi hành án ngay lập tức và bắt đầu một cuộc điều tra nhanh chóng, vô tư và hiệu quả về những cáo buộc rằng ông ta đã bị tra tấn để buộc phải “thú nhận” tội lỗi.”

Cho đến nay, các tổ chức này vẫn chưa rõ liệu việc hành quyết có thể sắp xảy ra hay đã được thực hiện, tuy nhiên nếu xét đến khả năng ông Chưởng đã phải chịu một phiên tòa và thủ tục tố tụng không công bằng dẫn đến việc bị kết án và tuyên án tử hình, thì “việc xử tử ông ta sẽ vi phạm quyền được sống và không bị trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm theo luật nhân quyền quốc tế và nghĩa vụ pháp lý quốc tế của Việt Nam.”

13 tổ chức đồng đề nghị ông Võ Văn Thưởng, thông báo về tình trạng hiện tại của tử tù Nguyễn Văn Chưởng cho gia đình, ngay lập tức miễn thi hành án vĩnh viễn cho ông Chưởng, trả tự do hoặc cho tử tù này một phiên tòa mới phù hợp với các tiêu chuẩn xét xử công bằng theo luật pháp quốc tế.

Ngoài ra, họ cũng yêu cầu người đứng đầu nhà nước Việt Nam phải tiến hành một cuộc điều tra nhanh chóng, vô tư và hiệu quả về những cáo buộc rằng ông Chưởng đã bị tra tấn hoặc đối xử tàn ác, hạ nhục hoặc vô nhân đạo khác nhằm đạt được “lời thú tội”, và nếu điều này được chứng minh, phải đưa thủ phạm ra trước công lý và cung cấp cho ông và gia đình khả năng tiếp cận biện pháp khắc phục và bồi thường hiệu quả phù hợp với luật và tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế.

TỪ ‘ĐỖ HỮU CA’ NHÌN RA THẾ GIỚI-Bài của Nguyen Ngoc Chu

Nguyễn Hoành

Bài của Nguyen Ngoc Chu

TỪ ‘ĐỖ HỮU CA’ NHÌN RA THẾ GIỚI

Các vụ chống tham nhũng quyết liệt đến tận các chức vụ thuộc hàng cao nhất trong chính quyền – đang được nhân dân nhiệt liệt hoan nghênh, ủng hộ. Nhưng khi các vụ tham nhũng ở các quan chức bậc cao toang ra một phần thì cũng đồng thời bung ra những ung nhọt ghê sợ, làm cho nhiều người phải rùng mình.

Nói đến ông Đỗ Hữu ca không phải nói đến cá nhân mà nói đến một đội ngũ. Nói về đội ngũ những người như ông Đỗ Hữu Ca là để nhìn ra nguyên nhân.

  1. VÔ TIỀN

Việc các quan chức nhận hối lộ với số tiền lớn hơn 1 triệu đô la không còn là chuyện mới, cũng không phải là cá biệt.

Như ông cựu Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc Son nhận 3 triệu đô la trong vụ AVG (https://tuoitre.vn/3-trieu-usd-xep-day-2-vali-1-balo-duoc…).

Hay như Dương Chí Dũng khai chuyển 1 triệu đô la cho ông Thứ trưởng thượng tướng Phạm Quý Ngọ từ bà

Trương Mỹ Lan (Vạn Thịnh Phát) trong dự án di dời và chuyển đổi công năng cảng Sài Gòn (https://tuoitre.vn/nhung-loi-khai-chan-dong-cua-duong-chi…). Còn bao nhiêu thí dụ nữa, đã bị phát hiện. Và hằng ha sa số các vụ chưa bị phát hiện.

Vụ ông thiếu tướng Đỗ Hữu Ca sau khi về hưu, nhận 35 tỷ đồng để chạy án nhưng lại không đưa cho ai, đã lột tả thêm sự đa mặt của tham nhũng thời nay

Đã từng là Giám đốc lực lượng Công an của một thành phố lớn như Hải Phòng, trong tư cách người bảo vệ pháp luật, nhưng Ông Đỗ Hữu Ca lại nhận một khoản tiền lớn mà không thực hiện nghĩa vụ, chẳng những đã vi phạm pháp luật, lại không còn một mảy may tín nghĩa. Tư cách Ông Đỗ Hữu Ca thua xa thảo khấu giang hồ, chứ đừng nói đến vị trí đứng đầu lực lượng Công an của một thành phố lớn.

Ở mặt khác, về hưu rồi mà ông Đổ Hữu Ca còn có khả năng chiếm đoạt 35 tỷ đồng trong một phi vụ, vậy thì khi đương chức Giám đốc Công an thành phố Hải Phòng ông Đổ Hữu Ca đã tham nhũng ở mức độ nào? Thật khó mà dự báo được con số.

Thêm một bình diện khác, là ông Đỗ Hữu Ca có 4 bằng đại học. Nó phản ánh căn bệnh sính bằng cấp của tầng lớp cán bộ có chức có quyền hiện nay. Rất nhiều người như ông Đỗ Hữu Ca – “sặc sỡ” về bằng cấp và chức danh. Nó trưng bày sự giả tạo của việc học. Nó làm cho người ta không thể tin cậy vào bằng cấp. Nó minh chứng cho sự cấp phát bằng bừa bãi. Nó khẳng định sự xuống cấp đến tai hoạ của giáo dục.

Trường hợp ông Đỗ Hữu Ca không giống như các trường hợp tham nhũng khác. Ông Đỗ Hữu Ca là một thân hình (figure) trọng lượng, góp phần làm cho tham nhũng của quan chức thời nay trở nên vô tiền, không một chế độ nào trong quá khứ bì được.

  1. TỪ ‘ĐỖ HỮU CA’ NHÌN RA TOÀN QUÔC

Từ trường hợp ông Đỗ Hữu Ca nhìn ra toàn quốc có thể hình dung được bức tranh tham nhũng toàn cảnh: Khắp nơi lô nhô đầy rẫy những Đỗ Hữu Ca.

Tại sao những người như ông Đỗ Hữu Ca lại leo lên được đến những chức vụ cao quan trọng trong bộ máy nhà nước? Không chỉ một Đỗ Hữu ca mà có hàng ngàn người như Đỗ Hữu Ca. Ngay cả nhân sự cấp cao cho Đại hội 13, dù đã tuyên bố làm rất kỹ, không để lọt nhiều cán bộ biến chất như Đại hội 12, rốt cục, chỉ một thời gian sau Đại hội 13, đã lộ ra không ít cán bộ biến chất. Như vậy là quy trình lựa chọn cán bộ có lỗi, chứ không phải “lọt lưới”. Từ đó rút ra kết luận thứ nhất là phải THAY ĐỔI THỂ THỨC LỰA CHỌN CÁN BỘ. Điều này được nhiều người nói đến nhiều lần, nhưng vẫn chưa thay đổi. Chừng nào còn chưa thay đổi thể thức lựa chọn cán bộ, thì chừng đó cán bộ biến chất còn tiếp tục leo lên cao trên thang bậc công quyền.

Tại sao ông Đỗ Hữu Ca lại biến chất dần sau nhiều năm làm việc trong bộ máy công quyền, càng lên cao càng biến chất? Và có hàng ngàn người nối theo nhau biến chất như ông Đỗ Hữu Ca? Ấy là do bản chất của cơ chế vận hành hệ thống đẻ ra. Từ đó đi đến kết luận thứ hai là THAY ĐỔI CƠ CHẾ VẬN HÀNH HỆ THỐNG. Điều này được nhắc đến thường xuyên. Nhưng đến nay, vẫn chưa thay đổi. Chừng nào còn chưa thay đổi cơ chế vận hành hệ thống, thì chừng đó, cán bộ càng lên chức vụ cao càng có nguy cơ bị biến chất nhiều hơn.

Câu hỏi tiếp theo là, đã hàng chục năm, tai sao đến bây giờ mới phát hiện ra ông Đỗ Hữu Ca tham nhũng, biến chất? Như vậy là bộ máy thanh tra, kiểm sát làm việc không hiệu quả. Ông Đỗ Hữu Ca cũng không phải “lọt lưới”, hay là trường hợp cá biết. Cho nên, kết luận thứ ba là phải THAY ĐỔI CƠ CHẾ KIỂM SÁT, THANH TRA.

Câu hỏi tiếp nữa là, đã nhiều người bị kỷ luật như ông Đỗ Hữu Ca, tại sao người sau vẫn không sợ, vẫn tiếp tục phạm tội? Mong muốn “kỷ luật một người làm gương cho nhiều người” không trở thành hiện thực. Như vậy là hệ thống pháp luật chưa hiệu quả. Dẫn đến kết luận thứ tư là phải ĐỔI MỚI NỀN TƯ PHÁP.

Tại sao ông Đỗ Hữu Ca và những kẻ tham nhũng khác (chẳng hạn như trong vụ Việt Á) dễ dàng có được những khoản tiền khổng lồ từ hối lộ? Bởi vì những kẻ hối lộ có được lợi nhuận do nâng giá trong những hợp đồng mua bán với đại diện sở hữu nhà nước. Chính nguồn tài chính thuộc sở hữu nhà nước, là những mỏ tiền khổng lồ, để cho những kẻ cơ hội lợi dụng lỗ hở mà chiếm đoạt. Dẫn đến kết luận thứ năm là TỐI THIỂU HOÁ SỞ HỮU NHÀ NƯỚC VÀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC QUẢN LÝ SỞ HỮU NHÀ NƯỚC.

Cho nên, từ ‘Đỗ Hữu Ca’ nhin ra toàn quốc, chỉ sơ bội thôi, cũng đã thấy 5 bài toán cần giải:

a/. THAY ĐỔI THỂ THỨC LỰA CHỌN CÁN BỘ.

b/. THAY ĐỔI CƠ CHẾ VẬN HÀNH HỆ THỐNG.

c/. THAY ĐỔI CƠ CHẾ KIỂM SAT, THANH TRA.

d/. ĐỔI MỚI NỀN TƯ PHÁP.

e/. TỐI THIỂU HOÁ SỞ HỮU NHÀ NƯỚC VÀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC QUẢN LÝ SỞ HỮU NHÀ NƯỚC.

Tiếp tục đặt câu hỏi, sẽ nhô ra các bài toán cần giải quyết. Nhưng đâu là lời giải tổng thể cuối cùng?

  1. TỪ ‘ĐỖ HỮU CA’ NHÌN RA THẾ GIỚI

Từ trường hợp ông Đỗ Hữu Ca nhìn ra thế giới thì thấy trên toàn thế giới gần hai trăm quốc gia mà chỉ Việt Nam và Trung Quốc có cùng chung những chứng bệnh tham nhũng. Cho dù Trung Quốc chống tham nhũng còn quyết liệt hơn Việt Nam, nhưng cũng như Việt Nam, tham nhũng ở Trung Quốc mỗi ngày thêm sinh sôi nảy nở. Sự bành trướng tham nhũng ở Trung Quốc và ở Việt Nam có cùng nguyên nhân từ ‘cấu trúc nhà nước’.

Từ ‘Đỗ Hữu Ca’ nhìn ra toàn quốc thì thấy nhiều bài toán phải giải, mà 5 bài toán nêu trên là những vấn đề cụ thể. Nhưng từ ‘Đỗ Hữu Ca’ mà nhìn ra thế giới thì thấy ngay lời giải tổng thể cuối cùng cho bài toán chống tham nhũng. Cho nên, nhìn ra thế giới mới dễ thấy nguyên nhân gốc rễ của bệnh tham nhũng đang bùng phát trong nước. Đó là ‘cấu trúc nhà nước’.

Chỉ có giải bài toán ‘cấu trúc nhà nước’ mới giúp cho công cuộc chống tham nhũng đi đến ‘thắng lợi hoàn toàn’.

Về huyền thoại Hàn Quốc

Báo Tiếng Dân

Thái Hạo

11-8-2023

Cho đến nay, rất nhiều người vẫn thường hay nói và tin một cách đinh ninh rằng, Hàn Quốc “hóa rồng” là nhờ “bê nguyên bộ sách giáo khoa của Nhật Bản về, dịch ra và học!”. Liệu có đúng và đơn giản như vậy?

Sau cuộc chiến tranh Nam – Bắc Triều, Hàn Quốc rơi vào tình trạng đói khổ và tụt hậu bậc nhất thế giới, thu nhập bình quân đầu người chưa tới 100 USD/năm. Một đất nước nhếch nhác, tối tăm, vật vạ, tuồng như không có ngày mai.

Trong hoàn cảnh đó, tướng Park Chung Hee đã đảo chính và lên làm tổng thống, thực hiện những cải cách dữ dội về kinh tế, quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi vũng lầy. Tuyên bố trước 20.000 sinh viên đại học Seoul, ông nói: “Toàn dân Hàn Quốc phải thắt lưng buộc bụng trong vòng 5 năm, phải cắn răng làm việc nếu muốn được sống còn. Trong vòng 10 năm, chúng ta tạo được một nền kinh tế đứng đầu ở Đông Á, và sau 20 năm, chúng ta sẽ trở thành cường quốc kinh tế trên thế giới. Chúng ta sẽ bắt thế giới phải ngưỡng mộ chúng ta. Hôm nay, có thể một số đồng bào bất đồng ý kiến với tôi. Nhưng xin những đồng bào ấy hiểu cho rằng tổ quốc quan trọng hơn quyền lợi cá nhân. Tôi không muốn mỵ dân. Tôi sẽ cương quyết ban hành một chính sách khắc khổ. Tôi sẽ bắn bất cứ kẻ nào ăn cắp của công dù chỉ một đồng”.

Nói là làm, những quyết sách lớn được ban hành. Ông biến cả nước thành công trường và nông trường, làm việc làm việc và làm việc, không có chỗ cho hưởng thụ, thuốc lá ngoại và café bị cấm, mỗi tuần nhịn ăn một bữa, tivi chỉ phát những chương trình dạy làm giàu, v.v.. Với sự quyết đoán bằng một tầm nhìn và tài năng vượt trội, sau gần 20 năm, Park Chung Hee cùng đồng bào mình đã lột xác Hàn Quốc, biến quốc gia nghèo đói này thành một con hổ ở châu Á, khiến cả thế giới phải ngỡ ngàng và kinh ngạc.

Nhưng đó chỉ là một nửa sự thật, về Park Chung Hee và “Kỳ tích sông Hàn”.

“Bê sách giáo khoa của Nhật bản về” đó chỉ là một thứ thần thoại, do những người Việt Nam quá tin vào sức mạnh ảo ảnh của giáo dục trường ốc tạo ra. Chính độc tài “kiểu Park Chung Hee” đã góp phần đắc lực khiến Hàn Quốc phát triển. Tuy nhiên, đó là thứ độc tài dân tộc, lấy lợi ích quốc gia làm mục đích tối thượng, chứ không phải độc tài phe nhóm. Nó không chỉ hà khắc với dân chúng mà còn sắt máu với chính quan chức trong bộ máy, “bắn bất cứ kẻ nào ăn cắp của công dù chỉ một đồng”.

Điều này đã mang đến sự phát triển thần kỳ về mặt kinh tế, tuy nhiên chính “cha đẻ” của nó đã bị căm ghét và bị giết chết bằng một phát súng vào năm 1979. Không phải vì “vô ơn”, người ta giết Park Chung Hee còn vì khao khát được làm người.

Dưới thời cai trị của ông, người dân phải làm việc như những lao động khổ sai với 12 – 14 giờ mỗi ngày nhưng phải sống kham khổ với đồng lương mạt rệp, mọi quyền con người đều bị rẻ rúng, bất cứ ai khác ý kiến với chính phủ đều bị đàn áp không thương tiếc. Cảnh sát mang thước ra đường, đo tóc của người dân và cắt phăng, phụ nữ bị đối xử thô bạo nếu dám cả gan mặc váy…

Sự bóp nghẹt và đàn áp của Park Chung Hee còn đẩy lên đến mức có tính chất phát-xít khi năm 1972 ông ban bố thiết quân luật và đưa ra hiến pháp mới chấm dứt bầu cử trực tiếp và chính thức tự suy tôn mình làm Tổng thống trọn đời. Các quyền cơ bản như tự do hội họp, tự do lập hội, tự do bày tỏ ý kiến… đều bị cấm đoán và chà đạp tàn bạo.

Dưới thời Park Chung Hee quyền con người bị bóp nghẹt, tính nhân văn bị hủy hoại. Ám sát ông và sau đó là những cuộc đảo chính, biểu tình và bất ổn với máu và nước mắt khoảng 10 năm đầy sóng gió đã dần đưa Hàn Quốc thoát khỏi độc tài và trở thành một nước dân chủ. Tất nhiên, mọi việc không dễ dàng khi các đời tổng thống Hàn Quốc kể từ sau Park Chung Hee, người thì đi tù, người tự sát, kẻ bị tử hình, dường như hiếm có ai “hạ cánh an toàn”. Rốt cuộc là vì nỗi sợ độc tài và ám ảnh về một thời kỳ phát triển rực rỡ nhưng vô nhân đạo của “nền kinh tế chỉ huy” do Park Chung Hee xây dựng.

Park Chung Hee với 18 năm tại vị, là một nhân vật lịch sử với công trạng to lớn, là tổng tổng thống được biết ơn nhiều nhất nhưng cũng bị ghê sợ và căm ghét nhiều nhất. Huyền thoại về sách giáo khoa nên được cất đi và nhìn vào lịch sử Hàn Quốc với những gì nó đã trải qua, để học lấy điều cần học và tránh những gì nên tránh, phải tránh.

Về thời đại Park Chung Hee, GS.TS Hồ Sĩ Quý, nguyên Viện trưởng Viện Thông tin Khoa học Xã hội, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, viết trên Tạp chí “Nghiên cứu Đông Bắc Á” số 10 (128)/2011: “Cái giá phải trả cho phát triển kinh tế không thể là sự vô nhân đạo ở quy mô lớn, không thể là sự hy sinh cả sinh mạng và phẩm giá của một vài thế hệ, và cũng không thể dễ dàng xóa sạch di chứng tệ hại ở các thế hệ kế tiếp”.

Trở về với hiện tại. Báo Thanh Niên ngày 8.8.2023 đăng một bài báo gây đau buồn có tên “Chỉ 26,2% người lao động có điều kiện ăn thịt, cá hàng ngày”: “Theo khảo sát của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, chỉ hơn 24% người lao động có tiền lương và thu nhập vừa đủ đáp ứng chi tiêu cơ bản; có đến 75,5% người lao động thu nhập không đáp ứng nhu cầu, có người thu nhập chỉ đáp ứng 45% nhu cầu”. Tôi không muốn bình luận gì thêm nữa về thông tin này, vì tự nó đã là một lời bình luận thống thiết. Nói nữa sẽ chỉ thành vô duyên và thêm xấu hổ.

Trả hồ sơ vụ Lê Thanh Thản, ‘đại gia’ quen Nguyễn Phú Trọng, lừa đảo

Báo Nguoi-viet

August 10, 2023

HÀ NỘI, Việt Nam (NV)  Phiên xử vụ bị cáo Lê Thanh Thản, chủ tịch tập đoàn Mường Thanh, với cáo buộc “lừa dối khách hàng” hôm 10 Tháng Tám mau chóng khép lại với quyết định hoãn tòa, trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Theo tờ Tuổi Trẻ, nguyên nhân được Hội Đồng Xét Xử công bố là do “còn một số nội dung chưa thể làm rõ tại phiên tòa.”

Bị cáo Lê Thanh Thản thường được các báo ở Việt Nam mô tả là “đại gia điếu cày.” (Hình: Danh Trọng/Tuổi Trẻ)

Bị cáo Lê Thanh Thản, 73 tuổi, người thường được các báo ở Việt Nam mô tả là “đại gia điếu cày,” hầu tòa trong tình trạng sức khỏe kém, được hai người dìu lên cầu thang vào phòng xét xử.

Trong vụ án này, ông Thản, với tư cách chủ tịch công ty Bemes, bị cáo buộc xây cả tòa nhà chung cư CT6 Kiến Hưng sai phép, lừa dối 500 người mua căn hộ.

Tại chung cư nêu trên, hàng trăm căn hộ được xây dựng không phép và đã bán cho người dân, nhưng người mua không được cấp “sổ đỏ” (giấy tờ sở hữu căn hộ).

Bà Đinh Thị Nguyệt, một trong các bị hại, nói trước tòa: “Khi mua nhà, ký kết hợp đồng thì công ty của ông Lê Than Thản cam kết hỗ trợ người dân thủ tục được cấp ‘sổ đỏ.’ Tuy nhiên sau khi mua nhà, cơ quan nhà nước trả lời tòa nhà xây dựng [có] sai phạm nên không được cấp sổ.”

“Đối với vụ án này là bị hại tôi không đồng ý cáo trạng Viện Kiểm Sát đưa ra [nói] ông Thản gây thiệt hại gần 500 tỷ đồng ($21 triệu). Đây là số tiền người dân bỏ ra mua căn hộ, còn hành vi vi phạm của ông Thản gây ra muôn vàn khó khăn khác. Chúng tôi mua căn hộ hơn 10 năm không được xác nhận quyền sở hữu tài sản, không thể thế chấp khi có nhu cầu vay tiền ngân hàng, không thể đăng ký hộ khẩu, làm khai sinh cho con cái.”

Trong lúc tòa thẩm vấn, ông Lê Thanh Thản và những người mua nhà đưa ra những ý kiến khác nhau về phương án khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại.

Các bị hại trong vụ án “lừa dối khách hàng.” (Hình: Danh Trọng/Tuổi Trẻ)

Do vậy Hội Đồng Xét Xử tuyên hoãn tòa, trả hồ sơ điều tra lại, đồng thời kêu gọi những người đã mua nhà xây trái phép của ông Thản mà chưa liên hệ với cơ quan điều tra thì tiến hành nộp đơn, chứng cứ.

Về mối quan hệ thân cận giữa ông Thản và ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng CSVN, báo Kinh Tế Đô Thị hồi Tháng Hai, 2018, cho biết ông Trọng từng viết tặng khách sạn Mường Thanh Grand Phương Đông của ông Thản một bài thơ bốn câu: “Lần này lại đến ‘Phương Đông’/ Tình xưa nghĩa cũ, mặn nồng ‘Mường Thanh’/ Cố lên các chị, các anh/ Quê hương vẫy gọi, sử xanh lưu truyền.” (N.H.K)

Dụ Thanh Nhàn về Hà Nội: “Thực chiêu” hay “hư chiêu”?

Báo Tiếng Dân

RFA

Hải Triều

9-8-2023

Bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn. Nguồn: VNE

Trong “Cửu âm chân kinh” (Bộ kinh điển võ thuật của Trung Quốc), “thực chiêu” thường được tung ra để khắc chế “hư chiêu”. Nếu đối phương tung ra “hư chiêu” thì có thể dùng một “thực chiêu” khác để hóa giải. Dụ Thanh Nhàn về Hà Nội là “thực chiêu” hay “hư chiêu”? Cuộc đấu trí giữa Nguyễn Phú Trọng với Phạm Minh Chính sẽ tiếp diễn theo hướng nào?

Với hai “hư chiêu” từ cuối năm ngoái đến nay – đánh cựu Bí thư Đồng Nai Trần Đình Thành và cựu Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty AIC Nguyễn Anh Dũng (anh trai bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn) – không mang lại kết quả như mong muốn (1) và (2), còn một “hư chiêu” thứ ba là: Đánh tiếng gọi Thanh Nhàn về Hà Nội để đầu thú dưới “cái vỏ” pháp trị nghe rất chi là mùi mẫn (3).

Có thể kịch bản “mặc cả nhận tội” sẽ sớm được “thí điểm” đối với Nguyễn Thị Thanh Nhàn chăng? Đây là “hư chiêu” thứ ba của ông Trọng hay là “thực chiêu” của thế lực muốn dung hòa lợi ích giữa các nhóm liên quan từ phía công an lẫn tình báo quân đội, đặc biệt là cá nhân Thủ tướng Phạm Minh Chính trong mối quan hệ chằng chịt giữa tình cảm và những áp phe vũ khí được cho là có vai trò quan trọng của bà Thanh Nhàn?

Chúng ta chưa thể kiểm chứng ngay được! Nhưng cùng với “củ cà rốt” vừa nhử mồi, người của Tô Lâm dường như còn tung thêm cả “cái gậy” – Tức là đe dọa, có thể diễn lại “điệp vụ 007” như hồi bắt cóc Trịnh Xuân Thanh cách đây sáu năm.

Đôi lời về “củ cà rốt” này của Bộ trưởng Tô Lâm: “Mặc cả nhận/thú tội” (plea bargains), còn được biết đến với cách chuyển ngữ như: “thỏa thuận nhận tội”, “thương lượng nhận tội”, “đàm phán thú tội”… là một trong những nguyên tắc và thủ tục tố tụng nổi tiếng ở châu Âu và Hoa Kỳ. Nhưng một nhà nước mafia như Việt Nam thì từ Chính trị bộ, kể cả phe “che chắn” cho Nhàn, lẫn những kẻ “muốn triệt hạ” Nhàn đều sẵn sàng “dẹp tiệm”, nếu Madam xuất hiện trong nước vào thời điểm hiện nay! Kẻ dụ về, sau khi khai thác xong, sẽ triệt tiêu đường dây của Nhàn đã đành, mà đám “bảo kê” cũng lo “phe mình” bại lộ, nên trước sau cả hai sẽ hạ thủ “người đẹp” dù có thương xót “trên mức tình cảm”.

Tô Lâm liệu có dám “tất tay” phái quân sang Đức lần nữa để bắt cóc bà (!?) Có điều chắc chắn, đám “thảo khấu” dưới tay Tô đại tướng đã được thông báo cả tuần nay, trên toàn nước Đức và châu Âu đã báo động đỏ để chuẩn bị “nghênh tiếp” đám mật vụ từ Bắc bộ phủ sang và cả đám đã “nằm vùng” trong các cơ quan đại diện ngoại giao của Hà Nội khắp nơi bên trời Tây này.

Sau hai “hư chiêu” ở Đồng Nai và Quảng Ninh, Tô Lâm vẫn chưa “đánh án” lên được tận “chân ghế” của Tứ trụ mà vẫn loay hay “ngoài rìa” Quảng Ninh. Nhìn bề ngoài có vẻ đây là sự ưu ái của Bộ trưởng Bộ Công an dành cho “Tướng thiện chiến” Đinh Văn Nơi về Quảng Ninh là tỉnh lớn, làm người đứng đầu Sở Công an tỉnh rất dễ được “vời” về Trung ương sau này. Tuy nhiên, vụ án Nguyễn Thị Thanh Nhàn không phải là vụ án thường. Ai động đến Madam Nhàn là đụng ngay đến Phạm Minh Chính và bị xem như là hành động “vuốt râu hùm” (4).

Điều đáng nói là khi nhận nhiệm vụ, ông Đinh Văn Nơi đã phát một câu giống như tuyên chiến với nhóm lợi ích Quảng Ninh, khi tuyên bố rằng, “tui lựa mấy người nào quen lớn tôi bắt trước”. Phát ngôn này khiến người ta liên tưởng tới việc, ông nhắm vào bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn, vì bà này rõ ràng quen rất lớn, quen đến ông đương kim Thủ tướng hiện nay. Tuyên bố của ông Đinh Văn Nơi cho thấy ông “không sợ trời”, đấy là điều tốt cho xã hội. Tuy nhiên, dưới chế độ “công an trị” thì những câu tuyên bố như vậy thường lãnh hậu quả xấu nhiều hơn là có kết quả tốt (5).

Trở lại “hư chiêu” thứ ba nói trên, tờ “Die Tageszeitung” (TAZ) đã dựa vào nhiều nguồn khác nhau để giải thích chuyện bà Nhàn và AIC Group vốn được trao đủ thứ danh hiệu: Gương mặt trẻ Việt Nam nổi bật nhất, Sao đỏ, Doanh nghiệp Việt Nam tiêu biểu nhất, Thương hiệu quốc gia xuất sắc nhất… chưa kể đủ loại huân chương, huy chương, bằng khen của đủ mọi cấp… đột nhiên bị xem là tội phạm, bị tấn công, vì là tình nhân của đương kim Thủ tướng. Cả hai có với nhau một cô con gái (!?). Mục tiêu chính của cuộc săn đuổi “phù thủy” triệt hạ AIC chính là để loại bỏ Tướng Chính, một trong những vận động viên đang tham gia cuộc ma-ra-tông thay thế ông Trọng làm Tổng Bí thư ĐCSVN.

Cứ như theo tường thuật của TAZ thì việc bắt giữ bà Nhàn không chỉ đe dọa sự nghiệp của ông Chính, mà còn gây nguy hiểm cho giới lãnh đạo quân đội Việt Nam, những cá nhân từng sử dụng Thanh Nhàn như khâu trung gian trong các thương vụ mua vũ khí với Israel và nhiều thương vụ khác với Nhật Bản. Đó có thể là lý do khiến bà Nhàn và bảy cộng sự thân tín của bà cùng rời Việt Nam ra ngoại quốc trước khi công an Việt Nam thực hiện các lệnh bắt giữ (6).

Tuy công an Việt Nam đề nghị lực lượng bảo vệ và thực thi pháp luật trên toàn thế giới hỗ trợ truy bắt bà Thanh Nhàn, nhưng TAZ kể lại rằng, phía Liên bang Đức đã thẳng thừng từ chối thực hiện đề nghị này. Dường như chính quyền Mỹ, dù đang muốn tranh thủ Việt Nam “phối hợp” một vài vấn đề trong chiến lược “FOIP”, cũng chưa mặn mà đáp ứng đề nghị nặng mùi mafia của Việt Nam: Bắt giữ và giải giao một số cộng sự của bà Nhàn đang ẩn náu tại Mỹ! Đến giờ mới chỉ có Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất (United Arab Emirates – UAE) giải giao ông Đỗ Văn Sơn (Kế toán trưởng AIC) đang ẩn náu tại UAE cho chính quyền Việt Nam (7).

Còn đội quân bắt cóc đang “ém” tại nhiều nước, thì từ hồi Đức và Tiệp xử mấy mật vụ của Tô Lâm ở Prague và Berlin, hiện đang “án binh bất động” chờ lệnh. Một phụ nữ bản lĩnh như Thanh Nhàn, với vai trò nhà môi giới bí mật cho các thương vụ lớn giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam với phía nhà cung cấp khí tài quân sự Israel, liệu có “cắn câu” Tô Lâm, bập vào “quả cà rốt”? Chắc chắn là không!

Những ngày này ở Việt Nam đang rộ lên câu chuyện “Nhà nước nên ân xá cho Nguyễn Văn Chưởng và minh oan cho Hồ Duy Hải” (8) Vì vậy, an toàn nhất đối với Thanh Nhàn là hãy chờ cho “cơn bão” tan. Bản tin trong chương trình thời sự buổi tối 5/8/2023 của Đài phát thanh và Truyền hình nhà nước Slovakia (RTVS) cũng đã công khai về việc bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn hiện đang ở Đức và tin tức về cuộc chiến quyền lực trong nội bộ cấp cao ĐCSVN (9).

Phạm Minh Chính sau Trung ương 7, thế đang lên. Chuẩn bị cho Trung ương 8, TBT Nguyễn Phú Trọng liệu có “tất tay” lần cuối với Chính? Xem ra cho đến nay, ít kẻ dám “a dua” với ông Trọng, trừ “thanh gươm và lá chắn” của Tô Lâm. Các thế lực muốn chờ cho đến “end games movie” mới tính xoay theo “minh chủ nào”. Cuộc đấu trí giữa ông Trọng với ông Chính xem ra chưa phân thắng bại, nói lên tính phức tạp và dễ tổn thương của “Bộ tứ”.

Đức đã ra lời cảnh cáo “lạnh gáy” nếu Tổng Trọng vẫn cho quân làm ẩu. Chắc chắn Đức và châu Âu sẽ “nâng” Việt Nam lên tầm “nhà nước khủng bố” nếu xẩy ra một vụ bắt cóc thứ hai. Mà như vậy, thì Bắc Kinh sẽ hài lòng, coi như thắng lớn, vì vừa đánh được một cú “knock out” đối với “đối tác chiến lược mở rộng” Nhật – Việt (Thanh Nhàn nhận huân chương cao nhất của Nhật không phải vô cớ), vừa đẩy lùi được “đối tác chiến lược” Mỹ – Việt có thể sẽ ký vào ngày tháng 9 tới đây. “Một hòn đá chết mấy con chim”, phần thưởng của ông Tập Cận Bình cho Tổng Trọng và “đám quần thần” chắc phải lớn lắm!

_________

Tham khảo:

  1. https://tuoitre.vn/cuu-giam-doc-benh-vien-dong-nai-co-luc-khong-muon-mua-hang-aic-bi-thu-tinh-goi-nhac-nho-20221222164437115.htm
  2. https://tuoitre.vn/khoi-to-anh-trai-ba-nguyen-thi-thanh-nhan-va-bon-giam-doc-cong-ty-20230317201916925.htm
  3. https://thanhnien.vn/bo-cong-an-yeu-cau-cuu-chu-tich-aic-nguyen-thi-thanh-nhan-ra-dau-thu-1851520282.htm
  4. https://www.rfavietnam.com/node/7728
  5. https://thoibao.de/blog/2022/09/06/dinh-van-noi-bao-gan-vuot-rau-hum-moi-den-quang-ninh-tuyen-bo-khong-so-troi
  6. https://taz.de/Drohende-Entfuehrung-vietnamesischer-Frau/!5952435/
  7. https://www.rfa.org/vietnamese/news/comment/blog/ceo-of-aic-group-on-the-run-will-vn-agents-do-another-kidnapping-08072023133450.html
  8. https://www.bbc.com/vietnamese/articles/c3g4ykv7xpvo
  9. https://spravy.rtvs.sk/2023/08/sefovala-firme-obchodujucou-so-zbranami-teraz-ju-chcu-nasilu-zavliect-do-vietnamu-znamy-pripad-unosu-sa-moze-zopakovat/

MỘT TẤM HÌNH – BA ÁN TỬ

Kim Dao Lam 

Fb Việt Tân

MỘT TẤM HÌNH – BA ÁN TỬ

Đây tấm ảnh chụp ba người cha mẹ của ba tử tù nổi tiếng tại Việt Nam hiện nay.

Từ trái qua phải:

Mẹ của tử tù Lê Văn Mạnh ở Thanh Hoá

Mẹ của tử tù Hồ Duy Hải ở Long An

Mẹ của tử tù Nguyễn Văn Chưởng ở Hải Dương

Sáng hôm nay, ba bà mẹ đã cùng nhau tới Văn phòng chính phủ và văn phòng của Chủ tịch nước để cùng hỗ trợ và kêu oan cho tử tù Nguyễn Văn Chưởng.

Như mọi lần, họ bị lực lượng an ninh dồn về vườn hoa Mai Xuân Thưởng trước khi bị công an đưa lên xe buýt và đưa về Trụ sở tiếp công dân ở Hà Đông.

Có lẽ, ba người mẹ cùng hiểu rằng dù con mình là Chưởng, Hải hay Mạnh phải đối diện với án tử hình, thì con họ sẽ là nạn nhân tiếp theo của thể chế bất minh này.

Chừng nào chế độ công an trị còn tồn tại, chừng nào tư pháp còn chưa thực sự độc lập, và chừng nào đảng cộng sản Việt Nam còn nắm quyền, thì những án oan sai và những người dân vô tội sẽ vẫn còn tiếp diễn.

Gia Minh

Người Pháp biến Sài Gòn thành “Hòn ngọc Viễn Đông” như thế nào?

Lê Vi

Năm 1859 khi người Pháp đánh chiếm Gia Định, các công trình ở đây chủ yếu phục vụ cho việc cai quản và phòng thủ, chứ chưa có các công trình tiện nghi công cộng, giáo dục, chăm sức sức khỏe, hay vui chơi giải trí. Nhìn ra tiềm lực kinh tế to lớn của Sài Gòn, người Pháp đã xúc tiến quy hoạch vùng đất này với đầy đủ các chức năng hành chính, quân sự, kinh tế, cảng, v.v., đưa Sài Gòn trở thành đô thị sầm uất, thành trung tâm hành chính khai thác Nam kỳ, “Hòn ngọc Viễn Đông”.

Ngày 11/4/1861, Phó đô đốc Léonard Charner ra nghị định xác định địa giới Sài Gòn (ville de Saigon): Phía đông là sông Sài Gòn, phía bắc là rạch Thị Nghè, phía nam là rạch Bến Nghé, phía tây là từ chùa Cây Mai đến đồn Kỳ Hòa, diện tích khoảng 25km2.

Ngày 30/4/1864, Coffyn lập dự án quy hoạch nổi tiếng mang tên “Thành phố Sài Gòn 500.000 dân” (Saigon ville de 500.000 âmes), quy hoạch này đựa vào quy hoạch phòng thủ của Nguyễn Cửu Đàm đưa ra trước đó 90 năm. Tuy nhiên Nguyễn Cửu Đàm đưa ra quy hoạch chỉ cho 100.000 dân. Do quy hoạch của Coffyn quá lớn, người Pháp cũng muốn đảm bảo trị an, nên đã quyết định quy hoạch thành phố nhỏ hơn.

Năm 1865, Thống đốc Nam Kỳ, Chuẩn đô đốc Pierre Rose ban hành nghị định quy hoạch lại Sài Gòn với diện tích chỉ 3km2 nằm ở trung tâm quận 1 ngày nay.

Nhận thấy thời điểm này khu Chợ Lớn của người Hoa phát triển nhanh chóng, người Pháp quyết định tách Chợ Lớn ra để khu vực này chuyên về phát triển thương nghiệp.

Người Pháp cũng bán rẻ đất hoang cho những ai muốn làm ruộng vườn. Một khi đất hoang có người cư trú, giá đất Sài Gòn cũng sẽ được nâng lên, tốc độ đô thị hóa cũng tăng theo.

Cải tạo mặt bằng

Địa hình Sài Gòn ở phía bắc cao, trũng về phía nam. Người Pháp cho làm nhiều kênh ở vùng trũng thấp phía nam, để nước từ trên cao chảy xuống làm sạch các vùng đầm lầy đồng thời giúp thông đường thủy giao thông bằng ghe thuyền thuận lợi, lại lấp được các vùng trũng khác.

Khu vực đường Nguyễn Huệ, đường Lê Lợi, đường vào cổng chính ở Ba Son trước đây là những con kênh vùng trũng. Người Pháp cho san bằng những vùng đồi phía bắc, lấy đất lấp những con kênh này.

Xây dựng hệ thống giao thông

Về đường bộ, sau 2 năm cải tạo mặt bằng, vùng trũng gồ ghề đã được lấp với những công trình mới, có được không gian thoáng đãng, các con đường được hình thành và trải nhựa, có vỉa hè hai bên với hàng cây thẳng tắp.

Đường thủy Sài Gòn có thể vươn đến các tỉnh miền tây và sang tận Cao Miên, trở thành một trong những thương cảng quan trọng ở khu vực Viễn Đông.

Giao thông thời kỳ này phát triển mạnh, đặc biệt là giao thông đường thủy với nhiều hệ thống kênh rạch. Thương cảng Sài Gòn (tiền thân của cảng Sài Gòn sau này) đi vào hoạt động với 3 bến lớn là Bến Nhà Rồng (428 m), Bến Khánh Hội (1.264 m), Bến Tân Thuận (866 m).

Sau khi xây dựng xong các công trình hạ tầng cho bộ máy hành chính, năm 1874, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh chính thức thành lập thành phố Sài Gòn. Từ đó Sài Gòn không ngừng phát triển và mở rộng dần dần.

Các công trình kiến trúc

Nhiều công trình cổ kính mà sang trọng mọc lên làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt thành phố như Bến Nhà Rồng, Xưởng đóng tàu Ba Son, Tòa Soái phủ Nam Kỳ (nay là Bảo tàng thành phố), Thư viện Sài Gòn, dinh Xã Tây (nay là Trụ sở UBND thành phố)…

 

Các công trình kiến trúc cổ kính sau đây đã làm nên bộ mặt của “Hòn ngọc viễn đông”:

– Dinh Thống Đốc (nay là Bảo tàng thành phố): Được xây dựng xong vào năm 1864, phỏng theo kiến trúc của Bảo tàng hội họa Munich do kiến trúc sư Foulhou thiết kế.

Người Pháp biến Sài Gòn thành “Hòn ngọc Viễn Đông” như thế nào? – 4

Dinh Thống Đốc Nam Kỳ năn 1936. (Ảnh: Mạnh Hải/Flickr)

– Dinh Toàn quyền (nay là Hội trường thống nhất): Khởi công xây dựng từ tháng 2/1868, hoàn thành vào năm 1873 do kiến trúc sư Hermitte thiết kế.

– Dinh Xã Tây (nay là UBND TP): Khởi công xây dựng từ năm 1898, khánh thành năm 1909, do kiến trúc sư P.Gardès thiết kế.

– Nhà hát Tây (nay là Nhà hát thành phố): Xây dựng năm 1898, khánh thành vào ngày 1/1/1900, do kiến trúc sư Berger thiết kế.

– Bưu điện Sài Gòn: Khởi công xây dựng năm 1886 và hoàn thành vào năm 1891, đây là dịch vụ rất lạ đối với người Việt vào lúc đó.

Người Pháp biến Sài Gòn thành “Hòn ngọc Viễn Đông” như thế nào? – 7

Bưu điện Sài Gòn xưa. (Ảnh từ khampha.vn)

– Nhà Thờ Đức Bà: Khởi công năm 1877 và khánh thành vào năm 1880, kinh phí xây dựng là 2,5 triệu franc, đây là số tiền rất lớn vào lúc đó. Đến năm 1895 thì xây thêm 2 tháp chuông nhọn.

Người Pháp biến Sài Gòn thành “Hòn ngọc Viễn Đông” như thế nào? – 8

Nhà Thờ Đức Bà. (Ảnh: Mạnh Hải/Flickr)

– Chợ Bến Thành: Xây dựng vào năm 1912, đến năm 1914 thì khánh thành, đây là chợ trung tâm thành phố, nổi tiếng đến ngày nay.

Người Pháp biến Sài Gòn thành “Hòn ngọc Viễn Đông” như thế nào? – 9

Chợ Bến Thành. (Ảnh: Mạnh Hải/Flickr)

– Các tuyến đường Catinat (Đồng Khởi), Bonard (Lê Lợi), Charner (Nguyễn Huệ), De La Somme (Hàm Nghi) là những con đường tiêu biểu với các các kiến trúc cổ kính, tô điểm cho bộ mặt thành phố Sài Gòn. Trong đó Catinat là con đường của giới thượng lưu, nổi tiếng thanh lịch.

Thời đó người ta xem Sài Gòn là “Perle de l’Orient” tức là “Hòn ngọc Viễn Đông”.

Cảng Sài Gòn từng là thương cảng hàng đầu vùng Viễn Đông

Sài Gòn là nơi gặp gỡ giữa châu thổ đồng bằng sông Cửu Long và vùng đất đỏ Đông Nam bộ. Nơi đây không chỉ gần biển mà còn có hệ thống sông và kênh rạch kết nối Sài Gòn và các vùng đất của Nam bộ, sang Campuchia vươn đến tận thủ đô Phnom Penh. Do vậy Thương cảng Sài Gòn từng đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử giao thương tại khu vực Viễn Đông.

Vị trí thuận lợi

Vị trí của Cảng nằm trên sông Sài Gòn, ăn sâu 80 km vào đất liền, tránh được những cơn bão lớn, lại thông với 2.000 km luồng lạch lớn chảy qua các vùng đồng bằng, vươn đến tận Phnom Pênh. Do tại đây sông rộng và sâu nên các tàu lớn cũng có thể cập cảng và tránh nhau dễ dàng.

Khi người Pháp đến khu vực này đã phát hiện ra rằng không nơi đâu trên bán đảo Đông Dương có vị trí giao thương thuận lợi như Sài Gòn. Do vậy họ kỳ vọng biến nơi đây thành cửa ngõ giao thương quan trọng nhất cho toàn bộ Đông Dương.

Sau khi chiếm được Gia Định năm 1859, dù chưa ổn định được tình hình thì ngày 22/2/1860, người Pháp đã thành lập Cảng Sài Gòn và đầu tư vào đây. Thương cảng Sài Gòn chính thức hoạt động từ thời điểm này.

Thương cảng hàng đầu vùng Viễn Đông

Theo tư liệu về Sài Gòn xưa, ngay từ năm 1860, tức chỉ sau 1 năm người Pháp đến Gia Định, đã có 246 tàu phương Tây và thuyền buồm Trung Hoa đưa các hàng hóa đến và đi từ Cảng Sài Gòn.

Số hàng xuất khẩu chủ yếu là gạo chiếm 85% với số tiền là 5,184 triệu quan Pháp, giá trị hàng nhập khẩu tương đương 1,5 triệu quan Pháp (10 quan Pháp = 1 đồng bạc Đông Dương), doanh số mậu dịch trong năm là 7,7 triệu franc.

Để thuận tiện cho các tàu đến đây, Hải đăng Cap Saint-Jacques được xây dựng ở Vũng Tàu và bắt đầu hoạt động từ ngày 15/8/1862.

Theo số liệu để lại thì năm 1862, có 117 tàu châu Âu đến Sài Gòn với tổng trọng tải là 53.200 tấn, 129 tàu châu Âu rời cảng Sài Gòn chở đi 42.470 tấn gạo, 1.023 kiện bông, 1.746 kiện vải và 357 tấn lúa.

Hàng xuất khẩu ngoài gạo ra còn có cá khô ở Biển Hồ (Cao Miên), dầu thực vật, đường mía, rau sấy khô, gòn. Những năm sau đó hàng xuất khẩu có thêm tơ tằm, muối, đay, gỗ.

Việc xuất khẩu gỗ mang lại món lợi lớn nên Pháp thúc đẩy việc khai thác gỗ, năm 1864 giá trị xuất khẩu gỗ lên đến 11 triệu quan Pháp.

Thương cảng lớn này cũng thúc đẩy các nghề sản xuất trong nước phát triển mạnh, giúp dân chúng có được việc làm và nguồn thu nhập, tuy nhiên nguồn lợi lớn nhất rơi vào tay người Pháp.

Thương cảng phát triển đòi hỏi phải có dịch vụ sửa chữa tàu. Năm 1864, người Pháp thành lập xưởng BaSon, quy tụ các thợ cơ khí lành nghề lúc đó. Ngoài sửa chữa thì xưởng cũng đóng mới các tàu thuyền có trọng tải nhỏ.

Năm 1866, trọng tải hàng hóa vào cảng Sài Gòn là 600.000 tấn. Các mặt hàng xuất khẩu gồm 100.000 tấn gạo, 2.687 tấn bông, 42 tấn tơ lụa, 150 tấn muối. Qua năm sau 1867, Sài Gòn đã xuất khẩu 193.000 tấn gạo tức gần gấp đôi so với năm trước.

Trong 1 năm từ 1/7/1866 đến 30/6/1867, có 887 tàu đến giao thương, giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu là 53 triệu quan Pháp, đây là số tiền rất lớn vào thời điểm đó.

Từ năm 1867, Sài Gòn là một thương cảng phồn vinh và có sức hút lớn, cùng với các thương cảng khác ở Singapore, Batavia, Manila, trở thành những thương cảng hàng đầu khu vực Viễn Đông.

Dần không cạnh tranh được

Sau giai đoạn này, Thương cảng Sài Gòn vẫn phát triển nhưng tốc độ không bằng cảng ở Singapore, Hongkong. Đến đầu thế kỷ 20 thương cảng ở Sài Gòn tụt xuống thứ 8 ở vùng viễn Đông, 75% lượng hóa hóa xuất khẩu Đông Dương đi qua đây, riêng xuất khẩu gạo thì liên tục đứng nhất và nhì thế giới.

Trong một báo cáo của Phòng Thương mại Sài Gòn E. Dierx năm 1887 thì Thương cảng Sài Gòn lúc đó có những hạn chế nên không thể cạnh tranh được với Singapore, Hongkong và thậm chí là Jarkarta. Thương cảng Sài Gòn nằm sâu trong đất liền, với 70 km đường sông ngoằn nghèo, chi phí vào cảng lại cao.

Lúc đó đã có đề xuất nên cho Thương cảng Sài Gòn trở thành một kiểu đặc khu, được miễn thuế xuất nhập khẩu, nhưng Phòng Thương mại lúc đó đã không đồng ý.

Sau này Toàn quyền Đông Dương là Paul Doumer đã tỏ ra luyến tiếc vì việc chậm đầu tư hạ tầng nhằm biến Thương cảng Sài Gòn thành một trong những hải cảng hàng đầu Viễn Đông. Các khoản đầu tư của người Pháp đã tập trung vào những công trình kiến trúc giúp Sài Gòn trở thành Hòn ngọc Viễn Đông mà bỏ qua Thương cảng Sài Gòn.

Góc nhìn An- Nam sưu tầm 

Giới thiệu “Viên Sỏi Trắng”, hồi ký của bà Ngô Đình Nhu

Trung tâm Nghiên cứu Việt-Mỹ, Đại học Oregon

Báo Sài Gòn Nhỏ

Bà Ngô Đình Nhu (ảnh: Kurt Rohwedder/picture alliance via Getty Images)

Trung tâm Nghiên cứu Việt-Mỹ hân hạnh chủ trì việc dịch thuật từ tiếng Pháp và ấn hành di cảo “Viên Sỏi Trắng” của bà Ngô-Đình Nhu (nhũ danh Trần Lệ Xuân), được viết vào những năm cuối đời của bà. Kèm theo cuốn hồi ký là một bài tiểu luận của Ngô-Đình Lệ Quyên, Ngô-Đình Quỳnh, và Jacqueline Willemetz với tựa đề “Việt Nam Cộng Hòa và Gia Tộc Ngô-Đình.”

Bà Ngô Đình Nhu (ảnh: Keystone/Hulton Archive/Getty Images)

Ngô-Đình Lệ Quyên (qua đời năm 2012) và Ngô-Đình Quỳnh là hai trong số bốn người con của ông Ngô-Đình Nhu và bà Trần Lệ Xuân – hai người còn lại, Ngô-Đình Lệ Thuỷ và Ngô-Đình Trác, lần lượt qua đời vào năm 1968 và 2021. Jacqueline Willemetz là một người bạn của gia đình có cha là bạn học với Ngô-Đình Nhu tại Trường Quốc gia Hiến Chương [École Nationale des Chartes] của Pháp.

Chúng tôi rất biết ơn Nhà Xuất Bản L’Harmattan đã cho phép dịch và in cuốn sách này. Chúng tôi cảm ơn gia đình và bạn bè của gia đình Ngô-Đình, đặc biệt là bà Jacqueline Willemetz và ông Olindo Borsoi, chồng của Ngô-Đình Lệ Quyên. Bà Willemetz và ông Borsoi nhận trách nhiệm xuất bản cuốn sách gốc vào năm 2013 sau khi bà Ngô-Đình Nhu và Ngô-Đình Lệ Quyên lần lượt qua đời vào năm 2011 và năm 2012.

Nhờ họ nhiệt tình cung cấp văn bản, hình ảnh, và tài liệu cũng như cho phép dịch và xuất bản, cuốn sách này mới có ngày nay. Chúng tôi cũng muốn ghi nhận tấm lòng của ông Borsoi qua việc uỷ thác cho Trung Tâm bốn thùng tài liệu của bà Nhu để số hóa, cùng với nhiều bộ áo dài của bà và Ngô-Đình Lệ Thuỷ để sử dụng cho một cuộc triển lãm trong tương lai.

Bốn trong số những tài liệu đó đã được thêm vào phần Phụ lục của sách. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, chúng tôi xin cảm ơn ông bà Nguyễn Đức Cường đã hỗ trợ dự án này ngay từ đầu. Xin cảm ơn ông Phan Lương Quang đã phụ trách chính phần dịch thuật, và bà Maria Cristina de Mariassevich và TS Nguyễn Lương Hải Khôi đã giúp hiệu đính. Cuối cùng, chúng tôi xin cảm ơn cô Vũ Hồng Trang, người đã giúp chúng tôi tiếp xúc với ông Olindo Borsoi.

Ông Ngô Đình Nhu và phu nhân, bà Trần Lệ Xuân (ảnh: Pictures From History/Universal Images Group via Getty Images)

Hơn nửa thế kỷ sau cái chết của Tổng thống Ngô-Đình Diệm và bào đệ Ngô-Đình Nhu, giờ đây chúng ta có thể tìm hiểu suy nghĩ của gia đình họ về chính họ và về vai trò của gia đình họ trong lịch sử Việt Nam. Vai trò đó phức tạp và chắc chắn gây nhiều tranh cãi, nhưng không ai có thể đánh giá thấp tầm quan trọng của nó.

Dù chúng ta đồng ý hay phản đối, gia đình này có vai trò rất đặc biệt trong lịch sử hiện đại của Việt Nam vì nó gắn liền với quá trình chuyển đổi của đất nước từ một xứ bảo hộ và thuộc địa của Pháp sang một quốc gia độc lập và bị chia cắt. Nó đặc biệt bởi vì toàn bộ gia đình này thông qua Tổng thống Ngô-Đình Diệm đã góp phần định hình lịch sử hiện đại của Việt Nam bằng cách này hay cách khác. Nó đặc biệt bởi vì, ngoại trừ triều đại nhà Nguyễn bắt đầu với Hoàng đế Gia Long và kéo dài đến Bảo Đại, vị hoàng đế cuối cùng, không có gia đình nào khác trong thời hiện đại tham gia nhiều vào chính trị và đời sống quốc gia như gia tộc Ngô-Đình.

Trải qua hai thế hệ, tất cả các thành viên nam và một người nữ trong gia đình này đều tham gia chính trị hoặc phục vụ trong một số chức vụ nhà nước ở cấp rất cao:

Bắt đầu với Ngô-Đình Khả, một vị quan đại thần trong triều đình nhà Nguyễn ở Huế, tiếp theo bởi các con trai của ông là Ngô-Đình Khôi làm Tổng đốc;

Ngô-Đình Thục là một trong những giám mục người Việt đầu tiên ở Đông Dương thuộc Pháp và sau đó trở thành Tổng giám mục Vĩnh Long và Huế;

Ngô-Đình Diệm từng có thời gian ngắn làm quan Thượng thư trong triều đình nhà Nguyễn vào năm 1933, làm Thủ tướng năm 1954-1955, là người sáng lập Việt Nam Cộng hòa (VNCH) và là Tổng thống đầu tiên (1955-1963);

Ngô-Đình Nhu, người điều hành Văn Khố và Thư Viện ở Hà Nội trước khi trở thành nhà tổ chức chính trị, cố vấn cho Tổng Thống Diệm, và lãnh đạo Đảng Cách Mạng Cần Lao;

Ngô-Đình Cẩn, cố vấn cho anh trai ông, Tổng thống Diệm, về các vấn đề liên quan đến miền Trung Việt Nam;

Và Ngô-Đình Luyện từng là Đại sứ của VNCH.

Bên cạnh những người đàn ông, Trần Lệ Xuân, thường được gọi là Bà Ngô-Đình Nhu, là đại biểu Quốc hội Việt Nam Cộng hòa (1956-63), người sáng lập Phong trào Phụ nữ Liên đới, và là một “Đệ nhất phu nhân” không chính thức.

Chúng ta không biết nhiều về Ngô-Đình Khôi và Ngô-Đình Luyện như ta biết về anh em của họ, những người nổi bật nhờ khả năng và tham vọng cá nhân: Ngô-Đình Thục được thụ phong linh mục và được gửi đi du học ở Rôma vào cuối những năm 1920, rồi được bổ nhiệm làm giám mục một thập kỷ sau. Ngô-Đình Diệm được bổ nhiệm làm Tuần phủ và nổi tiếng khi từ chức Thượng thư để phản đối việc Pháp không thông qua các cải cách chính trị.

Ngô-Đình Nhu được nhận vào học ở Trường Quốc gia Hiến chương [École Nationale des Chartes], một trường danh tiếng ở Pháp, góp phần đáng kể vào việc bảo tồn văn bản của triều đình nhà Nguyễn, sau đó tổ chức vận động hiệu quả gây cơ sở chính trị trong nước để anh trai của mình được ủng hộ và được bổ nhiệm làm thủ tướng, và là chiến lược gia [brain trust] của chính quyền Ngô-Đình Diệm. Đi ngược với trào lưu xã hội lúc đó [swimming against the current], bà Nhu bảo trợ cho một bộ luật gia đình tiến bộ và dấy lên một cuộc tranh luận toàn quốc về nữ quyền và các vấn đề gia đình.

Bà Ngô Đình Nhu (Getty Images)

Bà Nhu, hay Trần Lệ Xuân, cũng xuất thân từ một gia đình thượng lưu. Ông nội của bà là Trần Văn Thông làm Tổng đốc Nam Định. Cha bà là Trần Văn Chương, một luật sư được đào tạo tại Pháp, người sau này trở thành Bộ trưởng Bộ Ngoại giao trong chính phủ Trần Trọng Kim (tháng 4 đến tháng 8 năm 1945) và từng là đại sứ VNCH tại Hoa Kỳ dưới thời Ngô-Đình Diệm (Chương từ chức vào cuối năm 1963 để phản đối chính phủ Diệm).

Chú của bà là Trần Văn Đỗ, một bác sĩ y khoa, từng hai lần làm bộ trưởng ngoại giao vào các năm 1954-55 và 1965-67 dưới chính quyền Ngô-Đình Diệm và Nguyễn Cao Kỳ, và là phó thủ tướng dưới thời Thủ tướng Phan Huy Quát (1966). Bà ngoại của Lệ Xuân là ái nữ của vua Đồng Khánh. Bà lấy ông nội của Lệ Xuân là Thân Trọng Huề, thượng thư triều đình Huế. Mẹ bà, Thân Thị Nam Trân, từng là đại diện của VNCH tại Liên Hiệp Quốc với tư cách quan sát viên.

Từ báo lá cải đến hồi ký của cựu quan chức và lời kể của nhà báo nước ngoài, nhiều điều đã được viết về chính quyền Tổng thống Diệm và vai trò của gia đình ông. Chỉ gần đây thôi các nhà sử học Mỹ mới bắt đầu xem xét quan điểm và chính sách của chính phủ Diệm một cách nghiêm túc và theo cách riêng của nó, chứ không phải như là sản phẩm của Pháp hay Mỹ. Trong phạm vi hạn chế của bài giới thiệu này, chúng tôi sẽ không thảo luận về các công trình sử học mới này.

Chỉ cần nói rằng, những công trình này soi sáng nhiều khía cạnh chính trị của nền Đệ nhất Cộng hòa dưới thời Tổng thống Diệm, cho thấy ông là một người có quan điểm chính trị bảo thủ với tham vọng hiện đại hóa đất nước cũng như một tầm nhìn và phong cách cai trị riêng biệt. Chính phủ của ông được thành lập trong thời kỳ hỗn loạn nhất của lịch sử hiện đại Việt Nam và ông phải được công nhận vì đã tạo ra trật tự từ hỗn loạn bất chấp mọi khó khăn. Việt Nam Cộng hòa do ông thành lập là một quốc gia non trẻ với nguồn lực hạn chế, một xã hội cực kỳ đa dạng và một nền kinh tế phụ thuộc nước ngoài với kỹ nghệ kém phát triển.

Bà Ngô Đình Nhu trong chuyến công du Belgrade, Nam Tư; gặp Thượng nghị sĩ Edward M. Kennedy (ảnh: Getty Images)

Chính phủ VNCH tuyên bố có chủ quyền hoàn toàn đối với toàn bộ Việt Nam nhưng miền Bắc nằm dưới sự cai trị của chính phủ cộng sản với đòi hỏi chủ quyền cũng trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam. VNCH được các quốc gia thuộc “Thế Giới Tự Do,” gồm có Hoa Kỳ và các đồng minh của họ ở Âu, Á, Phi, và Mỹ công nhận. Cộng sản Bắc Việt có vị thế quốc tế yếu hơn vì được ít nước ngoài công nhận hơn.

Tuy nhiên, cả hai nước Việt Nam đều không được công nhận là thành viên của Liên Hiệp Quốc và địa vị quốc tế của cả hai đều bị hạn chế. Đối với VNCH, một phần lãnh thổ do họ kiểm soát (ở miền Trung và một phần đồng bằng sông Cửu Long) từng nằm dưới sự cai trị của cộng sản trong cuộc chiến tranh Pháp-Việt (1946-1954), và người dân rất có thể không trung thành lắm đối với VNCH.

Vài năm sau Hiệp định Genève, được Trung Quốc và Liên Xô hỗ trợ, Bắc Việt bắt đầu nối lại cuộc chiến chống lại VNCH để thống nhất đất nước dưới chế độ cộng sản. Hà Nội huy động những người kháng chiến cũ ở miền Nam, cùng với những người trước đó đã tập kết ra miền Bắc nhưng giờ đây được đưa trở lại với vũ khí và tinh thần sẵn sàng chiến đấu. Với sự giúp đỡ của Mỹ, chính phủ Diệm đã ngăn chặn thành công bước tiến của cộng sản trong các năm 1957-58 và 1960-61. Tình hình quân sự vẫn đang giằng co vào năm 1963.

Tuy nhiên, chính phủ không được lòng một bộ phận nhất định của giới tinh hoa và dân chúng, đồng thời không chịu khuất phục trước áp lực cải cách chính trị của Mỹ. Giữa lúc các cuộc biểu tình của Phật tử lan rộng, Tổng thống Diệm và ông Nhu bị ám sát vào ngày 2 tháng 11 năm 1963 trong một cuộc đảo chính quân sự được chính quyền Kennedy hậu thuẫn.

Tuy nhiên, cuộc đảo chính đã dẫn đến bốn năm hỗn loạn chính trị và xã hội, làm suy giảm nghiêm trọng vị thế quân sự của Nam Việt Nam và dẫn đến việc Mỹ can thiệp quân sự trực tiếp vào Việt Nam. Đây có lẽ là sai lầm lớn nhất của Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam, khiến VNCH mất đi chính nghĩa của mình trong mắt người dân Việt Nam và thế giới.

Dù chế độ Tổng thống Diệm bị nhiều người cho là độc tài và gia đình trị, các nhà sử học và bất kỳ ai quan tâm đến lịch sử Việt Nam đều muốn tìm hiểu thêm về các thành viên gia tộc Ngô-Đình vì họ đóng vai trò rất quan trọng trong chính phủ của ông. Họ nghĩ gì về mình, về đất nước và về đồng bào? Các thành viên trong gia đình nghĩ gì về nhau? Họ nghĩ gì về vai trò của gia đình họ trong lịch sử? Điều gì đã đưa họ đến gần nhau như vậy, và mỗi người có ảnh hưởng gì đối với Tổng thống? Mặc dù đã có nhiều sách viết về họ, nhưng đây là lần đầu tiên, sau sáu thập kỷ, độc giả tiếng Anh và tiếng Việt có thể đọc những suy nghĩ của họ do không ai khác ngoài chính họ kể lại.

Trong sách chúng ta có thể nghe bà Ngô-Đình Nhu thuật lại những sự kiện quan trọng trong cuộc đời bà, từ thời thơ ấu đến cuộc hôn nhân với ông Nhu, từ thời gian bà ở Huế trong cuộc chiến tranh Pháp-Việt cho đến những năm hạnh phúc của chính quyền Diệm, và từ khi bà bị buộc phải lưu đày cho đến những ngày cuối đời.

Chúng ta biết được cuộc sống của bà khó khăn như thế nào ở một số thời điểm mặc dù xuất thân từ gia đình quyền quý; bà kiên định với niềm tin của mình đến mức có thể cho là ngoan cố; bà có thể hành động mạnh mẽ như thế nào khi Tổng thống và chồng bà thiếu quyết đoán; bà trung thành với họ và với đất nước Việt Nam như thế nào; bà oán giận Pháp và Hoa Kỳ ra sao; và cuộc sống lưu vong của bà đau khổ biết bao.

Không phải tất cả các chi tiết trong cuốn hồi ký đều chính xác và khách quan, bà cũng không kể cho chúng ta nghe tất cả những gì bà biết hoặc đã làm, nhưng tính chủ quan chính là điểm mạnh của cuốn sách. Chúng ta không cần phải tin bà hoàn toàn, nhưng giờ đây chúng ta có thêm một nguồn thông tin và quan điểm cá nhân của bà để thêm vào câu chuyện về một thời kỳ sống động nhưng bi thảm của lịch sử hiện đại Việt Nam.

Cuốn hồi ký cũng cho chúng ta cơ hội biết bà và các con bà đã sống cuộc sống lưu vong như thế nào. Dễ hiểu khi họ đã mất một thời gian dài (hay không bao giờ) mới phục hồi sau cú sốc từ cái chết của Tổng thống Diệm và ông Nhu, đó có lẽ là lý do tại sao họ tránh né xuất hiện trước công chúng. Tuy nhiên, hành động trung thực với tính cách của họ, cộng với lòng can đảm để bảo vệ và giữ gìn danh dự và nhân phẩm của gia đình sau một thảm kịch khủng khiếp như vậy, cũng đã truyền cảm hứng cho sự tôn trọng và cảm thông.

Bài viết của Ngô-Đình Lệ Quyên và Ngô-Đình Quỳnh được biên tập bởi Jacqueline Willemetz đưa ra quan điểm của thế hệ thứ hai của gia đình Ngô-Đình về vai trò của họ trong lịch sử. Bà Lệ Quyên và ông Quỳnh không phải sử gia nhưng họ đã sống qua nhiều phần của lịch sử này và biết về nó nhờ mẹ của họ và nhờ những tư liệu, tài liệu và hình ảnh còn sót lại. Bài viết của họ có mục đích bảo vệ sự liêm chính của chính phủ Diệm và gia đình ông trước những lời chỉ trích.

Bằng việc kể lại lịch sử của dòng họ Ngô-Đình song song với lịch sử của dân tộc Việt Nam, họ muốn thể hiện tấm lòng yêu nước chân thành và sâu sắc trong gia tộc. Nhìn chung, họ không sai: Ngay cả những người chỉ trích chính phủ Diệm cũng thừa nhận rằng ông Diệm là một người yêu nước chân chính và liêm khiết.

Các thành viên của gia đình Ngô-Đình, bao gồm cả Tổng thống, chắc chắn đã phạm nhiều sai lầm, nhưng ít ai nghi ngờ lòng yêu nước của họ, và nhiều người sẽ nói rằng Tổng thống là một nhà lãnh đạo giỏi so với những người tiền nhiệm và kế nhiệm của ông. Chắc chắn ông ta có học thức và đời sống tinh thần phong phú hơn nhiều so với nhóm lãnh đạo cộng sản ở Hà Nội.

Nhưng mục đích của chúng tôi ở đây không phải là bênh vực gia đình Ngô-Đình hay chế độ Diệm. Khi chủ trì việc dịch thuật và xuất bản cuốn sách này, chúng tôi chỉ nhằm mục đích tạo ra sự quan tâm và khuếch trương hiểu biết về lịch sử Việt Nam Cộng hòa. Chế độ cộng sản đã vùi dập lịch sử này một cách tàn bạo kể từ năm 1975, nhưng chúng ta cần nó để hiểu sâu sắc về Việt Nam hiện đại. Với tư cách là biên tập viên, tôi cố gắng giữ bản dịch đúng với bản gốc và chỉnh sửa rất nhẹ nhàng với hy vọng độc giả sẽ đọc và đưa ra quan điểm riêng về tác giả và câu chuyện của họ.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Vĩnh Biệt Sơn Nam (11/12/1926 – 13/08/2008)

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

09/08/2023

Trong cuốn Một Mảnh Tình Riêng, do nhà Văn Nghệ (VN) xuất bản năm 2000, Sơn Nam tâm sự:

“Mẹ tôi đi làm dâu nơi xa nhà hàng năm mươi cây số đường giao thông hồi đầu thế kỷ khó khăn, vượt rừng qua hai con sông đầy sóng gió… Lâu năm lắm mẹ tôi với về quê thăm xứ một lần, tình trạng này tôi thử hư cấu, qua truyện ngắn ‘Gả Thiếp Về Rừng’… Qua sông Cái Bé thì dễ, nhưng gian nan nhất là qua sông Cái Lớn.”

Muốn biết chuyện làm dâu nơi xa, hồi đầu thế kỷ trước, gian nan và khó khăn ra sao, xin đọc lại vài đoạn (chính) trong truyện ngắn này của Sơn Nam:

“Câu chuyện xảy ra tại rạch Bình Thủy, làng Long Tuyền, tỉnh Cần Thơ, đâu cũng vào khoảng năm 1939 … tháng chạp năm đó, nhà ông Cả treo bông kết tuội để gả con, giữa tiếng dị nghị của bao chàng trai tơ ở rạch Bình Thủy.
Cô Út về làm dâu đất Cạnh Đền.
Hai năm qua.
Ba năm qua…
Chuyến đầu, đôi vợ chồng về thăm ông Cả bà Cả, đèo theo một đứa con gái nhỏ… sổ sữa dễ thương.
Chuyến sau họ về, lại thêm một đứa gái và một đứa thứ ba nữa đang nằm trong bụng mẹ.
Hai ông bà quá đỗi vui mừng.
Nhưng liên tiếp mấy năm sau họ bặt tin, ngày Tết ngày giỗ cũng chẳng về. Lo ngại quá! Có chuyện gì xảy ra bất lành không?
Hai ông bà muốn xuống Cạnh Đền thăm con nhưng ngại mình già sức yếu, đường xa xôi, phải vượt qua sông Cái Lớn. Nằm đêm, lắm khi bà khóc lóc mà trách ông:
– Tôi nói muỗi rừng ăn thịt hai đứa nó rồi. Xứ gì mà muỗi kêu như sáo thổi. Không đau bịnh rét thì cũng chói nước lớn bụng mà chết… Hồi đó ông cãi tôi, nhớ không?
“Ông Cả vô cùng buồn bực. Nhứt là khi nghe con nít chòm xóm hát đưa em:
Má ơi đừng gả con xa,
Chim kêu vượn hú, biết nhà má đâu?

Suốt tháng ngày, ông chống gậy đi quanh quẩn bên gốc tre già ở mé sông, mắt mòn mỏi nhìn bóng dáng các ghe thương hồ qua lại.
Trời đất nào phụ kẻ có lòng như ông!
Mãi đến buổi trưa đó, có chiếc ghe chèo chậm chậm ngang bến. Chồng trước mũi hỏi vợ sau lái:
– Phải chỗ cây mù u này không? Cậu Quỳnh nói nhà bên vợ ở đâu đây.
Chị vợ đáp:
– Không chừng… Đúng quá, cách ngã ba, qua hai cây cầu khỉ, nhà ngói có vườn quít.
Anh chồng ngó tới ngó lui, cãi lại:
– Mình mới qua một cây cầu. Chèo tới trước chỗ cây cầu khỉ, đằng kia kìa, họa may…
Ông Cả cố gom tất cả sức già, la lớn:
– Ở đây nè, bà con ơi! Nhà vợ thằng Quỳnh ở đây nè…Ghe đậu lại. Hai vợ chồng nọ được mời lên ăn cơm với thịt gà tại bộ ván gõ giữa nhà ông Hương cả. Trong đời, họ chưa bao giờ được hân hạnh lớn như vậy! Ông Cả, bà Cả, người lối xóm xúm lại hỏi nhiều câu quá. Họ bối rối, trả lời vắn tắt:
– Dạ, vợ chồng cậu Quỳnh mạnh khỏe. Nhờ trời sanh được sáu đứa con. Bốn đứa sau đều là con trai.
Bà Cả mừng quýnh:
– Úy! Bộ con Út đẻ năm một sao? Con nhỏ đó thiệt giỏi!
Khách trả lời:
– Dạ, đẻ năm một. Đứa ăn thôi nôi, đứa lôi đầy tháng. Mẹ tròn con vuông. Hồi tôi đi đây, cô Út gần nằm chỗ một lần nữa. Thưa ông bà, miệt dưới ai cũng vậy. Như vợ chồng cháu đây có tám đứa con.
– Sao vậy cà? Sao vậy cà? Ở dưới cỡ này ra sao mà thiên hạ “đẻ nhiều” quá vậy?
Khách ngượng nghịu, chập sau mới nói:
– Dạ ở miệt dưới muỗi dữ lắm. Chạng vạng là cả nhà, vợ “chồng con cái rút vô mùng… nói chuyện”. Ít ai đi đâu.
Ai nấy phá lên cười to. Đến lúc bấy giờ, ông Cả bà Cả mới hiểu thêm một sự bí mật quan trọng của tiếng ‘muỗi kêu như sáo thổi’ ở Cạnh Đền. Nó làm hại sức khỏe con người. Nhưng nó gắn bó mối tình chồng vợ hơn ở xứ không có muỗi.
Để đánh trống lảng, ông nói:
– Ừ! Phải vậy mới được. Xứ mình cần có dân đông để tạo lập thêm ruộng vườn, khai phá đất hoang.
Bà Cả nóng ruột:
– Anh chị đây có nghe vợ chồng nó nhắn chừng nào đem mấy đứa cháu ngoại của tôi về cho biết mặt?
Khách trả lời:
– Dạ không nghe. Con cái lũ khũ cả bầy, chắc vợ chồng cậu Quỳnh khó đi xa. Năm rồi mùa màng thất bát, ai cũng lo tay làm hàm nhai để nuôi con. Sông Cái Lớn mấy năm nay lại thêm sóng gió bất thường.
Bà thở dài, nói như rên siết:

– Nhớ mấy đứa nhỏ quá. Ông ơi! Hồi đó ông cãi tôi…

Ông Cả im lặng, nghĩ đến cái ngày gần đất xa trời của mình. Nó không còn bao xa nữa. Ngày đó, ai phò giá triệu, ai rinh quan tài? Nhìn bụi tre già dưới bến mà ông tủi thân: Măng non mọc kề bên gốc.

Phận ông có khác; con gái, con rể và đám cháu ngoại ở chốn xa xôi kia làm sao được gần gũi để ông thấy mặt lần đầu- và cũng là lần chót – khi ông tàn hơi. Nước mắt muốn tươm ra, ông cố dằn lại. Ông hiểu đời ông chưa tới mức đen tối, còn chút ánh sáng lập lòe trong tương lai vô biên vô tận:
– Ờ… ở dưới nó có lập vườn chưa? Lát nữa, anh chị chịu khó chở về giùm cho vợ chống con Út một gốc tre Mạnh Tông để làm giống. Chừng thấy măng non cận gốc già, mấy đứa cháu của tôi luôn luôn nhớ ông ngoại bà ngoại nó trên Bình Thủy.
Phật Trời thiêng liêng xin phù hộ chứng giám! Từ bao nhiêu thế kỷ rồi, trên đất nước mình luống chịu cảnh sinh ly như ông Cả, như cô Út. Ðể cho nước mạnh dân còn” (*).
Truyện “Gả Thiếp Về Rừng” lấy bối cảnh rạch Bình Thủy, làng Long Tuyền, tỉnh Cần Thơ, vào khoảng năm 1939 – 40, khi tôi chưa ra đời. Ba mươi năm sau, lúc tôi đã đủ lớn để đọc và yêu thích Sơn Nam thì ghe thuyền gắn máy (đuôi tôm) đã chạy dọc ngang tá lả khắp sông rạch miền Nam.
Thế hệ của chúng tôi khó mà hiểu được nỗi “gian truân” của một người con gái lấy chồng xa nhà (cỡ) … năm mươi cây số! Dù vậy, tôi vẫn cứ mến thương hết sức cái tình của Sơn Nam dành cho lớp người tiên phong, đi khai khẩn miền cực Nam của quê hương.
Cùng với Sơn Nam, nhà văn Bình Nguyên Lộc cũng ghi lại nhiều tình cảm sâu đậm của mình đối với những lưu dân. Trong truyện ngắn Rừng Mắm của ông, có đoạn đọc mà muốn ứa nước mắt:
“Bờ biển nầy mỗi năm được phù sa bồi thêm cho rộng ra hàng mấy ngàn thước. Phù sa là đất bùn mềm lủn và không bao giờ thành đất thịt được để ta hưởng nếu không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một khi kia cây mắm sẽ ngã rạp. Giống tràm lại nối ngôi mắm. Rồi sau mấy đời tràm, đất sẽ thuần, cây ăn trái mới mọc được.
Thấy thằng cháu nội ngơ ngác chưa hiểu, ông cụ vịn vai nó mà tiếp:
Ông với lại tía của con là cây mắm, chân giẫm trong bùn. Ðời con là tràm, chân vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xồi, mít, dừa, cau.
Ðời cây mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính ngoài mặt trận vậy mà. Họ ngã gục cho kẻ khác là con cháu của họ hưởng”.
Đã bao nhiêu đời tràm, bao nhiêu đời mắm ngã rạp, bao nhiêu thế hệ phải chịu cảnh sinh ly như ông Cả, như cô Út … nhưng quê hương mỗi lúc một lụn bại hơn, chứ không giàu mạnh thêm – như kỳ vọng của Sơn Nam hay Bình Nguyên Lộc. Và vì nghèo đói, cảnh chia ly xẩy ra mỗi ngày một nhiều.

“Hiện nay, ở Nam Hàn, trên bất kỳ nhật báo nào cũng dễ dàng tìm thấy những lời quảng cáo:‘Người già, người muốn tái hôn, người khuyết tật đều có thể kết hôn với những trinh nữ xinh đẹp ở Việt Nam … Thậm chí những quảng cáo này còn liệt kê ưu điểm của con gái VN như ‘xuất giá tòng phu’, ‘tôn trọng người già, thờ cúng tổ tiên đến bốn đời’, ‘dáng người đẹp nhất thế giới’, ‘giữ gìn trinh tiết và chung thủy với chồng” (Bán tuần báo Việt Luận, số 2063, phát hành từ Sydney ngày 28/04/2006).
Chuyện “lấy chồng xa” của phụ nữ VN đã trở thành kỹ nghệ, ở mức “đại trà” – theo như tin của nguyệt san Khởi Hành, số 134, phát hành từ California, tháng 4 năm 2006:
“Cảnh sát Cam Bốt mới khám phá một tổ chức bán các bé gái Việt Nam tại một khu phố ở Nam Vang. Các em cho biết đã được chở từ quê nhà vùng nông thôn miền Nam qua biên giới trong những thùng sắt dùng trở hàng xuất cảng”.
Những chuyện tủi nhục xót xa như thế đã xẩy ra (thường xuyên) từ mấy thập niên qua. Trong thời gian này, Sơn Nam vẫn cặm cụi cầm bút và vẫn in ấn đều đều. Tác phẩm mới nhất của nhà văn, có tên là Bình An, tập cuối trong bộ hồi ký của ông, và được giới thiệu là cuốn sách đề cập đến những biến đổi lớn lao của Sài Gòn kể từ ngày giải phóng miền Nam 30/04/75 đến nay…. Hồi ký Sơn Nam không chỉ là chuyện kể về cuộc đời của một con người mà còn là chuyện kể về một giai đoạn lịch sử của vùng đất Nam Bộ.

Dù không phải là thầy bói, tôi vẫn biết chắc rằng, trong cả bốn tập hồi ký của Sơn Nam sẽ không có một dòng chữ nào – nửa dòng cũng không – viết về những em bé Việt Nam bị “gả” đi xa, “trong những thùng sắt dùng chở đồ xuất cảng” từ vùng đất Nam Bộ.
Tập Hương Rừng Cà Mau, trong đó có truyện “Gả Thiếp Về Rừng,” được mở đầu bằng một bài thơ của Sơn Nam, có đoạn như sau:

Trong khói sông mênh mông,
Có bóng người vô danh
Từ bên này sông Tiền
Qua bên kia sông Hậu
Mang theo chiếc độc huyền
Ðiệu thơ Lục Vân Tiên
Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả

Cái gì đã giết chết tinh thần “kiến nghĩa bất vi vô dõng giả” và quan niệm sống “lộ kiến bất bình vung đao bạt tụy” – của Lục Vân Tiên – trong con người Nam Bộ của Sơn Nam? Ở tuổi 80, ông còn ngại gì nữa mà không (dám) nói lên đôi lời phải/quấy với bọn giặc cướp – đang tụ họp ở làng Ba Đình, Hà Nội – trước khi nhắm mắt?
Câu trả lời có thể tìm được trên Tuổi Trẻ Online, số ra ngày 7 tháng 3 năm 2004:
“Ngày 7-3, tổng công ty du lịch Sài Gòn khánh thành tượng chân dung nhà văn Sơn Nam tại làng du lịch Bình Quới 1 (Thanh Đa), để ghi nhận đóng góp của ông đối với nền văn hóa phương Nam”
Té ra, Sơn Nam đã bị hóa đá. Hèn gì, ông không còn nghe được tiếng dân kêu ai oán ở rừng U Minh Hạ. Ông cũng không còn bận lòng gì nữa về số phận gian truân của những người đồng hương đi lấy chồng xa – dù là xa nhà đến năm ngàn (hoặc hơn) chứ không phải chỉ là năm mươi cây số – và sang sông (tập thể) bằng tầu chở hàng, trong thùng container, thay vì bằng một chuyến đò ngang hay đò dọc.

Khi bàn về số phận của một số những người cầm bút ở miền Nam – bị cấm viết sau tháng 4 năm 1975 – nhà văn Võ Phiến gọi họ là những “tài năng bị chôn sống.” Sơn Nam dù không bị cấm viết, ông vẫn bị chôn (sống) bằng một hình thức khác.

Vĩnh biệt Sơn Nam!

May 2006