Không có đảng, không có ‘ông Diên’!

Bởi  AdminTD

Blog VOA

Trân Văn

7-11-2022

Từ đầu tháng 11 tới giờ, dân chúng Hà Nội trở thành nạn nhân của tình trạng khan hiếm xăng dầu. Xếp hàng cả giờ để được bơm một vài lít xăng đã trở thành điều bình thường…

Hôm nay (7/11/2022), Bộ Công Thường vừa… “thành kính phân bua” với công chúng rằng… “Bộ Công Thương không cấm mua xăng bằng can, chai nhựa” vì… “pháp luật không cấm”.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên. Photo VTC.

Lần này, Bộ trưởng Công Thương nói riêng và Bộ Công Thương nói chung cũng chỉ… “thành kính phân bua” chứ dứt khoát không nhận sai, cương quyết không xin lỗi cho dù trước đó ba ngày – hôm 4/11/2022, ông Nguyễn Hồng Diên – Bộ trưởng Công Thương ban hành Chỉ thị 09/CT-BCT, ra lệnh cho… “lực lượng Quản lý thị trường (QLTT) trong cả nước phối hợp với các cơ quan hữu trách tại địa phương kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu, đặc biệt là các hành vi găm hàng, tạo khan hiếm nguồn cung xăng dầu, hành vi bán xăng dầu có các cột bơm mini, trụ bơm lắc tay, qua thùng, can, chai và các dụng cụ chứa đựng khác”…

Cần lưu ý, ngoài bạo hành hành chính (cấm thứ mà luật pháp không cấm), Chỉ thị 09/CT-BCT còn gây rối loạn sản xuất – kinh doanh, sinh hoạt xã hội. Tuy lặp lại các chỉ trích của công chúng trên mạng xã hội (xăng dầu không chỉ phục vụ nhu cầu đi lại mà còn dùng để vận hành ghe, thuyền tại những vùng nhiều sông rạch, các loại máy móc phục vụ hoạt động nông nghiệp tại gia,… nên cấm bán – bơm xăng dầu vào “thùng, can, chai và các dụng cụ chứa đựng khác” là phi lý) để giải thích tại sao lại… “thành kính phân bua” nhưng Bộ Công Thương vẫn khẳng định, Chỉ thị 09/CT-BCT là… “cần thiết” để “ngăn ngừa nguy cơ cháy nổ”, sở dĩ phải “thành kính phân bua” chỉ vì “trên mạng xã hội xuất hiện một số thông tin mang tính chất bình luận, suy diễn” (1).

Không may cho Bộ Công Thương là ngay trong ngày 7/11/2022 – ngày Bộ Công Thương “thành kính phân bua” rằng “không cấm mua xăng bằng can, chai nhựa” như vừa kể – căn cứ vào Chỉ thị 09/CT-BCT, Ban Chỉ đạo 389 (cách gọi tắt bộ phận chống buôn lậu, gian lận thương mại) của Hà Nội đã phát hành công văn hỏa tốc, yêu cầu “Công an, Sở Công Thương, Cục Quản lý thị trường của Hà Nội và Ban Chỉ đạo 389 các quận, huyện kiểm tra, xử lý hành vi bán xăng tự phát theo can, chai, lọ… trên đường phố” (2)! Dẫu “bán xăng tự phát theo can, chai, lọ,… trên đường phố” rõ ràng là nguy hiểm cho cộng đồng vì nguy cơ cháy nổ rất cao nhưng tại sao “bán xăng tự phát theo can, chai, lọ,… trên đường phố” lại hồi sinh ở Hà Nội?..

Từ đầu tháng 11 tới giờ, dân chúng Hà Nội trở thành nạn nhân của tình trạng khan hiếm xăng dầu (3). Xếp hàng cả giờ để được bơm một vài lít xăng đã trở thành điều bình thường, thậm chí chờ cả giờ nhưng không mua được giọt xăng nào vì chưa tới lượt đã hết xăng cũng đã trở thành… điều bình thường (4). Điều bình thường đó diễn ra sau khi ông Diên khẳng định với Quốc hội hồi hạ tuần tháng 10/2022 là… “Việt Nam chưa bao giờ thiếu xăng dầu” và “giá xăng dầu Việt Nam thuộc loại thấp nhất thế giới” (5)!

Nếu chịu khó theo dõi diễn biến trên thị trường xăng dầu Việt Nam suốt từ đầu 2022 đến nay ắt sẽ thấy, hễ ông Diên nói… “” thì thị trường xăng dầu sẽ chứng minh là… “không” và khi ông Diên bảo… “không” thì thị trường xăng dầu xác định là… “”.

Hồi tháng 2/2022 – thời điểm các cửa hàng xăng dầu ở TP.HCM nếu không tạm đóng cửa thì cũng chỉ bán cho khách 30.000 đồng/lần đổ xăng (5) – bất chấp việc chủ các cửa hàng phân trần, họ không thể làm khác vì càng bán càng lỗ (bán theo giá đã được ấn định nhưng lại không có chiết khấu, thành ra phải tự móc túi trả tiền nhân công, tiền mặt bằng, tiền điện, tiền nước,…), Bộ trưởng Công Thương vẫn lên án đó là… “găm hàng” và ra lệnh kiểm tra để… “lập tức xử phạt về vật chất, thu hồi giấy phép hoạt động” (6)…

Tuy nhiên càng “gia tăng kiểm tra, thanh tra, xử lý nghiêm những doanh nghiệp liên quan đến phân phối xăng dầu găm hàng” thì xăng dầu càng khan hiếm. Sau TP.HCM, tới lượt khu vực đồng bằng sông Cửu Long đối diện với cơn khát xăng dầu, ông Diên nhận định cơn khát đó là hậu quả của việc từng phụ thuộc vào nguồn xăng dầu buôn lậu trong một thời gian dài nên khi siết chặt, chỉ còn xăng dầu chính thống thì phát sinh thiếu hụt bởi nguồn cung trên thế giới biến động, chiết khấu thấp mà lỗ thì không ai làm (7)…

Nhận định vừa dẫn được ông Diên nêu ra vào ngày 22/10/2022, đến 5/11/2022 – lúc dân chúng Hà Nội phải xếp hàng đổ xăng, lúc “bán xăng tự phát theo can, chai, lọ,… trên đường phố” xuất hiện khắp nơi, ông Diên bảo rằng “thị trường diễn biến bất thường và khó lường, đứt gãy cục bộ nguồn cung trong hệ thống” là do tác động từ tranh mua trên thị trường thế giới trước khi lệnh cấm tuyệt đối việc mua xăng dầu, khí đốt của Nga có hiệu lực vào ngày 25/11/2022, từ tỉ giá ngoại tệ mạnh liên tục biến động, việc tiếp cận nguồn ngoại tệ và bảo lãnh nhập cảng, hỗ trợ thanh toán của các doanh nghiệp đầu mối và thương nhân phân phối gặp khó khăn (8)… Nói cách khác, hiện trạng như đã và đang thấy vừa do những tác động từ thiên hạ, vừa do Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, ông Diên nói riêng, Bộ Công Thương nói chung chỉ có công điều hành, không có lỗi!

***

Muốn biết dân chúng nghĩ gì về ông Diên, đánh giá ông như thế nào hãy tham khảo trên mạng xã hội Việt ngữ. Kẻ viết bài này chỉ lược thuật một số tuyên bố, nhận định của ông Diên trước các diễn biến trên thị trường xăng dầu từ đầu năm đến nay để chứng minh ông Diên có chỗ… hơn người: Lãnh đạo một bộ như Bộ Công Thương nhưng không biết và cũng chẳng thèm biết các quy luật của thị trường. Nói xuôi hay nói ngược cũng hết sức trơn tru, không ngượng, không ngại. Đặc biệt là không bao giờ thấy có lỗi để nhận sai hay xin lỗi. Đã có rất nhiều người thắc mắc, tại sao lại chọn một người vốn chỉ có kinh nghiệm về tổ chức hoạt động đoàn, hoạt động đảng với rất nhiều điều tiếng (9) như ông Diên làm Bộ trưởng Công Thương để thị trường xăng dầu càng ngày càng hỗn loạn, ảnh hưởng đến tất cả các giới? Câu trả lời ngắn gọn là nhờ… ơn đảng, không có đảng giành quyền lựa chọn, sắp xếp những người như ông Diên làm bộ trưởng thì làm gì ở thập niên thứ hai của thế kỷ 21, người Việt lại có cơ hội trải nghiệm việc mua xăng từ lề đường?

 

Ngay ở Sài Gòn, có những con hẻm ngập nước cả tuần không rút

Kimtrong Lam

Ngay ở Sài Gòn, có những con hẻm ngập nước cả tuần không rút

Đằng Vân

6 tháng 11, 2022

Gần một tuần nay, người dân tại khu dân cư ở phường Hiệp Bình Chánh, TP Thủ Đức, Sài Gòn vẫn đang chật vật sống chung với nước ngập có màu đen, bốc mùi nồng nặc – Ảnh: Lao Động

Tại Sài Gòn, một số con hẻm trên đường 41 (phường Hiệp Bình Chánh, Thủ Đức) gần một tuần qua liên tục bị ngập nước, cuộc sống của người dân nơi đây vì thế mà bị xáo trộn.

Nước ngập lâu nên sinh ra hôi thối, và muỗi xuất hiện ngày càng nhiều. Người dân ca thán nhưng chính quyền vẫn chưa có cách nào giải quyết cho nước rút.

Có khả năng nước sẽ vẫn còn ngập, thậm chí ngập sâu hơn nếu những ngày tới mưa lớn lại tiếp tục rơi.

Theo người dân địa phương, nguyên nhân là do khu vực này có địa hình thấp, mấy ngày này liên tục có mưa lớn, hệ thống thoát nước bị xuống cấp, nước thoát không kịp nên dẫn đến tình trạng liên tục ngập.

Ông Nguyễn Văn Thành (50 tuổi, phường Hiệp Bình Chánh) cho biết, ngoài nguyên nhân do mưa thì khu vực cống bên ngoài đường hẻm bị rác bịt kín khiến nước không thể thoát ra… Ông nói:

“Hôm nay nước rút một chút, chứ hôm qua cả khu ngập sâu gần nửa mét, xe cộ chết máy không di chuyển được. Nếu chiều nay mưa tiếp diễn, nước dâng cao hơn, cuộc sống người dân sẽ tiếp tục đảo lộn…”

Cùng lúc đó, anh Nguyễn Văn Hải (35 tuổi), chủ một sạp rau củ đang sắp xếp từng khay hàng vào nhà. Anh Hải lắc đầu ngán ngẩm nói:

“Nước lên thì phải dọn hết đồ vào trong nhà, kê đồ lên cao. Giờ chỉ khách quen mới biết nhà mình đang bán hàng, chứ khách vãng lai bỏ đi hết vì đường ngập”.

Cuộc sống của người dân bị xáo trộn vì ngập nước – Ảnh: Lao Động

Nói về khó khăn những ngày qua, Hải cho biết nhà anh ở gần ngay mương nước nên ngoài chuyện ngập thì mùi hôi thối của rác thải cũng ảnh hưởng đến cuộc sống và việc kinh doanh.

Khổ nhất là những người thuê nhà. Họ không được tự ý nâng nền nên phòng trọ của họ luôn bị nước đe dọa nên bất đắc dĩ họ phải dùng gạch, ván chắn trước cửa.

Cô Kim Hồng (21 tuổi), sinh viên thuê trọ cho biết:

“Phòng tôi thuê không có giường, chỉ trải nệm dưới sàn nhà nên ngủ cũng không yên, sợ nước vào ướt hết. Ráng ngăn được bao nhiêu nước thì hay bấy nhiêu”.

Ông Nguyễn Ngọc Tuấn – Chủ tịch UBND phường Hiệp Bình Chánh cho biết, sau phản ảnh của người dân, chính quyền đã đến kiểm tra hiện trạng.

“Toàn bộ nước từ khu dân cư này đều thoát qua Rạch Đĩa nhưng đoạn cuối tuyến có khoảng 15 m cống bị nghẹt. UBND phường sẽ thuê đơn vị nạo vét đoạn cống này”.

Một số hình ảnh khu dân cư ở phường Hiệp Bình Chánh Thủ Đức, bị nước bao vây:

Tình trạng ngập nước cả tuần nay khiến đời sống sinh hoạt người dân bị đảo lộn

Rác chất đống, nổi lềnh bềnh tại kênh thoát nước ở khu phố, một trong những nguyên nhân khiến nước rút chậm – Ảnh: Lao Động

Vấn đề công nhân rẻ của Việt Nam

Bởi  AdminTD

Trương Nhân Tuấn

6-11-2022

Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh và Thái tử kế vị Đan Mạch Frederik dự lễ khởi công nhà máy thứ 6 và là nhà máy trung hòa carbon đầu tiên trên thế giới của Tập đoàn LEGO. Ảnh: VGP/Hải Minh

Trong lúc Trung Quốc bước qua giai đoạn mới, từ giã “xã hội tiểu khang” (1980) để bước qua cái gọi là “cộng đồng phú dụ” (2020). Thì VN vẫn đang “tự hào” với các chính sách gà què ăn quẩn, kiểu “vắt kiệt sức lao động” của dân nghèo.

Tập đoàn Lego (nghe nói) sẽ đầu tư vào VN, mở nhà máy ở Bình dương. Nhiều người tán dương xem đó là sự “thành công” của chính sách “ngoại giao cây tre”. Trước đó vài tháng, lúc các cửa khẩu vào TQ đóng cửa (do Covid-19), có lãnh đạo VN đã rất “tự hào” vì đã thành công thuyết phục hải quan TQ mở cửa cho sầu riêng của VN nhập qua TQ.

Tôi không biết trí thức VN sẽ nghĩ gì về sự thành công của “ngoại giao cây tre” VN cũng như sự “tự hào” của VN khi xuất được vài xe sầu riêng qua TQ. Cá nhân tôi thì chưa bao giờ bị “sốc”, bị “chấn động tâm lý” khi đọc những dòng chữ như vậy. Sốc, bởi vì khi có những cán bộ như vậy, khi có tập thể trí thức như vậy, tương lai dân tộc VN sẽ “đen như mõm chó”, kiểu “trai muôn đời làm nô, gái muôn đời làm nô tì”…

Nếu ta có đọc lịch sử về các mô hình phát triển ở các quốc gia Châu Á, từ mô hình “Saemae-Eul” thập niên 60 của Hàn quốc cho đến “xã hội tiểu khang” của Đặng Tiểu Bình đầu thập niên 80, nay bước qua “cộng đồng phú dụ” của Tập Cận Bình năm 2020. Tất cả các chính sách phát triển kinh tế của Nam Hàn, của TQ, của Đài loan (và trong chừng mực ở các quốc gia Đông Nam Á) đều thành công. Nam Hàn, Đài loan đã trở thành các quốc gia phát triển có mức sống tương đương với Mỹ và EU.

Còn TQ, ta phải nhìn nhận rằng họ đã thành công, vì họ đã đưa dân số trên tỉ người, từ mức 165 đô la/năm thời Đặng Tiểu Bình, lên tới 11.819 đô la/năm (GDP danh nghĩa, 18.931 đô la sức mua PPP) năm 2021. Ngay cả khi có sự bất bình đẳng rất lớn. Có khoảng 350 triệu người TQ có mức thu nhập bình quân từ 15 ngàn đến 75 ngàn đô một năm. Đa số còn lại (khoảng trên 1 tỉ người) chỉ ở mức 1600 đô một năm.

Nhưng nền tảng sự phát triển của TQ hiện thời ta thấy rất “ấn tượng”. TQ sản xuất các mặt hàng “made in China” có khả năng cạnh tranh với các mặt hàng tối tân nhứt của Mỹ và Tây phương. Họ có chương trình không gian độc lập (trạm không gian Thiên cung), có hệ thống xe lửa cao tốc không thua Đức, Nhật, Pháp… Có tập đoàn điện hạt nhân bề thế hơn cả Pháp. Có các mặt hàng xe cộ, đồ điện tử áp đảo cả thế giới…

Đảng CSTQ ít nhiều gì cũng đạt được sự chính danh trong lãnh đạo.

Từ lâu họ đã nói rằng mục đích sự hiện hữu của đảng CSTQ là vì hạnh phúc của nhân nhân. Mọi chính sách của họ là phục vụ cho nhân dân. Vì vậy họ có quan niệm về sự lãnh đạo của đảng là “qui luật”. Họ có chính danh là vì họ thành công. Họ đã thực hiện được những gì họ đã nói.

Theo tôi, đại đa số các chính sách phát triển của TQ đều “lấy hứng” từ cách chính sách phát triển của TT Phác Chánh Hy, Nam Hàn. Chính sách “cộng đồng phú dụ” của Tập, mọi người cùng giàu, kiểu nước biển dân lên thì mọi chiếc thuyền cũng đều được nước dâng lên. Thực tế lấy hứng từ chính sách Saemae-Eul, Chaebols của cố Tổng thống Phác Chánh Hy. Chính sách Saemae-Eul khá tương đồng với Ấp chiến lược của TT Diệm, có mục đích giúp đỡ nông dân nghèo. Khác nhau ở chỗ Ấp chiến lược của cố TT Diệm áp dụng cho quốc gia đang trong tình trạng chiến tranh. Các Chaebols lớn của Hàn quốc phụ trách việc đỡ đầu cho các làng quê nghèo, giúp dân ở đây nâng mức sống, bằng sản phẩm của chính họ.

Còn “cộng đồng phú dụ” của Tập thì buộc các tập đoàn lớn của TQ “kết nghĩa” với các huyện nghèo, giúp các huyện này phát triển.

Nam Hàn thành công là nhờ viện trợ của Mỹ, khoảng 1 tỉ mỗi năm. Còn VN? Kiều hối từ nước ngoài gởi về VN là bao nhiêu? Không cần biết nhưng lượng vốn này chắc chắn cao hơn bất kỳ viện trợ của một quốc gia nào.

VN từng bước bắt chước TQ, TQ thành công bao nhiêu VN thất bại bấy nhiêu.

Có nhều lý do khiến VN thất bại. Điều cốt lõi là VN luôn áp dụng phương pháp “đấu tranh”, từ đấu tranh giai cấp cho mọi thành phần dân chúng trong nước. Cho tới đấu tranh ý thức hệ đối đầu với số người Việt nước ngoài.

TQ đối đầu với một cộng đồng dân Hoa hải ngoại và Đài Loan. Họ luôn có đối lập về ý thức hệ. Nhưng TQ không coi họ là kẻ thù mà luôn coi họ là người Hoa. TQ chỉ cô lập các thành phần chủ trương lý khai”, như ở hong Kong và Đài Loan. Lịch sử TQ không hề bêu xâu “ngụy” họ Tưởng hay bọn “phản quốc” Đài Loan. TQ kế thừa toàn bộ di sản của Tôn Dật Tiên (Trung hoa dân quốc). Đảng CSTQ tranh giành với Quốc dân đảng (ở Đài Loan) về công lao đánh Nhật giành độc lập. Nhưng CSTQ không coi Quốc dân đảng là kẻ thù cần phải tiêu diệt.

Đảng CSTQ tự cho là họ có chính danh lãnh đạo TQ. Vì họ đạt được các mục tiêu kinh tế, chính trị, quân sự, khoa học v.v… đã đặt ra. Họ không áp dụng các phương pháp “đấu tranh giai cấp” trong lòng dân tộc, không áp dụng “đấu tranh ý thức hệ” để tạo mâu thuẫn “địch ta” trong khối dân tộc. Về văn hóa giáo dục họ không chủ trương “ngu dân” để dễ cai trị.

Đảng CSVN áp dụng tất cả các chính sách sắt máu của Lê Nin (và Stalin) kiểu “đấu tranh giai cấp” và đấu tranh ý thức hệ nhằm gây mâu thuẫn “địch ta” trong khối dân tộc với mục đích triệt tiêu mọi tiếng nói đối lập. Họ chủ trương ngu dân để kéo dài sự cai trị của đảng.

Ta có thể tranh luận về tính chính danh của đảng CSTQ. Nhưng dứt khoát đảng CSVN không hề có chính danh để lãnh đạo đất nước và dân tộc.

Khi bắt chước TQ, đảng CSVN đã mất chính danh rồi. Huống chi đảng CSVN liên tục thất bại mọi chính sách phát triển quốc gia (công nghiệp hóa, hiện đại hóa 2020). Điểm cốt lõi trong chính sách phát triển của VN từ khi “mở cửa” (1987) đến nay là “công nhân rẻ”.

35 năm sau yếu tố “công nhân rẻ” vẫn còn là trụ xương sống cho sự phát triển của VN. Trong khi Nhật, từ 1945 đến 1970, Nam Hàn, từ 1960 đến 1980, TQ, từ 1980 đến 2022… Cứ cho là tương đồng với VN về thời gian phát triển. Ngoại trừ VN là con giun sống ký sinh, các quốc gia khác không thành rồng cũng thành cọp.

Bản Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc 2022 có điểm gì đáng chú ý?

Bởi  AdminTD

 

Trương Nhân Tuấn

5-11-2022

Bản Tuyên bố chung VN-TQ kỳ này nội dung có vài điểm mới, mang tính mấu chốt, đánh dấu sự chuyển mình của TQ trong thế trận cạnh tranh với Mỹ và Tây phương về ý thức hệ và mô hình phát triển.

1/ Sự lãnh đạo của (các) đảng cộng sản trở thành “qui luật”. Các đảng cộng sản có mục tiêu, lý tưởng và sứ mệnh: vì hạnh phúc nhân dân, vì tiến bộ nhân loại.

2/ Phô trương (hay phóng đại) mô hình phát triển của TQ “thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, là thực tiễn sinh động, kinh nghiệm quý báu” để các quốc gia đang phát triển tham khảo.

3/ Vấn đề an ninh đặt lên hàng đầu. “Diễn tiến hòa bình”, “Cách mạng màu” được xếp vào mục tội phạm, đứng chung với “khủng bố” và các tội phạm ma túy, lừa đảo, đánh bạc…

4/ Vấn đề tranh chấp Biển Đông sẽ không được giải quyết bằng pháp luật quốc tế mà bằng việc “hợp tác thực thi pháp luật” giữa hai lực lượng cảnh sát biển của hai nước. Tranh chấp trong Vịnh Bắc Việt sẽ được giải quyết trong nội bộ của bộ Nông nghiêp.

Ta thấy là VN chấm dứt chính sách “đu dây” từ sau khi Liên Xô sụp đổ.

Chính sách “đu dây” chỉ có thể áp dụng nếu có hai “trụ cột”, như Liên Xô và TQ ngày trước. CSVN lúc thì nghiêng qua TQ, lúc thì ngả lại Liên Xô để được tăng cường viện trợ. VN đối với hai đại cường LX và TQ như là một “vệ tinh”. Cả hai, Liên Xô và TQ tranh thủ lấy lòng VN để có ưu thế địa chiến lược.

Hiện nay VN không hề có chính sách “đu dây” giữa TQ và Mỹ. Mỹ không phải là một “trụ cột” và TQ cũng vậy.

Mỹ đã thể hiện một sự kiên nhẫn chiến lược đối với VN một cách đáng kinh ngạc. Mỹ đã giúp tận tình cho VN qua cơn khủng hoảng y tế do Covid-19 năm ngoái cũng như “mở cửa rộng” nhập hàng hóa của VN nhằm giúp kinh tế VN phát triển.

Người Mỹ dĩ nhiên đã thấy rằng thực tế “ngoại giao cây tre” của VN chỉ là một màn “phe phẩy” chớ không phải là một thái độ chân thành của một đối tác đáng tin cậy.

Cây tre VN, nếu có, thì cây tre này bắt rể trên ý thức hệ và mô hình phát triển của CSTQ. Cây tre VN mọc trên đất TQ, vì vậy VN không thể có cái gọi là “ngoại giao cây tre” mà chỉ có “ngoại giao theo chỉ đạo chiến lược của TQ”.

Mỹ thể hiện sự kiên nhẫn, đưa tay muốn dắt VN ra khỏi vùng ảnh hưởng của TQ.

Nội dung bản Tuyên bố chung VN-TQ 2022 qua các điểm nhấn ghi trên sẽ là một thách thức đối với sự kiên nhẫn chiến lược của Mỹ. VN đã chọn phe: đứng về phía TQ, giúp TQ phát huy mô hình và ý thức hệ của TQ ra thế giới.

VN đứng về phe TQ, thách thức với Mỹ và thế giới tự do trong cuộc cạnh tranh mô hình phát triển và ý thức hệ chính trị.

Có thể sắp tới Mỹ sẽ bỏ VN để “đi” với một quốc gia khác, chắc chắn không bằng VN về mọi mặt, như Campuchia.

Nếu ví bàn cờ chiến lược Ấn độ – Thái bình dương với Châu Âu hiện tại, VN đối với TQ có thể ví như là một Bạch Nga đối với Nga. Còn Campuchia có thể là Phần lan (hay các xứ Baltique). Nếu Bạch Nga không “phản bội” Nga thì VN sẽ không bao giờ quay lưng lại với TQ.

Nhưng liệu khi Mỹ “quay lưng” với VN, đóng cửa với VN về mọi mặt. Liệu VN có thể giữ nguyên mức phát triển hay không? Chỉ cần Mỹ hạn chế nhập khẩu, hay hạn chế dòng ngoại tệ của Việt kiều, VN sẽ ra sao?

“Năm năm vàng son 1955-60” của Việt Nam Cộng Hòa

30 tháng 10 2016

Từ cao nguyên Tây Tạng, con sông Cửu Long cuồn cuộn chảy như thác lũ xuống phía nam qua tỉnh Vân Nam, tới Lào, Thái Lan, Kampuchia, rồi Việt Nam trước khi ra Biển Đông.

May cho Miền Nam là có hồ lớn Tonle Sap ở Campuchia hút đi một phần lớn lượng nước từ thượng nguồn cho nên từ đây dòng sông lại uốn khúc hiền hòa chảy vào Miền Nam.

Tới gần biên giới thì con sông chia ra làm 8 nhánh. Nhưng con số 9 được coi là may mắn cho nên phải tìm ra cho được một nhánh nữa, tuy là rất nhỏ (dài khoảng 10 dậm) để cộng lại thành ra 9 nhánh, gọi là Cửu Long Giang.

Dòng sông Chín Con Rồng uốn mình tưới nước cho vùng đồng bằng Nam Bộ mầu mỡ, phì nhiêu trở thành vựa lúa của cả nước. Người nông dân nơi đây chỉ cần trồng mỗi năm một vụ là cũng đủ ăn, lại còn dư thừa để tiếp tế ra Miền Bắc và xuất cảng.

Khởi đầu gian khó

Nhưng trong mười năm chiến tranh loạn lạc, trên một phần ba đất trồng trọt đã bị bỏ hoang, nhường chỗ cho những bụi rậm và cỏ dại lan tràn.

Một phần lớn hệ thống kênh rạch cũng bị khô cạn hay sình lầy. Hệ thống bơm nước, thoát nước cũng bị hư hại. Bởi vậy, sản xuất thóc gạo của Miền Nam trong mười năm trước 1955 đã bị giảm đi đáng kể.

Ngoài ra, các phương tiện giao thông như đường bộ, đường sắt, cầu cống và các cơ sở công kỹ nghệ như đường trắng, rượu bia, sợi bông cũng đều bị hư hại.

Cho nên vào năm 1955, khi “Một Quốc Gia Vừa Ra Đời” như báo chí Mỹ tuyên dương thì quốc gia ấy đã phải đối diện với bao nhiêu khó khăn khôn lường.

Ngân sách của Pháp để lại thì thật eo hẹp, kỹ sư, chuyên viên trong mọi lãnh vực đều hết sức hiếm hoi vì Pháp đã rút đi hầu hết, để lại một lỗ hổng lớn cho cả nển kinh tế lẫn hành chánh, giáo dục, y tế.

May mắn là trong năm năm đầu, từ mùa Thu 1955 tới mùa Thu 1960, Miền Nam có được năm năm vàng son, vừa có hòa bình lại được đồng minh Hoa kỳ hết lòng yểm trợ vật chất và kỹ thuật cho nên đã thu lượm được nhiều kết quả có thể nói là vượt bực.

Hồi tưởng lại thời gian ấy, nhiều độc giả chắc còn nhớ lại cái cảnh thanh bình khi các em học sinh mặc áo chemise trắng, quần xanh, các nữ sinh với những chiếc áo dài trắng tha thướt ngày ngày cắp sách đến trường.

Cha mẹ, anh em thì lo công việc làm ăn. Giầu có thì chưa thấy nhưng hầu hết đã đủ ăn đủ mặc, xã hội trật tự, kỷ cương. Tuy dù có nhiều bất mãn khó tránh về chính trị, tôn giáo và xã hội, nhưng tương đối thì ta phải công nhận rằng đây là thời gian hào quang nhất của Cộng Hòa Việt Nam.

Định cư gần một triệu người di cư từ Miền Bắc

Công việc đầu tiên và khẩn cấp nhất là phải định cư tới gần một triệu người, tương đương bằng 7% dân số Miền Bắc di cư vào Nam.

Đoàn người này hoàn toàn ‘tay trắng’ – chúng tôi gọi là đoàn người ‘bốn không’: không nhà cửa, đất đai, tiền bạc, ngành nghề chuyên môn ngoài nghề nông.

Làm sao tìm được nơi ăn, chỗ ở, tạo dựng lại được công ăn việc làm, đào giếng nước, xây nhà thương, bệnh xá, trường học cho con em để đáp ứng nhu cầu? Ngoài việc hành chính, lại còn tìm đâu ra bác sĩ, y tá, thầy dạy cho con em?

Sau này khi nói về thành công của Tổng thống Diệm về việc này, TT Kennedy viết cho ông nhân ngày Quốc Khánh 26/10/1961:

“Thưa Tổng thống,

Thành tích mà Ngài đã đạt được để đem lại niềm hy vọng mới, nơi cư trú và sự an ninh cho gần một triệu người lánh nạn cộng sản từ Miền Bắc đã nổi bật như một trong những nỗ lực đáng được tán dương nhất, và được điều hành tốt đẹp nhất trong thời hiện đại.”

Tái thiết và phát triển nông nghiệp

Ưu tiên của công việc tái thiết và phát triển phải là nông nghiệp vì đại đa số nhân dân làm nghề nông. Đồng bằng Cửu Long là vựa lúa của cả nước, nhưng sản xuất đã giảm đi đáng kể trong mười năm ly loạn.

Thời tiền chiến sản xuất lên tới 4,2 triệu tấn (1939). Tới 1954 chỉ còn 2,5 triệu tấn. Cũng năm 1939 xuất cảng gạo là gần 2 triệu tấn, năm 1954 chỉ còn 520.000 tấn.

Tại vùng đồng bằng, trong tổng số là 7 triệu hecta đất trồng trọt có tới 2,5 triệu hecta (trên một phần ba) bị bỏ hoang. Lúa gạo là mạch máu của người dân cho nên công việc đầu tiên là phải đưa diện tích này vào canh tác.

Đây là một cố gắng vượt mức vì không những nó đòi hỏi phải tốn phí nhiều tiền bạc, công sức, để sửa chữa lại hệ thống thủy lợi, vét nạo kênh rạch, lại còn làm sao xây dựng được quyền sở hữu đất đai và phương tiện sản xuất cho người nông dân.

Cải cách điền địa: Khó khăn và giải pháp thành công

Người khôn của khó. Lo lắng chính của người dân là làm sao có được một mảnh đất để sinh sống. Nếu như mảnh đất ấy lại nằm gần sông nước thì là vàng.

‘Đất Nước tôi’: đất và nước. Chỉ có Việt Nam ta là dùng hai chữ đất và nước để chỉ quê hương, tổ quốc mình vì tấc đất là tấc vàng.

Các biện pháp cải cách ruộng đất bắt đầu vào năm 1955 với lệnh giới hạn địa tô (tiền thuê đất) và những biện pháp giúp cho tá điền (người nông dân thuê đất) có được sự yên tâm về quyền sử dụng đất.

Cải cách điền địa là công việc rất khó khăn của các chính phủ Á Châu, nhưng ở Miền Nam là khó khăn nhất.

Làm sao mà lấy ruộng của người này chuyển cho người khác, nhất là khi đất canh tác lại tập trung vào một số rất nhỏ đại điền chủ? Họ là những người nắm thực quyền tại địa phương và gián tiếp, tại đô thị. Ở đồng bằng sông Cửu Long, sự tập trung quyền sở hữu đất vào một số điền chủ là cao nhất ở vùng Đông Nam Á: chỉ có 2,5% điền chủ mà đã sở hữu tới một nửa diện tích canh tác, trung bình mỗi điền chủ có hơn 50 mẫu đất.

Trước tình huống ấy, TT Diệm đã phải đối mặt với một khủng hoảng xã hội rất có thể xẩy ra nếu như phát động mạnh chương trình cải cách điền địa. Nhưng TT Diệm vẫn đặt vấn đề này là ưu tiên số một của chính sách kinh tế, bắt đầu ngay từ 1955 bằng việc cải tổ quy chế tá điền.

Để hỗ trợ cho nông dân được yên tâm khi đi làm thuê, điền chủ phải ký hợp đồng với tá điền về điều kiện thuê đất: tiền thuê đất, thời hạn thuê, triển hạn khế ước, giảm tô trong trường hợp mất mùa.

Kết quả về nông nghiệp trong 5 năm rất khả quan: sản xuất cây lương thực tăng 32%, vượt qua tất cả mức sản xuất thời tiền chiến. Năm 1959, sản xuất gạo lên 5,3 triệu tấn, cao nhất trong lịch sử kinh tế Miền Nam cho tới thời điểm đó. Về xuất cảng: với tổng số là 340.000 tấn, năm 1960 cũng đánh dấu mức xuất cảng cao nhất.

Phát triển công kỹ nghệ và quy chế ‘Quốc tịch Việt’

Dưới thời Pháp thuộc, kỹ nghệ và tài nguyên hầu như không được phát triển vì người Pháp chia ra hai vùng rõ rệt: Miền Bắc tập trung vào kỹ nghệ và khai thác hầm mỏ, Miền Nam thì căn bản là tập trung vào nông nghiệp, chỉ có một số sản phẩm tiêu thụ như nhà máy bia, diêm quẹt, thuốc lá, độc quyền thuốc phiện.

Bởi vậy từ 1955, Miền Nam bị cắt đứt tiếp liệu về than và khoáng sản. Chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư lại thật ít ỏi vì Pháp đã rút đi hầu hết.

Từng bước, chính phủ bắt đầu khai thác tài nguyên với ba dự án chính: mỏ than Nông Sơn, thủy điện Đa Nhim, và phốt phát tại Hoàng Sa – Trường Sa. Lúc ấy thì chưa biết là có dự trữ dầu lửa lớn ở những quần đảo này.

Một chuyện ít người biết là việc đổi quốc tịch.

Nhiều người lên án hành động của TT Diệm là độc tài khi ông đưa ra quy định vào hè 1955 căn bản là nhắm vào các thương gia người Tầu (đa số sinh sống ở Chợ Lớn): nếu muốn làm ăn ở Việt Nam thì phải đổi ra quốc tịch Việt Nam.

Chúng tôi nghiên cứu thì mới hiểu lý do sâu xa là vì thời gian ấy, cơ sở kỹ nghệ ở Miền Nam căn bản là thuộc quyền sở hữu của người Pháp, cho nên khi TT Diệm quyết tâm đẩy Pháp ra khỏi Miền Nam thì ông tiên liệu trước và mở đường để người Tầu nhập quốc tịch Việt Nam với mục đích là để cho họ (vì có nhiều vốn liếng) sẽ có thể mua lại những cơ sở kỹ nghệ của người Pháp.

Một kích thích nổi bật khác về kinh tế là chính sách cởi mở, ưu đãi đối với các nhà đầu tư ngoại quốc: bảo đảm về chiến tranh, cam kết không tịch thu hay quốc hữu hóa tài sản của người ngoại quốc, ưu đãi về thuế má và cho phép chuyển tiền lời ra ngoại quốc.

Hạ tầng cơ sở

Tái thiết mạng lưới giao thông đã bị hư hại trong thời chiến và xây dựng thêm nữa là đòi hỏi tiên quyết cho việc phát triển kinh tế và xã hội.

Tới năm 1960, hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thủy và các tuyến hàng không đã được cải thiện canh tân và mở rộng đáng kể. Hệ thống vận chuyển hiện đại bao gồm đường sắt, một mạng lưới các đường quốc lộ, liên tỉnh lộ, hương lộ, đường thủy và đường hàng không.

Đường bộ: trong khoảng 9.000 dặm đường, có hơn 2.000 dặm là bê tông nhựa; 3.000 dặm đường có cán đá, và khoảng 4.000 dặm là đường hương lộ.

Đường sắt: năm 1955 giao thông đường sắt cũng được sửa chữa và canh tân. Tới 1959 toàn hệ thống bao gồm 870 dặm, gồm một tuyến đường chính chạy từ Sàigòn đến Đông Hà, nối kết toàn bộ các tỉnh dọc miền duyên hải (nhiều khúc bị cắt đứt trong 12 năm chiến tranh).

Một chi nhánh đường sắt (có móc để leo đồi) đi từ Phan Rang lên Đà Lạt, và một chặng nối với mỏ than Nông Sơn. Một khúc ngắn về phía đông bắc, đi từ Sàigòn tới Lộc Ninh.

Hàng không: hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam – Air Vietnam – được thành lập lúc đầu để bay trong nước. Ngoài phi trường Tân Sơn Nhất, các phi trường được sửa chữa lại và xây dựng thêm gồm Huế, Đà Nẵng, Nha trang, Qui Nhơn, Biên Hòa, Đà Lạt, Ban mê Thuột, Pleiku, Hải Ninh, Cần Thơ, Phú quốc.

Từ nội địa, Air Vietnam bắt đầu bay tới Phnom Penh, Siem Reap, Bangkok, Vientianne và Savannakhet. Đường quốc tế phần lớn được đảm nhiệm bởi các hãng Air France, Pan American, World Airways, British Airways, Royal Dutch, Cathay Pacific và Thai Airways.

Ngân hàng và tiền tệ

Thiết lập được một ngân hàng trung ương và một hệ thống ngân hàng thương mại để thay thế cho Banque de L’Indochine và các ngân hàng thương mại Pháp ở Sài Gòn là một thành quả lớn của thời đệ Nhất Cộng Hòa.

Ngay từ tháng 1/1955, Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam được thành lập để phát hành đồng tiền Việt Nam và thực hiện các nghiệp vụ của một ngân hàng trung ương tân tiến.

Giáo dục và đào tạo

Xét đến cùng, con người vẫn là yếu tố quan trọng nhất trong việc phát triển kinh tế lâu dài. Trong thời kỳ 1955-1960, Miền Nam đã phát triển giáo dục rất nhanh.

Tiểu học: 1960, đã có tới 4.266 trường tiểu học công và 325 trường tiểu học tư thục. Tổng số học trò lên tới gần 1.200.000.

Trung học: các trường trung học công lập tăng từ 29 lên 101 trường. Nguyên trường Gia Long: số học sinh đã tăng từ 1.200 lên tới 5.000.

Đại học: trước năm 1954, Miền Nam không có đại học. Muốn học cử nhân phải ra Hà Nội. Năm 1955, chính thức thành lập đại học Sài Gòn, rồi tới Đại học Huế, Đà Lạt. Tới năm 1962 tổng số sinh viên lên tới 12.000.

Xem như vậy, thành quả của “Năm Năm Vàng Son 1955-1960” là thời gian quý hóa nhất của lịch sử Cộng Hòa Việt Nam.

Ngày Quốc Khánh 26/10/1960 Tổng thống Eisenhower viết cho TT Diệm:

“Kính thưa Tổng Thống,

Trong năm năm ngắn ngủi kể từ khi thành lập nước Cộng hòa, nhân dân Miền Nam đã phát triển đất nước của mình trong hầu hết các lĩnh vực. Tôi đặc biệt ấn tượng bởi một thí dụ. Tôi được thông báo rằng năm ngoái hơn 1.200.000 trẻ em Việt Nam đã có thể đi học trường tiểu học, như vậy là nhiều hơn gấp ba lần so với năm năm trước đó. Điều này chắc chắn là một yếu tố hết sức thuận lợi cho tương lai của Việt Nam. Đồng thời khả năng của Việt Nam để tự bảo vệ chống lại cộng sản đã lớn mạnh một cách không thể đo lường được kể từ khi họ tranh đấu hữu hiệu để trở thành một nước Cộng Hòa độc lập.”

Hòa bình là một điều kiện tiên quyết cho xây dựng và phát triển.

Nhân dân Miền Nam đã có được năm năm vàng son để làm ăn, sinh sống trong hoàn cảnh tương đối là thanh bình. Tuy còn nghèo nhưng mỗi ngày lại thêm một bước tiến.

Bao nhiêu độc giả cao niên còn nhớ lại những kỷ niệm êm đềm về thời gian ấy. Thí dụ bạn có thể đi bất cứ nơi nào một cách tự do từ Cà Mau ra tới tận Đông Hà. Mờ sáng lên xe buýt ra Vũng Tầu tắm biển hay buổi chiều đến ga xe lửa gần chợ Bến Thành mua vé đi Đà Lạt.

Chỉ trong chốc lát, con tầu bắt đầu phun khói, còi tầu rít lên trước khi khởi hành. Khi mặt trời hé rạng thì tầu chạy ngang bờ biển cát trắng Phan Rang, rẽ trái rồi ỳ ạch leo tuyến đường sắt có móc để trèo dốc lên Đà Lạt. Cái thú vui khi rời ga Đà Lạt (đẹp nhất Đông Nam Á) để mau tới “Café Tùng” hay “Phở Bằng” thưởng thức một ly cà phê sữa nóng thì khó có thể diễn tả được.

Với sự thông minh, cần cù của người dân Việt thì chỉ cần có hòa bình là tiến bộ trông thấy. Người dân lam lũ vất vả nhưng luôn vui với cuộc sống. Người nông phu không quản ngại thức khuya, dậy sớm để cầy sâu cuốc bẫm, chờ đợi cho tới ngày lúa vàng.

Tâm tư ấy luôn được phản ảnh trong thơ văn, âm nhạc Miền Nam trong thời gian này. Và khi thanh bình, con người lại đối xử với nhau cho hài hòa thì mọi việc – dù là tát cạn cả Biển Đông – cũng đều có thể ước mơ.

Tuy các kết quả phát triển kinh tế xã hội thời đó thật là nhỏ nhoi theo tiêu chuẩn ngày nay, nhưng là rất đáng kể so với các nước láng giềng lúc ấy như ngay cả Nam Hàn dưới thời Tổng thống Lý Thừa Vãn.

Miền Nam thực sự đã đặt được những viên gạch đầu tiên trong các năm 1955-1960 cho mô hình phát triển sau này của Nam Hàn dưới thời Tổng thống Phác Chính Hy. Xây dựng và phát triển trong hòa bình đã đưa Miền Nam tới chỗ vươn lên – kinh tế học gọi là điểm cất cánh (take-offĐ để trở thành một cường quốc tại Đông Nam Á.

Buổi bình minh của Nền Cộng Hòa (“The First Day”) thật là huy hoàng rực rỡ. Nhiều quan sát viên ngoại quốc cho rằng đây chính là “một cuộc cách mạng đã bị mất đi” (the lost revolution) của Miền Nam Việt Nam.

Bài viết của Giáo sư Tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng, trích dẫn từ cuốn sách ‘Khi Đồng Minh Nhảy Vào’ mới xuất bản tại Hoa Kỳ. Sinh năm 1935 ở Thanh Hóa, tác giả từng giữ chức Tổng trưởng Kế hoạch của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiêm cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở Sài Gòn. Hiện ông định cư tại Hoa Kỳ. Ông là tác giả cuốn Khi Đồng minh Tháo chạy và là đồng tác giả cuốn The Palace Files- Hồ sơ Dinh Độc Lập, viết cùng Jerrold L. Schecter bằng tiếng Anh.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Một chút hiểu lầm

Một người thuộc giai cấp nào đó không có nghĩa rằng người đó đã có một khối tài sản nhất định. Điều đó càng đúng đối với chế độ cộng sản: sở hữu mang tính tập thể. Ở đây muốn trở thành chủ sở hữu hay đồng sở hữu thì cần phải len được vào hàng ngũ của bộ máy quan liêu chính trị. – Milovan Djilas – Giai Cấp Mới

Thời gian gần đây, gần như là hằng đêm tôi đều mơ thấy mình vẫn đang sống trong một khung cảnh nào đó – ở Việt Nam. Cứ như thể là tôi chưa bao giờ rời khỏi đất nước này, dù chỉ một ngày.

Khỏi cần phải đọc Freud hay Jung gì ráo trọi, tôi cũng biết được rằng tự tiềm thức của mình đang có một thôi thúc khác – khác với sự chọn của ý thức từ bấy lâu nay – tuy sâu kín nhưng mạnh mẽ, cái sức mạnh của một định luật tự nhiên: lá rụng về cội! Nhờ thế, tôi (chợt) hiểu tại sao hai ông Phạm Duy và Nguyễn Cao Kỳ nằng nặc phải trở lại cố hương bằng mọi giá – kể cả cái giá phải “hy sinh” luôn tính tự trọng (tối thiểu) và lòng liêm sỉ.

Thường dân cỡ tui thì đi mới khó, chớ về thì dễ ợt. Chả sợ điều tiếng chi, và cũng khỏi ngại chuyện mấy chú công an canh chừng hay thăm hỏi gì. Chỉ ngặt có chút xíu (xiu) là tôi không biết rồi sẽ làm sao để mưu sinh, ở quê nhà.

Già cũng phải sống chớ bộ, cũng phải có nơi ăn chốn ở, phương tiện đi lại, và chăm sóc y tế tối thiểu – khi cần. Mà tui thì suốt đời không có đồng xu dính túi (tiền vừa tới tay là tui đã sài liền, hoặc cho mẹ nó rồi) nghề nghiệp thực dụng để có thể kiếm việc ở V.N cũng không luôn, còn thân bằng quyến thuộc thì toàn là những người khốn khó và thuộc thành phần… phản động không hà!

Mà cố hương (than ơi!) cho dù ở góc bể chân trời, hay châu lục nào chăng nữa thì cũng đều chia chung một định luật bất thành văn: không đâu, và không ai, hân hoan đón chào những kẻ trở lại với … hai bàn tay trắng. Thôi thì đành bỏ xác quê người, chớ về làm chi/cho má nó khi.

Tôi đã có dự tính nhẩy cầu Golden Gate thì có  tin vui giữa giờ tuyệt vọng, từ một giới chức cao cấp ở Việt Nam – Bộ Trưởng Chủ Nhiệm Ủy Ban Dân Tộc Giàng Seo Phử. Ông vừa hân hoan cho biết: “Bán vé số ở Việt Nam có thu nhập cao.”

Bán tin, bán nghi, tôi liền vào net tìm hiểu thêm và biết được rằng hiện nay (ở Việt Nam) bán vé số được coi là một nghề nghiệp đàng hoàng tử tế, của một giới người riêng biệt, không những có “thu nhập cao” mà còn có nhiều chuyện may mắn bất ngờ và rất thú vị nữa kià – theo như tường thuật của phóng viên Hữu Danh, báo Dân Việt:

Dư luận Long An đang xôn xao với thông tin một người bán vé số nghèo đưa cho khách 10 tờ vé số trúng thưởng 6,6 tỷ đồng để nhận lại 200 ngàn đồng tiền xổ số, dù khách chỉ “mua thiếu qua điện thoại.

Khoảng 16 giờ ngày 15.11, còn hơn 20 vé bị ế nên chị gọi điện thoại cho mối quen là anh Đỗ Ngọc Tuấn, 41 tuổi, ngụ khu phố 2, đường Bà Chánh Thâu, thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức – hành nghề chạy xe ba gác – nài nỉ mua dùm. Anh Tuấn đồng ý mua 20 tờ, gồm ba số khác nhau. Gọi là “mua” nhưng chỉ là nói qua điện thoại, anh Tuấn cũng chưa trả tiền.

Chiều cùng ngày, lốc vé 10 tờ của công ty XSKT tỉnh Bến Tre mang dãy số đuôi X91207 trúng đặc biệt 4 tờ, trúng an ủi 6 tờ. Nhiều đồng nghiệp bán vé số bảo người mua chưa trả tiền, coi như chưa mua và nói chị Lành toàn quyền định đoạt “số phận” 10 tờ vé số với trúng thưởng với giá trị lên đến gần 7 tỷ đồng này.

Tuy nhiên, chị Lành gạt phăng và cho rằng anh Tuấn là một trong những khách hàng thường xuyên mua vé số ủng hộ chị. Rất nhiều lần anh mua qua điện thoại và dù không trúng lần nào nhưng anh vẫn trả tiền sòng phẳng. Do đó, không thể vì tiền mà chị đánh mất chữ tín.

Ngay lập tức, chị bấm điện thoại gọi anh Tuấn đến quán cà phê để bàn giao số trúng. Cảm kích trước lòng tốt của người bán vé số, anh Tuấn đã tặng 1 tờ trúng giải đặc biệt cho người bán vé số nghèo.

Theo tìm hiểu của Dân Việt, vợ chồng chị Lành trước đây sống cùng mẹ ruột là bà Phạm Thị Thèm trong một căn nhà cũ nát rộng chỉ 27m2, dựng nhờ trên đất của một người thân ở xã Long Khánh A, huyện Hồng Ngự, Đồng Tháp.

Hai người anh trai của chị Lành, một người bị tâm thần, một chết sớm trong khi các chị dâu lại bỏ đi, để lại đến 6 đứa bé côi cút cho bà Thèm và chị Lành nuôi dưỡng. Do bà Thèm đau ốm liên miên lại không có đất sản xuất nên vợ chồng chị Lành đang tính tới phương án đưa đại gia đình lên Bến Lức hành nghề bán vé số.

Đoạn văn thượng dẫn có hai hạn từ mà tôi tự ý cho in đậm: “đồng nghiệp” và “phương án.” Chị Phạm Thị Lành là một con người cao cả, đã đành, và cái nghề bán vé số số hiện nay cũng đã tạo nên một giới người vô cùng cao qúi theo như ngôn ngữ đương đại của giới truyền thông hiện nay – ở Việt Nam – như vừa trích dẫn!

Họ “lập phương án” đi bán vé số đàng hoàng, chớ không phải bạ đâu làm đó đâu nha.  Họ cũng  gọi nhau là “đồng nghiệp” nữa đó (lịch sự hết biết luôn) nghe cứ y như cái cung cách xưng hô (qúi phái) của qúi vị bác sĩ hay luật sư ở giữa toà, hoặc ở giảng đường của trường đai học y khoa vậy.

Thiệt là quá đã, và … quá đáng!

Rõ ràng là cách mạng Việt Nam đã tạo ra thêm một … Giai Cấp Mới (nữa). Khác với giai cấp mới đỏ au – phát sinh cùng thời – những người bán vé số hôm nay dù hành nghề có “phương án” (cẩn thận) và vẫn thường gọi nhau là đồng nghiệp (tử tế) nhưng họ lại rất đen đủi, lam lũ và đông đảo hơn mức cần thiết rất nhiều.

Nếu đã có lúc dân Việt cứ bước ra ngõ là gặp anh hùng thì nay họ lại gặp những người chào mời vé số, theo như tường trình của thông tín viên RFA:

Chỉ riêng thành phố Sài Gòn, lượng người bán vé số đông lên cả vài ngàn người, họ đến từ thập phương, cũng có người xuất thân là công nhân nhà máy, xí nghiệp, vì tai nạn lao động hoặc vì mất sức lao động, bệnh tật, phải nghỉ việc và chuyển sang bán vé số kiếm cơm độ nhật. Ngồi quán cà phê vỉa hè 58 – Trần Quốc Thảo, quận 1, trong vòng nửa giờ đồng hồ, đã đếm được 16 người bán vé số đến mời, già có, trẻ có, bệnh tật có, nhưng xót xa nhất vẫn là những em bé tuổi chưa đầy 15, học hành dở dang hoặc vừa đi học vừa bán vé số kiếm tiền phụ giúp cha mẹ.

Ngành kinh doanh vé số được đánh giá là ngành siêu lợi nhuận… Trung bình, mỗi tỉnh có từ 20 đến 30 đại lý, mỗi đại lý có từ 30 dến 40 người đi bán, mỗi ngày, một đại lý tiêu thụ trung bình 2000 tờ vé, như vậy, doanh thu trung bình mỗi ngày là 600 triệu đồng.

Với mức thu nhập bình quân mỗi ngày từ vài chục ngàn đồng cho đến một trăm ngàn đồng. Mức một trăm ngàn đồng là mức may mắn của người bán vé, hiếm khi họ kiếm được số tiền lãi này, vì để có nó, người bán phải bán được 100 tấm vé giá 10 ngàn đồng cho một ngày. Nhưng đây là con số rất khó đạt được, chỉ có những người bán vé cho ngày mai ngay trong buổi chiều hôm nay mới có cơ may kiếm được số lượng này.

Nghĩa là buổi sáng, họ thức dậy lúc 5h, ăn uống qua loa và lên đường, lang thang hết quán cà phê này sáng quán ăn nọ để chào mời vé số, 4 giờ chiều trả vé, lấy tiếp vé ngày mai đi bán cho đến 9 giờ tối. Đương nhiên, để kiếm được chén cơm, manh áo, họ phải chấp nhận sự khó chịu, thậm chí những lời thóa mạ của khách vì bị quấy rầy, mời mọc trong lúc đang ăn. Nhưng nếu nhìn kĩ, người bán vé số cũng không có cơ hội mời chào khác ngoài việc đi từ bàn ăn này đến bàn ăn khác hoặc từ bàn cà phê này đến bàn cà phê khác để mời.

Ngành kinh doanh vé số được đánh giá là ngành siêu lợi nhuận, chi phí in ấn một tờ vé số không bao giờ vượt tới mức giá 500 đồng, chi phí trả cho người phát hành vé số, từ đại lý cấp 1 cho đến người bán là 1.300 đồng, trong đó, đại lý được hưởng 3% trên giá vé số, người bán được hưởng 10%. Như vậy, tổng số tiền lãi công ty nhận trên một tờ vé số sẽ là 8.200 đồng. Trung bình, mỗi tỉnh có từ 20 đến 30 đại lý, mỗi đại lý có từ 30 dến 40 người đi bán, mỗi ngày, một đại lý tiêu thụ trung bình 2000 tờ vé, như vậy, doanh thu trung bình mỗi ngày là 600 triệu đồng, khấu trừ 13%, con số còn lại vẫn ở mức 492 triệu đồng.

Riêng về khoản tiền thuế đóng cho ngân sách nhà nước, con số này không ổn định và cũng không minh bạch do sự co giãn giữa mối quan hệ ăn chia, thân bằng quyến thuộc trong bộ máy cầm quyền và chỉ số thuế qui định đã được phù phép cho nhỏ lại… Cũng chính vì lẽ này, phần đông nhân viên và ban bệ trong ngành xổ số kiến thiết đều là đảng viên Cộng sản và có người thân làm quan chức cấp cao trong bộ máy nhà nước.

Tôi e rằng mình, cùng nhiều người khác, đã hiểu lầm câu nói (“bán vé số ở Việt Nam có thu nhập cao”) của ông Giàng Seo Phử. Khi phát biểu như trên, ông Bộ Trưởng chỉ có ý muốn đề cập đến những đại lý bán vé số của những người có “mối quan hệ ăn chia, thân bằng quyến thuộc trong bộ máy cầm quyền” thôi. Họ cũng “đều là đảng viên Cộng sản và có người thân làm quan chức cấp cao trong bộ máy nhà nước” hết trơn hết trọi. Chớ đâu phải là cái thứ thường dân dấm dớ, cỡ tui, cha nội!

Thiệt là một sự hiểu lầm tai hại, chết người, chớ không phải giỡn. Mà đời về chiều, và đã đến nước này rồi thì tui cũng đành phải chết thôi. Thôi thì nhẩy mẹ nó xuống cầu Golden Gate, ở San Francisco, chết quách cho rồi. Chớ lặn lội về tới cố hương rồi đi chào mời vé số – từ  5 giờ sáng đến 9 giờ tối – chỉ để kiếm được vài ba Mỹ Kim thì chắc chỉ chừng hai ngày sau là tui sẽ nhẩy cầu Rồng, hay cầu Bình Lợi thôi hà.

https://www.diendantheky.net

Còn tiền mua xăng không?

Bởi  AdminTD

Đỗ Ngà

3-11-2022

Chuỗi cung ứng xăng dầu Việt Nam hiện nay là: Nhập khẩu dầu thô – lọc dầu – cung cấp đầu mối – bán lẻ; hoặc nhập khẩu xăng dầu – bán lẻ. Nếu bị nghẽn tại bất kỳ một mắt xích nào trong chuỗi cung ứng thì đầu ra đều bị bóp. Vấn đề hiện nay là xác định mắt xích nào đang chèn mất lối đi của xăng dầu đến với người tiêu dùng?

Nếu nghẽn đầu ra thì không sao, bởi xăng dầu còn đó nhưng chưa được bán cho dân mà thôi. Nếu nghẽn đầu vào thì đấy thực sự là đáng báo động, bởi nghẽn đầu vào thì không còn xăng dầu để bán, chứ không phải còn xăng nhưng bán không được.

Ở lần thiếu xăng dầu từ nửa tháng trước, báo chí nói rằng, bởi vì chiết khấu quá thấp nên nhiều cửa hàng bán lẻ không nhập vì kinh doanh không có lãi. Nếu đây là nguyên nhân duy nhất thì giải quyết khá đơn giản, chỉ cần tăng chiết khấu thì các doanh nghiệp bán lẻ sẽ phải mở cửa hoạt động. Tuy nhiên, sau khi vấn đề được giải quyết thì giờ đây tình trạng khan hiếm lại tái diễn thì có thể nói tình trạng thiếu xăng dầu không phải nghẽn đầu ra mà là nghẽn đầu vào. Nghĩa là, hiện nay khả năng là không còn xăng dầu để bán.

Ở bài trước tôi đã nói, vấn đề thiếu xăng dầu hiện nay là do nhà máy lọc dầu Nghi Sơn giảm công suất, trong khi đó lượng xăng dầu nhập khẩu không đủ bù vào. Đó là thực tế khá rõ ràng, bởi vì các ông lớn nhập khẩu xăng dầu Việt Nam như Petrolimex, Pvoil đã giảm nhập vào khu vực TP HCM để dồn cho Miền Bắc. Tuy nhiên, đến nay hiện tượng thiếu xăng dầu tại Miền Bắc đang diễn ra, tức là hiện tượng thiếu xăng dầu đang có nguy cơ lan rộng ra cả nước.

Câu hỏi đặt ra là, vì sao từ tháng Ba, Bộ Công thương đã chuẩn bị nhập bù do nhà máy lọc dầu Nghi Sơn gây ra mà đến nay vẫn chưa thể bù được? Tại thế giới khan hiếm xăng dầu hay các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu thiếu ngoại tệ? Vấn đề ở đâu?

Nguyên nhân thế giới khan hiếm xăng dầu bị loại bỏ, bởi tại Đông Nam Á, ngoại trừ Lào thiếu ngoại tệ nhập khẩu nên mới khan hiếm, còn bất kỳ nước nào cũng không xảy ra như Việt Nam. Như vậy thì chỉ có thể là các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu thiếu ngoại tệ.

Đã từ nhiều tháng qua, doanh nghiệp phải sống dở chết dở vì công cụ hạn mức tăng trưởng tín dụng (tức room tín dụng) mà Ngân hàng Nhà nước đang áp dụng. Khi các ngân hàng thương mại hết room thì họ không thể cho vay thêm, cho nên các doanh nghiệp đói vốn. Giữa tháng Mười, Chính quyền TP.HCM kiến nghị nới room tín dụng cho các doanh nghiệp xăng dầu để có thể tăng nhập, đảm bảo nguồn cung, nhưng chưa được. Ngân hàng Nhà nước sẽ nới room tín dụng trong hai tháng cuối năm, nhưng chỉ nới nhẹ. Khi Ngân hàng Nhà nước siết hạn mức tăng trưởng tín dụng với ngân hàng thương mại thì ngân hàng thương mại cũng siết khách hàng của họ.

Vào đầu tháng Mười Một, room tín dụng mở “hé” thì tiền có thể rót về doanh nghiệp nhưng không nhiều. Họ được vay ít, tuy nhiên họ lại vay với lãi suất cao vì mới đây Ngân hàng Nhà nước đã tăng lãi suất điều hành nên các ngân hàng thương mại cũng phải chạy đua lãi suất theo. Các doanh nghiệp đã vay ít lại chịu lãi suất cao, điều đó có nghĩa là họ bị lãi suất gặm lấy lợi nhuận. Chưa hết, khi có tiền nội tệ, các doanh nghiệp phải mua ngoại tệ với giá cao nên lượng ngoại tệ họ mua cũng ít lại, nghĩa là ngoại tệ cũng gặm thêm phần lợi nhuận của họ trong khi đó phần lợi nhuận của họ bị nhà nước định mức.

Tiền vay bị bóp do room tín dụng, lợi nhuận bị khống chế do định chế phi thị trường của nhà nước. Trong khi đó công cụ lãi suất và tỷ giá hối đoái gặm sâu vào lợi nhuận. Vì thế nhiều doanh nghiệp hoặc chọn “buông súng đầu hàng” hoặc hạn chế nhập khẩu vì không đủ tiền. Đó là lý do gây ra hiện tượng nhập khẩu không đủ bù cho phần thiếu hụt do nhà máy lọc dầu Nghi Sơn giảm công suất.

Việc Ngân hàng Nhà nước có cạn đô hay không thì không biết (vì họ thông báo còn gần 90 tỷ đô lận), tuy nhiên, công cụ điều tiết nền kinh tế thô bạo (chỉ có Việt Nam và Trung Quốc dùng room tín dụng) và cách vận hành chuỗi cung ứng xăng dầu một cách phi thị trường, đã dẫn tới thiếu tiền nhập xăng dầu. Và hậu quả thì người dân và cả nền kinh tế phải gánh chịu.

______

Tham khảo: https://baodautu.vn/noi-nhe-room-tin-dung-de-tao-da-phuc-hoi-kinh-te-d175935.html

Định hướng “Xã hội chủ nghĩa” nào?

 Bởi   AdminTD

Huy Đức

3-11-2022

Tôi không hề định kiến với “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nhưng tôi muốn biết, nhà nước ta đang định hướng “kinh tế thị trường” theo loại xã hội chủ nghĩa nào.

Nếu chúng ta để xăng (hàng hóa) vận hành theo đúng kinh tế thị trường, giá có thể tăng thêm một lít vài nghìn đồng (và có thể giảm hơn), nhưng chắc chắn xã hội, nền kinh tế, không phải chi phí rất lớn cho việc “xếp hàng cả ngày”; chưa kể những tổn thất khi những ngành kinh tế khác không thể vận hành vì xăng thiếu.

Vài tuần trước, khi đọc bài phát biểu của Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Kim Sơn, tôi cứ băn khoăn, sau 30 năm kể từ Hiến pháp 1992, bộ trưởng của ta vẫn muốn làm tư lệnh, làm CEO hay muốn làm chính khách. Bộ trưởng là người làm chính sách cho cả một ngành vận hành hay bộ trưởng muốn đứng ra điều hành từng công việc từ địa phương, cơ sở.

Ảnh chụp màn hình

Và, làm sao ông Bộ trưởng Bộ Công thương có thể đi tìm nguồn cung ứng hay ngồi tính giá xăng. Đừng làm thay công việc của các doanh nhân. Hãy để thị trường vận hành. Thay vì định mức “chiết khấu” cho các cây xăng, có thể kiểm soát giá bằng một mức thuế lũy tiến để cây xăng nào bán giá quá cao hơn “mặt bằng”, thì sau khi chịu thuế không còn lời lãi.

Đừng nhân danh định hướng xã hội chủ nghĩa mà trì hoãn việc “phát triển nền kinh tế thị trường”. Nếu muốn có thứ chủ nghĩa xã hội mà người nghèo không bị bỏ quên, ai cũng có thể tiếp cận với phúc lợi như nhau thì phải có một “nền kinh tế thị trường lấy hiệu quả làm chủ đạo”.

Thay vì dân túy bằng cách tiếp tục bao cấp giá xăng, giá điện, giá nước sạch… phải hình thành cho được thị trường ở ngay cả những hàng hóa thuộc nhóm dịch vụ công này thì mới có được sự tham gia của các nguồn lực trong xã hội; mới có đủ xăng, đủ điện và đủ nước sạch… cho người dân.

Định hướng xã hội chủ nghĩa mà bằng cách xây dựng kinh tế thật sự thị trường thì vừa có thị trường vừa có phúc lợi cho xã hội. Định hướng xã hội chủ nghĩa mà bằng cách duy trì một nền kinh tế thị trường nửa vời thì sẽ thất bại cả thị trường và vừa không có tiền cho phúc lợi để thực hiện “công bằng xã hội”.

Van Hoang Dang

Nếu như không bám giữ danh nghĩa xã hội chủ nghĩa với luật định : đất đai , tài nguyên..của đất nước là thuộc sở hữu công cộng , của toàn dân ( thực chất là một nhóm người của Đảng Cộng Sản quản lý ) thì các băng nhóm lợi ích ( là sự cấu kết của bọn quan chức cao cấp là các đảng viên ĐCS Việt Nam và bọn gian thương) làm sao có thể cướp , trộm , bớt xén đất đai , tài nguyên , tiền bạc của công khố để chia chác ? Chúng lũng đoạn đất nước , gây nên nhiều bất công trong xã hội ( những kẻ nắm giữ quyền lực là những kẻ trộm cướp ngày càng giàu , người dân lao động ngày càng khó khăn ) chúng giẫm đạp lên pháp luật , làm cho đất nước không phát triển được , so với thế giới văn minh vẫn bị lạc hậu.

TBTNguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc phủ bóng lên Đối thoại nhân quyền Mỹ-Việt? – BBC News Tiếng Việt 

BBC News Tiếng Việt

GS Carl Thayer, Đại học New South Wales, Úc nói với BBC hôm 1/11 rằng nếu thông tin, hiện chưa được xác nhận, rằng Việt Nam đang vận động Hoa Kỳ cho chuyến thăm Hà Nội của Tổng thống Joe Biden vào tháng 11 là sự thật, thì Việt Nam có thể bất ngờ trả tự do cho nhà báo Phạm Đoan Trang.

Bình luận của GS Carl Thayer được đưa ra trước Đối thoại nhân quyền Hoa Kỳ-Việt Nam lần thứ 26 diễn ra tại Hà Nội vào 2/11, đúng một ngày sau khi Tổng bí thư ĐCS VN Nguyễn Phú Trọng trở về nước sau chuyến thăm Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.

Trong khi Việt Nam nhấn mạnh ‘Trung Quốc là ưu tiên ngoại giao hàng đầu’, và ông Tập nhấn mạnh ‘không để ai can thiệp’ vào tiến trình phát triển của hai nước, có thể trông đợi gì ở Mỹ trong việc cải thiện tình hình nhân quyền ở Việt Nam?

Đọc toàn bài tại:

https://bbc.in/3TUkryd

BBC.COM

TBTNguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc phủ bóng lên Đối thoại nhân quyền Mỹ-Việt? – BBC News Tiếng Việt 

Đối thoại nhân quyền Mỹ-Việt lần thứ 26 tại Hà Nội, diễn ra ngay sau khi TBT Nguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc, liệu có mang lại điều gì tích cực cho nhân quyền Việt Nam?

Vì sao người Việt lại cứ bỏ ra đi?

Đài Á Châu Tự Do 

Bất chấp những chỉ số rực rỡ mà Hà Nội vẫn giới thiệu với thế giới, thực tế có khoảng trên 10% trong số 95 triệu người Việt Nam sống trong nghèo đói, đôi khi trong cảnh “nghèo cùng cực”, Chuyên gia kinh tế trưởng Rajiv Biswas của IHS Markit châu Á – Thái Bình Dương cho biết. Ông Biswas cũng bày tỏ sự bất lực khi nói đến sự nghèo khó của của các khu vực miền núi và xa đô thị, bởi căn bệnh tập trung phát triển đô thị theo cái nhìn thiếu chiến lược đã quá lớn.

Mức lương của một người công nhân Việt Nam hiện nay chỉ trên dưới 200 USD mỗi tháng, vì vậy, khi biết rõ, thật khó mà có thể cao giọng miệt thị những người Việt Nam khốn khổ đó là tại sao chọn cách bỏ ra đi, tìm một cơ hội “việc nhẹ- lương cao” ở xứ người. Không chỉ vậy, các đường dây đưa người Việt Nam đi lao động bên ngoài – bao gồm sự tham gia âm thầm của các quan chức Nhà nước – vẫn gọi mời các chỗ làm việc trong các nhà máy ở Nga, làm công việc xây dựng ở Libya và được thuê tại các trang trại của Anh.

Và với niềm hy vọng cho cuộc đời sau sáng sủa hơn, họ ra đi.

#RFAVietnamese #hanquoc #yangyang #gangwon

Vì sao người Việt lại cứ bỏ ra đi?
RFA.ORG
Những dòng tin miệt thị dòng người này trên báo chí Nhà nước thì cứ xoay quanh luận đề “những kẻ mê vật chất, ảo tưởng” cho đến “ham việc nhẹ, lương cao”…

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Cụ Nguyễn  (1838 – 10/27/1868)

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Cụ Nguyễn (1838 – 10/27/1868)

Tôi chạy xe lôi ở Rạch Giá một thời gian (không ngắn) nên rất rành đường xá nơi cái thị xã nhỏ bé này. Con lộ chính của thành phố, Nguyễn Trung Trực, bắt đầu từ bến xe Lạc Hồng và chấm dứt bên này Cầu Đúc. Từ bên kia cầu là đường Phó Điều, tên gọi đầy đủ là Phó Cơ Điều, dẫn đến chợ Nhà Lồng.

Trên nóc chợ có dựng tượng Nguyễn Trung Trực bằng đồng. Pho tượng nhỏ, kích thước chỉ bằng một người thường, và không có đường nét nào đặc biệt, ngoại trừ đôi mắt. Ngó buồn thảm thiết!

Khi neo xe chờ khách trước chợ, đôi lúc, tôi vẫn trộm nhìn cụ Nguyễn mà không khỏi có thoáng chút ngại ngùng. Trăm người bán, vạn người mua. Thiên hạ chen lấn lúc nhúc mà sao tôi vẫn cứ “ngại” là ổng “buồn” mình, chớ không phải là ai khác.

Có giai thoại rằng trước khi bị giặc Pháp chém đầu, Nguyễn Trung Trực đã xuất khẩu mấy câu thơ đầy hào khí: Thư kiếm tùng nhung tự thiếu niên/ Yêu gian đàm khí hữu long tuyền/ Anh hùng nhược ngộ vô dung địa/ Bảo hận thâm cừu bất đái thiên. Theo việc binh nhung thuở trẻ trai/ Phong trần hăng hái tuốt gươm mài/Anh hùng gặp phải hồi không đất/ Thù hận chang chang chẳng đội trời. (Bản dịch của thi sĩ Đông Hồ).

Tôi thì e là những vần thơ khí khái trên là do hậu thế mang gán cho bậc hào kiệt vì ngưỡng mộ khí phách của đấng anh hùng, chớ Nguyễn Trung Trực (tên thật là Nguyễn Văn Lịch, thường được gọi là Hai Chơn) xuất thân là một dân chài không có học hành/học vị/học hàm chi (ráo trọi) nên đâu có lắm chữ hay nhiều lời đến thế.

Tuy thế, khi lâm vào cảnh nước mất nhà tan, ông đã khẳng khái tham gia vào việc lớn và lập nên những chiến công hiển hách (“Lửa bừng Nhựt Tảo rêm trời đất/ Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần”) làm nức lòng người.

Còn tôi thì đã từng theo học ở một trường đại học văn khoa (và tốt nghiệp từ một trường đại học võ bị) nhưng khi đất nước bị nội xâm thì cắm cúi chạy xe lôi, để kiếm sống qua ngày! Có cái thứ con dân nước Việt như thế mà cụ Nguyễn không buồn (thảm thiết) thì mới là chuyện lạ.

Nhưng buồn phiền hay vui vẻ đều là chuyện rất chủ quan, và là chuyện riêng của ổng thôi. Tôi có thân phải lo chớ. Và tôi vốn rất biết thân, biết phận nên thay vì đối mặt với cường quyền và bạo lực thì tôi … bỏ chạy – theo đúng như binh pháp: Tẩu vi thượng sách!

Tẩu đến một nơi rất an bình và phú túc nên tôi hăm hở hội nhập vào đời sống mới, và đã quên cụ Nguyễn (từ lâu) cho mãi đến hôm rồi. Hôm đó, tôi tình cờ nghe được đôi lời của một người bạn cũ (nhà văn Từ Khanh) nhắc đến ánh mắt “thao thiết” của tiền nhân:

Tôi đến vàm Nhựt Tảo thuộc tỉnh Long An vào một ngày tháng chạp… Chiều hôm sau, lúc đó đã gần 5 giờ, tôi hỏi đường lên vàm Nhựt Tảo và ‘cái tàu ông Nguyễn Trung Trực đốt của tụi Tây’…

– Chị ơi vàm Nhựt Tảo ở đâu vậy?

– Đây này! Cô gái chỉ ngay dòng sông trước mặt…

Vậy ra là tôi đang đứng ngay ngã ba sông, nơi Nguyễn Trung Trực đánh đắm chiến thuyền Espérance của Pháp năm 1861… Tôi băng qua sân rộng đến sát mép sông, thấy một cái miếu nhỏ bé, cửa miếu hướng ra bờ sông. Vòng ra mặt trước miếu nhìn vào mới biết đó là miếu ngũ hành, cả gian miếu âm u chập chờn.

Tôi bước vào miếu, tự dưng xương sống lạnh buốt như đang bước vào một nơi nhiều âm khí dù trời chưa tối hẳn. Không gian trong ngôi miếu nhỏ tịch mịch quá, tưởng như nghe được tiếng sông chảy bên ngoài. Bên góc phải bàn thờ ngũ hành có một hộc bàn thấp lè tè, trên để tấm hình Nguyễn Trung Trực chít khăn đen, bên dưới ghi: ANH HÙNG DÂN TỘC NGUYỄN TRUNG TRỰC (1838-1868).

Nguyễn Đình Chiểu viết “Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo.” Thật là nao lòng quá. Một dũng tướng ngang dọc từ Tân An đến Rạch Giá, lập những chiến công ‘oanh thiên địa’ và ‘khấp quỷ thần’ trong lứa tuổi 20, ngay nơi chiến tích của ông cách đây 146 năm, nay chỉ có một ngôi đền xây dang dở, và một bức hình nhỏ trên một bệ thờ thấp, nằm ké trong cái miếu ngũ hành tàn tạ âm u vôi lở sơn tróc hương tàn bàn lạnh. Đôi mắt ông thao thiết nhìn ra sông, rất lặng lẽ…”

Ở quán nước sát mé sông, tôi hỏi bà chủ quán :

– Chị ạ, chắc tấm hình ông Nguyễn Trung Trực người ta thờ tạm hả chị, chờ khi cái đền lớn xây xong?

– Đâu có, cái miếu nhỏ đó hổng phải thờ ông Nguyễn Trung Trực. Mấy bữa trước có một bà dưới Rạch Giá đem hình ổng lên để thờ ké trong miếu đó!

Ủ̉a! Chuyện gì kỳ vậy cà? Sao lại phải “đem hình ổng lên để thờ ké” như vậy kìa!

Cứ theo báo chí (nhà nước) thì chính quyền địa phương cũng lo hương khói cho cụ Nguyễn chu đáo lắm mà:

Tìm hiểu thêm mới biết là tưởng vậy thôi, chớ không phải vậy đâu! Không phải vô cớ mà lòng người bất an đến độ có kẻ phải mang hình cụ Nguyễn đi tị nạn trên tuốt Long An!

Hôm 1 tháng 10 vừa qua, từ Việt Nam, blogger Gió Bấc (RFA) cho biết như sau:

  • Chính quyền tổ chức lễ giỗ của anh hùng Nguyễn Trung Trực trước ngày ông hy sinh gần nửa tháng là trái với phong tục lễ giỗ của dân tộc.
  • Không chỉ dừng lại các lấp liếm sự thật ở việc làm lễ rình rang nhưng cúng giỗ sai ngày, họ còn dựng lên và duy trì một bộ hài cốt anh hùng Nguyễn Trung Trực bị tố cáo và có nhiều dấu hiệu cho thấy là giả, họ dựng lên ngôi mộ giả thậm chí còn sáng tạo ra một chi tộc hậu duệ Nguyễn Trung Trực mà không có cơ sở thực tế, lịch sử nào.
  • Việc đưa bộ hài cốt lạ, có khả năng của một người thực dân vào mộ vị anh hùng cứu nước Nguyễn Trung Trực để cả dân tộc thờ phụng kính ngưỡng là tội ác không thể tưởng tượng được!

Rồi Gió Bấc buồn rầu kết luận: “Với nhà sản, không có lịch sử, không có tiền nhân, không có tôn vinh, tất cả đều là quân bài vụ lợi, là canh bạc bán mua.”

Ôi! Tưởng chuyện chi? Chớ đất nước, biển đảo mà chúng còn có thể mang bán được thì xá chi đến di hài hay di thể của người xưa. Đụng chuyện với cái đám “đầu trâu mặt ngựa” này thì tôi đành phải bỏ chạy thôi, dù biết rằng mình đã khiến cho cụ Nguyễn buồn – và buồn thảm thiết!

STTD Tưởng Năng Tiến- Nguyễn Duy Kiên

Nguyễn Duy Kiên

Tưởng Năng Tiến

Vài hôm trước, trước khi “toàn dân nô nức” kỷ niệm Ngày Giải Phóng Thủ Đô  (lần thứ 68) nhà thơ Hoàng Hưng đã viết một câu ngăn ngắn (và hơi khó hiểu) trên trang FB của ông: “Sắp đến ngày 10/10 ! Biết bao người con tinh hoa của Hà Nội vui mừng đón ngày ấy rồi tan nát cả đời sau ngày ấy huhu…”

Mà chả riêng gì ông nhà thơ mà còn nhiều “nhà” khác (nhà báo, nhà văn, nhà bình luận thời sự… ) cũng đã từng trải qua cái tâm tư “huhu” tương tự :

  • Lê Phú Khải : “Ngày vui ngắn chẳng tày gang”, không khí hồ hởi vui tươi sau chiến thắng Điện Biên Phủ, sau hòa bình lập lại 1954 ở Hà Nội cũng như toàn miền Bắc mau chóng nhường chỗ cho những ngày ảm đạm, u ám của những cuộc ‘đấu tranh giai cấp’, của cải cách ruộng đất, dư cải tạo tư sản, đấu tố bọn “Nhân văn Giai phẩm.”
  • Nguyễn Văn Luận: “ Đỗ Mười về tiếp thu Hải phòng nói rằng các nhà tư sản vẫn được làm ăn bình thường. Một tháng sau, cha tôi bị tịch thu tài sản. Trở về Hà Nội, trắng tay, cả nhà sống trong túp lều ở ngoại ô, cha tôi đi đánh giậm, vớt tôm tép trong các ao hồ, rau cháo nuôi vợ con.”
  • Nguyễn Khải: “Một nửa nước được độc lập nhưng lòng người tan nát tài sản một đời chắt chiu của họ bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành những người vô sản bất đắc dĩ. Tầng lớp trí thức chẳng có tài sản gì ngoài cái đầu được tư duy tự do, thì cái đầu cũng bị nhà nước trưng thu luôn.
  • Trần Đĩnh: “Chú họ tôi ở ngã năm Nguyễn Du – Bà Triệu, một công chức lưu dụng… Tin yêu Cụ Hồ, chú ở lại cùng công nhân viên bảo vệ Sở điện nên được lưu dụng… Thình lình cắt tiêu chuẩn lưu dụng, lương tụt một nhát ngỡ như chính bản thân chú bị sập hầm.”

Riêng với “nhà nhiếp ảnh” thì còn bị nhà nước cách mạng đối xử cách riêng (khắt khe và tàn tệ  hơn nhiều) theo như ghi nhận của tác giả Nguyễn Quỳnh Hương :

Chủ nhân của những bức hình tuyệt đẹp về Hà Nội lại có một số phận nhiều buồn thương… Đam mê nhiếp ảnh từ thời trai trẻ, Nguyễn Duy Kiên là bạn ảnh cùng thời với Lê Đình Chữ, Võ An Ninh, Phạm Văn Mùi, Đỗ Huân… Ông chơi ảnh rất công phu: sắm buồng tối tại nhà, tự tay in phóng ảnh, mày mò tìm ra các kỹ xảo.

Rời hiệu thuốc là ông lại lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm của Hà Nội để ghi lại từng vẻ đẹp phong cảnh và con người, những biến chuyển thời cuộc in dấu lên từng con phố mà ông thân quen từ thơ bé.

Nguyễn Duy Kiên chụp ảnh cho Hà Nội của chính ông. Những khuôn hình nghiêm cẩn, kỹ càng  và chan chứa tình. Sau này, khi di sản tinh thần của ông đến tay những nhà chuyên môn, họ đã choáng váng vì những bức ảnh quá đẹp. Quan trọng hơn – di sản ấy còn là những sử liệu vô giá bằng hình ảnh về Hà Nội trong suốt 20 năm nhiều biến động 1940-1960.

Với 5 đứa con, người vợ đảm đang hết mực tin yêu chồng, Nguyễn Duy Kiên yên ổn với cuộc sống của mình – chỉ cần ông còn được chụp ảnh. Nhưng tai nạn đã ập đến với họ bất ngờ, để rồi tổ ấm của họ phải sẻ đàn tan nghé.

 Đó là một ngày của năm 1967, Nguyễn Duy Kiên có lệnh khám nhà. Người ta tìm thấy trong kho ảnh của ông có 1 tấm hình khỏa thân. Sau này bạn bè ông nói đó là tấm ảnh một người đến phóng nhờ buồng tối rồi để quên lại, cũng có người nói ông chụp để gửi dự thi quốc tế, vì BTC yêu cầu hồ sơ bộ ảnh phải đủ tĩnh vật- phong cảnh- chân dung và ảnh khỏa thân. Không ai biết chính xác “lý lịch”  tấm ảnh định mệnh ấy, còn Nguyễn Duy Kiên thì chỉ im lặng.  Bị kết tội chụp ảnh suy đồi cái tội đủ để làm tan nát danh dự một gia tộc.

Quá khứ đã qua, nhưng ám ảnh kinh hoàng vẫn đọng trong lời kể của bà Kiên: “Chồng tôi đau đớn lắm, nhưng ông biết thời thế, biết phận mình phải như thế. Oan khuất biết kêu ai? Nên bố cháu chỉ im lặng.

Ông bị xử điển hình, kết án 11 năm tù. Chồng tôi cải tạo tận Lào Cai- xứ rừng thiêng nước độc. Cứ nửa năm tôi và cháu lớn lại được lên thăm bố cháu một lần, đường rừng toàn đá tai mèo nhọn sắc, hai mẹ con đi bộ hàng chục cây số máu rỏ dọc đường. Mỗi lần thăm  bố cháu lại tiều tụy hơn”.

Ông bị bệnh thận, bà Miễn viết đơn xin giảm án cho chồng, Nguyễn Duy Kiên đựơc trở về với gia đình sau 8 năm thụ án. Ông về, nhớ nghề ảnh thì mang máy ra chụp loanh quanh trong nhà, ông không dám ra ngoài, bạn bè cũng e ngại không còn ai lui tới.

Đoàn tụ của họ lặng lẽ và ngậm ngùi, chẳng nỡ làm nhau đau hơn – ông không kể những ngày trên trại, bà không kể những năm tháng một mình tủi cực nuôi con. Năm 1979, ở với vợ con đựoc 4 năm thì ông mất vì sức khỏe suy kiệt. Bà Kiên vẫn rơm rớm nước mắt khi nhớ lại: “Khi bố cháu mất, danh dự vẫn chưa được rửa, ông ấy xuôi tay mà không nhắm được mắt…”

Gần nửa thế kỷ đã qua (kể từ khi Nguyễn Duy Kiên nhắm mắt xuôi tay) nhưng nỗi oan khuất của ông và tâm cảm u uẩn của bà chưa bao giờ thực sự được quan tâm hay chia sẻ bởi bất cứ ai, ngoài những lời lẽ đãi bôi của giới truyền thông nhà nước :

Báo Tiền Phong: “Trải qua bao nỗi gian truân, may mắn thay, ngần ấy năm trời, bà quả phụ Nguyễn Duy Kiên vẫn lưu giữ lành lặn được hơn 200 tác phẩm của chồng. Ấy cũng là nề nếp gia phong, nghĩa tình chung thủy của người Hà Nội xưa”.

Báo Vnexpress: “Nguyễn Duy Kiên từng là nghệ sĩ nổi tiếng trong giới nhiếp ảnh Hà Nội, cùng thời với Võ An Ninh, Phạm Văn Mùi, Nguyễn Cao Đàm… nhưng hầu như đã bị hậu thế lãng quên.”

Báo Nhịp Sống Hà Nội: Số phận đã không cho Nguyễn Duy Kiên may mắn được chụp, trưng bày và xuất bản nhiều nhưng di sản mà ông để lại là những sử liệu vô giá bằng hình ảnh về Hà Nội trong suốt 20 năm nhiều biến động 1940-1960. Đây là món quà quý giá mà ông gửi lại cho Hà Nội của chúng ta hôm nay.

Báo Nông Nghiệp: “Tiếp lửa tình yêu nghệ thuật, lưu giữ những khoảnh khắc lịch sử vô giá cho những người đang sống hôm nay, nhưng NSNA Nguyễn Duy Kiên dường như bị quên lãng. Hà Nội đã tôn vinh nhiều cá nhân, vậy mà cái tên Nguyễn Duy Kiên đến nay vẫn chưa được trân trọng đánh giá đúng với những gì ông xứng đáng được vinh danh.”

Vấn đề e không giản dị thế đâu!

Hà Nội không thể ngang nhiên mang một nghệ sỹ đi chôn sống, rồi lại thản nhiên “vinh danh” nạn nhân bằng cách in lại tác phẩm của đương sự (bằng tiền tài trợ của một công ty nước ngoài) và coi “đây là món quà quý giá mà ông gửi lại cho Hà Nội của chúng ta hôm nay.”

Hà Nội không thể chà đạp lên cuộc đời của một người dân cho đến mức bầm dập te tua rồi đổ thừa (“số phận đã không cho tác phẩm Nguyễn Duy Kiên may mắn được chụp, trưng bày và xuất bản”) tỉnh rụi như vậy được.

Hà Nội cũng không ai có thể giày xéo lên số phận của cả một gia đình, buộc một người phụ nữ đơn chiếc phải tần tảo nuôi mấy đứa con thơ, rồi xưng tụng đó là nhờ vào “nề nếp gia phong, nghĩa tình chung thủy của người Hà Nội xưa.”

Tội ác đâu có dễ lấp liếm hay che dấu như thế!

Tưởng Năng Tiến
10/2022