Thân phận dư thừa của một người trí thức thiên tả (phần I)

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

 

Bức hình dưới đây chụp các ông Lý Chánh Trung, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi là những thành phần đại biểu của lực lượng thứ ba của miền Nam ra Bắc trong ngày 2 tháng chín năm 1975. Đây là một vinh dự có chọn lọc và cân nhắc đắn đo lý lịch, thành tích các vị được mời của lãnh đạo Đảng trước khi quyết định ai được mời ra Bắc.

Chánh Trung, Tố Hữu, Lê Quang Vịnh, Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Đình Thi. Nguồn Internet

Phần những người được mời đều cảm thấy đây là một vinh dự hiếm hoi cho họ. Bởi vì còn biết bao nhiêu thành viên trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTDTGPMN) đã không có mặt, đã không được vinh dự ấy.

Sự không có mặt của những Trương Như Tảng, Dương Quỳnh Hoa, Lữ Phương là có chủ đích của đảng. Chủ đích đó là loại trừ một số tham vọng của các thành viên MTDTGPMN như bà Dương Quỳnh Hoa muốn dành một vị trí đặc biệt cho miền Nam và đồng thời muốn triển hạn việc thống nhất đất nước. Vai trò trái đệm và bù nhìn của MTDTGPMN trước đây đã đến lúc cần chấm dứt vì sẽ là một chướng ngại vật cho tiến trình thống nhất đất nước. Nói cho cùng, đây là trò đểu cáng chính trị của Hà Nội, dựng lên lá bài MTDTGPMN để lừa bịp thế giới và khi chiếm xong miền Nam thì MTDTGPMN trở thành dư thừa và như một chướng ngại vật! Sự loại trừ phần đông các thành viên MTDTGPMN ra khỏi phái đoàn là một tính toán hiểu được. Việc thống nhất hai miền mà mời đại diện như bà bác sĩ Dương Quỳnh Hoa thì sẽ nát việc.

Thành phần dư thừa thứ nhất có tên là MTDTGPMN và sau đó có những người thấy rõ mặt trái của cộng sản và đã rời bỏ hàng ngũ Mặt trận Giải phóng như Trương Như Tảng, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa và chồng, cùng Lữ Phương.

Những kẻ còn ngồi lại, ngậm bồ hòn, im lặng, nhẫn nhục.

Nhưng dù sao thì cứ bề ngoài, phái đoàn miền Nam ra Bắc cũng được kể là tuần trăng mật giữa hai miền Nam Bắc, giữa các nhà chính trị, nhà văn miền Bắc và các thành phần trí thức thiên tả miền Nam.

Cái vấn đề là chúng ta thử xem tuần trăng mật ấy kéo dài được bao lâu hay rồi cũng giống như số phận sau này dành cho MTDTGPMN cũng như Câu lạc bộ những Người Kháng chiến Cũ?

Để tạo ra một cái không khí tưng bừng, ăn mừng ngày hội lớn, hầu hết những nhân vật tai mắt của cộng sản miền Bắc lúc bấy giờ đều có mặt. Người ta nhận ra sự có mặt đầy đủ các các thành phần lãnh đạo cộng sản tiêu biểu như các ông Tố Hữu, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Chính, Xuân Thủy, Hoàng Văn Hoan, Lê Thanh Nghị, Hoàng Tùng, thiếu tướng Tô Ký, đại tướng Võ Nguyên Giáp và chủ tịch Tôn Đức Thắng!

Họ cũng vận động một số nhà văn miền Bắc có uy tín hàng đầu có mặt như các ông Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Nguyễn Tuân, nhạc sĩ Đỗ Nhuận, Hải Triều, Nguyễn Công Hoan, Bảo Định Giang, Tô Hoài, Nguyễn Khắc Viện (chủ báo Le courrier du Viet Nam). Yên Thao và Hồ Đan Tâm, báo Hà Nội mới và giáo sư Phạm Huy Thông.

Về thành phần phái đoàn miền Nam, người tinh ý một chút sẽ thấy Trưởng đoàn miền Nam không phải Lý Chánh Trung hay ai khác. Cộng sản đã cài đặt người của họ là ông Sáu Tường, Nguyễn Vĩnh Nghiệp (người của đảng). Người Phó Trưởng Đoàn là ông Ba Ca, nguyên Bí thư tỉnh ủy Gia Định(1).

Điều này cho thấy mọi quyết định, mọi chương trình ra thăm viếng ngoài Bắc nhất nhất đều do Đảng sắp xếp và cài đặt tổ chức và kiểm soát.

Còn những thành viên khác thì toàn là những gương mặt tranh đấu, xuống đường rất quen thuộc của miền Nam trước 1975 như Lý Chánh Trung, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi, Ni sư Huỳnh Liên, Vũ Hạnh, bà Ngô Bá Thành, luật sư Trần Ngọc Liễng, thầu khoán Nguyễn Văn Hạnh, hòa thượng Thích Trí Thủ, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Hồ Ngọc Nhuận, Lê Hiếu Đằng, linh mục Nguyễn Huy Lịch, nghệ sĩ sân khấu Kim Cương(2).

Xin ghi lại đây những phát biểu đầy kịch tính của hai phái đoàn Sài Gòn và Hà Nội. Có những câu phát biểu rất ấn tượng, rất mủi lòng như thể thương nhớ bao nhiêu năm nay mới gặp lại:

Ba chục năm qua một phút này!

Mặc dầu Hồ Ngọc Nhuận cũng đã cố gắng che đấu nhiều sự thật chẳng nên nói ra, nhưng không thể che hết, do sơ hở vô tình đã để lộ nhiều khe hở. Chẳng hạn họ được ở khách sạn Giảng Võ, khách sạn ba sao nên tường vách đều thủng lỗ, vào ban đêm nghe gió mùa lọt qua cửa sổ vi vu giấc ngủ. Khách sạn ba sao nên ly tách chắc đều là ‘thứ tốt’ nên khách nhận một cái ly đều phải ký vào giấy mượn. Cái cung cách phục vụ ấy làm những người Sài Gòn lần đầu ra viếng thăm Hà Nội không thể không thấy lạ! Uống một ly nước phải ghi sổ vì sợ khách ăn cắp ly! Tình trạng ấy gián tiếp phơi bầy một cuộc sống nghèo nàn, khốn khổ.

Trong khi đó, các phái đoàn ngoại quốc lớn như Liên Xô, Trung cộng thì ở riêng, chỗ đặc biệt đâu đến nỗi ban đêm phải nằm nghe gió lùa vào vách tường?

Xin ghi lại vài nhận xét vắn vỏi từ sách của Hồ Ngọc Nhuận:

  • Linh mục Nguyễn Ngọc Lan được mời ăn hết tiệc lớn tiệc nhỏ, ông phát biểu: Đi đâu cũng tiệc là tiệc. Cuối cùng ông quyết định rủ Hồ Ngọc Nhuận đi ăn chui. Họ đi đến rã cẳng mà kiếm không ra một nhà hàng để ăn, vì đều là tiệm ăn quốc doanh hay công ty hợp doanh phải có giấy mới được vào. Cuối cùng may mắn gặp nhà văn Hải Triều đưa đến một ‘tiệm ăn chui’. Nó nằm ngay trong một quán nhà, có người ở, không bảng hiệu, kín đáo mà chỉ khách quen mới biết được. Đó là biểu tượng cho một Hà Nội chui. Cái gì cũng chui cả.
  • Hình ảnh người trí thức ‘Tìm về dân tộc’ Lý Chánh Trung, miệng ngậm tẩu thì đứng nghe anh Xuân Thủy đọc thơ. Một vinh dự lớn cho Lý Chánh Trung vì được nghe một nhà chính trị ngâm thơ! Tôi được biết sau chuyến đi thì mọi người đều phải có một bài báo cáo về chuyến đi khi trở về Sài gòn..một lần ở rạp Rex cũ do Ủy Ban Mặt Trận Dân Tộc Giải phóng khu Saigòn Gia Định tổ chức và một buổi nữa ở Đại Học.

Theo Lý Chánh Trung kể cho tôi nghe thì phái đoàn trong Nam ra đi đến đâu cũng được dân chúng túa ra đón tiếp nồng hậu. Ông được đi tham quan xã Như Quỳnh, cách Hà Nội 20 cây số, trên đường đi Hải Phòng, thuộc tỉnh Hưng Yên cũ. Ở đây, ông bị một chị trong hợp tác xã đột ngột hỏi:

– Có phải ông là giáo sư Lý Chánh Trung không?
– Thưa phải.
– Thế thì hân hạnh được gặp giáo sư vì tôi đã có đọc bài của giáo sư viết trước đây.

Lý Chánh Trung chắc là phải ngỡ ngàng thôi.

Khi về lại Hà Nội, cũng một lần cả đoàn đang đi thì có một thanh niên chạy vội lại hỏi to:

– Trong đoàn ai là giáo sư Lý Chánh Trung cho tôi gặp mặt.
– Lý Chánh Trung lại tách ra khỏi đoàn trả lời: Tôi đây, tôi là Lý Chánh Trung đây.
– Thưa giáo sư tôi kính phục giáo sư vì trước đây có được đọc bài của giáo sư.

Ông Lý Chánh Trung ngây thơ nhận xét, ngoài Bắc, dù có chiến tranh, nhưng trình độ văn hóa miền Bắc kể là cao hơn miền Nam nhiều lắm. Một người dân thường mà cũng có thể đọc bài viết của Lý Chánh Trung từ trong Nam gửi ra.

Nghe chuyện này của Lý Chánh Trung, tôi chỉ cười.

Vậy mà tôi được biết có lần Võ Văn Kiệt nhận xét cán bộ của ta biết đọc biết viết đã là may. Mấy người đã có cơ hội đọc Thép đã thôi tôi thế đấy, Rừng thẳm tuyết dày.

Lý Chánh Trung hãnh diện là phải, vì thế cộng sản mới thắng được đế quốc Mỹ.

Sau tháng 4, 1975 nghệ sĩ Sài Gòn, Năm Châu, Phùng Há, Thẩm Thúy Hằng, Bảy Nam, v.v. – xếp hàng chào mừng quân cộng sản Bắc Việt – kẻ thắng cuộc. Nguồn Internet

  • Hình ảnh chị Kim Cương ngồi ngoan ngoãn nghe đại tướng Võ Nguyên Giáp nói về vở kịch Lá Sầu Riêng của mình. Chắc là chị phải khóc thôi trước tấm lòng ưu ái của Đảng?
  • Cụ Tôn Đức Thắng giọng nói run run của ông Già Nam Bộ bị bỏ ngồi một xó nay phát biểu: một cuộc Bắc Nam xum họp một nhà cảm động và đầy đủ nhất. Muốn hiểu bộ mặt thật của ông già Nam Bộ thì phải đọc Nguyễn Văn Trấn mới được.
  • Ni sư Huỳnh Liên ngồi xếp bằng, nghiêm chỉnh nghe Tổng Bí Thư Lê Duẩn nói chuyện. Cuối cùng thì bà đứng lên thật thà phát biểu: “Ông nói gì từ nãy giờ tôi không hiểu!”Ông Lê Duẩn trả lời: “Chắc tại tôi nói tiếng Quảng Trị, lại nói lắp nữa!”
  • Phần Hồ Ngọc Nhuận được dẫn đi thăm một xã tiên tiến, điển hình là Như Quỳnh. Xã có 7000 dân thì có 700 bộ đội mới được giải ngũ về. Hồ Ngọc Nhuận nhận thấy nhà nào cũng có một cái chum làm bằng xi măng, nhưng không biết bên trong đựng cái gì. Hỏi ra thì nay người dân xã không còn đói ăn nên mỗi nhà có lúa để dành. Trong Nam chỉ có vựa lúa hay bồ lúa nên không thể ngờ ngoài Bắc đựng lúa vào một cái chum nhỏ, chứa vài chục kilô thóc. Khi về như khám phá ra điều gì mới, ông viết: Tôi khoái nhất là những chum đựng lúa. Sự khác biệt là trong Nam là cái bồ, ngoài Bắc là cái chum. Nói rồi ông cười ha hả(3).

Trước tấm thịnh tình đầy tình nghĩa anh em của miền Bắc, phía miền Nam cũng bắt buộc mỗi người phải lên phát biểu một lần để đáp lễ lại.

Ông Lê Hiếu Đằng là một trong những người trẻ ở trong Nam ra phát biểu hăng say nhất với nhan đề một bài viết, Những giây phút cảm động đó. Trong đó, ông viết:

“Những cái hôn thắm thiết, những bàn tay xiết chặt tưởng chừng như không muốn rời ra, những tràng cười thoải mái, cởi mở. Tất cả tạo nên một bầu không khí thắm đượm tình nghĩa đồng bào, đồng chí!”

Có lẽ Lê Hiếu Đằng là người thuộc bài nhanh nhất khi ông viết!

Quả thật, tuần trăng mật Nam-Bắc kéo dài chẳng dược bao lâu.

Linh mục Chân Tín vốn là Ủy Viên Trung Ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam và phó chủ tịch Mặt trận thành phố. Vậy mà có lần cỡi xe Lambretta vẫy tay một người bạn, ông nói to: Tôi được giải phóng rồi. Có nghĩa, ông đã bị đuổi ra khỏi Mặt trận. Ông cũng lên tòa giảng yêu cầu đảng phải biết sám hối và cuồi cùng ông bị giam lỏng ở Cần Giờ.

Nguyễn Ngọc Lan với bài viết khi tham quan Hà Nội trên Đứng Dậy, Hà Nội tôi thế đó! Với bài viết gây ngộ nhận, nó đã làm tiêu ma sự nghiệp chính trị của ông, báo Đứng Dậy bị đình bản sau đó. Từ đó Nguyễn Ngọc Lan trở thành người viết đối lập với nhà nước cộng sản.

Hồ Ngọc Nhuận nay ra khỏi Mặt Trận Tổ quốc và viết lại như sau:

Và tôi nữa, sau 25 năm, khi đọc lại chính mình, tôi tìm thấy được bao nhiêu phần trăm của tôi hôm nay trong đó? Trong những gi mình viết, suy nghĩ, khẳng định năm xưa?(4)

Ông vốn là Phó chủ tịch Mặt trận Tổ Quốc, ông đã xin từ chức và viết bài Phá Xiềng để ủng hộ luật sư Lê Hiếu Đằng.

Lê Hiếu Đằng cũng là Phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc và nhiều chức chức vụ chỉ có danh khác nữa – tuyền là những chức vụ hờ, chỉ có tiếng – khi ngã bệnh trước khi qua đời đã chính thức tuyên bố trên đài BBC, ngày 5-12-2013: tuyên bố công khai ra khỏi Đảng Cộng sản vì Quốc Hội chỉ là bù nhìn.

Và tiếp theo sau đó còn nhiều người đã nối đuôi nhau ra khỏi đảng mà danh sách mỗi ngày một dài như trường hợp các ông: Ngô Công Dức, Châu Tâm Luân, v.v.

Đã thế, ngay trong nhóm thiên tả miền Nam, người ta cũng thấy sự chia rẽ, đố kỵ trầm trọng. Lý Chánh Trung kỵ với Nguyễn Ngọc Lan và chắc hẳn trong chuyến ra Bắc, hai người đã không nhìn mặt nhau.

Dương Văn Ba (thứ hai từ trái), cựu dân biểu đối lập VNCH, Tổng Thư Ký Tòa Soạn báo Tin Sáng, Phó Giám Đốc Cimexcol Minh Hải, bị cáo đầu trong vụ án Cimexcol Minh Hải. Nguồn: Internet

Giữa bộ ba Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Dương Văn Ba tưởng là tình thân như ruột thịt. Nhưng trong Hồi ký Những ngã rẽ Dương Văn Ba đã tố cáo Ngô Công Đức, làm báo Tin Sáng sau 1975 bao nhiêu bổng lộc hưởng một mình. Tiền bạc ê hề, ăn chơi cờ bạc, mua nhà mua cửa, bao gái đủ cỡ trong khi anh em tòa soạn sống lây lất. Tình cảnh đó đi đến chỗ mâu thuẫn kiện tụng. Và Đảng nhân cơ hội đó đóng cửa luôn tờ báo vào năm 1981 với lời ghi chú, Tờ báo đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử(5).

Thêm nữa, giữa Hồ Ngọc Nhuận và Lý Chánh Trung có mâu thuẫn mà người viết xin ghi lại trong nhật ký Đời của Hồ Ngọc Nhuận. Vốn trong sách của Lý Chánh Trung có cho in một bức hình chụp Hồ Ngọc Nhuận và Huỳnh Tấn Mẫm chụp trước tiền đình Hạ Viện trước 1975, với lời ghi chú đầy ác ý. Cũng theo Hồ Ngọc Nhuận, ông đã viết thư hỏi giáo sư Lý Chánh Trung, tác giả sách có ảnh, ai đã chụp ảnh, ai đã chú thích là hỏi khó giáo sư vậy thôi chứ ai mà không biết chỉ có trời mới biết(6). Chỉ rất tiếc là Hồ Ngọc Nhuận không cho biết nội dung lời chú thích dưới bức ảnh là gì?

Mặc dầu tiết lộ nửa kín nửa hở, người đọc cũng hiểu rằng, Lý Chánh Trung đã chơi xấu bạn bè, nhưng đến lúc bị cật vấn thì chối quanh, mặc dầu hình và chú thích được in trong sách của Lý Chánh Trung. Qua vụ Liên Trường và vụ này, tôi thiết nghĩ Lý Chánh Trung là người tâm địa nhỏ nhen và chơi không đẹp.

Nhưng xem ra trong số những thành phần thứ ba – trừ những thành phần cắc ké như dân biểu Kiều Mộng, Nguyễn Chức Sắc, Lê Tấn Trạng, Đinh Xuân Dũngvv.. có lẽ chỉ còn sót lại một người là Lý Chánh Trung, cố bám trụ, cố theo đảng tới cùng- mặc dầu, chức vụ cao nhất của ông cũng chỉ là được cho đắc cử vào một Quốc Hội bù nhìn và sau đó cho nghỉ hưu.

Nhận xét của tôi về chuyến công du Bắc Kỳ này của đám trí thức thiên tả Sài Gòn là rất quan trọng. Bởi vì đây là màn kịch cuối cùng mà cộng sản Bắc Việt muốn nhóm trí thức này phải đóng tuồng cảnh Nam Bắc thống nhất một nhà.

Điều thứ hai là hầu hết đám trí thức thiên tả này đều không biết dụng ý cũng như kịch bản do Hà Nội đạo diễn. Họ trở thành những tên hề ngớ ngẩn, bị lợi dụng và sau đó lần lượt trở thành những thành phần dư thừa, cùng lắm dùng làm cảnh cho chế độ.

Thật vậy, không một ai trong đám trí thức thiên tả, lực lượng thứ ba này được có một vai trò trong guồng máy cai trị của đảng. Hầu hết đều nắm những chức vụ hữu danh vô thực như đại biểu quốc hội bù nhìn và nhất là các chức vụ phó chủ tịch trong Mặt Trận tổ quốc. Một thứ Mặt trận bù nhìn cho một thứ dân chủ giả hiệu.

Riêng Lý Chánh Trung là đối tượng của bài viết này rất thiển cận chỉ nhắc nhở tới những vinh dự bịp mà họ dành cho ông. Ông không dám bày tỏ hoặc nhận xét gì về thực trạng xã hội miền Bắc trong chuyến thăm viếng này.

Bài viết này, với chủ đích rõ ràng là tìm hiểu con người Lý Chánh Trung trong suốt hành trình từ thời sinh viên đến lúc trở thành dân biểu quốc hội như một người trí thức tiêu biểu thuộc thành phần thiên tả- hay lực lượng thứ ba của miền Nam!

Trong một bài biên khảo nhan đề, 20 năm giới trí thức miền Nam, tôi đã có dịp đề cập đến trường hợp Lý ChánhTrung như một biểu tượng của trí thức thiên tả miền Nam trước 1975. Nhưng nay ông vào tuổi xế chiều mà thời gian còn lại cho ông không còn bao nhiêu nữa. Vinh danh và quyền lực của đảng cộng sản dành cho ông như chức tước đại biểu quốc hội bù nhìn cũng đã đến lúc trắng tay.

Ông trở thành kẻ hết thời hay thứ dư thừa dưới mắt người cộng sản. Số phận những người theo cộng sản thì phải nhận lấy những hậu quả tương tự. Điều chính yếu là bạn bè, đồng chí của ông đã quên ông.

Cuộc sống của ông hiện nay lúc cuối đời xem ra thanh bạch, đạm bạc mà nhiều phần là túng thiếu.

Còn nhớ vào những năm tháng ấy, sau 1975 – quyền lực trong tay cũng có – vậy mà Lý Chánh Trung cảm động và khoe một cách hãnh diện là vừa có học trò cho một bao gạo.

Đại biểu Quốc Hội leo đến chức phó chủ tịch Quốc Hội mà phải ngửa tay nhận một bao gạo bố thí của học trò thì hiện trạng đất nước ấy phải được hiểu là thế nào?

Bao gạo ấy đượm tình nghĩa thầy trò của người miền Nam, nhưng nó tố cáo một cách gián tiếp chế độ bất nhân ấy.

Làng Đại Học Thủ Đức – Gia Định 1965-1966 – Nguồn ảnh Dale Ellingson

Cái còn lại như chứng tích duy nhất của nền Đệ Nhất Cộng hòa để lại cho ông là căn nhà của ông ở làng đại học Thủ Đức, số 17 đường Công Lý, phường Bình Thọ, quận Thủ Đức, Sài gòn. Chính nơi đây con cái ông lớn lên, được nuôi dưỡng ăn học và nay là cái mái che mưa nắng cho ông lúc tuổi xế chiều(7).

Sự đãi ngộ ấy có thể ông không bao giờ muốn nhìn nhận, có thể ông chỉ coi như một điều đương nhiên là như thế. Nay được biết ông lại bị bệnh lãng trí nặng, đi lang thang quên cả lối về nhà. Chắc nhiều bạn bè thương cảm và buồn cho ông.

Buồn thì đúng rồi.

Nhưng với tôi, tôi nghĩ nó lại là cơ may, là nguồn hạnh phúc cho riêng ông.

Nếu ông còn trí nhớ, còn biết vui buồn, còn biết phân biệt thị phi nhìn thấy cảnh đất nước rã nát như ngày hôm nay – như trường hợp luật sư Lê Hiếu Đằng – thì có khi đến chết ông cũng không nhắm mắt được.

Lý Chánh Trung hơn ai hết là một giáo sư triết hiểu sự mất trí nhớ đôi khi lại là là con đường giải thoát cho riêng ông.

Gần đây nhất, cậu con trai út Lý Trung Dũng, sinh năm 1970, phóng viên báo Tuổi Trẻ trước đây bị xe ô tô cán, sau nhiều năm chữa trị đã qua đời ngày 22 tháng 11-2013.

Cuộc sống vắn vỏi ấy kết thúc một cuộc đời-kết thúc cả cuộc đời tuổi trẻ đến phi lý- phải chăng Lý Trung Dũng như một con chiên làm vật hiến tế thay cho bố?

Tin chắc là ông buồn vô kể. Như một phần đời của ông không còn nữa. Tôi còn nhớ, đến thăm ông, tiếng kêu của Dũng ở trong nhà vọng ra ngoài phòng khách, ông làm như thản nhiên tiếp tục nói chuyện.

Khi buổi chiều ra về, lòng tôi chùng xuống một nỗi buồn. Trên tay cầm cuốn:Một thời bom đạn, một thời Hòa Bình.

Đây là cuốn sách duy nhất được xuất bản sau 1975 của ông, một cuốn sách mà tự nó cho thấy cái hèn kém của một người trí thức thiên tả miền Nam. Bởi vì đó là cuốn sách hoàn toàn sai sự thật, đánh lận con đen và tự bôi nhọ chính mình.

Lý Chánh Trung trước 1975, khi viết thường luôn luôn kết án chế độ tư bản bóc lột, đã làm tha hóa con người. Theo ông, con người bị vong thân trở thành những công cụ. Đó là hình ảnh của những con sen, thằng ở, cô vũ nữ, anh bồi, anh tài xế. những người lao động là nạn nhận nằm trong mối tương quan: ông chủ-thằng ở.

Hoàn cảnh ấy so với người trí thức miền Nam trở thành công cụ cho chế độ cộng sản thì có khác gì? Nghĩ tới hoàn cảnh người trí thức miền Nam, miền Bắc – hoàn cảnh của một Lý Chánh Trung hiện nay thì cũng chỉ là một công cụ của chế độ? Nói huỵch tẹt là một thứ nô lệ tệ hơn nô lệ. Bảo sao thì phải nói vậy.

Có bao giờ Lý Chánh Trung nghĩ rằng chính ông hiện đang vong thân, tự đánh mất phẩm tính, nhân cách con người, trở thành những con vẹt biết nói?

Vì thế, tôi thiết nghĩ cần có một bài viết đầy đủ về ông – như một nhân chứng sáng giá nhất cũng như bi kịch nhất – của một trí thức miền Nam đã tự vong thân cho cộng sản và nếu không nói bây giờ thì còn có dịp nào để nói?

Một lần nữa, tôi muốn đi lại hành trình trí thức cũng như những hoạt động thời VNCH và thời sau 1975 của ông. Đó là hai thời kỳ, hai chặng đường của một người trí thức tiêu biểu của miền Nam.

Hai thời kỳ ấy, ông đã diễn dịch và phân định bằng hai biểu tượng là MộtThời đạn bom. Một thời Hòa Bình(9).
Một thời đạn bom được hiểu là một thời oan trái do bom đạn Mỹ gây ra. Và một thời Hòa Bình, thời sau 1975 mà dân chúng được hưởng tự do, an bình, hạnh phúc, ấm no.

Thật là mỉa mai quá. Thời bom đạn vì ai nên nỗi. Và thời Hòa Bình, hạnh phúc nơi mô? Hòa bình kiển nào, cho ai sau 1975?
Sự phân hai thời kỳ của Lý Chánh Trung đã giản dị hóa đến cùng cực thực tế đau buồn của cả hai thời kỳ. Nó chỉ còn là những tuyên truyền đầy cảm tính.

Cuộc chiến được tô vẽ như một bên thật giầu, thật lớn, thật mạnh, một bên thật nghèo, thật nhỏ, thật yếu. Một bên thả bom, một bên hứng bom. Một bên đi giầy, một bên chân không, một bên mập lù, một bên ốm nhách. Một bên cỡi máy bay, một bên chạy bộ. Và cứ thế, trong năm năm trời, không bên nào thắng bên nào.

Và ông có một giấc mơ được huyễn hoặc:

“Trên đỉnh núi Sọ, trơ vơ một cây thập giá. Trên cây Thập giá, có một người bị đóng đinh đang hấp hối.. Chung quanh người bị đóng đinh vần vũ một bầy kên lông trắng, lông vàng với những cái cánh bao la che kín mặt trời..
Tôi đến dưới chân Thập giá, ngước mắt nhìn lên.
Người bị đóng đinh là dân tộc tôi.”(10)

Đọc những dòng trên, tôi có cảm tưởng Lý Chánh Trung chả thua gì một Tố Hữu ngoài Bắc.

Tôi không nói oan cho ông đâu. Những Lê Hiếu Đằng, những Hồ Ngọc Nhuận, những Lý Quý Chung cũng đã từng là những con vẹt biết nói tiếng người như thế cả. Nhưng một lúc nào đó, họ dám nói lên sự thật. Nói như Đào Hiếu thì đó là cái bi kịch của loại trí thức miền Nam thiên tả. Bi kịch muôn đời của kẻ làm tay sai?

Nhưng ít ra thì những người trên cũng hơn Lý Chánh Trung một bậc. Bởi vì cuối cùng họ cũng biết phản tỉnh!

Lý Quý Chung trong một dịp trả lời phỏng vấn của Alain Ruscio lập lại nhận xét của Ngô Công Đức, Giám đốc tờ Tin Sáng:

“Như phần đông những người bạn tôi ở đây, tôi đã sống nghiệm trải hai chế độ báo chí..Trước đây chúng tôi đã là những người thợ bửa củi, còn bây giờ, chúng tôi là những người thợ mộc. Thái độ đã hoàn toàn khác. Bây giờ chúng tôi lao mình vào việc xây dựng. Bây giờ tôi cảm thấy mình có ích cho xã hội hơn cho Việt Nam, cho dân tộc tôi, liên hệ gắn bó với dân tộc, trách nhiệm hơn.”(11)

Hãy cứ hỏi 700 tờ báo hiện nay ở VN họ là thợ bửa củi hay họ là thợ mộc?

Chính vì làm báo kiểu thợ mộc Lý Quý Chung mà khi giáo sư Trần Văn Giàu đến thăm tòa báo Tin Sáng lần đâu tiên đã đưa ra lời nhận xét khen mà mỉa mai như sau:

“Các anh làm báo cộng sản như… Cộng sản.”

Lần sau ông đến khen nhiều hơn:

“Các anh làm báo cộng sản hơn.. cộng sản.”(12)

Lời khen này nếu hiểu ra thì quả thực Trần Văn Giàu quá hiểu cộng sản cũng như quá hiểu những kẻ nịnh cộng sản.

Có nghĩa là các anh nịnh giỏi quá.

Vì thế, Hồ Ngọc Nhuận khi viết cuốn Hồi Ký Đời, đã ghi chú thêm: Chuyện về những người tù của tôi.

Những người tù ở đây là ai? Là Nguyễn Ngọc Lan, là Lê Hiếu Đằng, là Ngô Công Đức, là Dương Văn Ba, là Nguyễn Hữu Hiệp mặc dầu họ chưa đi tù một ngày nào trong chế độ mới.

Nói chung, đọc hết các sách của Lý Chánh Trung như Tìm Về Dân tộc, Tôn Giáo và Dân Tộc, Những Ngày Buồn Nôn. Tôi chỉ thấy những lời nguyền rủa và xưng tụng.

Nó thiếu vắng một nụ cười trong sáng của sự thật.

Để cho việc vẽ lại chân dung và diện mạo cũng như hành trình nhận thức hay hành trạng cuộc đời Lý Chánh Trung được đầy đủ, xin chia bài viết làm hai phần:

– Lý Chánh Trung trước 1975 – Thời đạn bom
– Lý Chánh Trung sau 1975 – Thời Hòa Bình

  1. Cuộc đời hoạt động của ông trước 1975

Lý Chánh Trung và những người trí thức công giáo

Ông đã tự vẽ chân dung của mình là khi từ Bỉ về nước, ông đã về quê ở Vĩnh Bình và dạy cho một trường học là cơ sở của Cách mạng. Một thời gian ngắn sau ông lên Sài Gòn..Năm 1955, ông từ bỏ Vĩnh Bình- quê ông- và gia nhập vào trong nhóm trí thức công giáo Pax Romana với các quý ông như bs Nguyễn Văn Ái, lm Nguyễn Bình An( qua đời rất sớm vì bệnh cancer) bs Nguyễn Văn Thơ, luật sư Nguyễn Văn Huyền, các giáo sư Phạm Thị Tự, Nguyễn Văn Trung, Phó Bá Long, Trần Long, các chuyên viên như Lâm Võ Hoàng, Anh Tôn Trang, Võ Long Triều, Đoản Thanh Liêm, v.v.

Nhóm này đã tổ chức ‘Tuần lễ Hội Học công giáo’ và và cho ra ‘Tủ sách Đạo và Đời’.

Đây là giai đoạn hiền lành và trong sáng nhất của một người trí thức như ông. Nó tiêu biểu cho giới trí thức công giáo thành thị mà phần đông du học ở ngoại quốc về.

Sau đó do sáng kiến phần lớn của Nguyễn Đình Đầu để thể hiện tinh thần Công đồng Vatican 2, ông cùng với Nguyễn Văn Trung Nguyễn Đình Đầu, Anh Tôn Trang chủ trương tờ tuần báo Sống Đạo. Trụ sở tờ báo là mượn văn phòng xã hội của linh mục Parrel, trên đường Nguyễn Du, cạnh nhà thờ Đức Bà.

Tổ chức tờ báo có hai bộ phận. Bộ phận viết bài chủ lực là Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Nguyễn Đình Đầu, Anh Tôn Trang. Bộ phận phát hành do các anh em trong phong trào Thanh Sinh Công, do anh Phong trách nhiệm phân phối báo đi các giáo xứ.

Anh Phong đã ra đi rất sớm khi còn trẻ. Thật đáng tiếc một con người hoạt động xông xáo, lúc nào cũng vui vẻ nhanh nhẹn. Tinh thần của anh Phong là phục vụ. phục vụ cho xã hội, cho con người- và cũng là vâng theo Chúa của anh.

Sau đây, xin trích dẫn vài bài báo của Lý Chánh Trung đã được đăng trên Sống Đạo vào các tháng 7,8,9 năm 1962 như:

  • Thân Phận tôi đòi
  • Ông chủ xe hơi và cô thư ký
  • Hai giới thanh niên
  • Những gót chân non

Các bài viết của Lý Chánh Trung trong thời kỳ này đã có những ám ảnh mà chủ yếu đặt nặng vấn đề Công bằng Xã hội – một đề tài quen thuộc và được ông khai thác nhiều lần. Nó phản ánh một phần các tư tưởng xã hội của chủ nghĩa Mác Xít trong đó có các vấn đề Cần Lao, vấn đề Vong Thân, vấn đề Bạo động và vấn đề Tranh đấu giai cấp, vấn đề Bóc lột giữa chủ và thợ, v.v.

Những ý tưởng then chốt về công bằng xã hội sẽ là những bước mở đường cho Lý Chánh Trung một ngày không xa đến thực sự với cộng sản.

Nói như thế chỉ là hoàn cảnh đặc biệt dành cho Lý Chánh Trung thôi.. Những sinh viên nào ngồi trên ghế nhà trường đã bước qua cổng trường của Platon thì không có gì xa lạ với những chủ đề xã hội trên.

Không có điều gì nhất thiết bắt buộc một người trí thức có ý thức thiên tả thì sẽ đi theo cộng sản!

Tôi còn nhớ, lúc bấy giờ Báo Sống Đạo bán rất chạy, gây được tiếng vang lớn. Ai cũng hăng say tin tưởng từ anh em viết bài chủ lực, đến các sinh viên và đến anh em phụ trách phát báo.

Phản ứng của độc giả thì nhiều – đủ loại khen chê tức giận cũng có, đôi khi cấm bán báo nữa. Đó là phản ứng phải có trong một xã hội đang bắt đầu mở ra trước những trào lưu tư tưởng phương Tây xâm nhập vào Việt Nam.

Phần Lý Chánh Trung được anh em đề nghị làm chủ bút.

Nhưng ông thừa biết, bọn trí thức Bắc Kỳ công giáo làm hết mọi chuyện: -Từ sáng kiến cũng do họ – tổ chức do họ – phương tiện vật chất do họ tự liệu – viết cũng do họ. Nhưng họ vẫn đẩy ông ra làm người đứng đầu. Sau này cũng thế khi làm tờ Hành Trình, ông vẫn giữ vai trò chủ bút. Nguyễn Văn Trung vai chủ nhiệm.

Việc thì người khác làm, danh xưng thì ông nhận(13). Điều đó cho thấy yếu tố miền trong nhiều trường hợp trở thành yếu tố căn bản cho mọi hoạt động chính trị, văn hóa và cả tôn giáo.

Lý Chánh Trung đã thừa hưởng một cách tự nhiên các điều kiện thuận lợi ấy của một người trí thức gốc miền Nam.

Và nhóm trí thức nàycũng đã tổ chức được một tuần lễ Hội học xã hội dưới nhan đề: Lương tâm công giáo và công bằng xã hội vào năm 1963, do nhóm Trí thức công giáo Sài Gòn.

Điều hành và tổ chức cũng do tụi công giáo Bắc Kỳ làm hết. Nhưng bài thuyết trình khai mạc cũng dành cái vinh dự đó cho ông. Với sự góp mặt của Lý Chánh Trung, Trần Văn Toàn, Trần Long, Anh Tôn Trang, Võ Long Triều, Mai Văn Lễ, Lm Nguyễn Bình An, Nguyễn Văn Trung.

Lý Chánh Trung với bài tham luận khai mạc: Sự phát triển của ý niệm Công Bằng trong lịch sử. Nguyễn Văn Trung là người kết thúc tuần lễ hội thảo với: Trách nhiệm hiện tại của người công giáo(14).

Xin lưu ý là trong tuần lễ Hội thảo này, ban tổ chức đã chỉ mời giới chức lãnh đạo tôn giáo như TGM Nguyễn Văn Bình, cả Khâm sứ tòa Thánh. Nhưng đã không mời đại diện chính quyền như các ông Trần Kim Tuyến hay Ngô Đình Nhu.

Điều đó muốn nói lên tính cách độc lập của buổi Hội thảo. Tách biệt giữa tôn giáo và chính trị.

Và họ củng thừa biết rằng, dù có mời, ông Ngô Đình Nhu cũng không đi dự vì ông không muốn dính dáng vào sinh hoạt của tôn giáo.

Giữa ông Diệm, ông Hồ, Lý Chánh Trung chọn ai? Một chọn lựa chính trị?

Ông đặc biệt ác cảm với ông Diệm ngay từ lần đầu gặp gỡ khi còn là sinh viên ở Bỉ. Ông kể lại có gặp ông Diệm một lần khi ông nảy đến thăm sinh viên. Ông tỏ ra thất vọng vì ông Diệm thân Mỹ và không am hiểu hết về các vấn đề xã hội.

Trong một bài viết, ông còn tỏ ra bất công và miệt thị ông Diệm một cách nặng nề. Mặc dầu khi về Việt Nam, ông cũng đã được trọng dụng hơn ai hết trong guồng máy giáo dục miền Nam. Ông cũng như ông anh ruột Lý Chánh Đức trở thành những công chức cao cấp trong ngành giáo dục với vị trí giám đốc và Tổng Thư ký Bộ Giáo Dục, rồi giáo sư đại học, có nhà ở khu làng đại học Thủ Đức và đây là những nhận xét đầy miệt thị của ông trước cái chết của ông Diệm:

Nhưng từ đó mà cho rằng chế độ ông Diệm là một thời đại hoàng kim và chỉ cần bắt chước ông Diệm là có thể giải quyết những vấn đề đất nước, như một số tay chân bộ hạ của ông đang tuyên bố rùm beng thì thật là lố bịch và vô liêm sỉ.

Những người đang hò hét khóc lóc chung quanh cái tên ông Diệm như một bầy quạ trên một xác chết.

Và nếu họ không còn chút tự trọng, xin họ dầu sao cũng thương dùm ông Diệm. Tội nghiệp ông! Tôi ứa nước mắt mà viết câu này, xin họ hiểu cho(15).

Nhưng đối với ông Hồ Chí Minh thì ông tỏ ra cung kính hết mực như trong một bài viết của ông nhan đề: Nói chuyện với người đã khuất, nhân dịp Hồ Chí Minh qua đời(16). Ông viết:

Cho nên tôi không tiếc mà cũng không trách cụ Hồ đã lựa chọn con đường cộng sản. Tôi chỉ khâm phục Cụ đã trung thành tuyệt đối với sự lựa chọn của mình. Tôi không thể đi theo con đường của Cụ, nhưng tôi có thể noi gương Cụ để đi tận cùng con đường của tôi, con đường mà tôi đã lựa chọn trước lương tâm tôi, như Cụ đã làm 50 năm trước. 50 năm trước, với sự thành công của Cách Mạng tháng 10, với nhân cách và tài năng vô song của Lê Nin, với cái bầu khí huynh đệ, chí tình, hăng say và tin tưởng trong một đệ tam Quốc tế vừa thành lập với một điểm tựa vững chắc, chủ nghĩa cộng sản đã hiện ra tước mắt Cụ như là con đường duy nhất để giải phóng dân tộc và giải phóng con người.

Những đoạn văn viết như thế này, nếu có dịp đọc lại thấy ngượng- ngượng cho cả người viết lẫn người đọc.

Ông viết như thế mà nhiều người không thù oán ông và chính thể của nền Đệ Nhị Công Hòa cũng để ông yên.

Ông vẫn được làm Đổng lý Văn phòng Bộ Giáo Dục. Đi làm vẫn có tài xế đưa đón.

Ông ăn thóc nhà Chu mà chửi nhà Chu. Hoặc ông rập khuôn cái tinh thần: Nắng được lúc nào thì cứ nắng như trong một bài viết của cụ Phan Khôi chăng?

Nhưng người cộng sản đọc thì đánh giá ông là người cộng sản không có thẻ đảng. Một lời khen hay một lời cảnh cáo?

Thế nhưng, trong cả hai chế độ Đệ Nhất và Đệ Nhị miền Nam, ông đều tạo cho mình một chỗ đứng cao và không phe phái nào oán ghét cả. Và từ chỗ đó, ông là người người miền Nam duy nhất có thể thỏa hiệp, đồng hành với nhiều phía ở ngoài chính quyền. Từ cấp tiến tới khuynh tả rồi cuối cùng tới cộng sản, từ công giáo tới Phật giáo, từ phe cánh miền Nam tới thành phần lực lượng thứ ba thiên tả.

Chỗ nào có chống đối là có ông.

Xem tiếp phần II

————————-

(1) Hồ Ngọc Nhuận ghi lầm, Ba Ka, không phải “Ba Ca”, tên thật là  Phạm Khải, Bí thư Tỉnh ủy Gia Định 1953-1954
(2) Một số chi tiết trong phần này là căn cứ vào Hồi Ký Đời của Hổ Ngọc Nhuận, người có mặt trong đoàn đại biểu miền Nam ra Bắc.
(3) Hồ Ngọc Nhuận, Đời, trang 294
(4) Hồ Ngọc Nhuận, Ibid, trang 295
(5) Hồi Ký Những ngã rẽ, Dương Văn Ba, chương 14. Nội bộ báo Tin Sáng rạn nứt. Tin Sáng chấm dứt vai trò lịch sử
(6) Hồ Ngọc Nhuận, Ibid., trang 296
(7) Làng Đại Học Thủ Đức được thành lập là do một dự án của ông Ngô Đình Nhu muốn đưa một số phân khoa Đại học lên Thủ Đức như một thứ Campus của Tây Phương. Nhưng chỉ mới xây dựng bước đầu làng Đại Học cho các giáo sư thì ông bị thảm sát năm 1963. Chương trình tốt đẹp ấy giống như nhiều chương trình xã hội khác bị bỏ dở. Khu đất làng Đại Học là do đất mua lại của nông dân với giá rẻ. Các giáo sư được cho vay một số tiền rồi được tùy ý xây cất theo ý thích của mỗi người.
(8) Lý Chánh Trung, Một thời đạn bom, Một thời Hòa Bình. Nxb Đồng Nai. Đây là cuốn sách được xuất bản sau 1975 được chính quyền cộng sản cho xuất bản cùng với cuốn Hồi Ký của Lý Quý Chung. Các cuốn Hồi Ký khác của Dương Văn Ba và Hồ Ngọc Nhuận bị cấm xuất bản. Nhưng Hồ Ngọc Nhuận vẫn cho in chui, dưới dạng photocopy. Tôi có được một ấn bản này.
(9) Nội dung cuốn sách chắc được xào nấu kỹ càng chỉ có hai mặt: Chê và khen. Chê miền Nam trước 1975 và khen chế độ XHCN sau 1975 với nhiều phần sai sự thật, lấp liêm, bất công nếu không nói là xuyên tạc.
(10) Lý Chánh Trung, Những ngày buồn nôn, Bầy kên kên và cây thập giá, trang 160
(11) Alain Ruscio, Vivre au Viet Nam, trang 177
(12) Hồ Ngọc Nhuận, Ibid., bản thảo, trang 73
(13) Tờ Hành Trình, tuy chỉ xuất bản được mười số, Nhưng lại gây tiếng vang nhiều nhất. Một bản tin của A.F.P, ngày 12-11-1965 đã đưa tin như sau: Son dernier reproduit un article de revue littéraire mensuelle ‘Itinéraire’ qui semble etr le porte-parole des milieux univertsitaires et intellectuels. (Số ra cuối cùng của tờ báo – chỉ tờ sinh viên Huế – đã in lại một bài bài báo Hành Trình, một tờ báo được coi như phát ngôn viên cho giới Đại Học và trí thức).
(14) Trích Tuần Lễ Hội Học 1963. Nhóm Trí thức công giáo sài Gòn. Lương Tâm Công Giáo và Công Bằng Xã Hội, dưới sự bảo trợ của Tổng Giám Mục giáo khu Sài Giòn, nxb Nam Sơn
(15) Lý Chánh Trung, Những ngày buồn nôn, tạp chí Đất Nước, số 112, trang 138; chủ nhiệm Nguyễn Văn Trung, chủ bút Lý Chánh Trung, Tổng thư ký tòa soạn, Thế Nguyên, tòa soạn, 291 Lý Thái Tổ, Sài gòn
(16) Lý Chánh Trung, Ibid., Nói chuyện với người đã khuất, ngày 21-9-1969, trang 15


 

Ai sẽ trả tiền SCB?

Ba’o Tieng Dan

Nguyễn Thông

25-11-2023

Những ngày này năm trước (2022) chứ đâu xa. Nhớ mấy hôm cuối tháng 11.2022 ấy, tôi đi qua mấy trụ sở, phòng giao dịch của ngân hàng SCB thấy đông nghẹt người. Phát hoảng, hỏi ra thì biết người dân tới rút tiền, lo bị mất sau khi đại gia Trương Mỹ Lan bị bắt.

Người dân nằm trước ngân hàng SCB Hà Nội, biểu tình đòi tiền. Nguồn: Facebook

Vẫn nhớ rất rõ, trước tình hình căng, chính quyền, công an, ngân hàng nhà nước, báo chí mậu dịch cùng lên tiếng trấn an dân chúng, nói người dân đừng lo lắng, đừng rút tiền, tiền ở đâu thì còn đó, không có gì mà lo…, đồng thời đề nghị nhà nước xử lý nghiêm những thế lực thù địch, lợi dụng đục nước béo cò, tung tin kích động, xuyên tạc, gây rối, gây hoang mang, kích động dân chúng đi rút tiền.

Đích thân Thống đốc ngân hàng nhà nước Nguyễn Thị Hồng đứng ra tuyên bố (được hầu hết báo mậu dịch thuật lại đầy đủ) rằng: “Mọi quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền ở SCB luôn được nhà nước bảo đảm“. Đại loại, ngân hàng là ngân hàng, Mỹ Lan là Mỹ Lan, Vạn Thịnh Phát là Vạn Thịnh Phát, đâu ra đó, bà con đừng lo, chẳng kẻ nào chiếm đoạt được tiền của bà con. Nếu xảy ra sự gì, đã có nhà nước lo, đứng ra chịu trách nhiệm.

Nay thì con mẹ Mỹ Lan đã bị công an tố tội chiếm đoạt hết tiền của SCB, tất nhiên trong đó có tiền gửi tiết kiệm của dân. Chưa thấy chị Hồng lên tiếng gì về khoản tiền gửi này. Ai sẽ trả cho dân, hay lại đổ hết cho con mẹ Lan? Nó còn gì mà trả, ngoài cái thân nó.

Đứa cháu tôi năm xưa bán cái nhà, được khoản tiền đem gửi vào SCB để kiếm chút tiền lãi sống qua ngày. Năm ngoái nó cũng đi xếp hàng rút tiền, sau nghe lời bà Hồng nên về, không rút nữa. Không tin bà Hồng thì tin ai.

Mấy hôm rồi, nó cứ gọi cho tôi suốt, hỏi phải làm sao. Thì biết làm sao bây giờ. Tôi nói, ai năm ngoái khuyên mày đừng rút thì họ sẽ có trách nhiệm trả cho mày. Về đạo lý thì thế, chứ theo luật là mày thua rồi, cháu ạ. Thôi thì cứ chờ xem, ở hiền gặp lành.


 

Chạy chức-Tác Giả: Phạm Đình Trọng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Phạm Đình Trọng

 

KÌ  1

  1. Trong những người đứng đầu đảng cộng sản cầm quyền ở Việt Nam thì ông đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng là người riết róng nhất về công tác cán bộ, rao giảng cao giọng nhất về đòi hỏi làm gương của người lãnh đạo, dạy bảo nhiều nhất về chọn lọc, đề bạt quan chức trong bộ máy nhà nước, hội họp nhiều nhất với hai cơ quan tối cao của đảng là bộ Chính trị và ban Bí thư về đội ngũ cán bộ lãnh đạo và ban hành dồn dập nhất những quyết định, chỉ thị, qui định về đội ngũ quan chức lãnh đạo đảng và nhà nước.

Đặc biệt việc chạy chức, chạy quyền được đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng xăm soi nhiều nhất, cảnh báo nghiêm khắc nhất, răn đe mạnh nhất và hai kì đại hội đảng gần đây ông Trọng đều là trưởng ban nhân sự, rà soát từng người đưa vào cơ quan lãnh đạo cao nhất của đảng.

Ảnh minh họa- nguồn Internet

Nhưng hãy nhìn việc đề bạt quan chức cấp quốc gia của tổ chức đảng sẽ nhận ra ngay cội nguồn của chạy chức chạy quyền, nhận ra nơi chạy chức ngang nhiên, công khai, ồ ạt và bất tận.

Bỏ qua việc chính ông đảng trưởng riết róng yêu cầu làm gương của người lãnh đạo, khắt khe đòi hỏi thực hiện nghiêm những qui định về công tác cán bộ của đảng lại chính là người nêu gương chiếm giữ chiếc ghế người đứng đầu đảng liền ba nhiệm kì, bất chấp cả điều lệ đảng là qui định có tính nguyên tắc, là luật lệ cao nhất của đảng. Đại hội 11 đảng cộng sản Việt Nam tháng một năm 2011 đưa ông Nguyễn Phú Trọng đã 67 tuổi lên vị trí người đứng đầu đảng với chức danh Tổng Bí thư thì đại hội 11 liền đưa ngay vào Điều lệ đảng, chương III, điều 17, qui định rằng: “Đồng chí Tổng Bí thư giữ chức vụ Tổng Bí thư không quá hai nhiệm kỳ liên tiếp”.

Từ 2011 đến nay, suốt ba nhiệm kì liên tiếp ông Nguyễn Phú Trọng đứng đầu đảng cầm quyền thì đội ngũ quan chức ở phương diện quốc gia, những người quyết định sự thịnh suy của đất nước, quyết định bộ mặt xã hội và đời sống của người dân lại bộc lộ là đội ngũ quan chức tồi tệ nhất, yếu kém nhất, hư hỏng nhiều nhất, phạm tội nghiêm trọng nhất, gây thiệt hại cho nước, gây tội ác với dân lớn nhất, đưa đất nước vào những thất bại, khó khăn nghiêm trọng, đẩy người dân vào cuộc sống khốn cùng, phải nhận những mất mát bi thảm nhất, mất mát hàng chục ngàn mạng sống người dân trong đại dịch covid 19.

Quyền lực quốc gia ăn chia với tư bản hoang dã làm giầu bằng tài nguyên đất đai, đẩy người dân vào cuộc đời đau thương, vào cuộc sống cùng quẫn, vào thân phận tù tội diễn ra trên khắp đất nước, từ Văn Giang, Hưng Yên, Dương Nội và Đồng Tâm, Hà Nội đến Thủ Thiêm, Sài Gòn.

Tư lệnh cảnh sát biển bán biển cho đường dây buôn lậu.

Bộ Y tế, bộ Khoa học Công nghệ bảo lãnh cho gian thương buôn kit test dỏm rồi chính quyền địa phương cưỡng bức dân, đè ngửa dân ra ngoáy đi ngoáy lại mũi dân bẳng kit dỏm để gian thương tiêu thụ hàng giả và để dịch covid bùng phát giết chết hơn bốn mươi ba ngàn dân.

imager_1_1702_700 | Embezzlement of Property | Tin Nhanh Chung Khoan ...

Cả hệ thống quyền lực tổ chức chuyến bay hút máu dân núp dưới tên mĩ miều, lừa bịp Chuyến Bay Giải Cứu . . .

Những vụ việc ghê tởm, bẩn thỉu, nhục nhã như vừa nêu diễn ra dồn dập trên khắp đất nước đã phơi bày bộ mặt thấp hèn, bất lương, độc ác không còn một chút tính người của đám quan chức ở phương diện quốc gia dưới triều Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng riết róng và trực tiếp làm công việc chọn lọc nhân sự, đề bạt cán bộ.

Bỏ qua hạng quan chức lãnh đạo quốc gia, quản lí xã hội từ cấp cao chót vót đã lộ mặt đốn mạt, đang trùng trùng lớp lớp trở thành tội phạm nối nhau ra toà và lũ lượt vào tù mà suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm, cả thời nhà nước phong kiến thối nát, suy tàn, cả thời nhà nước thực dân đô hộ cũng chưa hề có.

25 Best Marketing Consultant Near Thanh Nhàn, Ha Noi, Vietnam ...

Chưa có thời đại nào đảng viên đảng cầm quyền đều là những đảng uỷ cấp cao được tổ chức đảng chọn lọc đặt lên ghế quan chức nhà nước lại đồng loạt đổ đốn, đồng loạt biến chủ trương, chính sách của nhà nước chăm lo cho dân thành cơ hội cướp bóc dân, biến công vụ, nhiệm vụ công chức thành dịch vụ tư. Hưởng lương công chức nhà nước, sử dụng thời gian, phương tiện nhà nước thanh tra những vụ quan chức tham nhũng chiếm đoạt tài sản tiền bạc nhà nước thì quan thanh tra liền đòi được ăn chia ba mươi phần trăm tiền thu hồi từ tham nhũng! Hạng quan chức chỉ có con người hưởng thụ, không có con người trách nhiệm có mặt khắp các cấp chính quyền, nắm giữ đủ các thứ bậc quyền lực.

Bỏ qua quá đông những kẻ được đảng uỷ các cấp chọn lọc, tiến cử trao quyền lực quốc gia nhưng đã lộ mặt là hạng giá áo túi cơm, chỉ biết mang quyền lực quốc gia vơ vét cho bản thân và gia đình để vinh thân phì gia, đang nhiều lần bị điệu cổ ra tòa án, nhiều lần phơi bản mặt bẩn thỉu, ô nhục trước bàn dân thiên hạ, đang chen vai, thích cánh bên nhau ở toà án, đang lúc nhúc như lũ dòi nhặng, lũ sâu mọt trong các nhà tù.

Bài 1: Chí công vô tư - Hoc24

Chỉ điểm mặt vài quan chức đang vênh váo chiếm chiếc ghế quyền lực của dân nhưng người dân không được tiến cử, không được bầu chọn mà do tổ chức đảng chia chác những chiếc ghế quyền lực của dân cho đảng viên có vai vế trong đảng. Người dân mất quyền công dân đích thực nhất, lớn nhất, thiêng liêng nhất, không được tiến cử và bầu chọn hiền tài thực sự của dân, do đó những người nắm quyền lực của dân đều không phải hiền tài trong dân mà chỉ là người của những thế lực trong đảng nên mới có những quan chức nhà nước khi nhắc đến tên, khi nhìn thấy mặt, người dân chỉ thấy ngán ngẩm, không muốn nghe nhắc đến tên, càng không muốn nhìn bản mặt. Vì nghe nhắc đến tên, nhìn thấy bản mặt hạng quan chức đó, người dân chỉ thấy cái tầm thường, thấp kém dưới mặt bằng xã hội!

Xin điểm vài gương mặt đó.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Biết Tạ Ơn Ai

Viet Báo

 

Những ngày cận lễ, tôi hân hạnh nhận được qua email một bài viết về Ngày Lễ Tạ Ơn của nhà văn Giao Chỉ. Xin được trích dẫn đôi đoạn ngắn để chia sẻ cùng độc giả:

Quả thực người Mỹ đã có đầy đủ lý do để giữ gìn truyền thống với ngày Lễ Tạ ơn vào tháng 11 mỗi năm. Lịch sử ghi rằng vào năm 1620 có một nhóm gia đình người Anh theo Tin Lành đã đi tìm đất mới để sống đời tự do tín ngưỡng…

Trải qua một năm đầu với mùa đông khắc nghiệt, không đủ thực phẩm, không có đủ quần áo, không có nơi cư trú nên di dân đã phải chôn cất 46 người. Qua năm sau, mùa gặt 1621 thành công, di dân cùng dân da đỏ bản xứ tổ chức tiệc mừng lễ tạ ơn trên đất Mỹ.

Đó là ngày lễ hội đầu tiên tại Mỹ Châu và truyền thống còn mãi đến ngày nay…

Pilgrims Celebrated Thanksgiving Because Only 60% Died

Đạo luật quốc tịch của Hoa Kỳ ban hành 1790, hơn 200 năm trước đã có những lời vàng ngọc như sau: Bất cứ ai tị nạn đến Hoa Kỳ, sau khi được xác nhận sẽ hưởng quy chế nhập cư. Như vậy chúng ta hiểu một cách giản dị là nếu đã đến Mỹ thì sẽ có cơ hội trở thành người Mỹ. Căn cứ vào điều khoản của luật 1790, một đạo luật khác đã ra đời năm 1975 có tên là Indochina Migration and Refugee Act…

Khi miền Nam sụp đổ tháng 4-1975 đợt di tản đầu tiên của người Việt đã mở ra một đầu cầu quan trọng cho lịch sử di dân từ Châu Á. Những chuyến đi vô cùng mạo hiểm của thuyền nhân đã làm thành thiên anh hùng ca của con đường đi tìm tự do với hàng ngàn con tàu May Flower của dân Việt đã ra đi trong đó nhiều di dân không bao giờ đến được miền đất Hứa…​

Và dù 5 ăn 5 thua con tàu Mayflower Việt Nam đã ra đi từ khắp miền duyên hải có khi chỉ là những chiếc ghe nhỏ bé mong manh. Người Việt đã vì nhiều lý do để ra đi suốt bao nhiêu năm qua. Và danh từ Boat People trong tự điển thế giới đã không còn cùng ý nghĩa xưa cũ để chỉ những người sinh sống ở trên thuyền. Boat People ngày nay có nghĩa là người Việt đã đi tìm tự do bằng thuyền vượt biển Nam Hải.

Lịch sử các cuộc di dân của nhân loại đã đưa đến nhận định rằng Ta không thể lựa chọn sinh quán, nhưng ta có thể chọn lựa để sống ở miền đất mà chúng ta yêu quý. (You cannot choose the land you birth, but you can choose the land you love).

Nhận định này, tiếc thay, không hẳn đã hoàn toàn đúng với tuyệt đại đa số người Việt đang sống lây lất ở Cambodia. Phần lớn họ không được chính phủ sở tại xem là cư dân hợp pháp nên vẫn cứ là những boat people (bấp bênh sinh sống trên thuyền) ở Biển Hồ, và nhiều bến bờ khác nữa xuôi theo dòng sông Tonlé Sap.

Sau một chuyến đi thăm đồng hương ở đất nước này, nhà báo Văn Quang kết luận:

“Hầu hết là người Việt Nam lưu lạc qua Campuchia vì nhiều lý do khác nhau. Nhưng tựu chung họ là những người đi kiếm sống ở một vùng tưởng rằng đó là đất hứa… Trước hay sau họ cũng phải tìm đường đi thôi. Nhưng đi đâu, làm cái gì để sống là những hòn đá tảng níu chân họ lại. Rồi bao nhiêu đời vẫn cứ thay nhau lầm than cơ cực ở nơi xứ người này, không có lối thoát. Họ vẫn chỉ có một ý nghĩ, ở đây họ còn có chiếc thuyền, dù rách nát, nhưng họ vẫn có một nghề chài lưới kiếm sống qua ngày. Đi nơi khác, chẳng biết bấu víu vào đâu!”

Ảnh Nguyễn Công Bằng

Trong bản tường trình (The Situation of Stateless Ethnic Vietnamese in Cambodia của MIRO) tổ chức này đã ví von đám người Việt đang sinh sống nơi đây là “những kẻ đang sống ngoài cửa thiên đàng.” Ngay giữa thiên đàng của xứ Chùa Tháp (ngó bộ) cũng không hạnh phúc hay tự do gì cho lắm, nói chi đến thân phận của những kẻ còn “kẹt” ở bên ngoài.

Họ “kẹt” cái gì vậy Trời?

Xin thưa cái… quốc tịch Cambodia.

Nhà văn Giao Chỉ cho biết “Đạo luật quốc tịch của Hoa Kỳ ban hành 1790, hơn 200 năm trước đã có những lời vàng ngọc như sau: Bất cứ ai tị nạn đến Hoa Kỳ, sau khi được xác nhận sẽ hưởng quy chế nhập cư.” Cao Miên không phải là Mỹ Quốc nên xứ sở này không có luật lệ gì đàng hoàng và rõ ràng, cùng với những lời lẽ “vàng ngọc” như vậy.

Vô số người Việt sinh đẻ ở Miên còn chưa được cấp cái giấy khai sinh, nói chi đến những thứ xa xỉ như thẻ căn cước hay quốc tịch. Và không quốc tịch cũng có nghĩa là không có quyền tiếp cận với tất cả những dịch vụ và quyền lợi tối thiểu như người dân bản xứ: không y tế, không giáo dục, không có quyền sở hữu đất đai hay tài sản…

Thực ra thì những người dân trôi sông lạc chợ này cũng chả ai biết (hay dám) đòi hỏi quyền lợi gì ráo trọi. Tất cả chỉ mong được sống cho nó yên thân thôi nhưng sự mong muốn giản dị này – xem chừng – vẫn còn rất xa tầm tay của họ.

Chính phủ Cambodia đang tiến hành một cuộc kiểm tra dân số mà nhiều quan sát viên cho rằng mục đích chính của nó là nhắm vào đám dân Việt Nam đang ngụ cư ở đất nước này. Ông Sok Hieng – công nhân xây cất,  33 tuổi, sinh ở Nam Vang nhưng có bố mẹ gốc việt – bầy tỏ sự lo âu: “Tôi sợ rằng mình sẽ buộc phải rời khỏi Cambodia vì tôi chưa có thẻ căn cước. Khi tôi đến Việt Nam, họ coi tôi là người Miên; tôi ở giữa người Miên và người Việt.” (Sean Teehan & Phak Seangly. “Vietnamese wary of planned census.” The Phnom Penh Post ).

Nỗi lo sợ của Sok Hieng đã trở thành sự thực vào hai tháng sau, vân theo The Phnom Penh Post : “Chỉ trong vòng một ngày 142 người di dân bất hợp pháp Việt Nam đã bị trả qua biên giới – Census deportations hit 142 in single day.”

Cùng với sự bất an, nếp sống bấp bênh và nghèo khó là nét nổi bật trong sinh hoạt hàng ngày của đa số dân Việt ở Cambodia –  theo như tường trình của thông tín viên Quốc Việt, RFA:

“Hầu hết người Việt sống trên làng nổi, theo bờ sông đều không có đất đai sản xuất nên họ bắt buộc lăn lộn lén lút đi đánh bắt cá. Các gia đình đều muốn cho con em có nơi chỗ ăn học để vươn lên trong xã hội và đóng góp cho đất nước tuy nhiên tất cả đều không có khả năng.”

Nhiều năm trước, sau khi chia tay đồng bào mình ở Cambodia, nhà báo Văn Quang vẫn còn ngoái nhìn lại, với rất nhiều ái ngại:

“Hình ảnh những bà cụ già lưng còng lom khom trên chiếc ghe mỏng manh, những đứa trẻ con người Việt tháo láo mắt nhìn khách lạ, những gia đình 7-8 đứa con sống lúc nhúc trên chiếc ghe rách tơi tả còn bám theo tôi mãi.”

Đến nay chúng tôi mới lò dò đến xứ sở này, và kinh ngạc nhận ra rằng hình ảnh của “những bà cụ già lưng còng lom khom trên chiếc ghe mỏng manh, những đứa trẻ con người Việt tháo láo mắt nhìn khách lạ” vẫn còn nguyên vẹn như xưa. Thời gian, dường như, đã ngừng trôi trên những bến nước ở nơi đây.

Chúng tôi ghé làng nổi Kandal và Chong Kok, thuộc xã Phsar Chhnang – tỉnh Kampong Chhnang – nằm ở phần đuôi của Biển Hồ (nơi hiếm có khách du lịch nào lai vãng) và được  ông trưởng thôn cho biết: “nơi đây có 931 gia đình người Việt, nhân khẩu chính xác là 4,760, tất cả đều là người Việt hay gốc Việt.”

Người Miên và người Chàm không sống trên ghe, và họ có quyền lựa chọn một lối sống bình thường (trên bờ) như đa phần nhân loại. Số dân Việt Nam đang trôi nổi ở xứ Chùa Tháp thì không. Họ là thứ sắc dân vô tổ quốc (stateless ethnic Vietnamese, theo như cách gọi chính thức của các N.G.O đang hoạt động ở Cambodia) nên  không có quyền sở hữu tài sản hay đất đai, và buộc phải chấp nhận một nếp sống rất bồng bềnh, và vô cùng bấp bênh – như hiện cảnh.

Chúng tôi đi ghe vòng vòng thăm hỏi và trò chuyện với chừng chục gia đình người Việt, những thuyền nhân (boat people) ở Kampong Chhnang. Không ai chuẩn bị gì ráo trọi cho mùa Thanksgiving này cả. Họ hoàn toàn không có chút khái niệm gì về Lễ Tạ Ơn có lẽ vì không biết phải tạ ơn ai!


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Những cô giáo nhỏ

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Bữa coi phim Titanic tui khóc ướt áo luôn khiến mấy đứa nhỏ cười bò lăn, bò càng:

– Trời ơi, sao nghe nói “tuổi già hạt lệ như sương” mà ba lại nhiều nước mắt dữ vậy cà?

Sau con, tới vợ:

– Chắc tại cái tuyến nước mắt của ổng bị bể (ngang) nên nó mới tràn lan quá xá ể như vậy!

Tui (ra đường) hay đi tròng ghẹo thiên hạ nên (về nhà) bị mẹ con nó xúm lại chọc quê kể cũng… đáng đời. Tui không giận dỗi hay buồn phiền gì ráo mà chỉ cảm thấy mình cũng hơi kỳ.

Tui không chỉ yếu xìu trong chuyện làm tiền (cũng như làm tình) mà còn yếu ớt trong đủ thứ chuyện tào lao khác nữa. Tui đi mua hàng bị thối thiếu tiền nhưng sợ người bán ngượng nên đành nín lặng cho qua. Sáng sớm chạy tập thể dục, lỡ đạp nhằm con ốc sên (“nghe cái rốp”) là tui bần thần cho tới tận trưa luôn. Dọn vườn – có khi – lỡ tay làm gẫy một nhánh hoa, cũng khiến tôi đâm ra áy náy.

Nói tóm lại, và nói theo ngôn ngữ của tâm lý học phổ thông, là tui thuộc loại người đa cảm và có hơi nhiều … nữ tính. Đây không hẳn vì tính trời sinh đâu mà còn do ảnh hưởng của giáo dục từ những năm thơ ấu.

Không hiểu tại sao, và bằng cách nào, khi vừa đến tuổi cắp sách đến trường thì tôi (và năm bẩy thằng nhóc khác) lại được nhận vô trường nữ tiểu học Đoàn Thị Điểm – ở Đà Lạt. Thành phố này vốn sẵn nhiều bông, tui lại lâm vào cảnh “lạc giữa rừng hoa” nên trở thành “mong manh” là phải.

Các cô giáo của tôi đều là những phụ nữ xinh đẹp, dịu dàng, hiền lành và vô cùng tận tụy. Qua năm năm tiểu học, tôi được dậy dỗ kỹ càng nhiều điều cần thiết để thành người tử tế: phải rửa tay trước khi ăn, đánh răng trước khi ngủ, phải viết chữ (thay vì con số) ở đầu câu, phải xuống hàng sau mỗi đoạn văn đã đủ ý, phải vâng lời cha mẹ và anh chị, kính mến người già, tôn trọng thiên nhiên, thương mến súc vật, quí trọng bạn bè, yêu quê hương đất nước, thương người như thể thương thân…

Tuy không không thành công hay hiển đạt (gì ráo trọi) tôi vẫn sống được như một người đàng hoàng cho mãi đến hôm nay là nhờ luôn ghi khắc (và biết ơn) những gì đã được học hỏi vào thưở ấu thời. Hình ảnh của những cô giáo (thiên thần) của tôi cũng thế, cũng mãi mãi in đậm trong tâm trí của một kẻ tha hương – dù tóc đã điểm sương.

Trên con đường học vấn, tôi tự cho mình là một kẻ may mắn. Ít nhất thì cũng may mắn hơn rất nhiều những đứa bé thơ, hiện đang lớn lên ở đất nước Việt Nam:

– Cô giáo mầm non dùng dép đánh vào đầu trẻ

– Viết sai chính tả học sinh bị cô giáo đánh thâm tím mặt

– Giáo viên buộc học sinh uống nước giẻ lau bảng

– Thầy giáo cấp 1 bị tố dâm ô 9 học sinh lớp 3 …

– Phụ huynh biểu tình phản đối lạm thu

Như đã thưa, tôi vốn đa cảm và yếu đuối. Nghe tiếng vỡ vụn của một cái vỏ ốc sên dưới gót chân (lỡ bước) cũng đủ khiến tôi cảm thấy bất an nên không khỏi hoang mang, lo ngại cho những mầm non xứ sở vì những mẩu tin thượng dẫn.

May thay – tuần rồi – tôi tình cờ quen được một cô giáo trẻ, đang đi thăm người thân ở thủ đô Bangkok. Khi được hỏi về nghề nghiệp, cháu hãnh diện cho biết mình là một giáo viên dạy học tại một vùng quê thuộc tỉnh Nghệ An.

Tính cởi mở, và vẻ bặt thiệp, của người đồng hương khiến tôi bớt ngần ngại khi đặt những câu hỏi về tình trạng trẻ thơ bị ngược đãi hay bạo hành nơi trường học. Cháu xác nhận là có nhưng không nhiều lắm, và nói thêm rằng trở ngại lớn của nền giáo dục Việt Nam (hiện nay) là mức sống quá thấp nơi những thôn làng heo hút. Ở lắm chỗ, chuyện ăn mặc vẫn còn là vấn đề nên việc học hành gần như đang bị lãng quên hay bị coi như là điều xa xỉ.

Trước khi chia tay, chúng tôi trao đổi fb, email …  Có lẽ vì sợ tuổi tác khiến cho tôi khó cập nhật thông tin nên vài hôm cô giáo trẻ gửi cho tôi vài bài báo, rất cảm động, về công việc của nhiều bạn đồng nghiệp:

– Cô giáo bản nghèo, cống hiến tuổi thanh xuân cho học sinh vùng cao
– Cô giáo trẻ mang lời ca tiếng hát ra hải đảo
– Ngưỡng mộ cô giáo trẻ năng động, tâm huyết ở bãi bồi ven bờ sông Hậu
– Cô giáo 19 năm hi sinh hạnh phúc riêng vì học trò vùng cao

Tuần qua, tôi cũng tình cờ đọc được một đoạn văn ngăn (ngắn) nhưng đầy ắp tình cảm của nhà báo Mai Thanh Hải. Ông viết vì quá xúc động sau cái chết của một cô giáo vùng cao, bị lũ cuốn trôi:

Vẫn nhớ gương mặt em hòa lẫn cùng hơn 20 gương mặt giáo viên Mầm non toàn nữ, trong những ngày rét nhất, rét đến cứng đơ người của mùa rét 2011 năm trước, khi các em tập trung về điểm Trường chính Sàng Ma Sao (Bát Xát, Lào Cao) nhận áo ấm, thực phẩm, chăn màn của Gánh Hàng xén – “Cơm có thịt” cho bọn lít nhít đang ngồi yên ở điểm Trường Ki Quan San, đợi cô về.

Hôm ấy, mình phải ngủ lại điểm trường chính vì đường rừng bị sạt lở và lần đầu tiên, mấy thằng đàn ông bị “quây” rượu bởi hơn 30 cô giáo trẻ măng, vừa học xong đã phải lên trên bản dạy học, cả tháng may ra về Thị trấn được 1 lần.

Cuộc rượu về đêm, không say nổi bởi nghe các em thay nhau kể về cái cảnh thiếu thốn, chịu đựng và còn cả khát khao rất tầm thường của những thiếu nữ mới hơn 22-23 tuổi, đang ở phố thị, nhoằng cái phải lên rừng dạy học.

Sống cuộc sống không điện đóm, không tivi, không đài, không bạn bè, không tiếng người Kinh qua lại. Thiếu thốn từ hạt muối cho đến thanh củi, đêm nằm trong căn nhà tranh dột nát, gió lùa hun hút, không ngủ được vì lạnh, thành mất ngủ triền miên… Gần 2 năm, dự định gần Tết lại mang áo của Áo ấm biên cương lên Sàng Ma Sáo, gặp lại các em. Vậy mà!

Vĩnh biệt em, cô giáo Lý Thị Hồng (SN 1987, dân tộc Giáy, cư trú ở thôn Piềng Láo, xã Mường Hum, Bát Xát, Lào Cai) – Giáo viên thuộc phân hiệu Ki Quan San, Trường Mầm non xã Sàng Ma Sáo…

Họ hy sinh mọi thứ (kể cả tính mạng) nhưng họ chỉ được nhận lại khoản tiền thù lao vô cùng ít ỏi. Theo BBC: “Một nhà khoa học Việt Nam đưa ra đánh giá nói công an và quân đội có thu nhập chính thức cao nhất, còn nghề giáo và làm nông là thấp nhất nước này.” Bà Nguyễn Thị Kim Thanh – Trưởng Phòng GD, Sở GD-ĐT TPHCM – cho biết thêm chi tiết: “Tính ra, thu nhập của giáo viên mầm non còn thua cả người giúp việc!”

Ông Nguyễn Tiến Đạt, Phó Giám Đốc Sở GD-ĐT TPHCM, khẳng định: “Không đâu chăm lo mầm non tốt như ở nước ta!” Tôi e khó mà chia sẻ với sự lạc quan của vị Phó Giám Đốc Sở GD-ĐT TPHCM, trước thực trạng “thu nhập của giáo viên mầm non còn thua cả người giúp việc!”

Tuy thế, không ai có thể phủ nhận được sự tận tụy, cùng tấm lòng vị tha, của hằng vạn giáo viên trên khắp nẻo đường đất nước. Xin chân thành cảm ơn các em, các cháu – những cô gái Việt Nam vô danh và thầm lặng – đã vì những mầm non bất hạnh mà hy sinh, và trao trọn tuổi thanh xuân, để tương lai của xứ sở đỡ được phần đen tối.


 

Nhớ về thầy giáo Nguyễn Năng Tĩnh

Chau Trieu   Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, nhớ về thầy giáo Nguyễn Năng Tĩnh. Năm 2019, thầy Nguyễn Năng Tĩnh bị nhà cầm quyền CSVN bắt giam với cáo buộc chống nhà nước. Thầy Tĩnh được nhiều người biết đến khi dạy học sinh hát bài “Trả lại cho dân”, một trong những bài hát nổi tiếng của nhạc sỹ bất đồng chính kiến Việt Khang hiện đang tị nạn tại Mỹ. Lời bài hát có đoạn: “Trả lại đây cho nhân dân tôi Quyền tự do, quyền con người Quyền được nhìn, được nghe, được nói Quyền được chọn chân lý tự do Quyền xóa bỏ độc tài độc tôn…”
 

Thầy Lưu Bình Nhưỡng bị bắt và ‘tỷ lệ công lý’-Lê Quốc Quân

Ba’o Tieng Dan

Blog VOA

Lê Quốc Quân

16-11-2023

Công an tỉnh Thái Bình bắt tạm giam ông Lưu Bình Nhưỡng, một quan chức thuộc quốc hội Việt Nam, hôm 15/11/2023. Nguồn: CAND

Thầy Lưu Bình Nhưỡng cũng đã chia sẻ với tôi một lần về việc “không hợp” với bên công an và Viện kiểm sát. Mới đây tôi được nghe từ một người bạn đang làm trong Chính phủ rằng trong một lần cách đây 3 năm, ông Trương Hoà Bình đã nói về thầy Lưu Bình Nhưỡng rằng “Thằng khóc thuê đó, đợi đấy”.

Lời tác giả: Có nhiều cách gọi tên ông Lưu Bình Nhưỡng, vì ông có học hàm Tiến sỹ lại là Cựu đại biểu quốc hội nhưng vì đã từng là thầy giáo của tôi tại trường đại học luật Hà Nội nên tôi chọn cách xưng là Thầy như tôi đã từng gọi thầy suốt gần 30 năm qua, trong bài viết này.

***

Sáng ngày 15/11 hàng loạt tờ báo của Việt Nam đều đưa tin “Công an tỉnh Thái Bình đã ra quyết định khởi tố bị can, bắt tạm giam ông Lưu Bình Nhưỡng về hành vi cưỡng đoạt tài sản theo khoản 4 Điều 170 Bộ Luật hình sự”.

Thầy Lưu Bình Nhưỡng là ai?

Sinh ngày 4/2/1963 tại xã Hùng Dũng, Huyện Hưng Hà, Tỉnh Thái Bình, ở tuổi 18 Thầy nhập ngũ và sau 2 năm phục vụ trong quân đội, Thầy trở về thi vào Khoá 8, Đại học Luật Hà Nội năm 1983 (khi đó còn gọi là Đại học Pháp lý đóng tại Thường Tín, Hà Nội). Đến năm 1987 thì tốt nghiệp đại học. Nhờ thành tích học tập xuất sắc và khả năng làm việc trong Đoàn sinh viên rất tốt, Thầy được ở lại trường làm giảng viên môn Luật Lao động, rồi làm trưởng bộ môn sau khi bảo vệ thành công tiến sỹ luật.

Thầy từng tham gia một khoá tu nghiệp ngắn ở Australia và tiếp tục lên làm Phó chủ nhiệm khoa Pháp luật Kinh tế. Thầy được vào diện “quy hoạch” từ sớm nhờ năng lực và tư duy “dám nghĩ, dám nói”. Từ đại học Luật, Thầy chuyển sang làm Chánh văn phòng Tổng cục thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp và sau đó là Thành viên của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương. Với tư cách đó, Thầy đã từng sinh hoạt cùng đảng bộ với tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và nhiều lãnh đạo cấp cao nhất trong đảng cộng sản. Thầy biết nhiều thông tin quan trọng, cả của lãnh đạo cao cấp và của nhân dân bần nông.

Thầy là đại biểu quốc hội khoá 14 (2016-2021) chuyên trách trung ương, uỷ viên thường trực của Uỷ ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội, phó trưởng ban dân nguyện của Quốc hội, phó chủ tịch Nhóm Nghị sĩ Hữu nghị Việt Nam – Thuỵ Sĩ. Thầy thực sự gây được ấn tượng cho nhiều người vì sự thẳng thắn và “trực ngôn” của mình. Ngay từ thời còn là giảng viên đại học, rất nhiều người (cả học sinh và đồng nghiệp) yêu mến Thầy nhưng cũng nhiều người ghét.

Tôi may mắn là học sinh trực tiếp của Thầy tại Đại học Luật Hà Nội (Tôi học K19, Đại học Luật Hà Nội) khi đó thầy dạy tôi môn Luật Lao động. Năm 2001-2003 khi tôi học cao học luât K3 tại trường thì thầy đang làm ở Khoa Kinh tế cho nên có rất nhiều lần gặp Thầy, tôi cũng hiểu phần nào về tính cách và con người Thầy.

Cho dù có rất nhiều thông tin khác nhau về thầy Lưu Bình Nhưỡng trong việc đối xử với học sinh, quan hệ tình cảm cá nhân và cả câu chuyện vật chất, nhưng cảm nhận của tôi thì Thầy là người đáng kính và “rất đặc biệt”.

Dù khá thân tình, Thầy có theo dõi nhưng chưa bao giờ công khai ủng hộ tôi trong các hoạt động đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam.

Những phân tích pháp lý ban đầu

Qua quan sát thì thấy rằng thầy Nhưỡng bị bắt khẩn cấp khi vừa xuống sân bay Nội bài tối 14/11, sau đó được di lý về nhà và cơ quan để tiến hành việc khám xét nơi ở và nơi làm việc. Khoản 1 Điều 110 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 quy định 3 trường hợp sau đây thì bị bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp:

  1. a) khi có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
  2. b) Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
  3. c) Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.

Theo thông tin được báo chí đưa ra và theo suy đoán logic thì thầy Lưu Bình Nhưỡng rơi vào Tiết 3, của Khoản 1, nghĩa là: Công an thấy “dấu vết của tội pham và đang muốn tìm chứng cứ” nên bắt ngay tại sân bay. Có thể nằm ngay trong chính chiếc “cặp đơn từ” mà thầy vẫn hay mang theo.

Cũng chính vì vậy mà các báo đều đưa tin: “Quá trình bắt, khám xét, cơ quan cảnh sát điều tra đã thu giữ nhiều đồ vật, tài liệu có dấu hiệu vi phạm pháp luật phục vụ công tác điều tra mở rộng vụ án”. Đây là dấu hiệu cho thấy việc khởi tố về tội “cưỡng đoạt tài sản” chỉ là những căn cứ để bắt giữ ban đầu để tiếp tục “đánh án” sâu hơn.

Điều 170 BLHS quy định: “Người nào đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 1 đến 5 năm”. Khoản 4 quy định nếu: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500 triệu đồng trở lên b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thì bị phạt tù từ 12 đến 20 năm.

Cấu thành tội phạm của “Cưỡng đoạt tài sản” mặt chủ quan là “đoạt tài sản”; cho nên việc mong muốn “đoạt tiền” được đặt ra từ đầu và là mục tiêu theo đuổi đến tận cuối. Báo chí đều nói rất ít đến hành vi của Thầy nên chưa thể võ đoán nhưng việc liên hệ với Cường “quắt” có thể “đồng phạm” với tư cách đã được nhờ cậy” và thầy “giúp” lên tiếng với các bên liên quan.

“Thằng khóc thuê đó, đợi đấy”

Thầy Lưu Bình Nhưỡng cũng đã chia sẻ với tôi một lần về việc “không hợp” với bên công an và Viện kiểm sát. Mới đây tôi được nghe từ một người bạn đang làm trong Chính phủ rằng trong một lần cách đây 3 năm, ông Trương Hoà Bình đã nói về thầy Lưu Bình Nhưỡng rằng “Thằng khóc thuê đó, đợi đấy”.

Đúng là, suốt bao nhiêu năm làm đại biểu quốc hội rồi làm phó Ban dân nguyện, Thầy đã xông xáo vào những nơi vô cùng khó khăn, đụng chạm đến rất nhiều người để nói lên tiếng nói của người dân, để “khóc” cho dân. Là Phó ban dân nguyện, thầy đã nhận đơn, thay mặt dân để chuyển đơn và “liên hệ, phối hợp, thúc ép” rất nhiều cơ quan hành pháp giải quyết nguyện vọng cho người khiếu kiện hoặc khi có vấn đề cần kêu lên Quốc hội.

Có lẽ chưa có ai dám vạch ra những điểm sai trái của Ngành công an. Thầy đã nói rằng: “Tội phạm tham nhũng đang nhảy múa trên lưỡi gươm pháp luật” trong khi Bộ Công an luôn được coi là “Thanh gươm” của Đảng. Chính vì vậy, ngay khi còn đang là đại biểu quốc hội, Thầy đã bị báo Công trực tiếp lên tiếng phản đối .

Không chỉ nặng lòng với những oan trái của dân chúng, phê phán nền hành pháp mà Thầy còn lên tiếng trực tiếp phê phán Quốc hội. Ngày 26/3/2021 Thầy phát biểu: “Quốc hội không được ngủ mê trên quyền lực của nhân dân, không được biến thành căn phòng kín để gom góp lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân và chia chác quyền lực của đất nước”

Tiếng nói trực ngôn cuối cùng?

Hệ luỵ của việc bắt giữ là rất lớn, gây sốc cho nhiều người. Một số bạn học và thầy giáo tôi quen không bất ngờ về việc bắt giữ nhưng đã sụp đổ chút niềm tin còn sót lại của họ đối với thể chế chính trị Việt Nam. Cũng có người hân hoan về việc bắt giữ vì theo niềm tin của họ là đã “bắt đúng người, đúng tội”. Nhưng đối với những ai quan tâm đến vận mệnh của đất nước, tha thiết với công lý thì đây là một tin rất xấu.

Chúng ta có thể chắc chắn rằng việc bắt giữ thầy Lưu Bình Nhưỡng với cáo buộc về tội “Cưỡng đoạt tài sản” chỉ là bước đầu tiên. Trước mắt còn cả một chặng đường dài và có thể trong thời gian tới Thầy sẽ lại bị khởi tố về một tội danh khác liên quan đến tập đoàn Vạn Thịnh Phát nếu như đảng muốn “đi tiếp”.

Thầy đã từng lên tiếng cho nhiều người dân bị oan sai, giờ đây ai sẽ chuyển đơn cho Thầy, chuyển đến đâu? Báo chí thì lặng im, Nhân dân thì nháo nhào đặt câu hỏi còn các nhà quan sát chính trị quốc tế thì chỉ biết “nhíu mày” suy nghĩ về ý định thực sự của chế độ trong việc bắt giữ ông Lưu Bình Nhưỡng là gì?.

Phải chăng công cuộc đốt lò chỉ là một sự thanh trừng nội bộ, bóp nghẹt các tiếng nói độc lập để áp đặt quyền lực thống trị tuyệt đối lên toàn xã hội?


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Trương Tửu

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến  

Ngoại và mẹ tôi đều rất hảo rượu nên mâm cơm gia đình không bao giờ thiếu chai/ lọ và ly/cốc … Được nuôi dưỡng trong cái không khí luôn nồng nàn hơi men như thế nên tôi cũng uống rất đều, và bắt đầu lê la hàng quán, ngay từ lúc thiếu thời.

Quanh bàn rượu, đôi lần, tôi được nghe kể về bà Vương Nhuận Chi (phu nhân của nhà thơ Tô Đông Pha) mà không khỏi sinh lòng hảo cảm:

“Mười năm chia tay bạn, chiều tối chợt bạn xuất hiện. Mở cửa, tay nắm chặt tay, chẳng kịp hỏi tới nhà mình bằng thuyền hay bằng ngựa. Cũng chẳng kịp mời ngồi ghế hay ngồi giường. Hàn huyên qua loa, vội chạy vào nhà trong, thấp giọng hỏi vợ rằng :

  • Mình liệu có đấu rượu của Tô Đông Pha không?

Vợ tươi cười rút cành trâm vàng đang cài trên đầu trao cho. Thế là đủ ba ngày cơm rượu…”

Chỉ cần một bữa “cơm rượu” thế thôi (nếu có) cũng đủ cho tôi tri ân người bạn đời của mình cho đến khi nhắm mắt. Nói chi tới ba ngày, hay sáu bữa. Vương Nhuận Chi quả là một tấm gương sáng soi cho nữ nhi (hậu thế) chỉ tiếc có điều là nó đã mờ dần với thời gian.

Bà đã vĩnh biệt dương gian cả ngàn năm rồi. Nay, mấy ai còn nhớ đến người phụ nữ rút cành trâm vàng ̣ để mua rượu đãi bạn của chồng (dễ dàng) như thế?

May mắn và gần gũi hơn, mới ngày qua, tôi lại vừa biết thêm về vị nữ lưu tuyệt vời khác nữa:

Tên bà là Nguyễn Thị Lai (1916-1996) con gái đầu của cụ Nguyễn Xuân Giới chủ một hiệu may nhỏ tại phố Tiên Tsin – nay là phố Hàng Gà – Hà Nội. Khi lập gia đình với nhà văn Trương Tửu bà được cha mẹ chia hồi môn cho một cửa hàng tạp hoá nhỏ đầu phố Hàng Điếu – Cửa Đông để bán hàng xén. Cuộc đời bà chỉ lặng lẽ làm nội trợ phía sau chồng con.

 Ngày rằm tháng giêng năm nay, kỹ sư Trương Quốc Tùng con trai của ông bà kể cho tôi nghe về nghị lực của người mẹ khi trải qua “cơn bão” Nhân văn Giai phẩm quét tới… Giáo sư Trương Tửu không còn dạy Đại học, ông bẻ bút về nhà. Không lương, không biên chế, mọi nguồn thu nhập của gia đình dồn hết lên đôi vai bà Lai.

 Giáo sư Trương Tửu mở phòng khám Đông y châm cứu thì cơ quan chức năng yêu cầu đóng cửa vì không có chuyên môn y khoa. Lúc này 45 tuổi, tối tối bà Lai đi học lớp Trung cấp Đông y bền bỉ và tốt nghiệp, được cấp bằng xuất sắc. Bà đứng tên đăng ký hành nghề, mở hiệu Đông y bắt mạch, kê đơn, bốc thuốc, châm cứu. Tiếng lành đồn xa, cửa hiệu lúc nào cũng đông khách.

 Kỹ sư Trương Quốc Tùng trầm ngâm nhớ tới lời kể của người thân trong gia đình (thời gian này ông đang đi học tại CHDC Đức) có những bữa cơm, bà Lai chỉ ăn cơm không. Bà nói: Nhai kỹ thấy cơm bùi và rất ngọt.

Kỳ thực, người vợ, người mẹ ấy nhường phần thức ăn ít ỏi trên mâm cơm cho chồng, cho con nhỏ… Khó khăn chồng chất nhưng không bao giờ bà có một lời oán thán! ( Người Vợ Nhân Văn. FB  Son Kieu Mai – 02/28/2021 ).

Ngay bên dưới bài viết này là phản hồi của độc giả Lệ Thúy“Tại sao nguoi chồng khong cố gắng vật lộn để khắc phục hoàn cảnh, lai cứ phải là bà vợ, vừa chăm con nội trợ lại lăn lộn kiếm tiền, chồng để ngắm ? Bởi đảm đang thế nên đàn ông cứ ươn hèn…”

Trương Tửu bị mắng là “ươn hèn” không phải là chuyện ngẫu nhiên. Người đời nay không mấy kẻ biết về ông, kể cả những nhân vật học thức – theo nhận xét của PGS.TS. Nguyễn Thị Bình :

“Ông thuộc số tên tuổi mà thế hệ chúng tôi (cùng một số thế hệ trước và sau chúng tôi nữa) được nghe nói đến nhiều nhất nhưng lại ít rõ ràng nhất. Trong suốt một thời kỳ dài, chúng tôi không sao hiểu nổi ông là ai giữa những lời kết án nặng trịch trên giấy trắng mực đen và vô số câu chuyện đồn thổi vừa đầy niềm thán phục vừa không thiếu ngậm ngùi cay đắng.”

Nỗi “cay đắng” này có thể được lý giải gẫy gọn như sau:

“Năm 1984, khi trở về Hà Nội, tôi muốn tìm lại, dù chỉ một dấu vết nhỏ, chứng minh sự hiện diện của Nhân Văn Giai Phẩm trong lòng người dân Bắc. Nhưng vô ích. Tất cả đều đã bị xóa sổ. Kín đáo dò hỏi những người thân trong gia đình sống ở Hà Nội, thuộc thế hệ ‘phải biết’ Nhân Văn, xem có ai còn nhớ gì không? Nhưng không, tuyệt nhiên chẳng ai ‘nghe nói’ đến những cái tên như thế bao giờ: linh hồn Nhân Văn đã bị xóa trong ký ức quần chúng, và như vậy, ‘nọc độc’ Nhân Văn đã hoàn toàn bị tẩy sạch. (Thụy Khuê. Nhân Văn Giai Phẩm & Vấn Đề Nguyễn Ái Quốc. Tiếng Quê Hương: Virgninia, 2012).

Công việc “tẩy sạch” cá nhân Trương Tửu cũng đã được “đội ngũ văn nghệ cùng giới trí thức miền Bắc thực hiện một cách hơi quá nhiệt tình (bởi cả đám môn sinh cũ của ông) mà “viện sỹ” Phan Cự Đệ là một gương mặt tiêu biểu :

“Với một lập trường chính trị phản động, thù địch với tư tưởng xã hội chủ nghĩa, với những quan điểm văn nghệ tư sản lỗi thời, với một phương pháp giảng dạy hoàn toàn duy tâm chủ quan, cơ hội, chúng ta có thể kết luận rằng: trong mấy năm qua, Trương Tửu đã tỏ ra không xứng đáng một tý nào với cương vị giáo sư một trường Đại học.”

Thời thế, may thay, không đứng về phía những kẻ xu thời. Do đó, ngay đến  Wikipedia (vốn luôn được biên soạn theo khẩu vị Hà Nội) cũng đã đề cập đến Trương Tửu một cách công bằng và khách quan hơn. Nó chỉ “gài” có mỗi một câu sai với sự thực thôi: “Đầu năm 1958, bị buộc thôi việc vì dính líu đến vụ Nhân văn giai phẩm. Sau đó, ông chuyển sang nghiên cứu y học và sống bằng nghề Đông y.”

Sự thực thì đúng là Trương Tửu định xoay sở sống bằng nghề Đông Y nhưng đâu có được Đảng và Nhà Nước để cho yên phận. Bởi thế nên mới có cảnh bà Nguyễn Thị Lai phải “nhường phần thức ăn ít ỏi trên mâm cơm cho chồng, cho con nhỏ… Khó khăn chồng chất nhưng không bao giờ bà có một lời oán thán!”

Trường hợp của L.S Nguyễn Mạnh Tường cũng vậy, cũng được Wikipedia Hà Nội “biên tập” một cách nhập nhèm, lấp liếm tương tự: “Sau vụ Nhân văn Giai phẩm, ông được chuyển sang làm chuyên viên nghiên cứu văn học nước ngoài tại Viện nghiên cứu phương pháp và chương trình giáo dục thuộc Bộ Giáo dục, và là cộng tác viên của nhà xuất bản Giáo dục.”

Nghe cứ y như thiệt vậy, nếu chính người trong cuộc không có cơ hội lên tiếng:

“Thảm cảnh đầu tiên mà tôi và gia đình phải chịu đó là cái đói… Tôi muốn dạy tiếng Pháp tại nhà. Nhưng vừa mới bắt đầu là đã có một đám công an, chắc chắn là đã được bọn gián điệp và điềm chỉ quanh tôi báo động cho họ, xuất hiện và bảo cho tôi là dưới chế độ cộng sản không có gì là tư nhân mà được cho phép, dù chỉ là việc dạy học của những ông thầy tận tụy.” (Nguyễn Mạnh Tường, Un Excommunié – Hanoi, 1954 -1991: Procès d’un intellectuel. Trans Nguyễn Quốc Vĩ – Kẻ Bị Mất Phép Thông Công Hà Nội, 1954-1991: Bản Án Cho Một Trí Thức).

 Tôi mới chỉ có dịp được biết thêm về Trương Tửu qua những bài tiểu luận viết với công tâm của vài vị thức giả thôi (Thụy KhuêLê Hoài NguyênĐỗ Ngọc ThạchLại Nguyên Ân…) nhưng cũng đã có được một hình ảnh về một Trương Tửu khác.

“Ai kiềm chế được quá khứ, kẻ đó kiểm soát được tương lai. Ai kiểm soát được hiện tại, kẻ đó kiềm chế được quá khứ – Who controls the past, controls the future; who controls the present, controls the past.” Khi viết dòng chữ trên, trong tác phẩm Nineteen Eighty – Four, vào năm 1948, George Orwell đã có thể hình dung ra được tất cả những thủ đoạn ma mãnh (của những chế độ toàn trị) trong việc ngụy tạo lịch sử.

Điều mà George Orwell không ngờ tới là kỹ thuật truyền thông tân tiến ngày nay đã đưa nhân loại bước vào Thời Đại Thông Tin. Ở thời đại này, mọi cố gắng đánh tráo dĩ vãng đều trở thành vô vọng, và chỉ tạo ra được những trò hề lố bịch mà thôi.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Nguyễn Tường Thụy

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

Số năm tháng tôi nằm trong tù chắc ít hơn thời gian mà nhà thơ Nguyễn Chí Thiện ngồi trong nhà mét (W.C) và có lẽ cũng chỉ bằng thời gian ngủ trưa của nhà văn Vũ Thư Hiên, ở trại Bất Bạt – Sơn Tây.

Bởi vậy, sau khi đọc tác phẩm Hỏa Lò và Đêm Giữa Ban Ngày của hai ông (rồi đọc thêm Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Thung Lũng Tử Thần của Vũ Ánh, và Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp) thì tôi tự hứa là không bao giờ viết lách gì vể chuyện nhà tù, trại tù hay người tù nào cả.

Chớ có dại mà múa rìu qua mắt thợ!

Tôi giữ được lời hứa này rất nhiều năm cho mãi đến nay, ngày cưới của con gái nhà văn Nguyễn Tường Thụy (NTT) vào hôm 24 tháng 10 năm 2023, Một trong những vị quan khách được mời, T.S Nguyễn Xuân Diện, cho biết:

Anh Tường Thuỵ đang chấp hành án tù ở trong nam, nên một mình chị Lân thay anh gả chồng cho con gái út. Anh chị em đến rất đông đủ khắp mặt. Xa thì có Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và các bạn từ Hải Phòng lên. Mạn Tây Hồ thì có hai nhà văn Phạm Viết Đào, Nguyễn Nguyên Bình. Bạn trẻ Đỗ Cao Cường từ Hải Phòng lên, bạn già Nguyễn Quốc Trung từ Thạch Thất xuống. Toàn là bạn bè của anh Tường Thuỵ. Già nhất hội là cụ Khánh (Châm) năm nay tròn 90 tuổi, cựu tù Quản Bạ không án, lặn lội từ Lĩnh Nam tới dự.

Có 6 bác trai đã tu nghiệp tại các đại học Quản Bạ, Ba Sao, Hoả Lò, Yên Định… phong độ ngời ngời. Lại có 6 bác gái đang nuôi chồng ăn học là các bác: Phạm Thành, Phạm Văn Trội, Trịnh Bá Phương, Lê Dũng, Đỗ Nam Trung, Trương Dũng. Ai cũng ăn mặc đẹp và rất tươi tắn. Hội phụ nữ nên kết nạp họ hoặc tặng huy chương giỏi việc nước đảm việc nhà cho họ.

Nghe nói, trước đám cưới bên an ninh đã đoán rằng đám biểu tình viên sẽ tụ tập tại đám cưới rất đông, nên họ có gặp mẹ cô dâu dặn dò rằng khách của cô chú ko được hô khẩu hiệu Đả đảo Tập Cận Bình, nếu hô là an ninh ập vào liền đấy!
Lúc Trọng thay mặt bố Tường Thuỵ dắt em gái lên trao cho chú rể, mình nhớ và thương lão Thuỵ quá! Phải chi hôm nay lão có mặt ở đây trong ngày trọng đại của con gái út của lão thì lão vui lắm.

 Tiếng chép miệng của Nguyễn Xuân Diện (“phải chi hôm nay lão có mặt ở đây trong ngày trọng đại của con gái út”) khiến tôi chợt nhớ đến một câu chuyện cũ, hơi khó tin, qua lời kể của một chứng nhân thế giá – dịch giả & nhà văn Nguyễn Ước:

“Nhà thơ Lê Nhược Thuỷ tức Lê Hữu Huế vừa tốt nghiệp ban Việt Hán Ðại học Sư phạm Huế năm 1972 và đã có nghị định bổ dụng thì bị bắt vì hoạt động cho ‘phía bên kia’. Trong thời gian bị giam ở Nhà lao Thừa phủ Huế, anh được cho ‘đi phép’ 48 tiếng đồng hồ để làm lễ thành hôn với chị Ph.H. tại Trung tâm Sinh viên Phanxicô Xaviê.

Lúc ấy tôi là Chủ tịch Sinh viên Công giáo nên được hân hạnh đứng chủ hôn đám cưới có tên là Từ Ân đó. Sau khi anh Lê Nhược Thuỷ vào tù lại, chị Ph.H. lên Pleiku, tới nhiệm sở chỉ định của chồng, xin cho chồng được hoãn trình diện vì đang bận ở tù. Chị được Hiệu trưởng mời ở lại dạy Triết. Còn anh Lê Nhược Thuỷ, sau khi ra tù, lên nhận nhiệm sở, an toàn dạy Văn cho tới năm 1975.”

Lúc sinh thời, L.S Lê Hiếu Đằng cũng đã thuật lại một mẩu chuyện “khó quên (và khó tin) không kém:

“Tôi đã từng tham gia phong trào đấu tranh Sinh viên học sinh Huế lúc còn học đệ nhị, đệ nhất Quốc học Huế và đã từng bị bắt giam ở lao Thừa Phủ Huế gần một năm với Lý Thiện Sanh (nay là bác sĩ định cư ở Úc)…

Nhắc đến đây tôi có một kỷ niệm khó quên: ba tôi và mẹ Lý Thiện Sanh nóng lòng vì đã đến kì thi Tú tài II nhưng chúng tôi vẫn bị nhốt trong tù. Vì vậy ông bà làm đơn hú họa xin hai chúng tôi ra thi. Thế mà chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó lại giải quyết cho ra thi.”

Tuy Lê Hiếu Đằng và Lý Thiện Sanh bị bắt giam vì tham gia vào những phong trào do nhà nước cộng sản miền Bắc giật dây nhưng “chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó” vẫn chỉ coi họ như những thiếu niên bồng bột, chứ không phải là phần tử nguy hiểm cần phải trừng phạt (hay trừng trị) nên không có lý do gì để ngăn chận đường con đường học vấn của cả hai.

Tương tự, dù nhà thơ Lê Nhược Thủy bị bắt giam vì “hoạt động cho phía bên kia” nhưng “bên này” vẫn không xem ông như là kẻ tử thù mà chỉ là một người bất đồng chính kiến. Do đó, ông vẫn được chính quyền miền Nam đối xử một cách rất mực nhân văn: cho phép rời nhà tù 48 tiếng đồng hồ để làm lễ cưới, và sau khi hết hạn giam dữ thì vẫn lên Pleiku nhận nhiệm sở để đi dậy học như thường.

Nguyễn Tường Thụy, tiếc thay, không có cái may mắn để được sống trong một bối cảnh xã hội văn minh và “bình thường” như thế. Tuy là một cựu chiến binh, và dù hòa bình đã tái lập gần nửa thế kỷ ở Việt Nam, chuyện ông có thể được “tạm tha” vài tiếng đồng hồ (để tham dự lễ cưới của con) là điều bất khả dưới chê ́độ Đảng trị hiện nay.

Why?

Cô giáo Thảo Dân có sẵn câu trả lời: “Đảng dek có sự tự tin nào hết … Chẳng bao giờ tin dân.”

Thì dân cũng thế. Họ cũng chả đời nào tin Đảng. Tác giả hồi ký Lời Ai Điếu, nhà văn Lê Phú Khải, tường thuật:

“Sáng sớm ngày 14/09/1985 tôi đang ở bến đò Cà Mau chờ đi Năm Căn thì nghe tin đổi tiền. Mới tối hôm trước Đài Tiếng nói Việt Nam (cơ quan tôi làm việc) còn nói ‘Không có chuyện đổi tiền, đồng bào đừng nghe kẻ xấu tung tin đổi tiền’, vậy mà sáng hôm sau … chính cái đài ấy lại hô hào nhân dân đến các trạm đổi tiền để đổi tiền. Một bà già lớn tuổi ngồi cùng ghe đã chỉ tay lên cái loa đang loan tin đổi tiền ở trên bờ chửi, cái đài này nó nói dóc còn hơn con điếm.

Lê Phú Khải chấm dứt cuốn sách bằng câu: “Tôi đã phải sống với ‘con điếm’ ấy cả đời người!”

Hôn nhân cưỡng bách giữa dân tộc Việt Nam với “con điếm ấy” đã kéo dài gần cả thế kỷ rồi, và e sẽ không thể nào tiếp tục mãi như thế nữa. Mọi sự đều có giới hạn, kể cả bạo lực của cường quyền và những lời tuyên truyền dối trá. Với thời gian, cả hai đều không còn tác dụng.

Ngày 05 tháng 01 năm 2021, ba thành viên của Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam bị kết án rất nặng nề:

  • Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội NBĐLVN, 15 năm tù, 3 năm quản chế.
  • Ông Nguyễn Tường Thụy, Phó Chủ tịch HNBĐLVN, 11 năm tù và 3 năm quản chế.
  • Ông Lê Hữu Minh Tuấn, Biên tập viên Vietnamthoibao.org, 11 năm tù và 3 năm quản chế.

Tổng cộng gần 40 năm tù nhưng không làm cho những người trong cuộc nao núng hay khiếp sợ. Cùng ngày, nghĩa là ngay tức khắc, Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam vẫn thản nhiên tuyên bố: “Sẽ tiếp tục hoạt động dựa trên tôn chỉ, mục tiêu thành lập Hội nhà báo độc lập, nhấn mạnh đối thoại, phản biện ôn hòa để đưa đất nước, dân tộc đi lên văn minh, hiện đại.”

Cùng lúc, RFA đi tin: “Nhà báo Nguyễn Tường Thụy, một blogger của Đài Á Châu Tự Do đã xé bỏ đơn kháng cáo, sau khi bị buộc phải viết theo hướng dẫn của viên công an.”

Đài Little Saigon TV cho biết thêm: “Vợ ông Thụy cho rằng năm nay ông đã 72 tuổi, ‘khó có thể ở tù đủ án’. Tuy nhiên ông Thụy cho biết trong bức thư gửi cho bà rằng ông nhất định không nhận tội để giảm án…  Người ta chỉ sống một lần. Nếu cho tôi làm lại, tôi vẫn làm như thế thôi.”

Tuy chồng bị giam cầm (và “khó có thể ở tù đủ án”) bà Phạm Thị Lân, phu nhân của nhà văn NTT, vẫn chu toàn được trách nhiệm của một người làm mẹ. Đám cưới của cháu Thuỵ Châu đã tổ chức chu đáo đến độ khiến mọi người đều phải ngạc nhiên và thán phục:

  • Nguyễn Xuân Nghĩa: “Tiệc cưới đàng hoàng không thua kém gì ở các gia đình có đủ cả chồng lẫn vợ. Tôi nhận ra một chút hãnh diện trong khuôn mặt chị. Hãnh diện vì không chỉ chị có trách nhiệm với chồng trong các chuyến thăm nuôi tận một nhà tù trong Nam Bộ mà còn với một ngày hoàn hảo, là ngày vui nhất trong cuộc đời con gái, như gia đình anh & chị không bị chia ly.”
  • Nguyễn Xuân Diện: “Anh Tường Thuỵ đang chấp hành án tù ở trong nam, nên một mình chị Lân thay anh gả chồng cho con gái út. Anh chị em đến rất đông đủ khắp mặt. Lâu lắm rồi, anh chị em bác cháu mới gặp được nhau. Vui mà thương nhau lắm.”
  • Đặng Bích Phượng: “Một số người được mời dự đám cưới, đã được công an ‘hỏi thăm’ từ hôm trước. Gia đình cô dâu cũng bị dọa dẫm, nếu trong đám cưới mà hô hào phản đối Tập Cận Bình sang VN, là an sẽ ập vào ngay đấy…. Đồng cỏ mênh mông nhà chúng mài, ập vào rồi thì chúng mày làm gì” ?

Tôi không hiểu cái cụm từ mới lạ này (“đồng cỏ mênh mông nhà chúng mài”) nên chỉ đoán chừng đây là một câu mắng nhiếc, cùng với một lời thách thức: “ập vào rồi thì chúng mày làm gì” ?

Không khí tươi vui và thân mật trong ngày vui của hai cháu Thụy Châu – Đức Bằng, và “phong cách ngời ngời” của những khách mời (theo như nguyên văn cách dùng từ T.S Nguyễn Xuân Diện) thì xem chừng đây không phải chỉ là thách thức riêng của cá nhân nhà hoạt động xã hội Đặng Bích Phượng mà còn là sự biểu lộ thái độ sẵn sàng đối đầu của cả một giới người – giới tinh hoa – với chế độ toàn trị hiện hành.

Họ là ai?

Nhà báo Lê Hữu Minh Tuấn cho biết: “ (họ)…  có thể chưa phải là tinh hoa về học thức và địa vị xã hội nhưng chính họ là mầm mống xây dựng một xã hội văn minh, đạo đức, dân chủ, và tự do hơn trong tương lai.”


 

TÙ NHÂN ÁN XÃ HỘI (hình sự) -Fb Huỳnh Thị Tố Nga

Kim Dao Lam

Fb Huỳnh Thị Tố Nga

Những bài viết của tôi thường đề cập nhiều về tù nhân án xã hội, đơn giản, vì họ chiếm tỷ lệ đa số trong hệ thống nhà tù hiện tại so với tù nhân án chính trị. Vậy nên, tranh đấu cho cho đời sống tù nhân, chủ yếu là đấu tranh cho họ. Với tù nhân chính trị, để sự thật được khả tín, tôi chỉ nói về những thực tế chính tôi đã trải qua, những tù nhân chính trị cùng đội, cùng trại với tôi tất nhiên cũng sẽ giống vậy. Còn ở trại khác, bản thân không trải qua thì tôi không đánh giá được.

Thời gian 13 tháng ở trại tạm giam, tôi ở với tù nhân án xã hội. Trước khi ra tù khoảng hai tháng, tôi cũng ở với họ.

Tôi từng ở phòng dành cho hai người, ba người, mười người và phòng lớn 50 người.

Ở trại tạm giam B5, sau khi có kết luận điều tra thì người nhà bắt đầu được thăm nuôi. Thường thức ăn gửi cho lưu ký tù nhân sẽ được nhận, nhưng họ không làm theo quy định, họ làm khó dễ nên ít ai gửi được, người nhà phải gửi trực tiếp cho những quản giáo kèm theo phải tốn tiền công cho họ. Trại An Phước thì rõ ràng hơn, mỗi tháng thăm nuôi một lần, được gửi 7 kg đồ ăn, lố hơn chút ít cũng được, kèm theo 6kg/tháng gửi qua đường bưu điện.

Sau khi có cáo trạng thì nghi can được bố trí ở khu khác, điều kiện đỡ hơn, có đèn, có quạt, sàn lát gạch tương đối sạch sẽ. Nhưng sách báo vẫn cấm, không được xem. Thời tôi ở, phòng 3 người, một người án kinh tế, tội danh sử dụng công nghệ cao lừa đảo chiếm đoạt tài sản, một em án ma túy, em này thời gian sau ra tòa, lãnh án 27 năm. Em này bị bắt khi đang mang thai, em sinh con trong tù, khi tôi vào phòng này, con em được 4 tháng, tôi và người án kinh tế kia, kiêm luôn bảo mẫu chăm con cho em. Tôi nói bi hài là vậy. Ở tù, chứng kiến những người mẹ có con trong tù, nuôi những đứa bé trong phòng giam, những đứa bé giống như mẹ chúng, không được ra ngoài, nên cứ xanh xao, èo uột. Còn những người bị giam như tôi, ở chung như vậy thì trở thành bảo mẫu bất đắt dĩ, phần thì thương mẹ, phần thì thương em bé, nên tôi chăm sóc tận tình, ẵm bồng, đút ăn, tắm rửa cho bé không khác gì mẹ bé.

Con bé dễ thương lắm, nhưng tăng động liên tục, tôi nghĩ thời gian mẹ nó mang thai, đã dùng ma túy bình thường không kiêng cữ nên ít nhiều đã ảnh hưởng tới em bé. Cả hai vợ chồng em đều bị bắt, em còn hai đứa con nhỏ bên ngoài, đưa cho ông bà ngoại nuôi, đứa nhỏ mới sinh này khi 3 tuổi mới được trả về gia đình, mẹ ở tù, con cũng ở tù theo. Tôi đã chứng kiến rất nhiều trường hợp, tù nhân bị gia đình bỏ rơi, có con trong tù như vậy, khi con trẻ đưa về gia đình không ai nhận, họ phải để con vào trại trẻ mồ côi. Bi kịch của những đứa bé này thật sự không có hồi kết. Ai chịu trách nhiệm và giải quyết được cho chúng, trong khi chúng hoàn toàn vô tội!

Ở với nhiều người án buôn bán ma túy, cướp giật, mãi dâm,… tôi hiểu thêm nhiều mảnh đời trong xã hội, họ sống trong thế giới của họ, kiếm tiền, buông thả và hiểu rất ít về chính trị xã hội. Lại đặt ra câu hỏi, phải chăng chính họ phải chịu trách nhiệm về cuộc sống của họ, điều này tất nhiên rồi, nhưng không lẽ cả xã hội vô can sao? Kinh tế èo uột, giáo dục, đạo đức xuống cấp góp phần lớn nhất cho tỷ lệ tội phạm tăng cao.

Sau bốn tháng, tôi lại bị chuyển sang phòng khác, phòng này lớn hơn, thường khoảng tám đến mười người ở chung. Mấy chị em phòng này cũng giống vậy, gồm án kinh tế, ma túy, trộm cắp, giết người,… Ở phòng này, tôi tương đối thảnh thơi hơn, vì không còn chăm em bé nữa, chỉ chờ ngày ra tòa. Thời gian ở tạm giam bị nhốt trong phòng 24/24, chỉ khi tới tháng, có người nhà thăm nuôi thì được ra ngoài trời 15 phút.

Ở trong phòng không có nắng, nhìn tôi trắng xanh, gầy mảnh mai, tóc dài quá thắt lưng, quy định ở tạm giam không cho cắt tóc (khi nào được cắt móng tay, lấy bấm móng tay lén bấm đuôi tóc luôn, tất nhiên, nếu không khéo léo, thì sẽ bị lam nham). Thấy tôi như vậy, mấy chị em đặt cho biệt danh là “Cô Long”, họ chọc, để kiếm cho tôi sợi dây, cho tôi treo người lên ngủ như Tiểu Long Nữ!!

Sau khi ra tòa, khoảng ba tháng sau thì tôi chuyển qua trại An Phước, tôi ở với đội chính trị, trước khi ra tù, lại chuyển ra khu án xã hội, thời gian này ở phòng lớn khoảng năm mươi người. Ở phòng này mới thấy sự khổ sở của tù án xã hội. Lao động về, phải tranh thủ từng chút để tắm giặt, kể cả rửa chén cũng phải tranh giành. Chỗ nằm cũng phải phân chia rõ ràng, mỗi người từ khoảng 8 tấc đến một mét chiều ngang. Chị em mỗi lần tắm chung một đợt mười mấy người, tắm rửa, vệ sinh lộ thiên. Trước đó tôi ở phòng nhỏ, có tắm thì thay nhau, không tắm chung với ai, bây giờ nhìn một lúc mười mấy người không mảnh vải, đứng chen chúc mà phát hoảng, cho dù tù đã mấy năm, vẫn thấy ngại. Cảm thấy xót xa, nói chính xác không phải là khổ nữa mà là cảm giác quyền con người bị chà đạp, cuộc sống con người bị biến thành con thú. Tất cả cuộc sống của tù nhân phơi bày ra hết cho nhau, những gì riêng tư nhất của con người cứ phơi ra như thời tiền sử. Những tủn mủn, lặt vặt trong sinh hoạt hàng ngày biến con người lâu dài trở nên hèn mọn.

Cái gì cũng phải tranh giành, nhưng tôi cũng thấy được, dù là tù án xã hội, nhưng đa số họ có ý thức, họ kiềm chế bớt sự giành giật, nếu không, cuộc sống như vậy sẽ rất hỗn loạn.

Tôi không kỳ thị họ, với tôi, tội của họ, họ đã phải trả gấp nhiều lần bằng thời gian và tiền bạc, chịu lao khổ trong tù. Còn lại, họ đáng thương hơn là đáng trách, vì họ phạm tội, cả xã hội này không thể vô can.

Những người trong số họ, đã chủ động tiếp xúc tôi, họ quý mến và tôn trọng tôi, vậy nên, không có lý gì tôi lại không tôn trọng họ. Có những người án dài, mười mấy hai mươi năm, hoặc án chung thân, họ nói, có thể họ không sống nổi để ra khỏi tù, rõ ràng họ nói thật, không phải bi quan, với cuộc sống như vậy, lao động quá sức, ăn uống kham khổ nếu không có tiền, tinh thần lúc nào cũng áp lực vì lo cho bản thân trong tù, vừa lo cho gia đình ở ngoài, vậy sao sống nổi!

Sống ở trong tù, một là, phải thật sự bản lĩnh, hai là, phải thật sự vô tâm, nếu không phải thuộc hai dạng này, lửng lơ thì không chịu nổi. Từ trại B5 cho đến An Phước, những người này, họ đã từng nói với tôi, họ trông chờ những người như tôi có thể làm gì đó để lên tiếng cho họ. Không phải họ không biết gì, nhưng ở trong hoàn cảnh tù đày như vậy thì lực bất tòng tâm. Họ mong mỏi cuộc sống tù nhân sẽ được thay đổi, nếu không thì không trông mong gì có ngày họ thấy lại cuộc đời.

Ngày tôi ra tù, rất nhiều người tù án xã hội đã đưa tiễn, lưu luyến, có người đã khóc. Mất mấy năm dài thanh xuân trong lao tù, nhưng những trải nghiệm quý giá như thế cũng xứng đáng, phải không?!

Trước khi đi tù, chỉ lên tiếng phản biện xã hội cho người dân thường, sau khi ra tù, lại thấy nặng nề, trách nhiệm đè nặng hơn vì thấu cảm được sự khổ cực của tù nhân, thấy bản thân càng không thể im lặng.

(Cũng chỉ là viết sơ lược, vì viết trên FB không thể viết quá chi tiết).

HUỲNH THỊ TỐ NGA

Nov 11, 2023

Về dự án “hòn non bộ Hạ Long”: ĐBQH tỉnh Quảng Ninh từng đề nghị sửa luật để hợp thức hóa?

Ba’o Tieng Dan

Thái Hạo

9-11-2023

Liên quan đến vụ lấp vùng đệm (khu vực bảo vệ 2) của di sản thế giới Vịnh Hạ Long – Quảng Ninh, có một chi tiết rất đáng chú ý. Đó là vào ngày 12/6/2023, bà Nguyễn Thị Thu Hà – Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ninh đã có phát biểu trên diễn đàn Quốc hội, đề nghị sửa đổi những điều luật có liên quan.

Đại biểu Nguyễn Thị Thu Hà – Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ninh. Nguồn: Quốc hội

Bà Hà cho biết, theo khoản 1, Điều 32 của Luật Di sản và điểm g1, thuộc khoản 1, Điều 31, Luật số 3, thì những dự án thuộc phạm vi khu vực bảo vệ 1 (vùng lõi) và phạm vi khu vực bảo vệ 2 (vùng đệm) của di tích phải thuộc thẩm quyền, chủ trương đồng ý của Thủ tướng Chính phủ. Và theo bà, quy định này là “chưa phù hợp với việc xây dựng các công trình nhà dân cũng như cần xin ý kiến của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là bất cập và tạo gánh nặng về thủ tục hành chính cho địa phương, doanh nghiệp và người dân”.

Vậy nên, bà đề xuất chuyển quyền chấp thuận chủ trương đầu tư từ Thủ tướng sang cho UBND tỉnh, vì “Các nội dung nêu trên thì gây khó khăn, vướng mắc cho địa phương trong việc triển khai thực hiện trong vấn đề phát triển kinh tế – xã hội”.

Vấn đề là, trước phát biểu đề nghị sửa luật này của bà Nguyễn Thị Thu Hà – Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ninh hơn 2 năm, thì dự án Khu đô thị tại khu 10B, phường Quang Hanh, TP Cẩm Phả, đã được UBND tỉnh Quảng Ninh chấp thuận chủ trương đầu tư tại Quyết định số 3787/QĐ-UBND ngày 29/10/2021. Và vấn đề nữa là bà Hà cũng mới đề nghị sửa luật, chứ luật thì chưa được sửa.

Một dự án phải do Thủ tướng chấp thuận, nhưng UBND tỉnh Quảng Ninh đã “làm thay”, và hơn hai năm sau thì một ĐBQH của tỉnh này mới đề nghị sửa luật, phải chăng là để cho phù hợp với “thực tế”?

Việc làm này của UBND tỉnh Quảng Ninh phải chăng là “tiền trảm hậu tấu”, hay là cố ý làm liều để sau đó “vận động” sửa cả luật nhằm hợp thức hóa những sai phạm của mình?

_____

Ghi chú: Tựa bài do Tiếng Dân đặt

Bài liên quan: Vị trí, vai trò của đại biểu Quốc hội được quy định như thế nào? (báo Quảng Ninh). – Phát huy vai trò của đại biểu Quốc hội trong giám sát cán bộ và công tác cán bộ (BNV). – Vùng đệm vịnh Hạ Long bị san lấp làm biệt thự, nhà liền kề? (Người Đô Thị). – Dừng thi công dự án uy hiếp Di sản vịnh Hạ Long (TN). – Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị làm rõ đánh giá tác động môi trường của dự án lấp vùng đệm vịnh Hạ Long — Vụ lấp vùng đệm vịnh Hạ Long: Phạt chủ đầu tư 125 triệu đồng (TP).


 

CHUYỆN NHO NHỎ – Tiểu Tử

Chuyện nhỏ nhưng nỗi đau không nhỏ

Năm 2006, vợ tôi về Việt Nam lo ma chay cho má tôi. Sau đó, bả được mấy đứa cháu chở đi Châu Đốc viếng Chùa Bà.

Cúng vái xong, ra đến cổng chùa thì có một đám bé gái độ mười hai mười ba tuổi bu lại chen lấn nhau xin tiền. Một đứa đứng gần vợ tôi, có vẻ lanh lợi nhứt, xè tay nói một hơi có ca có kệ: “Ngoại ơi ngoại! Ngoại cho con 5000 đồng, con cầu nguyện Bà cho con gái ngoại lấy được chồng Đài Loan! Ngoại ơi ngoại! Ngoại cho con 5000 đồng, con … ”

Trên đường về, vợ tôi miên man suy nghĩ về mấy đứa nhỏ đó: Không có tiền để đi học, còn quá nhỏ để có một cái nghề, và chắc nhiều đứa – rất nhiều đứa – chỉ ước ao lấy được chồng Đài Loan khi mình lớn lên một chút! Rồi vợ tôi thở dài…

Nghe kể mà tôi thấy thương quê hương tôi vô cùng. Trước đây, dù có nghèo đi mấy cũng chưa bao giờ tệ đến như vậy! Viết lại chuyện này mà tôi nghe rát từ đáy lòng rát lên khóe mắt …

Tiểu Tử

From: Tu-Phung