Những con số nóng mặt

Những con số nóng mặt

Lưu Trọng Văn

6-7-2022

Việc phổ cập giáo dục và miễn học phí đã được hiến định từ Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946, trong đó có quy định: “Nền sơ học cưỡng bách và không học phí…”; Hiến pháp những năm 1959, 1980 đều có quy định tương tự và còn cao hơn nữa.

Luật Giáo dục năm 2019, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2020, trong đó nêu rất cụ thể “giáo dục bắt buộc là giáo dục mà mọi công dân trong độ tuổi quy định bắt buộc phải học tập để đạt được trình độ học vấn tối thiểu theo quy định của pháp luật và được Nhà nước bảo đảm điều kiện để thực hiện.”

Vậy thì kiến nghị của TS Nguyễn Kim Sơn bộ trưởng GD&ĐT vừa trình chính phủ yêu cầu miễn phí cho học trò trung học cơ sở hệ quốc doanh là quá… quá ư là chậm trễ.

Có thể nói toẹt: Chậm trễ đến mức xấu hổ. Chậm trễ đến mức thấy quá xúc phạm lòng tự tôn của người Việt và của quốc gia mang tên cộng hoà XHCN.

Thước đo để một thể chế tự hào có mang tính XHCN hay không, bao giờ giáo dục cũng là chỉ số đầu tiên.

Vậy thì nền giáo dục của VN đang ở đâu nếu tính theo quyền học trò được miễn phí khi đến trường?

Theo TS Nguyễn Hồng Cổn thì:

Bảng thống kê thời lượng giáo dục bắt buộc (ứng với số năm học được miễn phí hoàn toàn) ở 171 nước trên thế giới, đăng trên trang NationMaster – một trang chuyên cung cấp số liệu thống kê và so sánh giữa các nước (xem link):

Xem kỹ cái bảng này thì thấy trong 171 nước có:

– 6 nước miễn phí 13 năm

– 9 nước miễn phí 12 năm

– 18 nước miễn phí 11 năm

– 35 nước miễn phí 10 năm

– 37 nước miễn phí 9 năm

– 17 nước miễn phí 8 năm

– 15 nước miễn phí 7 năm

– 27 nước miễn phí 6 năm

– 6 nước miễn phí 5 năm

– 1 nước miễn phí 4 năm

Như vậy Việt Nam xếp thứ 165/171 đồng hạng với 5 nước vào loại lạc hậu nhất thế giới đó là Pakistan, Banglades, Nepal, Myanma, Guinea có số năm miễn học phí ít nhất (5 năm), chỉ hơn một nước duy nhất là Angola (4 năm).

Không biết khi đưa ra kiến nghị miễn phí cho học sinh trung học cơ sở, ngài bộ trưởng GD&ĐT có gửi cho chính phủ và đặc biệt cho Quốc hội các số liệu tụt hậu ê chề đến nóng mặt dân Việt này không?

Mà nếu chỉ dân Việt nóng mặt thì có tác dụng gì cơ chứ?

THƯ KỸ SƯ NGUYỄN LÂN THẮNG GỬI CON GÁI

Nguyễn Kim Chi

Nguyễn Ngọc Nam Phong

THƯ KỸ SƯ NGUYỄN LÂN THẮNG GỬI CON GÁI

(Thư gửi bé Đậu)

Con thương yêu của bố.

Khi sinh con ra trên đời này thì bố mẹ đã đến tuổi có thể sắp có cháu, đó là một thiệt thòi rất lớn với con. Mẹ hay đùa là bố mẹ chỉ còn khoảng ba chục năm nữa ở bên con, biết làm sao được với số phận con nhỉ. Nhưng bố vẫn ngàn lần cảm ơn số phận đã mang con đến cho bố mẹ, bố chấp nhận những khó khăn không thể tránh khỏi khi mai này con lớn lên trong cảnh cha già con cọc. Chính vì thế bố muốn viết thư này cho con để mai sau, khi nhỡ ra con còn chưa hiểu việc đời mà bố đã đi xa thì đây là những dòng tâm tư để con hiểu được lòng bố.

Con được sinh ra trong hoàn cảnh xã hội rất rối ren, lòng người ly tán, đất nước bị xâm lăng. Gia đình mình vốn thuộc loại công thần trong xã hội miền Bắc, được nhiều người quyền cao chức trọng cũng như người dân nể trọng. Nếu xã hội vẫn bình bình như trước đây thì đó là một lợi thế mà chắc chắn con sinh ra sẽ được đủ đầy hơn mọi người. Nhưng than ôi, cái chế độ mà gia đình ta cũng như nhiều gia đình khác đổ cả máu và mồ hôi để phụng sự nó hàng chục năm về trước đã không còn vì đất nước, vì nhân dân nữa. Người ta đã phản bội tất cả những gì đã hứa với dân để vun vén cho quần thần, cho gia tộc của họ. Tham nhũng tràn lan, đạo đức băng hoại, tài nguyên kiệt quệ, công nhân làm đĩ, nông dân ăn mày, trí thức hạ mình, tổ quốc lâm nguy, nợ nước ngoài đến đời con chắc chắn chưa trả được.

Tất cả những điều đó là hậu quả của sự nói dối. Người ta nói dối để có nhiều người ủng hộ cách mạng cướp chính quyền. Người ta nói dối để dân tộc lao vào đánh nhau như quân thù hòng phục vụ mưu đồ của nước lớn. Người ta nói dối để giữ vững quyền lực sinh sát điều khiển xã hội muôn đời. Người ta nói dối để người dân tự hào trong vũng lầy nghèo đói. Kẻ nào dám thốt lên sự thật ngược ý họ thì không những bản thân mà gia đình sẽ khốn nạn. Thế rồi khi sống trong sự dối trá hơn nửa thế kỷ, cả xã hội dần quên đi những gì thuộc về quy luật của tự nhiên, đó là sự thật. Không có sự thật thì vĩnh viễn không cái gì có thể tồn tại và phát triển được. Cái cây muốn tồn tại được thì cái rễ phải lần tìm đến chỗ có nước, cái lá phải vươn đến ánh mặt trời. Sẽ ra sao nếu nó bị đánh lừa đến chỗ không có nước, không có nắng… con người cũng như vậy thôi con ơi.

Sự thật là điều kiện sống còn để mọi cơ thể sống trong tự nhiên hay cấu trúc xã hội phát triển. Mọi cơ thể sống thì phải có sự trao đổi chất, nếu thông tin phản hồi méo mó thì mọi cấu trúc sống sẽ không thể tự hấp thu hay loại bỏ những gì cần thiết trong quá trình tồn tại và phát triển. Xã hội loài người cũng vậy, và vì thế sự thật mới quan trọng đến nhường nào. Thế mà vì sự thật, đã bao người thức tỉnh vùng lên đấu tranh trong xã hội để rồi nhận lấy kết cục bi thảm khôn lường. Cũng có những người vì mạng sống của họ, vì gia đình của họ, họ phải chấp nhận sống chung với sự giả dối. Bố không trách họ vì quyền được sống của mỗi con người là tối cao, nhưng nếu cứ chấp nhận mãi như vậy thì hậu quả đã rõ ràng. Đó chỉ là cách sống mòn và thế hệ sau đã lãnh đủ.

Bố có thể có nhiều lựa chọn. Nếu chấp nhận cuộc sống giả dối, tung hô những điều dối trá, tận dụng những quan hệ và lợi thế sẵn có thì sẽ chả thiếu thứ gì. Rồi khi mai này đất nước tan hoang, ta có thể ra nước ngoài sinh sống không cần biết nước Việt ra sao. Rồi con sẽ được sống trong môi trường bình yên với những điều kiện giáo dục, y tế, văn hóa tốt nhất. Nhưng con ơi, không ai chọn được tổ quốc, không ai lựa được gia đình. Bố yêu con như thế nào thì bố cũng yêu mảnh đất này như thế. Bố không thể chấp nhận làm kẻ bỏ chạy mà phải chiến đấu bằng được để giữ mái nhà tổ quốc này cho con. Bố không thể nhởn nhơ sống cho riêng mình khi xung quanh toàn khổ đau và nước mắt. Đối với bố đó không phải là hạnh phúc. Bố ước gì con được sống trong một tương lai tốt đẹp hơn bố. Con được sống trong tình thân ái, trong niềm tin, niềm hân hoan và những thứ mà một con người đáng được hưởng.

Có thể bố sẽ thất bại. Có thể bố sẽ không được ở bên con ba mươi năm còn lại như dự tính. Nhưng dù thế nào bố cũng đã quyết định thế rồi, và nếu cuộc đời con gặp những khó khăn vì bố gây ra thì xin con hãy nhớ về một ông bố đã tuyệt vọng chiến đấu để con có cuộc sống hạnh phúc đích thực mà tha thứ cho bố.

Bố yêu con rất nhiều, bé Đậu tuyệt vời của bố!

Gia Tài Của Mẹ

Gia Tài Của Mẹ

Báo Tiếng Dân

Lê Minh Nguyên

2-7-2022

Tất cả những công trình vĩ đại do con người làm ra trên thế giới, từ vật chất như đường hầm dưới biển, cho tới tinh thần qua các tác phẩm văn chương nghệ thuật như truyện Kiều của Nguyễn Du, đều do sức tưởng tượng phong phú của trí tuệ con người mà ra.

Sự tưởng tượng đưa tới sự sáng tạo, và sự sáng tạo đưa tới sự hiện thực. Tiến trình này chỉ có thể thực hiện được khi mà tư tưởng được tự do, được bay bổng mà bầu trời là giới hạn. Muốn được vậy thì con người phải được sống trong môi trường tự do, nhất là tự do tư tưởng.

Trên phương diện văn học nghệ thuật, Việt Nam có ba nhạc sĩ lớn là Văn Cao, Phạm Duy và Trịnh Công Sơn.

Văn Cao thời tiền chiến chưa bị trói buộc về tư tưởng nên đã cho ra những tác phẩm tuyệt vời như Suối Mơ, Thiên Thai, Làng Tôi… Nhưng khi ở lại miền Bắc, sống dưới chế độ cộng sản thì tự do không còn nữa, ông tịt ngòi! Tựa như Hoàng Cầm qua tâm trạng Lá Diêu Bông, tức chiếc lá tự do mà ông không bao giờ tìm ra được, dù người ông yêu đã có chồng đến mấy mặt con.

Phạm Duy nhờ di cư vào Nam mà những tác phẩm của ông phong phú và tuyệt vời, bởi vì ông được sống trong môi trường tự do của miền Nam Việt Nam. Khi ông qua Mỹ cũng vậy, ông tiếp tục tự do sáng tác và say mê trong thế giới âm nhạc.

Trịnh Công Sơn ở miền Nam trước năm 1975, cũng như Phạm Duy, ông cho ra những tác phẩm phong phú, đánh động lòng người, phản ảnh được nỗi lòng của dân chúng là không thích chiến tranh, yêu chuộng hòa bình, giống như người dân Ukraine hiện nay. Chiến tranh gây ra là do miền Bắc đem hàng chục sư đoàn với chủ trương bạo lực cách mạng để thôn tính miền Nam. Nhưng sau tháng 4/1975, Trịnh Công Sơn ở lại Việt Nam và không còn nhạc phẩm nào có giá trị nữa.

Điều này cho thấy, một đất nước tự do sẽ tạo ra người tài giỏi, và một đất nước chỉ thực sự hùng mạnh khi mà mỗi con dân trong đất nước đó đều tài giỏi.

Đất nước hùng mạnh không phải là đất rộng, dân đông, tài nguyên phong phú, mà là năng lực của mỗi một người dân trong đất nước đó. Nhật, Anh, Thụy Sĩ, Đài Loan, Nam Hàn, Singapore… là những điển hình.

Ngày nay Việt Nam vẫn còn dưới chế độ độc tài cộng sản, một chế độ mà đã gần nửa thế kỷ có hoà bình vẫn còn sợ một bài ca phản chiến.

Một đất nước mà chính quyền không phải là bạn dân, lúc nào cũng sợ dân, coi dân như thù địch. Đó không phải là một đất nước thực sự ổn định.

Một đất nước mà đại khối quần chúng đều bị tịt ngòi không phát triển được năng lực để trở thành người tài giỏi. Ngay cả một nhóm tu hành nhỏ như Tịnh Thất Bồng Lai, được vài em bé có năng lực, thành công trên môi trường thế giới, cũng bị trù dập. Trong khi giai cấp lãnh đạo thì chỉ biết nịnh bợ, trung thành để thăng tiến và tham nhũng. Hậu quả là sau vài thập niên, giai cấp lãnh đạo càng ngày càng bất tài, càng tham ô, càng gia tộc hoá chính quyền, nên rất sợ quần chúng tài giỏi, vì nó đe dọa giai cấp ký sinh trùng của họ đang tàn phá cơ thể Việt Nam.

Một bên là giai cấp đè đầu cởi cổ nhưng bất tài vô tướng, chỉ biết tham nhũng và nhận giặc làm đại ca để chống lưng chế độ, và một bên là đại khối dân chúng bị kìm hãm năng lực phát triển, thì đúng như câu hát của Trịnh Công Sơn: Gia tài của Mẹ là nước Việt buồn!

 Nhà boạt động, blogger Nguyễn Lân Thắng bị bắt với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” (RFA)

 Nhà boạt động, blogger Nguyễn Lân Thắng bị bắt với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước”

RFA

2022.07.05

Nhà hoạt động Nguyễn Lân Thắng

 Facebook Nguyễn Lân Thắng

Nhà boạt động, blogger Nguyễn Lân Thắng vào ngày 5/7 bị bắt với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước.”

Truyền thông nhà nước Việt Nam đưa tin Công an thành phố Hà Nội đã bắt giữ nhà hoạt động- Facebooker Nguyễn Lân Thắng với cáo buộc “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Điều 117 của Bộ luật Hình sự. Lệnh khởi tố và bị bắt cũng được Viện Kiểm sát Nhân dân thành phố phê chuẩn.

Theo một người thân của gia đình, ông Nguyễn Lân Thắng bị bắt vào khoảng 8 giờ sáng khi đang trên đường đi uống cà phê sáng ở phường Thịnh Quang. Công an đưa ông đi luôn và sau đó quay lại khám xét nhà riêng của ông, tịch thu điện thoại, laptop và một số sách về nhân quyền.

Ông Thái Văn Đường, một người đang xin tị nạn chính trị tại Thái Lan, cho biết, ông có thời gian tham gia các cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội và một số lần bị cơ quan an ninh đưa về đồn công an cùng với ông Nguyễn Lân Thắng. Ông nói với RFA như sau:

“Nguyễn Lân Thắng là một người hoạt động khá tiêu biểu ở Việt Nam nói chung và ở Hà Nội nói riêng, một người đấu tranh trong phong trào dân chủ.

Anh Thắng ngoài hoạt động trên mạng xã hội còn có các hoạt động bên ngoài khá là nhiều. Không chỉ một mình tôi mà các anh em trong nước và báo đài quốc tế biết đến anh Thắng là một người hoạt động xuất sắc, không phải như những lời những người đánh phá nói anh Thắng thế này, thế kia.

Chỉ có những người từng tiếp cận, tiếp xúc với Nguyễn Lân Thắng rồi mới hiểu được tính cách và cái cách hoạt động của Nguyễn Lân Thắng.”

Ông Thái Văn Đường cho biết thêm, chính sách đàn áp của chính quyền Hà Nội ngày càng tinh vi, nếu như trước đây bắt chủ yếu những người mới lên tiếng trước bất công thì từ năm 2020, cơ quan an ninh chuyển hướng sang bắt nhiều nhà hoạt động kỳ cựu và sau đó tuyên các bản án nặng nề.

Bình luận về vụ bắt giữ nhà hoạt động, blogger Nguyễn Lân Thắng, ông Phil Robertson- Phó giám đốc phân ban Châu Á của tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) nói với Đài Á Châu Tự Do qua email:

“Cuộc đàn áp quá mức và không thể chấp nhận được của chính quyền Việt Nam đối với quyền tự do ngôn luận vừa khiến một nạn nhân khác phải đối mặt với phiên tòa xét xử bởi tòa án Kangaroo (phiên tòa xét xử thiếu bằng chứng) và nhiều năm tù giam vì nói ra suy nghĩ của mình. Ông Nguyễn Lân Thắng vận động cải cách dân chủ và công lý một cách ôn hoà nên cần được tôn trọng và lắng nghe hơn là đối mặt với loại đàn áp phi lý này. Các chính phủ trên khắp thế giới nên yêu cầu trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho ông Nguyễn Lân Thắng, đồng thời gây áp lực buộc Hà Nội phải ngăn chặn làn sóng lạm dụng này.”

Ông Phil Robertson nói thêm rằng ông không hiểu hoạt động cụ thể nào của ông Nguyễn Lân Thắng dẫn tới vụ bắt giữ như vừa nêu.

Ông Nguyễn Lân Thắng xuất thân từ một gia đình khoa bảng ở Hà Nội. Ông nội ông là giáo sư Nguyễn Lân, tác giả cuốn Từ điển tiếng Việt được sử dụng từ nhiều thập niên qua. Nhiều người con của cụ Nguyễn Lân là giáo sư, tiến sỹ, hoặc bác sỹ nổi tiếng của Việt Nam.

Ông Nguyễn Lân Thắng (sinh năm 1973) là kỹ sư xây dựng. Ông tham gia phong trào biểu tình chống Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam từ năm 2011 và là một trong số những thành viên cốt cán của Phong trào No-U.

Ông còn là một nhà nhiếp ảnh với nhiều hình ảnh và video về biểu tình vì chủ quyền biển đảo và đấu tranh chống bất công ở Việt Nam, và là một Facebooker với hơn 152.000 người theo dõi.

Ông còn tham gia nhiều hoạt động thiện nguyện, như cứu trợ đồng bào miền Trung bị bão lụt, và xây trường cho trẻ em vùng cao.

Năm 2013, ông bị câu lưu ở sân bay Nội Bài và tra khảo bởi an ninh sau khi trở về từ Thái Lan và Philipine nơi ông học một khoá học dân sự và gặp quan chức nhân quyền của Liên Hiệp quốc để báo cáo về vi phạm nhân quyền ở Việt Nam.

Một năm sau, ông bi cấm xuất cảnh trên đường sang Hoa Kỳ để tham dự Ngày Tự do Báo chí Thế giới tổ chức bởi UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc).

Nhiều lần gia đình ông bị tấn công bởi lực lượng dân sự thân với chính quyền Việt Nam.

Ông Nguyễn Lân Thắng có những bài đóng góp trên trang blog của Đài Á Châu Tự do từ cuối năm 2013.

Theo thống kê của Đài Á Châu Tự Do, Việt Nam đã bắt giữ ít nhất 19 người thuộc giới bất đồng chính kiến từ đầu năm đến nay, hơn một nửa trong số này bị cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 88 của Bộ luật Hình sự 1999 hoặc Điều 117 của Bộ luật Hình sự 2015, với mức án tù từ ba đến 12 năm tù, có khi lên tới 20 năm tù nếu bị kết tội. Cũng trong thời gian này, năm người đã bị kết tội theo tội danh này với mức án từ năm năm đến tám năm tù giam.

SỨC MẠNH CỦA CHỦ NGHĨA NGU DÂN – Nhà văn Dương Thu Hương.

TrongDe Ho

SỨC MẠNH CỦA CHỦ NGHĨA NGU DÂN

Nhà văn Dương Thu Hương.

Một lần, một nhà văn Pháp hỏi tôi:

– Cái gì tạo nên sức mạnh của chúng mày trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ?

Tôi đáp:

– Một nửa là thói quen của hàng ngàn năm chống xâm lược. Nửa kia là sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân.

Anh bạn chưng hửng:

– Mày không đùa đấy chứ? Ai có thể tin nổi một thứ lý thuyết quái gở như thế.

Tôi cười:

– Rất nhiều thứ quái gở ở phương Tây lại là sự thực đơn giản ở phương Đông. Và ngược lại.

Bây giờ, tôi xin giải thích “thứ lý thuyết quái gở” này.

Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ được đảng cộng sản phát động với lời tuyên bố: Đánh đuổi quân xâm lược Mỹ.

Năm 1964, tôi mười bẩy tuổi. Vào tuổi ấy, tất thảy thanh niên ở miền Bắc không có quyền nghe đài nước ngoài, không có ti-vi, không có máy quay đĩa, không có bất cứ nguồn thông tin nào ngoài báo chí cộng sản và đài phát thanh trung ương. Lần đầu tiên, tôi được nghe những bài hát nước ngoài là năm tôi mười sáu tuổi. Mùa hè năm 1963, anh họ tôi là phiên dịch tiếng Nga dẫn tôi cùng đứa em trai đến nhà ông chuyên gia mỏ thiếc Tĩnh Túc ở Hà Nội. Ông bà ấy đón tiếp rất tử tế, ngoài việc chiêu đãi bánh ngọt và nước trà chanh, còn mở máy quay đĩa cho chúng tôi nghe. Cảm giác của tôi lúc đó là choáng váng, như muốn chết. Đó là cảm giác thật sự khi con người lạc vào một thế giới mà họ vừa cảm thấy ngây ngất vừa cảm thấy như ngạt thở. Đĩa nhạc đó là của Roberto… (không nhớ họ), một giọng ca Ý tuyệt diệu nhưng chết trẻ. Những bài hát tôi nghe là các bài nổi tiếng cổ truyền: Ave Maria, Santa Lucia, Paloma, Sérénade, Histoire d’amour, Besame Mucho…

Ra khỏi cửa nhà ông chuyên gia Nga nọ, tôi bước đi loạng choạng. Lần đầu tiên, tôi hiểu rằng cuộc sống của chúng tôi là cuộc sống của những kẻ bị nhốt dưới hầm. Những bài hát kia là một thứ ánh sáng mà lần đầu tiên tôi được thấy. Ánh sáng đó rọi từ một thế giới khác, hoàn toàn ở bên ngoài chúng tôi. Kể lại chuyện này, để hậu thế nhớ rằng, thời đại của chúng tôi là thời đại của một thứ chủ nghĩa ngu dân triệt để. Một thứ chủ nghĩa ngu dân tàn bạo, nó buộc con người sống như bầy súc vật trong một hàng rào được xây nên bằng đói khát, hà hiếp và tối tăm.

Khi con người bị điều khiển cùng một lần bằng tiếng gào réo của dạ dầy và cái bỏng rát của roi vọt thì họ không thể là người theo nghĩa thực sự. Chủ nghĩa ngu dân là thứ lá chắn mắt ngựa, để con vật chỉ được quyền chạy theo chiều mà ông chủ ra lệnh. Khi tất cả những con ngựa đều chạy theo một hướng, ắt chúng tạo ra sức mạnh của “bầy chiến mã”, nhất là khi, trong máu chúng đã cấy sẵn chất kích thích cổ truyền “chống xâm lăng”.

Với lũ trẻ là chúng tôi thời ấy, danh từ Xâm lăng dùng để chỉ: quân Nguyên, quân Minh, quân Thanh, và bây giờ là quân Mỹ. Danh từ ấy đồng nghĩa với Tô Định, Mã Viện, Thoát Hoan… Tóm lại, Mỹ là lũ giặc phương Bắc nhưng mũi lõ, mắt xanh, tóc vàng.

Ngôn ngữ vốn là một nhà tù, mà chúng tôi không có điều kiện để tiếp cận với các nguồn thông tin khác, các ngôn ngữ khác, nên hiển nhiên chúng tôi là đám tù binh ngoan ngoãn sống trong nhà tù ấy, đinh ninh rằng mình ra đi là để bảo vệ non sông.

Bởi vì, tổ tiên chúng tôi đã quen chết hàng ngàn năm để chống lại những kẻ thù mạnh hơn họ bội phần, chúng tôi cũng sẵn sàng ra chiến trường chống quân xâm lược Mỹ theo đúng cách thức ấy.

Đó là lý do tôi nói, “sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân”.

Fb Vũ Tuân

Tiền đưa hối lộ ‘chuyến bay giải cứu’ lên tới ‘hàng chục tỷ đồng, hàng trăm ngàn đô’

Tiền đưa hối lộ ‘chuyến bay giải cứu’ lên tới ‘hàng chục tỷ đồng, hàng trăm ngàn đô’

June 30, 2022

Nguoi-Viet

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – “Kết quả điều tra bước đầu chứng minh các bị can đã nhận hàng chục tỷ đồng và hàng trăm ngàn đô. Tuy nhiên, vụ án đang trong giai đoạn điều tra nên việc xác định mỗi bị can đưa bao nhiêu, nhận bao nhiêu cần chờ kết luận cuối cùng.”

Đó là lời Thiếu Tướng Trần Thanh, phó cục trưởng Cục An Ninh Điều Tra Bộ Công An, nói tại buổi họp báo chiều 30 Tháng Sáu về kết quả bước đầu điều tra vụ “đưa và nhận hối lộ” ở Cục Lãnh Sự Bộ Ngoại Giao và một số địa phương trong vụ án “chuyến bay giải cứu,” theo báo Thanh Niên.

Các bị can tại Cục Lãnh Sự “nhận hối lộ,” bị truy tố. (Hình: Đại Đoàn Kết)

Báo Thanh Niên cũng dẫn lời ông Thanh cho biết đến nay nhà chức trách đã khởi tố bảy bị can về tội “nhận hối lộ” và ba bị can về tội “đưa hối lộ,” trong đó có bị can Tô Anh Dũng, thứ trưởng Bộ Ngoại Giao Việt Nam.

Đến nay, ông Tô Anh Dũng là giới chức cao cấp nhất bị bắt trong đường dây tổ chức các “chuyến bay giải cứu.”

Trước vụ bắt ông Dũng, hồi Tháng Giêng, Bộ Công An bắt và khởi tố các thuộc cấp của ông này, gồm bà Nguyễn Thị Hương Lan, cục trưởng Cục Lãnh Sự; Đỗ Hoàng Tùng, cục phó Cục Lãnh Sự; Lê Tuấn Anh, chánh Văn Phòng Cục Lãnh Sự; và Lưu Tuấn Dũng, phó phòng Bảo Hộ Công Dân Cục Lãnh Sự. Cả năm người đều bị cáo buộc “nhận hối lộ.”

Đến hôm 25 Tháng Ba, Bộ Công An khởi tố bị can, bắt tạm giam bà Hoàng Diệu Mơ, tổng giám đốc công ty Thương Mại Du Lịch và Dịch Vụ Hàng Không An Bình, về tội “đưa hối lộ.”

Và đến hôm 14 Tháng Tư, Bộ Công An đã khởi tố bị can, bắt giam ông Tô Anh Dũng; Vũ Anh Tuấn, cựu cán bộ Cục Quản Lý Xuất Nhập Cảnh, Bộ Công An; và Phạm Trung Kiên, chuyên viên Vụ Trang Thiết Bị và Công Trình Y Tế thuộc Bộ Y Tế, về cùng tội danh “nhận hối lộ.”

Theo cơ quan hữu trách, từ năm 2020 đến nay, Bộ Ngoại Giao phối hợp với bộ, ngành thành lập “Tổ Công Tác Năm Bộ” đã triển khai hơn 1,000 chuyến bay và đưa 240,000 công dân Việt Nam từ 60 quốc gia, vùng lãnh thổ về nước, tổ chức cách ly tại cơ sở dân sự theo hình thức tự nguyện trả phí.

Tuy nhiên, trước đó hôm 5 Tháng Sáu, cộng đồng mạng bàn tán về tiết lộ của Trung Tướng Tô Ân Xô, chánh văn phòng kiêm phát ngôn viên Bộ Công An Việt Nam, được tờ Công An Nhân Dân đăng tải: “Gần 2,000 chuyến bay giải cứu, mỗi chuyến thu lợi khoảng 2 tỷ đồng ($86,236).”

Ông Xô cũng nhấn mạnh rằng con số nêu trên là “lợi nhuận” sau khi trừ các chi phí của chuyến bay.

Đến nay, ông Tô Anh Dũng, thứ trưởng Bộ Ngoại Giao, là giới chức cao cấp nhất bị bắt trong đường dây tổ chức các “chuyến bay giải cứu.” (Hình: Zing)

Nếu đúng như lời ông Xô nói thì các giới chức trong đường dây tổ chức “bay giải cứu” thu lợi bất chính tổng cộng đến 4,000 tỷ đồng ($172.5 triệu).

Tuy vậy, cả ông Xô lẫn báo Công An Nhân Dân không nói rõ khoản lợi nhuận ròng sau mỗi “chuyến bay giải cứu” rơi vào túi của những ai, có được thu hồi hay chưa, và liệu có phải tất cả những giới chức liên quan đường dây này đã bị bắt hoặc còn “trùm cuối” vẫn đang “vô sự.” (Tr.N) [qd]

Nguyễn Phú Trọng, người chiến sĩ sát cộng số một của Việt Nam

Nguyễn Phú Trọng, người chiến sĩ sát cộng số một của Việt Nam

Bởi  AdminTD

Nguyễn Tiến Dân

2- 7- 2022

1.- “Cộng sản sinh ra từ đói nghèo và ngu dốt, lớn lên bằng dối trá và bạo lực”. Tùy thời điểm, tùy sắc tộc và tùy vị trí địa lý, bọn chúng có thể khác nhau vài thứ râu ria. Riêng cái khoản bất nhân – thất đức và ăn tàn – phá hại, đứa nào cũng thế. Nhắc tới chúng, là phải nhắc tới những tội ác hủy diệt tự nhiên, nhắc tới những tội ác chống lại loài người. Dưới ách cai trị của Cộng sản, luân thường, đảo lộn – đạo lý, suy đồi. Quyền lợi, chúng riêng giành – quyền hành, chúng độc chiếm. Đi theo Cộng sản, Đất nước nào cũng lầm than và trì trệ – Dân tộc nào cũng lụn bại và luôn đối mặt với họa diệt vong. Bởi thế, “nó chỉ là giấc mơ của vài người. Nhưng nó lại là cơn ác mộng kinh hoàng của toàn nhân loại”. Khi đã nhìn ra cái bản chất tột cùng xấu xa và đê tiện của Cộng sản, ai cũng căm ghét chúng và ai cũng mong, sẽ góp được một phần công sức, để tru triệt chúng.

Nhưng than ôi! Cộng sản, chúng giống như loài cỏ dại. Triệt được chúng, nào có phải là cái công việc dễ dàng:

– Ngay sau khi Nga Xô được thành lập, thế và lực của họ, chỉ có thể gói gọn trong mấy chữ: “ngàn cân treo sợi tóc”. Trước tình thế ấy, ai cũng tưởng, có thể dễ dàng “ăn sống – nuốt tươi” được họ. Nhân đó, triệt đi cái di họa cho nhân loại về sau. Hệ quả, 14 nước Đế quốc đã đồng sức – đồng lòng, đã góp quân – góp của cho lực lượng Bạch vệ của Nga. Những mong, đánh Nga Xô cho đến khi nó đổ sụp. Ai ngờ, chẳng những không sụp đổ, mà sau cuộc chiến, nó còn nuốt chửng thêm hàng loạt lân quốc, để trở thành một thế lực có số má trên vũ đài Chính trị Thế giới.

– Trong Đệ nhị Thế chiến, chỉ riêng nước Đức Quốc xã, họ đã mạnh vô cùng. Ngay sau khi dùng xe tăng và lưỡi lê đè bẹp châu Âu, thế và lực của ho, khác nào “hổ mọc thêm cánh”. Tấn công Liên Xô, họ tự tin: “sẽ hoàn thành nốt cái công việc, mà nội chiến ở Nga đã phải bỏ dở”. Kết quả, chẳng những Liên Xô không tan vỡ, mà trên đường phản công, nó còn thôn tính hàng loạt quốc gia Đông Âu. Dân chúng ở đó, họ chưa kịp vui mừng vì vừa tránh được cái vỏ dưa Phát xít, thì đã phải ôm trọn vào lòng cả một đống vỏ sầu riêng mang cái tên Cộng sản. Thê thảm, vô cùng.

Bất hạnh, nào đã dừng lại. Chế độ Cộng sản, nó còn nhuộm đỏ cả Trung Hoa, Bắc Triều Tiên và Việt Nam.

– Đến thời chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ đổ quân vào tham chiến tại Việt Nam. Lúc đó, mọi con số thống kê đều cho thấy, họ áp đảo đối phương. Nhưng cuối cùng, Hoa Kỳ vẫn buộc phải rút quân và bất lực nhìn miền Nam nước Việt rơi vào tay Cộng sản. Tuy không thắng, nhưng nhờ có họ, đại dịch Cộng sản, nó mới bớt ngông cuồng và chỉ còn có thể tự tung – tự tác ở xứ Đông dương. Vĩnh viễn, không có cơ hội, để bung ra và tràn tiếp xuống vùng Đông Nam Á.

– Liệt ra những sự kiện ấy, để minh chứng cho cái Chân lý phổ quát: “Chiến tranh, đó là mảnh đất màu mỡ để nuôi dưỡng Cộng sản. Bởi thế, chiến tranh không thể làm cho chúng yếu đi, mà ngược lại”. Sinh thời, Mao Trạch Đông cũng rất tâm đắc với luận điểm này. Có điều, nó được ông diễn đạt một cách hết sức thô lỗ: “Súng, đẻ ra chính quyền” và Thế giới chỉ có thể được cải tạo bằng súng đạn”. Tuy “bầu dục chấm mắm cáy”, nhưng nó vẫn nhận được sự cổ vũ nồng nhiệt của đám lâu la cuồng tín và lũ chư hầu bưng bô. Bởi, giống như Mao, tất cả bọn chúng, đứa nào cũng ưa bạo lực và phải thừa nhận, chúng rất mạnh về cái khoản này. Thế nên, dùng “nắm đấm” để phân thắng – thua với Cộng sản, đó chỉ là cách làm của những người, mà “trái tim nhầm chỗ, để trên đầu”.

Muốn ganh đua với chúng, phải đi đường vòng. Phải mở ra và kéo chúng vào những cuộc chiến, mà ở đó, sở trường của chúng không được phát huy. Trái lại, cái sở đoản ngu dốt và dối trá của chúng, nó phải bị bộc lộ.

2.- Người xưa, tổng kết: 狮子身中虫 自食狮子肉. Sư tử thân trung trùng, tự thực sư tử nhục. Tạm hiểu, Sư tử là chúa sơn lâm. Nó thắng tất cả mọi loài trong rừng sâu – núi thẳm. Nhưng cuối cùng, kẻ có thể hạ gục được nó, chính là cái loài dòi bọ được sinh ra ngay trong những vết thương đã nhiễm trùng của nó.

Cộng sản, cũng vậy. Không ai có thể thắng được chúng, trừ những khiếm khuyết được nảy sinh ngay trong lòng chế độ thối nát của chúng. “Cơ đồ xây dựng 75 năm có nguy cơ sụp đổ. Không ai mang máy bay, đại bác đến để lật đổ ta. Ta không làm tốt, thì ta tự lật đổ ta. Chẳng phải, do kẻ thù đâu” – Trần Quốc Vượng, nguyên thường trực Ban Bí thư.

Từ cái nguyên lý sâu xa này, ngay sau khi được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Liên Xô, Gorbachev và những cộng sự, họ đã nhanh chóng vạch kế hoạch và khẩn trương bắt tay hành động. Tất cả, đều hướng tới mục đích: “xóa bỏ chế độ Xô viết”. Cách họ làm, là cấy những ấu trùng độc vào trong cái vết thương đã lở loét của chế độ Xô viết và cuối cùng, chính cách làm đúng đắn đó, nó đã góp phần quyết định, để hạ gục chế độ Xô viết.

Trong cuốn hồi kí của mình, Yakovlev nhớ lại: “Chúng tôi có thể xóa bỏ hệ thống chính trị Xô viết bằng nhiều cách khác nhau. Tỷ như, công khai ủng hộ và tôn vinh những người bất đồng chính kiến. Tuy vậy, biện pháp này không triệt để và hiệu quả không cao. Cần phải phá Liên bang Xô viết từ bên trong và cách duy nhất để đạt được mục đích, đó là: “Kết hợp công khai hóa với việc áp dụng cơ chế kỷ luật toàn trị của Đảng”.

Lợi dụng chiêu bài công khai hóa, họ bóc mẽ những yếu kém, lệch lạc và bệnh hoạn của nền kinh tế Xô viết – những thứ, mà chế độ Xô viết vẫn giấu, như “mèo giấu cứt”. Thay vì “khoan thư sức dân”, những đồng tiền thu được từ bán tài nguyên và thu được từ thuế, phần lớn được ném vào việc phát triển Quốc phòng và luôn coi đó là niềm tự hào, là nhân tố quyêt định, để bảo vệ Liên bang Xô viết. Qua đó, chỉ ra vực thẳm ngay trước mặt: “Sự thực, không ai có thể phủ nhận được sức mạnh quân sự khủng khiếp của chúng ta. Nhưng nó đang được vận hành, để đứng trên đôi chân kinh tế đã èo uột, lại còn được nặn bằng đất sét. Quốc phòng càng mạnh, sức ép của nó lên nền kinh tế càng lớn và đến một ngưỡng nhất định, đất nước sẽ đổ sập xuống, như trời long – đất lở”.

Với việc công khai hóa, cái mặt nạ của chế đô Xô viết được vén tới đâu, bộ mặt quái thai, phi nhân và thất đức của nó sẽ được phơi ra đến đó. “Chúng ta ăn cắp từ chính bản thân chúng ta. Chúng ta coi đưa và nhận hối lộ, là việc tất yếu. Chúng ta nói dối trong các báo cáo, nói láo trên báo chí và man trá trên các diễn đàn cấp cao. Đắm mình trong dối trá, rồi chúng ta trao huân chương cho nhau và trên hết, tất cả những điều này, nó diễn ra từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên” – Nikolai Kyzhkov, Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thủ tướng của Liên bang Xô viết. Khi ma quỉ hiện nguyên hình, dân chúng sốc và suy sụp toàn tập. Từ đây, chẳng cần ai xúi dục, họ cũng quay lưng lại với nó.  众志成城, chúng chí thành thành. Mất đi sự ủng hộ của dân chúng, chế độ Xô viết, nó cũng chỉ như một con tàu đang nằm bờ. Ngày 18 – 8 –1991, những người cộng sản theo đường lối cứng rắn, họ đã làm một cuộc đảo chính, hòng lật đổ Gorbachev. Việc, bất thành. Nguyên do, ở đó.

Với việc áp dụng cơ chế kỷ luật toàn trị của Đảng, tất cả những kẻ không ăn cánh và những kẻ cuồng tín Mác – Lê, chúng đều bị đưa vào tầm ngắm và cuối cùng, đều bị thải hồi. Trong hơn sáu năm cầm quyền, Gorbachev đã thay máu toàn bộ Bộ Chính trị và các bộ phận chủ yếu của Ban Chấp hành Trung ương. Thế vào đó, là những người cùng chung chí hướng. Trong số đó, nổi bật nhất là Yakovlev và Shevardnadze. Khi nanh đã bị nhổ, vuốt cũng chẳng còn, con cọp Xô viết, nó chỉ hơn con mèo ở mỗi chỗ: Đó là, to xác.

Với chiến lược tổng thể này, không tốn một mũi tên – một hòn đạn, không hao một người lính – một cỗ xe, nhưng Gorbachev và những cộng sự, họ đã hãm Đảng Cộng sản Liên Xô vào thế, chỉ còn sống thực vật. Như rắn mất đầu, Liên bang Xô viết, nó phải tự tan rã.

Chớp thời cơ, tất cả các nước Cộng sản Đông Âu, họ đều đồng loạt đứng lên, để tự phá tan xiềng xích, ngục tù và sau hơn 30 năm đoạn tuyệt với cái mớ rác rưởi Mác – Lê, chửa thấy ai lưu luyến hồi đầu.

3.- Viết tới đây, không thể không nhắc tới luận điểm nổi tiếng của Tôn tử: 是故百战百胜,非善之善者也;不战而屈人之兵,善之善者也. Thị cố, bách chiến bách thắng, phi thiện chi thiện giả dã. Bất chiến nhi khuất nhân chi binh, thiện chi thiện giả dã. Tạm hiểu, “đánh thắng” hết Thực dân to này, đến Đế quốc nhớn khác, có gì gọi là giỏi. Bởi sau “chiến thắng”: đất nước, tan hoang – dân chúng, kiệt quệ. Không đánh mà hạ gục được đối phương, như cách mà Gorbachev đã làm, ấy mới tài.

Tài giỏi thế, nhưng Gorbachev và những cộng sự, họ cũng chửa được thiên hạ phong Thần. Bởi dẫu sao, Liên bang Xô viết, nó cũng được phát triển trên một nền tảng nhất định của Tư bản công nghiệp và mặt bằng dân trí ở đó, nó cũng không đến nỗi nào. Riêng Việt Nam, ngoài 2 trở ngại bất khả kháng nói trên, nó còn phải đối mặt với “tâm lí ngu trung” đã trở thành thâm căn – cố đế của vô số những kẻ mù quáng. Những kẻ, luôn cúc cung thần phục bề trên một cách vô điều kiện. Không đánh, mà vẫn phá tan được những bức tường thành kiên cố đó, ấy mới xứng, là bậc vĩ nhân.

Người xưa nói: “Mục đích, biện minh cho phương pháp”. Lịch sử, rồi sẽ phán xét mọi việc một cách công bằng và trước sau, sẽ dành vị trí xứng đáng cho Nguyễn Phú Trọng – một ông già “mặt nhân từ, mà ruột hiểm sâu”. Ngay từ những bước đi đầu tiên, cho tới những “mưu, hiểm độc – kế, xảo quyệt”, chàng luôn khiến cho quỷ khốc – thần sầu. Chỉ với cái mẹo vặt 假痴不癫, giả si bất điên – vờ lú lẫn, chàng cũng khiến cho bao cao thủ võ lâm phải lả tả rớt đài và lâm vào thảm cảnh “sống, không bằng chết”.

4.- Bàn về cái sự bất tài của Đảng Cộng sản Việt Nam, có lẽ, không ai thâm và sắc bằng Vũ Khoan: “Thụy sĩ không có gì, mà có tất cả. Trong khi, mình có tất cả, nhưng lại không có gì”.

Nôm na, Việt Nam là một trong những nơi hiếm hoi trên trái đất, mà cùng lúc, hội tụ được “tất cả” các yếu tố “thiên thời, địa lợi và nhân hòa”. Nhưng khi những thứ đó rơi vào tay lũ côn đồ có cái đầu đất, chúng đã đẩy cả Xã hội Việt Nam vào vòng hỗn loạn và làm băng hoại nó về mọi mặt:

Luật pháp, không còn – dối trá, lên ngôi – đồng tiền, thống trị.

Từ đường lối cho đến đường đi, chỗ nào cũng vá chằng – vá đụp như cái váy rách của nhà chị Dậu. Nền “công nghiệp hóa” mà chúng ta hằng ao ước, cho đến giờ, nó đang đánh vật với “những con ốc vít tiêu chuẩn”. Một nước nông nghiệp, mà từ giống má, phân bón, thuốc trừ sâu, cho đến giá nông sản, tất cả, đều bị thả nổi và chịu sự thao túng của thương lái nước ngoài. “Được mùa – mất giá” và ngược lại. Đó là thảm cảnh của người nông dân Việt Nam dưới thời Cộng sản. Công nông, nào phải là cá biệt. Mọi tầng lớp khác trong Xã hội, nó cũng đều y như thế.

Tài nguyên và khoáng sản, tất cả đều bị đám Cộng sản đào bới tới mức cạn kiệt. Đất đai, chỗ nào chưa sang nhượng hoặc chưa cho ngoại bang thuê, chúng đều nhăm nhe đem phân lô – bán nền, rồi nhượng lại cho dân chúng với cái giá cắt cổ. Kiều hối, đều như vắt chanh. Năm nào cũng tiệm cận ở mức 20 tỷ USD. Còn dân chúng, ai cũng điêu đứng, vì bị chế độ bóp nặn qua sưu cao – thuế nặng. Thu nhiều như thế, nhưng “ngân sách” Quốc gia, lúc nào nó cũng “như dòng sông đã cạn”. Trái lại, cán bộ Cộng sản, đứa nào cũng giàu ú ụ. Xe sang và biệt phủ khủng, xưa rồi. Cái mà chúng hãnh diện đem khoe, đó là những tài khoản ngoại tệ và những bất động sản ở nước ngoài. Hữu sự, chế độ “đóng cửa”, để xách bị gậy “đi ăn mày” ở khắp bốn phương trời. Thậm chí, sẵn sàng “đeo mo vào mặt”, rồi lân la đi ăn dỗ của những đứa trẻ miệng vẫn còn hoi mùi sữa và lừa đảo cả những ông bà già đã cập kề miệng lỗ. An sinh Xã hội ư? Đừng có hòng. Bước chân ra khỏi cửa, mỗi bước đi, là một bước phải xuống tiền.

Rõ ràng, lãnh đạo Cộng sản Việt Nam, chúng gồm một lũ bất tài – vô dụng. Chúng kinh doanh thứ gì, thứ đó lỗ chỏng cu. Chúng quản lí cái gì, cái đó đều tồi tệ và ngược lại. Chỉ cần so sánh việc cung ứng lương thưc và thực phẩm trước và sau thời bao cấp, chúng ta sẽ nhận ra ngay cái điều đó. Bởi thế, chừng nào chưa “giải thể cái đám ăn hại – đái khai Cộng sản” và “trả lại quyền lực thực sự cho Nhân dân”, chừng đó, Việt Nam còn sấp mặt. Trong bối cảnh đó, Phú Trọng được sinh ra, để “thế Thiên”, mà “hành” cái “đạo” triệt Sản.

5.- “Lượng đổi – chất đổi”. Người ta chẳng nên hấp tấp, để nặn một cái mụn, khi nó còn non. Thế nên, Lê nin mới đưa ra luận điểm: “Muốn cho chế độ Nga hoàng chóng sụp đổ, hãy đẩy nó tới tận cùng của sự khốn nạn”. Sang Nga du học, Phú Trọng rất tâm đắc với chiến lược này. Về nước, “vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê vào hoàn cảnh Việt Nam”, ông thay chữ “Nga hoàng”, bằng từ “Cộng sản” và kiên định, đẩy nhanh quá trình chín mõm của cái ung nhọt Cộng sản Việt Nam. Giống như bậc tiền bối, ông cũng dùng 2 thứ vũ khí: “Công khai hóa” và “Kỉ luật toàn tri”, để bẻ nanh – cắt vuốt và rút gân của cái Đảng Cộng sản Việt Nam. Có điều, Gorbachev phá Cộng sản theo cách, từ trong phá ra. Riêng Phú Trọng, ông phá nó, từ gốc rễ.

a- Hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh

– Chuyện dân gian, kể rằng: Nguyễn Sinh là một dòng họ nghèo kiết xác ở xứ ông Đồ. Muốn đổi đời, họ tìm đến nhà một thầy Địa lý nổi tiếng, để xin giúp đỡ. Nhìn thấu hoàn cảnh và âm đức của nhà đó, thày phán: “Ta vừa tìm được một huyệt mộ. Mả táng vào đó, phú quý tột cùng. Ngặt nỗi, kết cục sẽ là tuyệt tự. Các người, nghĩ sao?”. Còn gì, để mà mất. Cả nhà mừng quýnh, đồng ý liền. Việc, hoàn tất. Tạ ơn thầy xong, họ bỏ đi như chạy. Vì thế, chẳng nghe thấy thầy gọi với theo: “Này, ta nói đùa đó. Muốn không bị tuyệt tự, việc đầu tiên, là phải lấy vợ”.

– Theo chính sử, Hồ Chí Minh không có cả vợ lẫn con và có lẽ, đó chẳng phải là ước nguyện của ông ta. Bởi lẽ, “từ rốn trở xuống, bác cũng như các chú”. Làm ra cái việc thất đức này, là mưu đồ của đám đệ tử. Chúng muốn lợi dụng ông ta, để lôi kéo cái đám đông u mê, mà có lúc, nó chiếm tới 95% dân số Việt Nam. Vì thế, chúng buông xuống một bức màn sắt, rồi thêm râu – vẽ ria và bắt ông phải trở thành một vị Thánh nhân. Dĩ nhiên, không chút tì vết.

Đầu tiên, chúng khoác tấm long bào của Thiên tử lên vai ông Hồ: “Đụn Sơn phân giải/ Bò Đái thất thanh/ Thủy đáo Lam thành/ Nam Đàn sinh Thánh” và giải thích bừa rằng: “Khi núi Đụn, chẻ đôi/ Nước chảy xuống từ khe Bò Đái, mất tiếng/ Sông Lam, phạm núi Lam thành/ Lúc đó, Nam Đàn sinh ThánhThánh ở đây, chính là bác Hồ (!)

Bước 2, chúng tìm một kẻ bẻm mép, rồi đôn y lên hàng Giáo sư và giao cho việc “sưu tầm” và “sáng tác” những mẩu chuyện có thật và kể cả không có thật về ông Hồ. Kế đó, mang chúng đi kể ở khắp hang cùng – ngõ hẻm. Đám quần chúng u mê, ai cũng há hốc mồm ra nghe và ai cũng tin, bác của họ, là Thánh sống. Bác của họ, tài đến mức, thông thạo “29 ngoại ngữ” – giỏi đến mức, “tiên tri được ngày ta thắng Mỹ” và nhân văn đến mức, gặp các cháu gái miền Nam, bác hỏi luôn: “Các cháu kinh nguyệt có đều không?”.

Tuy vậy, ối lúc y nhỡ mồm. Y kể, hồi ở Paris, bác đã từng tham gia sản xuất hàng giả. Đã từng, vì quyền lợi ích kỉ của mình, mà nhẫn tâm 移尸嫁祸 di thi giá họa cho dân lành. Khiến họ, tan cửa – nát nhà và nếu sống ở Việt Nam thời Sản trị, cái thòng lọng của giá treo cổ, chắc chắn, nó sẽ được tròng vào cổ họ.

Ở xứ Văn minh, nói láo như y, thiên hạ bôi vôi vào mồm. Nhưng ở chốn “thiên đường”, y và đám đồng đảng, chúng lại thành công rực rỡ. Hình tượng Hồ Chí Minh với những gam màu sáng, nó đã được khắc ghi đậm nét trong trái tim và khối óc của đa số dân chúng Việt Nam. Nó trở thành cái bình gốm đẹp đẽ, để những con chuột cống Cộng sản có chỗ chui vào và yên ổn hưởng thụ những gì mà chúng có được do ăn cướp. Ai cũng biết, nếu không đập vỡ cái bình, hoặc không dốc ngược nó lên, muôn đời, không bao giờ tiêu diệt được đàn chuột ở trong cái bình đó. Các bác “thế lực thù địch và phản động”, họ biết rất rõ về cái luận điểm này và diễn đạt nó dưới dạng: “Muốn giải Cộng, trước tiên, phải giải thiêng được hình tượng Hồ Chí Minh”.

Nhưng rồi, bao nhiêu thời gian và công sức mà các bác ấy đổ vào đó, nó đều như “nước đổ lá khoai”. Chẳng mấy ai tin các bác ấy cả. Phải đến khi Phú Trọng nhập cuộc, tình thế mới bắt đầu thay đổi. Vậy, Phú Trọng đã làm những gì, để người đời dần tin rằng, Hồ Chí Minh cũng hết sức tầm thường?

– Ai cũng biết, những “khai quốc công thần” của chế độ Cộng sản, từ Ba – Đồng – Chinh – Bằng – Tôn, cho đến Mười – Phương – Kiệt – Nguyên – Liệu, ai cũng đội ông Hồ lên đầu và tranh nhau nhận mình là “người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Riêng Phú Trọng, học hàm và học vị đầy mình, sao phải khuất thân mà nhận rằng, mình là học trò của cái ông chẳng có mảnh bằng nào giắt lưng? Tệ hơn, ông còn bật đèn xanh, để Võ Văn Thưởng thổi đít mình lên: “Tổng bí thư hiện nay, thực sự là nhà lý luận có tầm tư tưởng”. Nghe nói, dạo còn trốn trong núi rừng Việt bắc, có kẻ cũng đã nói ra câu đó với ông Hồ. Không ngờ, ông ta gạt phắt: “Bác không có tư tưởng gì cả. Mọi tư tưởng, là của ông kia, ông kia và ông kia”. Miệng nói, tay chỉ vào hình của Mác, Lê nin, Staline và Mao Trạch Đông. Cái mà ông nhận, chỉ là “tác phong Hồ Chí Minh”.

Chẳng biết, lúc đó ông Hồ khiêm tốn, hay ông không muốn tự lâm vào tình thế hiểm nghèo, khi dám đặt mình ngang hàng với các tay kia. Trong khi, tầm của bọn kia, còn lâu chúng mới sánh được với những nhà tư tưởng và triết học vĩ đại của Trung hoa như Khổng tử 孔子, Mạnh tử 孟子. Nếu công tâm, Thưởng hãy nói xem, cụm từ “tư tưởng Hồ Chí Minh” nó xuất hiện trước hay sau khi ông Hồ từ trần? Ông Hồ còn không tự nhận mình là Hồ tử 胡子. Hà cớ gì, con ễnh ương Võ Văn Thưởng phải cố tự phình mình, để đẻ ra nhà tư tưởng Trọng tử 仲子. Tuy chưa chết, nhưng “tiếng vang như mõ”?

– “Miếng ăn, là miếng nhục”. Thiên hạ, thiếu gì kẻ, chỉ vì miếng nhục đó mà bán rẻ đi cái lương tâm của mình. Mượn sân khấu của Thưởng, chúng véo von hót rằng, Phú Trọng có cái tiết tháo của một bậc sĩ phu Bắc hà. Bởi thế, trừ Tập tiên sinh, ông không bao giờ khuất phục trước cường quyền và tà quyền. Khi đã ở trong cái chăn Cộng sản, hơn ai hết, ông ta phải biết rất rõ về thân thế và sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Nhưng đã lâu lắm rồi, thiên hạ thấy ông vẫn một mực lẩn tránh việc vào Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, để cúi chào người quá cố. Có lẽ, ông đã học được chiêu độc của các vị vua chúa nước Nam: Khi không muốn quì lạy, để nhận chiếu chỉ/ sắc phong của phương Bắc, ai cũng nại ra việc mình đi săn, bị ngã ngựa. Phú Trọng, cũng vậy. Ông ta có thể một lần nại ốm, để không phải lạy ông Hồ. Nhưng triền miên “ốm”, thì vấn đề, nó lại nằm ở chỗ khác. Xin độc giả hãy chiêm ngưỡng bức ảnh “Phú Trọng dâng hương trong nhà Bác”.

Hương dâng rồi, ông ta quay lại và điềm nhiên ngồi luôn lên cái ngai của Bác mình. Việc này, Phong kiến thời nào, họ cũng “nâng cao quan điểm”, để khép vào tội: “khi quân – phạm thượng”. Cố tình, thì bị chém đầu – vô ý, thì đem treo cổ. Đã thế, ông còn ngồi quay lưng vào bàn thờ, nơi mà khói hương vẫn đang nghi ngút.

Thế gian, nào ai mà biết, “chuyện ma ăn cỗ”. Bởi thế, “anh em, khinh trước – làng nước, theo sau”. Chắc ông Hồ cũng phải như thế nào, thì mới bị Tổng Trọng giỡn mặt đến mức ấy chứ?

– Nào, đã hết. Sinh ra từ đói nghèo và ngu dốt, nên khát vọng cháy bỏng của tầng lớp bần cố nông Cộng sản, nó cũng chỉ dừng lại ở cái nồi cám lợn nơi xó bếp. Vì thế, khi được ăn bo bo, ai cũng tưởng, mình đã đặt được một chân tới thiên đàng. Trong bối cảnh đó, họ tung ông Hồ lên tận chín tầng mây và “thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng”, nó đã làm lóa mắt tất cả cái lũ mù quáng ấy. Cơn lên đồng tập thể, nó chỉ chấm dứt, khi Thánh mới lừng lững xuất hiện cùng với xô nước đá trên tay. Thánh phán: “Nhìn một cách tổng quát, Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày hôm nay”. Nôm na, từ thủa khai thiên – lập địa của nước Việt đến giờ, chưa một chế độ nào, chưa một triều đại nào có được những thành tích vẻ vang và đặc biệt xuất sắc bằng thời Phú Trọng.

Không phải nhỡ mồm, Thánh lặp đi, lặp lại nó ở mọi nơi, mọi lúc và có lẽ, ngay cả trong giấc ngủ. Lũ bê hồng, nghe rõ chửa: “Thánh Hồ, sao mà bằng Thánh TrọngCòn Thánh Trọng, đang ở ngoài bức màn sắt và đang sống trong thời @. Bởi thế, chỉ những kẻ đui mù và đần độn, chúng mới không đánh giá được những lời nói và những việc làm của ông ta.

b- Đưa Luật rừng vào, để phá nát Xã hội Việt Nam.

– Trên danh nghĩa, Việt Nam có một Nhà nước “Pháp quyền”. Ấy thế mà, đến Hiến pháp, nó còn bị Phú Trọng cho đặt ngồi bệt xuống dưới chân Cương lĩnh của Đảng. Đến lượt Cương lĩnh của Đảng, nó lại được ông nâng niu và sử dụng như một vật lót mông của mình. Bằng chứng, kệ con mẹ Điều lệ Đảng và mặc xác cái gọi là dư luận, ông lì lợm giữ rịt cái ghế Tổng Bí thư tới tận 3 khóa liền tù tì.

Lột mặt nạ của Đảng như thế, chưa đủ. Ông còn cố tình trì hoãn việc xây dựng Luật về Đảng và Hội, để bắt cái Đảng của ông, lúc nào nó cũng hoạt động trong tư thế bất hợp pháp. Quyền lãnh đạo, nó giành – trách nhiệm với Dân, nó bỏ. Có quyền rồi, chúng ngang nhiên lấy tiền của Ngân sách, để chi tiêu một cách vô tội vạ và tùy ý lèo lái Đất nước đi theo những cái sở thích riêng quái đản của mình. Tạm kể ra, 2 vụ:

Theo Hiến pháp: “Nhiệm kì của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội và Thủ tướng, đều theo nhiệm kì của Quốc hội”. Thậm chí, họ còn phải đương nhiệm cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra được người thay thế. Nhưng, Quốc hội khóa 13 còn chưa kết thúc, “tam trụ” kia, chẳng ai bị kỉ luật, chẳng ai bị liệt hoặc chết, cũng chẳng có ai làm đơn xin từ chức. Ấy thế mà, ông Tổng vẫn lùa họ lên toa xe lửa, đóng cửa lại, rồi cho họ “đi tàu suốt”. Lạ cái, từ 3 vị kia cho tới dân chúng cả nước, chẳng thấy ai dám hé răng, để bình phẩm lấy một lời. Hèn đến thế, là cùng.

Ăn cắp, quen tay – ngủ ngày, quen mắt”. Trong nước, chà đạp lên Luật pháp mà không sợ bị trừng trị, nó quen rồi. Ra nước ngoài, bệnh cũ, tái phát. Mồm nói, tôn trọng chủ quyền Quốc gia và Luật pháp của Đức quôc, nhưng ấm đầu lên, ông vẫn tìm mọi cách, để “khều” cho bằng được cừu thù Trịnh Xuân Thanh về nước. Bất chấp, vụ “khều” người này, nó sẽ còn “ám” mãi vào nước Việt.

Trên, vô pháp – dưới, vô luân. Từ đó, cả Xa hội được vận hành theo những “khẩu dụ”, theo những Chỉ thị và Nghị quyết của Đảng – những thứ, luôn trong tình trạng “sáng đúng, chiều sai, mai lại đúng”. Khi không còn tiêu chuẩn để phân biệt trắng – đen; phải – trái; đúng – sai, cả Xã hội lộn tùng phèo: “Bây giờ, làm việc gì cũng sợ sai. Làm xong rồi, cũng không biết có sai hay không. Sai rồi, cũng không biết sai ở chỗ nào và thậm chí, không làm gì cũng có thể dẫn đến sai phạm(!)” – Mai Thị Phương Hoa, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Quốc hội. Khi trói được chân – buộc được tay cán bộ, đó là lúc mà Phú Trọng đã đạt đến đỉnh cao của việc: “vô hiệu hóa bộ máy Nhà nước Việt Nam”. Gorbachev, tuổi gì.

Kỷ cương, không có – đường lối, ưỡn ẹo như cây tre trước gió và ông trùm, một tay thao túng tất cả. Đó là đặc điểm chung của mọi băng nhóm được tổ chức theo kiểu Mafia hoặc thổ phỉ. Phú Trọng, ông đã có công làm cho cả Thế giới thấy rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam, nó cũng đang tiệm cận với cái mức ấy.

c- “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”. Bần cùng hóa nhân dân, ép họ phải đối đầu với chế độ.

– Ở một nước nông nghiệp, tất yếu, phải lấy “Nông dân làm trụ đỡ”, phải đặt “Nông nghiệp vào trọng tâm”. Mồm thì nói thế, nhưng tay này cướp đất của nông dân, tay kia dựng lên cả một rừng thuế phí, để vặt lông người cày. Một quả trứng, chúng thu tới 14 loại phí. Đến con lợn, con số đó, nó đã nhảy lên thành 51. Nào, đã hết. Khi mang hàng hóa đi tiêu thụ, họ phải khóc ròng với giá cước vận tải. Do xăng tăng – xe đắt, do dày đặc những trạm cố định thu phí mãi lộ và do bị “ăn cháo hành” khi qua đầy rẫy những trạm di động, chuyên xin đểu “bánh mì”. Trừ hết chi phí, đồng tiền mang về, may lắm cũng chỉ đủ để nuôi vợ con. Làm gì có dư, để mà tái sản xuất mở rộng. Khi bị ép phải lựa chọn giữa “sống, hay là chết”, những người nông dân ở Văn Giang, Đồng tâm, Dương nội…, tất cả, đều không chọn vế sau. Cho dù, có bị đàn áp khốc liệt.

Nước lụt, thì lút cả làng”. Khi đại dịch cúm Tàu tràn qua nước Việt, nó đã phơi ra trước bàn dân thiên hạ: Một hệ thống truyền thông, dối trá. Một hệ thống quan chức, ngu dốt. Một hệ thống tham nhũng và thối nát, từ trên xuống dưới. Một sự vi phạm nhân quyền trắng trợn dưới rất nhiều hình thức. Cuối cùng, là một hệ thống nhóm lợi ích siêu quyền lực. Chúng đã tạo ra cả hệ thống chính sách, để trục lợi và trên hết, đó là một sự lũng đoạn Nhà nước, ở quy mô khủng khiếp…” – Nhà báo Nguyễn Vũ Bình.

Chỉ bằng vài tháng phong tỏa, ông Tổng và những cộng sự, họ đã khiến đồng bào ta: người chết – nhà tan – của tàn – đói khát. Giữa lúc tứ bề thọ khổ, cái mà dân chúng cần, đó là lương thực, thực phẩm, thuốc men, y bác sĩ và phác đồ điều trị. Nhưng chế độ, không làm thế. Trái lại, họ vẫn hối hả tăng giá xăng dầu, điện nước, khí gas… Mặt khác, tiếp viện cho họ: bộ đội, cảnh sát cơ động, cùng AK 47, xe bọc thép và hàng rào dây kẽm gai. Chẳng cần nói, ai cũng biêt nguyên nhân sâu xa của những việc làm thất nhân tâm này.

d- Xói mòn sức mạnh chiến đấu của Đảng CS Việt Nam, bằng cách bồi dưỡng và đề bạt những cán bộ vô tài – thất đức.

Muôn việc thành công, ở khâu cán bộ. Luận về cái việc này, Nguyễn Trãi viết: “Sĩ tốt, kén người hùng hổ. Bầy tôi, chọn kẻ vuốt nanh”. Đến thời Phú Trọng, ông không làm thế. Bỏ qua qui luật “chọn lọc tự nhiên”, ông “phát hiện, bồi dưỡng và bổ nhiệm cán bộ” theo kiểu “hôn nhân cận huyết”. Vì thế, nhắc tới bất cứ một cán bộ nào, nhân gian cười nửa miệng: “Đồng chí này, là con của đồng chí nào?”.

Trong khi, ghế thì ít, mà đồng chí đểu lại hơi bị nhiều. Dựa vào chiêu “luân chuyển cán bộ”, ông thay máu xoành xoạch trong những cơ quan đầu não của Đảng. Có điều, “hòn ngọc, ném đi – hòn chì, giữ lại”. Việc “dây thép” ông giao cho một thằng “bán trời không văn tự”. Không phụ lòng chủ, y “vén tay áo xô”, chỉ một phát, đốt trên ngàn tỉ tiền thuế vào cái “mạng xã hội Lotus” với lời hứa chắc như đinh đóng cột: “Lotus sẽ lật đổ facebook(!)”. Đến lượt, “Giáo dục và Đào tạo nhân tài cho Đất nước”, ông giao cho một kẻ đạo văn, có bằng đểu, lại còn nói ngọng. Kết quả nhãn tiền, thi gian – học dối, nó nở rộ ở khắp mọi nơi. “Phi công, bất phú – phi thương, bất hoạt”. Để mạnh giàu, thời nào cũng phải coi trọng Công thương. Biết thế, nên ông giao nó cho một cán bộ Đoàn, mà sở trường của y là chăng đèn, kết hoa và quét cống rãnh. Hệ quả, nghe chàng nói – nhìn chàng làm, dân chúng càng thêm tin yêu bọn… Tư bản.

Với cán bộ yếu kém, Gorbachev chọn cách thải hồi. Riêng Phú Trọng, ông biến chúng thành củi. Chính tay ông đã huấn luyện, nâng đỡ và đặt La Thăng ngồi trên cái núi vàng ở Sài gòn. Nhưng khi không lay chuyển được lòng trung thành của y với chủ cũ, ông trở mặt, đem những tội lỗi của y từ thuở “Naponeon còn cởi truồng” ra, để tống La Thăng vào lò. Hằng hà sa số những cán bộ khác, cũng thế, Tay này, ông bồi dưỡng và bổ nhiệm họ. Còn tay kia, ông bới lông – tìm vết, để kỉ luật họ. Sau đó, cười hềnh hệch và khoe thành tích chống tham nhũng với bàn dân thiên hạ. Khốn nạn ở chỗ, ông luôn coi mình, là kẻ vô can.

6- “Cùng trong một tiếng tơ đồng”. Nhưng ở Nga, Gorbachev đã hoàn thành việc giải thể cả Đảng Cộng sản lẫn Liên bang Xô viết và chứng kiến việc chuyển giao quyền lực một cách hòa bình. Riêng Phú Trọng, ông sẽ không có được cái cơ may đó. Ngày ra đi, cái mà ông để lại, chỉ là một đống đổ nát bừa bãi. Ước mơ Tự do và Dân chủ, đành gửi gắm vào những kẻ thay thế mình. Tiếc rằng, Trí của chúng, đều ngắn – Đức của chúng, đều mỏng. Bởi thế, giỏi lắm, chúng chỉ đóng vai trò trái độn như Hoa Quốc Phong ở Trung hoa. Có điều, sau Quốc Phong, đã có sẵn Tiểu Lọ. Còn Việt Nam, chẳng biết, ông có để lại cái túi gấm nào, hay không?

7- Này, ông Tổng!

Có đi có lại, mới toại lòng nhau”. Mọi lần khác, bỏ qua. Riêng lần này, lão viết ra bài điếu tân thời, để chiêu tuyết, để tế sống ông. “Sống khôn – thác thiêng”, hãy cười lên một tiếng. Sau đó, nhớ viết bài phản biện, để người trong thiên hạ, không ai phải lăn tăn về trình độ của một “nhà lí luận, có tầm tư tưởng” và cũng đừng hấp tấp, để làm những chuyện ngu ngốc, khiến người trong thiên hạ, ai ai cũng phải đàm tiếu: “Tưởng, sĩ phu Bắc hà. Ai ngờ, cũng chỉ là một thằng côn đồ nơi đất Bắc”.

Nguyễn Tiến Dân

Tel: 038 – 50 – 56 – 430

Địa chỉ: Vì tin vào cái lũ Cộng sản đê hèn, nên bị chúng lừa đảo và cướp sạch của cải. Bởi thế, mất nhà và trở thành dân du mục. Nay đây, mai đó, chưa có nơi ở cố định.

Gia tài của mẹ và chuyện chủ quyền biển đảo…

Gia tài của mẹ và chuyện chủ quyền biển đảo…

2-7-2022

Tình hình theo tôi là tuyên giáo “xử” vụ “gia tài của mẹ” như “đem con cá đi trấn nước”. Trấn cách mấy con cá cũng không thể chết ngộp. Vấn đề “hai mươi năm nội chiến từng ngày” là một sự thật lịch sử. Ngay cả khi lịch sử luôn được viết bởi phe thắng cuộc. Cây súng có thể giết người nhưng cây súng không thể giết chết sự thật.

 

Việc làm hồ đồ của tuyên giáo CSVN ảnh hưởng sâu sắc lên hồ sơ chủ quyền biển đảo của VN. Tuyên giáo càng lên gân VN càng tự bắn thêm vào chân mình. Nếu không thiết lập lại sự thật lịch sử VN có thể mất vĩnh viễn Hoàng Sa (HS) và Trường Sa (TS) cùng hàng triệu cây số vuông biển cho TQ.

Chiến tranh chống Pháp 1945-1954 là một cuộc “nội chiến”. VN gọi tên “chín năm kháng chiến chống Pháp” nhưng Luật quốc tế xếp loại các cuộc chiến “giải thực – décolonisation” thuộc thể loại “nội chiến”.

Chiến tranh 54-75 “chống Mỹ cứu nước”. Mỹ là “thực dân mới” và chính quyền VNCH là “chính quyền tay sai”. Thực dân là thực dân. Luật quốc tế không phân biệt cũ hay mới. Cuộc chiến này cũng là một cuộc nội chiến.

Răn đe người dân cách nào, phạt vạ hay cấm hát bài Gia tài của mẹ, tuyên giáo cũng không thể thay đổi thực chất “nội chiến” của hai cuộc chiến.

Luật quốc tế qui định từ “chiến tranh” chỉ dành cho “chiến tranh quốc tế”, tức xung đột vũ trang giữa “quốc gia với quốc gia”.

Luật lệ chiến tranh là luật hiện hữu từ thời thượng cổ. Chiến tranh có mục đích làm cho tất cả của cải, lãnh thổ… của một bên thành ra “vô chủ – res nullius”. Phe thắng trận có quyền chiếm hữu tất cả. (Phe thắng cuộc ở VN áp dụng tận tình luật này. Của cải của ngụy ta tịch thu, nhà của ngụy ta ở, vợ của ngụy ta lấy, con của ngụy ta bắt làm nô lệ còn ngụy ta bắt đi học tập cải tạo, đuổi đi kinh tế mới…)

Cả hai phe CSVN và VNCH (tức phe cộng sản và phe quốc gia) đều có chung quan điểm: chiến tranh VN (1954-1975) không phải là cuộc “nội chiến”.

Cả hai cùng tự bắn vào chân mình.

Lập trường của phe cộng sản đã nói rồi. Chính nghĩa của cuộc chiến (jus ad bellum) là mục tiêu “giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước”.

Còn phe quốc gia mỗi người mỗi ý.

Lập luận (áp đảo) của phe quốc gia hiện nay cho rằng VNDCCH và VNCH là “hai quốc gia độc lập có chủ quyền”. Vấn đề là lập luận của nhóm học giả này không thuyết phục. Họ không chứng minh được cuộc chiến 1954-1975 là “chiến tranh quốc tế, nước này xâm lược nước kia”.

Chiến tranh – War là một vấn đề quốc tế. Chiến tranh – War là quốc gia (state) này xâm lược quốc gia (state) kia.

So sánh với chiến tranh Nga xâm lược Ukraine. Chính nghĩa của phe Nga (jus ad bellum) trong cuộc chiến này là gì?

Trước khi phát động “chiến dịch quân sự đặc biệt” thì Putin tuyên bố nhìn nhận độc lập có chủ quyền của hai quốc gia tự phong Donetsk và Luhansk. Chính nghĩa của Nga khi phát động cuộc xâm lược là giúp hai quốc gia Donetsk và Luhansk “tự vệ” đồng thời bảo vệ những người nói tiếng Nga sinh sống ở hai cộng hòa tự phong này. Quyền “tự vệ” này “chính đáng” nếu (và chỉ nếu) hai cộng hòa Donetsh và Luhansk là hai quốc gia thực sự độc lập có chủ quyền. Đại đa số các quốc gia, ngay cả các quốc gia thân cận nhứt với Nga, không nước nào nhìn nhận thực tế này. Cuộc chiến của Nga vì vậy không có chính nghĩa. Nga bị cô lập trên trường quốc tế.

VNCH chưa bao giờ tuyên bố “quốc gia độc lập” như hai cộng hòa tự phong Luhansk và Donetsk. Lập luận “tự vệ đa phương” của VNCH rõ ràng thiếu thuyết phục.

Tương tự như Đài Loan – lục địa, Nam-Bắc Hàn. Hai miền Nam-Bắc VN chỉ là những “quốc gia bị phân chia – divided state”. Quốc gia bị phân chia là những “quốc gia chưa hoàn tất”. Tư cách pháp nhân của VNDCCH (và VNCH) trước luật quốc tế là không hoàn chỉnh.

Ông Ngô Đình Diệm là tổng thống VNCH duy nhứt được quốc tế tiếp đón như là một “nguyên thủ quốc gia”, với lễ nghi dành cho “quốc khách”. Dĩ nhiên lãnh thổ của quốc gia VNCH này bao gồm luôn miền Bắc.

Sau khi ông Diệm bị quân đảo chánh giết chết, các thủ lĩnh chính quyền quân sự hay dân sự sau này không ai được quốc tế tiếp đón với thủ tục dành cho nguyên thủ quốc gia. Ông Thiệu chưa bao giờ được Mỹ tiếp đón như là “quốc khách”, với tư cách nguyên thủ quốc gia. Ông Thiệu chỉ được Nixon tiếp đón ở trại David, như một “cá nhân đặc biệt”. Tư cách pháp nhân của VNCH trước trường quốc tế đã bị sụp đổ từ 1-11-1963.

Nhiều bài viết cố gắng chứng minh VNCH và VNDCCH là “hai quốc gia độc lập có chủ quyền”. Các học giả vịn đủ thứ luật lệ quốc tế, điển hình Công ước Motevideo về quốc gia.

Các học giả rành về luật quốc tế nhưng dường như đã bỏ sót nhiều điều cơ bản cấu thành luật quốc tế. Nếu Công ước Motevideo là “luật” thì Hiệp định Genève 1954 hay Hiệp đinh Paris 1973 về chiến tranh VN cũng là “luật”. Các học giả chỉ dựa vô công ước Motevideo mà không tính tới hai hiệp định Genève 1954 và Paris 1973. Theo nội dung hai hiệp định này thì quốc gia VN chỉ có một. Cả hai bên VNDCCH và VNCH từ 1954 luôn hành sử như là “Quốc gia duy nhất – Etat Unitaire”. Quốc tế, nước nào công nhận VNCH thì sẽ không công nhận VNDCCH và ngược lại.

Lập luận “hai quốc gia VN” của các học giả là có vấn đề.

Giả sử bây giờ “thượng đế” ban phép lạ cho phe quốc gia “xóa bài làm lại”. Theo tôi phe VNCH vẫn thua. Thua vì đến nay nhiều người (còn sót lại) vẫn không hiểu được thực chất của cuộc chiến 1954-1975 là gì?

Làm cách nào để chống lại chính nghĩa “thống nhất đất nước”? Càng dựa vô Mỹ càng đánh càng thua. Mỹ can thiệp vào VN là can thiệp vào chuyện nội bộ của một quốc gia. Càng đánh Mỹ càng bị quốc tế chống đối và VNCH càng bị cô lập.

Ngoại trừ việc tuyên bố VNCH độc lập và làm trưng cầu dân ý để sự tham dự của Mỹ vào cuộc chiến có tính chính đáng. Điều này hoặc ra ngoài kiến thức của phe VNCH hoặc đa số lãnh tụ chính trị VNCH là dân miền Bắc.

Khẳng định chiến tranh 1945-1954 và chiến tranh 1954-1975 là nội chiến VN có nhiều cái lợi. VN kế thừa di sản của Pháp về lãnh thổ HS và TS. Sau này VN kế thừa di sản VNCH về “danh nghĩa chủ quyền” tại HS.

Tư cách pháp nhân của VNDCCH không phải (hay chưa phải) là quốc gia. Vì vậy tuyên bố 1958 của Phạm Văn Đông không có hiệu lực ràng buộc trước pháp lý quốc tế.

Một bà ở Huế giả Việt kiều Mỹ lừa đảo triệu đô, lãnh 20 năm tù

Một bà ở Huế giả Việt kiều Mỹ lừa đảo triệu đô, lãnh 20 năm tù

April 27, 2022

Nguoi-viet

ĐÀ NẴNG, Việt Nam (NV) – Sau ba ngày xét xử sơ thẩm, hôm 27 Tháng Tư, Tòa Án Nhân Dân thành phố Đà Nẵng đã tuyên bị cáo Đoàn Thị Vy, ở Thừa Thiên Huế, 20 năm tù; bị cáo Ngô Thị Cúc Hoa, ngụ quận Hải Châu, 14 năm tù, cùng về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản.”

Báo VNExpress dẫn cáo trạng cho biết đầu năm 2017, bà Vy vào thành phố Đà Nẵng trốn nợ thì gặp bà Hoa đang làm tạp vụ ở khách sạn nên rủ cùng nhau đi lừa đảo.

Bị cáo Đoàn Thị Vy (trái) và Ngô Thị Cúc Hoa tại tòa án. (Hình: Nguyễn Tú/Thanh Niên)

Qua thông tin biết được dự án khu thương mại dịch vụ Vina Universal Paradise Sơn Tịnh Quảng Ngãi của công ty Phim Trường Vina đầu tư, sắp bị thu hồi do thiếu vốn, chậm tiến độ và đang bị cơ quan hữu trách xem xét chấm dứt hoạt động. Thế là bà Vy cùng bà Hoa lập các công ty ghi danh vốn điều lệ lớn, cung cấp hồ sơ ma chứng minh năng lực tài chính để có được chủ trương của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Ngãi cho nhận chuyển nhượng cổ phần dự án.

Cụ thể, bà Vy lập công ty Cổ Phần Đầu Tư Xây Dựng Bất Động Sản Thành Đạt, có vốn điều lệ là 90 tỷ đồng ($3.91 triệu) và công ty Cổ Phần Đoàn House, vốn đầu tư chủ sở hữu 119 tỷ đồng ($4.74 triệu), đồng thời làm hối phiếu xác nhận nguồn tiền vay 100 triệu euro nhưng thực tế hai công ty không có tài sản. Bà Hoa sau đó được bổ nhiệm làm giám đốc công ty Thành Đạt.

Tháng Tám, 2018, bà Vy hẹn đại diện công ty Phim Trường Vina tại Sài Gòn để “ký hợp đồng mua lại dự án.” Nhằm tạo lòng tin với đối tác, bà Vy giới thiệu mình là Nguyễn Thị Trúc Phương, Việt kiều Mỹ về Việt Nam sinh sống và làm ăn.

Dù không có tiền trả cho các cổ đông của công ty Phim Trường Vina để được nhận chuyển nhượng dự án, hợp đồng chuyển nhượng cổ phần chưa có hiệu lực, các lô đất thuộc dự án chưa được cho phép bán, nhưng bà Vy và bà Hoa đã liên hệ với bà Lê Thị Thủy, đại diện công ty Cổ Phần Đầu Tư và Phân Phối Bất Động Sản Lộc Sơn Hà Miền Trung, chào bán 182 lô đất của dự án khu thương mại dịch vụ Vina Universal Paradise với giá hơn 102 tỷ đồng ($4.4 triệu). Bà Vy cũng hứa cho công ty Lộc Sơn Hà làm đơn vị phân phối độc quyền.

Do nghĩ bà Vy là “Việt kiều Mỹ” làm ăn đàng hoàng, bà Thủy tin tưởng nên hôm 30 Tháng Tư, 2018, đã ký hợp đồng với công ty Thành Đạt, thanh toán gần 23 tỷ đồng ($1 triệu) và bị hai bà Vy, Hoa chiếm đoạt.

Phiên tòa xét xử vụ án Việt kiều “dỏm” lừa đảo chiếm đoạt tài sản. (Hình: Đ.C/Tuổi Trẻ)

Tháng Mười Một, 2018, khi công ty Lộc Sơn Hà nhận cọc bán đất ra thị trường thì bị công ty Phim Trường Vina tố cáo.

Trong khi đó bà Vy nói dối đi nước ngoài “chữa bệnh” nhưng bỏ trốn. Đến Tháng Chín, 2020, thì bị bắt theo lệnh truy nã về tội lừa đảo tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. (Tr.N) 

Cục Nghệ Thuật Biểu diễn lên tiếng vụ Khánh Ly hát bài ‘Gia tài của Mẹ’ ở Đà Lạt

 

Cục Nghệ Thuật Biểu diễn lên tiếng vụ Khánh Ly hát bài ‘Gia tài của Mẹ’ ở Đà Lạt

Đại diện Cục Nghệ thuật Biểu diễn thuộc Bộ Văn hóa- Thể thao- Du lịch Việt Nam, ông Trần Hướng Dương, vào ngày 30/6 lên tiếng về vụ việc ca sỹ hải ngoại Khánh Ly hát bài Gia tài Của Mẹ trong một chương trình tại Đà Lạt.

Truyền thông Nhà nước dẫn phát biểu của ông Trần Hướng Dương- Cục phó Cục Nghệ thuật Biểu diễn rằng, cơ quan của ông đã biết vụ việc và đang chờ Sở Văn hóa- Thể thao- Du lịch tỉnh Lâm Đồng xử lý. Sau đó Cục sẽ có biện pháp tiếp theo.

Bài hát Gia Tài Của Mẹ của cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn được ca sỹ Khánh Ly hát trong đêm nhạc “Dấu chân địa đàng” tổ chức tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng đêm 25/6.

Truyền thông Nhà nước đưa tin bài này không có trong danh sách 24 bài hát được ban tổ chức sự kiện đăng ký và được nhà chức trách địa phương đồng ý duyệt.

Ngay sau đêm diễn, Sở Văn hoá-Thể thao-Du lịch tỉnh Lâm Đồng đã phối hợp với cơ quan chức năng để làm việc với ban tổ chức đêm nhạc là Công ty TNHH Mây Lang Thang. Sở đã lập biên bản xử lý hành chính và đang cân nhắc mức xử phạt đối với doanh nghiệp này vì cho rằng việc công ty này tự ý để ca sỹ Khánh Ly biểu diễn bài hát trên là vi phạm quy định của pháp luật trong hoạt động biểu diễn nghệ thuật.

Nhiều người cho rằng bài hát Gia Tài Của Mẹ, được Trịnh Công Sơn sáng tác vào năm 1965, còn bị cấm ở Việt Nam là trong bài hát có câu “Hai mươi năm nội chiến từng ngày” ám chỉ thời gian 1945-1965. Trong thời gian này có cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kéo dài chín năm từ năm 1945 đến 1954.

Trả lời phỏng vấn Đài Á Châu Tự Do, bác sỹ quân y Đinh Đức Long, từ thành phố Hồ Chí Minh nói:

“Theo tôi biết bài hát mà bà Khánh Ly hát mà bị người ta nhắc nhở không nằm trong chương trình. Nếu một bài hát không nằm trong chương trình mà ca sỹ cứ hát còn ban tổ chức cứ để việc đó xảy ra thì cả hai bên đều có sai phạm và việc xử lý là đúng pháp luật.”

Bác sỹ Long cũng cho rằng nội dung bài hát Gia Tài Của Mẹ xuyên tạc lịch sử dân tộc vì đánh đồng cuộc kháng chiến chống Pháp với nội chiến, và do vậy việc nhà chức trách Việt Nam cấm bài hát này là đúng.

Tuy nhiên, những người dân khác như ông Nguyễn Quang Vinh ở Hà Nội và Quang Hữu Minh ở thành phố Hồ Chí Minh lại có quan điểm khác. Cả hai ông cho rằng việc nhà chức trách Việt Nam cấm bài hát này là vi phạm quyền tự do ngôn luận và ảnh hưởng xấu đến hoà giải dân tộc.

Trong tin nhắn với RFA, ông Nguyễn Quang Vinh cho biết:

“Nghị định số 144/2020/NĐ-CP của Cục Nghệ thuật biểu diễn (Bộ VH-TT&DL) được Chính phủ ban hành thay Nghị định 79 trước đây bỏ quy định cấp phép phổ biến ca khúc miền Nam trước 1975. Như vậy ca khúc “Gia tài của mẹ” của Trịnh Công Sơn nằm trong điều chỉnh của Nghị định này. Tôi không rõ lý do của việc ‘xử lý’ của Sở Văn hóa TT& DL tỉnh Lâm Đồng như thế nào, vì lý do gì nhưng việc ‘xử lý’ này là trái với Nghị định 144.”

Một nhà kinh tế ở tỉnh Nghệ An nói trong điều kiện ẩn danh vì lý do an ninh, rằng việc Lâm Đồng xử lý ban tổ chức đêm nhạc của Khánh Ly là: “một hành động dại dột và phản tác dụng vì trong thời đại thế giới thông tin phẳng, việc xử phạt càng gây ra sự tò mò cho dân chúng và kích thích sự phát tán. Nếu không xử phạt thì nhiều người không biết nhưng sau sự việc này thì rất nhiều trong số họ tìm hiểu về bài hát.”

Ông cũng cho rằng lý do việc xử phạt cũng là do sự máy móc và sợ trách nhiệm của viên chức nhà nước. Họ thường hành động theo văn bản chỉ đạo mà không hiểu hậu quả sẽ đến sau đó.

Ông nhấn mạnh mọi cấm đoán ở Việt Nam, trong đó có cấm nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật biểu hiện sự độc quyền chân lý của Đảng.

Ông nói thêm, Nhà nước Việt Nam hiện tại hay nói về chính sách hoà giải dân tộc, tuy nhiên, Chính phủ chỉ nói đầu môi để tuyên truyền chứ không có một kế hoạch hay chương trình cụ thể hoặc biện pháp thực hiện.

“Họ cứ nói hoà giải hoà hợp suông thế nhưng những gì không có lợi cho Đảng hay một phe nhóm nào đó trong đảng hoặc thậm chí cho chính những người thực hiện trực tiếp, thì họ không làm.”

Ông Quang Hữu Minh nói nhiều bài hát bị nhà chức trách Việt Nam cấm vì nội dung nói lên thực trạng của Việt Nam.

Gia Tài Của Mẹ là một trong ba bài hát của Trịnh Công Sơn hiện chưa được nhà chức trách Việt Nam cho phép biểu diễn ở Việt Nam. Hai bài kia là Bài Ca Dành Cho Những Xác Người và Hát Cho Người Nằm Xuống.

Có hơn 50 ngàn lượt tìm kiếm từ khóa “Gia tài của mẹ” trên công cụ tìm kiếm Google chỉ trong ngày 29/6, sau khi có thông tin người tổ chức đêm diễn của ca sĩ Khánh Ly bị mời lên làm việc vì bà hát ca khúc chưa được cấp phép của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Hồi năm 2020, chính quyền bỏ quy định cấp phép phổ biến ca khúc trước năm 1975, thay vào đó, Nhà nước sẽ quản lý tác phẩm bằng cách hậu kiểm.

https://www.rfa.org/…/performing-arts-department-on-the…

Ai bảo dân VN không có óc sáng tạo

Ai bảo dân VN không có óc sáng tạo…

Sẵn dịp đang có vụ ăn tô phở gà bị tính 300.000 đ, khách phản đối thì chủ quán nói ăn sao không hỏi giá trước, để tôi kể bạn nghe chuyện này, thật 100%, đọc thôi bỏ qua, đừng kể ai nghe nhé!

Có anh bạn người Miền Nam ra Bắc công tác, vào ăn phở, bị tính 80.000 đ, trong khi mọi người xung quanh chỉ trả 40.000 đ, anh hỏi tại sao thì được trả lời: giá nó thế ai bảo anh không hỏi trước!

Anh cay lắm nhưng rút kinh nghiệm, mai đi chùa, ghé vào mua dừa uống. Lần này anh kinh nghiệm hỏi kỹ : bao tiền một trái! 20.000 nghìn! Ok cho hai quả!

Chút tính tiền, hai quả 100.000đ! Anh nói tôi hỏi rõ là 20.000 một quả mà! Đúng, quả này 20.000đ còn quả kia 80.000đ, 2 quả 100.000đ giờ có trả không hay ăn dao chặt dừa?

Anh trả tiền xong cay lắm! Mai ghé ăn ốc ghẹ ở quán lề đường! Anh gọi hai ba đĩa, bày lên mâm hỏi rất rõ: tất cả mâm này bao nhiêu tiền? Chủ quán nói 150 nghìn! Anh đắc chí ngồi ăn!

Ăn xong tính tiền, cho xin 300.000 ạ, đồ ăn 150.000 đ, chỗ ngồi 150.000 đ ai bảo không hỏi trước!

Anh ấy bỏ dở công tác bỏ về nhà luôn!

Vậy đó, một dân tộc chả lo để đầu óc suy nghĩ làm ra của cải vật chất, chỉ toàn nghĩ cách đẽo tiền của nhau thôi thì bao giờ mới khá được!

Từ fb Dennie Lam

Việc ướp xác Hồ Chí Minh – Tác Giả: Trần Gia Phụng

Nhật Duy is with Ulitmate Quạt  

Việc ướp xác Hồ Chí Minh

Tác Giả: Trần Gia Phụng

Lăng HCM, một công trình gây tranh cãi.

Tuần qua, nhà nước cộng sản Việt Nam quyết định thành lập một hội đồng khoa học gồm người Việt và người Nga để kiểm tra, đánh giá trạng thái thi thể Hồ Chí Minh (HCM) đặt trong lăng mộ ở Hà Nội. (BBC News – Tiếng Việt, ngày 20-6-2019.) Nhân đây, xin trình bày lại diễn tiến việc ướp xác HCM.

Hồ Chí Minh chết ngày 2-9-1969. Ngày 2-9 là quốc khánh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tức Bắc Việt Nam trước 1975, nên Bộ chính trị đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản) đã đổi ngày chết của HCM là 3-9-1969.

Hồ Chí Minh để lại 3 di chúc khác nhau. Di chúc đầu tiên do HCM đánh máy và ký tên ngày 15-5-1965, có chữ ký “chứng kiến” của Lê Duẩn, trong đó HCM viết: “Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, nói chữ là “hỏa táng”. Tôi mong rằng cách “hỏa táng” dần dần sẽ được phổ biến…Tro xương thì tìm một quả đồi mà chôn. Gần Tam Đảo và Ba Vì như hình có nhiều đồi tốt. Trên mộ, nên xây 1 cái nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi…” (Hồ Chí Minh, Toàn văn di chúc chủ tịch Hồ Chí Minh, TpHCM: Nxb Thanh Niên, 2000, tt. 13-16, 26-29.)

Trong bản di chúc viết sau đó vào năm 1968, HCM sửa đổi đôi chút về việc chôn tro cốt, theo đó “…Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là hỏa táng… Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành. Một hộp cho miền Bắc. Một hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam. Đồng bào mỗi miền nên chọn 1 quả đồi mà chôn hộp tro đó. Trên mả, không nên có bia đá tượng đồng, mà nên xây một ngôi nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi.” (Hồ Chí Minh, sđd. tt. 13-16, 26-29.)

Di chúc thứ ba của HCM đề ngày 10-5-1969 bị Lê Duẩn, bí thư thứ nhứt đảng Lao Động, ra lệnh “cắt bỏ, sửa chửa vài chỗ” rồi cũng do Lê Duẩn công bố trong ngày lễ tang HCM là ngày 9-9-1969. (Hồ Chí Minh, sđd. tt. 13-16, 26-29.) Bản di chúc sửa đổi nầy của HCM hoàn toàn không đề cập đến việc chôn cất HCM.

Giữa hai thời điểm HCM viết các bản di chúc (1965-1968), vào tháng 8-1967, Viện lăng Lenin (Liên Xô) được thông báo cho biết tình hình sức khỏe HCM càng ngày càng suy yếu, và nhận được chỉ thị đặc biệt từ Bộ chính trị đảng Cộng Sản Liên Xô ra lệnh chuẩn bị ướp xác HCM.

Ngày 14-9-1967, một phái bộ đặc biệt gồm ba bác sĩ Việt Nam đến Moscow. Đó là các ông Nguyễn Gia Quyền, Chủ nhiệm Khoa Giải phẩu Quân y viện 108; Lê Ngọc Mẫn, Chủ nhiệm Khoa Nội tiết Bệnh viện Bạch Mai; Lê Điều, Chủ nhiệm Khoa Ngoại bệnh viện Việt Xô. Các bác sĩ nầy ở lại Moscow 7 tháng để học tập cách ướp và bảo vệ xác trong giai đoạn đầu từ 15 đến 20 ngày.

Giai đoạn kế tiếp là phần việc sẽ do các chuyên gia Liên Xô đảm trách. Tổ ướp xác Việt Nam chính thức được thành lập vào tháng 6-1968 do bác sĩ Nguyễn Gia Quyền đứng đầu. (Tuần báo Phụ Nữ, Hà Nội, 6-1-2000. Báo Á Châu, Paris, số 43, tháng 3-2000, tt. 9-10, trích thuật lại)

Như thế, việc ướp xác HCM đã được Bộ chính trị đảng Lao Động đặt ra ngay khi HCM còn sống vào năm 1967. Khi đó HCM còn sáng suốt, làm bài thơ chúc Tết năm 1968, và đảng Lao Động đã dùng bài thơ nầy làm lệnh cho bộ đội CS tổng tấn công Tết Mậu Thân (1968) ở Nam Việt Nam, do chính HCM đọctrên làn sóng đài phát thanh Hà Nội. Chắc chắn HCM phải biết quyết định ướp xác của Bộ chính trị đảng Lao Động, nhưng HCM không tỏ một dấu hiệu nào ngăn cản. Bài thơ chúc Tết năm 1968 như sau:

Hồ Chí Minh làm thinh, tránh có ý kiến về việc ướp xác, có nghĩa là HCM đồng ý với quyết định của Bộ chính trị đảng Lao Động. Hồ Chí Minh hành xử rất khôn khéo, vì không lẽ HCM tự nói ra rằng hãy ướp xác mình sau khi chết. Hồ Chí Minh để cho các thuộc hạ tiến hành quyết định của họ, rất hạp với ý thích sùng bái cá nhân của HCM.

Dầu biết rõ sẽ được ướp xác, nhưng trong di chúc viết năm 1968, HCM lại viết rằng: “…Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là “hỏa táng”… Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành. Một hộp cho miền Bắc. Một hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam…” Hồ Chí Minh không nghĩ đến việc đi thăm cha mẹ, ông bà sau khi chết, mà HCM lại lo đi thăm người nước ngoài chưa một lần gặp mặt. Trung thành với các lãnh tụ CS quốc tế đến thế là cùng. Lời di chúc nầy một lần nữa cho thấy suốt đời, cho đến khi gần chết, HCM luôn luôn thiếu thành thật, không thẳng thắn trong lời nói và việc làm, nếu không muốn nói là HCM luôn luôn đạo đức giả.

Gần ba tháng sau khi HCM chết, trong cuộc họp ngày 29-11-1969, Bộ chính trị đảng Lao Động chính thức ra quyết định ướp xác HCM và xây dựng một lăng mộ phản ảnh những nét hiện đại, nhưng vẫn giữ đuợc đặc tính dân tộc cổ truyền. (William J. Duiker, Ho Chi Minh, Nxb. Hyperion, New York, 2000. tr. 565, và phần chú thích số 3 tr. 669.) Nếu để đến ba tháng mới ướp xác, thì cái xác HCM đã bị ung thối, nên chắc chắn việc ướp xác đã được Bộ chính trị đảng Lao Động cho thi hành ngay sau khi HCM chết.

Theo tiết lộ từ các chuyên viên Viện lăng Lenin, ngày 28-8-1969, đoàn chuyên viên y khoa Liên Xô gồm 5 thành viên của Viện lăng Lenin là các giáo sư Debov (trưởng đoàn), Polukhin. Michaelov, Kharascov và Saterov đến Hà Nội.

Ngày 2-9, lúc 11 giờ các giáo sư nầy đến Quân y viện 108 khám nghiệm xác HCM vừa được đưa đến đặt ở đây, với sự có mặt của Nguyễn Lương Bằng, Lê Quang Đạo, Phùng Thế Tài. Hai bác sĩ Polukhin và Mikhaelov bắt đầu mổ xác HCM với sự phụ tá của hai bác sĩ Việt Nam. Sau ba ngày theo dõi, người ta di chuyển xác HCM đến Hội trường Ba Đình tối 5-9-1969. (Tuần báo Phụ Nữ, Hà Nội, 6-1-2000.)

Lúc đầu, các chuyên gia Liên Xô muốn đưa xác HCM về Moscow ướp, vì theo họ việc nầy không thể thực hiện được ở Hà Nội do điều kiện kỹ thuật ở đây không đầy đủ. Giáo sư trưởng đoàn Debov đã báo cho Lê Duẩn biết ý kiến nầy, nhưng Lê Duẩn sợ Liên Xô đem xác HCM về Liên Xô làm con tin, nên phản đối.

Lúc đó, thủ tướng Liên Xô là Alexei Kosygin, đang qua Hà Nội viếng tang HCM, yêu cầu toán chuyên gia tìm cách ướp xác HCM tại Hà Nội, và chính phủ Liên Xô sẽ cung cấp đầy đủ tiện nghi để làm việc. (Tuần báo Phụ Nữ, Hà Nội, 6-1-2000.) Chiến tranh càng ngày càng ác liệt. Hà Nội bị máy bay Hoa Kỳ oanh tạc, nên xác HCM cũng như toán chuyên gia Liên Xô phải sơ tán lên một hang động rộng rãi bên bờ sông Đà.

Cuối cùng, sau 8 tháng ướp xác với những điều kiện khí hậu nhiệt đới và phải di chuyển vì sơ tán, các chuyên gia Liên Xô tin rằng xác HCM có thể duy trì được trong thời gian dài. Sau khi Hiệp định Paris được ký kết ngày 27-1-1973, Hoa Kỳ ngưng hẳn cuộc oanh tạc Bắc Việt Nam, xác của HCM mới được đưa về Hà Nội năm 1975. (Tuần báo Phụ Nữ, Hà Nội, 6-1-2000.)

Khi Bộ chính trị đảng Lao Động lúc đó quyết định xây lăng mộ và ướp xác HCM, có hai câu hỏi được đặt ra là: Phải chăng họ làm thế vì kính trọng HCM? Và tại sao CS duy vật lại xây lăng như kiểu các vua chúa ngày xưa?

Thứ nhứt, HCM là lãnh tụ tối cao của đảng Lao Động. Bề ngoài HCM luôn luôn được các thuộc hạ tôn kính, nhưng thực tế bên trong đảng Lao Động, các thuộc hạ của HCM nhiều lần chứng tỏ thiếu kính trọng HCM trong những năm cuối đời.

Ví dụ cụ thể là vụ bà Xuân, vợ HCM bị Trần Quốc Hoàn hiếp dâm rồi giết. Theo một tài liệu tiết lộ sau năm 1975, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trần Quốc Hoàn lại còn âm mưu sát hại HCM vào năm 1967. Tài liệu nầy cho biết người phi công tên là Thắng, lái chuyến bay đưa HCM từ Bắc Kinh trở về đến Hà Nội ngày 23-12-1967, khi đáp xuống phi trường thì “… thấy đèn hiệu đường băng chệch 150 không hạ cánh được, đã điện hỏi nhiều lần nhưng không trả lời. Anh bèn hạ cánh theo trí nhớ. May mà an toàn.” (VietBao Online, California, số 2359.) Sau đó, khi HCM chết năm 1969, các thuộc hạ của HCM chẳng kính trọng di chúc của HCM và làm trái với những điều HCM đã dặn.

Thứ hai, CS chủ trương duy vật vô thần, chống lại các tín ngưỡng, tiêu diệt các tôn giáo, triệt hạ các đền đài, chùa chiền và nhà thờ, tại sao lại đi ngược di chúc HCM, xây lăng, ướp xác HCM để người dân chiêm bái?

Trước khi chết, HCM viết trong di chúc: “…Vì vậy tôi để sẵn mấy lời nầy, fòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Cac Mac, cụ Lênin và các vị c. m. đàn anh khác…” (Ban nghiên cứu lịch sử đảng trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, in lần thứ tư, Hà Nội: Nxb Sự Thật, 1975, tr.71.)

Điều nầy có nghĩa là trước khi chết, HCM tin rằng linh hồn con người còn hiện hữu sau khi qua đời, và cũng có nghĩa là HCM đã phản bác lại chủ nghĩa duy vật, quay về với tín ngưỡng linh hồn cổ xưa của con người và của dân tộc.

Về phía bộ chính trị đảng Lao Động, chắc chắn không phải vì tin vào sự hiện hữu của linh hồn, mà bộ chính trị đảng Lao Động, quyết định xây lăng mộ cho HCM. Để bào chữa cho việc sửa đổi di chúc HCM của ban lãnh đạo đảng Lao Động năm 1969, không hỏa táng mà lại ướp xác HCM, thông báo của ban lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1989 (20 năm sau) viết như sau: “Sở dĩ trước đây chưa công bố đoạn Bác viết về yêu cầu hỏa táng là vì thể theo nguyện vọng và tình cảm của nhân dân, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) thấy cần thiết phải giữ gìn lâu dài thi hài của Bác để sau nầy đồng bào cả nước, nhất là đồng bào miền Nam, bè bạn quốc tế có điều kiện tới viếng Bác, thể hiện tình cảm sâu đậm với Bác. Chính vì lẽ đó mà chúng ta đã xin phép Bác về điểm này được làm khác lời Bác dặn.” (Hồ Chí Minh, Toàn văn di chúc…, sđd. tr. 8.)

Hồ Chí Minh đã chết thì làm sao còn xin phép được nữa? Đó chỉ là cách ngụy biện để che đậy những ý đồ riêng tư của đảng Lao Động mà thôi. Chẳng cần tìm hiểu ý đồ xây lăng mộ cho HCM là ý đồ gì, nhưng chắc chắn việc ướp xác rồi bảo trì xác ướp HCM trong 50 năm qua rất khó khăn và rất tốn kém. Riêng ngân sách vận hành lăng mộ HCM năm 2016 ngốn hết 318,730 tỷ đồng Việt Nam, tương đương với ngân sách một bộ trong chính phủ trung ương. (Báo điện tử Tiếng Dân, ngày 22-6-2019.) Đó là tiền thuế của dân chứ của ai vào đây?

Đảng Lao Động đổi tên thành đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1976, muốn giữ gìn xây lăng để “để sau nầy đồng bào cả nước, nhất là đồng bào miền Nam, bè bạn quốc tế có điều kiện tới viếng”. Tuy nhiên ngày nay, những khách quý biết tự trọng như tổng thống Pháp, tổng thống Hoa Kỳ, khi đến thăm Việt Nam, có ai đến thăm lăng HCM đâu? Còn thường dân Việt Nam thì ít thăm quá, đảng CS phải ra lệnh tổ chức phát bánh mì cho trẻ con đến thăm lăng HCM, mới có khách vãng lai.

Rồi một ngày kia, khi bão nổi lên rồi, thì không biết số phận cái xác của tên tội đồ bán nước sẽ như thế nào?

TRẦN GIA PHỤNG

(Toronto, 23-6-2019)