VN cũng có những người tài, nhưng thích làm “tin tặc” hơn làm ăn lương thiện…

Lmdc Viet Nam

– Microsoft bắt được những trang chủ của nhóm đặt tại VN bị cho bán hàng triệu tài khoản giả mạo.

Microsoft bắt được những trang chủ của một nhóm đặt trụ sở tại Việt Nam bị cho đã bán hàng triệu tài khoản giả cho bọn tội phạm mạng. Bọn này dùng các tài khoản đó để tấn công bằng mã độc tống tiền ransomware, ăn cắp thông tin cá nhân và những trò lừa đảo khác trên khắp thế giới.

 

AFP loan tin ngày 15/12 dẫn xác nhận của Microsoft tin vừa nêu. Đó là nhóm có tên Storm-1152. Nhóm này phát triển ra những công cụ tinh vi nhằm đánh bại những chức năng an toàn của Microsoft tạo nên vô số tài khoản thư điện tử Outlook và Hotmail.

Theo thông cáo của Microsoft đưa ra hôm thứ tư 13/12 thủ lĩnh của nhóm được cho biết là ba cá nhân đặt cơ sở ở Việt Nam: (tên viết không có dấu) Duong Dinh Tu, Linh Van Nguyen, và Tai Van Nguyen. Không rõ ngoài ba người này còn có thêm ai khác nữa không.

AFP đã gửi câu hỏi đến ba người theo địa chỉ thư điện tử mà Microsoft đăng trong đơn gửi cho một tòa án Liên bang ở Hoa Kỳ vào tuần trước; cũng như liên lạc giới chức Việt Nam để hỏi về tin vừa nêu. AFP không nói rõ có nhận được phản hồi nào chưa.

Storm-1152 lần đầu tiên bị phát hiện vào năm 2021. Arkose Labs, một công ty an ninh mạng làm việc với Microsoft chống lại nhóm này, đã truy được dấu vết của Storm-1152 từ Việt Nam.

Storm-1152 phát triển phần mềm tự động hay “robot mạng” (ứng dụng phần mềm tự động chạy các tác vụ lặp đi lặp lại trên mạng) nhằm tạo ra những tài khoản giả mạo. Phần mềm này của Storm-1152 đã đánh bại các công cụ bảo mật của Microsoft như CAPTCHA.

Storm-1152 bị cho đã kiếm được hàng triệu USD từ hoạt động của nhóm này.

Tòa án Liên bang Mỹ đã cho phép Microsoft dùng quyền kiểm soát đối với các trang chủ của nhóm Storm-1152 theo đơn của tập đoàn công nghệ khổng lồ này.

Trên các trang chủ đó nay hiện dòng chữ “tên miền này đã bị nắm giữ bởi Microsoft”.

TL RFA

https://www.rfa.org/…/a-vietnam-based-groups-websites…

AFP cho biết thêm như sau:

  • Storm-1152 được phát hiện lần đầu tiên vào năm 2021. Arkose Labs, công ty an ninh mạng đã hợp tác với Microsoft để chống lại nhóm này, đã theo dõi nó đến Việt Nam.
  • Storm-1152 đã phát triển phần mềm tự động — hay “bot” — để tạo tài khoản giả (danh những người nổi tiếng nhăm mục đích lừa đảo và cướp đoạt thông tin mật)Trong hồ sơ tòa án, Microsoft cho biết những con bot này đã qua mặt hầu hết các biện pháp bảo vệ mà công ty cài đặt nhằm ngăn chăn các tấn công của bot, chẳng hạn như các câu đố CAPTCHA mà người dùng phải trả lời để chứng minh họ là con người.
  • Storm-1152 sẽ bán tài khoản giả cho xã hội mạng đen. Hồ sơ trình tòa án của Microsoft bao gồm ảnh chụp màn hình của trang web Storm-1152 tự hào về việc sử dụng trí tuệ nhân tạo AI để chống lại kỹ thuật ngăn ngừa CAPTCHA.
  • Nhóm đã tạo số lượng các tài khoản giả “ở quy mô lớn, nhanh và hiệu quả đến mức chỉ có thể thực hiện được thông qua công nghệ máy học tự động”, Patrice Boffa, giám đốc khách hàng của Arkose Labs, cho biết trong một tuyên bố. Storm-1152 được cho là đã kiếm được hàng triệu đô la từ hoạt động bán tài khoản giả này.Khách hàng của Storm-1152 đã làm gì với tài khoản giả?Theo Microsoft và Arkose Labs, khách hàng của nhóm này đã sử dụng tài khoản email giả cho nhiều tội phạm khác nhau. Chúng bao gồm các cuộc tấn công lừa đảo để đánh cắp thông tin hoặc chèn phần mềm độc hại vào thiết bị rồi đòi tiền chuộc nếu không sẽ phá hủy hết dữ liệu trong máy của nạn nhân.Mạng tội phạm mạng

    Hotmailbox.me là nơi Storm-1152 rao bán các tài khoản giả dùng cho Microsoft Outlook

 

Khách hàng nổi bật nhất có tên trong hồ sơ tòa án của Microsoft là một nhóm có tên Octo Tempest, nhóm này có liên quan đến làn sóng tội phạm mạng trong những năm gần đây.  Octo Tempest gần đây đã phát động các cuộc tấn công bằng ransomware nhằm vào các khách hàng của Microsoft và “gây thiệt hại hàng trăm triệu đô la”, công ty cho biết trong hồ sơ tòa án mà không nêu tên nạn nhân (vì lý do an toàn).

Google và X, trước đây gọi là Twitter, cũng đã bị ảnh hưởng bởi các hoạt động của Storm-1152, Microsoft cho biết trong hồ sơ báo cáo trước tòa.

Tìm bọn tội phạm Storm-1152 có khó không?

Không giống như nhiều tội phạm mạng cung cấp các dịch vụ như vậy trên cái gọi là web tối, ẩn khỏi người dùng thông thường, các trang web của Storm-1152 nằm trên web mở. Nó cung cấp dịch vụ của mình trên ít nhất hai trang web và thậm chí còn có hướng dẫn sử dụng từng bước.

Dương Đình Tú, một trong các bị cáo, cũng có kênh YouTube với video thuyết trình về việc nhóm sẽ chỉnh sửa mã cho phần mềm chống CAPTCHA của họ trên GitHub – kho lưu trữ phần mềm online thuộc sở hữu của Microsoft.

Microsoft cho biết họ cũng đã thuê các chuyên gia về tội phạm mạng để bí mật mua các tài khoản và công cụ đánh bại CAPTCHA từ các trang web Storm-1152.

Một tòa án Hoa Kỳ đã cho phép Microsoft nắm quyền kiểm soát các trang web của nhóm để đáp lại tố cáo của công ty vào tuần trước. Các trang web của Storm-1152 hiện có thông báo: “Miền này đã bị Microsoft tịch thu.”


 

Ghen tuông, ông chồng ở An Giang đâm chết vợ ngay trên đường

Ba’o Nguoi-Viet

December 13, 2023

AN GIANG, Việt Nam (NV) – Nghi can Nguyễn Văn Dũng, 48 tuổi, ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang, vừa bị bắt với cáo buộc đâm chết vợ ngay trên đường ở địa phương này.

Theo báo Dân Việt hôm 13 Tháng Mười Hai, trong sự việc xảy ra vào buổi trưa ngày hôm trước, bà Lê Thị Cẩm, 42 tuổi, vợ nghi can Dũng, lái xe gắn máy chở ông này trên quốc lộ 91.

Hiện trường vụ án mạng xảy ra ngay trên một con đường ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. (Hình: Dân Việt)

Lúc này, nghi can Dũng đột ngột dùng con dao Thái Lan thủ sẵn trong người ra đâm nhiều nhát vào người vợ, khiến bà này gục tại chỗ và chết trên đường đi cấp cứu.

Ngay sau đó, nghi can Dũng bị người dân bắt giữ rồi giao cho công an địa phương.

Khi được đưa về đồn, nghi can Dũng khai rằng do nghi ngờ bà Cẩm ngoại tình với người đàn ông khác nên ông này nảy sinh ý định giết vợ.

Dũng mua một con dao Thái Lan giấu trong người rồi đến công ty của bà Cẩm rủ vợ đi ra quán uống nước.

Khi vừa đi được một đoạn, Dũng ra tay sát hại vợ mình.

Trước vụ này, các vụ chồng giết vợ do ghen tuông, nghi ngờ ngoại tình xảy ra liên tiếp trong thời gian qua.

Hồi đầu tháng trước, báo Bình Thuận cho hay, bị cáo Nguyễn Văn Thuật, 42 tuổi, ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận, bị kết án 15 năm tù do giết vợ.

Theo cáo trạng, bị cáo Thuật sống chung với bà LTTL, 40 tuổi, nhưng không đăng ký kết hôn.

Trước khi vụ án mạng xảy ra, giữa hai vợ chồng bị cáo thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do ghen tuông.

Hồi cuối Tháng Hai, sau khi tổ chức đám giỗ tại tư gia, vợ chồng bị cáo Thuật lại cãi nhau.

Do tức giận vì bị vợ xúc phạm mình và gia đình, bị cáo Thuật dùng dây dù siết cổ bà này đến bất động.

Sau khi nhận thấy vợ đã chết, bị cáo tạo hiện trường giả để chối tội trước khi bị công an chỉ ra những dấu vết nghi vấn trên tử thi.

Theo báo VTC News hồi giữa Tháng Mười, nghi can Giàng Seo Dơ, 33 tuổi, ở huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai, bị bắt với cáo buộc xô đẩy vợ mình ngã chết từ tầng ba của một khu nhà trọ tại tỉnh Bắc Giang.

Bản tin cho hay, nạn nhân Vàng Thị Sính, 27 tuổi, vợ nghi can Dơ, được phát giác nằm bất động trên sân nhà trọ và thiệt mạng trên đường đi cấp cứu do bị chấn thương nặng.

Nghi can Nguyễn Văn Dũng khi bị bắt. (Hình: Dân Việt)

Trước khi xảy ra vụ việc, hàng xóm nghe thấy tiếng vợ chồng nghi can cãi nhau to tiếng.

Khi bị Công An Tỉnh Bắc Giang triệu tập, nghi can Giàng Seo Dơ khai rằng do nghi ngờ vợ mình cặp bồ với người khác nên hai vợ chồng xảy cãi vã, xô xát.

Trong lúc giằng co, nghi can Dơ đã đẩy vợ mình từ hành lang tầng ba xuống sân. (N.H.K)


 

Tử hình ‘nhà hảo tâm’ tuồn 100 kg ma túy vào Sài Gòn

Ba’o Nguoi-Viet

December 12, 2023

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Lợi dụng đợt dịch COVID-19, một “trùm” đường dây buôn ma túy giả làm “nhà hảo tâm” để vận chuyển hơn 100 kg ma túy từ Cambodia về Sài Gòn.

Hôm 12 Tháng Mười Hai, Tòa Án ở Sài Gòn xử sơ thẩm tuyên phạt ba bị cáo Huỳnh Văn Thông, 48 tuổi; Lê Thanh Hùng, 31 tuổi; Hồ Hoàng Nam, 31 tuổi, mức án tử hình về các tội “vận chuyển; mua bán trái phép chất ma túy.”

Bị cáo Huỳnh Văn Thông (trái), Lê Thanh Hùng, Hồ Hoàng Nam tại tòa. (Hình: Hải Duyên/VNExpress)

Theo báo VNExpress, bị cáo Lê Thanh Hùng được xác định là người có vai trò cao nhất.

Cáo trạng cho hay vào giữa năm 2021, Nguyễn Thanh Hùng quen biết với người tên Jimmy (không rõ lai lịch) sống ở Cambodia.

Trong thời gian quen biết, Jimmy thuê ông Hùng giúp nhận, cất giấu ma túy chuyển từ Cambodia về Sài Gòn rồi giao cho người mua của Jimmy.

Địa điểm giao nhận ma túy giữa người của Jimmy và ông Hùng là ở một kho đá tại xã Tân Quý Tây, huyện Bình Chánh.

Thế là từ đó, ông Hùng thỉnh thoảng đi đến khu vực vùng ven này nhận các giỏ cần xé lương thực là cá khô, mắm cá của Huỳnh Văn Thông.

Ông Hùng sau đó thuê ông Nam cùng tham gia và lấy nhà của Nam tại quận 12 làm địa điểm tập kết “hàng.”

Hùng đã ba lần nhận, cất giữ, giao ma túy giúp cho Jimmy và một lần mua trực tiếp từ người này để bán lại kiếm lời.

Tuy là một mắt xích quan trọng trong đường dây ma túy xuyên quốc gia này, nhưng ông Thông được đánh giá “sống lương thiện” tại huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh, tích cực hoạt động thiện nguyện, ủng hộ tiếp tế lương thực (mắm, cá khô) cho người dân gặp khó khăn vùng dịch ở Sài Gòn trong thời gian dịch COVID-19 hoành hành.

Với mác “nhà hảo tâm,” ông Thông trực tiếp đưa hàng từ Cambodia qua cửa khẩu Thường Phước-Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, rồi sắp xếp xe vận tải có mã “luồng xanh” ưu tiên, đưa vào Sài Gòn.

Thực tế những lô hàng mắm, cá khô trên là để ngụy trang cho số ma túy bên dưới mà ông Thông móc nối với những người bên Cambodia đặt mua và vận chuyển về Sài Gòn, mỗi chuyến 30-40 kg ma túy đá và 50-60 bánh heroin.

Qua theo dõi, Tháng Tám, 2021, cảnh sát giao thông bất ngờ chặn bắt xe vận tải của Huỳnh Văn Thông, trong lúc ông ta đang vận chuyển bốn cần xé lương thực qua “luồng xanh” vào Sài Gòn. Bên trong bốn giỏ hàng thực phẩm, mắm cá, công an tìm thấy 90 bao nylon có 60 kg ma túy đá, 92 bánh heroin và 20,000 viên thuốc lắc, với tổng trọng lượng gần 100 kg.

Cùng lúc, công an đồng loạt ập vào căn nhà ở quận 12, bắt giữ Lê Thanh Hùng và đồng phạm Hồ Hoàng Nam.

Qua điều tra và xét xử, bị cáo Hùng khai mới nhận được 100 triệu đồng ($4,120) tiền công từ Jimmy cho lần vận chuyển ma túy đầu tiên. Những lần sau đó Jimmy chưa trả thì bị bắt giữ.

Một giỏ tre chứa “khô cá,” bên dưới là ma túy được ngụy trang cẩn thận. (Hình: Công Lý)

Ngoài ra, vào khoảng đầu Tháng Tám, 2021, bị cáo Hùng nhận từ Jimmy ba sọt “mắm cá.” Trong đó gồm hai bao ma túy ông ta nhận để giao cho người của Jimmy (không biết trọng lượng) và 5 kg ma túy dạng đá do mình đặt mua với giá 195 triệu đồng ($8,034) một ký để bán lại kiếm lời. Số ma túy này Hùng mang về căn hộ của mình cất giấu rồi bán lại với giá 200 triệu đồng ($8,241) một ký, hưởng lợi 25 triệu đồng ($1,030).

Hội Đồng Xét Xử cáo buộc ba bị cáo Hùng, Nam và Thông phải chịu trách nhiệm đối với khối lượng ma túy bị bắt quả tang và qua khám xét chỗ ở và tuyên phạt mức án cao nhất. (Tr.N)


 

Thái Hạo: Khi nhà khoa học nước ngoài không được lưu trú tại tư gia ở Việt Nam

Tiếng Dân News  ·

Có một vị giáo sư đầu ngành và nổi tiếng thế giới về Ngôn ngữ học, là người Mỹ gốc Việt, nhân dịp xuất bản hai cuốn sách về tiếng Việt, thì được các trường đại học lớn của Việt Nam như ĐH Sư Phạm Hà Nội, ĐHSP Đà Nẵng, ĐH Ngoại ngữ Huế, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM… tha thiết mời nói chuyện học thuật cho sinh viên, giảng viên.

Hôm nay, sau khi nói chuyện ở trường đại học Hồng Đức (Thanh Hóa) vị ấy cùng đại diện nhà xuất bản ghé qua nhà tôi chơi, ngồi chưa ấm chỗ thì công an tới làm việc về vấn đề cư trú.

Vị giáo sư ấy năm ngoái cũng được trường Hồng Đức mời nhưng không thể thu xếp được, lần này mới “bén duyên”. Chị nói, nếu không có tôi (Thái Hạo) ở Thanh Hóa thì cũng chẳng bao giờ có cơ hội đến trường Đại học Hồng Đức để nói chuyện được. Hôm nay chị chia sẻ đề tài “Giọng Thanh Hóa trong tương quan với vần Quảng Nam và thanh điệu Bắc”. Sau buổi nói chuyện, một vị phó giáo sư còn có đề nghị rằng mong muốn tác giả sẽ đóng góp cho tỉnh Thanh Hóa bằng một công trình, và sẽ liên hệ với lãnh đạo tỉnh để thu xếp đề án này.

Sáng nay nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Công cũng đến dự buổi trao đổi học thuật của vị giáo sư đã nhắc, và anh nói với tôi rằng, những phát hiện của nhà khoa học này quá độc đáo và nó cần một công trình nghiên cứu xứng đáng. Hơn nữa, theo anh, đề tài này phải được cấp tỉnh quan tâm và đầu tư nghiêm túc…

Thế nhưng…

Chiều nay, trên cổng thông tin của Đại học Hồng Đức, khi những lời cảm ơn còn chưa ráo mực thì bây giờ, sau khi công an vào làm việc, lập biên bản và nêu quy định tại nhà tôi, vị giáo sư ấy đã vừa phải đi thuê khách sạn rồi, vì theo lời cán bộ công an (tên là Nguyễn Văn Sơn), ở khu vực này, người nước ngoài không được lưu trú tại tư gia người khác.

Nếu luật quy định như thế (?) thì với tinh thần luôn tôn trọng luật pháp, mọi người đã chấp hành. Tuy nhiên, là một học giả thường xuyên về Việt Nam để trao đổi học thuật và đã lưu trú ở nhiều địa điểm khác nhau, vị giáo sư rất bất ngờ trước “quy định” này. Bản thân tôi cũng lần đầu tiên nghe đến, nên thật sự băn khoăn về một quy định nhiều bất cập như thế (nếu nó có thật), nên đăng lên đây để tham khảo ý kiến của những người am hiểu luật pháp.

Dù thế, vị giáo sư là bạn tôi thì vẫn bất ngờ và buồn mãi. Vì chị đã bước vào nhà tôi với tâm trạng vui mừng, phấn chấn bởi một buổi nói chuyện nhiều ý nghĩa và cả những tiếp đón chu đáo hết mực của Đại học Hồng Đức. Chị cũng đã nghĩ đến việc viết một cuốn sách về “tiếng Thanh Hóa” sau đề nghị của vị phó giáo sư trường sở tại, nhưng giờ chị bảo không còn tâm trạng nào nữa…

BAOTIENGDAN.COM

Khi nhà khoa học nước ngoài không được lưu trú tại tư gia ở Việt Nam | Tiếng Dân


 

Giáo dục XHCN và những “tấm gương điển hình”!

Ba’o Tieng Dan

Trần Kỳ Khôi

3-12-2023

Từ sau năm 1975, nền giáo dục trong thể chế độc tài toàn trị trở nên “ưu việt” hơn bao giờ hết. Ở đó, một anh y tá miệt vườn chẳng cần đi học cũng có được học vị tiến sĩ y khoa; một phụ nữ làm nghề uốn tóc, gội đầu, bỗng chốc có bằng thạc sĩ, hay một kẻ học bổ túc văn hoá cũng kiếm được học hàm giáo sư!

Nhưng tệ hại và xuống cấp đạo đức đến kinh hoàng thì phải nhắc đến hai trường hợp: Một kẻ chưa học xong cấp hai có thể làm Chủ tịch Hội đồng một trường đại học lớn và làm nghiên cứu sinh tiến sĩ. Kẻ còn lại là sĩ quan công an, có học vị tiến sĩ, là lãnh đạo khoa Lý luận Chính trị của một trường đại học Cảnh sát Nhân dân, hoá ra là con quỷ đội lốt người.

Từ ngài Chủ tịch Hội đồng trường đại học Kinh Bắc…

Đoàn Xuân Tiếp sinh năm 1950, quê Gia Bình, Bắc Ninh. Nhà nghèo, cha mất sớm, học chưa hết cấp hai, Tiếp bỏ học. Năm 1972, Đoàn Xuân Tiếp đăng ký đi bộ đội, được đơn vị điều đi học lái xe rồi anh ta ở trong quân ngũ, đến năm 1991 thì xuất ngũ.

Tích lũy được một số vốn liếng, Tiếp hùn hạp cùng vài người, mở một hợp tác xã chuyên làm thủ công mỹ nghệ, lấy tên là Trung tâm nhân đạo Hồng Ngọc, tại thị trấn Sao Đỏ, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Sau đó, Đoàn Xuân Tiếp nâng cấp Trung tâm này thành công ty TNHH Chân – Thiện – Mỹ tại Châu Phong, Quế Võ, Bắc Ninh.

Mặc dù trước đó Đoàn Xuân Tiếp đã có vợ và hai con trai, nhưng ông ta sống chung với người tình mới, vốn là một nữ cổ đông có nhiều tiền, tên là Nguyễn Thị Tuyết Hồngsau. Sau đó ông Tiếp ly hôn người vợ mấy chục năm đầu ấp tay gối, để kết hôn với người tình mới.

Ảnh: Nguyễn Thị Tuyết Hồng và Đoàn Xuân Tiếp. Nguồn: Tác giả gửi tới TD

Năm 2012, Đoàn Xuân Tiếp và Nguyễn Thị Tuyết Hồng làm hồ sơ xin mở trường đại học tư thục Kinh Bắc. Ngày 26-3-2012, Thủ tướng chính phủ có Quyết định số 350/TTg, cho phép thành lập trường Đại học Kinh Bắc. Nhờ vậy, Đoàn Xuân Tiếp xin được 28 hecta đất tại huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, cách thủ đô Hà Nội 20 km.

Trường đóng ở Bắc Ninh, nhưng họ mở thêm văn phòng tại nơi vợ chồng Đoàn Xuân Tiếp đăng ký hộ khẩu thường trú, số 110 phố Ngọc Hà, phường Đội Cấn, quận Ba Đình, Hà Nội, để tiếp nhận hồ sơ tuyển sinh nhắm vào học sinh Hà Nội và các vùng phụ cận.

Để hợp pháp hồ sơ nhân thân và trình độ học vấn, dù chưa có bằng tốt nghiệp phổ thông cơ sở (cấp I) ông Tiếp xài bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hệ bổ túc, ghi tên Đoàn Xuân Tiếp, số 0334833/BTPT do Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội cấp năm 2003. Theo bà Đoàn Thị Kiều Oanh, Chánh Thanh tra Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, danh sách tốt nghiệp kỳ thi Bổ túc – trung học phổ thông ngày 3-6-2003 tại Hội đồng thi Cầu Giấy, TP Hà Nội, không có tên Đoàn Xuân Tiếp, sinh năm 1950, trong danh sách đậu tốt nghiệp.

Chưa dừng lại ở đó, Đoàn Xuân Tiếp còn xài thêm bằng giả “cử nhân tại chức” Trường ĐH Mỏ – Địa chất, khóa học 2005 -2010. Ngày 12-6-2023 Trường Đại học Mỏ – Địa chất có văn bản số 455/MĐC- ĐTĐH, xác nhận, Đoàn Xuân Tiếp, sinh ngày 19-5-1950, chưa từng học tại Trường Đại học Mỏ – Địa chất, không có tên trong sổ gốc cấp bằng tốt nghiệp. Vậy là bằng tốt nghiệp đại học số hiệu 00107535, số vào sổ cấp bằng SĐ50-76 ngày 4-5-2010 mang tên Đoàn Xuân Tiếp là đồ giả.

Ảnh: Bằng đại học và bảng điểm của Đoàn Xuân Tiếp, cùng công văn trả lời của trường Đại học Mỏ – Địa chất. Nguồn: Tác giả gửi tới TD

Có bằng “cử nhân”, ông Tiếp mua tiếp bằng thạc sĩ mang tên Đoàn Xuân Tiếp do Trường đại học Bulacan State (Bulacan State University – BSU), Philippines cấp, để làm nghiên cứu sinh tiến sĩ ở… Malaysia!

Gia đình Đoàn Xuân Tiếp điều hành trường đại học ở Kinh Bắc. Ông Tiếp làm chủ tịch Hội đồng trường. Vợ ông, bà Nguyễn Thị Tuyết Hồng làm Phó chủ tịch Hội đồng kiêm trưởng Ban tài chính. Con trai ông Tiếp là Đoàn Xuân Tĩnh làm chủ tịch HĐQT. Một người con trai nữa của ông ta tên Đoàn Xuân Toản làm Phó Chủ tịch thường trực HĐQT, kiêm Phó Hiệu trưởng trường. Còn lại, từ hiệu trưởng trở xuống, tất cả đều được gia đình ông Tiếp ký hợp đồng làm thuê.

Từ đó phát sinh câu chuyện cười ra nước mắt: Bà Nguyễn Thị Minh Châu, sinh năm 1958, hộ khẩu thường trú tại quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Bà Châu được gia đình Đoàn Xuân Tiếp mời về làm Phó hiệu trưởng trường Đại học Kinh Bắc. Giai đoạn 2018-2019 xảy ra “Vụ án cấp Văn bằng 2, ngành Ngôn ngữ Anh giả mạo” tại Đại học Kinh Bắc.

Mặc dù số tiền kiếm lợi bất hợp pháp 4,6 tỷ đồng từ vụ án nói trên được chuyển vào tài khoản của bà Nguyễn Thị Tuyết Hồng, vợ ông Đoàn Xuân Tiếp; thế nhưng, tại bản án số 30/2021/HS-ST ngày 22/3/2021, TAND tỉnh Bắc Ninh tuyên phạt bà Nguyễn Thị Minh Châu, phó Hiệu trưởng Đại học Kinh Bắc 5 năm tù về tội “Giả mạo trong công tác”. Phó hiệu trưởng nhận án tù, trong khi hiệu trưởng Đại học Kinh Bắc và cả gia đình Đoàn Xuân Tiếp đều bình an vô sự.

Đại học Kinh Bắc được giới thiệu có 200 giảng viên gồm 9 giáo sư, 25 phó giáo sư, 35 tiến sĩ, 131 thạc sĩ. Trường đào tạo gồm 18 ngành học, có cả Y khoa và Dược khoa. Số lượng sinh viên đang theo học hơn 10.000 sinh viên, Đại học Kinh Bắc còn được phép đào tạo cả cao học và cấp bằng… thạc sĩ.

Ngoài việc gian lận bằng cấp, học vị, Đoàn Xuân Tiếp còn tha hoá trong đạo đức và lối sống. Có nhiều đơn thư tố cáo ông Tiếp cặp bồ với sinh viên trong trường, sống như vợ chồng với những cô gái chỉ đáng tuổi con cháu mình. Để đối phó dư luận, đầu tháng 5-2023, Đoàn Xuân Tiếp xin từ chức vì lý do … sức khỏe. Bốn tháng sau, ngày 6-9-2023, ông ta có thư thông báo quay trở lại chức Chủ tịch Hội đồng trường.

Ảnh chụp thông báo của Đoàn Xuân Tiếp giả vờ từ chức. Nguồn: Tác giả gửi tới TD

Video Player

00:00

03:19

Clip bà Hồng, vợ ông Tiếp đánh ghen. Nguồn: Tác giả gửi tới Tiếng Dân

Điều không thể tin được trong thế kỷ 21, xuất hiện một “thầy giáo” chỉ học hết cấp một nhưng xài bằng cử nhân giả, thạc sĩ dỏm … như Đoàn Xuân Tiếp lại “dắt mũi” cả hệ thống chính trị, làm Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng trường đại học, nơi có cả chục ngàn sinh viên theo học. Một kẻ lừa đảo, dối trá, lại được nhận Bằng khen Chính phủ, được phong danh hiệu “Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới”.

 

Ảnh: Bốn “thạc sĩ” trong gia đình Đoàn Xuân Tiếp là HĐQT Trường Đại học Kinh Bắc. Nguồn: Vietstock

Đến Thượng tá, Phó Trưởng khoa Đại học Cảnh sát 

Phạm Văn Hùng sinh năm 1976, quê Bắc Giang, hộ khẩu thường trú (HKTT) tại 148/30 Hoàng Diệu 2, khu phố 4, phường Linh Chiểu, Thủ Đức, TPHCM. Hùng tốt nghiệp Học viện An ninh, có học vị tiến sĩ, cao cấp chính trị. Cấp bậc của Hùng hiện nay là Thượng tá công an, Phó trưởng khoa Lý luận chính trị và Khoa học xã hội Nhân văn, trường Đại học Cảnh sát TPHCM, có trụ sở tại 36 đường Nguyễn Hữu Thọ, phường Tân Phong, Quận 7, TP.HCM.

Có lẽ đồng lương cao vút, cộng thêm bổng lộc cùng đặc quyền, đặc lợi quá nhiều từ ngành công an, mật vụ, đã khiến cho Phạm Văn Hùng biến thái, ăn chơi rửng mỡ, đốn mạt đến suy đồi đạo đức.

Tối ngày 21-10-2023, Phạm Văn Hùng gọi cô “gái nhảy” Nguyễn Thị Mỹ Miều (tức Đào) 17 tuổi (sinh năm 2006), HKTT tại ấp Phước Thuận 1, huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu, đến căn hộ số 03.10, chung cư ICON, số 56 Bến Vân Đồn, phường 13, quận 4, TPHCM, để sử dụng ma tuý và quan hệ tình dục với Hùng và một đồng bọn của hắn, cũng là một sĩ quan cảnh sát.

Đến sáng 22-10-2023, Miều xin Hùng cho về, Hùng yêu cầu Miều phải kiếm một cô gái khác thay thế. Miều dụ được một bé gái 15 tuổi, tên Nguyễn Ngọc Anh Thư, sinh năm 2008, con của chị Nguyễn Thị Phương, sinh năm 1989, HKTT tại đường số 21, Tân Quy, Quận 7, TPHCM, đến để “phục vụ” cho Thượng tá Phạm Văn Hùng.

Chân dung Thượng tá Phạm Văn Hùng. Nguồn: Tác giả gửi tới Tiếng Dân

Trong cơn ngáo đá và cuồng dâm, Phạm Văn Hùng đã ép cô bé 15 tuổi dùng ma tuý đến đến kiệt sức và sốc thuốc mà chết. Cũng có thông tin, trong cơn ngáo đá và thác loạn, Hùng đã bóp cổ bé Thư đến ngạt thở. Một số người ở chung cư phát hiện, đã đưa bé Anh Thư đến bệnh viện, nhưng cháu bé đã tử vong.

Sự việc lan ra chấn động thành Hồ. Không không thể che đậy được nữa, Cơ quan Cảnh sát điều tra CA TPHCM phải tống đạt các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và thi hành lệnh bắt tạm giam đối với Phạm Văn Hùng về hành vi “Mua dâm người dưới 18 tuổi”.

Ngày 3-11-2023, để trốn trách nhiệm, lãnh đạo trường Đại học Cảnh sát Nhân dân có thông báo gửi đến công an các đơn vị, một số địa phương, học viện, trường, bệnh viện CAND về việc kỷ luật cán bộ. Theo thông báo, vị phó khoa này bị kỷ luật bằng hình thức “tước danh hiệu Công an nhân dân” từ ngày 1-11-2023, loại bỏ Hùng ra khỏi đội ngũ giảng viên.

Thông báo của trường Đại học CSND về vụ kỷ luật Phạm Văn Hùng

Một vụ án rất nghiêm trọng, liên quan đến cái chết tức tưởi, oan ức của một cháu bé 15 tuổi, nhưng cả hệ thống báo đảng đều dửng dưng, vô cảm, đưa tin lấp lửng, đánh lừa dư luận. Cơ quan điều tra CA thành Hồ đã che giấu tình tiết, nội dung vụ án, cũng như bao che nhân thân tội phạm và hành vi vô nhân tính của Phạm Văn Hùng.

Rồi đây một phiên toà xử kín sẽ diễn ra, âm thầm xét xử Phạm Văn Hùng. Khung hình phạt thấp nhất là 7 năm tù và cao nhất 15 năm tù theo khoản 3, Điều 329, Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, dân chúng sẽ không có quyền được biết và luận bàn vụ án này.

Thật xấu hổ, khi một trường đại học cảnh sát “Vì nhân dân phục vụ” lại có một “đồng chí” Phó Trưởng khoa Lý luận Chính trị, là quỷ dữ đội lốt thầy giáo như Phạm Văn Hùng. Nếu vụ này không bị lộ, chắc chắn Hùng sẽ được phong hàm Phó giáo sư, tiếp tục rao giảng đạo đức, rồi trở thành nhân tố “điển hình” cho mọi người “học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM”.

Nền giáo dục XHCN đã đúc ra những ông bà “thầy” đảng viên thật là đẹp mặt chế độ này!


 

Câu chuyện bệnh ở Việt Nam – Bác sĩ Thắng Trần

Dưới đây Bác sĩ Thắng Trần chia sẻ chia sẻ suy nghĩ của mình về số phận các người bệnh tại Việt Nam 

BS Thắng Trần, Na-Uy

Cơ may cho tôi được tìm hiểu thêm về hệ thống y tế Việt Nam CS đến thật bất ngờ và đã cho tôi nhiều suy nghĩ về số phận con người.

Hospital overcrowding reveals cracks in medical system – VietNam ...

Sau 42 năm sống xa xứ, lần đầu tiên tôi quyết định về Việt Nam “ĂN TẾT”. Về Sài Gòn 5 ngày trước tết để sắp sửa trước khi về quê ăn Tết với người thân. Tết ở Sài Gòn năm nay không có không khí như tôi nghĩ. Chợ hoa vắng người, sức mua sắm giảm nhiều vì kinh tế khó khăn và tình trạng thất nghiệp gia tăng.

Chuyện không vui xảy ra vào sáng mùng 1 tết, người thân tôi té sau khi đi từ nhà tắm ra và bà đã gãy cổ xương đùi.

Sau khi xác định qua chụp hình X-ray, tôi phải liên lạc bạn bè đồng nghiệp và cũng là bạn học thời trung học để lo cho bà đi mổ. Bác sĩ M. học cùng trường và quen thân, là bác sĩ chuyên khoa chỉnh hình đã tận tình giúp đỡ: giới thiệu bịnh viện và liên lạc bác sĩ mỗ giỏi. Anh góp ý nên đi bệnh viện tư ở Sài Gòn. Từ quê lên Sài Gòn mất 4-5 giờ xe. Các bệnh viện chỉ mổ những ca thật cấp thiết vì bác sĩ và y tá ( ở Việt Nam gọi là điều dưỡng) nghỉ tết. Tôi được khuyên đừng đưa bà lên trước mùng 6. Vì bà dùng thuốc loãng máu nên cũng phải đợi. Ở Na-Uy những trường hợp này sẽ phải mổ trong vòng 48 giờ.

 

BỆNH VIỆN

T.A là bệnh viện tư nhân người thân tôi nằm. Thủ tục đầu tiên là nộp giấy chứng minh thư, giấy bảo hiểm sức khỏe, tiền ứng cho tiền phòng. Có nhiều mức giá: phòng 6,3, 2 hay 1 người, ngoài ra có phòng VIP. Chúng tôi chọn phòng 1 người với giá 980.000 ngày. Đặc cọc trước 5 ngày. Trong phòng có 1 giường cho bịnh nhân và 1 giường cho người thân đi NUÔI bịnh nhân. Vì 2 vợ chồng tôi ở lại, nên mướn thêm ghế bố 30.000 mỗi ngày. Tiền phòng bao gồm cháo buổi sáng, 3 món trưa và tối cho người bệnh, 1 lần lau sàn nhà và 1 lần lấy rác. Thay ra mền vệ sinh cho bệnh nhân là trách nhiệm người nhà (!!!)

Phòng và nhà vệ sinh tệ.( Xem hình dưới đây)

ĐIỀU DƯỠNG

Trách nhiệm điều dưỡng: đưa thuốc cho người nhà để cho bệnh nhân uống, thay băng, thử máu, chích thuốc. Ngoài những việc khác người nhà phải lo cho bệnh nhân. Cây kim chích, băng thay, từng miếng bông gòn đều được ghi để tính tiền. Khi họ vào họ không giới thiệu họ là ai, phần hành gì. Khi cần gọi họ đến, nhưng không làm gì, chỉ trả lời là họ sẽ hỏi bác sĩ đã. Trong 2 ngày đầu họ coi thường chúng tôi lắm. Sau khi mổ xong người thân tôi mê sảng và sốt. Tôi yêu cầu đo nhiệt độ, thử máu và xem xét cho trụ sinh. Họ không làm ngay, tôi yêu gặp bác sĩ D, người mổ và người tôi quen. Điều dưỡng thông báo là bs bận mổ. Tôi không đồng ý và tôi tự gọi bs. D xuống ngay. Từ khi bs thông báo cho họ biết tôi là ai, họ đã làm theo yêu cầu của tôi không cần thông qua bs D. Tôi thật sự rất khó chịu tính quan liêu và kiêu ngạo.

Bệnh nhân gãy xương và sau khi mổ với cơn đau dữ dội nhưng họ chỉ cho Paracet để giảm đau. Tôi phải yêu cầu dùng morfin và chấp nhận trả tiền họ mới cho. Rõ khổ.

 

BÁC SĨ

Ngoài bs D quen biết và biết tôi làm gì, còn những bs khác thì hỡi ơi!
Hôm bà bị mê sảng, có 1 bs đến. Ông vào phòng với 1 điều dưỡng. Ông không tự giới thiệu mình là ai và vào làm gì. Ông hỏi bệnh nhân tên gì, tại sao vào đây? Khi nghe bị gãy cổ xương đùi, ông ta chỉ xoáy vào việc là có phải do choáng váng, mất thăng bằng và té. Ông chỉ muốn xác định là do tai biến đưa đến té. Ông hỏi có dùng thuốc loãng máu vì sao? Tôi giải thích là do trước đây vài năm có triệu chứng tai biến và khi dùng thuốc loãng máu, triệu chứng không còn sau khi uống thuốc vài phút, từ đó bs bệnh viện cho dùng tiếp. Ông ta không nhìn tôi mà chỉ chăm chăm hỏi bà cụ. Tôi không thể hiểu ông đang làm gì. 1 người đang mê sảng không thể nhớ hay có khả năng trả lời. Tôi phải ngắt lời và hỏi ông là ai? Ông báo là bs chuyên khoa thần kinh, tên S, ông muốn bà cụ phải chụp hình MRI để xác định đã bị tai biến và khi ấy mới tiếp tục dùng thuốc loãng máu. Tôi cũng xin phép tự giới thiệu về mình và giải thích yếu tố phòng hộ ban đầu đủ để bà cụ dùng thuốc loãng máu ( tiểu đường, cao áp huyết, triệu chứng tai biến). Xác định có tai biến để dùng thuốc loãng máu là phòng hộ thứ hai, người mê sảng không thể nằm yên 30 phút’ để chụp MRI và không bs nào đi lấy bệnh án người mê sảng khi không nói chuyện với người nhà. Tôi trả lời tôi không đồng ý chụp MRI, tôi tự quyết định cho bà dùng thuốc loãng máu và tôi không cần bs S ở đây. Tôi không đồng ý trả tiền cho sự có mặt của bs.

Tôi đã quen với môi trường làm việc bệnh viện Na-Uy 30 năm. Khi bệnh nhân nằm viện, mọi thứ đều được bs, y tá và trợ tá lo. Người thân không được ở lại bệịnh viện. Ở Việt Nam hoàn toàn trái ngược. Ở Việt Nam 3 y tá lo cho 30 bịnh nhân cũng không mệt. Bên Na-Uy 1 y tá lo cho 2 bịnh nhân là bù đầu bù cổ.
Tôi nghĩ những phòng 3-6 bịnh nhân, người thân lo cho bịnh nhân họ sẽ nằm ở đâu. Nằm dưới gầm giường  chắc?

Cùng là số phận con người và bệnh nhân, nhưng bệnh nhân ở Na-Uy được đối xử đàng hoàng và đúng tình con người. Tôi thật sự không thể tưởng tượng hoàn cảnh bệnh nhân ở bệnh viện công ở Việt Nam thì sao?

Cảnh chờ đợi ở bệnh viện tâm thần Sài Gòn

Chi phí tôi phải trả cho 5 ngày nằm viện và mổ là 37 triệu và bảo hiểm trả 52 triệu. Với số tiền gần 80 triệu có thể là cả gia tài cho 1 gia đình.

 

Qua đây tôi càng thương cho số phận những người dân trong nước. Còn nhiều người lo không đủ cho chỗ ở, miếng ăn. Chắc nhiều người lo sợ bị bệnh và người thân bị bệnh. Không có quen biết và kém tài chính sẽ khó khăn lắm.

Dr. Thắng Trần

**********************************************************

Kẻ đi Tìm thông tin thêm

Dao mổ rạch ba lần mới đứt của Trung Quốc

PGS Đào Xuân Cơ – Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), cho biết, sau Thông tư 14, các bệnh viện sẽ không còn phải mua vật tư giá rẻ nhất, bác sĩ sẽ được dùng thiết bị theo nhu cầu khám chữa bệnh.

Trước đây, theo quy định, các cơ sở phải tìm nơi bán giá rẻ nhất để mua. Tuy nhiên, trong y tế, với mức giá thấp nhất thì không thể mua vật tư và thuốc tốt nhất cho người bệnh.

Với Thông tư 14, các bác sĩ sẽ được dùng thiết bị theo nhu cầu khám chữa bệnh. Ảnh: Hoàng Hà.

 

PGS Cơ cho rằng bệnh viện sẽ tránh được tình trạng mua phải xông hút giá thấp nhất gây biến chứng chảy máu phế quản bệnh nhân, dao rạch 3 lần mới qua da như Bệnh viện Chợ Rẫy (TP.HCM). Các máy móc, thiết bị hỏng hóc trước mua sắm linh kiện thay thế rất khó, Thông tư 14 giải quyết tất cả vấn đề này.

Về nỗi lo có tình trạng “thổi giá” trang thiết bị, PGS Cơ cho rằng trong thời gian qua, việc chống tham nhũng nhất là trong phòng chống dịch đã được làm chặt, các công ty nâng khống giá bị “tuýt còi”.

Cơ chế ơi là chế cơ, dân ta quá khổ vì XHCN chúng bay! Ôi thiên đường Cộng Sản, xã hội đáng sống là đây sao?


 

Thân phận dư thừa của một người trí thức thiên tả, thành phần thứ ba (phần II)

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả:  Nguyễn Văn Lục

Lý Chánh Trung (2011). Nguồn tatrungtravinh.blogspot.ca

(tiếp theo phần I)

Sau 1963, tình thế xã hội, chính trị, quân sự có nhiều dấu hiệu xấu đi. Tình thế mỗi ngày mỗi bi quan tỏ ra lúng túng, rối loạn, không đường lối, thiếu cả chính nghĩa đến tính hợp pháp. Sự bất tài càng rõ nét nơi các nhà lãnh đạo miền Nam sau 1963. Họ thay đổi chính phủ như cơm bửa tạo ra một tình thế bất ổn chính trị.

Nghĩ là có một khoảng trống chính trị về quyền lực nên một năm thay đổi ba bốn chính quyền.

Tâm trạng giới trẻ và giới trí thức rơi vào tinh trạng chán nản và mất tin tưởng hay trăn trở muốn đi tìm một giải pháp cứu nguy miền Nam.

Khuynh tả với thành phần thứ ba xuất hiện như một giải pháp của không giải pháp.

Kể từ đây, gió đổi chiều. Lý Chánh Trung nổi bật lên như một người trí thức tiêu biểu nhất! Trí thức khuynh tả đã ra đời trong hoàn cảnh này và thuộc nhiều dạng, nhiều thành phần, nhiều mức độ.

Có loại như Thích Nhất Hạnh, Thích Trí Quang, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Trương Bá Cần, Phan Khắc Từ, Huỳnh Công Minh, Thiện Cẩm. Hầu hết thuộc giới tu sĩ công giáo hay Phật giáo. Cái lợi điểm của những vị này là bộ áo nhà tu – mầu nâu hay mầu đen không đáng kể – mặc bộ áo nhà tu như một thứ lá chắn chính trị không ai dám đụng tới họ. Phần lớn chỉ sau 1975, họ mới ló dạng và cho biết họ là ai.

Có loại trí thức tham gia tích cực như Ngô Bá Thành, Ngô Công Đức, Lý Quý Chung, Trần Ngọc Liễng, Hồ Ngọc Nhuận, Vũ Hạnh, Lý Chánh Trung, Nguyễn Trọng Văn, Lữ Phương, Nguyễn Hữu Hiệp, Trần Hữu Lục, Châu Tâm luân, Ngô Kha, Thế Nguyên.

Họ được coi là trí thức thiên tả và sau tự nhận là trí thức thuộc lực lượng thứ ba -Troisième force – rồi lần lượt ngả theo cộng sản và chịu sự chỉ huy của cộng sản.

Ở miền Trung có Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Mai Văn Lễ, Cao Huy Thuần, Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường mà mức độ ngả theo cộng sản cũng khác nhau. Có theo đậm, có theo một cách chừng mực, nửa chân trong chân ngoài. Loại đông nhất chiếm đa số chỉ lên tiếng phản kháng – trí thức thiên tả – mà không hẳn ngả theo cộng sản.

Thành phần đông đảo chiếm đa số của nhóm trí thức thiên tả là thái độ không nhập cuộc. Có thể gọi chung là trí thức sa lông chỉ nói mà không dám làm, chỉ viết mà không thực sự dấn thân nhập cuộc.

Họ là những trí thức, giáo sư, nhà văn, có cả sĩ quan trong quân đội VNCH. Đứng đầu là Nguyễn Văn Trung rồi kéo theo Trần Bích Lan tức Nguyên Sa, Nguyễn Khắc Ngữ, Diễm Châu, Trịnh Viết Đức, Nguyễn Đông Ngạc, Thảo Trường, Nguyễn Tử Lộc, Đỗ Long Vân, Thái Lãng, Thế Uyên.

Và nhiều tên tuổi khác viết cho Đất nước, Hành Trình như Nguyễn Quốc Thái, Du Tử Lê, Bùi Khải Nguyên, Trần Văn Toàn, Huỳnh Kim Khánh, Bùi Tiến, Sầm Thương, Thế Phong, Nguyễn Tử Quý, Ngô Thế Vinh, Trần Tuấn Nhậm, Võ Hồng Ngự, Nguyễn Quốc Thái, Hoàng Ngọc Biên, Cao Thanh Tùng, Chu Vương Miện, Hương Khê, Thái Lãng, Luân Hoán.

Mặc dầu viết cho Hành Trình, Đất Nước hay Trình Bày, mặc dầu bầy tỏ thái độ băn khoăn có thể bất mãn, họ vẫn có tư thế độc lập.

Những tờ báo cũ. Nguồn: Internet

Nhóm Hành Trình không phải đơn độc. Bên cạnh đó còn có nhiểu nhóm khác như Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, Phong trào Dân Tộc Tự Quyết, Ủy Ban Vận động Hòa Bình, Phong trào Bảo vệ Hòa Bình, Hạnh Phúc dân tộc và cuối cùng là Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc.

Những phong trào này – dù chỉ là những tên gọi khác nhau – có dấu hiệu cho người ta ngờ vực là con bài của cộng sản như trường hợp Thích Quảng Liên.

Bên cạnh đó còn có những phong trào văn nghệ phản kháng, trở về nguồn như Phong trào Du Ca, Tâm Ca, Da Vàng Ca. Những phong trào văn nghệ này thực chất có thể chỉ là những khát vọng Tuổi trẻ và không có những vận động chính trị hay sự xâm nhập của cộng sản.

Và vì thế, nó được nhiều người trong giới trẻ hưởng ứng tham gia.

Cho nên việc phân định ranh giới rõ rệt các nhóm trí thức khuynh tả không phải là một điều dễ dàng gì.

Nhưng nhìn chung, nhóm Hành Trình được coi là nhóm khuynh tả tiêu biểu. Đa số những người trong nhóm đã ở tuổi trưởng thành, có sự nghiệp vững vàng và họ tham gia với tính cách tự nguyện.

Sợi dây nối kết họ lại với nhau chỉ vì họ có một số quan điểm khá tương đồng có thể gói trọn trong một số ý tưởng nòng cốt sau đây:

– Chống mọi hình thức can thiệp của Mỹ vào miền Nam. Điều mà có thể chính ông Diệm, ông Nhu cũng chủ trương như thế.
– Chống lại cuộc chiến tranh đang diễn ra mà theo họ, đó chỉ là một thứ chiến tranh ủy nhiệm.
– Gián tiếp chống lại chính quyền miền Nam mà theo họ chỉ là tay sai bản xứ do Mỹ chỉ đạo.
– Cổ võ cho một quan điểm Cách mạng Xã hội không cộng sản được gọi là đường lối thứ ba.

Phải nhìn nhận rằng đa số thành viên chính của tờ Hành Trình đểu là người công giáo, nhưng với chủ điểm và đường lối của họ đã tách rời khỏi đường lối chung của Hội đồng Giám Mục Việt Nam cũng như giáo dân Việt Nam.

Nhất là nó đi ngược với đa số người công giáo nói chung.

Trên căn bản, những người công giáo đa số thầm lặng này vẫn khẳng định vị thế đối kháng với chính quyền miền Nam. Nhưng không có nghĩa là ngả theo cộng sản.

Nội dung các bài viết nhất là nhóm Đất Nước, Hành Trình thường bầy tỏ nỗi băn khoăn, trăn trở về thời cuộc, về hiện tình đất nước và muốn tìm ra những giải pháp và hướng đi cho mình.

Đó là các bài viết mang tựa đề như: Cùng nhau cảm thức về một nỗi buồn nhược tiểu, Cách mạng của người nghèo, Độc tài hay dân chủ, Tìm một hướng đi cụ thể cho cuộc cách mạng Việt Nam, Cách mạng và dân chủ.

Nhưng chỉ đến đây là điểm chung, điểm dừng lại, điểm rẽ ngoặc giữa Lý Chánh Trung và Nguyễn Văn Trung.

Họ khác nhau vì thái độ chọn lựa dấn thân, hành động hay không hành động.

Lý Chánh Trung cũng như Nguyễn Văn Trung và có thể nhiều người khác như giáo sư Châu Tâm Luân, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, luật sư Trần Ngọc Liễng đều nhận được những bức thư mật gửi đến họ dưới danh nghĩa sinh viên học trò gửi thầy mà thực sự do cộng sản nằm vùng giật giây. Trong đó, đại diện cộng sản tìm cách thúc dục đặt vấn đề tranh đấu, dấn thân cụ thể thay vì chỉ sống trong môi trường đại học viết bài.

Người thảo ra những bức thư ấy có thể là Trần Bạch Đằng, Phạm Chánh Trực hay Năm Nghị. Sau đó được giao những sinh viên như Trần Thị Lan tiếp xúc các vị trên.

Nhiều người trong số đó đã bị mắc bãy và chính họ – như trường hợp Lý Chánh Trung đã thú nhận.

Lý Chánh Trung viết:

“Chính anh em sinh viên đã kéo tôi ra khỏi tình trạng bất động ấy bằng lời mời gọi của họ. Sự dũng cảm ấy đập vào tim óc mọi người và bắt mọi người phải suy nghĩ.”

Nhất là trong bài viết: Nói chuyện với người học trò, ông ghi lại như sau:

“Theo con nghĩ, cần phải có một hành động cụ thể, kịp thời, không trí thức và hữu hiệu. Hành động cụ thể, kẻ cạn suy xét mới không ngộ nhận hành vi của thầy là một phản ứng nhất thời của lương tâm trí thức, hay một sự hiện diện tượng trưng, coi cho được với lịch sử.

Thầy chỉ suy tư về những nỗi đau khổ, những niềm tuyệt vọng của kẻ khác, mà thầy chưa nằm trong những nỗi đau khổ, những niềm tuyệt vọng đó.”

Thế đứng của thầy vẫn là ở ngoài, ở trên.

Thầy cũng đã suy tư về một cuộc cách mạng theo phương cách nào đó cho một lý tưởng công bằng xã hội mà em biết rằng thầy chỉ đứng ngoài cuộc cách mạng lý tưởng đó thôi.(17)

Đây là những lời lẽ khích động, đánh đòn tâm não, đánh vào tự ái của người trí thức. Lý Chánh Trung đã bị kích động và làm theo sự kích động ấy sau nhiều trăn trở, do dự. Ông đã bị đám sinh viên đằng sau là cộng sản giật giây và mua chuộc.

Và cũng kể từ đây có một Lý Chánh Trung đã lột xác, đã dấn thân, nhập cuộc.

Và cũng kể từ đây chia ngã rẽ với những người như Nguyễn Văn Trung.

Một bên rời bỏ tháp ngà suy tưởng, một bên tiếp tục con đường suy tư, nhưng ngại dấn thân, ngại nhập cuộc.

Và dần dần kể từ năm 1968, Lý Chánh Trung đã có thể tự coi mình là người của Đảng – đã tiếp xúc với người của Mặt trận, đã được đưa lên vùng mật khu, đã nhận chỉ thị, đã viết theo đường lối của Mặt trận.

Thay vì được điều động vào mật khu, Lý Chánh Trung được khuyến cáo ở lại thành phố, quấy phá bằng ngòi bút, có mặt trong các cuộc biểu tình, xuống đường của giới sinh viên.

Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu thời bấy giờ cùng lúc phải đối đầu với hai mặt trận.

Ngoài Sài gòn, cuộc chiến được giải quyết bằng bom đạn, bằng những trận mưa pháo ban đêm vọng về thành phố ngủ không yên giấc vì những tiếng ì ầm. Binh lính ngày đêm phải đối đầu trực diện với cái chết từng ngày, từng giờ.

Trong thành phố là một trận chiến bằng hàng rào kẽm gai, bằng lựu đạn cay và những biểu ngữ, hô hào đủ kiểu.

Và Lý Chánh Trung đứng bên ngoài cổ võ:

“Khóc đi con, khóc cho quê hương của con đã rách nát như áo ăn mày, cho những cánh đồng loang lổ vỉ bom đan, xơ xác vì thuốc khai quang, cho những thành phố tanh ôi mùi tinh trùng Mỹ, cứt đái Mỹ, rác rến Mỹ, đô la Mỹ..
Khóc đi con, khóc cho các anh các chị con đang bị giam cầm, đánh đập mà không ai biết vì tội gì, và sắp được đưa ra xử trước một tòa án mà không ai tin.”(18)

Có nhiều cách móc nối. Và cộng sản đã móc nối được nhiều người, trên dưới cả trăm người.

Tôi không biết ai đã móc nối Lý Chánh Trung mà cứ như những điều ông trình bày thì có thể là học trò. Trường họp Nguyễn Trọng Văn cũng vậy. Riêng Nguyễn Văn Trung thì có ông Thanh Nghị (chồng bà Tâm Vấn) rủ Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Đình Đầu, Nguyễn Ngọc Lan vào khu.

Nguyễn Đình Đâu, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan – những người được rủ vào khu. Nguồn: Internet

Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Đình Đầu từ chối tham gia vào sinh hoạt chính trị. Chỉ có Nguyễn Ngọc Lan nhận lời và đã vào khu.

Những việc móc nối này, theo tôi, ngành mật vụ có thể biết, nhưng để yên, chỉ theo dõi. Bởi vì, theo một sinh viên hoạt động trong nhóm A17, đã có chỉ thị theo dõi và bắt Nguyễn Văn Trung. Nhưng rồi việc đó đã không được thực hiện.

Năm 1968 – Tết Mậu Thân là thời điểm quyết dịnh dứt khoát ai theo, ai không theo cộng sản. Có một lằn ranh rõ rệt, lộ mặt và nhiều khi không còn dấu diếm nữa.

Như Lý Chánh Trung tự thú nhận:

“Trong những năm đó, nhất là từ sau tết Mậu Thân, tôi đã tham gia hầu hết các phong trào đấu tranh công khai tại thành phố.”(19)

Ông xác định rõ hơn:

“Nhưng tôi cũng phải vượt qua nhiều khó khăn trở ngại, và nếu không có sự mời mọc, lôi kéo của những người trẻ tuổi, thì rất có thể tôi đã không tham gia đến mức độ ấy.”(20)

Nhưng những cái chung đó không đủ để nối kết họ làm một.. khi tình thế chuyển biến.

Nguyễn Văn Trung dừng lại ở bình diện nhận thức, phân tích, tra hỏi, bới tìm, chứng minh bằng lý luận.

Lý Chánh Trung viết ít chú ý đến mặt lý luận với nhiều độ cảm tính, viết bằng cả tâm tình, khơi dậy, đánh động và nhất là nhập cuộc, tham gia vào các cuộc biểu tình, xuống đường, và ở cuối đường gia nhập tổ chức cộng sản(21).

Rồi đến 1975 thì kết quả một người bị đi tù, một người được trọng vọng, cất nhắc.

Nhưng số phận sau cùng dành cho họ ra sao. Đó mới là điều quan trọng.

Lý Chánh Trung và nhóm Liên Trường

Nhóm Liên Trường(22) còn được gọi là nhóm Phục Hưng miền Nam. Rất có thể là do những người đứng ra khởi đầu như các ông Nguyễn Văn Lộc, Huỳnh Văn Đạo, Lý Quý Phát. Vả sau đó được sự hỗ trợ của các ông Phan Khắc Sửu, nhất là cụ Trần Văn Hương.

Theo giáo sư Lưu Trung Khảo thì do gợi ý của tướng Mai Hữu Xuân với tướng Trần Văn Đôn như một điều chỉnh lại tình trạng lép vế của người miền Nam so với người miền Bắc.

Sự phục hưng miền Nam thật ra chỉ là đòi quyền lợi, đòi chia ghế, đòi chức vụ mà đăc biệt xảy ra dưới thời cụ Trần Văn Huong – đặc biệt trong ngành giáo dục.

Các trí thức trẻ trong nhóm Liên Trường coi cụ Trần Văn Hương như một mẫu người miền Nam trong sạch, đạo đức, không tỳ vết chính trị. Họ đã ủng hộ cụ trong việc thành lập chính phủ và chỉ thực sự chán nản khi cụ Hương quyết định đứng chung liên danh với ông Nguyễn Văn Thiệu.

Vấn đề Liên Trường mặt trái của nó là vấn đề Nam-Bắc. Mà tiền sử của nó có thể từ thời Đàng Trong và Đàng Ngoài, thời Trinh-Nguyễn kéo dài gần ba thế kỷ.

Nó bắt đầu từ sự khoanh vùng địa lý, sở hữu đất đai và bảo vệ sở hữu đó nên phải đụng đến binh đao. Nhưng để biện minh cho một thứ chính nghĩa thì người ta phải vận dụng đến vấn đề lịch sử, luân lý và ngay cả một số huyền thoại, vấn đề chính tà để biện minh cho những tham vọng của cả hai phía.

Nhà Nguyễn thống nhất ngôi vua chưa đầy 60 năm chưa đủ thời gian để xóa, cào bằng những ranh giới phân biệt địa lý chính trị lịch sử giữa hai miền.

Khi ngưới Pháp chiếm Nam Kỳ, họ đã lợi dụng lá bài Nam-Bắc và chỉ 40 chục năm sau, 1940, họ đã đào tạo được những thành phần tay sai bản xứ có trình độ chuyên môn cho một loại trí thức Nam Kỳ tự trị. Thật sự thành phần này chẳng những kỳ thị Nam-Bắc, còn phân biệt giai cấp giàu-nghèo, giai cấp thống trị-bị trị như một thứ người ngoại quốc trên chính quê hương mình.

Khi người Pháp ra đi thì không có nghĩa là ảnh hưởng văn hóa Pháp không còn nữa. Nó tạo ra một tồn tích mà nay ta gọi là hiện tượng hậu thuộc địa.

Cái chết của Thủ tướng Thinh coi như một lời cảnh cáo cho những ai còn nuối tiếc nó.

Sau 1955, tưởng như vấn đề kỳ thị Nam-Bắc nay nó đã thuộc về lịch sử rồi. Nhưng cuộc di cư 1955 một cách gián tiếp như một cú sốc về văn hóa, xã hội. Cú sốc ấy hiểu được và không tránh khỏi được những đụng chạm phải có.

Ông Diệm có thể là người đã dẹp tan và giải mã được những đợt sóng ngầm ấy.

Sau 1963 – một thời kỳ nhố nhăng, đầy xáo trộn đã tạo dịp cho những cơ mưu chính trị ló đầu lên.

Cái nhen nhúm ấy thật sự chỉ nhằm một thế đứng chính trị chẳng khác gi cái thế đứng dựa vào các tôn giáo lớn như Phật giáo-Công giáo.

Người làm chính trị muốn có cái thế thì phải đi qua cổng nhà chùa hoặc cổng nhà thờ hoặc tính địa phương. Nhiều dân biểu đắc cử vì dựa vào cái thế địa phương của mình.

Theo lời Dương Văn Ba trong Hồi Ký Những ngã rẽ trong chương 5(23), của ông thì vào năm 1965, Lý Chánh Trung có gửi thư mời ba người là: Dương Văn Ba, Trần Bá Phẩm và Lâm Văn Bé đến làng Thủ Đức để dự một buổi họp.

Buổi họp này có đông đủ nhiều cánh miền Nam khác như các ông: Võ Long Triểu, Hồ Ngọc Nhuận, bác sĩ Hồ Văn Minh, Nguyễn Bá Nhẫn, Nguyễn Khắc Thành, Bành Ngọc Quý, Nguyễn Văn Trường, Lê Thanh Liêm, Lê Văn Danh, Lý Quý Chung.

Nói chung phần đông bọn họ tiêu biểu cho trí thức miền Nam được du học ngoại quốc hoặc tốt nghiệp ở Việt Nam.

Buổi họp mặc dầu được tổ chức ở nhà của Lý Chánh Trung, nhưng mọi chuyện ăn uống tố chức do Võ Long Triều đảm nhiệm. Như ăn thịt cừu nướng, uống bia và rượu mạnh. Chắc là do bà Tô Thị Viễn, hiệu trưởng trường anh văn London School thết đãi. Ông Lý Chánh Trung nói: “Tao nghèo không có những thứ này. Đây là của vợ chồng Võ Long Triều lo.”

Hôm đó, trong bữa ăn được coi là rất vui vẻ, ông Võ Long Triều có nói:

“Đã tới lúc anh em mình nên hợp tác làm một cái gì đó có lợi cho dân miền Nam. Không thể để cho nhóm Nguyễn Cao Kỳ muốn làm gì thì làm trên phần đất quê hương của chúng ta.”

Sau đo ông Triều có đề nghị thành lập một mặt trận chính trị công khai hoạt động cho quyền lợi các tỉnh phía Nam. Nhiều người có vẻ tán thành ý kiến của ông Triều. Giáo sư Trần Bá Phẩm hăng hái ủng hộ.

Lý Chánh Trung đưa ý kiến: “mình nên xuất bản một tờ tuần báo và để có ý nghĩa, tuần báo nên đặt trụ sở ở Mỹ Tho.”

Hầu hết mọi người đều đồng ý. Thế là Dương Văn Ba và Trần Bá Phẩm về lại Mỹ Tho mời bác sĩ Trần Văn Tải, đứng tên chủ nhiệm xin giấy phép.

Võ Long Triều gặp Nguyễn Cao Kỳ để xin giấy phép. Chỉ một tuần sau có giấy phép.

Tờ báo lấy tên là: Tiếng gọi Miền Tây với sự cộng tác của Lê Thanh Liêm, Phan Công Minh, Trần văn Nghĩa. Trần bá Phẩm, Nguyễn Ngọc Thạch, Phan Công Minh, Nguyễn Hữu Cầu, Võ Văn Điểm (bút danh Võ Trường Chinh). Đám người này hầu hết là bạn bè Dương Văn Ba lúc còn học ở Đại Học Đà Lạt và sau này hầu hết đều ở lại theo cộng sản. Ngoài ra còn có Âu Trường Thanh, người Gò Công, Trần Ngọc Liễng lo yểm trợ tài chánh.

Ngay sau đó, có phong trào vận động thành lập đại học Cần Thơ.

Kết quả là Nguyễn Cao Kỳ đã mời các nhân vật miền Nam này tham gia nội các chiến tranh.

  • Kỹ sư Võ Long Triều, Ủy viên thanh niên
  • Giáo sư Nguyễn Văn Trường, ủy viên giáo dục
  • Giáo sư Âu Trường Thanh, ủy viên kinh tế
  • Trần Ngọc Liễng, Ủy viên xã hội.

Các người khác như bác sĩ Hồ Văn Minh, giáo sư Hồ Ngọc Nhuận được Nguyễn Cao Kỳ giao cho trọng trách chương trình Xây Đời Mới tại quận 8.

CTUBHPTU Nguyễn cao Kỳ, PTT Mỹ Humphrey thăm viếng Quận 8 ngày 10 tháng 2, 1966, “Tôi đã nhìn thấy ở đây cuộc cách mạng xã hội” – Humphrey. Nguồn: Corbis

Hồ Ngọc Nhuận trở thành quận trưởng quận 8 và kéo thêm một số bạn bè như Hồ Công Hưng, Võ Văn Bé, Uông Đại Bằng, phó đốc sự Mai Như Mạnh, luật sư Đoàn Thanh Liêm và bác sĩ Hồ Văn Minh.

Chương trình đang tiến triển tốt đẹp thì Nguyễn Văn Thiệu nắm quyền đã cử đại tá Đỗ Kiến Nhiễu làm Đô trưởng Đô thành Sài gòn-Chợ Lớn.

Ông Đỗ Kiến Nhiễu buộc nhóm Hồ Ngọc Nhuận phải bàn giao lại chương trình kế hoạch Xây Đời Mới và phát triển cộng đồng về cho Đô thành-Chợ Lớn.

Chương trình Xây đời Mới tan thì nhóm này xoay ra làm chính trị, ứng cử dân biểu và đã đắc cử như Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Chung ở quận 1, quận 2, Hồ Văn Minh, Hồ Ngọc Nhuận ở quận 6, quận 8, Ngô Công Đức ở Trà Vinh, Bành Ngọc Quý ở Gò Công, Dương Văn Ba ở Bạc Liêu, Nguyễn Hữu Hiệp ở Đà Lạt.

Tất cả các ứng cứng cử viên này đền nhận được sự yểm trợ tài chánh của Võ Long Triều mà một phần tiền có thể từ Nguyễn Cao Kỳ, năm 1967.

Đây là cách để ông Nguyễn Cao Kỳ ‘cân bằng lực lượng’ với đám đa số dân biểu thân chính do ông Nguyễn Văn Thiệu đứng đằng sau.

Riêng Lý Chánh Trung được bổ nhiệm làm Đổng lý văn phòng Bộ Giáo Dục. Công việc của ông là dọn dẹp một số chức vụ chỉ huy trong ngành giáo dục và Vụ Học Đường Mới.

Việc làm này của Lý Chánh Trung là ném đá dấu tay, chơi cánh Bắc Kỳ mà không dám lộ mặt. Chỉ sau này, tôi mới biết rõ tâm địa của ông, vì hồi đó, ông chối hết. Đó là hành vi hết sức đáng trách mà một người trí thức không bao giờ làm.

Đây là những công việc trực tiếp do Lý Chánh Trung ký giấy tờ, Sự Vụ lệnh thuyên chuyển:

  • Thuyên chuyển giáo sư Đàm Xuân Thiều (gốc Bắc) vốn là một nhà giáo gương mẫu, thanh liêm và đạo đức từ Giám Đốc Nha Trung Học đầy lên Ban Mê Thuột.
  • Ông Đặng Trần Thường, cũng bị mất chức giám đốc Nha khảo thí cũng bị đầy lên cao nguyên.

Giáo sư Trần Ngọc Ninh nói với tôi rằng chính ông là người đề ra Chương trình Học Đường Mới, có tên là CPS nhằm đưa giới trẻ vào các sinh hoạt ngoài phạm vi nhà trường. Có khoảng 30 gíáo sư nằm trong chương trình này. Ông đang đi dự một Hội Nghị Quốc tế về Giáo dục do Unesco tổ chức tại Bangkok mà lần đầu tiên Nga tham dự. Khi về đến phi trường Tân Sơn Nhất – do áp lực của nhóm Liên Trường áp lực ông Nguyễn Cao Kỳ – buộc giáo sư Trần Ngọc Ninh phải từ chức. Họ đã thay thế Tổng trưởng giáo dục bằng một người khác là ông Nguyễn Văn Trường. Ông Trần Ngọc Ninh sau đó lẳng lặng rút lui.

Và những người thay thế là Nguyễn Văn Trường, Lý Chánh Trung đã xóa sạch toàn bộ các chương trình ấy.

Hiệu trưởng các trường trung học gốc Bắc như Hồ Ngọc Cẩn, Trần Lục bị thay thế thế bằng người miền Nam. Trường hợp ông Lâm Phi Điểu – một người bạn tâm giao của ông Võ Long Triều được điều về làm Hiệu trưởng Hồ Ngọc Cẩn. Chẳng may ông này bị tai biến mạch máu não phải ngồi xe lăn. Mặc dầu vậy, ông vẫn giữ chức Hiệu trưởng nên các giấy tờ công văn, tùy phái phải đến nhà ông để ông duyệt xét ký.

Một số hơn 20 giáo sư trung học nằm trong chương trình Học Đường Mới bị trả về nhiệm sở cũ như các các ông Lê Đình Điểu, Hà Tường Cát, Phạm Phú Minh, Đỗ Quý Toàn, Trần Đại Lộc, Phan Văn Phùng.

Chính tôi đã hỏi thẳng ông Lý Chánh Trung về việc thuyên chuyển này, nhưng ông chối quanh và không nhận trách nhiệm do chính tay ông ký Sự Vụ Lệnh thuyên chuyển.

Nhìn lại việc này, tôi vẫn cảm thấy bực bội về thái độ và cách hành xử của giáo sư Lý Chánh Trung và bao nhiêu những cảm tình tốt dành cho ông từ những năm làm báo Sống Đạo tan ra mây khói.

Những việc tranh đấu, những điều ông viết trở thành những dấu hỏi về tính lương thiện trí thức có hay không?(24)

Từ đó nó cũng đặt câu hỏi phải chăng ông là người có tính xu thời, thứ chủ nghĩa cơ hội, gió chiều nào ngả theo chiều đó. Tôi thật sự không dám dấn sâu hơn những suy nghĩ của mình về vấn đề này.

Cũng may là bác sĩ Nguyễn Văn Thơ, một người cũng miền Nam – một tổng trưởng liêm chính – sau đó thay thế ông Nguyển Văn Trường đã không đồng ý các việc giáng chức, bổ nhiệm có tính cách trừng phạt ấy.

Từ thiên tả đến thiên cộng chỉ là một bước nhảy

Sắc thái chung của những trí thức thiên tả, trong đó có Lý Chánh Trung được coi là những người đứng bên lề trái.

Đó là một sinh hoạt đứng bên lề trái, đứng để phê phán, đứng để chống lại cái chính thống. Đó là thái độ bất mãn thường trực với cái đang có, cái trật tự hiện có còn dở dang, chưa hoàn chỉnh, cái chính quyền hiện tại. Chống bất kể là ai, bất kể là đệ nhất hay đệ nhị cộng hòa.

Chống là chống. Hay cũng chống, dở cũng chống, chống một phía.

Người cánh tả thường chỉ nhìn thấy những kẽ hở, những điều xấu, điều tiêu cực-quên đi những điều tốt đẹp – đứng về phía thiểu số hay đứng về phía kẻ bị coi là bị áp bức, người nghèo. Hoặc rộng lớn hơn họ đứng lên bênh vực các nước nghèo, nước bị trị, kém mở mang.

Sau này tạm đủ lớn mạnh, từ thiên tả, ông đã tự khoác cho mình một vai trò. Đó là tự nhận mình là thuộc thành phần lực lượng thứ ba (Troisième Force). Ý thức thiên tả vẫn có thể chỉ ở bình diện lý thuyết, nhưng khi gọi là lực lượng thứ ba có nghĩa là một phong trào hành động, có thực lực.

Tuy nhiên, lực lượng thứ ba là một thực thể hàm hồ, không rỏ rệt. Có chống, nhưng theo hẳn một bên thì không theo, vẫn muốn chọn cho mình một thế đứng độc lập.

Thiên một bên, nghiêng về một phía, nhưng không chọn đứng hẳn về một phía.

Có nghĩa không phải là Quốc gia chống Cộng mà cũng không hẳn là cộng sản. Nhiều chỗ trong những bài báo trên Hành Trình, Đất Nước, Nguyễn Văn Trung và Lý Chánh Trung gọi đó là một thứ Xã Hội chủ nghĩa không cộng sản.

Trong tình thế đất nước chúng ta, lối hô hào xuông một chủ nghĩa xã hội không cộng sản là một ảo tưởng! Đó là một ước mơ và một đề nghị lơ lửng và còn tin rằng có thể hòa hợp, hòa giải với cộng sản. Ông chọn một thế đứng chênh vênh như thế ở miền Nam trước 1975 cũng có phần nào hiểu được, nhưng nhiều phần đó chỉ là một ảo tưởng, lãng mạn chính trị.

Nhiều phần là không thực tế. Nếu không nói là ngây thơ, khờ khạo vì không hiểu được thực tại chính trị.

Ngay từ thời sinh viên khi còn học triết học ở Louvain vào thập niên 1950 cùng với nhiều sinh viên khác như Trần Văn Toàn, Lê Tôn Nghiêm, v.v. ông đã ngả theo khuynh hướng triết học Mác Xít, chống Pháp.

Sự ngả theo như thế hầu như là một cái mốt của giới trí thức trẻ. Phải tả phái mới được. Tả khuynh mới được coi là có đầu óc, trí thức.

Nó chẳng khác gì cánh trí thức tả của Pháp như A. Camus, Simone de Beauvoir, J.P. Sartre, André Gide hay các nhà báo như Bernard B. Fall, J. Lacouture, Stanley Karnow, Alain Ruscio, David Halberstam, Oriana Fallaci, v.v.

Và nếu nói theo khoa học bây giờ, người ta tìm thấy trong đầu con người có những loại genes đặc biệt như gène de dieu, có tên khoa học là VMT, gène về đồng tính, v.v. Người có gène tôn giáo này có những khuynh hướng thần tính, siêu nhiên khó mà cắt nghĩa được. Cái gène tôn giáo xác định cái căn cước, cái thần linh ngự trị trong cuộc sống của một người?(25)

Nếu đã có những gènes về tôn giáo và đồng tính thì cũng có thể có những loại gènes về chống đối, bất mãn và xung đột.

Nếu thực sự cũng có những gènes như vậy thì có thể lý giải được nhiều điều về cá tính con người cũng như cách hành xử của những người tả phái.

Họ có cái gene bất mãn nên luôn ở thế đối đầu, chống đối.

Phải chăng Lý Chánh Trung về phạm vi tâm sinh lý có một não trạng bất mãn thường trực và điều đó làm nên cá tính, nhân cách của ông chăng?

Nhưng nói chung, trong số thành phần trí thức thiên tả ngả theo cộng sản thì theo tôi người tiêu biểu về mọi phương diện là Lý Chánh Trung.

Tiêu biểu của ông có thể về mặt nhận thức, trí thức, về mặt dấn thân nhập cuộc, tiêu biểu cả về mặt thành thật hoặc không thành thật, tiêu biểu của việc đón chiều gió, tính cơ hội cũng có, khi nào cần phải lên tiếng và khi nào cần biết im lặng.

Có thể ông không phải là loại người quá khích, hung hăng sốc nổi. Trái lại điềm tĩnh và cân nhắc mỗi khi phát biểu, đôi khi dè dặt cẩn trọng, có tính toán, cân nhắc.

Vì ở thế đối lập, ông luôn tỏ ra thái độ từ bất mãn đến chống đối các chính thể từ Đệ Nhất sang Đệ Nhị Cộng Hòa.

Ông luôn có việc để làm, để chống đối mà không bao giờ sợ thất nghiệp.

Vậy mà ông đã thất nghiệp sau 1975, vì không có gì để chống đối nữa. Hay có thấy mà không dám chống đối nữa.

Giữa ông và Nguyễn Ngọc Lan có sự đố kỵ nhau khi cùng viết trên tờ Hành Trình. Ông từng phản đối Nguyễn Văn Trung khi ông này cho đăng bài của Nguyễn Ngọc Lan. Nhưng Lý Chánh Trung tỏ ra hèn khi cúi đầu im lặng thì Nguyễn Ngọc Lan lại có cái can đảm ngoài khuôn khổ chống đối lại chế độ cộng sản công khai mà ít ai có đủ đảm lược để làm như ông.

Chống độc tài, chống kỳ thị tôn giáo, chống gia đình trị, chống cá nhân ông Diệm, chống chiến tranh, chống Mỹ Ngụy, chống tham nhũng, chống cá nhân ông Thiệu như tay sai Mỹ.

Nhưng đó là thứ chống một phía.

Không bao giờ ông dám nhìn nhận sự thật phía cộng sản đang làm gì?

Chống chán rồi đòi. Đòi tự do, tự do báo chí, đòi dân chủ, đòi thả tù nhân chính trị, đòi thả những sinh viên theo cộng cộng sản nằm vùng, ngay cả những đặc công cộng sản. đòi quyền sống cho phụ nữ.

Chống và đòi. Đó là hai công việc đi đôi với nhau của ông Lý Chánh Trung trước 1975.

Chính Lý Chánh Trung sau này cũng phải nhìn nhận rằng:

“Lực lượng hay Thành phần thứ ba chỉ là một khát vọng hơn là một thực lực thực tế. Tổ chức vỏn vẹn có vài trăm người. Nhóm người đó mở ra mọi phía và đón nhận nhiều ảnh hưởng. Vì thế họ không có một ý thức hệ chính xác nào.”(26)

Chính vì mấy chữ này mà ông bị Nguyễn Trọng Văn viết tham luận tố giác ông và Nguyễn Văn Trung sau 1975.

Lý Chánh Trung đồng hành với các sinh viên tranh đấu

Việc từ bỏ tháp ngà của một giáo sư đại học văn khoa cũng như một công chức cấp cao của ngành giáo dục và quyết định dấn thân sát cánh với nhóm sinh viên tranh đấu thân cộng sản là một bước ngoặt trong cuộc đời sinh hoạt chính trị của ông.

Những băn khoăn, thắc mắc của tôi là tại sao ông chọn lựa thái độ dấn thân ấy?

Tôi đã thăm dò nơi một hai người bạn thân của ông nhưng kết quả không là bao nhiêu.

Tôi cũng không bằng lòng với những bài viết như thú nhận tại sao ông đã nhập cuộc và theo cộng sản vì lý tưởng cộng sản hun đúc từ thời sinh viên, vì nghĩ rằng nó có tính cách trang điểm cho những việc làm của ông sau này.

Bài viết của ông nhan đề: Làm Và Tin viết như một thứ trả bài làm tôi nghi ngờ tính lương thiện trí thức ở trong đó, bởi vì nó được nhắc nhở đến ngay từ hồi còn sinh viên mà Lý Chánh Trung đã có niềm xác tín như thế với Đảng cộng sản. Ông đã viết như sau:

“Lúc còn bên Pháp trong những năm 1950, tôi đã nghĩ rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ thắng trên toàn thế giới như nó đã thắng tại nước Nga, tại các nước Đông Âu và tại Trung Quốc, như nó đã thắng tại Việt Nam, không những vì đó là hướng đi của lịch sử mà còn vì đảng cộng sản là một tổ chức hữu hiệu nhất đã xuất hiện trong lịch sử từ trước đến nay. Riêng tại Việt Nam, hiệu năng ấy còn tăng lên gấp bội vì ở đây, Đảng cộng sản đã lãnh đạo từ đầu cuộc kháng chiến giành độc lập của dân tộc và đã thu hút được sự ủng hộ của mọi tầng lớp và mọi giới đồng bào.

Tuy không phải là người cộng sản, tôi thành thật mong muốn sự thắng lợi của chủ nghỉa cộng sản trên thế giới và tại Việt Nam, vì tôi chon rằng chỉ chủ nghĩa cộng sản mới tạo dựng được cái xã hội thật sự tự do, bình đẳng và huynh đệ mà tôi hằng mơ ước. Những tin tưởng hoàn toàn nơi thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản như tin một sự thật khoa học, bất kể những điều kiện khách quan có thể biến đổi ra sao, thì thú thật là tôi chưa tin nổi.”(27)

Tôi đi tìm một lối giải thích khác và tôi nghỉ là nó chính xác hơn.

Ông đã chạy theo những đám thanh niên thiên tả mà một số là cộng sản nằm vùng. Đặc biệt nhất là sinh viên y khoa Huỳnh Tấn Mẫm.

Đối với tôi thì sinh viên này trước 1975 là thứ phá hoại – một thứ phá làng phá xóm do cộng sản giật giây.

Giá trị của anh ta là ở chỗ ấy. Sau 1975, không dùng được vào việc gì cùng lắm dùng làm cảnh. Huỳnh Tấn Mẫm thêm vào danh sách những kẻ dư thừa, không biết dùng vào việc gì sau 1975.

Nguyến Đình Đầu (trái), Huỳnh Tấn Mẫn (phải) – biểu tình trong phòng để chụp hình (27.7.2011). Nguồn: boxitvn.net

Từ đó đến nay, gần 40 năm, anh sinh viên nay mang thân phận dư thừa. Không có chỗ đứng.

Có dịp đọc lại hết những hoạt động của Thành Đoàn TNCS của thành phố Hồ Chí Minh mới chính thức được thành lập năm 1966, tôi thấy hết được bối cảnh chính trị miền Nam trong những năm tháng cuối cùng.

Chúng ta biết rằng có một cuộc chiến tranh trực diện, cuộc chiến tranh ở ngoài Sài gòn bằng bom đạn, bằng trực thăng, bằng đại bác 105 ly, bằng đô la để đổi lấy những xác chết – và cũng có một cuộc chiến bằng súng cối, bằng hầm chông, bằng ám sát, thủ tiêu và cuối cùng bằng xe tăng đại pháo với những xác người bị phơi thây bên bờ kinh, bờ rạch.

Nhưng có một cuộc chiến tranh thứ hai ngay giữa lòng Sài Gòn bằng biểu tình, tuyệt thực, xuống đường, bằng hô hào đả đảo, bằng lựu đạn cay và nước mắt và bằng những hàng rào kẽm gai. Cuộc chiến cân não này ít ai nói tới vì không thể đếm những xác người.
Nó cũng không có biên giới rõ rệt, trộn lẫn Ta và Địch, vì Địch cũng có thể là Ta.

Cuộc chiến trên đường phố ở Sài Gòn diễn ra ở hai mặt.

Mặt nổi là những cuộc biểu dương lưc lượng của giới sinh viên học sinh như biểu tình, xuống đường, đòi cái này, cái kia, ngay cả việc đòi thả những cán bộ cộng sản như Vũ Hạnh, sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy. Lý Chánh Trung đã có mặt trong những cuộc biểu dương này và ông đã viết như sau trong Một thời đạn bom, một thời Hòa Binh:

“Tôi đã đến đây tham dự buổi tuyệt thực của 20 giáo chức Đại, Trung và Tiểu học tại tỏa Viện trưởng Viện Đại Học Sài Gòn, để yêu cầu nhà cầm quyền trả lại tự do cho các sinh viên, trong đó có anh Huỳnh Tấn Mẫm đã bị giam giữ trái phép đúng một tháng qua và đang tuyệt thực, tuyệt ẩm trong khám Chí Hòa. Trong lúc mấy anh em hát, tôi cảm động không dám nhìn lên, chỉ nhìn xuống.”(28)

Thế nào là trái phép? Bắt giam một anh cộng sản nằm vùng là trái phép? Đã không ai đặt ra câu hỏi này cả. Và sau 1975, Đã bao nhiều người đã vào tù một cách oan khuất, đã có lần nào, Lý Chánh Trung dám lên tiếng một lần?

Mặt thứ hai của cuộc chiến tranh đang diễn ra tại thành phố Sài Gòn là công tác được chỉ huy của các đồng chí như Nguyễn Văn Linh, Trần Bạch Đằng, Phạm Phương Thảo với vô số tên tuổi như Nguyễn Đông Thức, Hồ Dũng, Anh Ngọc, Lê Văn Nuôi, Hàng Chức Nguyên, Lê Quang Vịnh, Lê Hồng Tư. Phạm Chánh Trực.

Và với nhiều bí danh như Tám Lượng, Hai Nghị, Út Thu, Mười Hương, Ba Hoàng, Tư Kiên, Mười Hải, Mười Dũng, Ba Liễu, Tư Thanh, v.v. Đã có hằng trăm tên như thế.

Công việc của họ là ám sát các nhân vật có uy tín của miền Nam như giáo sư Nguyễn Văn Bông, ký giả Từ Chung, báo Chính Luận, chủ bút Chu Tử, hai giáo sư Y khoa là giáo sư Lê Minh Trí, giáo sư Trần Anh và sinh viên Lê khắc Sinh Nhật.

Những công tác của các tổ ám sát này sau được phép kể lại công khai trên báo chí như một thứ giải trí hay một thứ thành tích giết người đang được tự hào.

Sau nữa là việc đốt xe Mỹ xảy ra ở nhiều nơi.

Để hỗ trợ cho việc đốt xe Mỹ này, tờ Tin Sáng của nhóm Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Chánh Trung đưa ra một bản tin như sau:

Phong trào đót xe của sinh viên học sinh Saigon, 1960-70. Nguồn: Internet

“Phong trảo đốt xe Mỹ càng ngày càng vang dội vả được mở rộng, thu hút được nhiều tầng lớp nhân dân tham gia. Ở Thủ Đức, vào lúc 10 giờ sáng ngày 10 tháng 9 năm 1971, đồng bào đã tự động phóng hỏa đốt một xe Đại Hàn. Hành động này, đồng bào Thủ Đức nói là hỗ trợ cho chiến dịch đốt xe Mỹ của Ủy Ban đòi Quyền sống đồng bào tổ chức nhằm trả thù cho đồng bào Bình Thạnh và các tỉnh miền Trung bị lính Đại Hàn giở trò man rợ.”(29)

Cũng tờ Tin Sáng số ra ngày 21 tháng 10 năm 1971 với hàng tít lớn:

“Từ tờ mờ sáng 20-10, sinh viên học sinh mở cuộc săn đốt xe Mỹ trong khu vực tam giác sắt Trần Quốc Toản- Cao Thắng-Kiều Công Hai.”

Việc đốt xe Mỹ này là do những tổ trinh sát thi hành. Tờ báo Tin Sang đã tuyên truyền bịp bợm đổ cho đồng bào một cách vô tội vạ.

Ngày nay, họ còn tỏ ra hãnh diện và công khai hóa những vụ ám sát này như một thứ thành tích đáng được biểu dương.

Một tờ báo như Tin Sáng thế mà không ai nghĩ đến việc đóng cửa và bỏ tù bọn họ.

Với hai mặt trận như thế mà chúng ta đành thua người cộng sản.

—————————-

(17) Lý Chánh Trung, Những ngày buồn nôn, Nói chuyện với người học trò, trang 80-81
(18) Lý Chánh Trung, Ibid., Khóc đi con, trang 40
(19) Lý Chánh Trung, Trui rèn trong lửa đỏ, Làm và Tin, trang 239
(20) Lý Chánh Trung, Ibid., 239
(21) Lý Chánh Trung, Ibid., trang 240
(22) Nguyễn Văn Lục, Nhìn lại vấn đề kỳ thị Nam-Bắc, DCVOnline.net
(23) Hồi Ký Dương Văn Ba, Những ngã rẽ, chương 5: Làm chính trị. Vào Quốc Hội
(24) Võ Long Triều, Hồi ký Võ Long Triều, trang 329
(25) Dan Burstein et Anne De Keijzen, Les secrets, des Anges & Demons, trang 267
(26) Alain Ruscio, Vivre au Viet Nam, trang 178
(27) Võ Long Triều, Ibid., trang 329
(28) Lý Chánh Trung, Trui rèn trong lửa đỏ, trang 229
(29) Lý Chánh Trung, Một thời đạn bom, một thời Hòa Bình, trang 62


 

Triều cường gây ngập, dân Sài Gòn vất vả sống chung dòng nước ô nhiễm

Ba’o Nguoi-Viet

November 28, 2023

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) –Nhiều người phải bì bõm lội nước, nhiều gia đình vất vả sống trong dòng nước đen hôi thối khi triều cường dâng cao ở Sài Gòn.

Theo ghi nhận của báo Thanh Niên, khoảng 5 giờ chiều 28 Tháng Mười Một, triều cường dâng cao gây ngập ở khu vực đường Phú Định, đường Nguyễn Ngọc Cung…, quận 8.

Triều cường dâng cao gây ngập đường phố, nhà cửa ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân ở Sài Gòn. (Hình: Nhật Thịnh/Thanh Niên)

Nước ngập nửa bánh xe khiến việc đi lại của người dân “phát khiếp” mỗi khi đi qua dòng nước đen ngòm, hôi thối và càng khiếp hơn khi chúng tràn vào tích tụ lâu ngày trong nhà, ảnh hưởng đến sức khỏe.

Bà Vũ Thị Hằng, 63 tuổi, ở đường Nguyễn Ngọc Cung, quận 8, cho biết do sống ở khu vực này hàng chục năm nên đã quá quen với cảnh triều cường gây ngập.

“Có khi nước tràn hẳn vào nhà khiến gia đình phải vất vả dọn dẹp, ảnh hưởng đến cuộc sống. Nước sạch còn đỡ, chứ ở đây nước đen ngòm không ai muốn đụng nhưng chúng tôi buộc phải lội nhiều ngày liền. Triều cường có hôm lên sớm, có hôm lên trễ dâng cả sáng lẫn chiều, mỗi lần lên là chúng tôi khổ sở, không biết làm cách nào ngoài đợi nước rút xuống,” bà Hằng ngao ngán nói.

Bà Phan Thị Mỹ Phương, 53 tuổi, ở đường Nguyễn Ngọc Cung, thở dài: “Nước đen đến cá còn không dám bơi mà mỗi đợt triều cường dâng chúng tôi phải chịu hôi thối mấy ngày liền. Chúng tôi sống ở đây đã lâu nên giờ phải chịu chứ ai đến làm dâu, làm rể thì khổ cho họ.”

Trong khi đó, ông Trần Văn Cảnh, 43 tuổi, ở đường Nguyễn Ngọc Cung, cho hay, mấy năm trước gia đình đã tốn vài chục triệu đồng nâng cao nền nhà khoảng 1.2 mét so với mặt đường, nhưng không ăn thua.

“Nước quá trời đen gây ngứa không chịu nổi nhưng tôi cũng không biết làm thế nào để nước không dâng lên. Tôi mong chính quyền nâng đường lên thật cao, giảm tình trạng nước ngập để cuộc sống của người dân không bị ảnh hưởng,” ông Cảnh bày tỏ.

Báo Phụ Nữ Việt Nam ghi nhận, tại đường Trần Xuân Soạn, quận 7- một trong những con đường thường xuyên bị ngập nặng khi triều cường, nhiều hàng quán phải tạm ngưng bán. Nhiều xe bị chết máy do đường bị ngập sâu.

Ông Vương Quốc Khánh, 61 tuổi, ở đường Trần Xuân Soạn, cho biết: “Mỗi đợt triều cường là con đường này bị ngập nên không làm ăn gì được, đành phải chấp nhận sống chung với nó. Nâng nền nhà thường xuyên cũng không ổn, do triều cường mỗi năm mỗi lớn nên không còn cách nào khác.”

Dòng nước đen hôi thối tràn cả vào nhà, nhiều gia đình phải vất vả tát nước thâu đêm. (Hình: Nhật Thịnh/Thanh Niên)

Tương tự, triều cường xuất hiện vào giờ tan tầm khiến đoạn đường dưới chân cầu Lò Gốm, phường 7, quận 6, xảy ra tình trạng kẹt xe, người dân phải nhích từng chút một.

Tình trạng triều cường gây ngập nước đang gây không ít khó khăn cho cuộc sống của cư dân Sài Gòn. Tuy nhiên cho đến nay, cơ quan hữu trách vẫn loay hoay không thể làm gì khác ngoài việc Thường Trực Ủy Ban Nhân Dân thành phố đưa ra chỉ đạo chung chung “các quận, huyện triển khai ngay biện pháp phòng chống và ứng phó với tình hình sạt lở đất trên địa bàn thành phố, để giảm thiểu tối đa các thiệt hại do các đợt triều cường cộng thêm những cơn mưa lớn trong mùa này gây ra.” (Tr.N)


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Dư âm của lễ Tạ ơn

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Báo Nhân Dân trang trọng loan tin: “Lễ kỷ niệm 100 năm ngày ký Hiệp ước đình chiến kết thúc cuộc chiến tàn khốc trong lịch sử nhân loại, đã diễn ra tại Khải Hoàn Môn trên đại lộ Champs Elysée ở trung tâm thủ đô Paris. Tham dự sự kiện này có 72 nguyên thủ và lãnh đạo quốc gia.”

Tui lấy kính lúp xăm soi hoài nhưng không thấy mặt mũi của “lãnh đạo quốc gia” Việt Nam đâu ráo trọi. “Đại diện của dân tộc” này cũng khỏi có luôn, theo như lời phàn nàn của nhà báo Lưu Trọng Văn:

“Gã ngạc nhiên tại Paris trong lễ kỉ niệm 100 năm kết thúc Thế chiến lần thứ Nhất đại diện của dân tộc gã không được mời. Ngài tổng thống Pháp đã mời vua Ma rốc và lãnh đạo một số nước Bắc Phi để tri ân nhưng đã quên rằng giành lại hoà bình và độc lập cho nước Pháp trong Thế chiến này có hơn 100.000 người VN của tổ quốc gã… Chua xót cho những hương hồn dân Việt!”

Khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt tôi vẫn chưa mở mắt chào đời nên không biết chi nhiều về những chuyện vào thuở đã xa lắc, xa lơ, hồi đầu thế kỷ XX. May là vừa đọc được một bài viết rất công phu (“Chiến Binh Gốc Việt Trong Lịch Sử”) của nhà văn Giao Chỉ:

“Khi Pháp thực hiện việc xâm lăng và cai trị Việt Nam (khi đó họ gọi là An Nam) để bình định thêm các thuộc địa và gây chiến với nhiều quốc gia khác, lực lượng binh lính người Việt được chiêu mộ để phục vụ cho mục đích chiến tranh này, dấu chân của họ đã in khắp các chiến trường Âu Phi. Không thể tưởng tượng con số thanh niên Việt trong 4 năm 1914-1918 đã có đến gần 100,000 ngưởi tham dự đại chiến thế giới lần I tại Pháp…

Thời kỳ đó thanh niên Việt Nam đi lính cho Pháp tham dự đệ nhị thế chiến dường như hiếm có các sĩ quan. Giỏi lắm chỉ là ông cai, thầy đội hay lên đến quan quản tức là thượng sĩ đã là cao cấp lắm. Riêng có trường hợp đại úy phi công anh hùng của quân đội Pháp là ông Đỗ Hữu Vỵ con trai của tổng đốc Nam Kỳ Đỗ hữu Phương.”

Wikipedia (tiếng Việt) cho biết thêm:

“Trong số những phi công đầu tiên của Pháp xuất xứ từ Đông Dương được ghi nhận có Phan Tat TaoCao Đắc Minh, Felix Xuân Nha (Nguyen Xuan Nha), Đỗ Hữu Vị, nhưng Đỗ Hữu Vị được xem là nổi tiếng nhất. Vì vậy, chính phủ Pháp cho in hình ông trên con tem phát hành khắp Đông Dương, lấy tên ông đặt cho nhiều trường học, nhiều đường phố ở các thuộc địa và chính quốc.”

Đỗ Hữu Vị từ trần vào năm 1916, hơn trăm năm sau nước Pháp vẫn còn “trường học, đường phố” mang tên ông. Như thế – kể ra – trí nhớ của  dân Tây cũng không đến nỗi bạc bẽo gì cho lắm, như bác Lưu Trọng Văn vừa mới than phiền. Ít nhất thì nó cũng đến nỗi “bạc” như dân Ba Đình, Hà Nội. Họ xóa sổ liền đám Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, ngay sau khi cuộc chiến Nam/Bắc vừa tàn.

Thân phận của những cán binh miền Bắc, hay còn gọi là lính bác Hồ, cũng không khác mấy:

“Lúc tôi tình nguyện vào Nam, số học sinh của cả bốn lớp 10 của trường chúng tôi vào chiến trường khoảng 120 người, vậy mà chỉ 2 người may mắn sống sót, là tôi và một người nữa. Tôi thì bị bom làm điếc tai bên phải; người còn lại là cậu Lương thì bị cụt một tay và trở nên ngớ ngẩn. Tất cả những bạn khác của tôi không ai sống sót.

Khi tôi đi tìm mộ của những bạn đã chết, tôi mới biết, trong những trận đánh mà bộ đội miền Bắc thua, thì người ta xóa sạch dấu vết và tên tuổi liệt sĩ không được ghi lại. Họ giải thích rằng dân tộc ta là dân tộc anh hùng phải chiến thắng quân thù, nhưng trận này chưa thắng cho nên không thể kiểm kê các liệt sĩ được. Cho nên hàng trăm người chết dưới đáy hồ, dưới đáy vực mà hoàn toàn không ai tìm được tung tích.” (Đinh Quang Anh Thái. “Giọt Nước Mắt Người Phụ Nữ Bên Thắng Cuộc.” Ký 2. Người Việt Books: Westminster, CA 2018).

Chế Lan Viên cũng ghi lại cái tâm cảm (gần) tương tự:

Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có 30 …
Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm
Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ
Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!

Rải rác trên Đường Mòn Hồ Chí Minh, theo G.S. Nguyễn Văn Lục: “Người ta phỏng đoán có khoảng 300.000 vừa là TNXP, vừa là cán binh bộ đội đã đào ngũ hay mất tích hoặc chấm dứt đời sống. Bệnh tật như kiết lỵ, sốt rét đã nhanh chóng hoàn tất cuộc đời của họ mà có thể chưa một ngày lâm trận. Thân xác chỉ còn là những bộ xượng lụi tàn, nằm chờ chết như một niềm an ủi cuối cùng.”

Nhặt nhạnh lại số hài cốt vương vãi khắp nơi, khi đất nước tôi không còn chiến tranh, là việc của những mẹ già lên núi tìm xương con mình hay của những … nhà ngoại cảm, những liên lạc viên (không khả tín gì cho lắm) giữa cõi âm và cõi dương – ở VN.

Trong cuộc chiến kế tiếp thì con số tử sĩ và thương vong “nhẹ nhàng” hơn. Theo Đại tá Phạm Hữu Thắng, chuyên gia về Campuchia thuộc Viện Lịch Sử Quân Sự, con số binh sỹ Việt Nam thiệt mạng là gần bốn chục ngàn người. Ông cũng khẳng định: “Trong tay tôi có con số thống kê của ngành Quân y, Tổng cục Hậu cần, số thương vong trong mười năm, cả bị thương và hy sinh là hơn 156.000.”

Trao đổi với BBC, trong cuộc tọa đàm hôm 25/9/2014, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huy đưa ra một số liệu khác: “Những con số đưa ra hiện nay cũng chưa chính xác lắm… Nhưng người ta nói khoảng 55.000 binh sỹ, tức là bộ đội cộng với thanh niên xung phong Việt Nam đã hy sinh trên chiến trường Campuchia thời gian đó.” Đây là “cuộc chiến bị lãng quên” (theo như cách nói của nhà báo Kevin Doyle ) nên – thực ra – cũng chả ai bận tâm chi nhiều đến hậu quả của nó, xá chi đến những bọ xương khô hay những thân xác bị tàn phế.

Kế tiếp nữa là chiến tranh biên giới Việt/Trung. Nó không “bị” nhưng “buộc” phải lãng quên, như cách nói của FB Hồ Hữu Hoành: “ Không có lấy bất cứ một bài học, một nội dung về nó trong sách giáo khoa, từ tiểu học cho đến đại học. Đã có thời, nhắc đến nó cứ như nói chuyện húy kỵ, đụng đến nhà vua… không dân tộc nào đau thương và đầy kinh nghiệm với chiến tranh như Việt tộc. Nhưng không có dân tộc nào, mà những kẻ ở thượng tầng sẵn sàng xóa bỏ lịch sử, kiến tạo một sự thật khác, như ở dân tộc này.”

Họ “xóa bỏ lịch sử, kiến tạo một sự thật khác” cách nào?

Báo Tiền Phong, số ra ngày 31 tháng 7 năm 2014 cho biết:

“Tháng 2.2011 trong chuyến đi thu thập tư liệu biên soạn lịch sử sư đoàn, đại tá Đỗ Phấn Đấu, Chính ủy hiện tại của Sư đoàn 337 mới phát hiện ra rằng cột bia chiến thắng Khánh Khê đã bị hư hại nhiều. Trên tấm bia nhiều dòng chữ đã bị phai mờ, có chỗ còn có dấu hiệu bị hủy hoại. Nơi đặt cột bia cũng nằm trong khu vực xây dựng công trình thủy điện mà nay mai sẽ không còn dấu tích.”

Bẩy năm sau, vào ngày 17 tháng 2 năm 2018, blogger Nguyễn Anh Tuấn cho biết thêm chi tiết: “… trong nỗ lực xóa bỏ ký ức tập thể về sự kiện này, người ta đã không chỉ đục bia, mà còn đục cả thơ… một hành vi không chỉ xảo trá với lịch sử, vô ơn với chiến sĩ mà còn đớn hèn và nhục nhã về chính trị.”

Đối với những kẻ “xảo trá với lịch sử, vô ơn với chiến sĩ” thì không có tư cách gì để đại diện cho dân tộc Việt Nam. Họ không được mời tham dự Lễ Kỷ Niệm Một Trăm Năm Kết Thúc Thế Chiến Thứ Nhất, theo tôi, là chuyện chả có gì đáng để phàn nàn cả.


 

Luật Sư Đặng Đình Mạnh: Ăn hối lộ ‘không vụ lợi’ là ngụy biện

Ba’o Nguoi-Viet

November 27, 2023

LTS: Luật Sư Đặng Đình Mạnh là một trong những luật sư nhân quyền nổi tiếng tại Việt Nam. Ông và hai luật sư Nguyễn Văn Miếng và Đào Kim Lân trong nhóm các luật sư bảo vệ pháp lý cho Tịnh Thất Bồng Lai. Khi thấy dấu hiệu có thể bị bắt giữ qua những lời phát biểu vạch trần những sai trái của vụ án này trên Facebook, họ đã vượt thoát ra khỏi Việt Nam và đến Hoa Kỳ tị nạn chính trị Tháng Sáu, 2023 vừa qua.

Riêng LS Mạnh trong 27 năm hành nghề, ông đã tham gia bào chữa khoảng 10 năm cho hơn 50 vụ án chính trị gồm gần 100 người đấu tranh nhân quyền, dân oan tại Việt Nam. Nhân dịp bảy quan chức thanh tra của Ngân Hàng Nhà Nước CSVN không bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì được cho là “không vụ lợi” dù đã nhận tiền hối lộ từ ngân hàng SCB, nhật báo Người Việt phỏng vấn LS Mạnh về cái sự kiện “không vụ lợi” này.

Hai luật sư Đặng Đình Mạnh (phải) và Nguyễn Văn Miếng (trái) vượt thoát đến Hoa Kỳ ngày 16 Tháng Sáu, 2023. (Hình: RFA)

Người Việt: Thưa luật sư, có bao giờ một quan chức nhà nước ăn hối lộ mà lại “không vụ lợi” không?

LS Đặng Đình Mạnh: Thưa anh, quan hệ giữa người đưa hối lộ và người nhận hối lộ luôn luôn là mối quan hệ với mục đích vụ lợi. Trong đó, người đưa hối lộ mong muốn công việc phi pháp hoặc hợp pháp của mình được giải quyết (làm hoặc không làm), do đó, họ hối lộ để đạt được mục đích đó. Mặt khác, người nhận hối lộ đã thực hiện công việc (làm hoặc không làm) để thỏa mãn mong muốn của người đưa hối lộ cũng với mục đích được nhận số tiền hối lộ.

Cho nên, khái niệm “hối lộ nhưng không vụ lợi” chỉ là sự ngụy biện, cưỡng từ đoạt lý phát sinh một cách méo mó, tùy tiện trong nền tư pháp Việt Nam giai đoạn hiện nay mà thôi. Khái niệm đó không phải là chuẩn mực pháp lý.

Người ViệtNhững số tiền hối lộ cho bảy ông bà thuộc các cơ quan thanh tra của chế độ rất nhỏ so với số tiền hơn $5 triệu mà bà cục trưởng Cục Thanh Tra Ngân Hàng Nhà Nước đã cầm, theo ông, lời khai của họ về số tiền thấy được thuật lại trên báo chí ở Việt Nam có đáng tin cậy không?

LS Đặng Đình Mạnh: Thông thường, số tiền được thông tin từ kết quả điều tra là số liệu đáng tin cậy, vì lẽ, nó đã được thẩm tra, đối chiếu từ nhiều nguồn, nguồn từ người đưa hối lộ và nguồn từ người nhận hối lộ… Tuy nhiên, điều đó chỉ đúng với một cuộc điều tra hình sự minh bạch, bảo đảm các quy định tố tụng. Dưới thể chế hiện nay, không có gì, kể cả pháp luật có thể bảo đảm có những cuộc điều tra hình sự như thế.

Người ViệtTheo nhận định của ông, nguyên nhân tiềm ẩn nào khiến nhà cầm quyền CSVN lại lý luận là bảy quan thanh tra đã ăn hối lộ nhưng “không vụ lợi” khi họ đã rõ ràng phạm tội?

LS Đặng Đình Mạnh: Thật ra, chủ trương “cứu” các quan chức vi phạm pháp luật không hề có nguyên nhân tiềm ẩn mà đều đã được thông tin đầy đủ nhiều lần trên hệ thống truyền thông trong nước. Vì chế độ đang phải đối diện với thực tế không thể nào tệ hơn: Quan chức phạm tội trở nên quá phổ biến, đến mức độ, nếu cứ xử lý kỷ luật hoặc khởi tố hình sự, thì sẽ không còn người làm việc. Cho nên, họ đã phân hóa, để xử lý những quan chức vi phạm pháp luật nặng nề nhất, số còn lại đành “tha” để “cứu” họ.

Để thực hiện chủ trương đó, chế độ phải tự vẽ vời ra các khái niệm trái khuấy như chúng ta đang chứng kiến, như “hối lộ nhưng không vụ lợi.”

Việc dung túng, chứa chấp cho các quan chức phạm tội đã biến chế độ hiện nay thành một bộ máy tội phạm khổng lồ phá tan hoang đất nước, không chỉ những giá trị vật chất mà gồm cả những giá trị tinh thần… khiến sự phục hồi sau này sẽ rất khó khăn và mất nhiều thời gian.

Luật Sư Đặng Đình Mạnh (giữa) và các đồng nghiệp tham gia bào chữa vụ án Tịnh Thất Bồng Lai ở Long An. (Hình: FB Mạnh Đăng)

Người ViệtTheo ông, có phải những người này chỉ có thể thoát tội nếu họ hoặc từ chối số tiền được hối lộ ngay từ đầu? Hoặc phải nộp và thông báo ngay cho các cơ quan hữu quan vụ hối lộ đó? Khi nghe tin cuộc điều tra đang tiến hành rồi mới nộp số tiền đã được hối lộ thì có thể vẫn là tội hình sự dù mức độ nhẹ hơn, có phải không?

LS Đặng Đình Mạnh: Nhận xét của anh là hoàn toàn chính xác, đúng đắn và đầy đủ theo quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam.

Người ViệtLiên tưởng tới vụ bốn nữ tiếp viên hàng không mang một lượng rất lớn ma túy từ Pháp về Việt Nam ngày 16 Tháng Ba, 2023, bị bắt quả tang ở phi trường Tân Sơn Nhất rồi cũng được thả ra, không bị truy tố hình sự. Vụ này có vẻ cũng bất thường.

Như đã phân tích trên, khái niệm “hối lộ nhưng không vụ lợi” chỉ là sự cưỡng từ đoạt lý phát sinh một cách tùy tiện trong nền tư pháp Việt Nam mà thôi. Điều đó, không chỉ không phải là chuẩn mực pháp lý mà còn không chính đáng. Chính sự không chính đáng đã làm cho công chúng dễ dàng phát hiện ra sự sai trái của khái niệm này cho dù họ không cần có sự hiểu biết chuyên môn như một luật sư.

Người ViệtXin cảm ơn luật sư thật nhiều. (TN)


 

Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, Chánh án Nguyễn Hòa Bình và hệ thống tư pháp Việt Nam

Ba’o Tieng Dan

Đào Tăng Dực

27-11-2023

Trong một nền dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên chân chính, hệ thống pháp luật vô cùng nghiêm minh. Các chánh án (thuộc ngành tư pháp) hoàn toàn độc lập đối với lập pháp (tức quốc hội) và hành pháp (tức chính phủ). Thêm vào đó, để bảo đảm tư cách độc lập, nhiệm kỳ của các thẩm phán sẽ trọn đời, đến khi muốn về hưu hoặc mất trí năng, hoặc mất khả năng thi hành trách nhiệm.

Hệ thống tòa án dưới pháp chế xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam hoàn toàn trái ngược và hầu như chỉ là cánh tay nối dài của đảng CSVN và công an CSVN. Tòa án CSVN xử án rất nặng cho các tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị, dân oan mất đất; kết án tử hình các bị can hình luật rất qua loa, gây đau thương cho dân chúng và cướp đi mạng sống của nhiều nghi can vô tội.

Tuy các cơ quan NGO quốc tế như Human Rights Watch, Amnesty International hay cả Liên Hiệp Quốc đều lên tiếng và quan ngại, nhưng CSVN vẫn luôn biện minh hàm hồ, cả vú lập miệng em, rằng tất cả mọi nạn nhân đều vi phạm luật hình sự, đã qua một quá trình xét xử đúng quy trình, bị kết án. Theo họ, Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền và hệ thống pháp luật riêng, quốc tế phải tôn trọng.

Hệ thống tòa án này bất công đến mức độ, lời chửi đổng của TNLT Nguyễn Văn Túc, trước tòa… “Đ*t mẹ tòa” trở thành một lời hiệu triệu của toàn dân hầu lật đổ độc tài CSVN và xây dựng một nền dân chủ pháp trị nghiêm chỉnh hơn.

Câu hỏi được đặt ra là: Tại sao sự viên tịch của một bậc chân tu Phật Giáo là Hòa Thương Thích Tuệ Sỹ vào ngày 26-11-2023 lại là dịp để chúng ta đánh giá tư cách của Hòa thượng Tuệ Sỹ khi so sánh với Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Nguyễn Hòa Bình và qua đó, phẩm chất của toàn bộ hệ thống tư pháp xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?

Câu trả lời là, Hòa thượng Tuệ Sỹ cũng từng bị tòa án CSVN kết án tử hình. Mạng sống con người trên bình diện tâm linh và mạng sống một công dân cá thể trên bình diện chính trị, đều là những thực thể đáng được trân quý, bất kể giai cấp xã hội, màu da, phái tính, tôn giáo, khuynh hướng chính trị hay tuổi tác.

Khi một tòa án gọi là “nhân dân” CSVN kết án tử hình tỳ kheo Tuệ Sỹ, Thiền sư, học giả Lê Mạnh Thát, hay những tử tù có dấu hiệu oan sai như Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Chưởng (chưa thi hành án), Lê Văn Mạnh (đã thi hành án), thì uy tín của hệ thống pháp lý xã hội chủ nghĩa của CSVN hoàn toàn bị hoài nghi.

Sự phi lý cười ra nước mắt của các bản án tử hình đối với hai nhà sư Phật Giáo trước cường quyền, nhất là quy cho họ tội “âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân” vớ vẩn, giúp toàn dân và thế giới càng có thêm cơ sở để hoài nghi tính nghiêm chỉnh của các bản án tử hình đối với Hồ Duy Hải, Lê Văn Mạnh và Nguyễn Văn Chưởng.

Tòa án ở các quốc gia dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên như Hoa Kỳ, các quốc gia Tây phương, Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan … thì xét xử dựa trên hai nền tảng trọng yếu: Đó là chứng cớ qua các sự kiện (facts) và yếu tố quy định luật pháp (law). Thông thường theo hệ thống Common Law của Anh quốc, như Hoa Kỳ, Úc, Tân Tây Lan và Canada thì vị chánh án quyết định về luật (Judge as tribunal of law) và bồi thẩm đoàn quyết định về sự kiện (Jury as tribunal of fact). Còn các quốc gia theo hê thống Civil Code của Pháp như ở lục địa Âu châu thì vị chánh án quyết định cả hai.

Trong cả hai hệ thống, không có hệ thống nào cho phép một tòa án quyết định theo ý chí của một cá  nhân hay một chính đảng cá biệt nào cả. Chỉ có pháp chế xã hội chủ nghĩa mới kết án theo ý chí của các đảng CS liên hệ và ở Việt Nam thì theo ý chí của đảng CSVN mà thôi.

Tại sao trong bài viết này chúng tôi nhắc đến và so sánh hai nhân vật hoàn toàn khác nhau là Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, vị lãnh đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và ông Nguyễn Hòa Bình, đương kim chánh án lãnh đạo Tòa Án Nhân Dân Tối Cao Việt Nam?

Có hai lý do chính. Thứ nhất là cả hai đều liên hệ đến án tử hình. Hòa thượng Tuệ Sỹ thì bị hệ thống pháp lý xã hội chủ nghĩa kết án tử hình năm 1988. Ông Nguyễn Hòa Bình thì liên hệ mật thiết đến bản án tử hình của tù nhân Hồ Duy Hải, sẽ trình bày sau.

Thứ nhì là, chúng ta thử so sánh nhân phẩm và tư cách của hai nhân vật, một vị đại diện cho Phật Giáo Việt Nam, các tù nhân lương tâm nói chung và nhân vật kia đại diện cho hệ thống tư pháp của đảng CSVN.

Trước hết, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ là một học giả, thi sĩ và là một nhà nghiên cứu Phật Pháp khả kính. Tư cách và đạo đức của Hòa thượng mọi người kính ngưỡng. Hòa thượng chỉ hoạt động tôn giáo, không có tham vọng chính trị. Tuy nhiên, vì không chịu rời bỏ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất để gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam do đảng chủ trương, mà Hòa thượng bị tù cải tạo ba năm và bị kết án tử hình năm 1988. Dưới áp lực của công luận và quốc tế, CSVN buộc lòng phải phóng thích Hòa thượng.

Theo Wikipedia thì: “Ngày 1 tháng 9 năm 1998, ông được thả tự do từ trại Ba Sao – Nam Hà ở miền Bắc Việt Nam. Trước khi thả, nhà cầm quyền yêu cầu ông ký vào lá đơn xin khoan hồng để gửi lên Chủ tịch nước Trần Đức Lương. Ông trả lời: ‘Không ai có quyền xét xử tôi, không ai có quyền ân xá tôi!’. Công an nói không viết đơn thì không thả, ông không viết và tuyệt thực. Chính quyền đã phải phóng thích ông sau 10 ngày tuyệt thực. Một năm sau đó, vì tiếp tục hoạt động cho GHPGVNTN, ông cùng với Thích Quảng Độ lại bị đe dọa giam giữ và bị công an triệu tập tra hỏi”.

Khi nói về nhân vật Nguyễn Hòa Bình, ông ta là đương kim Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Việt Nam, là chức vụ đứng đầu Tòa án nhân dân Tối cao, với nhiệm kỳ 5 năm. Ông còn là Đại biểu Quốc hội, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII.

Ông liên hệ mật thiết với án tử hình của Hồ Duy Hải, vì các lý do sau đây (theo Wikipedia):

  1. Năm 2011, sau khi Hồ Duy Hải bị kết án tử hình, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình quyết định không kháng nghị vụ án, mặc dù có nhiều chứng cớ oan sai.
  2. Ngày 22 tháng 11 năm 2019, tân Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam Lê Minh Trí kháng nghị giám đốc thẩm vụ án, sau khi nhận được đề nghị xem xét giải quyết bảo đảm đúng pháp luật vụ án từ Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng vào tháng 7 năm 2019.
  3. Ngày 8 tháng 5 năm 2020, sau 3 ngày xét xử giám đốc thẩm vụ án, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua bỏ phiếu công khai, quyết định không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Thành viên Hội Đồng Thẩm Phán gồm 17 người và chủ tịch Hội Đồng là thẩm phán Nguyễn Hòa Bình, người mà năm 2011, trong chức vụ viện trưởng Viên kiểm sát Nhân dân Tối cao, đã quyết định không kháng cáo vụ án này.

(Mời xem lại bài viết cùng tác giả: Hồ Duy Hải và thân phận người dân Việt Nam dưới Pháp chế Xã hội chủ nghĩa).

So sánh hai nhân vật trên, có thể rút ra các kết luận sau đây:

Là một tu sĩ và người tranh đấu cho tự do tôn giáo, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ phẩm hạnh cao, giữ đúng vai trò của mình, bất khuất trước uy vũ, một đức tính không những cần thiết cho một lãnh đạo tôn giáo, mà càng cần thiết hơn cho một quan tòa.

Trong khi đó, là một nhân vật lãnh đạo ngành tư pháp của một quốc gia, Nguyễn Hòa Bình chỉ là một tay sai của đảng (tiếng Anh gọi một cách khinh bỉ là party hack), đảng chỉ đâu đánh đó, làm đồ tể cho đảng, hầu hưởng ơn mưa móc, hoàn toàn không có một chút tính bất khuất trước uy vũ nào.

Trên bình diện cơ chế, Nguyễn Hòa Bình hoàn toàn không xứng đáng “cầm cân nẩy mực” cho công lý, vì đứng đầu ngành tư pháp mà không hề độc lập đối với lập pháp (làm luôn cả dân biểu quốc hội và nhiệm kỳ chánh án cũng chỉ 5 năm), cũng không hề độc lập đối với hành pháp (là ủy viên Bộ Chính trị và Ban Chấp Hành Trung Ương (là một thứ siêu chính phủ điều hành chính phủ).

Thêm vào đó, Đoạn 1 Điều 8 Hiến pháp cũng hiến định hóa nguyên tắc Tập Trung Dân Chủ của Phong Trào Đệ Tam Quốc Tế như là nguyên tắc điều hành quốc gia. Quan điểm tập trung dân chủ vốn là một nguyên tắc của Lenin và một phần nội quy của các đảng cộng sản thuộc Đệ Tam Quốc Tế, buộc các cơ sở hạ tầng tuân phục các cấp trên tuyệt đối. Như vậy thì Nguyễn Hòa Bình, chánh án Tòa án Tối cao và ủy viên Bộ Chính Trị, khi xử án phải tuân theo chỉ thị của Bộ Chính Trị, các tòa án cấp dưới phải tuân theo chỉ thị của Nguyễn Hòa Bình và cứ như thế, đến chánh án đảng viên cấp thấp nhất.

Pháp chế xã hội chủ nghĩa như thế chỉ là một tấn tuồng cười ra nước mắt cho cả dân tộc Việt Nam.

***

Sư viên tịch của Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ là một mất mát lớn lao cho quốc gia, Phật giáo, nền thi thơ và văn chương của dân tộc. Tuy nhiên trên khía cạnh pháp lý, nhất là liên hệ đến án tử hình cho các nạn nhân như Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Chưởng và ngay cả cố tử tù oan Lê Văn Mạnh, sự ra đi của Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, một nhân vật đã từng bị CSVN kết án tử hình, sẽ tập chiếu vào và góp phần đập tan tính ác của hệ thống pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Mong rằng cái chết của Lê Văn Mạnh sẽ không không hoàn toàn vô nghĩa, Hồ Duy Hải và Nguyễn Văn Chưởng có thể được tái xét công minh, người dân Việt chóng thoát ách độc tài và lời hiệu triệu “Đ*t mẹ tòa” của tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Túc năm 2018, sẽ không còn cần thiết trong một nước Việt Nam hậu cộng sản.


 

Cựu TNLT Nguyễn Viết Dũng: Tôi rời Việt Nam vì bị Công an Nghệ An đe doạ bắt giữ

Ba’o Tieng Dan

RFA

27-11-2023

Cựu TNLT Nguyễn Viết Dũng. Nguồn: FB Nguyễn Viết Dũng

Cựu tù nhân lương tâm (TNLT) Nguyễn Viết Dũng nói ông buộc phải rời Việt Nam sau khi nhà chức trách tỉnh Nghệ An đe doạ bắt giữ ông, cũng như không cho ông đi khám chữa bệnh theo nhu cầu cấp thiết của cá nhân.

Ông Dũng, 38 tuổi, mãn hạn tù ngày 27/9 vừa qua sau khi trải qua sáu năm trong trại tạm giam và trại giam. Ông trở về nhà ở xã Hậu Thành, huyện Yên Thành, nơi ông còn phải chịu án quản chế trong năm năm tiếp theo, theo bản án về tội danh “tuyên truyền chống nhà nước” của Điều 88 Bộ luật Hình sự 1999.

Nói với Đài Á Châu Tự Do (RFA) trong ngày 27/11, ông cho biết trong cuộc làm việc ngày 03/11, người của cơ quan An ninh Điều tra của Công an tỉnh Nghệ An đã buộc ông ký xác nhận các bài viết trên Facebook mà ông đã đăng tải từ khi trở về nhà từ Trại giam Nam Hà (tỉnh Hà Nam).

Họ nói rằng bản án thứ ba đang chờ sẵn tôi lần này mức án sẽ không có nhẹ nhàng như sau sáu năm về trước nữa đâu sẽ hơi lâu. Khi đó tôi nghĩ rằng những người làm việc với tôi là những người bên PA02, là cơ quan an ninh điều tra, họ có quyền đề xuất hoặc là bắt tôi cho nên tôi tin rằng lúc đấy là họ không có nói đùa.”

Trong số những bài viết này có bài viết về tình trạng sức khoẻ suy kiệt vô cùng nghiêm trọng của TNLT Vũ Quang Thuận, người mà ông Dũng có thời gian sống cùng ở Trại giam Nam Hà, bài viết khảo sát xã hội về vụ người mẫu Ngọc Trinh bị bắt về cáo buộc “gây rối trật tự công cộng.”

Đặc biệt là bài trả lời phỏng vấn của RFA về việc ông bị bắt cóc và tra tấn bởi công an tỉnh Nghệ An và công an thành phố Hồ Chí Minh trước khi ông bị bắt năm 2017, cũng như việc ông bị biệt giam và đối xử vô nhân đạo trong trại giam.

Ông cho biết sau buổi làm việc này, ông nhận thấy nếu tiếp tục còn ở lại Việt Nam thì quyền tự do tư tưởng của ông không được bảo đảm cho dù Hiến pháp Việt Nam hiện nay và các công ước quốc tế mà Hà Nội đã ký kết đều coi quyền này là cơ bản và bất khả xâm phạm. Ông nói:

Với những áp lực như vậy thì tôi thấy rằng là nếu tôi còn ở Việt Nam thì không thể nào có tự do tư tưởng được, tôi không thể nào nói ra những gì mà mình suy nghĩ, không thể nào biểu đạt ý kiến của tôi một cách ôn hòa được.”

Ông Dũng cho biết việc nhà chức trách tỉnh Nghệ An gây khó khăn cho ông trong việc điều trị bệnh cũng là một nguyên nhân khiến ông phải suy tính.

Ông khẳng định mình là một người hoàn toàn khoẻ mạnh trước khi bị bắt, nhưng sau nhiều trận đòn của công an cùng thời gian biệt giam hai năm trong Trại giam Nam Hà đã biến ông thành một người có nhiều bệnh tật, đặc biệt là bệnh đau xương khớp và tiêu hoá.

Tuy nhiên, sau khi mãn hạn tù, ông không được đi khám chữa bệnh ở Hà Nội, thậm chí là ở ngay Vinh.

Khó khăn của nhà cầm quyền về vấn đề tôi đi khám chữa bệnh. Họ cũng nói rằng tôi cứ muốn đi khám chữa bệnh, tôi muốn ổn định cuộc sống, và tìm kiếm việc làm nhưng mà tôi cứ đăng tải trên trang Facebook cá nhân thế này thì làm sao mà họ cho tôi đi được.”

Phóng viên có gọi điện cho công an tỉnh Nghệ An và huyện Yên Thành để kiểm chứng thông tin ông Dũng cung cấp, nhưng người trực máy yêu cầu đến cơ quan với giấy giới thiệu của toà soạn để được cung cấp thông tin.

Không muốn bị cầm tù lần thứ ba nên ông quyết định rời Việt Nam để tìm kiếm cơ hội. Ông nói:

Nếu tôi còn ở Việt Nam nữa thì cuộc sống sẽ cực kỳ khó khăn và tôi có thể bị bắt giữ trở lại bất kỳ lúc nào cho nên tôi quyết định rời khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt. Do đó tôi đã rời khỏi Việt Nam và hiện tôi đang sinh sống ngoài lãnh thổ của Việt Nam.”

Ông cho biết sau khi rời nhà ít lâu, nhà chức trách địa phương nhiều lần đến gia đình ông để buộc ông phải trình diện, nếu không sẽ phát lệnh truy nã.

Ông cho biết mục tiêu trước mắt là sẽ tìm cách chữa bệnh và nâng cao sức khoẻ. Tiếp đến, sẽ tiếp tục đấu tranh cho các bạn tù ở Việt Nam và tự do dân chủ ở Việt Nam bằng cách xúc tiến thành lập một tổ chức chính trị mang tên Đảng Cộng hoà.

Ông gửi lời nhắn nhủ đến người dân Việt Nam:

Tôi mong là một ngày nào đó dân tộc Việt Nam thức tỉnh và sẽ biết đến nhiều sự thật hơn. Dù sao đi nữa thì các nhà hoạt động cũng không thể nào hoạt động một cách đơn độc được và tự do Việt Nam cũng không thể nào đến được nếu không có sự chung vai sát cánh của người dân.”

Ông Nguyễn Viết Dũng, thường được biết đến với biệt danh Dũng Phi Hổ, đã hai lần bị tù đày vì các hoạt động cổ suý dân chủ đa nguyên và lên tiếng bảo vệ môi trường.

Năm 2015, ông bị kết án 12 tháng tù về tội danh “Gây rối trật tự công cộng,” theo Điều 245 của Bộ Luật hình sự 1999, sau khi tham gia cuộc tuần hành bảo vệ cây xanh ở Hà Nội vào năm 2015.

Bản thân là một học sinh có thành tích học tập giỏi và đạt danh hiệu trong một đợt thi tháng của chương trình ‘Đường Lên Đỉnh Olympia’, một cuộc thi về kiến thức mang tính học thuật cao tại Việt Nam. Nhiều học sinh đoạt giải trong kỳ thi này đang học tập hay làm việc tại các nước ngoài như Úc.

Vào năm 2004, ông thi đậu vào Khoa Công nghệ Thông tin, Đại học Bách khoa Hà Nội.

Vào tháng tư năm 2015, ông Nguyễn Viết Dũng chủ xướng thành lập “Hội Những Người Yêu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa” và thường xuyên xuất hiện trong quân phục của lực lượng đó.

Ông bị bắt ngày 27/9/2017 với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước.” Sau đó ông bị toà sơ thẩm vào ngày 12/4/2018 kết án bảy năm tù giam và năm năm quản chế. Trong phiên phúc thẩm vào ngày 15/8 cùng năm, ông được giảm án tù xuống còn sáu năm tù nhưng án quản chế bị giữ nguyên.

Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát tỉnh Nghệ An, từ đầu năm 2017 đến ngày 19/5/2017, ông Dũng đã có hành vi đăng tải trên trang Facebook cá nhân Dũng Phi Hổ 7 bài viết tự soạn thảo hay sao chép và chỉnh sửa có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ lãnh tụ nhằm chống nhà nước Việt Nam.

Ngoài ra, ông Dũng còn làm và lưu hành 4 lá cờ vàng của chế độ Việt Nam Cộng hòa để treo tại nhà riêng ở huyện Yên Thành (Nghệ An) và một số địa điểm công cộng khác. Sau đó ông đã chụp ảnh, quay video để đăng lên trang Facebook cá nhân Dũng Phi Hổ để chia sẻ, phát tán lên các trang mạng xã hội.