S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Vợ Tù

Ảnh của tuongnangtien

The Catcher in the Rye xuất bản năm 1951, khi tôi chưa kịp mở mắt chào đời. Tuy hai phần ba thế kỷ đã qua, và tôi cũng sắp sửa từ giã cõi trần (tới nơi rồi) nhưng vẫn chưa bao giờ tìm đọc nguyên văn tác phẩm này của J.D Salinger cả.

Lý do, giản dị, chỉ vì tôi đã đọc Bắt Trẻ Đồng Xanh (Thanh Hiên xb 1967) của Phùng Khánh tự lâu rồi. Dịch giả hẳn là phải thông thạo Anh ngữ lắm nên bản tiếng Việt vô cùng gẫy gọn, trong sáng (và cũng rất tài hoa) khiến tôi sợ rằng đọc nguyên tác chưa chắc đã thích bằng. Nó hay đến độ mà nhà văn Võ Phiến cũng có một tạp luận) cùng tên (“Bắt Trẻ Đồng Xanh”) vì ông đã mượn tựa từ bản dịch của ni sư Thích Nữ Trí Hải.

Bài viết này xuất hiện lần đầu trên tạp chí Bách Khoa – phát hành từ Sài Gòn, vào tháng 10 năm 1968 – và đến nay vẫn còn được độc giả quan tâm, dù hơn nửa thế kỷ đã qua. Một trong những vấn đề được tác giả đề cập đến là số phận bi đát của những người phụ nữ miền Nam, có chồng (và mất chồng) chỉ trong vài hôm – hoặc vài tuần – sau Hiệp Định Genève :

“Cuộc chiến này xuất hiện ngay từ những cuộc liên hoan chia tay giữa kẻ ở người đi trong thời hạn 300 ngày tập kết, những cuộc liên hoan có hát có múa, có bánh trái tiệc tùng… Nó xuất hiện ngay từ những đám cưới vội vã sau ngày đình chiến, những đám cưới lắm khi tổ chức tập thể, do trưởng cơ quan, trưởng đơn vị chủ tọa. Nạn nhân đầu tiên của cuộc chiến này không phải là những kẻ ngã gục vào 1958, 1959, mà là những cô gái tức khắc biến thành góa bụa từ 1954.”

Sáu năm sau Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được thành lập, vào hôm 20 tháng 12 năm 1960, tại huyện Châu Thành – tỉnh Tây Ninh. Tuy được “dựng” lên ở miền Nam  nhưng phần lớn cán binh (và tử sĩ) lại là người miền Bắc, theo ghi nhận của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện :

Trại lính, trại tù, người đi không ngớt

Người về thưa thớt dăm ba

Trẻ con đói, xanh như tàu lá

Cày bừa phụ nữ đảm đang

Chốn thôn trang vắng bóng trai làng

Giấy báo tử rơi đầy mái rạ! (“Đất Này Chẳng Có Niềm Vui” – 1965)

Mười năm sau năm nữa (năm1975) thì chiến tranh chấm dứt. Tuy hòa bình đến nhưng trại lính, trại tù, người (vẫn) đi không ngớt. Bọn trẻ thì đi thi hành nghĩa vụ quốc tế (giải phóng nước bạn Cambodia), còn lớp già (thuộc phe thua trận) thì đi … học tập cải tạo.

Dù được bên thắng cuộc hứa hẹn là thời gian “thụ huấn” chỉ vài tuần thôi nhưng thực tế thì người về thưa thớt dăm ba, và không ít kẻ đã ra đi vĩnh viễn, để lại vô số những vành khăn tang trên đầu cô phụ (vào giữa thời bình) mà chả hề có một tờ thư hay mảnh giấy báo tử nào ráo trọi.

Nếu còn sống sót, kẻ thất trận cuối cùng cũng đã rời trại tù vào những năm đầu của thập niên 1990, sau gần 20 năm bị giam cầm. Hơn một phần tư thế kỷ đã qua. Tù nhân chính trị ở Việt Nam hiện nay đều thuộc vào lớp người mới, với tên gọi mới: tù nhân lương tâm – TNLT.

Hôm 22 tháng 6 năm 2021, VOA cho biết :

“Theo báo cáo mới được đưa ra của VNHR, ít nhất 46 người đã bị bắt giữ và truy tố tính đến ngày 31/5 vì vi phạm Bộ luật Hình sự 2015 sau khi ‘bày tỏ quan điểm chính trị của họ thông qua mạng xã hội’, một cáo buộc mà các nhà chức trách gọi là ‘chống phá nhà nước’. Nhóm nhân quyền ở California cho biết rằng những người khác bị bắt trong năm qua bao gồm các nhà hoạt động chính trị, nhà báo độc lập và những người khiếu kiện về quyền đất đai.”

Ngày 15 tháng 7 năm 2022, bỉnh bút Nguyễn Văn Lung (Tạp Chí Luật Khoa) cập nhật thêm vài ba dữ kiện :

“Trong nửa đầu năm 2022, đã có 16 người bị bắt liên quan đến những vấn đề như quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí hay quyền tự do hoạt động hội nhóm… Con số bị bắt đó tương đương với các năm trước, khi mà cả năm 2021 và 2020 đều có 39 người bị bắt vì những vấn đề nhân quyền. Hiện tượng này có thể gọi là ‘đàn áp một cách ổn định’. Những con số đáng buồn cho thấy không có tiến triển gì trong việc cải thiện tình hình nhân quyền trong nước.”

 

 

Tuy tuyệt nhiên “không có tiến triển gì trong việc cải thiện tình hình nhân quyền trong nước” nhưng đã có sự thay đổi lớn lao (và khá bất ngờ) nơi thái độ của không ít nạn nhân. Phụ nữ Việt Nam hiện nay không còn chịu nín lặng trong cảnh góa bụa, ngay sau ngày cưới, như lúc đình chiến 1954. Họ cũng không cắn răng và nuốt nước mắt, trước cảnh gia đình tan nát (chỉ vì chả may thuộc bên thua cuộc) như sau Đại Thắng Mùa Xuân 1975 nữa.

Những người vợ tù bây giờ đã cùng chồng tích cực nhận lãnh vai trò “tác nhân,” thay vì chỉ nhẫn nhục “cam chịu lịch sử” như lớp người đi trước, dù họ vẫn bị đe dọa và sách nhiễu thường xuyên :

Chính sách thô bạo và ti tiện cố hữu của nhà đương cuộc Hà Nội, xem ra, không có chút tác dụng nào đáng kể. Phản ứng và cách hành xử của những người vợ tù hiện nay, thế hệ sinh trưởng trong lòng cách mạng, đã hoàn toàn khác trước.

Xin ghi lại dăm ba trường hợp, theo thứ tự abc, để rộng đường dư luận :

– Bùi Huệ, phu nhân của TNLT Dũng Vova: “Đến nay Vova được sự ủng hộ và quý mến của không ít các bà con, anh em cùng lý tưởng. Nó giống như vị ngọt của cà phê đã trải qua cái đắng.”

– Đỗ Lê Na, phu nhân của TNLT Lê Trọng Hùng: “Tôi cũng muốn cho người dân ở trong nước, đặc biệt là những gia đình đấu tranh, một số gia đình thì cũng còn e ngại trong việc người thân của mình bị bắt bớ, có những gia đình không dám thẳng thắn lên tiếng, thì tôi muốn qua cái câu chuyện của gia đình mình để cho mọi người biết rằng là cái quyền lên tiếng để chống lại áp bức bất công – đó là quyền của mỗi người, và nếu chúng ta làm đúng thì chúng ta sẽ không có gì phải sợ hãi họ cả.”

– Trịnh Nhung, phu nhân của TNLT Bùi Văn Thuận: “Cháu/em là vợ của anh Thuận, luôn tự hào về anh, ủng hộ và tin tưởng rằng anh không làm gì sai cả, nên sẽ luôn đồng hành cùng anh trên con đường khó khăn phía trước.”

– Đỗ Thu, phu nhân của TNLT Trịnh Bá Phương: “Tôi đã chuẩn bị sẵn tinh thần. Tôi nghĩ họ sẽ không để yên cho tôi đâu.”

– Nguyễn Thị Ánh Tuyết, hôn thê của TNLT Đỗ Nam Trung: Sau này Trung về chắc chắn chúng tôi sẽ thực hiện nốt những việc còn dang dở, mà chúng tôi đã có những dự tính cho tương lai của hai đứa. Và tôi cũng sẽ kể cho Trung nghe rất nhiều về những tháng ngày đã xa cách này, tôi đã nhớ Trung biết bao nhiêu…”

– Lê Bích Vượng, phu nhân của TNLT Nguyễn Lân Thắng: “Bốn tuần. Ba mươi ngày. Một tháng. Nghe nói tóc anh bạc nhiều. Nghe nói anh gầy đi. Nghe nói anh già đi đến vài tuổi. Uh. Không sao. Mọi người luôn bên anh – Như anh đã có mặt ở những vùng đất khó khăn, những khi bão lũ, thiên tai, nhân hoạ … tàn phá.”

 

Không chỉ thân nhân mà bằng hữu, hàng xóm, láng giềng cũng thế. Thái độ của họ đối với những TNLT của chế độ hiện hành hoàn toàn đã khác. Hình ảnh, biểu ngữ, cùng những bó hoa rực rỡ và bia bọt tràn lan khi mọi người chào đón Phạm Thanh NghiênCấn Thị ThêuBa Sàm Nguyễn Hữu Vinh (như những vị anh thư hay anh hùng của thời đại) đã khiến cho cư sỹ Phạm Nguyên Trường cảm thán: “Trong nước CS mà đón tù chính trị về vui vẻ như thế này thì thời gian tồn tại của chế độ có thể kéo dài bao lâu?”

Ơ hay, cái ông này hay nhỉ? ̣Sao đã tu tại gia (và đã muốn gác bỏ chuyện thế sự ngoài tai) mà vẫn còn “bao la” thế? “Thời gian tồn tại của chế độ còn có thể kéo dài bao lâu” nữa là chuyện của “các đồng chí lãnh đạo ở trên,” chứ việc gì mình phải bận tâm!

Vì sao con người ngày càng mê tín dị đoan một cách mông muội?

Vì sao con người ngày càng mê tín dị đoan một cách mông muội?

Chu Mộng Long

Mê tín dị đoan có từ thời cổ sơ, mông muội. Dù các vĩ nhân tìm cách khai sáng nhiều lần, nhưng con người mông muội thì vẫn mông muội. Sự mông muội tàn sát con người hơn bất cứ sự tấn công nào từ bên ngoài.

Huyền thoại Hy Lạp ghi nhận, khi Prometheus giao cho người em sáng tạo ra loài người, so với vạn vật, loài người là giống yếu đuối nhất: khó sinh đẻ, dễ chết yểu trước sự tấn công của giống loài khác, dù đó là con vật nhỏ bé nhất, như virut.

Prometheus thấy vậy mới cho con người trí khôn để tự khắc phục sự yếu đuối của nó.

Nhưng trí khôn của loài người thì phải hình thành qua hàng triệu năm. Trừ số ít những người hiểu biết hay giác ngộ, đa số phát triển trí khôn theo hai hướng và hình thành hai loại người: 1) Kẻ khôn ngoan cúi đầu khuất phục tất cả để cầu an, thậm chí hy vọng chết rồi hóa thân vào kiếp khác để tiếp tục sống, và như vậy, tốt nhất là cái gì cũng tôn thờ, quỳ lạy và hiến tế; 2) Lợi dụng sự yếu đuối của đám đông, kẻ khôn lỏi bịa chuyện đồng bóng với đủ loại thần linh, ma quỷ để đe dọa, và như vậy, loại người này có thể thống trị cả đám đông để trục lợi.

Loại thứ nhất cũng được xếp vào trí khôn nhưng khôn ngoan, đúng nghĩa là ngoan ngoãn để được bề trên chiếu cố, gọi ban phúc. Ban đầu đơn giản là người ta thờ cúng tự nhiên, mong mưa thuận gió hòa để kiếm sống. Họ thờ cúng từ cái to lớn như Trời, Đất, Núi, Sông… cho đến thờ cúng những loài vật nhỏ nhất như con chuột (tục cúng ông Tý), cả con virut (cúng trừ tà trong dịch bệnh). Nhờ trí khôn này, con người tự an ủi và nương theo tự nhiên mà tồn tại. “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành” thành phương châm sống. Đến khi gặp thiên tai nặng nề, sự khôn ngoan này thành ngu muội, đến mức giết người lấy máu hay tế sống đồng loại cho thánh thần, ma quỷ. Tục trộn thịt người tế thần Zeus ở Hy Lạp, tế thần Baal ở Trung Đông, tế gái đồng trinh cho Hà Bá ở vùng sông nước là những điển hình.

Loại thứ hai hình thành nên cường quyền khi sự khôn lỏi, tức lưu manh, của nó nấp bóng thần quyền. Không ngẫu nhiên mà các bộ tộc nguyên thủy đều có các thầy mo đóng vai trò thủ lĩnh tinh thần của cả bộ tộc. Quan hệ giữa thầy mo và tù trưởng cứ như là quan hệ giữa cấp ủy và chính quyền vậy. Thầy mo nhân danh thánh thần, ra mệnh lệnh và phán xét tất cả. Vậy là vô số chuyện thần thánh, ma quỷ ra đời. Chúng tạo ra các nghi lễ gồm nghi thức và lễ vật bắt cả cộng đồng phải quy phục, hiến tế, bất khả kháng. Sự ngu muội của đám đông đã vỗ béo cho các thầy mo và kẻ đứng đầu, nhưng lại nhân danh vì thánh thần. Sự man rợ ngày một man rợ hơn. Khi kẻ có quyền lực được phong thần thì người ta thi nhau hiến tế, đến mức một thằng đàn ông giàu có chết đi còn được chôn sống theo cả đàn bà, người hầu để nêu gương tận tụy, hy sinh.

Mê tín dị đoan là một thứ tôn giáo thế tục. Sống sao chết vậy. Sống tham ăn, chết cũng tham ăn mới bày ra cũng tế mâm cao cỗ đầy. Sống hối lộ chết cũng hối lộ mới có chuyện buôn thần bán thánh trong tâm linh đi liền với buôn quan bán tước trong quan hệ thế tục.

Đó chính là lý do Đức Thích Ca, Lão Tử, Chúa Jesus làm cuộc cách mạng tín ngưỡng, kêu gọi thoát tục. Tất cả mọi mê tín dị đoan đều xếp vào tà giáo.

Tín ngưỡng thuộc đức tin: tin vào đạo trời (khác luật thế tục), tin vào điều thiện và tình thương. Tín ngưỡng khác với mê tín dị đoan, mà bản chất của nó là bịa đặt chuyện hoang đường để đe dọa, để vì lợi ích cá nhân, trục lợi. Đã mê tín dị đoan thì không việc xấu, việc ác nào người ta không làm. Nhiều khi cướp, giết, hiếp, chiến tranh, khủng bố chỉ vì mê tín dị đoan. Điều này dễ chứng minh khi khảo cổ các tập tục nguyên thủy cho đến xung đột tôn giáo trong cuộc sống hiện đại.

Các cuộc cách mạng tôn giáo, mặc dù vạch ra sự khác biệt giữa tín ngưỡng và mê tín dị đoan, nhưng các vĩ nhân khai sáng cho nhân loại này lại không ngờ chính tôn giáo do họ lập ra cũng rơi vào mê tín dị đoan. Điều này cũng giống như nhiều quốc gia ra luật “cấm tuyên truyền mê tín dị đoan”, “nói không với tà giáo” nhưng càng cấm, càng hô khẩu hiệu, mê tín dị đoan hay tà giáo càng mọc ra như nấm, cuối cùng chính tà bất phân, xã hội rơi vào rối loạn cực đỉnh. Càng khai sáng con người càng mông muội.

Trong khi các tôn giáo lớn trên thế giới đang tìm cách thoát tục, tức thoát khỏi mê tín dị đoan thì Phật giáo lại sa lầy một cách nghiêm trọng. Kể từ khi du nhập vào Trung Hoa, cái Niết Bàn được treo nơi Tây phương Cực lạc và 18 tầng Địa Ngục rùng rợn đặt dưới chân loài người, Phật giáo tự lột trần chiếc áo thầy tu để đưa con người về trạng thái nguyên thủy. Không khác các thầy mo cổ đại, các nhà tu tha hồ thêu dệt vô số chuyện thánh thần, ma quỷ để đe dọa mọi người, bắt mọi người phải quy phục. Các chiêu bài: “Càng nghèo càng phải cúng dường Tam bảo càng nhiều thì mới hết nghèo”, “Ăn cắp là việc làm sai quấy nhưng đem của ăn cắp cúng dường thì không sai quấy”… có khác gì thầy mo thời bộ tộc nguyên thủy bày trò đồng bóng vắt kiệt sức người nghèo, hút máu người bệnh để tăng cường sức mạnh cho các thế lực thống trị?

Một dân tộc ngày càng mê tín dị đoan, chứng tỏ đó là một dân tộc yếu đuối, bệnh hoạn, có khôn ngoan và cũng đầy khôn lỏi như thuở ban đầu tạo hóa mới sinh ra. Thiên nhiên khắc nghiệt, cường quyền tàn bạo đã gieo rắc sự sợ hãi đến tột cùng trong tâm lý mỗi người dân, đó là mảnh đất màu mỡ cho bọn quý tộc, tăng lữ bịa ra vô số chuyện đồng bóng để đe dọa, để trục lợi. Trong kế sinh nhai thì chỉ chờ vận hên xui, may rủi, ít người đủ tự tin về chính mình cũng là nguyên nhân biến con ngưởi trở thành miếng mồi ngon cho những kẻ khoác áo thầy tu được cường quyền chống lưng. Một dân tộc mà luôn bị vong ám, vọng đè như vậy thì còn nặng nề hơn đeo trăm thứ gông xiềng, và ba trăm năm nữa vẫn không cất đầu lên được. Không chỉ không cất đầu lên được mà còn đem thứ sức mạnh của sự mông muội ra tàn phá núi rừng, tàn sát động vật… và kết quả là tự sát bằng sự đói nghèo và dịch bệnh.

C.M.L.

Nguồn: FB Chu Mộng Long

QUÁN NHẬU

Tạp chí NƯỚC ĐỨC

“Dân Việt Nam tỏ vẻ hạnh phúc khi họ ngồi trước ly bia và tạm quên những thử thách trước mắt nhưng sai ở chỗ, họ vẫn phải đối diện với những thử thách sáng hôm sau.”

QUÁN NHẬU

Mấy bạn Úc đi Việt Nam về kể đủ thứ chuyện. Mình hỏi một đứa: “Mày đi Việt Nam, cái gì làm cho mày ngạc nhiên nhất?”

Nó trả lời không hề đắn đo: “Quán nhậu!”

Mình hỏi: “Tại sao mày ngạc nhiên chuyện quán nhậu?”

Nó nói:

“Tao đi gần hết thế giới, chưa thấy có quốc gia nào nhiều quán nhậu như ở Việt Nam. Tao đi từ Hà Nội vô tới Sài Gòn, dừng lại ở Huế, Hội An, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu, không có thành phố nào mà không tràn ngập quán nhậu. Ở Ireland, nơi tao sinh ra và ở Úc, quê hương thứ hai của tao, mỗi thị trấn chỉ có một cái pub và dăm ba cái club, có thị trấn không có club. Đó là Úc và Ireland được xếp loại là dân uống rượu có tầm cỡ thế giới. Ở Việt Nam thì pub và club khắp nơi.”

Mình hỏi: “Mày nghĩ quán nhậu ở Việt Nam nhiều như vậy là không tốt?”

Nó đáp:

“Tất nhiên! Một xã hội mà thanh niên và thiếu nữ không biết đi đâu, không biết làm gì khác ngoài việc đi vào quán nhậu thì đó là biểu hiện của sự bế tắc ở cấp độ từng cá nhân và nếu có vô số những đám đông với những cá nhân như vậy, đó là sự bế tắc của cả xã hội. Họ tìm đến với cồn để tạm quên những vấn đề trước mắt.”

Mình hỏi thêm: “Vậy thì mấy cái chỉ số đo lường hạnh phúc các quốc gia là sai?”

Nó nói:

“Đúng và sai. Đúng ở chỗ, dân Việt Nam tỏ vẻ hạnh phúc khi họ ngồi trước ly bia và tạm quên những thử thách trước mắt nhưng sai ở chỗ, họ vẫn phải đối diện với những thử thách sáng hôm sau.”

***

Mình tự hỏi, tại sao một người Úc thòi lòi có thể thấy và có thể nhận xét về xã hội Việt Nam ở mức độ bản chất như vậy?

Tác giả: Hoàng Ngọc Diêu

Chính quyền Thành phố Hà Nội sẽ chi gần 100 tỉ đồng cho nhiều cán bộ, công chức, viên chức đi “học tập kinh nghiệm thực tế”…

Lmdc Viet Nam 

Xây dựng CNXH sao lại không đi Trung quốc, Nga, Băc Hàn, và Cu Ba mà lại đến các quốc gia tư bản giãy chết để …

* Chính quyền Thành phố Hà Nội sẽ chi gần 100 tỉ đồng cho nhiều cán bộ, công chức, viên chức đi “học tập kinh nghiệm thực tế” tại một số nước tiên tiến trên thế giới như Mỹ, Nhật, Singapore…, báo Tuổi Trẻ đưa tin.

Kế hoạch này thuộc cái gọi là “Đề án đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, viên chức TP Hà Nội giai đoạn 2022 – 2025”.

Các sở gồm Sở Nội vụ, Sở Tài chính, Sở Thông tin và truyền thông, Sở Khoa học và công nghệ, Sở Giáo dục và đào tạo, Sở Y tế được giao chủ trì các chỉ tiêu đào tạo, bồi dưỡng theo đề án kể trên.

60 người đi học về quản lý phát triển đô thị xanh, thông minh, hiện đại (kinh phí hơn 11 tỉ đồng)

100 người đi học về phát triển nguồn nhân lực tại Nhật Bản, Mỹ, Đức, Singapore (hơn 18 tỉ đồng)

100 người sang Đức, Mỹ, Singapore… để học về quản lý tài chính công, đầu tư công, chiến lược, chính sách công…(hơn 18 tỉ đồng).

20 người sang Nhật Bản, Singapore, Mỹ… học về ứng dụng công nghệ thông tin trong chính phủ điện tử, chính quyền số, đô thị thông minh và chuyển đổi số (3,6 tỉ đồng).

20 người sang Úc, Mỹ, Singapore, New Zealand… học về quản lý, xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách về lĩnh vực khoa học và công nghệ (hơn 3,6 tỉ đồng)

100 người đi học về quản lý, xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, chuyển đổi số trong quản lý giáo dục ở Úc, Mỹ, Singapore, New Zealand…, (hơn 18,4 tỉ đồng)

100 người đi học tại Pháp, Úc, New Zealand… về quản lý, xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, chuyển đổi số về lĩnh vực y tế (khoảng 18,4 tỉ đồng).

“Hà Nội cho rằng việc đào tạo cán bộ, công chức, viên chức có vai trò rất quan trọng, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, chất lượng và hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công chức, từ đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước,” Tuổi Trẻ đưa tin.

* Đi rồi nhớ mang về những tư tưởng Dân chủ & Tự do hầu phát huy trong nước để dân Việt sớm thoát khỏi chế độ độc tài đảng CS trị.

TL BBC

Nhà sư ở Quảng Trị giết ‘người tình’ vứt xác phi tang

Nhà sư ở Quảng Trị giết ‘người tình’ vứt xác phi tang

August 10, 2022

QUẢNG TRỊ, Việt Nam (NV) – Trước khi bị phi tang xác xuống sông Thạch Hãn, nạn nhân đã bị nhà sư chùa Sắc Tứ Tịnh Quang ở huyện Triệu Phong, đánh gãy xương hàm, 11 cây răng.

Công An tỉnh Quảng Trị vừa ra kết luận điều tra, đề nghị truy tố hai bị can Võ Viết Đạt (tức Đại Đức Thích Trí Hộ), 42 tuổi, trú xã Triệu Thuận, và Đoàn Thanh Tuấn, 52 tuổi, ở xã Triệu Long, cùng huyện Triệu Phong, về tội “giết người.”

Niệm Phật Đường Dương Lệ Đông ở xã Triệu Thuận, huyện Triệu Phong, nơi xảy ra vụ án mạng. (Hình: Quang Hà/VNExpress)

Nạn nhân là bà Lê Thị Hà, 50 tuổi, ở thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong, bị sát hại hồi tám tháng trước, theo báo VNExpress hôm Tháng Tám.

Theo kết luận điều tra, năm 2009, Đại Đức Thích Trí Hộ quen bà Hà khi đang tu tại chùa Sắc Tứ Tịnh Quang ở huyện Triệu Phong, thông qua việc lo cúng tang lễ cho con trai của bà Hà.

Năm 2013, Đại Đức Thích Trí Hộ được chuyển về Niệm Phật Đường Dương Lệ Đông (còn gọi là chùa Dương Lệ Đông) ở xã Triệu Thuận, huyện Triệu Phong. Bà Hà thường xuyên đến đây và thể hiện sự quan tâm, chăm sóc về cuộc sống đời tư, tình cảm, sinh hoạt “vượt mức bình thường” với nhà sư.

Theo lời khai của sư Đạt, nhiều đêm đi cúng bên ngoài về muộn, ông bị bà Hà dùng đèn pin rọi vào xe hơi kiểm tra xem có chở người phụ nữ nào không. Nếu thấy mùi bia rượu, bà Hà lớn tiếng cằn nhằn. Việc này kéo dài khiến nhà sư bực tức, cho rằng “bị quản lý đời tư, tình cảm.”

Thời gian này, ông Tuấn được bà Hà nhờ theo dõi xem sư Đạt “có quan hệ với phụ nữ nào không.” Tuy nhiên, ông Tuấn không thực hiện nên bị bà Hà “chửi bới, xúc phạm.”

Vì vậy, nhà sư nhiều lần kích động ông Tuấn cùng mình tham gia đánh bà Hà để “dằn mặt.”

Nói là làm, nhà sư biết rõ bà Hà là khi nghe mình ngồi nhậu với phụ nữ, đặc biệt là tại chùa thì chắc chắn bà Hà sẽ đến để gây sự. Cuối giờ chiều 11 Tháng Mười Hai, 2021, ông Tuấn gọi điện thoại giả vờ nói với bà Hà rằng sư Đạt đang nhậu ở chùa với phụ nữ…

Nhận được tin báo, bà Hà đến chùa và đi vào cửa phòng khách nhà Tăng để tìm nhưng không thấy ai. Biết ông Tuấn lừa mình, bà Hà quay lại bàn nhậu chửi ông Tuấn.

Nhân dịp này, ông Tuấn đấm đá bà Hà và chửi thề. Cùng lúc, sư Đạt lấy gậy tre đã chuẩn bị sẵn đánh bà Hà gãy xương hàm và 11 cái răng, bất tỉnh.

Cả hai nghĩ nạn nhân đã chết nên đưa xe gắn máy của bà Hà xuống cầu Đại Lộc, đẩy xuống sông.

Khi mượn được xe hơi trở lại chùa, hai nghi can phát hiện thi thể bà Hà bị dịch chuyển so với vị trí ban đầu khoảng 7-8 mét. Để an tâm và xóa vết tích, sư Đạt cùng ông Tuấn chở nạn nhân đến bờ kè thôn Bích Khê, xã Triệu Long, vứt xuống sông Thạch Hãn phi tang.

Công an đến bắt giữ nghi can Đại Đức Thích Trí Hộ, tục danh Võ Viết Đạt, hôm Tháng Mười Hai, 2021. (Hình: Quang Hà/VNExpress)

Nửa đêm hôm sau, nhà chức trách phát hiện thi thể bà Hà trôi dạt vào bờ. Sau 24 giờ điều tra, Công An tỉnh Quảng Trị xác định sư Đạt và ông Tuấn là hung thủ.

Theo Giáo Hội Phật Giáo CSVN tỉnh Quảng Trị, trong thời gian trú xứ, Đại Đức Thích Trí Hộ “chưa làm tròn trách nhiệm và có những biểu hiện gây mất đoàn kết nội bộ. Giáo hội “nhiều lần nhắc nhở, xử lý bằng nhiều biện pháp” nhưng vẫn không có dấu hiệu cải thiện. (Tr.N)

KHÁI QUÁT VỀ TÍNH CÁCH NGƯỜI VIỆT

Võ Ngọc Ánh

KHÁI QUÁT VỀ TÍNH CÁCH NGƯỜI VIỆT

Hơn một thế kỷ trước, trong phần đầu của cuốn sách Việt Nam Sử Lược (một cuốn sách người Việt nên đọc), Trần Trọng Kim đã nhận xét về người Việt: Cần cù, chịu khó, học hỏi nhanh, thông minh nhưng thường học không đến nơi đến chốn, thích sĩ diện, lươn lẹo, ưa cờ bạc… Những ai chưa đọc cuốn sách này thì nên đọc.

Đây cũng là điều mà Phan Chu Trinh đã nhìn thấy, đã dấn thân để khắc phục… Dù chưa thành công, nhưng những điều ông nói đến hôm nay vẫn còn có giá trị.

Hắn có được chút kinh nghiệm để nhận xét trên thực tế về người Việt tại Mỹ.

Đa số người Việt cần cù, chịu khó làm lụng.

Đa số những người Việt đến Mỹ chưa đến 10 năm đều mua được nhà, dù họ đến đây với hai bàn tay trắng. Những người chưa mua được nhà là do dính vào cờ bạc. Điều này đúng cho vùng tiểu bang Washington hắn đang ở. Cờ bạc ở đây gần như tự do mà, vào đó còn được ăn uống miễn phí, đồ ăn ngon nhứt nách.

Những người Việt ở Mỹ vẫn thích tụm năm, tụm ba để nhậu nhẹt như kiểu ở Việt Nam thường khó hội nhập vào xã hội Mỹ hơn.

Nhiều người Việt thường làm việc một cách thiếu trách nhiệm nếu không có sự giám sát. Điều này rất dễ kiểm chứng. Tại các khu chợ người Việt, xe mua hàng được bỏ lung tung trên bãi đậu xe, ngoài bãi cỏ, theo kiểu tiện đâu vứt đó, có ai thấy đâu. Có rất nhiều người sau khi chất hàng vào xe không đưa xe mua hàng để vào chỗ đã được chuẩn bị sẵn. Nhiều người Việt sống ở Mỹ xem ra cũng không khác mấy Việt Cộng bên nhà!

CÒN ĐÂY LÀ MƯỜI ĐẶC ĐIỂM VÀ NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI VIỆT NAM

Đây là kết quả nghiên cứu được giới thiệu là của Viện nghiên cứu xã hội Mỹ (American Institute of Social Research)

Hắn đã tìm trên trang web của American Institute of Social Research nhưng chưa thấy được báo cáo của nghiên cứu này. Nhưng các nhận xét của nó khá đúng với người Việt.

Tuy nhiên, các trang khác thì đưa khá nhiều về 10 điều khái quát này và nhiều điều khác. Một trong hai trang tương đối chất lượng, có đầy đủ, hắn dẫn link ở cuối post.

“1/. Cần cù lao động song dễ thỏa mãn (nên tâm lý hưởng thụ còn nặng.)

2/. Thông minh, sáng tạo, song chỉ có tính chất đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn, chủ động.

3/. Khéo léo, song không duy trì đến cùng (ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng của sản phẩm).

4/. Vừa thực tế, vừa mơ mộng, song lại không có ý thức nâng lên thành lý luận.

5/. Ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh, song ít khi học “đến đầu đến đuôi” nên kiến thức không hệ thống, mất cơ bản. Ngoài ra, học tập không phải là mục tiêu tự thân của mỗi người Việt Nam (nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện, vì kiếm công ăn việc làm, ít vì chí khí, đam mê).

6/. Xởi lởi, chiều khách, song không bền.

7/. Tiết kiệm, song nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe khoang, thích hơn đời).

8 /. Có tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, song hầu như chỉ trong những hoàn cảnh, trường hợp khó khăn, bần hàn. Còn trong điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn thì tinh thần này rất ít xuất hiện.

9/. Yêu hòa bình, nhẫn nhịn, song nhiều khi lại hiếu thắng vì những lý do tự ái, lặt vặt, đánh mất đại cục.

10/. Thích tụ tập, nhưng lại thiếu tính liên kết để tạo ra sức mạnh (cùng một việc, một người làm thì tốt, ba người làm thì kém, bảy người làm thì hỏng).”

https://factsanddetails.com/…/sub5_9c/entry-3385.html….

https://www.ipl.org/…/Vietnamese-Culture… 

Đúng quy trình cái đảng CSVN thối nát tham nhũng…

Lmdc Viet Nam

Đúng quy trình cái đảng CSVN thối nát tham nhũng đang là khổ dân hại nước.

* Câu chuyện nữ sinh lớp 12, nạn nhân vụ bị xe ô tô của một thiếu tá không quân tông tử vong.

Bệnh viện Đa khoa tỉnh Ninh Thuận vừa thông báo đã có quyết định kỷ luật đối với 5 người liên quan đến “sai sót” trong xét nghiệm nồng độ cồn của nữ sinh lớp 12, nạn nhân nói trên.

Rất lạ là các cán bộ bệnh viện bị kỷ luật lại không bị nêu tên? Thông tin “mật” chăng

– Tại sao lại kiểm tra nồng độ cồn của nạn nhân, thật vô lý đến mức ngu xuẩn, nhằm đổ lỗi cho nạn nhân, say rượu tông vào xe và tử vong.

Đây rõ ràng là một vụ làm lệch lạc kết quả để chạy án

Cả đám cầm quyền, từ cảnh sát điều tra, giám đốc bệnh viện, quân đội… họp nhau hại dân, chà đạp công lý. Một lũ kên kên.

Đúng là 1 màn tấu hài có kịch bản tệ nhất thế giới của bọn lãnh đạo CSVN.

* Hồi tháng Sáu năm nay, Công an tỉnh Ninh Thuận cùng Cục Cảnh sát Bộ Công an đã tiến hành điều tra việc Bệnh viện Đa khoa và CDC tỉnh Ninh Thuận mua sắm bộ xét nghiệm và sinh phẩm trong phòng chống Covid-19 với Công ty Việt Á, rồi bọn lãnh đạo Bệnh viện này cũng không bị truy tố…

TL : BBC

Comment : Ngoan Lâm – Ta Quang Khải

Những con số báo động của ngành y tế tại Sài Gòn

Những con số báo động của ngành y tế tại Sài Gòn

Mai Lan (lược thuật)

(VNTB) – Lương y như từ mẫu, nhưng lương y mà đói khổ thì sao mà thực hiện nhiệm vụ của từ mẫu nổi

Lương bác sĩ ra trường còn thấp hơn nhân viên trung cấp. Mong sao các lãnh đạo nhìn ra được những bất cập trong hệ thống tiền lương của Việt Nam.

Sáng 5-8, Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Văn Nên đã có buổi gặp gỡ và động viên cán bộ nhân viên y tế đang công tác tại các cơ sở y tế trên địa bàn TP.HCM.

Giám đốc Sở Y tế TP.HCM Tăng Chí Thượng tiếp tục lên tiếng cảnh báo như rất nhiều lần đăng đàn cảnh báo trước đó là tuy hiện dịch Covid-19 trên địa bàn đã được kiểm soát, nhưng ngành y tế của thành phố này lại gặp những thách thức, khó khăn mới, đó là dịch chồng dịch như sốt xuất huyết, dịch Covid-19, bệnh mới nổi…, thiếu thuốc và vật tư y tế, biến động nguồn nhân lực y tế do nhân viên y tế nghỉ việc, cùng sự lo lắng kéo dài trong một bộ phận nhân viên y tế.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thiếu thuốc và vật tư y tế tại TP.HCM, trong đó các nguyên nhân ngoài khả năng của hệ thống y tế thành phố, bao gồm một số thuốc thuộc danh mục thuốc hiếm nay lại ngừng sản xuất hoặc chưa được sản xuất trong nước, như dung dịch cao phân tử Dextran, huyết thanh kháng nọc rắn; một vài loại thuốc bị gián đoạn cung ứng do xung đột giữa Nga và Ukraine như Methotrexat (sản xuất tại Belarus) và một số thuốc do Trung tâm mua sắm tập trung quốc gia chậm đấu thầu hoặc đàm phán.

“Tôi có hai con cũng đã là nhân viên của ngành y tế. Khi con bước vào ngành này, một trong những điều đầu tiên tôi nói là nếu con muốn làm giàu thì hãy chọn ngành khác, đừng chọn ngành y tế, bởi ngành y tế con chỉ có thể giàu tình thương, sự chia sẻ.

Tuy không cần giàu nhưng cũng phải tương thích với sức lao động, học tập bỏ ra.

Bác sĩ đã học nhiều năm, điểm thi rất cao, nhưng ra trường lương chỉ có 7-8 triệu đồng/tháng. Có thể chấp nhận được trong 2 năm, 5 năm nhưng 10 năm, 20 năm thì không thể. Tôi biết là thành phố phải chịu sự trói buộc rất nhiều chính sách, nhưng mong thành phố có những cơ chế hỗ trợ thêm, để mỗi nhân viên y tế yên tâm cống hiến lâu dài và đặc biệt là hãnh diện khi làm việc cho ngành y tế thành phố” – Bác sĩ Hoàng Thị Diễm Tuyết giám đốc bệnh viện Hùng Vương, cho biết như vậy.

Một ghi nhận cập nhật thời sự cho biết về xếp hạng học phí y khoa niên khóa 2022 tại TP.HCM cho biết vị trí quán quân thuộc về Y đa khoa của Đại học Hồng Bàng, với hệ tiếng Việt là 105 triệu đồng/ học kỳ, 2 học kỳ là 210 triệu x 6 năm sẽ tương đương 1 tỷ 260 triệu đồng. Nếu chọn hệ tiếng Anh thì 6 năm học là 1 tỷ 500 triệu đồng.

Vị trí á quân thuộc về Đại học Văn Lang với 221 tín chỉ, đơn giá mỗi tín chỉ là 4.480.000 đồng, vị chi để hoàn thành chương trình, sinh viên cần phải chi trả mức học phí tối thiểu là 990.080.000 đồng.

Với khoa Y của Đại học Tân Tạo, giá bình quân mỗi năm học là 150 triệu đồng/ sinh viên.

Sinh viên trường Đại học Y Dược TP.HCM có mức học phí là 74.800.000 đồng/ năm/ sinh viên. Khoa Y của Đại học Quốc gia TP.HCM là 66 triệu đồng/ năm/ sinh viên…

Giám đốc Sở Y tế TP.HCM Tăng Chí Thượng cho biết, từ đầu năm đến nay có 891 viên chức, nhân viên các cơ sở y tế công lập xin nghỉ việc. Đồng thời cũng đã có nhiều nhân viên y tế mới tốt nghiệp xin vào làm việc. Theo thống kê, số người làm việc năm 2021 là 42.914 người, số người làm việc 6 tháng đầu năm 2022 là hơn 42.608 người. Như vậy, từ giai đoạn cuối năm 2021 đến thời điểm hiện nay, số nhân viên y tế tại các cơ sở y tế công lập đã giảm 306 người.

Tuy số nhân viên y tế nghỉ chênh lệch không nhiều, nhưng đã gây khó khăn không nhỏ cho cơ sở y tế công lập, vì hầu hết người nghỉ việc là người có thâm niên, có kinh nghiệm, còn những người mới được tuyển cần có thời gian đào tạo, thực hành.

Bí thư Thành ủy Nguyễn Văn Nên nhìn nhận câu hỏi sau đây đang rất cần sự đóng góp về giải pháp của tất cả các bên liên quan, đó là: phải làm sao để bác sĩ trong hệ thống y tế của Sài Gòn yên tâm chữa bệnh cứu người mà không phải lo lắng không chỉ về tài chính cho mâm cơm gia đình, cho tiền học phí của con cái, mà là đủ cả thuốc men đáp ứng kịp thời cho yêu cầu điều trị ngay tại bệnh viện.

Bí thư Thành ủy Nguyễn Văn Nên đã dẫn một kết quả khảo sát 500 bác sĩ, nêu ra 6 nguyên nhân khiến họ nghỉ việc tại cơ sở y tế công lập. Đó là lương thấp, không hài lòng với môi trường làm việc, cường độ làm việc quá cao, không có cơ hội học hỏi nâng cao tay nghề, không hài lòng với giám đốc hay cấp trên…

M.L.

CHUYỆN PHIẾM VỚI MỘT ANH XE ÔM CÔNG NGHỆ ĐÃ CÓ BẰNG ĐẠI HỌC (1)

CHUYỆN PHIẾM VỚI MỘT ANH XE ÔM CÔNG NGHỆ ĐÃ CÓ BẰNG ĐẠI HỌC (1)

(Ghi lại câu chuyện của một bác lớn tuổi và một cậu xe ôm công nghệ tốt nghiệp đại học)

Một bác lớn tuổi bực mình với một cậu Grab Biker:

– Sao tao đợi mày ở đây đến 20 phút mà mày cứ nói đến rồi là sao?

– Dạ, cháu tưởng số 2 Đồng Khởi là Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn nên cháu đứng đó đợi…

– Khổ quá… Mày không biết xem số à?

– Cháu có xem, nhưng chỗ Nhà thờ không có số. Cháu nghĩ số 2 là đầu đường nên chờ mãi. Đang tính báo “Hủy” thì bác gọi lại…

– Mày học hành sao mà đầu đường, cuối đường không biết?

– Dạ, cháu có đi học chứ. Cháu mới tốt nghiệp Đại học Luật bác ạ. Nhưng quê ở Tây Ninh. Giờ tốt nghiệp, xin việc hoài không được, phải chạy Grab kiếm cơm. Bác thông cảm . . .

– Thôi được, chạy đi. Tao dạy mày một lần cho biết nhé. Cái đó gọi là Kiến thức phổ thông, nhưng tao biết gần như 100% người Việt ở Việt Nam không biết. Từ xếp lớn đến thằng chạy xe ôm như mày. Vì có học đâu. 100 anh chạy xe ôm đều không biết trừ những anh tao nói thì biết thôi. Nhớ nhé:

Trong một đô thị đã có quy định: Mặc nhiên là số nhỏ luôn tính từ sông lên. Ví dụ: Số 2 đường Đồng Khởi là Cà phê Runam tao đang đứng đây là số nhỏ vì nó giáp sông Sài Gòn. Vậy, chỗ mày chờ lúc nãy là ở Nhà thờ Đức Bà là cuối đường Đồng Khởi. Số lẻ luôn bên tay trái, số chẵn bên tay phải khi mày đứng nhìn từ đầu đường đến cuối đường. Vậy khách Tây nó nói cho xe đến trung tâm Sài Gòn thì mày chạy đi đâu?

– Dạ… Chắc chạy ra Nguyễn Huệ phải không bác?

– Trật lất. Ở một đô thị, trung tâm là nơi có nhà ga xe lửa chính. Rồi nếu không có thì là Bưu điện Trung tâm. Tức là chỗ Nhà thờ Đức Bà vừa nãy đó.

Trước 1975, trung tâm Sài Gòn là Nhà ga xe lửa ở chỗ gần chợ Bến Thành, chứ không phải là Chợ Bến Thành. Sau năm 1980, nhà ga này dời về Hòa Hưng nên trung tâm Sài Gòn hiện nay là Bưu điện trung tâm Sài Gòn.

Đó là các kiến thức phổ thông. Mày biết thì đi đâu ở nước ngoài cũng không sợ bị lạc đường. Nó có những quy tắc phổ quát ở đô thị, trong một xã hội băn minh. Phải được dạy dỗ từ bé. Nhưng người ta không làm. Người ta dạy rất nhiều thứ vô bổ. Người Việt đi nước ngoài khổ lắm. Đi từng đoàn, xem bản đồ không biết, xem la bàn không biết. La hét inh ỏi. Xấu hổ ghê lắm . . .

Trong khi ở các nước khác, trước khi học toán, học lý, họ dạy người ta sống với nhau như thế nào. Gọi là học cách Cư xử, cách Đối nhân xử thế giữa người với người, giữa trẻ với người lớn tuổi. Rồi dạy kỹ năng sống, kỹ năng sinh tồn, nhóm lửa trong điều kiện khó khăn, cách dựng lều, trại, cách bắt cá, cách xử lý thịt sống… Rồi học bơi, học thoát khỏi đám cháy, nhà sập, động đất hay bị bắt cóc… Học cách ứng cứu y tế sơ đẳng… Nhiều lắm… Như trẻ con ở Nhật, từ lớp 1 đến lớp 6 chỉ học như vậy. Và một ít chữ. Toán, Lý, Hóa chỉ sau này mới học. Và nếu có năng khiếu có đam mê mới theo một ngành nào đó và học cấp cao hơn. Nhưng trước đó đứa bé đã biết mọi thứ để tự lo cho cuộc sống của mình.

Tao sang Canada… Người ta dạy lắp điện, sửa ống nước, thoát nước với những điều cơ bản từ trong trường phổ thông. Cái gì lo cho bản thân mình chính là phổ thông. Còn ở Việt Nam không có. Vì vậy, ở Việt Nam làm gì cũng mướn thợ. Ở nước ngoài, người ta ai cũng làm được hết, dù là phụ nữ hay đàn ông, từ điện đến cấp, thoát nước… Chỉ những người muốn công việc chuyên nghiệp và quá bận rộn mới mướn thợ.

Còn ở Việt Nam, rất nhiều đàn ông không biết lắp điện, không biết sửa ống nước. Vì có được học đâu?

Trẻ con Việt Nam yếu về mọi kỹ năng, cái gì cũng không biết. Vì chúng phải bỏ thời giờ để học yêu lãnh tụ, yêu đồng bào. Đó là sự xuẩn ngốc. Vì tình yêu không thể dạy để yêu được. Tình yêu là một tình cảm tự nhiên và lòng yêu nước cũng tự nhiên dù không dạy cũng vậy. Hôm qua, thằng cháu ngoại của tao mới vào lớp vỡ lòng về hỏi: Ngoại ơi, tổ quốc là gì hả ngoại, có phải là tổ con chim quốc không ngoại, sao cô giáo dạy phải yêu? Tao nhức đầu quá, chẳng biết giải thích sao.

Sao không dạy cho bọn nó trước hết yêu ông, bà, cha, mẹ, anh chị, bạn bè, kính trọng thầy cô, người lớn trước khi dạy nó những thứ khác? Đầu óc non trẻ của tụi nó sao kham nổi mấy khái niệm xa lắc xa lơ?

Lớn lên, chúng còn mất thì giờ học Toán cao cấp như Vi phân, Tích phân. Mấy đứa sau này làm ca sỹ, nhân viên bán hàng, cầu thủ đá banh như Công Phượng, Quang Hải hay chạy Grab như mày . . . cần gì những thứ này? Hầu hết đều vứt đi sau khi thi xong, quá lãng phí công sức người dạy lẫn người học. Cái không dùng tới trong đời sống hàng ngày sao gọi được là phổ thông? Nó chỉ nên dạy ở đại học . . .

Còn nhiều thứ vô bổ khác nữa được nhồi nhét vào đầu chúng. Chẳng biết nhằm mục đích gì? Cách dạy cũng vậy, từ cấp nhỏ đến đại học toàn đọc, chép, thầy cô bảo sao nghe vậy, đứa nào có ý khác một tý, cãi một tý thì mắng là hỗn, láo mặc dù mình sai lè lè! Chẳng khác gì biến chúng thành một lũ cừu dễ bảo.

Gíao dục bây giờ thật tệ hại. Cho nên nói cứ nói mà không có mục tiêu nào đạt được. Đại hội Đảng năm 1976, người ta nói đến 1980 cơ bản biến nước ta thành nước Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá. Và giờ đã 43 năm rồi mà vẫn còn xa vời…

Hôm nọ có một gã chức nhớn mới nói: Gíao dục của ta chưa bao giờ tốt như bây giờ, kể từ thời Vua Hùng đến giờ…

Một cậu bé bán vé số đứng cạnh mới hỏi:

– Có đúng không bác?

Ông bác lớn tuổi tự hào trả lời:

– Đúng chứ cháu. Cháu mới 10 tuổi mà biết sử dụng Ipad, Iphone nhoay nhoáy. Bác chắc là Vua Hùng sống lại cũng không giỏi như cháu đâu. Nên mới nói giáo dục của ta bây giờ hơn thời Vua Hùng nhiều lắm . . .

(theo fb HP)

NGƯỜI VIỆT RA ĐI VÌ KHÓ SỐNG TỬ TẾ TRÊN CHÍNH TỔ QUỐC MÌNH

NGƯỜI VIỆT RA ĐI VÌ KHÓ SỐNG TỬ TẾ TRÊN CHÍNH TỔ QUỐC MÌNH

Người Việt không có truyền thống khám phá, thám hiểm các vùng đất khác.

Dễ nhìn thấy từ trước khi người Pháp xâm lược Việt Nam không có những người Việt đi xa, khám phá.

Quan lại triều đình đi xuất ngoài chủ yếu đi cống nạp thiên triều, hoặc cầu viện quốc gia hàng xóm trong sự tranh giành vị trí cai trị.

Việt Nam có bờ biển dài nhưng lịch sử 4000 năm người Việt chỉ quanh quẩn trong bờ, đánh bắt trong bờ.

Dãy Trường Sơn phía Tây hùng vĩ, nhưng sau khi bình định được các quốc gia phương Nam người Việt chỉ quanh quẩn ở vùng đồng bằng. Tây Nguyên, phải chờ người Pháp khai phá, đặt nền móng nhà nước cho các chính quyền của người Việt sau này.

Những cái hang động ở Phong Nha, người Việt chưa bao giờ dám khám phá… vì coi đó là nơi linh thiêng.

Từ giữa thế kỷ 20 trở về trước, truyền thống của người Việt chỉ quanh quẩn trong làng. Có người cả đời chưa một lần ra khỏi cái xã.

Đầu thế kỷ 13, những hậu duệ của nhà Lý để bảo toàn tính mạng trước một Trần Thủ Độ cương quyết tiêu diệt đã phải tìm đường biển ra đi đến Đài Loan, Triều Tiên.

Họ ra đi mà không trở về, những hậu duệ nhà Lý cùng gia nô của họ trở thành những người Việt không còn dấu ấn Việt trên văn hóa, khuôn mặt.

Trong các cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực Bắc – Nam cũng không ghi nhận lũ lượt người Việt rời bỏ quê hương ra đi. Dù bên này, bên kia vẫn có thể sống được, hay nhân danh việc yêu nước, bảo vệ lãnh thổ mà ở lại.

Ấy vậy mà, sau khi từ “giải phóng” người Việt không thể sống được ngay chính trên quê hương của mình. Họ phải rời bỏ ruộng vườn, họ hàng, mồ mả, quê hương… ra đi. Họ biết rằng chuyến đi là đối mặt với cái chết, hải tặc, cướp rừng… nhưng ít ra đi còn có cơ hội sống một cách tử tế.

Họ ra đi theo kiểu, mạnh ai nấy chạy.

Đã có những người vợ mất chồng, con mất cha… những gia đình đầy đau thương, trong một dân tộc đầy thương đau.

Đã có bao nhiêu người Việt bỏ mạng trong các chuyến đi từ sau biến cố 30/4/1975 đến đầu những năm 1990?

Lịch sử của người Việt không thể ‘không có trí nhớ’ trong việc này. Lịch sử của người Việt không thể không nhắc nhớ nhau về từ “thuyền nhân”.

Không quên để thấy đau thương của một dân tộc. Không quên để trong tương lai không lặp lại. Đừng rửa sạch lịch sử.

Lịch sử của người Việt càng không thể dấm dúi, hoặc lên án việc này.

Ngày nay người Việt tiếp tục ra. Người nghèo ra đi để bán sức lao động, mong tích góp chút vốn để có của trả nợ, chữa bệnh, xây nhà, tích lũy chút vốn cho con cái học hành.

Họ ra đi bởi hy vọng tìm cuộc sống tốt hơn, không phải trên quê hương.

Hôm nay, vẫn còn nhiều người Việt bỏ mạng trên đường, trên công trường, trong chỗ làm… nơi xứ người. Thật xót xa.

Chỉ có người vô cảm mới trách họ. Chỉ có người quá chuyên chế mới nói họ không yêu quê hương.

Họ chỉ mong tìm đường sống tốt hơn thôi mà.

Đất nước đã khá hơn, nhiều người đã thoát nghèo… chính nhờ sự đầu tư không phải của nước anh em XHCN mà của bọn tư bản, đa đảng. Việt Nam đang có thêm nhiều người khá hơn cho cái tỵ nạn giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội…

Nền giáo dục nửa quốc dân (bởi phải đóng tiền) nhiều khiếm khuyết dường như chỉ dành cho người nghèo. Bởi người có kinh tế thường cho con học trường tư, trường quốc tế.

Đảng lãnh đạo toàn diện dân tộc Việt Nam nói, “Tất cả vì con em của chúng ta”. Con chúng ta trước đây, được ưu tiên suất nhà nước, được xuất khẩu… giờ thì con chúng ta nhờ có tiền có thể chọ học trường quốc tế, đi du học…

Đảng không dại gì nói rõ, “còn con em chúng nó thì kệ”. Nhưng người Việt cần nhìn thấy.

Còn Hắn thấy người Việt cứ lại lũ lượt ra đi. Sao mà không buồn cho được.

Hắn cũng là một người đã ra đi. Ra đi để được tự do với chính suy nghĩ của mình.

Võ Ngọc Ánh

Xót ruột, sốt ruột nào đủ?

Xót ruột, sốt ruột nào đủ?

Lưu Trọng Văn

4.400 tỉ tiền của Dân, mà Dân lại đang rất nghèo, ở Thái Nguyên, chỉ còn là đống sắt rỉ.

Thủ tướng Phạm Minh Chính thẫn thờ đứng trước hoang tàn tệ hại ấy thốt lên: Xót ruột! Sốt ruột!

Nhà báo Đào Tuấn, người theo dõi “trận đánh”này kể lại:

“Năm 2007, Tập đoàn Khoa học Công nghệ và Thương mại Luyện kim Trung Quốc (MCC) thắng thầu tại dự án trị giá 3.800 tỉ này. Theo hợp đồng: hơn 160 triệu USD, là giá trọn gói không thay đổi. Nhưng chỉ vài tháng, bọn Tàu quay xe, đòi “điều chỉnh“ thêm 138 triệu USD, đòi kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng EPC.

Và 11 tháng sau khi ký hợp đồng, sau khi được thanh toán tới 95% tiền mua sắm thiết bị với giá trị hơn 4.400 tỉ, MCC vẻ vang kéo quân về nước mà ko phải làm gì, và để lại một đống sắt vụn đúng nghĩa.

Suốt từ bấy, 4.400 tỉ giải ngân vẫn nằm đó, thù lù một đống”.

Trong khi đó Đất nước của 100 triệu Dân đang và sẽ rất cần thép. Một nền kinh tế sẽ què quặt nếu công nghiệp cốt lõi là thép đì đẹt.

Làm sao mà không xót ruột với sốt ruột?

Năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam được Bộ Công Thương nhìn nhận là khá thấp khi phần lớn các nguyên liệu đầu vào để sản xuất thép phải nhập khẩu.

Bên cạnh đó, vẫn tồn tại nhà máy có công suất nhỏ, thiết bị lạc hậu, tiêu tốn năng lượng và nguy cơ về môi trường.

Bên cạnh đó, ngành thép của Việt Nam cơ bản phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu nước ngoài như: quặng sắt, thép phế liệu, than mỡ luyện cốc, điện cực graphite… nên khi giá các nguyên liệu đầu vào biến động sẽ làm giá thép thành phẩm trong nước cũng phải điều chỉnh theo thị trường thế giới.

Làm sao mà không xót ruột với sốt ruột?

Theo dự báo sơ bộ, tổng nhu cầu thị trường các ngành chế tạo của Việt Nam giai đoạn đến năm 2030 có thể đạt tới 310 tỷ USD. Trong đó, nhu cầu thị trường từ cơ khí phục vụ công trình công nghiệp là 120 tỷ USD; cơ khí phục vụ xây dựng, nông nghiệp, chế biến là 15 tỷ USD; thiết bị tiêu chuẩn là 10 tỷ USD; giao thông đường sắt là 35 tỷ USD; tàu điện ngầm là 10 tỷ USD và ô tô là 120 tỷ USD.

Đây sẽ là thị trường rất lớn cho ngành thép trong nước, đặc biệt là các loại thép chế tạo, thép hợp kim chất lượng cao phục vụ các ngành công nghiệp chế tạo, vốn là phân khúc hiện nay Việt Nam chưa tự chủ được trong sản xuất thép nội địa.

Vậy mà cả một công trình xây dựng nhà máy thép – quả đấm sắt 25 năm nay trở thành sắt… rỉ.

Làm sao mà không xót ruột với sốt ruột?

Nhưng thưa thủ tướng lẽ nào chỉ xót ruột và sốt ruột?

Trong đêm 27.7 tưởng niệm các liệt sĩ đã ngã xuống cho Hoà bình của Dân tộc, thủ tướng đã bật khóc, thì không thể chỉ “xót ruột và sốt ruột” được nữa, lúc này Dân tộc cần, yêu cầu, thậm chí buộc thủ tướng phải tỏ thái độ mạnh mẽ hơn.

Vâng, quá rõ ràng, chỉ xót ruột và sốt ruột chưa đủ. Phải căm giận, phẫn nộ. Căm giận, phẫn nộ những kẻ khốn nạn mất nhân tâm đã gây nên, đồng loã, tiếp tay cho “trận đánh” thảm bại này.

Có thể nói công trình nhà máy thép mở rộng Thái Nguyên là một thảm bại của Việt Nam trước bọn Trung Hoa Đỏ với cái lưỡi sói bẩn thỉu, tham lam, lừa đảo của chúng.

Nguyên do chính của thảm bại đau đớn nhục nhã này là do một lũ quân tướng đầu sỏ trực tiếp điều khiển “trận đánh” đã phản bội Dân tộc.

Thưa bác cả Trọng, bọn chúng chính là thế lực thù địch mà bác hay nhắc đến chứ đâu?

Chúng chỉ vì túi tham của mình đã tiếp tay cho bọn Trung Hoa Đỏ ăn cướp tài sản của Dân Việt, tàn phá Đất nước Việt mà không cần tiếng súng.

Bài học ở Thái Nguyên đó là cuộc xâm lược của Trung hoa đỏ không chỉ ở Biển Đông mà từ lâu đã kéo vào mọi ngóc ngách của nền kinh tế Đất nước và trắng trợn huỷ diệt nó.

Chưa trắng mắt hay sao?

Lời khuyên của gã với thủ tướng:

Không thể phục hồi được đống sắt rỉ với công nghệ phủi ở Thái Nguyên đâu. Thép là công nghiệp hiện đại gắn sống còn với môi trường. Phục hồi đống sắt rỉ ấy với công nghệ cũ sẽ phải trả giá cho môi trường rất lớn. Chi bằng đấu thầu bán hết đống phế liệu ấy đi, liên kết với các nhà đầu tư công nghiệp thép hàng đầu thế giới xây dựng tổ hợp thép hàng đầu thế giới cho Đất nước.

Cái khó nhất là làm sao ngăn cho được bọn đầu trâu mặt ngựa phản bội Dân tộc nhan nhản, không cho chúng tiếp tục luồn lách điều hành các dự án kinh tế trọng điểm của Đất nước đây?

Khó! Quá khó! Nhưng Lịch sử Dân tộc đã chứng minh:

Dễ trăm lần không Dân cũng chịu.

Khó vạn lần Dân liệu cũng xong.

Dân- Dân chủ hoá bộ máy điều hành Đất nước, sẽ đủ sức để chọn đúng người tài đức và tống cổ bọn bất tài, bất nhân.

L.T.V.

SÀI GÒN…

8 SÀI GÒN

SÀI GÒN…

“Năm 1954, cả trăm ngàn dân Bắc di cư vào Sài Gòn, mang theo đủ loại kiểu sống bó trong luỹ tre làng đem nhét hết vô mảnh đất nhỏ xíu này, cũng gây xáo trộn cho người ta chứ. Phong tục, tập quán, ở đất người ta mà cứ như là ở đất mình. Nhưng người Sài Gòn chỉ hiếu kỳ một chút, khó chịu một chút, rồi cũng xuề xoà đón nhận.

Lúc đầu tụi bạn ghẹo tôi là “thằng Bắc kỳ rau muống”. Con nít đổi giọng nhanh mà, trong nhà giọng Bắc, ra ngoài giọng Nam. Thế là huề hết. Rủ nhau đi oánh lộn phe nhóm là chuyện thường. Khỏi cần biết đúng sai, mày đánh bạn tao, thì tao đánh lại, oánh lộn tưng bừng. Vài ngày sau lại rủ nhau đi xem xinê cọp. Dễ giận dễ quên.

Hè, tụi bạn về quê, Bến Lức, Vĩnh Long, Kiến Hoà … Cũng chia tay hứa hẹn, tình cảm ra rít: “Tao về quê sẽ mang lên cho mày ổi xá lỵ, xoài tượng…” Tôi ngóng cổ chờ bạn, chờ quà. Thực ra, tôi thèm có quê để về.

Tết đến, thầy cô, bạn bè về quê, nhiều người Sài Gòn xôn xao về quê. Tôi ở lại Sài Gòn mà thấy mình vẫn không phải dân Sài Gòn. Vậy ai là dân Sài Gòn chính hiệu đây? Chẳng lẽ phải tính từ thời mấy ông Pétrus Ký hay Paulus Của?

Sài Gòn trẻ măng, mới chừng hơn 300 tuổi tính từ thời Chúa Nguyễn xác lập chủ quyền ở đây. Sài Gòn khi cắt ra khi nhập vào, to nhỏ tuỳ lúc. To nhất khi nó là huyện Tân Bình, kéo dài đến tận Biên Hoà. Nhỏ nhất là vào thời Pháp mang tên Sài Gòn. Ngay trước 1975, Sài Gòn rộng chừng 70km2, có 11 quận, từ số 1–11. Hồi đó Phú Nhuận, Tân Bình, Thủ Đức… còn được xem là nhà quê (tỉnh Gia Định). Bây giờ Sài Gòn rộng tới 2.000km2.

Sài Gòn đắc địa, có cảng nối biển, là đầu mối giao thương quốc tế, tiếp cận văn minh Tây phương sớm. Dân Sài Gòn không có địa giới rõ rệt. Nói tới họ có vẻ như là nói tới phong cách của dân miền Nam. Họ là những lưu dân khai phá, hành trang không có bờ rào luỹ tre nên tính tình phóng khoáng, trọng nghĩa khinh tài, nói năng bộc trực… Ai thành đại gia thì cứ là đại gia, ai bán hàng rong thì cứ bán.

Sài Gòn không tự hào mình là người thanh lịch, không khách sáo, không mời lơi. Họ lấy bụng đãi nhau. Sài Gòn có mua bán chém chặt? Có, đúng hơn là nói thách. Cứ vô chợ Bến Thành xem mấy bà bán mỹ phẩm, hột xoàn hét giá mát trời ông Địa. Không cứ khách tỉnh, dân Sài Gòn lơ mơ cũng mua hớ như thường.

Ít nơi nào nhiều hội ái hữu, hội tương tế, hội đồng hương như Sài Gòn. Có máu lưu dân trong người, dân Sài Gòn thông cảm đón nhận hết, không ganh tị, không thắc mắc, không kỳ thị. Người ta kỳ thị Sài Gòn, chứ Sài Gòn chẳng kỳ thị ai.

Nhiều gia đình người Bắc người Trung ngại dâu ngại rể Sài Gòn, chứ dân Sài Gòn chấp hết, miễn sao ăn ở biết phải quấy là được.

Dân Sài Gòn làm giàu bằng năng lực hơn là quyền lực. Người ta nói “dân chơi Sài Gòn”. Trời đất! Sài Gòn mà “tay chơi” cái nỗi gì. Tay chơi dành cho những đại gia giàu lên đột xuất từ đâu đó đến. Sài Gòn a dua thì có, nhưng a dua biết chọn lọc. Coi vậy chứ dân Sài Gòn đâu đó còn chút máu “kiến nghĩa bất vi vô dõng giả”. Cứ xem dân Sài Gòn làm công tác xã hội thì biết, cứu trợ lũ lụt thấy người ta lạnh quá, cởi áo len đang mặc tặng luôn. Họ làm vì cái bụng nó thế, chứ không phải vì PR, đánh bóng bộ mặt.

Biết bao văn nghệ sĩ miền Bắc, miền Trung vào đất này “quậy” tưng, tạo ra cái gọi là văn học miền Nam hậu 54 coi cũng được quá chứ ? Nhạc sĩ Lam Phương, quê Rạch Giá, mười tuổi đã lưu lạc lên Sài Gòn kiếm sống. Năm 17 tuổi nổi danh với bản Kiếp nghèo và khá giả từ đó.

Tiếp cận văn minh phương Tây sớm, nên dân Sài Gòn có thói quen ngả mũ chào khi gặp đám ma, xe hơi không ép xe máy, xe máy không ép người đi bộ, chạy xe lỡ va quẹt nhau, giơ tay chào ngỏ ý xin lỗi là huề. Những thói quen này giờ đây đang mất dần, nhưng dân Sài Gòn không đổ thừa cho dân nhập cư. Họ cố gắng duy trì (dù hơi tuyệt vọng) để người mới đến bắt chước. Chợ hoa là một chút văn hoá của Sài Gòn, có cả nửa thế kỷ nay rồi, có dân nhập cư nào “yêu” hoa mà ra đó cướp giựt hoa đâu.

Sài Gòn nhỏ tuổi nhiều tên, nhưng dù thế nào Sài Gòn vẫn là Sài Gòn. Nhiều người thành danh từ mảnh đất này. Sài Gòn nhớ không hết, nhưng mấy ai nhớ đến chút tình của Sài Gòn? May ra những người xa Sài Gòn còn chút gì nhức nhối. Tôi có thằng bạn Bắc Kỳ chín nút, xa Việt Nam cũng gần 40 năm. Tên này một đi không trở lại, vừa rồi phone về nói chuyện lăn tăn, rồi chợt hỏi: “Sài Gòn còn mưa không?” – “Đang mưa”. Đầu phone bên kia thở dài: “Tao nhớ Sài Gòn chết… mẹ!” Sài Gòn nay buồn mai quên, nhưng cũng có nỗi buồn chẳng dễ gì quên.

Mới đây đi trong con hẻm lầy lội ở Khánh Hội, chợt nghe bài Kiếp nghèo vọng ra từ quán cóc ven đường. Tôi ghé vào gọi ly cà phê. Giọng Thanh Thuý sao da diết quá: “Thương cho kiếp sống tha hương, thân gầy gò gởi theo gió sương…” Chủ quán, ngoài 60 cầm chồng báo cũ thẩy nhẹ lên bàn “Thầy Hai đọc báo …” Hai tiếng “thầy Hai” nghe quen quen… Tự nhiên tôi thấy Sài Gòn như máu chảy từ tâm, Sài Gòn bao dung. Tôi chợt hiểu ra, mình đã là người Sài Gòn từ thuở bào thai rồi, cần gì phải xin nhập tịch?”

(Khuyết Danh)

Thằng Bờm st

Sài Gòn Xưa