S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Nguyễn Duy Kiên

Ba’o Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

05/10/2023

Vài hôm trước, trước khi “toàn dân nô nức” kỷ niệm Ngày Giải Phóng Thủ Đô,  nhà thơ Hoàng Hưng đã viết một câu ngăn ngắn (và hơi khó hiểu) trên trang FB của ông: “Sắp đến ngày 10/10! Biết bao người con tinh hoa của Hà Nội vui mừng đón ngày ấy rồi tan nát cả đời sau ngày ấy huhu…”

Mà chả riêng gì ông nhà thơ mà còn nhiều “nhà” khác (nhà báo, nhà văn, nhà bình luận thời sự… ) cũng đã từng trải qua cái tâm tư “huhu” tương tự :

  • Lê Phú Khải: “Ngày vui ngắn chẳng tày gang”, không khí hồ hởi vui tươi sau chiến thắng Điện Biên Phủ, sau hòa bình lập lại 1954 ở Hà Nội cũng như toàn miền Bắc mau chóng nhường chỗ cho những ngày ảm đạm, u ám của những cuộc ‘đấu tranh giai cấp’, của cải cách ruộng đất, dư cải tạo tư sản, đấu tố bọn “Nhân văn Giai phẩm.”
  • Nguyễn Văn Luận: “ Đỗ Mười về tiếp thu Hải phòng nói rằng các nhà tư sản vẫn được làm ăn bình thường. Một tháng sau, cha tôi bị tịch thu tài sản. Trở về Hà Nội, trắng tay, cả nhà sống trong túp lều ở ngoại ô, cha tôi đi đánh giậm, vớt tôm tép trong các ao hồ, rau cháo nuôi vợ con.”
  • Nguyễn Khải: “Một nửa nước được độc lập nhưng lòng người tan nát tài sản một đời chắt chiu của họ bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành những người vô sản bất đắc dĩ. Tầng lớp trí thức chẳng có tài sản gì ngoài cái đầu được tư duy tự do, thì cái đầu cũng bị nhà nước trưng thu luôn.
  • Trần Đĩnh: “Chú họ tôi ở ngã năm Nguyễn Du – Bà Triệu, một công chức lưu dụng… Tin yêu Cụ Hồ, chú ở lại cùng công nhân viên bảo vệ Sở điện nên được lưu dụng… Thình lình cắt tiêu chuẩn lưu dụng, lương tụt một nhát ngỡ như chính bản thân chú bị sập hầm.”

Riêng với “nhà nhiếp ảnh” thì còn bị nhà nước cách mạng đối xử cách riêng (khắt khe và tàn tệ  hơn nhiều) theo như ghi nhận của tác giả Nguyễn Quỳnh Hương :

Nhà nhiếp ảnh Nguyễn Duy Kiên (1911-1979) sinh ra và sống giữa lòng phố cổ Hà Nội. Ông chơi ảnh và chụp ảnh chỉ như để ghi lại ký ức của mình về một Hà Nội mà cả đời ông và gia đình gắn bó. Hà Nội hiện diện trong ảnh của Nguyễn Duy Kiên ăm ắp tình với những khuôn diện thanh lịch, những di tích già nua nhuộm màu thời gian nhưng đầy sức sống, những vùng quê ngoại ô lam lũ mà vẫn toát lên cốt cách của một xứ sở văn hiến.

Chủ nhân của những bức hình tuyệt đẹp về Hà Nội lại có một số phận nhiều buồn thương… Đam mê nhiếp ảnh từ thời trai trẻ, Nguyễn Duy Kiên là bạn ảnh cùng thời với Lê Đình Chữ, Võ An Ninh, Phạm Văn Mùi, Đỗ Huân… Ông chơi ảnh rất công phu: sắm buồng tối tại nhà, tự tay in phóng ảnh, mày mò tìm ra các kỹ xảo.

Rời hiệu thuốc là ông lại lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm của Hà Nội để ghi lại từng vẻ đẹp phong cảnh và con người, những biến chuyển thời cuộc in dấu lên từng con phố mà ông thân quen từ thơ bé.

Nguyễn Duy Kiên chụp ảnh cho Hà Nội của chính ông. Những khuôn hình nghiêm cẩn, kỹ càng  và chan chứa tình. Sau này, khi di sản tinh thần của ông đến tay những nhà chuyên môn, họ đã choáng váng vì những bức ảnh quá đẹp. Quan trọng hơn – di sản ấy còn là những sử liệu vô giá bằng hình ảnh về Hà Nội trong suốt 20 năm nhiều biến động 1940-1960.

Với 5 đứa con, người vợ đảm đang hết mực tin yêu chồng, Nguyễn Duy Kiên yên ổn với cuộc sống của mình – chỉ cần ông còn được chụp ảnh. Nhưng tai nạn đã ập đến với họ bất ngờ, để rồi tổ ấm của họ phải sẻ đàn tan nghé.

 Đó là một ngày của năm 1967, Nguyễn Duy Kiên có lệnh khám nhà. Người ta tìm thấy trong kho ảnh của ông có 1 tấm hình khỏa thân. Sau này bạn bè ông nói đó là tấm ảnh một người đến phóng nhờ buồng tối rồi để quên lại, cũng có người nói ông chụp để gửi dự thi quốc tế, vì BTC yêu cầu hồ sơ bộ ảnh phải đủ tĩnh vật- phong cảnh- chân dung và ảnh khỏa thân. Không ai biết chính xác “lý lịch”  tấm ảnh định mệnh ấy, còn Nguyễn Duy Kiên thì chỉ im lặng.  Bị kết tội chụp ảnh suy đồi cái tội đủ để làm tan nát danh dự một gia tộc.

Quá khứ đã qua, nhưng ám ảnh kinh hoàng vẫn đọng trong lời kể của bà Kiên: “Chồng tôi đau đớn lắm, nhưng ông biết thời thế, biết phận mình phải như thế. Oan khuất biết kêu ai? Nên bố cháu chỉ im lặng.

Ông bị xử điển hình, kết án 11 năm tù. Chồng tôi cải tạo tận Lào Cai- xứ rừng thiêng nước độc. Cứ nửa năm tôi và cháu lớn lại được lên thăm bố cháu một lần, đường rừng toàn đá tai mèo nhọn sắc, hai mẹ con đi bộ hàng chục cây số máu rỏ dọc đường. Mỗi lần thăm  bố cháu lại tiều tụy hơn”.

Ông bị bệnh thận, bà Miễn viết đơn xin giảm án cho chồng, Nguyễn Duy Kiên đựơc trở về với gia đình sau 8 năm thụ án. Ông về, nhớ nghề ảnh thì mang máy ra chụp loanh quanh trong nhà, ông không dám ra ngoài, bạn bè cũng e ngại không còn ai lui tới.

Đoàn tụ của họ lặng lẽ và ngậm ngùi, chẳng nỡ làm nhau đau hơn – ông không kể những ngày trên trại, bà không kể những năm tháng một mình tủi cực nuôi con. Năm 1979, ở với vợ con đựoc 4 năm thì ông mất vì sức khỏe suy kiệt. Bà Kiên vẫn rơm rớm nước mắt khi nhớ lại: “Khi bố cháu mất, danh dự vẫn chưa được rửa, ông ấy xuôi tay mà không nhắm được mắt…”

Gần nửa thế kỷ đã qua (kể từ khi Nguyễn Duy Kiên nhắm mắt xuôi tay) nhưng nỗi oan khuất của ông và tâm cảm u uẩn của bà chưa bao giờ thực sự được quan tâm hay chia sẻ bởi bất cứ ai, ngoài những lời lẽ đãi bôi của giới truyền thông nhà nước:

Báo Tiền Phong: “Trải qua bao nỗi gian truân, may mắn thay, ngần ấy năm trời, bà quả phụ Nguyễn Duy Kiên vẫn lưu giữ lành lặn được hơn 200 tác phẩm của chồng. Ấy cũng là nề nếp gia phong, nghĩa tình chung thủy của người Hà Nội xưa”.

Báo Vnexpress: “Nguyễn Duy Kiên từng là nghệ sĩ nổi tiếng trong giới nhiếp ảnh Hà Nội, cùng thời với Võ An Ninh, Phạm Văn Mùi, Nguyễn Cao Đàm… nhưng hầu như đã bị hậu thế lãng quên.”

Báo Nhịp Sống Hà Nội: “Số phận đã không cho Nguyễn Duy Kiên may mắn được chụp, trưng bày và xuất bản nhiều nhưng di sản mà ông để lại là những sử liệu vô giá bằng hình ảnh về Hà Nội trong suốt 20 năm nhiều biến động 1940-1960. Đây là món quà quý giá mà ông gửi lại cho Hà Nội của chúng ta hôm nay.”

Báo Nông Nghiệp: “Tiếp lửa tình yêu nghệ thuật, lưu giữ những khoảnh khắc lịch sử vô giá cho những người đang sống hôm nay, nhưng NSNA Nguyễn Duy Kiên dường như bị quên lãng. Hà Nội đã tôn vinh nhiều cá nhân, vậy mà cái tên Nguyễn Duy Kiên đến nay vẫn chưa được trân trọng đánh giá đúng với những gì ông xứng đáng được vinh danh.”

Vấn đề e không giản dị thế đâu!

Hà Nội không thể ngang nhiên mang một nghệ sỹ đi chôn sống, rồi lại thản nhiên “vinh danh” nạn nhân bằng cách in lại tác phẩm của đương sự (bằng tiền tài trợ của một công ty nước ngoài) và coi “đây là món quà quý giá mà ông gửi lại cho Hà Nội của chúng ta hôm nay.”

 Hà Nội không thể chà đạp lên cuộc đời của một người dân cho đến mức bầm dập te tua rồi đổ thừa (“số phận đã không cho tác phẩm Nguyễn Duy Kiên may mắn được chụp, trưng bày và xuất bản”) tỉnh rụi như vậy được.

Hà Nội cũng không ai có thể giày xéo lên số phận của cả một gia đình, buộc một người phụ nữ đơn chiếc phải tần tảo nuôi mấy đứa con thơ, rồi xưng tụng đó là nhờ vào “nề nếp gia phong, nghĩa tình chung thủy của người Hà Nội xưa.”

Tội ác đâu có dễ lấp liếm hay che dấu như thế!

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Lê Trọng Hùng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

03/10/2023

Ngày 12 tháng ̣9 năm 2023, qua FB, ông Hà Sĩ Phu (bút danh của tiến sỹ Nguyễn Xuân Tụ) đã gửi đến độc giả và thân hữu “lời chào tạm biệt” nguyên văn như sau:

Thưa quý bằng hữu,

Sau 2 sự cố (tai nạn giao thông, rồi một lần đột quỵ) ở tuổi 84 tôi đã trở thành người tàn phế, không biết có cơ hội góp một bài viết nữa hay không, mấy dòng ngắn ngủi này đã là hết sức cồ gắng.

 Anh em Hải ngoại đã gom các điều liên quan và các bài viết trước năm 2021 trong Thư viện Hà Sĩ Phu online (hasiphu chấm com, thường bị tường lửa chặn).

 Tôi đã lấy toàn bộ Thư viện ấy xuống, và gom lại các bài ngắn trên facebook Hà Sĩ Phu từ 2022, và sẽ tìm cách gửi đến bạn bè như chút kỷ niệm. Ngay từ bài đầu tiên (Dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của Trí tuệ – 1988) toàn bộ các bài viết của tôi đã bị ngăn cấm, nên việc in ấn không đươc phép, không có điều kiện để biên tập nghiêm chỉnh, nên xin quý bạn đọc hiểu cho những sơ xuất khó tránh khỏi.

 Thân mến gửi lời chào tạm biệt.

Bên dưới “mấy dòng ngắn ngủi” thượng dẫn là phản hồi của hàng ngàn người đọc, với tất cả sự trân quý (và xót xa) khi được biết về tình trạng sức khỏe không mấy khả quan của tác giả. Xin phép ghi lại dăm ba, theo thứ tự alpha:

  • Nguyễn Lâm Cẩn: “Kính chúc bác hồi phục sức khỏe. Những trang viết của bác bạn đọc rất trân trọng.”
  • Nguyễn Văn Cung: “Anh luôn là người mà tôi trân quý.”
  • Lê Đăng Ngô Đồng: “Con không ngờ sẽ vắng bóng của bác. Con chúc bác mau bình phục và mong sẽ còn được đọc bài viết của bác!”
  • Đỗ Việt Khoa: “Thương bác.”
  • Huỳnh Văn Hoa: “Mong anh mạnh khoẻ, an lành.”
  • Phạm Phú Thanh: “Trước đây, nhờ được đọc những bài viết của bác mà tôi đã được sáng mắt ra, đầu óc bớt tăm tối ngu muội…vô cùng cảm ơn bác.”
  • Võ Thiêm: “Kính chúc bác khỏe mạnh, sống an vui trong những ngày tới.”
  • Chau le Van: “Sáng ngời Một Sĩ phu Bắc hà! Còn nhiều lớp Người tiếp nối anh !”

Tôi cũng tin như thế (“nhiều người sẽ tiếp nối anh”) dù chân thật và bất khuất là hai đức tính hiếm hoi của người Việt hiện nay. Đứng thẳng làm người gần như là điều cấm kỵ ở xứ sở này, và những người không gù (hay còn chút liêm sỷ tiết tháo)  đều bị nhà nước hiện hành trù dập hay trấn áp.

Cuộc sống gian truân và bất an thường trực của Hà Sĩ Phu chỉ là một tấm gương tiêu biểu. Cuộc tuyệt thực hiện nay của tù nhân lương tâm Lê Trọng Hùng cũng thế. Đây cũng chỉ là một trường hợp điển hình của một người ở thế hệ tiếp nối, nhất quyết “đi dưới tấm biển chỉ đường của trí tuệ” bằng mọi giá, kể cả khi ông đang bị giam cầm.

Trang FB của Dự Án 88 (The 88 Project) cho biết:

Ông sinh 1979, quê Yên Bái, là một giáo viên dạy sinh, hóa tại Lào Cai. Sau đó, ông chuyển về Hà Nội tiếp tục dạy học tại một ngôi trường cấp 2 và học thêm ngành luật. Năm 2015, ông quyết định thôi việc sau khi lá đơn yêu cầu cải cách giáo dục, đòi hỏi những lợi ích chính đáng cho học sinh của ông bị từ chối.

Năm 2017, Lê Trọng Hùng bắt đầu đưa tin với tư cách là một “nhà dân báo” trên Facebook và YouTube, bình luận về các vấn đề chính trị – xã hội và tư vấn cho dân oan cách kiến nghị, khiếu kiện lên các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước. Ông tự bỏ tiền túi ra để mua hàng ngàn cuốn Hiến Pháp Việt Nam, tặng cho nhiều người và giảng giải cho họ về những điều quy định trong hiến pháp, pháp luật. Ông là một con người giàu lòng nhân ái, từng nhiều lần hiến máu nhân đạo để cứu người.

 Trước khi bị bắt, Lê Trọng Hùng đã kịp ghi danh và có Thẻ đăng ký hiến mô, tạng cho “Trung tâm Điều phối Ghép tạng Quốc gia”. Đây không chỉ là một nghĩa cử cao đẹp, mà còn thể hiện suy nghĩ rất tiến bộ trong bối cảnh xã hội Việt Nam còn tồn tại nhiều quan điểm lạc hậu về cái chết, về các hủ tục trong đời sống tâm linh.

 Lê Trọng Hùng bị bắt ngày 27/3/2021, vài ngày sau khi nộp đơn tự ứng cử và chỉ 2 tháng trước khi cuộc bầu cử được tiến hành. Ngày 31/12/2021, ông bị kết án 5 năm tù giam, 5 năm quản chế bởi một tội danh hết sức mơ hồ “Tuyên truyền chống nhà nước.”

 Ông Hùng có vợ là bà Đỗ Lê Na, một người khiếm thị và là giáo viên dạy văn tại trường khiếm thị Nguyễn Đình Chiểu. Năm 2015, tờ Công An Nhân Dân (cơ quan ngôn luận của ngành công an) số ra ngày Thứ Năm 29/10 đã có bài báo với tựa đề “Chuyện tình đẹp như cổ tích của cô giáo khiếm thị” để ca ngợi mối tình cảm động của hai người.

 Trước khi ông Hùng bị bắt, vợ chồng ông cùng hai con sống cuộc sống nghèo khó nhưng đầm ấm trong một căn nhà nhỏ tại Hà Nội. Khi bài viết này đến với bạn đọc, ông Hùng đã bước sang ngày thứ 6 của cuộc tuyệt thực, dự định kéo dài đến ngày 9/11/2023.

 Ông tuyệt thực để đề nghị tòa án mở lại phiên phúc thẩm; yêu cầu Trại giam số 6 -Thanh Chương, Nghệ An tôn trọng quyền lợi chính đáng của tù nhân; đề nghị các đại biểu Quốc hội vào nhà tù gặp ông với mong muốn thành lập Tòa án Bảo Hiến.

Tòa Án Bảo Hiến hay Tòa Án Hiến Pháp lập ra để bảo vệ nguyên tắc của hiến pháp, để kiểm tra, và quyết định xem các điều luật có vi hiến hay không. Nhà đương cuộc Hà Nội, hẳn nhiên, hoàn toàn dị ứng với định chế pháp luật này vì họ biết rõ rằng Điều 4 Hiến Pháp (“khẳng định vai trò độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản”) vi hiến một cách thô bạo và trắng trợn.

RFA nhận định: “Tòa Bảo Hiến là ước mong của tất cả mọi người, đặc biệt là trong giới luật gia ở Việt Nam. Người ta trông chờ có tòa Bảo Hiến để có thể loại bỏ những bản văn luật pháp vi hiến. Tuy nhiên cho đến nay, đây chỉ là mong ước.”

Niềm ước mong này – xem ra – còn rất xa và mỗi lúc sẽ một thêm xa, nếu đất nước không có những người cương trực (và cương quyết) như Lê Trọng Hùng. Ông không còn gì ngoài mạng sống nhưng đã không ngại dùng đến thứ vũ khí cuối cùng để đòi hỏi công lý cho tất cả, chứ không chỉ riêng mình.

Ngày 24 tháng 9 năm 2023, sau “Chuyến Thăm Chồng Sau 21 Ngày Tuyệt Thực”,  Tử Đinh Hương (bút danh của bà Đỗ Lê Na, người bạn đời của ông Lê Trọng Hùng) đã gửi đến “cô chú, anh chị” những dòng chữ thống thiết như sau – qua FB:

Tử Đinh Hương tự hỏi: tình hình này phải chăng không chỉ các đại biểu quốc hội quyết định nhắm mắt làm ngơ, bỏ mặc nguyện vọng và tính mệnh của cử tri mình mà cả hệ thống này đang vô cùng hổ thẹn, đuối lý nên quyết tâm không biết, không nghe thấy gì để khư khư giữ lấy lợi ích của mình? Chỉ đáng thương, đáng tiếc cho một công dân hết lòng vì Tổ quốc đang bị hàm oan, đọa đầy và những đứa trẻ vô tội đang ngày ngày hãi sợ có thể bị mất đi người bố thương yêu!

Ps: Thỉnh cầu cô chú, anh chị, ai biết Fb hoặc số điện thoại của bà Lê Thị Nga (chủ nhiệm Ban tư pháp quốc hội), ông Lưu Bình Nhưỡng “”phó trưởng Ban dân nguyện), bà Dương Ngọc Ánh, ông Nguyễn Phi Thường, Nguyễn Ngọc Tuấn (đoàn đại biểu quốc hội Hà Nội) hãy vui lòng gửi link bài viết này đến họ. Đây là nguyện vọng tha thiết của anh Lê Trọng Hùng, cũng là sự cậy nhờ của Tử Đinh Hương…!

Tôi thì không tin rằng đây chỉ là “nguyện vọng tha thiết” của riêng ông Lê Trọng Hùng hay bà Đỗ Lê Na. Chả lẽ người Việt không còn ai khác quan tâm đến vận mệnh của quê hương, dân tộc và thân phận của chính họ (cùng con cháu) hay sao?

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Dang

Ba’o DAN CHIM VIET

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

02/10/2023

Tên đúng của ông có thể là “Đăng,” “Đặng,” “Đằng,” hay “Đáng,” hoặc “Đang” (người Việt không mấy ai tên “Dang”) nhưng tôi không dám chắc vì chỉ được biết qua một bài báo bằng tiếng nước ngoài (“Han ble smuglet inn i Norge i et bagasjerom. Et halvt år senere ble han pågrepet på en hasjplantasje”) đăng tải trên tờ Aftenposten, phát hành từ Na Uy, vào ngày 27 tháng 8 năm 2021.

Bản tiếng Việt (gồm 4371 từ) của dịch giả tên Trang, xuất hiện trên FB Nhân Văn Việt – Na Uy mấy hôm sau đó. Xin được tóm lược:

“Dang” cho biết quê anh là làng chài Đô Thành, thuộc miền Trung Việt Nam. Từ nơi đây, nhiều thanh niên Việt Nam đã đi lậu trong các xe container xuyên qua Trung Quốc, rồi vượt biên giới vào Nga (Russland), trước khi trở thành nhân công lao động giá bèo hoặc gái mại dâm ở các thành phố Châu Âu.

 Trên hành trình dài 11.660 km đến Na Uy, “Dang” trốn trong một thùng container sau xe tải. Đến ngày hôm nay, anh vẫn còn ám ảnh trong giấc mơ về những điều khủng khiếp mà anh đã thấy trên tuyến đường đó…

 Ô nhiễm môi trường, đánh bắt cá quá mức và bất hợp pháp, công nghiệp hóa ngày càng phát triển đã dẫn đến tình trạng rất khó khăn cho ngành ngư truyền thống ở Việt Nam. Đối với đại gia đình của “Dang”, giải pháp cuối cùng là gửi cậu con trai lớn nhất trong một chiếc container đến Tây Âu. “Dang” cho biết gia đình đã phải thế chấp căn nhà và bán tất cả những gì đáng giá để trả tiền cho nhóm buôn người.

Tôi ra đi để tìm một cuộc sống tốt hơn. Nhưng nếu tôi biết trước kết quả thế này, tôi thà chọn cuộc sống một ngư dân nghèo. Theo “Dang” biết, gia đình đã thỏa thuận giá 25.000 USD với nhóm buôn người. Và đã trả trước một nửa.

“Dang” – người đàn ông 25 tuổi – kể lại cuộc hành trình phải đi xuyên qua Trung Quốc, Nga, Latvia, Belarus (Hviterussland) và Ba Lan. Theo “Dang”, chiếc container mà đoàn của anh đi chỉ có hai lỗ thoát khí nhỏ. Họ phải tiểu tiện và đại tiện trong một túi nhựa lớn.

Tháng 2/2021, “Dang” bị kết án 2 năm tù và phải bồi thường gần 100.000 kroner cho một công ty điện lực của Na Uy vì đã ăn cắp điện để trồng 649 cây cần sa. Bản án được giữ nguyên tại Tòa Phúc Thẩm Eidsivating vào tháng 6/2021, nhưng được giảm xuống còn 1 năm 9 tháng.

 Ngày 19 tháng 8/2021, Tòa Án Tối Cao Høyesterett đã bác đơn kháng cáo của “Dang”. Luật sư biện hộ Audun Helgheim nói rằng họ sẽ kháng cáo vụ việc lên Tòa Án Nhân Quyền Châu Âu. Câu hỏi chánh và gây tranh cãi ở đây là: “Dang” là tội phạm hay nạn nhân!?

Tòa án quận Gjøvik viết trong bản án từ tháng 2: Tòa án căn cứ theo yếu tố bị cáo, sau khi đến Na Uy, ít nhất là bởi bị lạm dụng hoàn cảnh bí thế của mình, đã bị buộc phải trồng cần sa. Điều này dẫn chứng cho thấy bị cáo là nạn nhân của nạn buôn người”…

 UDI (UtlendingsDIrektorate) đã xét đơn theo lời khai của “Dang”. Trong giấy phép cấp cho anh được cư trú tạm thời tại Na Uy (midlertidig oppholdstillatelse), viết là họ tin rằng có thể lý giải được là anh đã bị hại trong vụ buôn người.

Rosa, một tổ chức hỗ trợ những người có thể là nạn nhân tệ nạn buôn người, cũng tích cực trong vụ án của “Dang”. Mildrid Mikkelsen của hội Rosa cho rằng việc bỏ tù một người cùng lúc với việc điều tra xem người đó có phải là nạn nhân buôn người là điều chúng ta cần phải suy ngẫm…

 Điều “Dang” lo sợ là anh sẽ bị trả về Việt Nam. Luật sư biện hộ Audun Helgheim cho biết: Về Việt Nam, anh có nguy cơ bị thủ phạm ám hại, do những gì anh đã khai… Tương lai ở Việt Nam của người đàn ông trẻ Việt Nam này, là một sự mịt mù. Nếu tôi về nhà, có lẽ tôi sẽ bị giết. Và ở đó, tôi cũng không còn gì. Trong cuộc thẩm vấn với cảnh sát vào ngày 22 tháng 6 năm nay, “Dang” nói anh như một người đã chết: Tôi không còn gì để sống nữa. Tôi chỉ ước ao có thể gặp lại mẹ một lần.

Câu nói thượng dẫn bỗng khiến tôi nhớ mấy câu thơ của Huyền Chi, và bản nhạc Thuyền Viễn Xứ của Phạm Duy: Nhìn về đường cố lý cố lý xa xôi/ Đời nhịp sầu lỡ bước bước hoang mang rồi …/ Mẹ già ngồi im bóng mái tóc tuyết sương/ Mong con bạc lòng …

Không biết có bao nhiêu bà mẹ Việt Nam vẫn đang ngồi tựa cửa mỗi chiều, và bao nhiêu thanh niên thiếu nữ từ xứ sở này đã “lỡ bước hoang mang” trên con đường lưu lạc. Điều an ủi duy nhất cho những kẻ tha phương cầu thực là không hề có một lời lẽ, cử chỉ, hay thái độ miệt thị nào từ người dân (cũng như từ những cơ quan hữu trách) ở nước ngoài.

Sáng sớm hôm 23 tháng 10 năm 2019, dân Anh vừa mở mắt dậy đã nhận được thông tin khiến ai cũng phải bàng hoàng: cảnh sát mới phát hiện ra 39 thi thể người Việt nằm chết trong một cái container tại khu công nghiệp Waterglade!

Họ phản ứng ra sao?

Không một lời than phiền, không một câu trách móc. Sau khi biết rõ sự việc, họ bầy tỏ sự thương cảm bằng cách lặng lẽ mang hoa tưởng niệm đến nơi đặt xác nạn nhân. Ngay sau đó, họ tổ chức cầu nguyện cho linh hồn của người quá cố. Rồi họ sắp xếp những chuyến bay để đưa tất cả thi hài của những kẻ xấu số trở về quê quán, và đích thân vị đại sứ Anh ở Việt Nam – ông Gareth Ward – đã đến tận nơi để chia buồn.

Người Na Uy bây giờ cũng thế. Từ luật sư, toà án, nha ngoại kiều, và các cơ quan thiện nguyện của họ đều chia sẻ một nỗi băn khoăn chung:“Dang” là tội phạm hay nạn nhân!?”

Có lẽ cả hai nhưng đồng bào của nạn nhân, tiếc thay, chỉ nhìn ra ông là một tên tội phạm :

  • Kieu Ninh Vaagen: “Nhìn mặt biết gian.”
  • Hoang Nguyen Van: “Nhìn mặt là biết lưu manh, là trùm du đảng, không là nạn nhân.”
  • Cuong Le: “Xứ này luật pháp văn minh và nhân bản nên các lão cứ thoải mái lợi dụng quyền làm người rồi khai ra làm sao cho thật đáng thương để được khoang hồng…”

Cá nhân “Dang” thì không hề có một lời biện minh, biện hộ hay biện bạch nào cả. Trong cuộc thẩm vấn với cảnh sát vào ngày 22 tháng 6 năm nay, ông chỉ nói: “Tôi không còn gì để sống nữa. Tôi chỉ ước ao có thể gặp lại mẹ một lần.”

Nỗi “ước ao” nhỏ bé này lại khiến tôi liên tưởng đến đôi câu đối thoại (giữa hai người đồng cảnh, từ hai phòng giam sát cạnh nhau, tại nhà tù nào đó ở Âu Châu) trong truyện ngắn của một nhà văn Việt Nam ở Na Uy:

Tuyết ho, tôi xót ruột. Ho xong, nó nói:“Em mơ còn nằm trong cái xe thùng chở em sang đây. Ðứa con gái nằm ngay bên cạnh em chết ngạt.”

 “Chết!?”

“Chết. Bị nhốt trong thùng xe hai ngày hai đêm. Khi bọn đầu gấu mở cửa xe ra, thấy bốn người chết từ bao giờ. Con ấy thân với em nhất. Chúng em đã từng chia phiên nhau kề mũi vào cái lỗ nhỏ để thở.

Thương hại nó hay nhường cho em thở lâu hơn. Dọc đường nó cứ đòi về, không muốn đi nữa. Nhưng em biết về thế nào được với bọn đường dây. Nó mà sống sót cũng bị đường dây hành tới chết về cái tội đòi về… Anh có nghe không đấy?”

“Nghe rõ cả.”

“Nó nói khổ đều quanh năm chịu được, dồn vào một ngày thì chết. Anh nghĩ có đúng không?”

“Chắc đúng.”

“Mẹ nó bán ruộng, bán vườn để chung tiền cho nó đi, cứ mong nó mang đôla về chuộc đất, xây nhà như những người có thân nhân Việt kiều. Bây giờ nó chết, chưa kịp nhìn thấy tờ đôla xanh. Trước khi chết nó tựa vai em lầm bầm ‘Mẹ ơi! Con không muốn làm Việt kiều. Con muốn về nhà. Con muốn cơ cực ở nhà với mẹ suốt đời.’ Giọng nó như đứa trẻ con ba tuổi.” (Tâm Thanh. “Người Rơm”. Thế Kỷ 21, Jul. 2010).

Đối với nhiều người dân Việt thì muốn sống như một ngư dân nghèo nơi vùng biển quê hương (như ông Dang) hay mong “muốn cơ cực ở nhà gần mẹ suốt đời” (như cô Tuyết) e đều chỉ là thứ ước mộng rất xa vời trong chế độ hiện hành.


 

Vạn Thịnh Phát của Trương Mỹ Lan lừa đảo hơn $1.2 tỷ từ 42,000 nhà đầu tư

Ba’o Nguoi-viet

October 2, 2023

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Theo Bộ Công An, kết quả điều tra xác định tập đoàn Vạn Thịnh Phát của bà Trương Mỹ Lan đã lừa đảo hàng chục ngàn nhà đầu tư thông qua “gian dối trong phát hành trái phiếu.”

Báo Thanh Niên hôm 2 Tháng Mười dẫn lời ông Nguyễn Văn Thành, phó cục trưởng Cục Cảnh Sát Điều Tra Bộ Công An, cho biết trong vụ án “lừa đảo chiếm đoạt tài sản,” xảy ra tại tập đoàn Vạn Thịnh Phát và các tổ chức có liên quan, hơn 42,000 nhà đầu tư đã bị lừa đảo, chiếm đoạt hơn 30,000 tỷ đồng ($1.23 tỷ) bằng hình thức “gian dối trong phát hành trái phiếu.”

Bà Trương Mỹ Lan là người sáng lập và giữ chức chủ tịch Hội Đồng Quản Trị tập đoàn Vạn Thịnh Phát. (Hình: Tuổi Trẻ)

Ngoài phát đi thông báo đề nghị bị hại đến làm việc, hợp tác điều tra, ông Thành cho hay Cục Cảnh Sát Điều Tra cũng truy theo hồ sơ đầu tư, lấy địa chỉ của từng bị hại và thông báo lại cho công an quận, huyện các địa phương để thông báo cho nạn nhân “sớm ra làm việc, phối hợp điều tra, bảo đảm quyền lợi cho mình.”

Trước đó hôm 7 Tháng Mười, 2020, bà Trương Mỹ Lan, 66 tuổi, người sáng lập và giữ chức chủ tịch Hội Đồng Quản Trị tập đoàn Vạn Thịnh Phát, bị Bộ Công An bắt giam với cáo buộc “lừa đảo chiếm đoạt tài sản.”

Bà Lan, tên khác là Trương Muội, được biết là “đại gia” lừng lẫy ở Sài Gòn, làm giàu nhờ “quan hệ thân hữu” với ông Lê Thanh Hải, cựu bí thư Thành Ủy. Hầu hết các khu “đất vàng” ở Sài Gòn đều thuộc sở hữu của tập đoàn Vạn Thịnh Phát.

Bà Lan bị bắt cùng bà Trương Huệ Vân, 34 tuổi, tổng giám đốc tập đoàn quản lý bất động sản Windsor, và hai thuộc cấp của bà Lan là bà Nguyễn Phương Hồng, 38 tuổi, trợ lý tập đoàn Vạn Thịnh Phát, và ông Hồ Bửu Phương, 50 tuổi, cựu chủ tịch Hội Đồng Quản Trị công ty cổ phần chứng khoán Tân Việt, cựu phó tổng giám đốc phụ trách tài chính tập đoàn Vạn Thịnh Phát. Tất cả đều bị cáo buộc cùng một tội danh.

Tin bà Lan bị bắt được công bố trong lúc người dân Sài Gòn ùn ùn kéo nhau đi rút tiền tại ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Sài Gòn (SCB), do bà này “được cho là nhóm cổ đông chính của ngân hàng SCB.”

Điều gây xôn xao công luận hơn là chỉ hai ngày sau khi bị bắt giữ, bà Nguyễn Phương Hồng “đột tử.” Một số báo như VietNamnet, Pháp Luật TPHCM, Vietstock… mau mắn đưa tin và đăng tải cả bản cáo phó, nhưng chỉ một hai giờ sau được lệnh gỡ hết.

Sau cái chết bí ẩn của bà Hồng, ông Nguyễn Tiến Thành, 49 tuổi, chủ tịch kiêm tổng giám đốc công ty Đầu Tư Chứng Khoán Tân Việt, một công ty con của tập đoàn Vạn Thịnh Phát, cũng lại bị “đột tử” bất ngờ.

Chưa dừng lại, đến 14 Tháng Mười, 2022, ông Nguyễn Ngọc Dương, 48 tuổi, giám đốc công ty Sài Gòn Penninsula và là cựu tổng giám đốc công ty Vạn Phát Hưng, hai công ty con của tập đoàn Vạn Thịnh Phát, “nhảy lầu” tự tử, theo báo cáo của nhà cầm quyền phường 2, quận 4, Sài Gòn.

Trước ba cái chết bất thường trong vụ án này, báo chí Singapore cho rằng có thể có “bàn tay gián điệp Trung Quốc.” Chồng bà Trương Mỹ Lan là ông Chu Lập Cơ (Eric Chu), một tài phiệt ở Hồng Kông, kinh doanh tài chính, địa ốc với tư bản gốc Hoa tại Singapore. Các tổ chức kinh tài này có thể có những liên hệ chằng chịt với thế lực, phe cánh chính trị ở Bắc Kinh.

Dư luận trên mạng xã hội thì cho rằng cả ba người, Nguyễn Tiến Thành, Nguyễn Phương Hồng và Nguyễn Ngọc Dương nắm nhiều bí mật trong các kế hoạch kinh doanh, thâu tóm bất động sản “đất vàng” của Vạn Thịnh Phát. Cho nên rất có thể họ đã phải “đột tử” để những cái người ta cần che giấu không bao giờ bị tiết lộ.

Người dân đổ xô đi rút tiền tại một chi nhánh SCB ở Hà Nội sáng 8 Tháng Mười, 2022. (Hình: Ngân Giang/Infonet)

Mới đây, theo nhật báo South China Morning Post hôm 22 Tháng Tám, giữa tình trạng hỗn loạn của thị trường bất động sản Hồng Kông và vụ bê bối liên quan đến người vợ Việt Nam, ông Eric Chu đang bán tống bán tháo bất động sản, bao gồm một khách sạn và các căn chung cư cao cấp.

Bất động sản thương mại của hai vợ chồng này ở Hồng Kông, trị giá khoảng 8 tỷ đô la Hồng Kông ($1 tỷ), được bán lại chỉ khoảng 1 tỷ đô la Hồng Kông trong thời gian vài tháng gần đây. (Tr.N)


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Trường Chinh

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

01/10/2023

 

Tôi tình cờ đọc được một bài viết thú vị (“Kiêu Ngạo Nhận Vơ”) của blogger Hà Hiển, với câu kết khá bất ngờ:

“Từ năm 1954 đến 1975, đúng là ‘ta’ đã chiến thắng được ‘hai đế quốc to’ cùng với được hơn chục nước trên thế giới đã đi theo con đường mà Lê nin đã chọn, tức theo CNCS, từ đó các Cụ nhà mềnh thấy CNCS ‘oách’ quá, cứ đà này cả thế giới gần 200 nước sẽ theo CNCS hết sạch, dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng của chủ nghĩa Mác Lê nin sẽ đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác rồi tiến lên giải phóng cả Hoa Kỳ, Ý, Đức, Anh, Pháp …abc… thoát khỏi ách bóc lột của CNTB …hu hu…!!!

Chủ nghĩa Marx - Lenin bách chiến bách thắng - Luật Khoa tạp chí

Một cuộc diễu hành chào mừng quân đội Bắc Việt tại miền Nam Việt Nam sau 30/4/1975.

Từ những nguyên nhân trên các Cụ lớn nhà mềnh mới sinh ra thói ‘Kiêu ngạo cộng sản’ tuy không tốt nhưng có cái để …kiêu ngạo, nhưng các cụ nối ngôi sau này chẳng có cái gì lận lưng để mà ‘kiêu ngạo’ cả. Chỉ là ăn theo thôi! Nên đúng là… ‘kiêu ngạo vì những cái không phải của mình’ hay còn gọi là ‘kiêu ngạo cộng sản!’ Sau Cụ Trường Chinh, nếu có thì chỉ là ‘kiêu ngạo nhận vơ!’ mà thôi!”

Nhận xét thượng dẫn về “Cụ Trường Chinh” khiến tôi chợt nhớ đến công trình biên soạn rất công phu (Bên Thắng Cuộc) của nhà báo Huy Đức. Tác giả đã dành nguyên một chương (chương 10, tập I) cho ông Trường Chinh, nhân vật được coi là đã đặt nền móng cho chính sách “đổi mới” và được mô tả như một vị thánh tử vì đạo:

“Trong những thời khắc khó khăn nhất của lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Trường Chinh đều đã có mặt: có khi là để lãnh đạo Việt Minh cướp chính quyền như hồi năm 1945, có khi đứng ra chịu trách nhiệm cá nhân về sai lầm của Đảng trong cải cách ruộng đất năm 1956, và trong thập niên 1980 là tự thức tỉnh và dẫn dắt Đảng thoát ra khỏi sự bế tắc bởi chính những đường lối của mình.”

Cách nhìn của những người ngoại đạo, hay đã bỏ đạo (cộng sản) lại hoàn toàn khác.

– Nguyễn Minh Cần:

“Sau khi Lê Duẩn chết, Trường Chinh lên làm TBT. Ông vốn là một ‘lãnh tụ’ nổi tiếng ‘giáo điều.’ Ngay cái biệt hiệu của ông cũng nói lên đầu óc sùng bái họ Mao… Cũng trên cương vị TBTĐCSVN, hồi những năm 50, Trường Chinh đã lãnh đạo cuộc cải cách ruộng đất CCRĐ và chỉnh đốn tổ chức (CĐTC) Ở NÔNG THÔN MIỀN Bắc rập khuôn theo hình mẫu trung quốc đã đem lại vô vàn tai hoạ cho nhân dân.” (Nguyễn Minh Cần. Đảng Cộng Sản Việt Nam. Arlington, VA: Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ, 2016).

– Vũ Thư Hiên:

“Về sau này, khoảng đầu thập niên 50, tôi tình cờ vớ được cuốn Chủ Nghĩa Mác Và Công Cuộc Phục Hưng Nền Văn Hóa Pháp của Roger Garaudy. Ðọc xong tôi mới ngã ngửa ra rằng ông Trường Chinh đáng kính của tôi đã làm một bản sao tuyệt vời của cuốn này trong trước tác Chủ Nghĩa Mác và Vấn Ðề Văn Hóa Việt Nam, được ca tụng như một văn kiện có tính chất cương lĩnh. Bố cục cuốn sách gần như giữ nguyên, thậm chí Trường Chinh trích dẫn đúng những đoạn mà Roger Garaudy trích dẫn Mác, Engels, và cả Jean Fréville.

Tiếp đó là sự phát hiện đáng buồn của tôi về cuốn Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Ðịnh Thắng Lợi. Nó quá giống cuốn Trì Cửu Chiến Luận (Bàn về đánh lâu dài) của Mao Trạch-đông, trừ đoạn mở đầu rất đẹp, là một áng văn rất hay …” (Vũ Thư Hiên. Đêm Giữa Ban Ngày. 2sd ed. Westminster, CA: Văn Nghệ, 1997).

Riêng trong lãnh vực thi ca thì Trường Chinh hoàn toàn không bị tai tiếng gì ráo trọi. Ông sáng tác mình ên, không “mượn” câu chữ nào – nửa chữ cũng không – bất kể là của Tây hoặc của Tầu. Thơ của Trường Chinh, với bút hiệu Sóng Hồng, chỉ có chút khuynh hướng (và hơi hướng) Mạc Tư Khoa thôi:

Hỡi thi sĩ! Hãy vươn mình đứng dậy!
Thời rượu nồng, đệm gấm đã qua rồi.
Thôi thôi đừng khóc gió với than mây,
Hãy nhịp bước trên con đường tiến bộ.
Dùng thi khúc mà lạnh lùng soi tỏ
Những bệnh căn xã hội đã tràn đầy;
Cùng công nông vun xới cuộc tương lai
Ðã chớm nở từ Liên-xô hùng vĩ.

(Ngoại thành Hà Nội, tháng 6-1942)

Hơn 40 năm sau, sau khi kêu gọi giới thi sĩ “cùng công nông vun xới cuộc tương lai,” đến năm 1986 (vào lúc cuối đời, chả hiểu sao) bỗng Anh Cả Trường Chinh đổi ý:

“Hoàng Ước, thư ký của Trường Chinh bảo tôi là một hôm Trường Chinh nói với mấy người giúp việc rằng ta trả cho người lao động đồng lương bóc lột. Hoàng Ước bèn nói lương chúng tôi chỉ đủ sống mười ngày.

Trường Chinh cau mày khó tin – bóc lột thì có nhưng sao lại có thể ác nghiệt hơn cả đế quốc đến thế – nhưng hôm sau ông bảo Hoàng Ước: Tôi đã hỏi nhà tôi, nhà tôi nói không có chế độ cung cấp đặc biệt thì lương ông cũng chỉ đủ cho nhà này ăn mười ngày. Sau đó Trường Chinh đến nhà máy thuốc lá Thăng Long nói: Phải cứu giai cấp công nhân!” (Trần Đĩnh. Đèn Cù II. Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Tiếc rằng ông không “tỉnh” được lâu. Chỉ hai năm sau, năm 1988, Trường Chinh đột ngột từ trần. Thôi thế cũng xong. Cuối cùng, rồi ông cũng thoát. Thoát khỏi cái XHCN do chính ông đã dụng công xây đắp nhưng giai cấp công nhân thì không. Họ kẹt: kẹt lớn, kẹt lắm, và (chắc chắn) sẽ kẹt luôn – nếu chế độ hiện hành vẫn tiếp tục tồn tại.

Báo Vietnamnet ái ngại cho hay: “Lương tối thiểu mới đáp ứng hơn 1/3 nhu cầu tối thiểu.” Và đó là mức lương cơ sở cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, chớ giới công nhân thì còn tệ hơn thế nữa!

Thế họ sống làm sao?

Thưa họ “ăn thịt mình để sống” – như nguyên văn lời Phó Viện Trưởng Viện Dinh Dưỡng Quốc Gia, PGS-TS Lê Bạch Mai:

“Những khảo sát của viện năm đó cho thấy chất lượng bữa ăn của công nhân không khác gì hai chữ “tồi tệ” khi trong khẩu phần ăn chỉ có 12% protein (chất đạm), 16% chất béo…

“Khi năng lượng khẩu phần ăn không đủ thì (cơ thể) phải sử dụng nguồn năng lượng dự trữ của mình. Khi đó khối cơ của người lao động bị bào mòn, bị lấy đi hằng ngày… và họ rơi vào thực trạng ‘như ăn thịt mình …’ Họ chưa chết đói. Nhưng sẽ đói đến lúc chết”.

Bản thân ông Trường Chinh (đôi khi) cũng đói, theo như lời của trưởng nam Đặng Xuân Kỳ – nguyên Ủy Viên Ban Chấp Hành Trung Ương:

“Ông cụ tôi ra ngoài không dám ăn uống bất cứ thứ gì. Họp Bộ chính trị với Trung ương cũng uống nước của nhà mang theo và nếu không về nhà ăn trưa được thì ông cụ nhịn.” (T. Đĩnh, trang 208).

Chung cuộc, may thay, ông Trường Chinh cũng đã cứu được chính mình. Ông qua đời vì tai nạn chứ không phải vì bị đầu độc – như rất nhiều đồng chí khác.

Nghĩa tử là nghĩa tận. Tôi đang không rảnh (lắm) và cũng chả thấy có chút hứng thú gì khi phải đụng chạm gì đến một người… đã chết. Vấn đề, chả qua, vì chẳng đặng đừng – như “lời trăng trối” của triết gia (ngoại đạo) Trần Đức Thảo:

Ta chỉ có thể thanh toán những điều xấu của quá khứ bằng cách thẳng thắn lôi nó ra ánh sáng của hiện tại, để cùng nhau nhận diện nó, để vĩnh viễn không cho phép nó tái diễn. Mà quá khứ cách mạng của ta thì đã tích tụ quá nặng nề những di sản xấu ấy.

Nạn cộng sản sẽ qua, và sắp qua. Chúng ta khó mà có thể tái thiết đất nước và xây dựng một tương lai ổn định nếu không nhìn cho thật rõ về quá khứ.

Chú Thích của Kẻ đi tìm:

 

undefined

Theo Wikipedia,

Những vụ giết người có chủ đích mà không phải do chiến tranh dưới chế độ cộng sản đã được ghi nhận lại.., cụ thể bao gồm:

      • Diệt chủng (Genocide)[1]
      • Thanh trừng chính trị (Politicide)[3]
      • Giết người thảm sát (Democide)[4]
      • Tội ác chống lại nhân loại (Crime against humanity)[5]
      • Thanh trừng giai cấp (Classicide)[6]
      • Khủng bố (Terror)[2]
      • Giết người hàng loạt (Mass killings)[7]
      • Communist Holocaust hay Red Holocaust[8] — nôm na có nghĩa là “Thảm họa Cộng sản”,

 


 

Đài Tưởng Niệm hơn 100 triệu nạn nhân của chế độ Cộng Sản ở các Quốc Gia trên toàn cầu

Từ Evergrand (Tàu) sang Novaland (Việt) – ngày tàn của một phương thức kinh doanh

Báo Nguoi-viet

September 29, 2023

Hiếu Chân/Người Việt

Đại công ty bất động sản Trung Quốc Evergrande (Trung Quốc Hằng Đại Tập Đoàn) một lần nữa gây rúng động dư luận hôm Thứ Năm, 28 Tháng Chín, khi thông báo chủ tịch công ty, tỷ phú Hứa Gia Âm (Hui Ka Yan), bị cảnh sát giam giữ tại gia đầu tháng này, hai viên quản lý hàng đầu khác bị bắt và cổ phiếu công ty lần thứ hai bị ngừng giao dịch trên thị trường.

Tỷ phú Hứa Gia Âm (Hui Ka Yan), chủ tịch đại công ty bất động sản Trung Quốc Evergrande. (Hình: STR/AFP via Getty Images)

Số phận của Hằng Đại đã u ám sau khi xin bảo hộ phá sản tại Hoa Kỳ hồi Tháng Bảy nay dường như đang đi dần tới chỗ sụp đổ hoàn toàn trong bối cảnh nền kinh tế Trung Quốc đang bắt đầu suy yếu.

Trong gần như cùng thời gian, tại Việt Nam, tập đoàn bất động sản Novaland – một trong vài công ty kinh doanh nhà đất lớn nhất nước – thông báo không trả được tiền lời cho lô trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn hồi Tháng Bảy và giá cổ phiếu của công ty đã giảm khoảng 26% trong tháng này.

Số phận tương đồng của tập đoàn Hằng Đại bên Trung Quốc và Novaland ở Việt Nam có thể là điềm báo ngày cáo chung của một phương thức kinh doanh từng phát triển mạnh mẽ nhờ gắn liền với chính sách công hữu về đất đai ở hai quốc gia “cộng sản anh em.”

Kinh doanh bất động sản ở Việt Nam – bắt chước y hệt Trung Quốc – là sân chơi của các đại gia câu kết với quan chức cao cấp của đảng và chính quyền để làm giàu trên mồ hôi nước mắt của “dân oan.” Nhờ đường lối “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý,” chính quyền cộng sản từ cấp tỉnh đến trung ương có toàn quyền “thu hồi” đất đai của người dân một cách tùy tiện, nhân danh phục vụ sự phát triển để bồi thường với giá rẻ mạt. Những mảnh đất đó được giao cho các công ty bất động sản “sân sau” xây dựng thành khu thương mại, khu dân cư và bán với giá cao ngất ngưởng. Các công ty này không nhất thiết phải đầu tư vốn liếng mà phần lớn dựa vào nguồn vốn vay của các ngân hàng (cũng do nhà nước sở hữu) hoặc huy động vốn qua việc bán trái phiếu ra công chúng.

Phương thức kinh doanh bất động sản – mà người trong nước gọi mỉa mai là “tay không bắt giặc” – diễn ra rầm rộ trong mấy chục năm qua, nhờ trào lưu chuyển dịch dân cư từ nông thôn lên thành thị, từ các thị xã thị trấn lên các thành phố lớn cùng với đà phát triển công nghiệp sau khi Việt Nam gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) năm 2006 (Trung Quốc tham gia WTO năm 2001). Bất động sản, cùng với các ngành phụ trợ như sản xuất vật liệu xây dựng, kinh doanh hàng nội thất chiếm đến 25%-30% tổng sản lượng nội địa (GDP) của Việt Nam và Trung Quốc, sử dụng hàng triệu lao động nên luôn được nhà cầm quyền các cấp ưu ái, tạo điều kiện thuận lợi để tăng trưởng.

Cái được của nó là làm thay đổi bộ mặt của các thành phố, dựng lên những khu dân cư cao tầng, tân tiến, nhôm kính lấp loáng và đường phố rộng rãi hơn, tráng lệ hơn. Nhưng cái mất là hàng vạn người nghèo bị đẩy ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn, trở thành “dân oan” đội đơn khiếu nại hàng chục năm, vất vưởng nơi vườn hoa, hè phố. Xây dựng ồ ạt nhưng không có quy chuẩn phù hợp khiến cho môi trường ở các thành phố bị phá hủy trầm trọng, cây xanh bị tận diệt, ngập lụt và kẹt xe trở thành chuyện thường ngày làm cho cuộc sống rất bức bối.

Sau nhiều năm “giải tỏa mặt bằng,” lấp cả ao hồ kênh rạch để phân lô bán nền thì đất đai càng lúc càng khan hiếm, giá nhà đất bị đẩy lên cao chót vót, vượt xa tầm tay của đa số người dân và hậu quả tức thời là nhiều khu nhà không bán được. Nhà đất bị tồn kho biến thành những “khu đô thị ma” cỏ dại mọc đầy trong khi vô số người nghèo không có chỗ ở, đa số công nhân phải chui rúc trong những dãy nhà trọ chật hẹp thiếu thốn các tiện nghi căn bản và dễ trở thành nạn nhân của Bà Hỏa như vụ cháy một chung cư mini ở Hà Nội làm 56 người thiệt mạng mới đây.

Trung Quốc nổi tiếng có những thành phố ma rộng lớn đến nỗi trong một hội nghị mới đây, một cựu quan chức cao cấp của chính phủ Bắc Kinh tiết lộ, số căn chung cư bỏ hoang ở Trung Quốc hiện đủ cung cấp chỗ ở cho khoảng 3 tỷ người, gấp đôi tổng dân số của nước này. Ở Việt Nam, không khó thấy những khu biệt thự bỏ hoang ở ngoại thành Hà Nội và nhiều thành phố khác, kể cả đảo Phú Quốc ở cực Nam đất nước.

Trở lại câu chuyện của Trung Quốc Hằng Đại – tập đoàn bất động sản có giá trị nhất thế giới: Những dấu hiệu sụp đổ của nó đã xuất hiện từ cuối năm 2021 do sản phẩm nhà đất không bán được, không có tiền để trang trải tiền lời và tiền vốn của khoản nợ lên tới 2,390 tỷ nguyên (yuan) (tương đương $310 tỷ), trong đó có $30 tỷ là nợ các nhà đầu tư nước ngoài. Hôm 17 Tháng Tám, tập đoàn Trung Quốc Hằng Đại nộp đơn lên tòa án New York xin phá sản theo Chapter 15, xin bảo vệ tài sản tại Mỹ trong thời gian thương lượng với các chủ nợ.

Hai năm qua, tình hình của Hằng Đại ngày càng tồi tệ khi con số thua lỗ tiếp tục tăng thêm 519.9 tỷ nguyên (tương đương $80 tỷ) và cổ phiếu của tập đoàn bị ngừng giao dịch trong 17 tháng.

Một tập đoàn bất động sản lớn khác của Trung Quốc – đại công ty Bích Quế Viên (Country Garden) – cũng lâm vào tình trạng bi đát khi thua lỗ hơn $7.6 tỷ chỉ trong nửa đầu năm nay, không có khả năng thanh toán khoản nợ hơn $200 tỷ.

Trung Quốc có khoảng 500 công ty bất động sản quy mô nhỏ hơn Hằng Đại và Bích Quế Viên, và tất cả đều đang trong tình trạng bi đát. Theo tính toán của Bloomberg trong bản tin ngày 26 Tháng Chín, các nhà phát triển bất động sản Trung Quốc đang trong tình trạng thiếu tiền thanh toán khoản nợ trị giá 19,000 tỷ nguyên ($2,660 tỷ), tương đương 15% GDP của nước này và có thể đi đến phá sản vào cuối năm nay.

Theo báo The New York Times, cuộc khủng hoảng ngành bất động sản Trung Quốc không chỉ gây đau đớn cho hàng triệu gia đình mà 70% tài sản của họ gắn liền với nhà đất mà còn làm lộ ra một tai họa khác trầm trọng không kém: Khủng hoảng tài chính khi nguồn tiền mà các ngân hàng Trung Quốc, đặc biệt là các “ngân hàng chui” (shadow banks) đổ vào các tập đoàn này có nguy cơ mất trắng. Đến khi ấy, phép lạ kinh tế Trung Quốc có nhiều khả năng sẽ kết thúc.

Nhìn sang Novaland ở Việt Nam chúng ta thấy diễn ra hiện tượng tương tự mà Bloomberg gọi là “tình trạng hỗn loạn trong lĩnh vực bất động sản.”

Hôm Thứ Ba, 29 Tháng Chín, Novaland thông báo công ty không trả được khoản tiền lãi $7.8 triệu cho trái phiếu doanh nghiệp kỳ hạn năm năm trị giá $298.6 triệu phát hành tại Singapore năm 2021 với phân lời 5.25%/năm. Công ty cam kết giải quyết bế tắc với những người nắm giữ trái phiếu ở nước ngoài trên “tinh thần hợp tác, nhằm tìm ra giải pháp tối ưu để bảo vệ lợi ích của các trái chủ,” cụ thể là đề nghị được miễn trả tiền lời trong thời gian hiện nay và tìm cách tổ chức lại khoản nợ cho phù hợp với khả năng tài chính hiện tại của công ty. Một nhóm các trái chủ – nắm giữ khoảng 75% tổng số nợ trái phiếu của Novaland – không đồng ý như vậy và cáo buộc Novaland “câu giờ,” gây tổn hại cho niềm tin và tài sản của họ. Trong bản tin hôm 26 Tháng Chín, hãng Bloomberg cho biết, trái phiếu chuyển đổi bằng đô la Mỹ của Novaland nói trên hiện chỉ được giao dịch ở mức 30 xu (cent) trên mỗi đô la giá trị, nghĩa là đã mất đi 70% so với giá phát hành.

Tháng trước Novaland cũng đã không trả được tiền lãi cho khoản nợ trái phiếu 1,000 tỷ đồng phát hành năm ngoái cho nhà đầu tư trong nước với lãi suất 11.5% và xin khất nợ thêm 17 tháng nữa.

Việt Nam có nhiều công ty bất động sản còn lớn hơn Novaland và tình trạng của chúng cũng không sáng sủa hơn. Do tình trạng số liệu thống kê thiếu thốn và mập mờ, khó biết được khối nợ của các công ty bất động sản Việt Nam là bao nhiêu, từ tiền vay ngân hàng, tiền huy động từ khách mua nhà và tiền thu từ phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

Trang mạng Vietnambiz ngày 8 Tháng Tám cho biết: “Theo số liệu của Ngân Hàng Nhà Nước, dư nợ tín dụng cho lĩnh vực bất động sản tính đến cuối Tháng Năm đạt gần 2.7 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 3.4% so với cuối năm 2022 (2.58 triệu tỷ đồng),” trong đó riêng các công ty bất động sản nợ khoảng 925,796 tỷ đồng ($38 tỷ). Đáng lưu ý là theo tính toán của các chuyên viên tài chính, các công ty bất động sản ở Việt Nam vay nợ nhiều hơn hàng trăm lần so với tiền vốn chủ sở hữu, cho nên khi thị trường biến động theo hướng xấu thì khả năng xảy ra vỡ nợ là rất cao.

Truyền thông quốc tế đã liên tục cảnh báo về tình trạng bi đát của ngành bất động sản Trung Quốc và tác động tiêu cực đến kinh tế toàn cầu nhưng ít ai chú ý đến hiện tượng tương tự ở Việt Nam. Tương lai mù mịt của các công ty bất động sản lớn như Hằng Đại, Bích Quế Viên hoặc Novaland không phải là ngẫu nhiên mà là hậu quả của một phương thức kinh doanh bất hợp lý hình thành và được dung dưỡng trong chế độ toàn trị và nền kinh tế tư bản bè phái. [qd]


 

Thi hành án hay giết người?

Ba’o Tieng Dan

26-9-2023

May be an image of 3 people, mango and text

Mấy nghìn ngày bị đày đoạ, nếu không oan thì một người tử tù phải kêu oan để làm gì? Nếu không oan mà kêu oan thì cũng chính là làm khổ gia đình vốn đã quá khổ của mình. 7 phiên toà mở ra, bao lần bị bác vì chứng cứ, lời khai không lo-gic vậy mà vẫn đang tâm thi hành án.

Với tôi, đây là một vụ giết người chứ không phải thi hành án. Lần nào ra toà, Lê Văn Mạnh cũng phản cung, tố cáo việc bị đánh đập, ép cung, chứng cứ duy nhất là cái quần đùi bị rách, Mạnh xấu hổ bỏ đi sau khi lặn tìm bé gái nghi bị đuối nước và bức thư ép phải viết khi bị đánh đập trong tù.

Lá đơn dưới đây do tử tù Lê Văn Mạnh viết vào khoảng tháng 9/2014.

***

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

ĐƠN XIN THI HÀNH ÁN

Kính gửi: Ông Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Họ tên tôi: Lê Văn Mạnh.

Sinh ngày: 25-12-1982.

Sinh trú quán: Thôn 4, xã Yên Thịnh, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.

Dân tộc: Kinh.

Tôn giáo: Không.

Trình độ văn hoá: 9/12.

Ngày 20/4/2005 tôi đã bị Cơ quan Điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa bắt tạm giam với hai tội danh hiếp dâm và giết người.

Án phạt: Tử hình.

Hiện nay tôi đang bị giam giữ tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa.

Sau đây tôi xin trình bày nội dung đơn xin thi hành án.

Kính thưa ông Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Tôi bị bắt oan về hai tội hiếp dâm và giết người. Qua 3 lần xét xử sơ thẩm, 3 lần phúc thẩm, 1 lần giám đốc thẩm tuyên hủy án, 1 lần không chấp nhận đơn xin giám đốc thẩm của tôi. Hiện tôi đã có gửi rất nhiều lá đơn kêu oan lên các cơ quan có thẩm quyền của pháp luật và cũng đã có gửi nhiều đơn kêu oan lên ông Chủ tịch nước. Và cũng đã có gửi đơn xin xử tái thẩm nhưng đã mấy năm không thấy tin tức gì.

Kính thưa ông Chủ tịch nước, bản thân tôi không gây nên tội lỗi mà phải chịu nỗi oan này gần 10 năm qua.

Vâng! Thưa ông Chủ tịch nước, đó là cả một quá trình dài, rất dài và toàn thể gia đình tôi đã phải gánh chịu sự thống khổ do nỗi oan sai này gây ra.

3433 ngày đêm tôi bị đày đọa thân xác, tâm hồn trong căn buồng biệt giam cùm kẹp suốt ngày đêm. Thân xác tôi ngày đêm đau nhức không sao chịu nổi. Sức chịu đựng của con người là có hạn và đến ngày hôm nay thì sự thống khổ này, sự đau đớn này đã vượt ra ngoài sự chịu đựng mà con người tôi có thể chịu đựng được. Sắt thép ép mãi cũng cong, phải gãy, huống gì tôi là con người bằng da bằng thịt. Và đến ngày hôm nay vì nỗi oan này của tôi mà đến ngày hôm nay gia đình tôi tan nát không còn gì cả.

Gia đình tôi vốn đã nghèo khó lại còn phải cưu mang tôi ở trong tù này. Nay càng trở nên vô cùng khó khăn, làm tôi càng thêm đau đớn biết bao khi bố mẹ sinh thành, các em, các con tôi ngày ngày phải sống trong đói rách tất cả chỉ vì nỗi oan của tôi gây ra.

Kính thưa ông Chủ tịch nước, là con người ai chả muốn được sống. Con chó, con mèo là giống súc sinh còn muốn sống, huống gì tôi mang thân phận một kiếp người. Nhưng hôm nay đây tôi phải viết lá đơn này kính gửi lên ông Chủ tịch nước để xin được chết thì ông hiểu được rằng sự thống khổ mà nỗi oan sai này gây ra cho tôi khủng khiếp như thế nào.

Qua những lần gia đình thăm tôi có cho tôi biết tình hình những vụ án oan đã được minh oan hoặc chưa được minh oan như vụ Nguyễn Thanh Chấn và một vụ án của anh Long – ở tỉnh Bắc Giang cũng mang án tử hình và vụ vườn mít của Lê Bá Mai ở tỉnh Bình Phước và vụ án oan của chính bản thân tôi thì tôi thấy rằng các vụ án oan này đều xảy ra vào khoảng năm 2004-2005 và cũng có những điểm rất giống nhau đó là đều bị bắt oan, bị đánh đập, tra tấn dã man để ép cung và bắt phải nhận tội oan, bắt phải viết đơn tự khai, tự thú, bắt phải viết thư về cho gia đình để lấy làm bằng chứng.

Vụ án đã được xử đi xử lại nhiều lần mà không giải quyết dứt điểm được vụ án vì cơ quan pháp luật cố tình làm mọi cách để buộc tội oan cho chúng tôi và có thể nói vụ án của Nguyễn Thanh Chấn thì ông Chấn đã vô cùng may mắn khi được minh oan. Qua các vụ án oan này trên cả 3 miền Bắc – Trung – Nam của đất nước thì tôi thấy cách điều tra để tìm mọi cách buộc tội chúng tôi cho ký bằng được không cần biết đến đúng sai đã trở thành hệ thống dây chuyền trên cả nước rồi chứ không phải riêng tỉnh, thành nào.

Những vụ án được minh oan thì toàn là hung thủ thật sự của vụ án bị cắn rứt lương tâm mà đi đầu thú hoặc là bắt được thủ phạm thật sự của vụ án rồi thì mới bắt buộc phải cho mình oan thì hệ lụy của một vụ án oan là quá lớn. Nó không chỉ một cán bộ viên chức phải gánh chịu mà là nhiều con người trong 3 cơ quan công an – viện kiểm sát – tòa án nhân dân phải chịu trách nhiệm với nỗi oan sai đó.

Mà những vụ oan án có mức án tử hình như của tôi nếu được minh oan thì sẽ gây chấn động lớn với dư luận vậy thì ngành tư pháp Việt Nam sẽ như thế nào? Cho nên dù các cán bộ các cơ quan có thẩm quyền cho dù có biết chúng tôi bị chết oan thật sự thì cũng không ai đứng ra chủ trì để minh oan cho chúng tôi cả.

Cho nên chúng tôi chỉ sống và hy vọng vào lương tâm của con người. Hy vọng rằng lương tâm của những kẻ nào gây án thật sự thức tỉnh và ra đầu thú trước pháp luật để chúng tôi được minh oan. Nhưng tỷ lệ đó của sự thức tỉnh lương tâm đó là quá thấp, tỷ lệ chỉ có 1/tỷ thôi, tôi nghĩ vậy. Và tôi cũng đã hy vọng vào điều đó và đã rất cố gắng để chờ đợi trong 3433 ngày vừa qua và đã phải gánh chịu sự thống khổ vô cùng khủng khiếp này.

Khi vụ án oan được minh oan thì Quốc hội họp lên xuống, xã hội phẫn nộ càng lên án thì các vụ án oan như của tôi càng bị giấu nhẹm đi, càng bị dập đi không thương tiếc. Giờ đây khi tôi đã chết sớm đi một ngày, gia đình tôi sẽ vơi bớt đi gánh nặng một ngày.

Le Van Manh’s case - Dân Làm Báo

Gia đình kêu cứu cho anh Lê văn Mạnh

Sống trên đời chết không phải là điều đáng sợ nhất mà phải sống trong sự chờ chết mới là điều khủng khiếp nhất. Vậy mà tôi đã phải chịu cái sự khủng khiếp đó suốt 3433 ngày trời rồi.

Vậy nên tôi tha thiết cầu xin ông Chủ tịch nước cho tôi được chết một ngày gần nhất. Đã nhiều đêm tôi phải sống trong sự chán nản vô cùng và tự mình muốn tìm đến cái chết như các anh Cường, Biền. Họ cũng là tử hình như tôi nhưng đã không chịu được sự thống khổ trong môi trường biệt giam này mà treo cổ tự tử.

Nhưng mỗi lần tôi muốn tự tử chính bản thân mình thì tiếng trẻ thơ của 2 đứa con tôi lại vang lên trong đầu rằng “Bố ơi, đừng bỏ các con” làm cho người cha như tôi như đứt từng khúc ruột, như xát muối vào vết thương lòng tôi và tôi đã luôn tự nhủ là mình phải cố gắng.

'Hoãn thi hành' án tử hình Lê Văn Mạnh - BBC News Tiếng Việt

Ai là kẻ sát nhân Lê Văn Mạnh?

Ba’o TIENG DAN

Đặng Đình Mạnh

26-9-2023

Sau 8 năm yên ắng, đột nhiên, vụ án oan Lê Văn Mạnh trở lại gây xôn xao dư luận vào ngày 18/09/2023 bằng văn bản Thông báo về việc thi hành án tử hình số 26/TB-HĐTHATH, do bà Nguyễn Thị N., Chánh Án Tòa án Nhân dân tỉnh Thanh Hóa ký, gởi cho gia đình Lê Văn Mạnh.

Chỉ 4 ngày sau, mặc cho công luận, luật sư, cơ quan ngoại giao nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế lên tiếng, Hội đồng thi hành án tử hình tỉnh Thanh Hóa mang tử tù oan Lê Văn Mạnh ra hành hình bằng biện pháp tiêm thuốc độc vào lúc 8h45’ sáng ngày 22/09/2023 vừa qua.

Theo đó, một số bạn đã nêu ý kiến chỉ trích bà Nguyễn Thị N., Chánh Án Tòa án Nhân dân tỉnh Thanh Hóa, người ký văn bản Thông báo về việc thi hành án tử hình số 26/TB-HĐTHATH, vì cho rằng bà phải chịu trách nhiệm về việc tử hình tử tù oan.

Tôi e rằng các bạn đó đã chỉ trích nhầm người chịu trách nhiệm. Vì lẽ, với tầm vóc một vụ án oan đến mức độ đã phải xét xử 7 lần qua 7 phiên tòa. Trong đó, có kháng nghị của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao nhận định gần như phủ nhận vụ án, như: “chưa có cơ sở vững chắc để kết luận Lê Văn Mạnh phạm tội Giết người, Hiếp dâm trẻ em”, thì vụ án đã hoàn toàn nằm ngoài thẩm quyền quyết định của các cơ quan tư pháp tỉnh Thanh Hóa, mà lúc này, thẩm quyền quyết định thuộc về các cơ quan trung ương.

Chứng minh điều này khá đơn giản. Nếu đọc kỹ văn bản Thông báo về việc thi hành án tử hình số 26/TB-HĐTHATH công chúng sẽ dễ nhận ra vấn đề này. Tại phần nêu các căn cứ của văn bản, thì hầu hết là các văn bản có từ thời điểm trước năm 2015 và đến năm 2015, là thời điểm tạm ngưng thi hành án tử hình. Tuy nhiên, tại gạch đầu dòng thứ 3 có nêu căn cứ vào Công văn số 189/TANDTC-V1, ngày 11/08/2023 của Tòa án Nhân dân Tối cao. Chính Công văn số 189, ngày 11/08/2023 của Tòa án Nhân dân Tối cao mới là văn bản chỉ đạo giết người dưới danh nghĩa tử hình.

Ảnh trên mạng

Tôi nói ra nơi chỉ đạo, các bạn tiếp tục đoán ra người chỉ đạo nhé? Và đó mới đích thị là kẻ “sát nhân”. Lúc này, hắn đang mỉm cười đắc thắng vì ý nguyện của công chúng đối với hắn, hóa ra chả là “cái đinh” gì sất.

Tôi đã từng nghe “Tử hình sạch đám kêu oan, thì sẽ không còn án oan nữa!!!” cứ nghĩ là câu đùa quá trớn. Hóa ra, nó là chủ trương. Cho nên, sau khi giết Lê Văn Mạnh như một phép thử, mà công chúng vẫn bàng quan, thì sẽ đến lượt Nguyễn Văn Chưởng, Hồ Duy Hải…

Như thế, với vụ Lê Văn Mạnh, tỉnh Thanh Hóa chỉ còn thẩm quyền là người thừa hành lệnh để “bấm nút” tiêm thuốc độc vào người tử tù theo quyết định từ “trển” mà thôi.

Như thường lệ, không ai trách đao phủ thủ mà lại miễn trách cho kẻ ra lệnh bao giờ?

 


S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Trần Đại Quang

Ba’o DAN CHIM VIET

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

19/09/2023

Năm 2006, khi chỉ mới có tin bác Triết sắp trở thành chủ tịch nước (thôi) mà dư luận – trong cũng như ngoài nước – đã râm ran tán thưởng quá xá. Ký giả Karl D John (Asia Times) hăm hở đưa tin :

Nguyen Minh Triet, 63, another southerner, was confirmed as president by the National Assembly on Tuesday… And there is a widespread perception he will be more active than his predecessor, particularly in implementing economic and legal reforms that pave the way for Vietnam’s accession to the World Trade Organization (WTO) this year.” Theo nhận xét chung thì ông sẽ năng nổ hơn người tiền nhiệm, đặc biệt trong lĩnh vực cải tổ kinh tế và pháp luật, làm nền cho VN gia nhập tổ chức WTO trong năm nay.”

Bác Quang, tiếc thay, không có được sự chào đón nồng nhiệt tương tự. Chả những thế, ông còn bị nhiều điều tiếng gièm pha hay dè bỉu :

– Bùi Thanh Hiếu: “Không ồn ào gây chú ý, bộ trưởng công an Trần Đại Quang leo lên chức Chủ Tịch Nước một cách êm thắm không gặp phải bất kỳ sự trở ngại nào. Con đường của Trần Đại Quang tiến thân trong ngành công an cũng khá suôn sẻ… Con đường của Quang đi chỉ gặp sóng gió duy nhất một lần đó là bị các đối thủ vạch ra chuyện Quang khai gian đến 6 tuổi.”

– Lê Minh Nguyên “Đầu tiên phải nói là ông ta sửa lại khai sinh để từ năm đúng là 1950 thành năm giả là 1956, một sự gian dối dễ chứng minh qua các văn bản hộ tịch và bằng cấp bị so le, nó nói lên tính toán tham vọng quyền lực của ông ta.”

– Trần Hồng Tâm: “Ông Trần Đại Quang, sinh năm 1956, vẫn còn dưới 65 tuổi. Nhưng có người đã chứng minh rằng ông sinh năm 1950. Ông đã sửa số 0 thành số 6 trên giấy khai sinh. Sau khi bị tố giác, ông đã sử dụng ảnh hưởng của mình tại nguyên quán làm ra một giấy khai sinh mới ‘hợp lệ’ hơn. Riêng tiêu chuẩn đầu tiên về tuổi tác ông đã để lại không ít tai tiếng.”

Cả ba nhân vật̉ dẫn thượng – rõ ràng – đều là những người không đủ lượng bao dung. Họ đều để ý đến cái chi tiết rất nhỏ nhặt (“sửa số 0 thành số 6”) trên tờ giấy khai sinh của bác Quang, rồi cứ thế mà vu vạ đó là việc làm thiếu lương thiện và vô cùng tai tiếng.

Tai tiếng (mẹ) gì! Chớ có ai biết vị chủ tịch đầu tiên của Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà – Hồ Chí Minh – tên tuổi (chính xác) ra sao đâu mà toàn dân vẫn đời đời nhớ ơn bác Hồ vỹ đại đấy thôi. Nói gần nói xa, chả qua nói thiệt là thiên hạ chỉ vì ganh ghét với cái chức vụ cao quí (Chủ Tịch Nước) của bác Quang nên mới cố vạch lá tìm sâu hay bới bèo ra bọ.

Riêng ông Nguyễn Gia Kiểng lại còn đi quá xa khi cho rằng “một chủ tịch nước như ông Trần Đại Quang khác gì một vết lọ nghẹ quẹt lên mặt dân tộc Việt Nam?”

Ơ hay, sao lại thế nhỉ? Về ngoại hình, bác Quang đâu có kém cạnh gì bác Triết. Còn về diện mạo thì trông đỡ tối tăm hơn bác Sang thấy rõ, đúng không? Sao hai bác kia nhậm chức suôn sẻ, và hạ cánh an toàn mà bác Quang lại bị coi như là “một vết lọ nghẹ quẹt lên mặt dân tộc Việt Nam” – hả Giời?

Ông Nguyễn Gia Kiểng còn nhất định cho rằng: “Trong nhà tù nhiều khi tù nhân phải trả tiền để ‘được’ còng bằng những chiếc còng không nhiễm trùng HIV. Dưới sự lãnh đạo của Trần Đại Quang công an cũng làm tiền trắng trợn hẳn hơn trước….”

“Trước” là hồi nào vậy cà? Khi HIV chưa xuất hiện thì làm sao có cái vụ (tai tiếng) trả tiền để “được” đưa chân vào những cái còng không nhiễm trùng được chớ? Ở giai đoạn này, Việt Nam còn dùng sổ gạo và tem phiếu và người dân chỉ cần vài điếu thuốc lá lẻ cũng đủ bôi trơn bộ máy (“Samit là nói ít hiểu nhiều, Ba Số Năm vừa nằm vừa ký”) nên mấy ông Bộ Trưởng Công An tiền nhiệm đỡ mang tiếng hơn ông Quang là chuyện tất nhiên.

Cũng như ông Nguyễn Gia Kiểng, nhiều người cứ nhất định cho rằng Bộ Công An dưới thời Trần Đại Quang tệ hại hơn thời trước rất nhiều :

– Các vụ ép cung, tra tấn, đánh người cho tới chết, xẩy ra thường xuyên trong đồn công an.

– Chuyện chạy án, chạy tiền để được phóng thích vào những đợt ân xá là hiện tượng phổ biến.

– Công an giả dạng côn đồ để đánh người, và vứt cứt đái hay mắm tôm vào nhà dân xẩy ra ở khắp mọi nơi.

May mắn là trong giới truyền thông vẫn còn những người sáng suốt nên những vấn nạn vừa nêu đã được nhìn nhận một cách khách quan hơn :

“Nhiều người tưởng rằng khoảng 5-6 năm gần đây mới rộ lên hiện tượng công an đánh chết dân, nhưng thật ra thì điều đó đã xảy ra hàng chục năm rồi, kể từ khi đảng Cộng sản cầm quyền. Thậm chí ngày trước công an đánh chết còn nhiều dân hơn ngày nay ấy chứ. Chẳng qua là đến bây giờ, một phần trong số những câu chuyện thương tâm ấy mới được đưa lên mặt báo và nhất là lên Facebook mà thôi. Con số 226 người chết trong thời gian bị tạm giam, tạm giữ (ba năm 2011-2014) là con số trong một báo cáo của Bộ Công an và được báo chí trích đăng; ngày trước, làm gì có chuyện Bộ Công an có những báo cáo như thế và báo chí công bố như thế.”

Tôi vô cùng tâm đắc với nhận định vô tư và chính xác (thượng dẫn) của nhà báo Đoan Trang. Chả có gì bảo đảm được rằng dưới thời Bùi Thiện Ngộ, Lê Minh Hương, Lê Hồng Anh … những vụ “tự tử” trong đồn công an hay nạn ép cung, mớm cung, chạy án … lại ít hơn bây giờ. Chả qua là mọi việc đều được giấu kín như bưng nên mọi người không biết đấy thôi.

Trong số tất cả lời tố ghi trên chỉ có điều duy nhất xác thực là vấn nạn công an thường giả dạng côn đồ để vứt cứt đái, hay đổ nước hôi thối, vào nhà dân chúng. Hiện tượng này quả là hoàn toàn mới lạ, và mang đậm dấu ấn của cái thời mà ông Trần Đại Quang giữ chức vụ Bộ Trưởng Công An.

Đây tuy là những hành vi bẩn thỉu và đê tiện nhưng (nói nào ngay) hoàn toàn không độc ác. Chả làm ai chết cả. Trần Đại Quang – ít nhất – cũng chưa bao giờ bị kết án là sát nhân (hãm hiếp người tình của lãnh tụ, lấy búa đập vào đầu nạn nhân, rồi vứt xác ra đường cho xe cán) như Trần Quốc Hoàn – Bộ Trưởng Công An đầu tiên của nước VNDCCH.

Ông Trần Đại Quang cũng không hề bị tai tiếng như hai ông Phạm Hùng và Mai Chí Thọ trong những vụ thu vàng bán bãi vượt biên, đẩy vô số người dân ra khỏi nước, khiến hàng triệu thuyền nhân đã chết chìm giữa biển khơi (*). Thời ông Quang phụ trách ngành công an tuy cũng có không ít thuyền nhân (những thuyền nhân mới, nouveaux boat people) hay còn gọi là “người rơm” nhưng số lượng những kẻ mất mạng giữa đường hay mất mát tài sản để chung chi cho những chuyến vượt biên đều không đáng kể – nếu so sánh với những đợt di tản của đám “thuyền nhân cũ” (ancient boat people) hồi cuối thế kỷ trước.

Những “điểm son” kể trên, tiếc thay, đã không được công luận biết đến. Thiên hạ, nếu không chê bai hay dè bỉu thì cũng chỉ nói đến việc đăng quang của vị tân chủ tịch nước, cũng chả khác chi với chuyện tái đắc cử chức vụ TBT, với giọng điệu chán chường hay… huề vốn.

Xin đơn cử một thí dụ, đọc được trên trang FB của BBC :

“Ừ thì cơ mà ai lên làm thì đời sống Công Nhân vẫn vậy, như 20 năm qua cũng ko thay đổi được là bao nhiêu đáng kể. Vẫn ở cái nhà trọ chật hẹp, vẫn ko biết khi nào mới mua nổi nhà để an cư lạc nghiệp, vẫn bữa cơm ăn cho có để làm, vẫn nỗi lo con cái những hôm tăng ca cả hai vợ chồng thì ko biết ai đón gửi ai…

Còn Nông Dân vẫn vậy vẫn tự bơi với ruộng đồng, vẫn điệp khúc được mùa mất giá, vẫn mất mùa thì do thiên tai được mùa thì do tài tình lãnh đạo của Đảng, vẫn điệp khúc hàng ngoại giết chết hàng nội, vẫn điệp khúc Trung Quốc ko thu mua thì đành đổ bỏ.

Rồi giá xăng vẫn cao ngất ngưởng so với thế giới, học phí viện phí vẫn tăng, các loại thuế phí khác vẫn tăng ko hề giảm. Vẫn nỗi lo gánh nặng tiền học cho con, vẫn nỗi lo gánh nặng lỡ xui đi viện…

Đến bệnh viện, đến chốn công quyền vẫn phải xin xỏ, chầu chực, vẫn phải bôi trơn. Vẫn tham ô, tham nhũng, cái mặt Quan vẫn vác ngược khênh kiệu hạch sách nhân dân.Vẫn thực phẩm độc hại, vẫn mọi thứ còn nguyên.

Các ông ấy chẳng ai buồn hứa với Dân khi tôi làm Cán Bộ tôi sẽ làm gì để giải quyết bớt vấn đề của nhân dân bức xúc bấy lâu nay. Các ông vẫn cứ đọc cái mớ lý thuyết suông, vẫn nói suông. Những bài chính trị mà chúng tôi cũng thuộc…”

Rõ ràng toàn là những đòi hỏi quá đáng và … quá quắt. Ngay đến bác Hồ mà còn không bảo vệ được cả vợ lẫn con, bác Tôn cũng chỉ có mỗi một việc làm là… sửa xe đạp cho nó qua ngày đoạn tháng thì bác Quang biết làm sao hơn và làm gì khác được?

Tưởng Năng Tiến – 04/10/2016

(*) Death Tolls and Casualty Statistics Vietnam – Vietnamese Boat People

  • Jacqueline Desbarats and Karl Jackson (“Vietnam 1975-1982: The Cruel Peace”, in The Washington Quarterly, Fall 1985) estimated that there had been around 65,000 executions. This number is repeated in the Sept. 1985  of State Bulletinarticle on Vietnam.
  • Orange County Register(29 April 2001): 1 million sent to camps and 165,000 died.
  • Northwest Asian Weekly(5 July 1996): 150,000-175,000 camp prisoners unaccounted for.
  • Estimates for the number of Boat People who died:
    • Elizabeth Becker (When the War Was Over, 1986) cites the UN High Commissioner on Refugees: 250,000 boat people died at sea; 929,600 reached asylum
    • The 20 July 1986 San Diego Union-Tribunecites the UN Refugee Commission: 200,000 to 250,000 boat people had died at sea since 1975.
    • The 3 Aug. 1979 Washington Postcites the Australian immigration minister’s estimate that 200,000 refugees had died at sea since 1975.
      • Also: “Some estimates have said that around half of those who set out do not survive.”
    • The 1991 Information Please Almanaccites unspecified “US Officials” that 100,000 boat people died fleeing Vietnam.
    • Encartaestimates that 0.5M fled, and 10-15% died, for a death toll of 50-75,000.
    • Nayan Chanda, Brother Enemy(1986): ¼M Chinese refugees in two years, 30,000 to 40,000 of whom died at sea. (These numbers also repeated by Marilyn Young, The Vietnam Wars: 1945-1990 (1991))
  • Rummel
    • Vietnamese democide: 1,040,000 (1975-87)
      • Executions: 100,000
      • Camp Deaths: 95,000
      • Forced Labor: 48,000
      • Democides in Cambodia: 460,000
      • Democides in Laos: 87,000
      • Vietnamese Boat People: 500,000 deaths (50% not blamed on the Vietnamese government)

CÁI GỐC CỦA GIÁO DỤC- Thái Hạo

Võ Hồng Ly

26.09.2023

Bài viết của thầy giáo Thái Hạo:

Tôi thường thấy đa số mọi người hướng cái nhìn phê phán vào những chuyện như sách giáo khoa, chương trình giáo dục, thậm chí là những thứ li ti hơn như từng bài văn bài toán trong sách giáo khoa và coi đó như nguyên nhân bao trùm gây ra tình trạng vỡ trận nhức nhối hiện nay của giáo dục nước nhà. Tôi không nghĩ thế.

Chúng ta hãy hình dung rằng, với một nhà trường mà từ ban giám hiệu đến giáo viên đều chăm chăm kiếm tiền bằng cách nghĩ ra đủ các chiêu trò mánh khóe để tận thu của học trò, bày ra các “môn học” bát nháo nhằm móc túi phụ huynh, thì chương trình nào, sách giáo khoa gì có thể dạy cho con người ta nên người?

Với cái mảnh đất đất đầy cỏ dại gai góc và sâu trùng như thế, thử hỏi nếu mang sách của Mỹ, của Nhật, của Pháp, của Sing về mà đặt vào đấy thì nó sẽ ra cái kết quả giáo dục gì? Không một chương trình giáo dục nào, dù tiến bộ nhất thế giới, khi đưa vào cái hệ thống đã bị hư hỏng trầm trọng như thế, lại có thể thay đổi được nền tảng của giáo dục.

Chúng ta phê phán các nhà trường lạm thu, ừ đúng. Nhưng không phải chỉ có thể, nếu đọc các văn bản hướng dẫn thu chi dành cho ngành giáo dục địa phương do ủy ban huyện tỉnh ban hành, thì ta sẽ thấy chính họ bật đèn xanh cho các trường thu trái quy định. Đơn giản như tiền trông giữ xe của học sinh, rõ ràng văn bản của Bộ Giáo dục cấm thu, nhưng mặc, Ủy ban vẫn “hướng dẫn” thu. Rất nhiều khoản khác như tiền sửa chửa, mua sắm cơ sở vật chất cũng cùng chung một lối hành xử như thế. Nếu có khoản nào không trong “hướng dẫn” của huyện tỉnh mà nhà trường vẫn thu thì huyện tỉnh làm lơ.

Rõ ràng, đây không phải là vấn nạn do một mình nhà trường gây ra, mà là đá quả bóng trách nhiệm. Việc xây dựng cơ sở vật chất và trả công cho nhân viên, giáo viên phải là trách nhiệm của Nhà Nước được thực hiện bằng cách lấy tiền ngân sách do dân đóng thuế ra để chi; nhưng không, họ chỉ làm một phần, phần còn lại bật đèn xanh và thậm chí phó mặc cho nhà trường tự xoay xở. Thế là nhân cơ hội được “cho phép” này, các nhà trường vừa thu để phục vụ cho công tác giảng dạy, vừa tranh thủ kiếm tí. Nó tạo ra một tình trạng bát nháo, bầy hầy, phá vỡ hết các giá trị cơ bản phải có của một môi trường giáo dục, làm băng hoại quan hệ thầy trò, bứt tung tình cảm với phụ huynh, tạo ra một thế đối lập, kình địch với nhau.

Rồi dạy thêm. Việc thiếu nghiêm trọng sự quản lý là một phần, phần còn lại là vừa ra lệnh cho các nhà trường phải hợp tác, vừa “cấp phép” cho các trung tâm tràn vào nhà trường. Cứ thế, chương trình giáo dục bị cắt xén, bóp méo và hủy hoại. Chung quy, vấn là câu chuyện tiền. Trong một “thương vụ bạc tỉ” như thế, mỗi người đều có phần, thế là trên cho phép dưới, dưới chia cho trên; trong đón tiếp ngoài, ngoài cắt phế cho trong, cộng sinh trên thân thể học trò và ký sinh vào nền giáo dục.

Xin hỏi, chương trình nào, sách giáo khoa gì có thể dạy con người ta nên người trong một môi trường như thế?

Tôi tin rằng, chỉ cần làm sạch cỏ, nhỏ bỏ hết gai góc, diệt hết sâu trùng, thiết lập lại kỷ cương và xây dựng một môi trường giáo dục lành mạnh, trong sáng, tử tế thì sách gì cũng chẳng còn quan trọng nữa. Thậm chí ở đó học sinh chỉ cần chơi với nhau thôi cũng thành người. Còn với tình trạng bây giờ, 210 nghìn tỉ chứ 210 triệu tỉ cũng sẽ không có kết quả, thậm chí còn khiến mức độ tranh giành trở nên khốc liệt hơn.

Dứt khoát phải làm một cuộc tổng vệ sinh. Việc trước mắt và đầu đầu tiên là ngăn chặn nạn thu tiền như trấn lột trong các nhà trường và cấm hẳn tình trạng dạy thêm bát nháo hiện nay. Tiếp đó là thiết lập lại trách nhiệm của mỗi bên: nhà nước lo tiền, nhà trường lo dạy, nhà dân lo làm ăn đóng thuế. Nếu còn lẫn lộn, để nhà trường phải lăn ra kiếm tiền thì không một nền giáo dục tử tế nào sẽ được khai sinh.

Thái Hạo

Sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam- trách nhiệm và hậu quả

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Tường Tâm

23/09/2023

Chiến tranh Việt Nam- Ảnh Getty images

I-Ai chịu trách nhiệm việc Miền Nam sụp đổ?

“Quốc Gia Hưng Vong Thất Phu hữu trách”. Khi mất nước, tất cả mọi người dân đều phải chịu trách nhiệm. Mỗi người hãy tự vấn, “mình đã làm gì khi tổ quốc lâm nguy?”

Nhưng dù sao, người lãnh đạo, chỉ huy, tức là người có quyền ra quyết định sẽ phải chịu trách nhiệm trước hết và trên hết. Trận chiến ở Cao Nguyên đã mở đầu cho sự sụp đổ của miền Nam, như vậy vị Tư Lệnh Vùng 2, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Phú phải là người chịu trách nhiệm trước tiên. Tướng Phú đã đơn phương quyết định phòng thủ Pleiku, Kontum; phòng thủ nhẹ ở Ban Mê Thuột, vì ông tin rằng, khác với dự đoán của Phòng 2 (Phòng Tình Báo), địch quân sẽ đánh Pleiku, nơi đặt đại bản doanh của ông. Chưa biết nếu tin theo đề nghị của Ban Tham Mưu để tăng cường phòng thủ Ban Mê Thuột thì có thể cầm cự được không, nhưng chắc chắn đối phương không thể đột nhập chiếm Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu ở Trung Tâm thành phố chỉ trong 1 tiếng đồng hồ, rồi sau đó Tiểu đoàn 82 BĐQ đã đột nhập vào trung tâm thành phố áp sát đối phương, nhưng phải rút lui vì không có tăng viện. Cuối cùng đối phương đã làm chủ toàn thành phố một cách dễ dàng vào trưa hôm sau.

Người kế tiếp chịu trách nhiệm là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Ông đã không làm tròn nhiệm vụ của cấp chỉ huy khi không yểm trợ được cho Tướng Phú. Cuốn “The Decent Interval” của Frank Snepp (trg. 193) ghi: “Ở hội nghị Cam Ranh, ông Phú cho Tổng thống Thiệu biết rằng tất cả mọi con đường xuống vùng duyên hải  đã bị đối phương ngăn chặn. Ông chỉ có thể giữ được Cao Nguyên khoảng hơn một tháng nếu có quân tăng viện, đạn dược và không yểm. Nghe vậy Tổng thống Thiệu nhìn Tướng Phú và lắc đầu: Không có gì hết, không có quân, không có thiết bị. Quân đội đang bị rải ra khắp nước, các kho dự trữ cần được giữ ở gần những vùng cần bảo vệ. Như vậy không có cách gì tăng cường phòng thủ Pleiku, Kontum. Cách duy nhất là bỏ hai tỉnh này, đưa quân xuống củng cố vùng Duyên Hải và hỗ trợ cho cuộc phản công lấy lại Ban Mê Thuột.” Rút cách nào và bao giờ rút Tổng thống Thiệu không chỉ thị mà để Tướng Phú quyết định.

Chiến tranh Việt Nam ngoài tính chất nội chiến còn là chiến tranh ủy nhiệm (Proxy War). Miền Nam bị Hoa Kỳ, lãnh đạo Phương Tây, xúi giục. Miền Bắc bị Liên Xô, Trung Cộng xúi dục. Hoa Kỳ đã ủy nhiệm Miền Nam làm tiền đồn của Thế Giới Tự Do ngăn chặn sự bành trướng của Đế Quốc Cộng Sản thì Hoa Kỳ có trách nhiệm phải yểm trợ đầy  đủ. Nhưng sau khi hòa hoãn với Trung Cộng năm 1972 thì Hoa Kỳ lơ là đồng minh Việt Nam Cộng Hòa, rồi cuối  cùng thì bỏ rơi luôn. Như vậy trách nhiệm phải là chính phủ Hoa Kỳ.

Ở Mỹ, Quốc Hội nắm quyền quyết định chính sách qua quyền quyết định ngân sách, như vậy, Quốc hội Hoa Kỳ, với tư cách cơ quan có quyền hạn cao nhất, cũng là cơ quan có trách nhiệm.

Trong Quốc Hội, những Dân Biểu, Nghị Sĩ lại bị ảnh hưởng bởi các nhà báo. Các vị này luôn viết bài không chính xác, thiên lệch có hại cho Miền Nam. Bởi thế chính các nhà báo Hoa Kỳ và Phương Tây cũng phải chịu trách nhiệm trong sự sụp đổ của miền Nam.

Đứng ngoài hệ thống chỉ huy quốc gia, tuy không có quyền nhưng uy tín của những trí thức lớn khuynh tả Phương Tây như Jean Paul Sartre, Bertrand Russell v…v đã góp phần kêu gọi thế giới ủng hộ miền Bắc, giúp họ chiến thắng. Như vậy chính họ cũng phải chịu trách nhiệm về sự sụp  đổ của miền Nam.

Trước 1975 lý thuyết Karl Marx là vô địch, đã ảnh hưởng phần lớn trí thức khuynh tả Phương Tây, kéo theo đám đông quần chúng sẵn sàng biểu tình ủng hộ miền Bắc, một vùng đất cộng sản. Trong một khóa đào tạo sĩ quan chiến tranh chính trị cấp trung đoàn năm 1969, khi mãn khóa, Đại tá Lâm Ngươn Tánh, chỉ huy trưởng trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt đã có cuộc tiếp xúc với từng nhóm nhỏ 3 sĩ quan học viên, Đại Tá Tánh hỏi, “Các anh thấy có thể mang các điều học hỏi ở trường này về áp dụng trong đơn vị được không?” Hai vị sĩ quan kia hăng hái trả lời, “Dạ được! Khi về đơn vị chúng tôi sẽ mang những điều học hỏi ở trường này về áp dụng trong đơn vị.” Đại tá Tánh tỏ vẻ phấn khởi. Nhưng tới phiên tôi, thì cả Đại tá chỉ huy trưởng với 2 sĩ quan đồng khóa tròn mắt ngạc nhiên. Tôi trình bày với Đại Tá chỉ huy trưởng rằng, “Thưa Đại tá, chương trình học gồm 2 phần. Phần Tâm Lý Chiến có mục đích giúp vui cho anh em quân nhân thì tôi thấy hữu ích; còn phần chính huấn tôi thấy không áp dụng được gì.” Tất cả im lặng tiếp tục dồn ánh mắt về tôi. Tôi tiếp tục, “Lý thuyết Mác xít là một lý thuyết tổng hợp triết lý, chính trị, kinh tế, xã hội, và lịch sử rất chặt chẽ. Hiện nay ngoài những phản biện đơn lẻ về kinh tế và triết lý, chưa có một lý thuyết tổng hợp nào đánh đổ hệ thống Mác xít. Khuyết điểm đó không phải của riêng trường này, cũng không phải của riêng Việt Nam, mà của toàn thế giới.” Đại Tá Chỉ Huy Trưởng không nói gì, lặng lẽ nói cám ơn rồi bắt tay chúng tôi tạm biệt.

Chưa kể, bản tuyên ngôn cộng sản của Karl Marx và Engels có câu cuối hết sức thu hút tầng lớp nghèo, chiếm đa số trên thế giới, đặc biệt tại Việt Nam, “Vô sản khắp thế giới hãy đoàn kết lại! Chúng ta không có gì để mất ngoài xích xiềng.” (“The proletarians have nothing to lose but their chains. They have a world to win. Workingmen of all countries, unite.”) Sự hấp dẫn của lý thuyết Mác xít đã khiến Miền Nam phải sụp đổ.

Như vậy sự sụp đổ của miền Nam chính là sự thất bại của thế giới Tự Do– Nguyên nhân là sự “ngu muội” của nhân loại. Miền Nam chỉ là một thành phần của thế giới tự do nên sụp đổ theo là đương nhiên.

II-Hậu quả của sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam.

Tại sao cùng bị chia cắt nhưng Tây Đức và Nam Hàn đứng vững? Về chính trị thì ba quốc gia bị chia cắt giống nhau nhưng về địa thế (địa chính trị) và văn hóa thì khác nhau, cho nên mỗi dân tộc có một định mệnh khác nhau. Địa chính trị của Nam Việt Nam như thế thì số phận của miền Nam phải như thế! Dù cho ai lên lãnh đạo cũng không xoay chuyển được số phận. Đây không phải là thuyết định mệnh mà là lý thuyết địa chính trị (geopolitics, một ngành khoa học khảo cứu ảnh hưởng của địa lý–gồm cả môi trường, tài nguyên và văn hóa– trên chính trị quốc nội và quan hệ quốc tế). Chỉ khi nào văn hóa nhân loại thay đổi thì chính trị quốc tế mới thay đổi. Miền Nam xụp đổ vì trình độ chung của nhân loại, nhưng cũng là yếu tố khởi đầu cho sự thay đổi văn hóa của nhân loại theo chiều hướng tốt hơn. Sự xụp đổ của miền Nam đã giúp nhân  loại (thế giới tự do) tỉnh ngộ, kéo theo sự tỉnh ngộ và sự thay đổi thể chế ở toàn khối cộng sản.

Cùng với sự chiếm đoạt miền Nam của cộng sản, hàng triệu người miền Nam bất chấp hiểm nguy của bão tố, hải tặc đã ào ạt ra đi. Hàng trăm ngàn người đã vùi thân trên biển cả. Hàng triệu người khác đã sống sót sau vùi dập từ địa ngục trần gian bởi đói khát lênh đênh trên biển cả dưới trời giông bão. Hàng chục ngàn người khác bị hải tặc giết hại, bắt cóc, hãm hiếp, hành hạ. Trước thảm trạng thuyền nhân nạn nhân của cộng sản, thế giới đã mủi lòng thương xót dang vòng tay cứu vớt. Ngày 20 Tháng Bảy, 1979, tại thành phố Geneve, Thụy Sĩ, 65 quốc gia đã họp bàn tìm cách cứu giúp thuyền nhân Việt Nam. Kể từ đó nhân loại mới hiểu sự tàn ác của cộng sản.

Văn hóa nhân loại thay đổi tất yếu đưa tới sự thay đổi xã hội. Sự thay đổi văn hóa tiệm tiến nhưng có khả năng lan rộng. Không biết trong các thay đổi xã hội ở Đông Âu cộng sản có mấy phần trăm do ảnh hưởng của thảm trạng thuyền nhân nạn nhân của cộng sản Việt Nam? Nhưng trong một thế giới toàn cầu thì ảnh hưởng hỗ tương về văn hóa là chắc chắn xảy ra. Từ một thế giới đa số ủng hộ cộng sản, chỉ một thời gian sau thảm trạng thuyền nhân Việt Nam, thế giới đã quay 180 độ, kéo xập đổ khối cộng sản Đông Âu, rồi tiếp đến là xây những tượng đài tưởng niệm hơn 100 triệu nạn nhân của cộng sản, trong đó có người Việt. Một cách hình tượng, có thể ví trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam, thế giới đang mông muội ở trong thời kỳ Trung cổ (The Middle Ages). Khi miền Nam sụp đổ, làn sóng thuyền nhân Việt Nam tị nạn cộng sản đã khiến thế giới tỉnh mộng, xét lại những giá trị cũ, tương tự như trong thời kỳ Phục Hưng của Âu châu (The Renaissance). Mười bốn năm sau, 1989, thế giới chuyển mình sang thời kỳ Ánh Sáng (The Enlightenment): Cộng sản Đông Âu sụp đổ.

Kể từ đó chủ nghĩa cộng sản bị toàn thể thế giới loại trừ, một bức tường Tưởng Niệm hơn 100 triệu nạn nhân cộng sản trên khắp thế giới đã được dựng lên tại thủ đô Hoa Kỳ, Washington, D.C. ngày 12/6/2007.

Như thế, Miền Nam Việt Nam có số phận vừa bi đát vừa đóng góp vào việc soi sáng cho thế giới!

Nguyễn Tường Tâm

Lời bàn của Kẻ đi tìm

  • Vào thập niên 70,  chủ nghĩa Cộng Sản còn đang ru ngủ và thắng thế trên thế giới, khi đó, trí thức trong các trường đại học Âu Châu thì nói “Nếu không là người xã hội khuynh tả thì chưa thức thời”, còn ở Việt Nam thì có nhiều kẻ theo cộng sản, chúng nằm vùng trong các cấp chính quyền trung ương (tỉnh trưởng, phó tỉnh trưởng như Trịnh đình Thảo) và quân đội (cấp tá như Đoàn Công Lập trung tá trưởng ty CSQG Thừa Thiên Huế, cấp tướng như Nguyễn hữu Hạnh).  Kẻ địch vào đến nội bộ của ta, biết các tin tức chiến lược thì ta có thể bị thua trận.
  • Kissinger đã phải thốt lên “muốn thắng Cộng Sản thì phải thua nó trước” và điều này đã xảy ra. Cuối thập niên 1980, chủ nghĩa Cộng Sản lộ bộ mặt thật và bị tan rã bởi chính cán bộ và người dân trong nước XHCN liên quan.
  • Ngày nay không còn ai tự nhận mình là trí thức mà tin vào Chủ Nghĩa Cộng Sản  vì nhân loại đã quá tiến bộ về khoa học kỹ thuật làm cho khung phạm trù lý luận của Karl Max bị biến mất, cuộc cách mạng tin học làm cho vô số công nhân thành triệu phú, họ chả bị chủ nhân nào bóc lột cả. Chủ Nhân của họ là những  thanh niên trẻ nhờ đầu óc, nhờ chất xám mà làm nên nghiệp tỷ phú chả cần đến sức lao động của công nhân, ngược lại chính họ làm cho công nhân trong hãng trở thành triệu phú. Thế là Chủ nghĩa Cộng Sản bị ném vào sọt rác lịch sử thế giới.
  • VNCH đã không kịp chuẩn bị để đối phó với một cuộc tấn công khổng lồ sau khi chính phủ ký hiệp định hòa bình Paris 1973 và không còn được Hoa Kỳ quân viện. Đúng ra, VNCH phải thay đổi chiến lược và chiến thuật quân sự để có thể du kích chiến, cảm tử chiến, hậu cần chiến, bắc tiến chiến, … để cầm cự lâu dài trong khi cầu cứu với thế giới tự do. Đã không có một kế hoạch sống còn như vậy.
  • Đành rằng trong cuộc chiến hiện đại quân viện quyết định thắng thua nhưng để mất miền Nam dễ dàng, chóng vánh như vậy là trách nhiệm của Tổng Thống và Tướng lánh Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH.