Trần Danh San – Tưởng Năng Tiến

Trần Danh San – Tưởng Năng Tiến

Sổ Tay Thường Dân – Tưởng Năng Tiến

Nơi chương 33, trong cuốn Đèn Cù I (Trần Đĩnh, Người Việt Books 2014) tôi đọc được câu: “Bị đánh đuổi sau Nhân văn – Giai phẩm, Nguyễn Mạnh Tường đói quá – có lần lả đi ở đường Trần Hưng Đạo…”

Bộ thiệt vậy sao?

Thiệt chớ! Chính người trong cuộc cũng khẳng định vậy mà:

“Chúng tôi có một con chó do bạn bè cho. Nó rất khôn và chúng tôi yêu nó lắm. Nhưng nó đã già và chúng tôi không còn khả năng mua cho nó thịt và những thức ăn tăng sức, nó không còn sức đứng lên trong chuồng, ngẩng đầu nhìn tất cả chúng tôi, với một ánh mắt tin yêu của loài vật, chắc chắn với những dòng nước mắt và một nỗi buồn sâu thẳm vì đã đến lúc phải rời chủ. Chúng tôi bật khóc khi nó nấc những hơi thở cuối cùng…” (Nguyễn Mạnh Tường, Un Excommunié – Hanoi, 1954 -1991: Procès d’un intellectuel. Trans Nguyễn Quốc Vĩ – Kẻ Bị Mất Phép Thông Công Hà Nội, 1954-1991: Bản Án Cho Một Trí Thức).

Ủa! Sao luật sư ở bên Tây về (với hai cái bằng tiến sỹ lận) mà đói dữ vậy cà?

Theo nhiều người thì vì Nguyễn Mạnh Tường có “dây dưa” với nhóm Nhân Văn nên bị trừng trị. Cũng không ít kẻ nghĩ rằng ông bị chế độ hiện hành “chôn sống” vì đã trót dại lên tiếng (“Qua Những Sai Lầm Trong Cải Cách Ruộng Đất – Xây Dựng Quan Điểm Lãnh Đạo”) trong một phiên họp của Mặt Trận Tổ Quốc, vào hôm 30 Tháng Mười, 1956.

Thực ra, số phận của Nguyễn Mạnh Tường (nói riêng) và đám luật sư miền Bắc (nói chung) đã được “an bài” trước đó:

 “Ngày 17-11-1950, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 158-SL, quyết định việc bổ sung cán bộ công nông vào ngạch thẩm phán và thăng bổ các thẩm phán toà án nhân dân huyện lên toà án nhân dân tỉnh… Từ đây, theo ông Vũ Đình Hòe: ‘các thẩm phán huyện, đa số là đảng viên cộng sản, chỉ qua lớp chính trị và nghiệp vụ’. Quan điểm lựa chọn thẩm phán chủ yếu ‘đứng trên lập trường nhân dân’ của Hồ Chí Minh đã ảnh hưởng lâu dài đến nền tư pháp Việt Nam.” (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập II. OsinBook, USA: 2012).

Muốn biết cái nền tư pháp công nông hóa của bác Hồ “ảnh hưởng lâu dài” ra sao, xin xem qua dáng điệu và cử chỉ của một vị thầy cãi (được “mời bào chữa” cho ông Hoàng Minh Chính) sau khi nhân vật này bị bắt lại, vào năm 1996:

“Hôm xử Chính tôi không ra đứng ở cổng toà mà đến Hồng Ngọc tối trước. Đang trò chuyện thì ông luật sư K. gia đình mời bào chữa cho Chính đi vào. Một cái bóng lúp xúp. Cụp vai, cúi đầu thì thào dăm ba câu, cái dáng sợ bị nghe trộm, nhòm trộm. Tuy nhớn nhác nhưng ông trung thực, trước sau chỉ khe khẽ chối (nhưng lại gắt): Tôi không cãi được… ý gia đình như thế thì không cãi được đâu.

Hà, con gái cả Chính kêu lên: Thế thì im hả bác? Lúng túng giây lát ông luật sư lại gắt giọng nhưng vẫn thì thào: Không cãi được mà. Tôi hỏi thế nghĩa là gia đình nhận tội thì cãi được? Ông nói: Đã nhận thì cần gì cãi. Rồi lúp xúp đi ra. Ông biết trong bóng tối quanh đây đầy những con mắt lúc này đang theo dõi chặt. Rồi máy ghi âm. Có khi chụp ảnh nữa. Qua tư thế ọp ẹp, ông cố để lộ rõ ông đầu hàng Nhà nước.” (T. Đĩnh, s.đ.d., tập II, chương 27).

Giới luật sư ở miền Nam thì không thế: không “nhớn nhác,” không “lúp xúp,” không “cụp vai,” không “thì thào” gì sất. Đã thế, họ còn nói rất to (“bằng loa phóng thanh”) cho cả bàn dân thiên hạ nghe luôn:

Sau sự kiện giới trí thức Tiệp Khắc ban hành Hiến Chương 77 chống lại nhà cầm quyền Cộng Sản Tiệp Khắc, tại Sài Gòn, trong vòng đai lửa của chế độ mới, hai Luật Sư Trần Danh San và Triệu Bá Thiệp không thể im lặng. Cả hai đồng hoàn thành văn bản “Tuyên Ngôn Nhân Quyền Của Những Người Việt Nam Khốn Cùng”

Hai anh và nhóm trí thức bất khuất gồm hơn mười luật sư, giáo sư, kỹ sư trước 1975 hành nghề tại Huế và Sài Gòn đã hẹn nhau chia làm hai ngã tiến theo hai đường tập trung trước Nhà Thờ Ðức Bà vào chiều ngày 23 Tháng 4, 1977. Trần Danh San dùng cái loa phóng thanh qua một máy ghi âm nhỏ đọc lên bản ‘Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Những Người Việt Nam Khốn Cùng’ đến cùng đồng bào Sài Gòn, cũng của miền Nam lẫn miền Bắc đang mong chờ lần phục sinh từ bãi lầy cộng sản…

Trong trại giam Phan Đăng Lưu anh nhận đòn tứ trụ với sức chịu đựng tưởng chừng như không thực: Với thân hình cao không quá “một thước-sáu” nhận đòn đánh hội đồng từ bốn tên lực lưỡng chuyên nghiệp tra khảo người.

Sau những trận đòn chạm tới điểm chết, sau những tháng kiên giam nơi hầm tối của anh, viên cán bộ trưởng trại Phan Đăng Lưu có câu hỏi: Anh có ngừng chống đối không? Trần Danh San trả lời chắc chắn: Chống đối là điều tất nhiên! Câu trả lời được nhiều bạn tù nơi Phan Đăng Lưu năm ấy hiện nay đang cư trú tại vùng Nam Cali nghe rõ.  (Phan Nhật Nam. “Trần Danh San, Tiếng Hò Khoan Đã Tắt”)…

Chưa hết đâu!

Sau đó, khi ở A20 – nơi còn được A-20 Nguyễn Chí Thiệp mệnh danh là Trại Kiên Giam – Trần Danh San còn tham gia vào việc làm báo chui (underground press) nữa kìa:

Anh đã chấp nhận đánh đu với tử thần để vừa cung cấp cho mọi người những thông tin cập nhật, những bài viết giúp họ mở mang kiến thức, kiên định lập trường, vừa giữ vai trò điều hợp một số hoạt động đấu tranh ở trong trại.

Sau khi Vũ Văn Ánh bị cùm trong xà lim rồi bị tuyên phạt ‘biệt giam vô thời hạn’, tôi được chỉ định làm ‘thư ký tòa soạn’ cho tờ báo. Nhiệm vụ của tôi là tuyển chọn bài, sửa chữa chút đỉnh chính tả, văn phạm rồi giao cho Hải Bầu, Ngọc Đen lên khuôn; sau đó tôi kiểm soát lại lần cuối và phát hành. Trần Danh San kín đáo giao cho tôi một bài viết rất hay: Vì Sao Chúng Ta Tranh Đấu. Tôi đã giao cho Hải Bầu, Ngọc Đen đăng trong Hợp Đoàn số 4. Bài viết được nhiều anh em tù, đặc biệt là những anh em tù chính trị có án, ưa thích. (Phạm Đức Nhì. “Nén Nhang Cho Một Anh Hùng”).

Đến tờ Hợp Đoàn số 5 thì cả đám lần lượt … vô cùm. Riêng Vũ Ánh, Trần Danh San, Nguyễn Chí Thiệp thì bị cùm hơi lâu khiến A-20 Nguyễn Thanh Khiết đâm ra sốt ruột và xót ruột: 

Sáu năm biệt giam
ba muỗng nước, ba muỗng cơm
chưa lần lung lay ý chí
một đời anh – một đời sĩ khí
bước thấp, bước cao cắn nhục mà đi
ngọn bút hiên ngang
thay làn tên mũi đạn
giữa trại thù nét mực chưa phai

Dù thế, dù “sáu năm biệt giam/ ba muỗng nước/ ba muỗng cơm” nhưng Trần Danh San vẫn không hề nao núng:

 “Tôi nhớ trại trưởng phân trại E của A-20, Lê Đồng Vũ mà chúng ta gọi là Tư Nhừ vì hắn mang lon thiếu tá công an, giọng lúc nào cũng nhừa nhựa như thằng say rượu, không biết nó sẽ rút cây K-54 ra bắn mình lúc nào, hỏi khích…: ‘Thế nào, anh San còn bẻ gậy chống trời nữa không’. Trần Danh San đáp tỉnh bơ: ‘Tất nhiên, cán bộ.’ Câu chuyện về bạn có thể viết được một cuốn tiểu sử rất dày về đời tư, đời công và đời tù của một nhà tranh đấu.”  (Vũ Ánh. “Bài Điếu Văn Cho Trần Danh San Một A-20 Vừa Ra Đi Vĩnh Viễn”).

Sao Trần Danh San lại quyết liệt và ngang tàng đến thế?  

Câu trả lời có thể tìm được qua câu tâm sự của chính ông với một người bạn đồng tù:

“Phải cho thế hệ sau biết để các em, các cháu có thêm nghị lực, dũng khí đi tiếp con đường chúng ta đi.”

Với ít nhiều chủ quan, tôi tin rằng không ít quí vị luật sư của thế hệ đến sau (Đặng Đình Bách, Nguyễn Văn Ðài, Lê Công Ðịnh, Võ An Đôn, Lê Trần Luật, Lê Thị Công Nhân, Lê Quốc Quân, Nguyễn Bắc Truyển …) đều đã được thừa hưởng cái “dũng khí” từ những người đi trước như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Danh San…

Tưởng Năng Tiến
2/2022

Ngày Xuân: Viết về chuyện Đà Nẵng chưa ai kể

Ngày Xuân: Viết về chuyện Đà Nẵng chưa ai kể

Võ Hương An

Khi bắt tay viết về lịch sử Đà Nẵng, tôi thực không ngờ rằng cái vùng đất nhỏ bé này lại có nhiều chuyện lý thú , rất đáng để bỏ công tìm hiểu đến thế, và do đó , việc này đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm, nhiều gắn bó với đất với người của một miền đất nước đã nuôi gia đình tôi trong hơn hai mươi năm …Chẳng hạn chuyện Đảo Cô và chuyện Quan lớn Bảo hộ…

 Đảo Cô ở đâu?

Sau cuộc nổ súng thị uy của hai tàu Pháp là Gloire và Victorieuse tại vịnh Đà Nẵng vào ngày 15-4-1847, vua Thiệu Trị ra lệnh tăng cường phòng thủ Đà Nẵng bằng bảy pháo đài xây dựng ở bán đảo Sơn Trà với tên gọi là Trấn dương Thất bảo.

Trong bảy pháo đài đó, theo Đại Nam Nhất Thống Chí (quyển Quảng Nam) thì đảo thứ hai được đặt trên đảo Cô với tường cao 4 thước 3 tấc (chừng hơn 2m) và chu vi 41 trượng (164m).  Khi đọc được những dòng này, tôi tự nhủ:  Ủa, trong vịnh Đà Nẵng mà cũng có một hòn đảo tên là đảo Cô sao??  Sao mình không thấy mà cũng không nghe ai nói tới?  Bèn vội vã đi tìm bản đồ để xác định vị trí, nhưng thất vọng vì chả thấy gì cả.  Lại đoán già đoán non rằng hẳn bản đồ mình sử dụng có tỷ lệ nhỏ (1/100,000) mà hòn đảo cũng không lấy gì làm lớn nên chẳng có dấu vết nào, bèn đi kiếm bản đồ có tỷ lệ lớn hơn (1/25,000) với hy vọng sẽ tìm ra cái hòn đảo lần đầu tiên mới được nghe tên đó.  Lại thất vọng.Từ đó tôi bắt đầu một cuộc truy tầm bằng mọi phương cách, vừa tìm tài liệu và bản đồ để đọc thêm, vừa phỏng vấn những người lớn tuổi ở địa phương khi có dịp, với hy vọng nắm bắt được một manh mối nào đó.

Hơn một năm trời trôi qua trong vô ích.  Một hôm, vì nhiệm vụ, tôi phải tiếp xúc với hai nhân chứng, cụ Nguyễn văn Trách và cụ Đỗ Trọng Khai tự Bút, vốn là hào lão của làng An Hải, đều thuộc dòng dõi đã lập nghiệp ở địa phương từ trước đời Gia Long (1802-1820).  Xong việc giấy tờ, tôi cầm hai ông cụ nán lại một chút và mở cuộc mạn đàm bỏ túi:

– Hai cụ ở đây lâu, vậy có biết trong vịnh Đà Nẵng có hòn đảo nào tên là đảo Cô không?

– Biết chớ.  Đảo Cô là cái hòn đảo nho nhỏ nằm ở Sơn Trà chớ đâu.

Nói làm sao cho xiết nổi ngạc nhiên và sung sướng của tôi lúc đó.Tôi thầm đùa với chính mình: sao mà hên thế, đào đất cầu âu mà lại trúng ngay mạch vàng.  Tôi vội vã mang bản đồ Đà Nẵng trãi ra bàn, tay chỉ miệng nói:

– Đây là Đà Nẵng của mình đây.  Làng An Hải của hai cụ đây nè…Vịnh Đà Nẵng là đây…Sơn Trà là đây…Vậy chớ cái đảo Cô mà hai cụ nói nằm ở mô?

Cụ Khai lần ngón tay trên bản đồ rồi dừng lại ở vị trí Bộ chỉ huy Hải khu I ( Trại Chương Dương, trước 1975) và nói: “Nó đây nè” và đưa mắt nhìn cụ Trách như tham khảo ý kiến.  Ông này gật đầu: “Đúng rồi đó”  Tôi buột miệng hỏi:

– Đảo đâu mà đảo, chỗ này nối với đất liền mà.

– Thì nó nguyên là hòn đảo nhưng theo ông tôi kể lại thì vua Gia Long cho đắp một con đường nhỏ bằng đá để tiện đi lại canh phòng, sau Tây đắp rộng thêm, rồi Mỹ lấp vịnh thành đất liền, làm sao thấy ra hòn đảo nữa.

À ra thế!  Từ đầu mối đó, kết hợp với những tài liệu của Tây, ta, tôi có thể vẽ ra lý lịch của đảo Cô như sau:  ở phía Tây chân núi Sơn Trà có một mõm đất nhô ra khá lớn, dân địa phương gọi là núi Mõ Diều, Đại Nam Nhất Thống Chí gọi là đảo Mõ Diều.  Phía Nam của Mỏ Diều , cách một vịnh nhỏ, có một hòn đảo con nằm trơ trọi một mình, đó là đảo Cô.

Từ đời Gia Long , vua cho đắp một con đường đá nối đảo Cô với chân bán đảo Sơn Trà để tiện đi lại canh phòng.Đời Thiệu Trị đã xây một pháo đài trên đó, thuộc hệ thống Trấn dương Thất bảo.

Trong cuộc xâm lăng Đà Nẵng vào các năm 1858-1860, Pháp đã chiếm đảo này, đặt tên là l’Îlot de l’ Observatoire (đảo Quan sát), thường gọi tắt là l’Îlot  (xem hình).  Công binh Pháp đã cho phá hũy pháo đài của vua Thiệu Trị và xây một pháo đài khác, đặt tên là Fort de l’Observatoire (Pháo đài quan sát), đồng thời họ cũng đắp rộng thêm con đường đá cũ để tiện đi lại.Vị trí này, trước 1975, là Bộ Tư lệnh Hải khu I (Trại Chương Dương).  Năm 1965, công binh Hoa Kỳ đã lấp cái vịnh nhỏ, nồi liền đảo Cô và núi Mỏ Diều, thành ra không còn dấu vết gì  để nhận ra đó là một hòn đảo nữa.Quả thật là chuyện vật đổi sao dời, đời nào cũng có.

Chuyện Quan lớn Bảo hộ

Vụ giúp xác định đảo Cô  là bước mở đầu mối giao tình giữa tôi và các cụ Trách,   cụ Bút nói riêng và làng An Hải nói chung, từ đó dẫn đến những khám phá lý thú khác.

Sau lần tiếp xúc với các cụ tại chỗ làm việc, thời gian sau, cho đến ngày tan hàng rả đám năm 1975, những lúc rảnh rổi, từ cư xá nằm ở ngã tư Độc lập-Thống nhất, tôi thường thả bộ xuống bến phà máy Sông Hàn để qua làng An Hải thăm hỏi, chuyện trò cùng các cụ, nhất là cụ Bút, vì tôi đoán rằng còn có thể học hỏi nhiều ở các cụ nữa.  Ngay lần viếng thăm đầu tiên, tôi hỏi cụ Bút:

– Làng An Hải có di tích gì cổ xưa không cụ?

– Có chớ.  Có lăng Quan lớn Bảo hộ mà làng thờ làm hậu hiền , hàng năm cúng tế đàng hoàng vì ngài rất có công với làng.

Tôi ngạc nhiên:

– Ủa, Quan lớn Bảo hộ là ai?  Cụ có biết ngài húy là chi không?  Nếu biết được thì nói để tôi tra cứu trong sử sách coi sự nghiệp của ngài ra sao.

– Ờ, tôi vô tâm quá.cứ theo ông bà đời trước mà gọi, chưa bao giờ hỏi cha tôi hay ông tôi  ngài húy là chi, nhưng theo đời trước truyền lại thì ngài làm quan lớn lắm…À, thầy   có đọc được chữ Nho (Hán) không?  Trong giấy tờ do ông tôi để lại, có tờ trát của quan lớn Bảo hộ gởi cho làng, rồi làng giao cho ông tôi giữ, có chức tước của ngài nhưng không có húy.  Để tôi lục cho thầy coi, may ra biết ngài là ai.

Tôi đáp:

-Vâng, thế thì tốt quá.  Chữ Nho tôi chỉ đọc được lõm bõm nhưng tôi có ông bác thông Nho lắm, thành ra cụ khỏi lo.

Sau một hồi lục lọi trong chiếc rương gỗ mộc, cụ Bút lôi ra một tờ giấy bản sờn rách nhiều chỗ ngoài mép và đưa cho tôi.  Đọc lõm bõm, tôi tạm hiểu rằng tờ giấy này là một tài liệu hiếm, có liên quan đến Thoại Ngọc Hầu.  Tôi ngỏ ý xin mượn, cụ đồng ý ngay.

Về nhà, tôi vội lấy xe đi đến nhà cụ Nguyễn Văn Luân, Đốc sự thượng hạng hưu trí, bạn của nhạc gia tôi, mang theo tài liệu chữ Hán vừa mượn được.  May mắn, ông cụ không đi chơi tài bàn, đang nằm nhà đọc sách.Chìa tờ giấy ra, tôi nói:

– Nhờ bác đọc và dịch cho con tài liệu này.  Con cần lắm.  Bác đọc từ từ thì con ghi chép được.

Cụ Luân cầm tờ giấy liếc qua, đoạn nhìn tôi rồi hỏi:

– Tài liệu này hiếm lắm đây.  anh moi đâu ra vậy?

Sau khi nghe tôi thuật sơ về xuất xứ, ông già hắng giọng:

– Nghe đây này:

“Khâm sai Thống chế án thủ Châu Đốc Đồn, lãnh bảo hộ Cao Miên Quốc ấn, kiêm quản Hà Tiên Trấn biên vụ, gia nhất cấp, kỷ lục tứ thứ, quan …

“Vì trát tri sự …“

Thì ra đó là tờ trát của Khâm sai Thống chế Thoại Ngọc Hầu  Nguyễn Văn Thoại, bấy giờ đang trấn thủ Đồn Châu Đốc, lãnh nhiệm vụ bảo hộ nước Cao Miên (thuộc địa của Việt Nam dưới triều Minh Mạng) và kiêm luôn chức Trấn thủ Hà Tiên, gởi cho xã trưởng và hào mục xã An Hải, bày tỏ sự ủng hộ nguyện vọng của bảy xã thuộc tả ngạn sông Hàn ( An Hải, Mỹ Khê, Hóa Khuê, Mỹ Thị, Phước Trường, Tân An, Nam An) muốn đoàn kết lập chợ để chống lại sự cạnh tranh của xã Hải Châu.  Tờ trát đề ngày 20 tháng Tư năm Minh Mạng thứ 8, nhằm 15-5-1827 (xin xem hình).

Ảnh chụp tờ trát của Thoại Ngọc Hầu gởi cho hào mục làng An Hải, Đà Nãng (Ảnh của tác giả)

Phát giác này làm tôi ngạc nhiên muốn bật ngữa.  Tôi cảm ơn cụ Luân và chỉ nói “Thật con không ngờ Thoại Ngọc Hầu lại là người quê ở An Hải, Đà Nẵng”.  Thật sự thì tôi rất xúc động điều vừa khám phá, vì Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại là một khuôn mặt lớn trong lịch sử.Ông là một khai quốc công thần của vua Gia Long, tầm cở với Tả quân Lê Văn Duyệt và Trung quân Nguyễn Văn Thành, được phong tước Thoại Ngọc Hầu, là người có công khai phá miền Hậu giang, là người đã chỉ huy việc đào kinh Vĩnh Tế, nối liền Hà Tiên và Châu Đốc, một công trình vĩ đại khiến vua Minh Mạng rất đẹp ý, nên đã lấy tên vợ Bảo hộ Thoại (Châu Thị Vĩnh Tế) để đặt tên cho con kinh, lại cho khắc hình kỷ niệm vào Cao đỉnh, là đỉnh số 1 trong Cửu đỉnh của Thế miếu.  Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, Châu Đốc, đâu đâu cũng có dấu vết của ông.  Người ta tôn thờ và biết ơn ông.  Nếu có dịp đến những nơi này, nhất là Châu Đốc, bạn sẽ thấy được Quan lớn Bảo hộ hay Bảo hộ Thoại đã để lại dấu ấn tại những địa phương đó như thế nào.

Chính vì ông đã để lại một huân nghiệp như thế nên giáo sư Nguyễn Văn Hầu đã bỏ công trong hai mươi năm sưu tập tài liệu để viết cuốn “Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang”, một tác phẩm biên khảo công phu, có giá trị về mặt nhân văn và lịch sử.   Tôi còn nhớ (hiện giờ tôi không có sách đó trong tay) trong chương viết về dòng dõi Thoại Ngọc Hầu, khi nói đến quê quán , tác giả chỉ ghi Nguyễn Văn Thoại là người tổng An Lưu, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, với  lời chú thích, đại khái là mặc dầu đã bỏ công trong hai mươi năm để sưu tầm tài liệu (sử sách, gia phả, bi ký, bằng sắc …) nhưng ông cũng không thể xác định được Nguyễn Văn Thoại là người thuộc làng nào, xã nào của tỉnh Quảng Nam.  Cái điều giáo sư Nguyễn Văn Hầu săn tìm trong hai mươi năm mà không gặp, nay bỗng nhiên lại tình cờ ở trong tay tôi.

Vài hôm sau, được lúc rảnh rổi, tôi lại thả bộ qua An Hải gặp lại cụ Bút.  Tôi nhập đề ngay:

– Cụ ơi, tôi biết được húy của ngài rồi.  Quan lớn Bảo hộ của làng An Hải thật ra lớn lắm , tầm cở quốc gia chứ không phải riêng chi làng An Hải đâu…

– Đâu? Đâu?  Chuyện ra răng , thầy làm ơn kể cho tui nghe coi.

Tôi trả lại tờ trát và kể lại sự tích Thoại Ngọc Hầu.Có thể từ bao lâu nay làng An Hải cảm thấy hãnh diện về Thoại Ngọc Hầu như là một thân nhân làm lớn chứ chưa biết hết cái huân nghiệp của ông đối với một miền hoang dã nhưng trù phú của đất nước.  Do đó, trong câu chuyện, tôi nhấn mạnh về điểm này và ghi nhận ông cụ rất xúc động.  Ông dẫn tôi đi coi đình thờ (thờ chung các hậu hiền của làng) đang được tu sửa và than phiền rằng ngân khoản eo hẹp quá, chỉ làm sơ sơ thôi chứ chưa đúng mức như ý muốn.  Tôi góp ý:

– Cụ à, Quan lớn Bảo hộ không phải là một danh nhân của riêng chi làng An Hải mà còn chung cho cả Quảng Nam –Đà Nẵng nữa.  Tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng phải hãnh diện có một danh nhân như vậy, nên việc tu sửa này chính quyền cũng phải góp phần giúp đỡ.  Cụ và các cụ hương lão cùng ban hội tề nên có kế hoạch  quyên góp mở rộng để có được ngân khoản dồi dào hơn hầu việc trùng tu được tới nơi tới chốn.Nếu các cụ làm thì tôi xin giúp một tay, chẳng giàu có chi để giúp tiền giúp bạc, nhưng sẽ giới thiệu các cụ đến những nơi hằng tâm hằng sản, những nơi mình có thể gõ cửa được.

Đề nghị này về sau đã được các cụ thực hiện và Chương Trình Khuếch Trương Đà Nẵng và Vùng Phụ Cận, do anh Nguyễn Hà Hải làm Tổng Giám đốc, là thành phần chủ lực đã giúp đỡ hoàn thành ngôi đình khá bề thế.

Ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên các cụ có đề cập đến lăng Quan lớn Bảo hộ.  Nhờ đọc tác phẩm biên khảo của học giả Nguyễn Văn Hầu mà tôi biết rằng không thể có lăng của Thoại Ngọc Hầu ở An Hải, nhưng để kiểm chứng đó là lăng của ai thì mãi về sau mới có dịp.

Có dính một chút vào việc biên khảo nên tôi rất thông cảm với học giả Nguyễn Văn Hầu về nỗi buồn khi không tìm được tài liệu như ý và niềm vui, có khi còn sướng hơn bắt được vàng,  khi tìm được cái muốn tìm hoặc phát hiện ra những tài liệu chưa hề được công bố.Do đó, khi nắm trong tay thông tin và tài liệu mới mẻ về Thoại Ngọc Hầu  tôi đã viết một bài (lâu ngày quên mất nhan đề) định gởi cho bán nguyệt san Bách Khoa, nhưng rồi cứ phân vân mãi:  nên chăng, đăng báo “lấy tiếng”, hay là cung cấp tài liệu cho giáo sư Nguyễn Văn Hầu để ông có thể bổ sung tác phẩm được đầy đủ hơn, như vậy mới là thực sự cảm thông nghiệp cầm bút, dù chưa hề quen biết.  Một hôm, nhân công tác ở Huế, nghe nói giáo sư bảo trợ của tôi lúc đó là giáo sư Nghiêm Thẩm đang có giảng khóa ở Đại học Văn Khoa Huế, tôi đến cư xá thăm và hỏi ông:

– Em biết thầy quen ông Nguyễn Văn Hầu.  Vậy thầy có thể vui lòng cho em xin địa chỉ của ông ta được không?

-Anh xin địa chỉ của ông Hầu để làm gì?

Tôi lược thật câu chuyện và nói muốn liên lạc để cung cấp cho ông những thông tin  và tài liệu  vừa khám phá vì thấy ông đã đầu tư quá nhiều công sức vào tác phẩm mà vẫn chưa vừa ý, nên rất thông cảm.  Giáo sư Thẩm ngẫm nghĩ giây lát rồi nói:

– Theo tôi, anh nên gởi bài cho Bách Khoa.

Trở lại Đà Nẵng, tôi gởi bài.  Tôi còn nhớ trong phần kết thúc có để lời nhắn  đại khái rằng nếu đọc bài này mà tác giả “Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang” muốn biết thêm chi tiết thì xin liên lạc với tôi theo địa chỉ…, tôi sẵn sàng trả lời.

Bài gởi đi chừng mươi ngày thì tôi nhận được thư, không phải của Bách Khoa mà là của giáo sư Hầu.  Ông cho biết Bách Khoa đã báo cho ông biết về bài báo  và để cho ông được đọc trước khi đăng.  Nhân câu nhắn tin của tôi, ông yêu cầu Bách Khoa tạm hoãn để ông liên lạc với tôi xem sao đã.Ông xin lỗi về việc đó và ngỏ ý mong muốn được tôi hợp tác, giúp đỡ, bằng cách cung cấp những tài liệu và hình ảnh đã và sẽ sưu tập , đồng thời trả lời những câu hỏi liên quan đến quê hương và thân quyến Thoại Ngọc Hầu mà ông thấy chưa được sáng tỏ.Tôi biết ông rất nóng lòng trông hồi âm nên vội trả lời vắn tắt là chấp nhận hết thảy mọi điều ông yêu cầu trong niềm thông cảm của kẻ cầm bút; riêng về hình ảnh và tài liệu, cùng là trả lời những câu hỏi do ông nêu ra thì phải chờ lâu hơn vì tôi cần thời gian để thu thập thêm những chứng dẫn cần thiết, đặc biệt có một số lăng mộ nằm trong khu quân sự thuộc loại mật, không dễ chi chụp hình ngay được.

Thật vậy, ngoài hai sở lăng nằm trên một nỗng đất cao cách nhà cụ Bút không xa mà tôi đã từng được dẫn đi thăm và biết là lăng của ông bà nội Thoại Ngọc Hầu, còn cái lăng mà các cụ nói là lăng của Bảo hộ Thoại lại nằm trong khu vực Tổng kho Đà Nẵng, được canh phòng cẩn mật và dĩ nhiên bảng cấm chụp hình yết la liệt.  Tôi không quen sĩ quan Chỉ huy trưởng nên chưa biết làm thế nào để có thể xâm nhập vùng cấm địa mà khảo sát đây.  Một hôm, nhân đi uống cà-phê với nhà văn Duy Lam (trung tá Nguyễn Kim Tuấn, Quân đoàn I) tôi than thở về cái “kẹt” của mình, và hỏi anh có quen với trung tá X.Chỉ huy trưởng Tổng kho Đà Nẵng không?  Anh cười thoải mái:

-Tay đó tôi quen thân lắm.Để trong tuần này hễ ngày nào thư thả, tôi sẽ điện thoại cho anh biết, chuẩn bị, rồi tôi chở vào đó, gặp anh ta nói chuyện.  Không có gì trở ngại đâu.

Quả như anh Duy Lam dự liệu, tôi đã vào được khu vực Tổng kho Đà Nẵng, khảo sát ngôi lăng cổ, ghi chép và chụp hình thoải mái nhờ sự thông cảm bạn bè.  Và đúng như tôi nghĩ, đó không phải là lăng Quan lớn Bảo hộ mà chính là lăng thân phụ ông ta.

Mấy chục năm đã trôi qua, thật khó mà nhớ hết những gì tôi đã gởi vào Long Xuyên cho giáo sư Hầu.Dĩ nhiên, ông rất sung sướng và cảm động về những gì tôi đã làm cho ông và cho biết với những tài liệu đó ông có thể viết thêm một chương mới để bổ sung cho tác phẩm khi tái bản.  Ngược lại, tôi cũng cảm thấy hoan hỷ vì trên đường đời lại nảy ra một mối giao tình mới.Tôi muốn đứng giữa làm gạch nối Châu Đốc và Đà Nẵng để hai bên, những người còn mang nặng lòng tri ân và tưởng nhớ tới Thoại Ngọc Hầu, có thể gặp gỡ nhau, mở rộng tình tương thân tương ái giữa hai quê hương của cùng một danh nhân.  Bây giờ thì không còn nhớ đã đem việc này ra bàn với các cụ ở An Hải và giáo sư Hầu chưa, nhưng dù rồi hay chưa thì mọi tính toán cũng đều tan theo mây khói trong cơn lốc mùa Xuân 75…

Sinh Nguyễn Tử Trần

Một buổi chiều, khoảng hai giờ, đang ngồi làm việc thì người trực an ninh vào báo có phái đoàn làng An Hải muốn vào gặp.  Tôi nói xin mời vào, và thoáng một chút ngạc nhiên:  sao không nghe cụ Bút nói gì cả?

Phái đoàn gồm có năm vị, trong đó tôi chỉ còn nhớ có hai người là cụ Bút và ông  Trần Văn Mẹo, nghị viên Thành phố Đà Nẵng.  Mục đích của phái đoàn là chính thức cảm ơn tôi và trao tặng bảng “Công Đức Vô Lượng” vì tôi đã có công trong việc giúp trùng tu đền thờ Thoại Ngọc Hầu.  Thôi thì không biết nói làm sao, đành “cung kính  bất như tuân mệnh”, xin nhận lãnh và cảm ơn làng vậy.  Trong câu chuyện, tôi lại nhấn mạnh về tầm vóc của Thoại Ngọc hầu đối với đất nước và nhân đó xin tặng làng cuốn sách của giáo sư Nguyễn Văn Hầu viết về Bảo hộ Thoại để làm kỷ niệm.  Họ đòi phải có con dấu chức vụ và chữ ký của tôi mới chịu nhận, thôi thì cũng chiều lòng.Không biết cuốn sách đó nay làng có còn giữ  không.

Chúng tôi chuyện trò khá lâu và bỗng một vị trong phái đoàn vừa cười vừa nói rằng:

– Thực ra, làng chúng tôi có đến hai danh nhân, mà hai danh nhân này lại đối nghịch nhau.  Quan lớn Bảo hộ là danh nhân thuộc phe chiến thắng, tiếng tăm lừng lẫy, sử sách ghi chép nên ai cũng biết;  còn ông kia là danh tướng thuộc phe chiến bại, không ai dám nhắc tới, lâu ngày rồi quên luôn.

Tôi ngạc nhiên quá đổi:

– Xin cho biết là ai vậy?

– Là tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu đó.  Ông Trần Quang Diệu cũng là người làng An Hải chớ đâu, nay con cháu vẫn còn.  Như ông nghị viên Trần Văn Mẹo đây là thuộc dòng dõi tướng Trấn quang Diệu đó.

Tôi ngạc nhiên thiếu điều bật ngữa.  Lòng tự nhủ: sao mảnh đất An Hải nhỏ bé hiền hòa vậy mà lắm chuyện ly kỳ đến thế!  Thoại Ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại, danh tướng khai quốc công thần của Nhà Nguyễn người làng An Hải, mà viên dũng tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu cũng người làng an Hải!  Tướng Trần Quang Diệu cùng vợ là nữ tướng Bùi Thị Xuân đã từng nhiều phen làm vất vả điêu đứng quân của Nguyễn Vương (vua Gia Long sau này), gây cản trở lớn trên bước đường tiêu diệt Tây Sơn.  Vì vậy, khi bắt được cặp vợ chồng anh hùng đáng sợ này, nhà vua không những hành hình họ mà còn tàn sát thân nhân của họ bằng án tru di tam tộc.Theo lời kể của ông nghị viên Trần Văn Mẹo, khi nghe tin dữ ở kinh đô Huế, có người đã vội vã về ngay làng An Hải báo tin cho họ Trần biết để tìm cách lánh nạn trước khi lệnh truy nã đến.Nhờ hương lý và dân làng đều có cảm tình với họ Trần nên đã giúp một số gia đình đào thoát khỏi làng, thay tên đổi họ, đi lánh nạn phương xa.  Số còn lại, gồm những người không đi được hay không muốn đi, đều cải sang họ Nguyễn.  Do đó, khi lệnh truy nã tới thì không còn ai họ Trần để bị bắt giết.  Vì sự sống mà phải bất đắc dĩ mang họ Nguyễn, nên đến khi chết thì con cháu đều trở lại họ Trần để không mất gốc, tạo nên một tập tục mà hết thảy con cháu đều phải tuân theo , gọi là “Sinh Nguyễn tử Trần”.  Sau khi triều đình Huế nhường đất Đà Nẵng cho Pháp làm nhượng địa (1888), quyền lực địa phương không còn ở trong tay Nhà Nguyễn nữa, không có lý do gì để phải sợ hãi đề phòng nữa, nên một số đã trở lại họ Trần (chẳng hạn chi của ông Trần Văn Mẹo), phục hồi dòng tộc cũ của ông cha, số còn lại vẫn giữ tục “Sinh Nguyễn tử Trần”.

Khi nắm được thông tin lý thú này, tôi dự tính sẽ làm một cuộc sưu khảo về dòng dõi Trần Quang Diệu ở An Hải, vừa để xác minh những điều vừa mới ghi nhận, vừa hy vọng biết đâu lại tìm ra được những điều mới mẻ lý thú khác nữa ở cái vùng đất có bề ngoài hỏ bé khiêm tốn nhưng lại mang nhiều chuyện xưa tích cũ bất ngờ này.  Nhưng rồi tháng Ba gãy bút.

Võ Hương An

Cựu Thanh tra Giám Sát Viện Quân Khu I (VNCH)

Cựu Tù nhân Chính trị Quảng Nam-Đà Nẵng

From: TU-PHUNG

Thách thức nghiêm trọng nhất của Việt Nam là Đảng Cộng sản

Thách thức nghiêm trọng nhất của Việt Nam là Đảng Cộng sản

Bởi  AdminTD

 Jackhammer Nguyễn

14-1-2022

Ngày 11-2-2022, cây bút quen thuộc, Nguyễn Quang Dy có bài viết đăng trên trang Viet-Studies: Những thách thức năm Nhâm dần.

Bài mở đầu với những cảm xúc tích cực về các hiện tượng thiên nhiên đầu năm mới, và kết thúc bằng lời khuyên rằng, Việt Nam nên thay đổi thể chế để có thể vượt qua những thách thức trong năm mới.

Chúng ta có thể dễ dàng đồng ý với những phân tích về quan hệ bang giao quốc tế của tác giả, trong đó nhấn mạnh, việc Việt Nam đã khá thành công trong việc tạo cho mình một thế đứng trung gian giữa cuộc xung đột và cạnh tranh ngày càng mạnh giữa các siêu cường, quan trọng nhất là cuộc xung đột Mỹ – Trung. Nói một cách nôm na là, Hà Nội đã thành công trong việc đu dây giữa Washington và Bắc Kinh.

Không chỉ một mình ông Nguyễn Quang Dy nhận ra điều đó, tôi cũng có nghe rằng một trong những gương mặt chống Cộng có tiếng người Việt ở Mỹ, nói trong chỗ thân tình rằng: “Cộng sản Hà Nội đu dây tử thần, nên cho họ credit về chuyện đó”.

Ngày 11-2-2022, chính phủ Mỹ công bố sách lược Ấn Độ – Thái Bình Dương, trong đó Việt Nam được xem như một trong những đối tác khu vực hàng đầu (leading regional partners), ngang hàng với Singapore, Đài Loan.

Có thể nói không ngoa rằng, thái độ của Hoa Kỳ cộng với việc thành công của chính sách đu dây của Việt Nam đã làm cho Hà Nội chống được dịch Covid-19, với lượng vaccine của chính phủ Mỹ đến kịp thời.

Những đề cập về kinh tế Việt Nam cũng như những khuyến cáo (hoặc trích dẫn) mà ông Nguyễn Quang Dy đưa ra, cũng sẽ dễ dàng được độc giả đồng tình.

Nhưng không biết có phải vì do thời điểm đầu năm mới, cần có những suy nghĩ tích cực hay không, nhưng tôi cảm thấy tác giả đã giảm nhẹ điều gọi là thách thức lớn nhất của Việt Nam hiện nay. Đó chính là vị trí một mình một chợ, ngày càng vững chắc của Đảng Cộng sản cầm quyền.

Sau một thời gian dài lưỡng lự, Đảng Cộng sản đã tống giam người thực sự đối kháng cuối cùng của chế độ là Phạm Đoan Trang vào năm 2020. Thừa thắng xông lên, Đảng Cộng sản dẹp luôn những tổ chức dân sự ít màu sắc chính trị quyền lực hơn, nhưng họ không kiểm soát.

Ngày 9-2-2022, Hà Nội tống giam bà Ngụy Thị Khanh, đứng đầu một tổ chức môi trường, từng nhận giải thưởng về bảo vệ môi trường quốc tế, với tội danh… trốn thuế! Cần nhớ rằng, tội danh loại này cũng từng được gán cho một số nhân vật đối kháng có tiếng trước đây như Nguyễn Văn Hải, Lê Quốc Quân, Trần Huỳnh Duy Thức (đối với ông Thức là cái nhãn gian lận thương mại).

Công bằng mà nói thì những thành phần thực sự đối kháng như tôi vừa đề cập không là bao nhiêu, sự lưỡng lự của Hà Nội trong hơn 10 năm qua, chỉ là sự đo lường sức ép quốc tế lên họ mà thôi, chứ thực ra họ vẫn kiểm soát tình hình, kiểm soát rất chặt phong trào đối kháng, một phong trào ra đời từ sự bắt nạt của Trung Quốc đối với Việt Nam, hơn là những nhu cầu dân sinh và xã hội trong nước. Đã ít ỏi, phong trào này lại rất hỗn tạp, không dựa trên những hiểu biết căn bản về một xã hội dân chủ.

Đầu năm 2022, một người Việt chống Cộng ở Mỹ là ông Dao Huyen, đưa ra nhận xét về những người gọi là hoạt động dân chủ ở Việt Nam trong những năm qua là họ “thiếu sự thiện lương và công chính của những người muốn đi làm cách mạng”. Dĩ nhiên ông Dao Huyen nói điều đó không bao hàm tất cả những người vào tù ra khám ở Việt Nam trong những năm qua. Dù sao năm 2020 cũng đánh dấu sự kết thúc của phong trào này.

Bên trong thì phong trào đối kháng, vốn đã yếu, nay thì tan rã. Bên ngoài, nhờ vào vị trí địa chiến lược đắc địa đối với phương Tây trong cuộc đối đầu với Trung Quốc, cộng với ngoại giao đu dây khéo léo, Hà Nội đang ở trong môi trường rất thuận lợi.

Nhưng trong những cái thuận lợi ấy, cái lợi cho Đảng Cộng sản Việt Nam nhiều hơn so với người dân Việt Nam. Thậm chí đối với người dân Việt Nam, lợi lộc của Đảng Cộng sản là điều có hại cho dân rất rõ ràng. Đảng Cộng sản đã mạnh, đã một mình, nay càng mạnh thêm, càng một mình và càng tha hồ làm bậy.

Cùng năm với việc bắt giữ Phạm Đoan Trang, việc chống dịch Covid một cách bát nháo của Đảng làm cho hơn 20 ngàn người Việt thiệt mạng. Dịch bệnh cũng làm lộ rõ tình trạng người dân quê Việt Nam, những người làm thuê làm mướn trong các nhà máy, bị bóc lột tận xương tủy, trong đó có hơn 1 triệu người bỏ chạy tán loạn sau vài tuần lễ phong tỏa.

Năm 2021 lại chứng kiến hai sự việc tồi tệ một cách kinh hoàng là vụ công ty Việt Á bán bộ xét nghiệm dỏm, làm giàu trên tình trạng chết chóc của dân chúng, và vụ nâng giá vé máy bay cho người Việt ở nước ngoài muốn về nước giữa đại dịch, qua những chuyến bay mà chính quyền gọi là “giải cứu”.

Hai điều kinh hoàng nhất trong hai sự kiện này là sự mục ruỗng của cả hệ thống bao che cho những kẻ thủ ác, thứ hai là sự suy đồi đạo đức không còn giới hạn nữa của quan chức Đảng Cộng sản Việt Nam.

Không có gì bảo đảm rằng hai sự việc như thế sẽ không còn xảy ra trong tương lai, và người dân trong nước sẽ lại chịu hậu quả thảm khốc, trong tình trạng Đảng Cộng sản Việt Nam một mình một chợ, quyền lực không giới hạn, tự tung tự tác.

Và đó chính là thách thức nghiêm trọng nhất đối với Việt Nam hiện nay.

HIỆN TƯỢNG SÁM HỐI CỦA NHỮNG THẰNG NGƯỜI CÓ ĐUÔI!

HIỆN TƯỢNG SÁM HỐI CỦA NHỮNG THẰNG NGƯỜI CÓ ĐUÔI!

NGUYỄN THIẾU NHẪN

Trong bài “Hiện tượng sám hối”, Mặc Lâm, biên tập viên đài RFA đã phỏng vấn nhà văn, nhà phê bình Trần Mạnh Hảo về hiện tượng những lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng Sản Việt Nam lên tiếng phủ nhận những gì mà họ theo đuổi trong suốt hơn nửa thế kỷ qua.
Theo nhà văn Trần Mạnh Hảo thì: “Ông Phó Thủ Tướng Trần Phương là một người cũng đã tận tụy đi theo cách mạng. Làm đến Phó Thủ Tướng nhưng khi các ông ngồi lại để góp ý cho đảng thì ông ấy nói rằng cuộc đời trong mỗi cá nhân để vượt qua những sự kiện quan trọng trong đời mà cứ phải nói dối người thân, nói dối gia đình, nói dối mọi người đến mấy lần thì đến khi về già đã thấy ngượng, thấy xấu hổ lắm. Nhưng Đảng Cộng Sản của chúng ta từ khi sinh ra đến giờ toàn nói dối mà không biết tại sao đảng không biết ngượng, không biết xấu hổ,không biết sám hối”.
Thực ra, không phải tới bây giờ mới có những nhận xét “động trời” này! Những chuyện “Đảng CSVN” nói dối không biết ngượng miệng đã xảy ra từ thời con trăn miền Bắc chưa nuốt trọn con nai miền Nam rồi bị bội thực “xã hội chủ nghĩa theo định hướng kinh tế thị trường” cho tới nay.

Trước ông Phó Thủ Tướng Trần Phương rất lâu, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, người cộng sản gạo cội, con cưng một thời của Đảng CSVN đã phải nhận xét rằng người Cộng Sản bị phân đôi:
“Ngồi với nhau thì trao đổi chân thật, thì nói một đàng; mà khi họp lại bàn bạc, viết lên báo chí thì lại nói một nẻo. Trong mỗi người Cộng Sản có hai con người: con người thật và con người giả. Làm sao có thể xây dựng một xã hội mới với những con người giả. Làm sao có thể xây dựng một cái gì tốt đẹp và bền vững trên một nền tảng giả?”
Nhận xét của “ông bác sĩ cộng sản” Nguyễn Khắc Viện đem áp dụng vào “ông nhà thơ cộng sản” Tố Hữu thì không sai một chút nào: Chính ông ta đã là người đã làm cho bao nhiêu cuộc đời của những văn nghệ sĩ dính líu vào vụ Nhân văn – Giai phẩm bị “rạn vỡ. bị ruồng bỏ và bị lưu đày”; nhưng về cuối đời thì ông ta lại nói những lời “nhân nghĩa bà Tú Đễ” khiến ai nghe cũng muốn ứa gan và khinh bỉ về chuyện nói láo trắng trợn không biết ngượng của một kẻ đã từng “hét ra lửa, mửa ra khói” đối với những trí thức và văn nghệ sĩ hàng đầu miền Bắc.

Không ai tố cáo chồng chính xác bằng vợ. Người cộng sản tố cáo người cộng sản thì chắc chắn phải là sự thật. Ông Bùi Quang Triết, tức cố nhà văn Xuân Vũ là người miền Nam tập kết ra Bắc, sau khi thấy rõ mặt thật của thiên đường xã hội chủ nghĩa do “Bác” Hồ xây dựng, nhà văn bèn “tung cánh chim tìm về tổ ấm”. Ông nhà văn “chiêu hồi” Xuân Vũ khi định cư tại Hoa Kỳ đã viết về những nạn nhân của nhà thơ Tố Hữu, người đã từng làm Phó Thủ Tướng của nước Cộng Hoà Xã Nghĩa Việt Nam như sau:
“… Ai cũng biết ở miền Bắc có hai nhà trí thức lớn nhất dân tộc Việt Nam: Đó là cụ Nguyễn Mạnh Tường và cụ Trần Đức Thảo. Cụ Nguyễn được phép sang Paris chơi vài tháng đâu hồi 92 thì phải. Về Hà Nội cụ viết cuốn “Kẻ bị khai trừ”. Người ta hỏi, cụ không sợ bị tù à? Cụ bảo tôi 82 tuổi rồi còn sợ gì?

Cụ Trần cũng được Hà Nội cho sang Paris công tác (gì đó không hiểu – vận động trí thức Pháp và trí thức nước ta chăng?). Ở đây cụ đã nói chuyện trước nhiều loại thính giả. Trong một cuộc nói chuyện cụ bảo: “Chính Mác sai!” Người ta hỏi tại sao?
Cụ bảo: “Mác lấy các điểm trong duy tâm luận của Hégel (không phải Angels) ra làm duy vật biện chứng. Duy tâm áp dụng trên trời dù có sai cũng chẳng hại ai, còn duy vật đem ra dùng trên mặt đất sẽ làm chết người. (Mà chết người thật! Chết hàng trăm triệu người chớ không ít). Chỉ vài hôm sau, cụ qua đời.
Ai cũng biết Nhóm Nhân văn – Giai phẩm gồm toàn văn nghệ sĩ ưu tú của dân tộc đi kháng chiến 9 năm trở về Hà Nội, hãy còn chân ướt chân ráo đã quay ra chống Đảng quyết liệt: Hoàng Cầm, Văn Cao, Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt.
Phần lớn là đảng viên. Thế có lạ không?

Tại sao họ không yêu Đảng của họ nữa? Hỏi tức là trả lời vậy.

Nhạc sĩ Văn Cao vừa mới qua đời. Trước khi nhắm mắt, ông nói: “Bây giờ tôi
không còn sợ gì nữa. Tôi cứ nói…. Tố Hữu đã ‘phạt’ tôi 30 năm không sáng tác được gì”.

Đau đớn cho ông là năm 1994, trong một buổi lễ phát phần thưởng về âm nhạc, ông được xếp hạng 13 (gần hạng bét) đáng lẽ phải là hạng nhất, không có hạng 2 đến hạng 10.

Trên đây tôi vừa liệt kê một vài trường hợp trí thức văn nghệ sĩ xã hội chủ nghĩa chống Đảng, thà chịu khổ nhục nhận “hình phạt đày ải” của đảng Cộng sản, chớ không thay đổi thái độ với nó kể từ khi họ bắt đầu “ghét” Đảng. Nhìn kỹ lại không thấy ai nói “ghét” thành “yêu” đối với CS bao giờ. Những người trước kia yêu, nay cũng ghét Đảng.

Khi đọc những bài tường thuật về các buổi nói chuyện của cụ Trần Đức Thảo ở Paris, tôi mới thấy não lòng. Một triết gia độc nhất của Việt Nam được người ngoại quốc kính nể trên thế giới lại không được dùng đúng chỗ ở chính quê hương mình.
Phải biết rằng chính cụ cũng mê Mác-xít khi còn ở Paris nên cụ đã xin về Việt Nam để phục vụ đất nước trong công cuộc kháng chiến chống Pháp, xây dựng thiên đàng. Về đến nơi thì than ôi! Thiên đàng đâu không thấy chỉ thấy tang thương địa ngục. Nhiều người đứng ở ngoài xã hội chủ nghĩa cứ tưởng nó là thiên đường.

Nhưng khi nhảy vào sống với nó rồi mới biết mặt mũi nó mồm ngang, miệng dọc ra sao. Chừng đó có muốn thối lui cũng không được. Phải dũng cảm ghê gớm mới dứt nổi “đường tơ”. Nếu Mác bảo tôn giáo là thuốc phiện mê hoặc con người thì Mác-xít chính là thuốc độc giết chết con người. Và tác hại vô cùng cho dân tộc nào cưu mang nó. Picasso về già mới trả thẻ đảng. Howard Fast cũng xin ra đảng lúc gần đất xa trời. Phải khó khăn lắm mới nhận ra được mặt thật của nó. Chẳng thế mà dân Liên Xô bị bịp trên 70 năm?

Tôi cũng đã sống 10 năm trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Tôi không có lý luận như cụ Trần, nhưng bằng cảm tính nảy ra trong sinh hoạt hàng ngày, trước tiên tôi thấy chủ nghĩa Mác nó kỳ cục. Nếu biết trước nó như thế này thì không ai đi đánh Tây làm gì.

Bởi vì như Nguyễn Chí Thiện nói (đại ý):
“So với Đảng thì móng vuốt Thực dân êm dịu gấp 10 lần!”
Nhưng đã lỡ nhúng chàm rồi, có nhiều người đành cam chịu, không nói ra, để cho những người hậu tiến mắc lầm như mình. Dại rồi nên ngừa cho người khác đừng dại như mình.

… Người Cộng Sản hễ nói là nói láo. Nhưng trước đây vẫn có nhiều người tin. Tin rằng chính sách hợp tác xã, tổ chức quốc doanh đều tuyệt vời, tin rằng Liên Xô là số dách. Nay thì dân chúng đã thấy rõ giữa miền Bắc và miền Nam ai hơn ai, giữa Liên Xô và Hoa Kỳ ai đi trước ai (những 50 năm).
Tất cả nhân loại đều đã bừng mắt trước một sự thực vô cùng rõ rệt: chủ nghĩa
Cộng sản chỉ là một sự ngu xuẩn và chính những kẻ theo đuổi nó gần 1 thế kỷ
nay cũng không hiểu nó là cái gì…”
***
Nhà thơ cộng sản Tố Hữu đã chết!
Nhà văn Xuân Vũ “tay trót nhúng chàm” theo cộng sản – như lời tự thú của ông, sau đó đã từ bỏ thiên đường cộng sản, đã chết!
Những người trong nhóm Nhân Văn – Giai phẩm mà cuộc đời của họ đã bị ông Tố Hữu làm cho “rạn vỡ, bị ruồng bỏ và bị lưu đày” cũng đã chết!
Bi thảm nhất là cái chết của ông Nguyễn Hữu Đang, kẻ đã dựng lễ đài để ông Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn. Cả cuộc đời của ông đã bị trù dập đến tận cùng bằng số: “nhà” của ông là một lõm sâu bằng thân mình ông cạnh một khóm tre làng, cứ như là một huyệt mộ của ông ngay khi còn sống. Sinh kế của ông là mỗi ngày đi nhặt các bao thuốc để đổi cóc, nhái từ bọn trẻ con trong làng. Và ông đã sống như thế cho đến khi nhắm mắt lìa đời.
Viết đến đây tôi cảm thấy tim mình đau nhói.

“Tôi không biết khóc bao giờ
Mà sao giọt lệ ấm bờ mi thâm?

– nói theo cách nói của một nhà thơ nào mà tôi đã quên tên.
Những người trí thức, những văn nghệ sĩ của chế độ, đã góp phần xây dựng chế độ ngay từ đầu mà còn bị ruồng bỏ, bị trừng phạt thê thảm, khủng khiếp đến như thế thì còn nói gì đến những người đã từng đối đầu với chế độ!
***
Hình như nói dối là cái “gen” di truyền từ ông Hồ Chí Minh đến các lãnh tụ thừa kế của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Người thừa kế xuất sắc cái “gen” nói dối di truyền của “Bác” Hồ là nhà thơ Tố Hữu – nói dối không biết ngượng miệng, nói dối không chớp mắt, nói dối cứ như thiệt!
Cái “gen” nói dối của “Bác” Hồ, của cố Phó Thủ Tướng Tố Hữu đang di truyền qua thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, chủ tỊch nước Trương Tấn Sang và tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Ông nói chống tham nhũng thì lại là Vua Tham Nhũng!
Ông thì tuyên bố “trừ sâu trong nồi canh”; nhưng chắc chắn là sẽ có hàng trăm bầy sâu do ông ta… đẻ ra vì ông ta là Vua Sâu Bọ!

Và ông Tổng bí thư Mạc Phú Trọng thì lúc nào cũng lăm le tự trói tay, trói chân quỳ lết đem giang san gấm vóc của tổ tiên đem dâng cho giặc phương Bắc để giữ vững ngai vàng!

Tài liệu tham khảo:
– “Dương Thu Hương và Con Hùm Ngủ”, tiểu luận của Nguyễn Việt Nữ.
– “Thằng Người Có Đuôi” một truyện ngắn viết về Trường Chinh (?) cố Tổng Bí Thư CSVN của nhà văn Thế Giang.

NGUYỄN THIẾU NHẪN

From: Truong Le

TRẦN NGUYÊN THAO – HỆ LỤY ĐÈ LÊN KINH TẾ VIỆT NAM, DO NỢ XẤU NGÂN HÀNG GẤP ĐÔI

TRẦN NGUYÊN THAO – HỆ LỤY ĐÈ LÊN KINH TẾ VIỆT NAM, DO NỢ XẤU NGÂN HÀNG GẤP ĐÔI

       Hệ lụy đè lên Kinh Tế Việt Nam,

DO NỢ XẤU NGÂN HÀNG GẤP ĐÔI.

 Trần nguyên Thao

Tài sản của khối Ngân Hàng Thương Mại (NHTM) đang trở thành mối quan ngại lớn đối với nền Tài Chánh quốc gia. Tính đến ngày 30/9/2021, tổng nợ xấu của 27 ngân hàng ở mức trên 113 nghìn tỷ đồng, tăng gần 26% so với đầu năm. Nợ xấu toàn khối NHTM được xác định tăng khoảng 8% cao gấp đôi chỉ trong 12 tháng. Nếu xét tới cả nợ tiềm ẩn, tỷ lệ nợ xấu tại các NHTM lớn hơn nhiều so với những gì được nói tới trong báo cáo tài chính. Nợ xấu sẽ đẩy nền Tài Chánh Việt Nam vào một cuộc khủng hoảng tài chánh và góp phần vào “rủi ro lạm phát với áp lực rất lớn” năm 2022.

Hạ tuần tháng Giêng 2021, Tạp Chí Tài Chánh cho công luận thấy sự âu lo của Tiến Sỹ Cấn Văn Lực – Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV tính toán, hiện lượng nợ đang được cơ cấu lại thời hạn trả nợ vào khoảng 355 nghìn tỷ đồng. Nếu chia cho tổng dư nợ hiện nay là 8,5 triệu tỷ đồng thì nợ xấu tiềm ẩn từ nợ cơ cấu là 4%. “Dù hy vọng 50% số nợ cơ cấu quay lại nợ tốt, nhưng như thế tỷ lệ nợ xấu cũng khoảng 2%. Cộng với tỷ lệ nợ xấu nội bảng hiện tại là hơn 2% thì nợ xấu lên tới 4%. [1] Từ lúc đó giới chuyên ngành đã thấy khó khăn thách thức rất lớn đang chực chờ đối với NHTM vào dịp cuối năm 2021”. 

Sau khi khối NHTM đã thực hiện cơ cấu lại nợ, giãn hoãn theo hướng dẫn của Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN), Phó thống đốc NHNN, Nguyễn Kim Anh hồi cuối tháng 9/2021 đã xác nhận trước Ủy Ban Kinh tế Quốc Hội về tỷ lệ nợ xấu nội bảng và nợ xấu tiềm ẩn toàn khối NHTM đến cuối năm nay dự kiến sẽ ở mức từ 7,1% – 7,7%, xấp xỉ 8%. [2] Hệ lụy của nợ xấu tăng cao sẽ ảnh hưởng rất xấu lên nền Kinh Tế trong các năm kế tiếp.

Ngược dòng thời gian: năm 2016, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của toàn hệ thống ngân hàng là 2,46%, năm 2017 giảm xuống còn 1,99%, năm 2018 còn 1,91%, năm 2019 là 1,63% và năm 2020 là 1,76%. Nếu tính cả khoản nợ đã bán cho VAMC nhưng chưa xử lý được và nợ xấu tiềm ẩn thì năm 2016 là 10,58%, năm 2017 là 7,36%, năm 2018 là 5,85%, năm 2019 là 4,43% và sang đến năm 2020 là 3,81%.

So sánh nợ xấu ngân hàng ở hai thời điểm, tháng Giêng đến cuối năm 2021, đều do những tiếng nói thẩm quyền chuyên ngành, qua Tạp Chí Tài Chánh, trực thuộc Bộ Tài chính; Là cơ quan báo chí có bề dày truyền thống lâu đời nhất của ngành Tài chính với gần 60 năm trưởng thành và phát triển, cho thấy chỉ chưa tròn 12 tháng, nợ xấu toàn NHTM tăng gấp đôi.

Nợ xấu của khối NHTM được dự báo sẽ còn tiếp tục kéo dài sang các năm sau khi doanh nghiệp chưa thể phục hồi và những khoản nợ sau khi được tạo điều kiện cơ cấu lại nhưng vẫn không thể cải thiện sẽ buộc hệ thống phải chính thức ghi nhận là nợ xấu.

Đó là chưa tính đến tương lai khi gói kích cầu được chấp thuận bằng cách hỗ trợ lãi suất mỗi năm khoảng 20.000 tỷ, hai năm khoảng 40.000 tỷ. Nếu hỗ trợ 4% thì tín dụng có 1 triệu tỷ đồng đưa vào nền kinh tế, như Bộ Tài Chánh mong đợi.

Trong lúc Việt nam vẫn chưa kiểm soát được CoVid lây lan, khoản tín dụng lớn được hỗ trợ lãi suất như thượng dẫn, nếu không hoàn toàn dùng cho sản xuất, mà lại đem đầu tư “nóng” vào Thị Trường Chứng Khoán, Bất Động Sản dễ bị bong bóng hay dịch vụ thua lỗ, thì chẳng những NHTM không thu được lãi mà còn mất luôn vốn. Khi đó nợ xấu ngân hàng sẽ rất xấu. Ngành tài chánh sẽ rơi vào khủng hoảng trầm trọng.

Năm 2009, do nhu cầu đầu tư tiêu dùng, CSVN đưa ra gói kích cấu 122.000 tỷ đồng (6,9 tỷ Mỹ kim). Trong đó, riêng năm 2009, dành 106.600 tỷ đồng (5,7 tỷ Mỹ kim), tương đương 5,6% GDP lúc đó để kích cầu kinh tế. Bộ trưởng Kế Hoạch Đầu Tư Nguyễn Chí Dũng cho biết gói kích thích này khiến lạm phát tăng cao, năm 2010 và 2011 lần lượt là 9,2% và 18,6%. Đầu tư dàn trải gây nợ đọng lãng phí, nhiều dự án đình hoãn từ năm 2011 đến nay chưa giải quyết được hậu quả.

Do kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng năm 2009, hôm 12/11, trước Quốc Hội, Thống Đốc NHNN Nguyễn thị Hồng cảnh báo, năm 2022, “rủi ro lạm phát có áp lực rất lớn”.[3]

Tháng 9 năm 2020, báo cáo Tái Chánh ghi nhận Đảng CSVN nắm giữ 7 ngân hàng thương mại quốc doanh: Agribank, Vietcombank, VietinBank, BIDV, GPBank, CBBank và OceanBank có tổng tài sản lớn hơn toàn khối ngân hàng tư nhân, đạt trên 5,2 triệu tỷ đồng, tăng 7,12% so với đầu năm và giữ tỷ trọng lớn nhất với 43,4%. Trong đó có 3 ngân hàng là BIDV, VietinBank và Vietcombank, mang 40 ngàn tỷ đồng nợ xấu , mà 50% số nợ này đang đứng trước nguy cơ sẽ mất vốn hoàn toàn [4].

Báo cáo tài chính quý III/2021 (30/9/2021) vừa công bố, dư nợ xấu chỉ tính tại 27 NHTM niêm yết cổ phiếu và giao dịch trên thị trường chứng khoán đã tăng lên con số 113.006 tỷ đồng, tức cao hơn 26% so với thời điểm đầu năm. Trong đó, Nam Á Bank có mức nợ xấu cao nhất lên tới gần 150%, đạt 1.894 tỷ đồng. Số ngân hàng có nợ xấu tăng chiếm xấp xỉ 2/3. Vào thời điểm này năm 2020, mới có 23 NHTM mang nợ xấu.

Khối NHTM quốc doanh gây ra một khoản nợ xấu khổng lồ. Trong đó có 4 ngân hàng quốc doanh, năm 2020 từng mang “Bad Name” về nợ xấu, năm nay lại tiếp tục được “bảng vàng đề danh”:

  • Agribank giữ vị trí “quán quân” đứng đầu 10 ngân hàng có nợ xấu với gần 24.429 tỷ đồng, tăng 13,5% so với cuối năm trước (báo cáo tài chính riêng lẻ, Quý II/2021).  
  • BIDV, đoạt giải nhì, với 21.433 tỷ đồng, chiếm 1,61% tổng dư nợ cho vay khách hàng,
  • Vietcombank (VCB) và VietinBank (CTG) đứng vị trí tiếp theo với mức tăng lần lượt là 108% và 90% so với đầu năm.

Tổng nợ xấu của Vietcombank và VietinBank đạt xấp xỉ 30.000 tỷ đồng. Riêng số nợ tăng thêm của hai “ông quốc doanh” này lên tới trên 14.200 tỷ đồng, chiếm hơn 60% số nợ xấu tăng của gần 30 nhà băng thuộc khối NHTM.

 

Như vậy, quy mô nợ xấu của 4 ngân hàng quốc doanh gồm Agribank, BIDV, VietinBank và Vietcombank tính đến hết tháng 9 trên 67.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 58,1% tổng nợ xấu của các ngân hàng được thống kê.

Thống kê đến cuối tháng 9/2021, các tổ chức tín dụng đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho 278.000 khách hàng với dư nợ 238.000 tỷ đồng. Nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ giữ nguyên nhóm nợ cho khách hàng từ 23/01/2020 là khoảng 531.000 tỷ đồng.

Tính đến đầu tháng 10/2021, có 50 ngân hàng đang hoạt động tại Việt Nam, thì có 9 ngân hàng thuộc thuộc khối quốc doanh do Nhà Nước quản lý [5].

Ba trong số 4 nhà băng rất yếu kém, gồm: 3 ngân hàng Quốc Doanh là Xây Dựng (Contruction Bank); Đại Dương (Ocean Bank); Dầu Khí (Global Petrol Bank) và Đông Á Bank (ngoài Quốc Doanh) phải xây dựng hoàn thiện phương án cơ cấu lại để cơ quan liên bộ xem xét.

Năm 2015, từng có 3 Ngân hàng gồm, Xây dựng (Việt NamCB, nay đổi là CBBank), Ngân hàng Dầu khí Toàn cầu (GPBank) và Ngân hàng Đại Dương (OceanBank), bị NHNN mua lại “0 đồng” nhằm tái cơ cấu, đảm bảo sự an toàn, ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, đồng thời góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Tháng 9 năm 2017, dân chúng từng xôn xao về Luật Các Tổ Chức Tín Dụng quy định người gửi tiền, bất kể tài khoản có hàng tỷ đồng, cũng chỉ được bồi thường 75 triệu đồng khi ngân hàng giải thể.

Chủ Tịch Quốc Hội Vuơng Đình Huệ hôm 12/10 đã yêu cầu Bộ Tài chính, NHNN nghiên cứu giải pháp cải thiện thể chế, luật pháp, ưu đãi… để moi vàng và ngoại tệ trong dân, bởi theo ông “nguồn lực trong dân còn nhiều”.

Năm ngày sau (17/10) báo Nhà nước đăng tin dân chúng “nháy” nhau giảm gởi tiền vào hệ thống NHTM. Kết quả là tiền từ dân gời vào NHTM đã giảm đến 1000 tỷ đồng. Như thế, đủ cho thấy toàn dân biết rõ Nhà Nước dùng chiêu bài cứu Kinh tế nhằm “nặn hầu bao” của dân là vô hiệu.

Tồn tại bằng “phỉnh lừa & chiếm đoạt” CSVN đã tùng xẻo nguồn tiền từ hàng ngàn dự án đầu tư công chậm tiến độ hàng chục năm, tăng vốn vô tội vạ; 14 hiệp định thương mại (FTA) hiêu lực 28 năm nay và biết bao nhiêu công ty quốc doanh khai lỗ . . . đều vào túi các đảng viên cộng sản. Trong lúc dân chúng tại 47 tỉnh được Bộ Trưởng Tài Chánh xác nhận đang đói khổ.

Mới đây, video dài 41 giây mô tả cảnh “thánh rắc muối” đút vào mồm Bộ Trưởng Công An Tô Lâm, miếng thịt bò dát vàng trị giá hàng ngàn Mỹ Kim tại một nhà hàng ở London hôm 3/11 càng làm cho dân chúng xác tín rằng, đảng CSVN là giai cấp “Mafia mới” cần loại bỏ, vì không thể hoàn thiện.

Trần Nguyên Thao

18 Nov

Tham khảo :

[1] https://tapchitaichinh.vn/ngan-hang/bat-ngo-no-xau-ngan-hang-331430.html

[2] https://tapchitaichinh.vn/ngan-hang/tong-no-xau-cua-27-ngan-hang-da-tang-gan-26-341494.html

[3] https://vnexpress.net/thong-doc-rui-ro-lam-phat-nam-2022-rat-lon-4384720.html

[4]https://firstnewsinworld.com/vi/no-xau-tai-3-ong-lon-ngan-hang-da-hon-40-000-ty-hon-nua-trong-so-do-la-no-co-kha-nang-mat-von/

[5] https://thebank.vn/blog/6448-danh-sach-ngan-hang-thuoc-so-huu-nha-nuoc-hien-nay.html

Cây cầu thiên đường xã hội chủ nghĩa…

Cây cầu thiên đường xã hội chủ nghĩa…

Năm 1998, Tỉnh Đắk Lắk phê duyệt dự án gần năm tỷ đồng xây cái cầu nối Đắk Nông và Đắk Lắk, năm 99 khởi công tới năm 2004 thì dừng hẳn dự án. Chỉ trơ trọi vài cái mố cầu, dầm nhịp và 4 trụ. Khi dự án chưa xong mà dừng hẳn thì ngân sách đã quyết hơn 6 tỷ đồng. Vàng lúc đó 500k, bây giờ hơn 5 triệu, tức hơn 6 tỷ đổi lại vài cái dầm nhịp nếu tính thời giá bây giờ mấy cái trụ này tốn khoảng 70 tỷ chứ không phải là ít.

Hài hước hơn, ngốn quá trời tiền như thế bị bỏ hoang, giờ Ủy Ban tỉnh ĐL thông báo dỡ bỏ phải mất thêm 3 ty

Cái cây cầu này, nếu đặt tên cho nó, không có tên nào khác đúng hơn cái tên “Cây Cầu thiên đường XHCN”, nghĩa là đường đi sẽ không bao giờ tới. Không những không tới mà nó ngốn không biết bao nhiêu mồ hôi,

Công sức hay xương máu đồng bào ta.

Đắk Lắk hay Đắk Nông chủ yếu trồng nhiều cà phê, hoặc tiêu, Nông dân sẽ đổ bao nhiêu tấn cà phê hay tấn tiêu để đổi lại cái hậu quả của đám quan chức Cs không chỉ ngu mà tham vô độ này?

Chúng ta hãy nhìn cây cầu có tên thiên đường XHCN này để thấy những gì đang diễn ra trên quê hương ta. Một quê hương què cụt, bị cai trị bởi một đám quan chức vô đạo đức, không chỉ lú không chỉ niễng không chỉ tham, tàn ác mà chúng luôn làm những việc trái với lương tâm, trái với luân thường đạo lý bất chấp hậu quả của nó lớn ra sao, miễn đổi lại cho chúng một cuộc sống vương đế, trong những căn biệt thự xa hoa, những bữa ăn hàng tỷ hay một chai rượu bằng cả hàng chục năm tiền lương của một công nhân.

Hỉnh ảnh cây cầu XHCN này như cách Chúng vẽ ra cho Dân tộc ta con đường tiến lên XHCN, mà đi mãi không tới, biết là không tới mà cứ bắt chúng ta đi. Chỉ thấy nước mắt đồng bào, xương máu Nhân dân đổ vào đó ngày một nhiều hơn. Đối lập với đó, thiên đường chỉ có nơi những quan chức đảng viên thật sự. Nơi mà chúng ngồi trong phòng ký một chữ thì bay cả khu rừng, nơi ngồi một chỗ ký một chữ mà bay cả một bờ biển.

Đổi lại, chúng sống như vua chúa, ở cung điện đầy kẻ hầu người hạ, ở cơ quan lắm kẻ quỳ gối thần phục để xin sự chiếu cố, nâng đỡ. Đi tới đâu chúng nó nói như kim đâm vào tim Dân, nhưng đám đàn em cứ vỗ tay tụng ca, vĩ đại, ngạo nghễ.

Biết xây cầu này chẳng giải quyết được vấn đề giao thông hay hạ tầng kinh tế vùng, biết không hiệu quả nhưng vẫn xây, và trước đó chúng vẽ ra dự án bằng những lời hoa mĩ. Cũng như đám lãnh đạo Cộng sản cứ suốt ngày nói về thiên đường XHCN bằng xảo ngôn, huyễn hoặc, nhưng làm gì có thật.

Nhìn cây cầu thiên đường XHCN này, chúng ta khiêm tốn mà nói rằng: đảng cộng sản thật là vĩ đại.

Phạm Minh Vũ

Việt Nam bắt giữ người từng được xem là ‘anh hùng môi trường’

*** Mới hôm trước được tôn vinh là anh hùng, hôm nay bị bắt bỏ tù.

* Ở xứ thiên đường CH XHCN CSVN là chuyện bình thường….

– Việt Nam bắt giữ người từng được xem là ‘anh hùng môi trường’

Theo truyền thông nhà nước, một nhà hoạt động môi trường nổi tiếng của Việt Nam, trong cuộc chiến chống lại các năng lượng gây ô nhiễm, đã bị bắt hôm thứ Tư tại Hà Nội

Sáng ngày 9/2 Công an TP.Hà Nội loan báo rằng họ vừa khởi tố, bắt tạm giam bà Ngụy Thị Khanh, Giám đốc Trung tâm phát triển sáng tạo xanh GreenID, để điều tra hành vi trốn thuế.

Năm 2018, bà Khanh là người Việt đầu tiên nhận giải thưởng Môi trường Goldman,”Nobel Xanh” giải thưởng lớn nhất thế giới dành cho các nhà hoạt động môi trường cơ sở.

Tổ chức GreenID của bà, 1 tổ chức phi chính phủ về môi trường nổi tiếng nhất Việt Nam, đã thuyết phục được chính phủ thời bấy giờ, loại bỏ công suất than 20.000 MW khỏi quy hoạch năng lượng quốc gia vào năm 2030.

* Truyền thông Việt Nam từng gọi bà là “anh hùng môi trường” qua công tác về kết nối mạng lưới môi trường, từ năng lượng xanh đến ô nhiễm không khí

Nhà hoạt động Ngụy Thị Khanh là một trong số ít tiếng nói trong nước lên tiếng phản đối việc sử dụng ngày càng nhiều các nhà máy nhiệt điện than.

* Nhưng trong khi nhà hoạt động được quốc tế khen ngợi, bà lại là mục tiêu của các chiến dịch bôi nhọ trên các phương tiện truyền thông nhà nước và trên internet tại quốc gia của mình.

Chế độ cộng sản không dung thứ cho bất kỳ người bất đồng chính kiến ​​nào và hàng chục nhà hoạt động phải ngồi tù vì lên tiếng chống lại nhà cầm quyền.

– Theo tiểu sử, bà Ngụy Thị Khanh sinh ra trong một gia đình nông thôn tại Bắc Am, một ngôi làng ở miền Bắc Việt Nam, lớn lên gần một nhà máy nhiệt điện than, bà Khanh đã phải chịu đựng ô nhiễm và bụi do hoạt động của nhà máy này gây ra và chứng kiến nhiều người trong khu vực mắc bệnh ung thư.

Bà Khanh theo học lịch sử, tiếng Pháp và ngoại giao và từng dự định trở thành một nhà ngoại giao.

Tuy nhiên, bà đam mê với lĩnh vực môi trường và sau khi tốt nghiệp đại học, bắt đầu làm về bảo tồn tài nguyên nước và phát triển cộng đồng cho một tổ chức phi lợi nhuận nhỏ của Việt Nam.

Năm 2011, bà thành lập Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID) nhằm thúc đẩy phát triển năng lượng bền vững ở Việt Nam, quản lý tốt hơn tài nguyên nước, không khí và phát triển xanh.

Bà đồng thời là thành viên sáng lập Liên minh năng lượng bền vững Việt Nam, một mạng lưới gồm 11 tổ chức Việt Nam và quốc tế hoạt động trong lĩnh vực môi trường và xã hội cùng hợp tác về các vấn đề năng lượng khu vực.

Bà Ngụy Thị Khanh sinh năm 1976. Vào thời điểm bị bắt, bà vẫn đang là Giám đốc GreenID.

* Có lẽ bà Khanh và GreenID của bà đang cản trở 1 dự án lớn “vi phạm môi trường” nào đó của các tập đoàn quốc doanh được các bác lãnh đạo chống lưng, nên bà đã bị bắt bỏ tù…

TL – tv5monde & BBC

Une célèbre militante écologiste arrêtée au Vietnam

Việt Nam thật sự bình yên?

 

 Lê Vi  

Việt Nam thật sự bình yên?

Trong 5 ngày Tết, cứ trung bình 1h đi qua là có hơn 10 người ch.ết vì tai nạn giao thông, 5 ngày qua có hơn 1.560 chết vì tai nạn giao thông trong dịp Tết Nguyên Đán.

Và cứ trung bình 30p trôi qua, có một người chết vì đánh nhau. Chỉ trong 5 ngày mà ghi nhận khoảng 200 người chết vì đâm chém, trong gần 3 ngàn ca cấp cứu. Ở Rạch Giá – Kiên Giang có hẳn cả vụ xã hội đen (đỏ) kéo nhau tới thanh toán bằng dao phóng l.ợn và súng, kẻ cầm dao kẻ cầm súng xả vào nhau như phim hành động, một vụ thanh toán kinh hoàng.

Vâng. Chúng ta đang nói về Việt Nam, chứ không phải quốc gia nào khác.

Trên truyền thông báo chí, luôn cho rằng các quốc gia có xung đột vũ trang, hay rối loạn là những quốc gia đa đảng, họ lập lờ đánh lận con đen như thế ý nói đa đảng làm gì cho bắn nhau suốt ngày, còn như Việt Nam không sướng hơn sao vì một đảng lãnh đạo nên yên bình?

Nhưng thực tế có yên bình như bò đỏ, hay đám tuyên giáo mê hoặc Dân chúng. Chỉ mấy ngày Tết mà số lượng tai nạn giao thông rồi xả súng, đâm chém với số tử vong phải nói kinh hoàng như thế thì Việt Nam đâu phải bình yên.

Lâu lâu ở Châu Âu hay Mỹ có vụ xả súng, thì y rằng tuyên giáo chớp ngay cơ hội nói đa đảng là rối loạn, nhưng chúng ta xem những vụ xả súng đó là liên tục không, và tử vong bao nhiêu? Còn ta, luôn tự mê hoặc ru ngủ dân chúng là quốc gia yên bình mà mấy ngày có tới gần 3000 người nhập viện vì đâm chém nhau, tới 200 người tử vong do oánh nhau, hơn 1560 tử vong do tai nạn giao thông thì ổn định, yên bình cái gì? Ai nói cho tôi biết Việt Nam là quốc gia bình yên đi.

Phải nói rằng, người Dân Việt Nam thật đáng trách, trách lắm, vì khi quyền lợi bản thân và gia đình, thậm chí con cháu bị nhà cầm quyền xâm hại, thì luôn tỏ ra sợ hãi và nhu nhược trước nhà cầm quyền. Như bị công an cướp đất, hay bị bóc lột bởi thuế, phí thì im lặng, như đàn cừu. Nhưng giữa người Dân với nhau thì tỏ ra hung hăng, man rợ, có thể xiên một người vì cái liếc mắt, nhưng lại im lặng khi bị công an hốt về đồn.

Trách Dân thì có, nhưng chỉ trách một, khi xã hội rối loạn như mớ bòng bong hiện nay thì trách đám cầm quyền 100.

Vì xã hội bất ổn, trách nhiệm hoàn toàn quy về nhà cầm quyền, mà ở đây là đảng cộng sản đang lãnh đạo tuyệt đối toàn diện.

Vì khi xã hội mất ổn định, thường xuất phát từ 3 nguyên nhân chính: 1) pháp luật không nghiêm minh; 2) hiểu biết pháp luật của người Dân hạn chế; 3) một xã hội chi phối bởi các tập đoàn tội phạm hình thành từ các đám xã hội đen và xã hội đỏ cấu kết, gắn chặt quyền lợi với nhau (cậy quyền cậy thế). Và còn nhiều nguyên nhân khác, nhưng vô hình chung ta thấy

rõ để xã hội bất ổn như Việt Nam hiện nay đều lý do tại hệ thống chính trị lạc hậu, họ hình thành quyền lực theo kiểu tập quyền.

Nhà cầm quyền không muốn người Dân hiểu biết pháp luật, không muốn người Dân sống trong môi trường thượng tôn pháp luật, ai cũng chạy chọt mới thắng, thì đương nhiên xã hội đó sẽ vô cùng bất ổn do người Dân cứ nịnh bợ kẻ có quyền để tồn tại. Nên mâu thuẫn càng lớn thì bất ổn càng nghiêm trọng.

Nhưng, có một điều trái khoáy là xã hội càng bất ổn thì các phe nhóm lợi ích nắm quyền càng đấu đá quyết liệt. Các phe trong đảng thanh toán nhau để tranh chấp địa vị, như ta hiểu đơn giản phe củi và phe lò. Xét cho cùng phe củi hay phe lò thắng thì Nhân dân chúng ta đều bại. Vì tất cả, đều muốn làm quân cờ, chứ chẳng ai chịu làm người chơi cờ.

Nói tóm lại, xã hội Việt Nam không những bất ổn mà còn vô cùng hỗn loạn, rối ren chưa từng vì các sứ quân mọc như nấm, chẳng qua ta đọc báo đảng, xem tivi nhiều quá, nếu nhìn kĩ lại, có khi rối loạn hơn cả vùng đang có giao tranh, chiến sự. Vì thế, tuyên giáo thôi cái giọng Việt Nam là quốc gia hoà bình, ổn định đi. Mở miệng ra mà nói VN là quốc gia ổn định, thì: “hoặc là thần kinh hoặc là khốn nạn”.

———

Ảnh: Xe ôtô Cảnh Sát Giao Thông bị lật, gần Đền Đại Cại – Tân Lĩnh – Lục Yên – Yên Bái.

Phạm Minh Vũ

Gần 200 người chết do đánh nhau những ngày Tết ở Việt Nam

Gần 200 người chết do đánh nhau những ngày Tết ở Việt Nam

February 5, 2022

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Chỉ tính trong sáu ngày từ 29 Tháng Chạp đến Mùng Năm Tết Nhâm Dần, Việt Nam ghi nhận hơn 2,800 ca nhập viện cấp cứu do đánh nhau, khiến 195 người chết, tương ứng gần 500 ca nhập viện mỗi ngày.

Báo Tuổi Trẻ hôm 5 Tháng Hai cho biết tin này dựa trên báo cáo nhanh về tình hình khám chữa bệnh, cấp cứu, tai nạn, ngộ độc của Cục Quản Lý Khám Chữa Bệnh, Bộ Y Tế về kỳ nghỉ Tết Nhâm Dần.

Vụ đánh nhau đêm Mùng Một Tết giữa một công an viên và người dân ở phường Cầu Ông Lãnh, quận 1, Sài Gòn. (Hình chụp qua màn hình)

Thống kê nêu trên cũng cho hay hơn 300 người phải vào bệnh viện khám hoặc cấp cứu, do chơi pháo nổ các loại trong những ngày Tết.

Một trong các vụ đánh nhau ngày Tết năm nay được các báo tường thuật là vụ xảy ra đêm Mùng Một Tết giữa một cán bộ công an và một ông ở phường Cầu Ông Lãnh, quận 1, Sài Gòn.

Báo Zing dẫn hồ sơ của công an cáo buộc ông Liêu Phát Hùng, 33 tuổi, lao vào hành hung ông Trần Văn Phồn, cán bộ Công An phường Cầu Ông Lãnh, do “bị nhắc nhở khi tụ tập đánh bài ngày Tết.”

Ông Hùng sau đó bị khởi tố với cáo buộc “chống người thi hành công vụ” và bị cấm đi khỏi nơi cư trú.

Tuy vậy, trên mạng xã hội xuất hiện hình ảnh và video clip cho thấy ông Phồn cầm điện thoại cạnh những ly bia, thách thức nhà ông Hùng trước khi xảy ra vụ đánh nhau giữa hai người.

Liên quan vụ này, nhà hoạt động Phạm Minh Vũ cho biết trên trang cá nhân rằng ông Phồn “đã uống bia và say xỉn, cù nhây không trả tiền [tại quán cơm nhà ông Hùng] và ngồi nói năng mất kiểm soát.”

Do vậy, khi mẹ ông Hùng lấy điện thoại quay clip, ông Phồn giật điện thoại, chửi bới. Ông Hùng hỏi chuyện thì bị ông Phồn đánh trước.

Một ca cấp cứu ở bệnh viện. (Hình minh họa: VietnamPlus)

Đáng lưu ý, chuyện đánh nhau ngày Tết tại các địa phương được các báo ghi nhận là “thông lệ” hằng năm.

Số ca cấp cứu do đánh nhau dịp Tết năm nay được ghi nhận thấp hơn hẳn năm ngoái. Theo báo Người Lao Động hồi Tháng Hai, 2021, trong sáu ngày nghỉ Tết Tân Sửu, Việt Nam đã có hơn 4,000 ca cấp cứu do đánh nhau, với gần 50% trong số này phải nhập viện điều trị và theo dõi sức khỏe. (N.H.K) 

Trung Quốc và tiền, những điểm nghẽn của ngoại giao Việt Nam

Bình luận của Nguyễn Quang Khai
2022.02.06

Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh và Ngoại trưởng TQ Vương Nghị tại Hà Nội hôm 10/9/2021

 AFP

Cơn say thành tích

Năm vừa qua, báo chí Việt Nam được dịp ca ngợi hết lời về những thành tích của ngoại giao Việt Nam.

Chính phủ Việt Nam và ngành ngoại giao còn hồ hởi “khoe công trạng” khi đại dịch COVID-19 bùng phát và diễn biến phức tạp trên thế giới và trong nước, ngành Ngoại giao đã tiên phong cùng các Bộ, ngành đẩy mạnh “ngoại giao y tế,” “ngoại giao vắc xin,” tranh thủ sự hỗ trợ kịp thời, hiệu quả của cộng đồng quốc tế về vắc xin, thiết bị y tế và thuốc điều trị, chung tay cùng cả nước phòng, chống dịch bệnh.

Cái tát bất ngờ

Tuy nhiên, đang say sưa trong men chiến thắng, vụ công an bắt bà Nguyễn Thị Hương Lan – Cục trưởng Cục Lãnh sự đã như một “cái tát” vào mặt ngành ngoại giao Việt Nam. Thực tế cho thấy, những âm mưu bẩn thỉu, những trò chơi tham nhũng vẫn còn đó, mà vụ bắt bà Lan chỉ mới là phần nổi của tảng băng chìm đối với tình trạng tham nhũng trong Bộ Ngoại Giao.

Tham nhũng trong bộ máy công quyền Việt Nam, được gọi bằng cái tên mỹ miều là “lợi ích nhóm” đã tồn tại từ rất lâu và rất sâu trong toàn bộ hệ thống chính trị Việt Nam, mà Bộ Ngoại Giao cũng không là ngoại lệ.

Người ta đã bàn tán từ lâu, mỗi một chức vụ trong các cơ quan ngoại giao đều có “giá” của nó. Từ các vị trí Vụ phó, Vụ trưởng đến các chức vụ Cục trưởng, Thứ trưởng đều có “giá” cụ thể. Các cơ quan đại diện tại nước ngoài cũng vậy, phải “chạy” mới được đi chỗ “ngon”, “nước giàu”. Từ đó mới “ra nhà, ra đất”, chứ không thì “đói thối mồm”.

Trong đợt Đại dịch COVID-19 vừa qua, “quyền lực” của cơ quan ngoại giao rất lớn trong việc quyết định danh sách những công dân Việt Nam đang ở nước ngoài, được nằm trong danh sách hồi hương trên những chuyến bay “giải cứu”. Và những lợi ích phát sinh từ quyền lực này đã dẫn đến việc bà Cục trưởng Cục lãnh sự cùng ba thuộc cấp phải “xộ khám”.

Những người quan tâm có thể đặt một câu hỏi: Nếu như nhiều quan chức ngoại giao “cần tiền” như thế thì việc tình báo Trung Quốc xâm nhập cơ quan ngoại giao Việt Nam sẽ không khó. Vì tình báo Trung Quốc sẵn sàng chi rất nhiều tiền để mua thông tin cũng như tạo ra những cách để chi phối đến chính sách đối ngoại của Việt Nam. Sẽ có những người bênh vực ngành ngoại giao nói rằng, đây chỉ là hoạt động “kiếm sống” của nhân viên ngoại giao nói chung, vì ngành ngoại giao rất đặc thù nhưng thu nhập lại rất ít ỏi, lãnh lương như tất cả các cán bộ công chức Việt Nam khác, nhưng sinh hoạt tại các cơ quan đại diện nước ngoài thì phải trả bằng ngoại tệ, nhưng các nhân viên ngoại giao này biết nên “ăn tiền” ở đâu để tránh khỏi bị tình báo nước ngoài mua chuộc. Thế nhưng, đã gọi là tình báo thì các biện pháp mua chuộc và xâm nhập là vô cùng đa dạng và phong phú, dễ gì các nhân viên “hám tiền” lại thoát được cơ chứ.

Bốn lãnh đạo Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao vừa bị khởi tố và bắt giam về tội nhận hối lộ. RFA edit

Số phận hẩm hiu của ông Nguyễn Cơ Thạch

Câu chuyện tham nhũng của bà Lan cũng cho thấy vai trò của ngành ngoại giao chưa được đặt đúng mực trong hệ thống chính trị Việt Nam. Trong ba Bộ liên quan đến việc hoạch định chính sách đối ngoại, bao gồm: Bộ Quốc Phòng, Bộ Công An và Bộ Ngoại Giao thì Bộ Ngoại Giao xếp hàng chót. Ngoại trưởng Việt Nam hiện nay còn chưa được vào Bộ Chính Trị trong khi Bộ trưởng Quốc Phòng và Bộ trưởng Công An luôn là Uỷ viên Bộ Chính Trị. Lương của ngành công an và quân đội cao nhất trong bộ máy công chức Việt Nam, còn ngành ngoại giao thì lương không đủ sống, nên anh em phải đi “kiếm thêm”.

Chưa kể đến việc trong quan hệ với Bắc Kinh, ngành ngoại giao luôn bị gạt ra khỏi những quyết định quan trọng ảnh hưởng đến vận mệnh đất nước.

Phóng viên Huỳnh Phan (Tên thật là Hoàng Ngọc) có nhiều tư liệu về một nhân vật tài năng ngoại giao, đó chính là Cố Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch. Những năm  đầu 1990, vì Trung Quốc “không ưa” ông Thạch, nên Hội nghị Thành Đô, ông Thạch đã không được tham dự và không được cung cấp thông tin.  GS.TS Vũ Dương Huân – Người đã từng giữ chức vụ Giám đốc Học viện Ngoại giao, nguyên Trưởng ban Nghiên cứu Lịch sử Ngoại giao, cho biết: “Khoảng 2-3 tháng trước Đại hội VII (6/1991) có rộ lên tin tức là Trung Quốc đang tìm cách hạ bệ ông Thạch vì ông chống Trung Quốc. Nhưng thực tế là ông chủ trì Nghị quyết XIII, mà một trong những nội dung quan trọng là giải quyết vấn đề Campuchia và bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Để nói về giai đoạn lịch sử này, chúng ta cũng có thể dùng câu nói của ông là “thực tiễn sẽ trả lời.” (1)

Bộ trưởng Ngoại giao VN Nguyễn Cơ Thạch gặp Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain ở DC hôm 17/10/1990. AP

Tuy nhiên, có những góc khuất đằng sau những trang báo chính thống. Chính vì vậy, sau này phóng viên Huỳnh Phan có đưa lên Facebook của mình những lời kể về bài báo viết về ông Nguyễn Cơ Thạch của mình nhưng bị ngăn không cho đăng báo. Huỳnh Phan trích dẫn lời của GS.TS Vũ Dương Huân cho biết: “quan điểm của Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch là muốn bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, nhưng Việt Nam phải bảo vệ được quyền lợi dân tộc của mình…” “Nguyên Bộ trưởng Nguyễn Dy Niên, lúc đó là Trưởng đoàn Đàm phán cấp chuyên viên chuẩn bị cho cuộc gặp Thành Đô (3-4/9/1990), nói rằng quan điểm của Việt Nam là trước bàn về bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, sau đó mới bàn về vấn đề Campuchia. Nhưng Trung Quốc phản đối, đòi làm ngược lại.”

“Hai bên cãi nhau suốt hơn một ngày, cuối cùng tôi phải điện về nước xin ý kiến. Lãnh đạo cấp cao đã nhượng bộ với quan điểm của Trung Quốc”, nguyên Bộ trưởng Nguyễn Dy Niên nói. Khi sắp đến Hội nghị Thành Đô, Đặng Tiểu Bình đã đánh tiếng với lãnh đạo chóp bu của Việt Nam, thông qua Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Lào Kaysone Phomvihane thăm Trung Quốc, rằng Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch “có ý đồ gây rối”. Vì quá muốn bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, TBT Nguyễn Văn Linh đã đồng ý không để Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch tham dự phái đoàn, mà chỉ cho Thứ trưởng Đinh Nho Liêm tham dự.

“Phía Trung Quốc biết rất rõ Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch là một nhà đàm phán rất giỏi từ Hội nghị Geneva về Lào (1961-1962), đến Hội nghị Paris ( giai đoạn 1972-1973), nên nếu ông tham gia Hội nghị Thành Đô, Trung Quốc khó ép Việt Nam phải chấp nhận Giải pháp Đỏ. Chính họ đã gây chia sẽ trong nội bộ cấp cao của chúng ta”, nguyên Bộ trưởng Nguyễn Dy Niên đoán chắc.

Một nhà ngoại giao rất có tài năng của Việt Nam như ông Nguyễn Cơ Thạch nhưng trước sự “can thiệp” của “thiên triều”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sẵn sàng “hy sinh” nhà ngoại giao tài năng này để làm đẹp lòng Bắc Kinh. Nói thế để hiểu vai trò của ngành ngoại giao ở Việt Nam như thế nào.

Câu chuyện ông Trọng đi Bắc Kinh

Năm 2011, khi ông Nguyễn Phú Trọng mới đắc cử Tổng Bí thư, đã có ngay chuyến đi ra mắt “thiên triều”. Để tạo dấu ấn ngoại giao cho Tân Tổng Bí thư, Bắc Kinh đã cho người soạn sẵn bản Thoả thuận về những nguyên tắc giải quyết tranh chấp trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc (2). Điều đáng nói là văn bản này hoàn toàn do Trung Quốc soạn thảo trước, phía Việt Nam chỉ có thể ký vào mà thôi. Thậm chí mấy chuyên gia về luật quốc tế của Bộ Ngoại giao Việt Nam muốn vào theo để tham gia đàm phán những điều khoản bảo vệ lợi ích của Việt Nam thì bị đuổi ra ngoài, với lý do đây là do hai Đảng Cộng sản quyết định, không có chỗ cho Bộ Ngoại giao chen vào. Chính vì vậy, sau này Thoả thuận này giữa bản tiếng Trung và bản tiếng Việt có một số khác biệt. Bản tiếng Trung ở Điều 4 khẳng định là hai quốc gia sẽ tìm kiếm giải pháp bằng cách “gác tranh chấp cùng khai thác”, còn bản tiếng Việt thì ghi là “hợp tác cùng phát triển”. Điều này cho thấy vai trò của ngoại giao bị lép vế trước cơ quan ngoại giao của Đảng, mà nhiều khi chính vì vậy, các văn bản mà Đảng cộng sản Việt Nam ký kết với Đảng cộng sản Trung Quốc đã đưa Việt Nam vào thế bất lợi trên rất nhiều lĩnh vực.

Kết luận

Với những “điểm nghẽn” về chế độ đãi ngộ cũng như vai trò tham gia hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam như vậy thì dù ngành ngoại giao Việt Nam có nhiều người tài giỏi đến mấy cũng chỉ có thể “múa tay trong bị” được mà thôi. Vì thế, có khi thời gian tới, người dân Việt Nam lại khám phá thêm được nhiều “thành tích đen tối” của ngoại giao Việt Nam khi chính các cơ quan công quyền khui ra thêm nhiều vụ “ăn bẩn” khác. Cứ như thế liệu thái độ chống cường quyền Bắc Kinh là thật hay lại là các bên diễn trò đây?

_____________

Tham khảo:

  1. https://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/doithoai/30-nam-doi-moi-nhin-tu-nganh-ngoai-giao-ong-nguyen-co-thach-co-phai-la-nguoi-chong-trung-quoc-322982.html
  2. https://nhandan.vn/theo-dong-thoi-su/thoa-thuan-ve-nhung-nguyen-tac-co-ban-chi-dao-giai-quyet-van-de-tren-bien-giua-nuoc-cong-hoa-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-va-nuoc-cong-hoa-nhan-dan-trung-hoa-178255/

Tuyên truyền và hệ thống tự hoại!

Tuyên truyền và hệ thống tự hoại!

Bởi  AdminTD

 Blog VOA

Trân Văn

4-2-2022

Thánh lễ tiễn đưa Linh mục Trần Ngọc Thanh, do Giám mục Giáo phận Kon Tum chủ tế, diễn ra tại Nhà nguyện Plei Đôn, thuộc Giáo xứ Kon Rơbang, Giáo hạt Kon Tum, vào ngày 30/1/2022. Nguồn: Giáo phận Kon Tum

Cuối cùng, công an cũng cung cấp thông tin cho hệ thống truyền thông chính thức loan báo rộng rãi về án mạng xảy ra tại thôn Giang Lố 2, xã Saloong, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum mà nạn nhân là linh mục Trần Ngọc Thanh, 41 tuổi (1)…

Ngày 29 tháng 1 năm 2022, linh mục Thanh đến một nhà nguyện ở Saloong để thực hiện bí tích giải tội cho những người có nhu cầu hòa giải với Thượng đế và đồng loại trước thềm năm mới… Thế rồi ông Nguyễn Văn Kiên, 33 tuổi, đột nhiên xông vào, chém vô đầu linh mục Thanh hai lần. Sau đó, ông Kiên xoay qua tìm chém một tu sĩ ở gần đấy nhưng nạn nhân kịp dùng ghế đón đỡ (2)… Linh mục Thanh bị chém vỡ sọ nên không thể vượt qua được tình trạng nguy kịch!

Có một điểm đáng chú ý là khác với những án mạng từng xảy ra tại Việt Nam, cả công an lẫn hệ thống truyền thông chính thức im bặt, không đề cập gì đến sự kiện một linh mục Công giáo bị giết khi đang thực hiện mục vụ, cho dù đó rõ ràng là biến cố nghiêm trọng cả về tính chất lẫn mức độ. Thiên hạ chỉ biết tin này nhờ mạng xã hội và một số trang web có liên quan đến Công giáo… Đó cũng là lý do rất nhiều người suy đoán theo hướng, án mạng có sự sắp xếp…

Thiên hạ kể với nhau, rằng ông Trần Ngọc Thanh không phải là linh mục Công giáo đầu tiên bị tấn công. Trước ông đã có ít nhất bốn linh mục khác bị hành hung trên đất Kon Tum (3), có người bị đâm lòi ruột nhưng may mắn thoát chết. Chẳng riêng linh mục, nam tu sĩ, ngay cả nữ tu cũng bị hệ thống công quyền lẫn… thường dân gần gũi chính quyền dọa dẫm, sách nhiễu (4). Không phải ngẫu nhiên mà người thiểu số ở khu vực Tây Nguyên trốn ra ngoại quốc xin tị nạn do bị đàn áp vì… theo Tin Lành!

***

Sự kiện linh mục Trần Ngọc Thanh bị giết khi đang thực hiện mục vụ không chỉ làm rúng động mạng xã hội Việt ngữ. Không ít trang facebook của các dòng tu, hội đoàn và tín đồ Công giáo trên thế giới đã loan báo sự kiện này kèm lời kêu gọi cầu nguyện. Chẳng hạn OP Laity East (trang facebook dành cho giáo dân tham gia các hội đoàn của Dòng Anh em Thuyết giáo mà người Việt thường gọi tắt là Dòng Đa Minh – gọi theo tên vị sáng lập đã được Việt hóa mà linh mục Trần Ngọc Thanh là một thành viên).

Từ những trang facebook như OP Laity East (5), sự kiện tiếp tục được chia sẻ rộng hơn cả ở phương diện cá nhân lẫn cộng đồng của nhiều quốc gia. Ví dụ, có thể thấy thông tin về chuyện linh mục Trần Ngọc Thanh bị giết trên OP Laity East tiếp tục được chia sẻ trên Humphreys Catholic Community – trang facebook của cộng đồng Công giáo ở Humphreys, một căn cứ của quân đội Mỹ tại Nam Hàn (6). Rồi các thành viên của Humphreys Catholic Community lại chia sẻ thêm cho nhiều người, nhiều giới khác…

Có rất nhiều cá nhân không phải người Việt, chưa từng nghe ông Nguyễn Phú Trọng – Tổng Bí thư đảng CSVN khoe về thành tựu… dân chủ ở Việt Nam. Có rất nhiều cá nhân không phải người Việt nếu đã nghe thì cũng chẳng nhớ hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam đã nói những gì về… thăng tiến nhân quyền, về… tiến bộ của tự do tôn giáo, về… sự ổn định tại Việt Nam. Song theo logic về tâm lý, họ sẽ nhớ rất kỹ và khi đề cập tới Việt Nam, họ sẽ nhắc rất nhiều người về chuyện linh mục Thanh bị giết!

Chưa có bất kỳ bằng chứng nào về chuyện linh mục Trần Ngọc Thanh là nạn nhân của một âm mưu. Cho dù sự im lặng của hệ thống truyền thông chính thức tại Việt Nam về án mạng này hết sức khác thường nhưng khả năng các cơ quan truyền thông chính thức bị chỉ đạo phải… “ngậm tăm” không lớn. Kẻ viết bài này tin rằng, chính cách quản lý, lối hành xử của hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam mới là lý do khiến hệ thống truyền thông chính thức chủ động… “ngậm tăm”, tránh rắc rối.

Cách nay khoảng hai tuần, khi gặp gỡ báo giới trước thềm năm mới, ông Nguyễn Văn Nên – Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư TP.HCM, nhắc báo giới phải độc lập, phải tránh bốn đặc điểm là… bầy đàn, khuôn mẫu, ỷ lại và đổ lỗi (7).

Tại sao báo giới Việt Nam lại mang bốn đặc điểm mà ông Nên cảnh báo cần tránh? Nếu sự độc lập của báo giới được tôn trọng, chắc chắn sẽ không thiếu thông tin về những sự kiện như linh mục Trần Ngọc Thanh bị giết, hay hệ thống chính trị, hệ thống công quyền ở Tây Nguyên xâm hại các quyền căn bản của con người, chà đạp tự do tôn giáo và tất nhiên không gây hoài nghi, rằng có âm mưu nào phía sau các sự kiện hay không! Còn xác định báo giới là công cụ tuyên truyền và ép buộc nhắm mắt, bịt tai để tuyên truyền theo mục tiêu, bất chấp thực tại, bất kể nhân tâm, dân ý thì “công tác tuyên truyền” đâu có khác gì quảng cáo cho hoạt động tự hoại.

Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa sau 1.000 năm Bắc thuộc?

Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa sau 1.000 năm Bắc thuộc?

Tác giả: Nguyễn Hải Hoành

Tiếng ta còn thì nước ta còn!

Đồng hóa dân tộc (national assimilation) gồm: 1- Đồng hóa tự nhiên, tức quá trình dân tộc A trong giao tiếp với dân tộc B, do chịu ảnh hưởng lâu dài của B mà A tự nhiên dần dần mất bản sắc của mình, cuối cùng bị B đồng hóa; đây là một xu hướng tự nhiên trong tiến trình lịch sử loài người. 2- Đồng hóa cưỡng chế: sự cưỡng bức một dân tộc nhỏ yếu hơn chấp nhận ngôn ngữ, chữ viết, phong tục, tập quán của một dân tộc lớn mạnh hơn; đây là một tội ác.

Đồng hóa dân tộc chủ yếu diễn ra dưới hình thức đồng hóa văn hóa, trong đó chủ thể đồng hóa thường là một nền văn hóa mạnh và tiên tiến (như đông dân hơn, kinh tế phát triển hơn, đã có chữ viết, có các hệ tư tưởng), đối tượng đồng hóa thường là nền văn hóa yếu và lạc hậu hơn. Đồng hóa ngôn ngữ là công cụ đồng hóa văn hóa thông dụng nhất, quan trọng nhất, hiệu quả nhất. Một dân tộc bị mất tiếng nói mẹ đẻ của mình và phải nói tiếng của một dân tộc khác thì không còn giữ được bản sắc dân tộc nữa.

Trong lịch sử, các nền văn hóa yếu thường bị nền văn hóa mạnh đồng hóa. Thời cổ, Trung Quốc là quốc gia đông người nhất và có nền văn minh tiên tiến nhất châu Á. Nền văn hóa Hán ngữ của họ có sức đồng hóa rất mạnh. Dân tộc Hồi ở phía Tây nước này, ngày xưa dùng chữ A Rập, sau nhiều năm giao lưu với người Hán cũng toàn bộ dùng chữ Hán và nói tiếng Hán. Ngay cả các dân tộc nhỏ nhưng mạnh về quân sự, sau khi thôn tính và thống trị Trung Quốc được ít lâu cũng bị nền văn hóa Hán ngữ đồng hóa.

Thí dụ dân tộc Mãn sau khi chiếm Trung Quốc và lập triều đại nhà Thanh đã lập tức tiến hành đồng hóa dân tộc Hán: cưỡng bức đàn ông Hán phải cạo nửa đầu và để đuôi sam, phải bỏ chữ Hán mà chỉ dùng chữ Mãn làm chữ viết chính thức trên cả nước. Nhưng đến giữa đời Thanh, tức sau khoảng 100 năm thì tiếng Mãn cùng chữ Mãn đều biến mất, từ đó trở đi người Mãn chỉ dùng tiếng Hán và chữ Hán, nghĩa là họ lại bị đồng hóa ngược bởi chính nền văn hóa của dân tộc bị họ cai trị lâu tới 267 năm!

Các nước đế quốc thực dân sau khi chiếm thuộc địa đều cưỡng chế đồng hóa ngôn ngữ dân bản xứ, quá trình này diễn ra khá nhanh, nhìn chung sau 5-6 thế hệ (mỗi thế hệ 25 năm), tiếng nói của người bản xứ đã bị thay bằng ngôn ngữ của nước cai trị. Đầu thế kỷ XV, Brazil bị Bồ Đào Nha chiếm, chẳng bao lâu tiếng Bồ trở thành ngôn ngữ chính thức duy nhất của người Brazil. Nhiều thuộc địa Pháp ở châu Phi như Bénin, Togo, Sénegan… dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính duy nhất. Năm 1918 nước ta bắt đầu dạy tiếng Pháp ở lớp cuối tiểu học, 10-20 năm sau toàn bộ học sinh trung học cơ sở trở lên đến trường đã chỉ nói tiếng Pháp, giáo viên chỉ giảng dạy bằng tiếng Pháp. Nếu cứ thế dăm chục năm nữa thì có lẽ Việt Nam đã trở thành nước nói tiếng Pháp.

Thế nhưng sau hơn 1.000 năm bị bọn phong kiến người Hán thống trị và cưỡng bức đồng hóa, dân tộc Việt Nam vẫn không bị Hán hóa, vẫn giữ nguyên được nòi giống, tiếng nói và phong tục tập quán.

Đây quả là một điều kỳ diệu có lẽ chưa dân tộc nào khác làm được. Đáng tiếc là chưa thấy nhiều người quan tâm nghiên cứu vấn đề này, một thành tựu vĩ đại đáng tự hào nhất của dân tộc ta (nói cho đúng là của tổ tiên ta thôi, còn chúng ta bây giờ thua xa các cụ).

Vì sao tổ tiên ta có thể làm được kỳ tích ấy ? Có người nói đó là do dân ta giàu tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc, xã hội có cơ chế làng xã bền chặt, v.v… Nói như vậy có lẽ còn chung chung, nếu đi sâu phân tích tìm ra được nguyên nhân cụ thể thì sẽ giúp ích hơn cho việc phát huy các truyền thống quý báu của dân tộc ta. Thực tế cho thấy tổ tiên ta giành được thắng lợi chống đồng hóa không phải bằng đấu tranh vũ trang mà chủ yếu bằng tài trí.

Xin nói thêm rằng chính người Trung Quốc cũng rất quan tâm vấn đề này. Chúng tôi đã thử nêu lên mạng Bách Độ (Baidu) của họ câu hỏi “Vì sao Trung Quốc thống trị Việt Nam hơn 1.000 năm mà Việt Nam không bị đồng hóa?”

Từ hàng triệu kết quả, có thể thấy đa số dân mạng Trung Quốc đều có chung một thắc mắc lớn: Vì sao bị Trung Quốc thống trị lâu thế mà người Việt Nam vẫn không nói tiếng Trung Quốc? Nói cách khác, họ coi đồng hóa ngôn ngữ là tiêu chuẩn đồng hóa quan trọng nhất và đều thừa nhận Trung Quốc đã không đồng hóa nổi Việt Nam. Họ tỏ ra tiếc nuối về sự kiện Việt Nam sau hơn 10 thế kỷ từng là quận huyện của Trung Quốc, từng dùng chữ Hán hàng nghìn năm mà rốt cuộc lại trở thành một quốc gia độc lập, dùng chữ Latin hóa, ngày nay là nước chống lại mạnh nhất chính sách xâm lấn Biển Đông của Bắc Kinh.

Do hiểu biết Việt Nam rất ít, thậm chí hiểu sai, hầu hết dân mạng Trung Quốc không tìm được lời giải thắc mắc trên, kể cả người tỏ ra am hiểu lịch sử nước ta. Họ nêu các lý do:

– Văn hóa Việt Nam có trình độ Hán hóa cao(?), người Việt rất hiểu và không phục Trung Quốc;

– Việt Nam ở quá xa Trung nguyên, khí hậu nóng, quan lại người Hán ngại sang Việt Nam làm việc, đã sang thì chỉ lo làm giàu, không lo đồng hóa dân bản xứ;

– Các nhân vật tinh hoa Trung Quốc như Lưu Hy, Hứa Tĩnh, Hứa Từ, Viên Huy (劉熙、許靖、許慈、袁徽) chạy loạn sang Việt Nam đã giúp nước này có nền văn hóa không kém Trung Quốc;

– Người Hán di cư đến Việt Nam đều bị người bản xứ đồng hóa v.v…

Nói chung họ đều chưa thấy, hay cố ý lờ đi nguyên nhân chính là ở tài trí của người Việt.

Nhưng họ nói người Việt Nam hiểu Trung Quốc là đúng. Do sớm hiểu rõ ý đồ thâm hiểm của phong kiến người Hán muốn đồng hóa dân tộc ta nên tổ tiên ta đã kịp thời đề ra đối sách. Cụ thể là đã tìm ra cách giữ gìn được tiếng nói của dân tộc mình trong quá trình bị bọn thống trị người Hán cưỡng bức học chữ Hán.

Mấy nghìn năm sau, một học giả lớn của dân tộc ta tóm tắt bài học lịch sử này trong một câu nói rất chí lý: “Tiếng ta còn thì nước ta còn!

Sau khi chiếm nước ta (203 tr. CN), Triệu Đà đã ép buộc dân ta học Hán ngữ, nhằm đồng hóa họ bằng ngôn ngữ. Có lẽ đây là thời điểm muộn nhất chữ Hán vào nước ta.[1] Sách “Việt giám Thông khảo Tổng luận” do Lê Tung viết năm 1514 có chép việc họ Triệu mở trường dạy người Việt học chữ Hán.[2] Về sau, tất cả các triều đại người Hán cai trị Việt Nam đều thi hành chính sách đồng hóa. Triều nhà Minh còn tìm cách tiêu diệt nền văn hóa của ta, như tiêu hủy toàn bộ các thư tịch do người Việt viết, bắt nhân tài, thợ giỏi người Việt sang Trung Hoa phục dịch.

Như vậy, dân tộc ta buộc phải chấp nhận học chữ Hán từ rất sớm (trước Triều Tiên, Nhật Bản nhiều thế kỷ). Do hiểu biết người Hán nên tầng lớp tinh hoa người Việt đã nhanh chóng nhận ra nếu cứ học như thế thì cuối cùng tiếng Việt sẽ bị thay bằng tiếng Hán, dân ta sẽ trở thành một bộ phận của Trung Quốc.

Vậy cha ông ta đã dùng cách nào để giữ được tiếng nói của dân tộc trong hơn 1.000 năm bị cưỡng bức học và dùng chữ Hán cũng như phải tiếp thu nhiều yếu tố của nền văn minh Trung Hoa?

Vấn đề này rất cần được làm sáng tỏ để từ đó hiểu được truyền thống quý báu của dân tộc ta. Dưới đây chúng tôi xin mạo muội góp vài ý kiến nông cạn, nếu có sai sót mong quý vị chỉ bảo.

Đọc chữ Hán bằng tiếng Việt: Một sáng tạo xuất sắc của tổ tiên ta

Chữ viết hình vuông là một phát minh lớn của nền văn minh Trung Hoa, được người Hán chính thức sử dụng từ đời nhà Thương (thế kỷ 16 đến 11 tr. CN), ngày nay phổ biến được gọi là chữ Hán.

Thực ra trong hơn 2.000 năm kể từ ngày ra đời, thứ chữ viết ấy chỉ được người Hán gọi là chữ  (tự) hoặc văn tự 文字. Đến đời Đường (thế kỷ VII) cái tên 漢字 (Hán tự, tức chữ Hán) mới xuất hiện lần đầu trong sách Bắc Sử 北史 do Lý Diên Thọ biên soạn.[3] Sau đó người Nhật và người Triều Tiên cũng gọi thứ chữ này là Hán tự: tiếng Nhật đọc Kanji, tiếng Triều Tiên đọc Hantzu. Cho tới nay Bộ Giáo dục Đài Loan vẫn chỉ gọi là Quốc tự 國字.

Vì thứ chữ ấy khi vào Việt Nam còn chưa có tên nên tổ tiên ta bèn đặt cho nó cái tên là chữ Nhovới ý nghĩa là chữ của người có học, bởi lẽ Nho  là từ dùng để gọi những người có học. Dân ta gọi người dạy chữ là thầy đồ Nho, bút và mực họ dùng để viết chữ là bút Nho và mực Nho.[4]

Đây quả là một điều độc đáo, bởi lẽ Hán ngữ xưa nay chưa hề có khái niệm chữ Nho; tất cả từ điển Hán ngữ cổ hoặc hiện đại và các từ điển Hán-Việt đều không có mục từ Nho tự 儒字 với ý nghĩa là tên gọi của chữ Hán.

Có thể suy ra: Việt Nam thời xưa không có chữ viết (hoặc đã có chữ Việt cổ nhưng chưa hoàn thiện, chưa diễn tả được các khái niệm trừu tượng), vì thế khi tiếp xúc với chữ Hán, tầng lớp tinh hoa của tổ tiên ta đã nhận thấy đây là một phương tiện cực kỳ hữu ích dùng để truyền thông tin được xa và lâu, không bị hạn chế về khoảng cách và thời gian như cách truyền thông tin bằng tiếng nói, do đó họ đã sớm nghĩ tới việc mượn thứ chữ này làm chữ viết của dân tộc ta.

Muốn vậy dân ta phải biết chữ Hán, một thứ ngoại ngữ. Làm cho dân chúng học và dùng được một ngoại ngữ là việc hoàn toàn bất khả thi ở thời ấy. Hơn nữa chữ Hán cổ khó đọc (vì không biểu âm), khó viết (vì có nhiều nét và cấu tạo phức tạp), khó nhớ (vì có quá nhiều chữ), thuộc loại chữ khó học nhất trên thế giới.

Nói chung, mỗi chữ viết đều có một âm đọc; không ai có thể xem một văn bản chữ mà không vừa xem vừa đọc âm của mỗi chữ (đọc thầm hoặc đọc thành tiếng). Mỗi chữ Hán đều có một âm tiếng Hán; muốn học chữ Hán tất phải đọc được âm của nó. Viết chữ Hán khó, tuy thế tập nhiều lần sẽ viết được, nhưng do khác biệt về hệ thống ngữ âm, người Việt nói chung khó có thể đọc được các âm tiếng Hán.

Ngoài ra Trung Quốc là một nước rộng lớn, đông dân; cho tới trước nửa cuối thế kỷ 20 cả nước vẫn chưa thống nhất được âm đọc của chữ. Loại chữ này chỉ thể hiện ý nghĩa, không thể hiện âm đọc, cho nên nhìn chữ mà không biết cách đọc. Người dân các vùng xa nhau thường đọc chữ Hán theo âm khác nhau, thậm chí khác xa nhau, vì thế thường không hiểu nhau nói gì. Các thứ tiếng địa phương ấy ta gọi là phương ngữ, người Hán gọi là phương ngôn (方言); Hán ngữ hiện có 7 phương ngữ lớn, nhiều phương ngữ nhỏ (次方言).

Không thống nhất được âm đọc chữ Hán là một tai họa đối với người Hán. Với người nước ngoài học chữ Hán cũng vậy: khi mỗi ông thầy Tàu đọc chữ Hán theo một âm khác nhau thì học trò khó có thể học được thứ chữ này.

Để có thể học được chữ Hán mà không cần đọc âm tiếng Hán, tầng lớp tinh hoa của tổ tiên ta đã sáng tạo ra một giải pháp xuất phát từ ý tưởng: nếu người Hán khác vùng có thể tự đọc chữ Hán theo âm riêng của vùng, thì ta cũng có thể đọc chữ Hán theo âm riêng của người Việt.

Muốn vậy, mỗi chữ Hán được tổ tiên ta quy ước đọc bằng một (hoặc vài, tùy chữ Hán gốc) âm tiếng Việt xác định có gốc là âm chữ Hán — ngày nay gọi là âm Hán-Việt, nghĩa là mỗi chữ Hán đều được đặt cho một (hoặc vài) cái tên tiếng Việt xác định, gọi là từ Hán-Việt.

Thí dụ chữ  được đặt tên là chữ Thủy, âm đọc thủy khác với âm đọc shuẩy của người Hán. Chữ , tiếng Hán đọc sưa, ta đọc sắcThủy và Sắc là từ Hán-Việt, cũng là âm Hán-Việt của .

Âm/từ Hán-Việt được chọn theo nguyên tắc cố gắng bám sát âm Hán ngữ mà tổ tiên ta từng biết.[5] Như chữ , âm Hán và âm Hán-Việt đều đọc chung, tức hệt như nhau; chữ , Hán ngữ đọc hái, ta đọc Hài, gần như nhau. Nhưng hầu hết chữ đều có âm Hán-Việt khác âm Hán. Như 集 âm Hán là chí, ta đọc Tập ;  giú, ta đọc Nho. Có chữ âm Hán như nhau mà âm Hán-Việt có thể như nhau hoặc khác nhau, như  và , âm Hán đều là thúng, từ Hán-Việt đều là Đồng ; nhưng  và , âm Hán đều là xi, lại có hai từ Hán-Việt khác nhau là Hệ và Tế. Chữ Hán có hai hoặc nhiều âm thì có thể có một, hai hoặc nhiều âm/từ Hán-Việt, như  có hai âm Hán là tâu và tu, lại chỉ có một âm/từ Hán-Việt là Đô ;  có hai âm Hán shảo và shao, cũng có hai âm/từ Hán-Việt là Thiểu (trong thiểu số) và Thiếu (trong thiếu niên).

Thứ chữ Hán đọc bằng âm Hán-Việt này được dân ta gọi là chữ Nho. Vì đọc chữ bằng tiếng mẹ đẻ nên chữ Nho trở nên dễ học đối với người Việt: chỉ cần học mặt chữ, nghĩa chữ và cách viết văn chữ Hán mà không cần học phát âm cũng như học nghe/nói tiếng Hán. Vì thế thời xưa ở nông thôn nước ta không hiếm người 6-7 tuổi đã biết chữ Nho.[6] Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) 12 tuổi đỗ Cử nhân, 16 tuổi đỗ Hoàng giáp (Tiến sĩ). Người không biết chữ cũng có thể học truyền miệng các tác phẩm ngắn có vần điệu, như Tam Thiên Tự.[7]

Người biết chữ Nho có thể xem hiểu các thư tịch chữ Hán, viết văn chữ Hán; tuy không nói/nghe được tiếng Hán nhưng vẫn có thể dùng bút đàm để giao tiếp bình thường với người Hán. Chỉ bằng bút đàm chữ Nho, Phan Bội Châu giao tiếp được với các nhà cải cách Trung Quốc và Nhật Bản, đưa được mấy trăm thanh niên Việt Nam sang Nhật học quân sự chính trị, chuẩn bị về nước đánh đuổi thực dân Pháp.

Cần nhấn mạnh: vì âm/từ Hán-Việt không thể ghi âm hầu hết từ ngữ tiếng Việt cho nên cách đọc chữ Hán theo âm Việt hoàn toàn không thể biến tiếng Việt thành một phương ngữ của Hán ngữ,[8] và dân ta vẫn hoàn toàn nói và nghe bằng tiếng mẹ đẻ.

Chữ Nho chỉ dùng để viết mà thôi, và chỉ được giới tinh hoa (trí thức và quan lại người Việt) dùng trong giao dịch hành chính, ngoại giao, lễ tiết, chép sử, giáo dục, thi cử, sáng tác văn thơ. Còn ở Trung Quốc, những người nói một trong các phương ngữ tiếng Hán đều có thể dùng chữ Hán để ghi âm được toàn bộ tiếng nói của phương ngữ ấy, nghĩa là họ có thể dùng chữ Hán để ghi âm tiếng mẹ đẻ.

Dĩ nhiên cách đọc tiếng Việt chỉ có thể làm với chữ Hán, là loại chữ biểu ý (ghi ý), chứ không thể làm với chữ biểu âm (ghi âm). Ngày nay âm/từ Hán-Việt của mỗi chữ Hán có thể dễ dàng viết ra bằng chữ Quốc ngữ (một loại chữ ghi âm), nhưng ngày xưa, khi chưa có bất kỳ loại ký hiệu nào ghi âm tiếng nói, tổ tiên ta chỉ có thể truyền khẩu. Thế mà lạ thay, việc dạy chữ Nho đã được mở rộng, ở thời Nguyễn là đến tận làng, có thể suy ra tỷ lệ người biết chữ Hán của dân ta cao hơn Trung Quốc!

Chỉ bằng cách truyền miệng mà người Việt thời xưa đã tạo ra được một bộ từ Hán-Việt tương ứng với bộ chữ Hán khổng lồ — bộ chữ này trong Tự điển Khang Hy (1716) có hơn 47 nghìn chữ; Tiêu chuẩn Nhà nước Trung Quốc GB18030 (2005) có 70.217 chữ; Trung Hoa Tự hải có 85.568 chữ Hán.

Quá trình tiến hành Việt Nam hóa phần ngữ âm của chữ Hán kéo dài trong hàng nghìn năm, là một thành tựu văn hóa vĩ đại. Có thể phỏng đoán đó là một quá trình mở, do nhiều thế hệ người Việt thực hiện, thể hiện sức sáng tạo bất tận của tổ tiên ta.

Nhật và Triều Tiên cũng mượn dùng chữ Hán, nhưng họ tự đến Trung Hoa nghiên cứu đem chữ Hán về dùng chứ không bị ép dùng từ sớm như ta. Họ cũng đọc chữ Hán theo âm bản ngữ của dân tộc mình — giải pháp do người Việt nghĩ ra và thực hiện trước họ nhiều thế kỷ.

Nhà ngôn ngữ học nổi tiếng Nguyễn Tài Cẩn nói: “Cách đọc Hán Việt là một tài sản của riêng dân tộc ta. Có dùng nó khi đọc Đạo đức kinh, Kinh Thi, Sở từ… thì mới phù hợp với thói quen dân tộc, tiện lợi cho dân tộc. Theo ý chúng tôi, dùng cách đọc Hán Việt ở những trường hợp này là một điều hết sức phù hợp với khoa học. Đọc theo lối Hán Việt thì dễ hiểu hơn, bởi lẽ ngay trong tiếng Việt đã có khá nhiều tiếng Hán Việt quen thuộc, chỉ đọc lên, nghe được, là hiểu được; đọc theo lối Hán Việt thì cũng thuận tai hơn… ”.[9]

Đúng thế. Thí dụ từ 社會, người Anh biết Hán ngữ đọc shưa huây, người Anh không biết Hán ngữ khi nghe âm đọc ấy sẽ chẳng hiểu gì; còn người Việt biết Hán ngữ đọc “xã hội”, người Việt không biết Hán ngữ nghe đọc sẽ hiểu ngay nghĩa của từ; âm “xã hội” thuận tai, dễ đọc dễ nhớ hơn âm shưa huây. Rõ ràng cách đọc Hán-Việt thật tiện lợi cho người Việt. Trong bài sau, chúng tôi sẽ nói thêm về vấn đề này.

Ngày nay mỗi chữ Hán trong tất cả các từ điển Hán-Việt đều phải ghi kèm từ Hán-Việt tương ứng. Hán-Việt Tự điển của Thiều Chửu có kèm Bảng tra chữ theo âm Hán-Việt, dùng tra chữ Hán rất tiện và nhanh hơn tra theo bộ thủ. Người có sáng kiến làm Bảng này là bà Nguyễn Thị Quy (1915-1992), em ruột Thiều Chửu, khi bà lần đầu xuất bản Tự điển nói trên tại Sài Gòn năm 1966.[10]

Như vậy, bằng cách đọc chữ Hán theo âm tiếng Việt, tổ tiên ta đã thành công trong việc mượn chữ Hán để dùng làm chữ viết chính thức của dân tộc mình và gọi nó là chữ Nho. Sự vay mượn này chẳng những không làm cho tiếng Việt bị biến mất mà còn làm cho nó phong phú hơn rất nhiều, trở thành một ngôn ngữ cực kỳ linh hoạt, có thể tiếp nhận và Việt hóa hầu như toàn bộ từ ngữ mới xuất hiện trong tiến trình phát triển của loài người toàn cầu.

Chữ Nho khác chữ Hán ở phần ngữ âm: nó là chữ Hán được đọc bằng âm tiếng Việt chứ không đọc bằng âm tiếng Hán như chữ người Hán dùng. Nói cách khác, chữ Nho là chữ Hán đã được Việt Nam hóa phần ngữ âm; còn về tự dạng và nghĩa chữ thì cơ bản như chữ Hán của người Hán. Vì thế có người gọi chữ Nho  chữ Hán-Việt.

Rõ ràng nó là chữ của người Việt Nam, đã Việt Nam hóa phần ngữ âm, không thể coi là chữ của người Hán. Chữ Nho là chữ viết chính thức của dân tộc ta trong hơn 2.000 năm, kể từ thời điểm muộn nhất là bắt đầu thời Bắc thuộc cho tới khi được thay thế bằng chữ Quốc ngữ cực kỳ ưu việt, được chính các nhà Nho tiên tiến tán thưởng và đi tiên phong ủng hộ sự phổ cập Quốc ngữ.

Cách đọc chữ Hán bằng âm/từ Hán-Việt đã đáp ứng nhu cầu giao tiếp bằng bút đàm giữa quan lại cấp thấp người Việt với quan lại cấp cao người Hán, khiến cho bọn thống trị người Hán vẫn thực thi được quyền lực cai trị dân bản xứ. Hơn nữa, cách đó làm cho việc phổ cập chữ Hán trong người Việt trở nên dễ dàng, tức đáp ứng yêu cầu dạy chữ Hán của các vương triều người Hán. Vì vậy chúng không còn lý do cưỡng chế dân ta phải học nghe/nói tiếng Trung Quốc.

Cách đọc chữ Hán như trên đã có tác dụng không ngờ là làm cho người Hán dù có cai trị Việt Nam bao lâu thì cũng không thể tiêu diệt nổi tiếng Việt và Hán hóa được dân tộc ta. Có thể là khi bắt đầu sáng tạo cách đọc ấy, tổ tiên ta chưa nghĩ tới điều đó, nhưng rốt cuộc sáng tạo xuất sắc này đã giúp dân tộc ta tránh được nguy cơ bị người Hán đồng hóa. Đây là một thành công vĩ đại!

Đáng tiếc là hiện không thấy có thư tịch nào ghi chép ai nghĩ ra và thời điểm nào xuất hiện cách đọc chữ Hán bằng âm/từ Hán-Việt. Có thể cho rằng sáng kiến đó ra đời khi chữ Hán bắt đầu vào nước ta, tức muộn nhất là khoảng thế kỷ 2 – 1 tr.CN.

Có ý kiến cho rằng cách đọc Hán-Việt bắt nguồn từ hệ thống ngữ âm tiếng Hán đời Đường, cụ thể là Đường âm dạy ở Giao Châu vào khoảng hai thế kỷ 8, 9.

Nếu hiểu ý kiến này theo nghĩa đến đời Đường mới xuất hiện cách đọc Hán-Việt thì e rằng khó có thể giải đáp câu hỏi: vậy thì trong thời gian khoảng ngót 1000 năm trước đó người Việt đọc chữ Hán bằng cách nào? Đến đời Đường, người Hán đã thống trị Việt Nam được hơn 9 thế kỷ, quá thừa thời gian để họ hoàn toàn đồng hóa người Việt bằng văn hóa, ngôn ngữ, khi ấy tiếng Việt đã bị biến mất, sao còn có thể xuất hiện cách đọc Hán-Việt?

Phải chăng nên hiểu ý kiến trên theo nghĩa: đến thời Đường, cách đọc Hán-Việt được hoàn thiện nhờ học tập Đường âm dạy ở Giao Châu vào khoảng thế kỷ 8 – 9.

***

Có thể kết luận: dân tộc Việt Nam tồn tại được và không bị đồng hóa sau hơn 1.000 năm chịu sự thống trị của một quốc gia liền kề có nền văn hóa lớn mạnh là nhờ đã phát huy bản lĩnh trí tuệ của mình, thể hiện ở chỗ sáng tạo được biện pháp đọc chữ Hán bằng tiếng Việt, qua đó đã vô hiệu hóa chủ trương đồng hóa ngôn ngữ của các triều đại phong kiến Trung Hoa.

Có những người Hán đã nhận ra bản lĩnh trí tuệ ấy của người Việt.

Năm 987, nhà Tống cử Lý Giác李覺 đi sứ sang Hoa Lư, Việt Nam, được hai vị Quốc sư Khuông Việt và Pháp Thuận đón tiếp, đàm phán các vấn đề quốc gia đại sự và họa thơ. Khi về nước, Lý Giác tặng vua Lê Đại Hành một bài thơ, trong có câu: “Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu 天外有天應遠照”, nghĩa là: “Ngoài trời này còn có trời khác, nên nhìn thấy”. Nói cách khác, thế giới này đâu phải chỉ có một mặt trời Trung Hoa mà còn có mặt trời Việt Nam!

Câu thơ cho thấy Lý Giác đã bước đầu nhận ra bản lĩnh trí tuệ của người Việt. Đúng thế, tổ tiên ta thật vô cùng tài giỏi, nếu không thì còn đâu giang sơn tươi đẹp này!

Nguyễn Hải Hoành là dịch giả và nhà nghiên cứu tự do hiện sống tại Hà Nội.

—————————

[1] Nói là “muộn nhất” vì còn có các quan điểm như: chữ Hán vào VN qua con đường giao thương hoặc truyền bá tôn giáo từ lâu trước khi nước ta bị Triệu Đà chiếm; VN đã có chữ viết từ đời Hùng Vương (Hoàng Hải Vân: Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động).

[2]宋代中越文学交流述 có câu 黎嵩越鑑通考總論 viết : 趙佗建立學校,導之經義。由此已降,四百余年,頗有似類” .

[3] Bài 汉字名称的来由 (http://blog.sina.com.cn) và một số bài khác có viết: Từ  Hán tự  漢字 xuất hiện sớm trong Bắc sử, quyển 9 [biên soạn xong năm 659]. 汉字一词早出自《北史》卷九本纪第九, “章宗一十八年,封金源郡王.习本朝语言小字汉字经书,进士完颜匡、司经徐孝美等侍读”. Từ Hán tự xuất hiện nhiều trong sách Kim sử 金史 (năm 1345) đời Nguyên. Ở đời nhà Thanh (1644-1911), thời kỳ đầu do chữ viết chính thức của chính quyền không phải là chữ Hán mà là chữ Mãn (满文) nên phải dùng tên gọi chữ Hán 漢字 để chỉ loại văn tự truyền thống của người Hán, nhằm phân biệt với chữ Mãn.

[4] Có ý kiến nói do thời bấy giờ thứ chữ đó được dùng để dạy dân ta học Nho giáo 儒教 nên dân ta gọi nó là chữ Nho. Nhưng Nho với nghĩa “người có học” xuất hiện trước rất lâu, sau đó mới dùng chữ ấy vào từ Nho giáo để gọi học thuyết của Khổng Tử. Cùng lý do ấy, chữ Khổng có trước khi Khổng Tử ra đời.

[5] Khó có thể biết đó là âm tiếng địa phương nào ở TQ. Trong đó có những âm tiếng Quảng Đông, như nhất, nhì, shập, học chập khi đọc các chữ  一,二,十,學習 (âm Hán-Việt đọc nhất, nhị, thập, học tập).

[6] Thí dụ Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) 8 tuổi học chữ Nho, 13 tuổi văn hay chữ tốt, 24 tuổi đậu Giải Nguyên, 28 tuổi đậu Đệ tam giáp Tiến sĩ. Phan Bội Châu (1867-1940) 6 tuổi học ba ngày đã thuộc lòng 1440 chữ Nho trong Tam Tự Kinh. Trần Gia Minh tác giả sách Huyền thoại Kim thiếp Vũ Môn 5-6 tuổi đã học chữ Nho truyền khẩu từ người ông mù lòa.

[7] Do nhà Nho Đoàn Trung Còn sáng tác, là một bài vè dài, mỗi câu hai âm, đọc lên có vần điệu dễ nhớ.

[8] Năm 1867, G. Aubaret trong cuốn Grammaire annamite từng sai lầm nhận định: “Tiếng bình dân nói trong vương quốc An Nam là một phương ngữ của tiếng Trung Quốc” (trích dẫn theo Phạm Thị Kiều Ly trong “Ghi âm tiếng Việt bằng chữ Quốc ngữ”, sách “Tiếng Việt 6”, Nxb Tri Thức, 2015).

[9] Nguyễn Tài Cẩn : Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt.

[10] Dẫn theo Lê Quốc Trinh, con trai bà Quy và là người trực tiếp tham gia làm Bảng tra này.