Mỹ và 11 quốc gia đạt thỏa thuận TPP

Mỹ và 11 quốc gia đạt thỏa thuận TPP
Nguoi-viet.com

ATLANTA, Hoa Kỳ (NV) – Hoa Kỳ, Nhật và 10 quốc gia khác hôm Thứ Hai đạt thỏa thuận về tự do mậu dịch lớn nhất trong hơn thập niên nay.

Một công nhân làm việc trong xưởng may giày ở Sài Gòn. Việt Nam sẽ là
một trong các quốc gia tham gia TPP. (Hình: Getty Images)

Đây là một nỗ lực đầy tham vọng của Tổng Thống Barack Obama nhằm liên kết các nền kinh tế trong một khu vực rộng lớn của thế giới.

Bản tin của tờ Washington Post cho hay thỏa thuận này là kết qủa của hơn năm năm thương thảo khó khăn về một vấn đề trọng yếu trong các chương trình kinh tế của ông Obama và có thể sẽ là một dấu ấn quan trọng ông để lại sau thời gian cầm quyền.

Các thương thuyết gia trong tuần qua đã hối hả có các cuộc thảo luận để tạo sự đồng thuận về các điểm trong thỏa ước đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Hôm Chủ Nhật, các kế hoạch công bố thỏa thuận đã mấy lần phải đình lại vì các phía vẫn còn tranh cãi về chi tiết kỹ thuật của một số vấn đề liên quan đến việc tiếp cận thị trường sản phẩm sữa cũng như các loại thuốc thế hệ mới.

Theo tờ Washington Post, các vấn đề tạo nhiều tranh cãi gồm cả việc giảm mức thuế nhập cảng cho sản phẩm nông nghiệp, xe cộ cũng như quyền sở hữu trí tuệ cho các loại thuốc và phim ảnh, tự do internet, bảo vệ đời sống hoang dã, buôn bán trên mạng và giải quyết tranh chấp giữa các công ty đa quốc gia.

Tổng Thống Obama cũng nhiều lần đích thân can thiệp vào những ngày cuối của cuộc thảo luận, gọi điện thoại cho một số nhà lãnh đạo, kể cả Thủ Tướng Úc Malcolm Turnbull.

Bước tới cũng rất quan trọng đối với ông Obama là vận động để Quốc Hội thông qua đạo luật này, sớm nhất là đầu năm tới, tờ Washington Post cho hay. (V.Giang)

Tổng thống và phó tổng thống Mỹ cùng đón Ðức Giáo Hoàng

Tổng thống và phó tổng thống Mỹ cùng đón Ðức Giáo Hoàng
Nguoi-viet.com

ANDREWS AIR FORCE BASE, Maryland (NV) Chiếc máy bay hãng hàng không Alitalia chở Ðức Giáo Hoàng Francis từ Cuba đáp xuống sân bay quân sự Andrews, Maryland, lúc 3 giờ 50 phút chiều, giờ miền Ðông, hôm Thứ Ba, đánh dấu cuộc viếng thăm lịch sử Hoa Kỳ kéo dài trong năm ngày.


Ðức Giáo Hoàng Francis và Tổng Thống Barack Obama đi qua hàng quân danh dự tại phi trường Andrews, Maryland. (Hình: Olivier Douliery-Pool/Getty Images)

Ðây là lần đầu tiên Ðức Giáo Hoàng Francis đến Mỹ kể từ khi ngài lên ngôi năm 2013.

Ngay sau khi đáp xuống phi đạo, hai lá cờ Mỹ và Vatican được phi công cắm ngay phía bên ngoài buồng lái, chiếc máy bay từ từ tiến vào, đậu ngay cầu thang máy bay.

Các binh sĩ danh dự Hoa Kỳ từ từ trải thảm đỏ từ chân cầu thang ra một đoạn khoảng 50 mét.

Cửa máy bay từ từ mở ra.

Hàng trăm giáo dân đứng trên một khán đài đón ngài, đồng thanh la lớn, “Francisco, Francisco, Francisco…” và “Welcome to the US, Welcome to the US…” khi Ðức Giáo Hoàng Francis bước ra.

Từ trong một căn nhà gần đó, hai gia đình Tổng Thống Barack Obama và Phó Tổng Thống Joe Biden đi bộ ra, bước chân lên thảm đỏ, đến tận chân cầu thang.

Ngay lúc đó, vị chủ chăn Giáo Hội Công Giáo toàn cầu từ từ bước từng bước xuống cầu thang.

Tại chân cầu thang, ngài được hai nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và gia đình đón và bắt tay.

Sau đó, Ðức Giáo Hoàng Francis đến bắt tay các thành viên Hội Ðồng Giám Mục Hoa Kỳ trong lúc hai hàng quân danh dự đưa súng lên chào.

Trong lúc bước trên thảm đỏ cùng Tổng Thống Barack Obama, ngài dừng lại trước bốn em nhỏ, hai trai hai gái, thuộc một giáo xứ địa phương, và ban phép lành cho các em. Một em trong nhóm tặng ngài một bó hoa.

Kế đến, Ðức Giáo Hoàng và Tổng Thống Barack Obama cùng phu nhân đi bộ vào một căn nhà.

Khoảng 10 phút sau, mọi người cùng bước ra ngoài, và tổng thống bắt tay đức giáo hoàng một lần nữa, tiễn ngài lên xe hơi đi về nơi nghỉ.

Cũng như các chuyến tông du khác, Ðức Giáo Hoàng Francis luôn sử dụng loại xe bình thường, chứ không bao giờ sử dụng loại xe đắt tiền, tráng lệ.

Ngài bước vào ghế sau chiếc xe Fiat do Ý sản xuất, nhoẻn miệng cười với mọi người, trước khi xe lăn bánh cùng với nhiều xe khác hộ tống đi trước và sau.

Sau đây là lịch trình của Ðức Giáo Hoàng Francis trong những ngày ở Hoa Kỳ (giờ miền Ðông):

Thứ Ba, 22 Tháng Chín

-3:50 PM: Ðến phi trường Andrews, Maryland.

Thứ Tư, 23 Tháng Chín

-9:15 AM: Gặp Tổng Thống Barack Obama trong Tòa Bạch Ốc, Washington, DC.

-11 AM: Đi xe Popemobile một vòng ở National Mall, Washington, DC.

-11:30 AM: Cầu nguyện với Hội Ðồng Giám Mục Hoa Kỳ tại nhà thờ St. Matthew’s Cathedral, Washington, DC.

-4:15 PM: Chủ tế Thánh Lễ Phong Thánh Junipero Serra tại nhà thờ Basilica of the National Shrine of the Immaculate Conception, Washington, DC.

Thứ Năm, 24 Tháng Chín

-9:20 AM: Ðọc diễn văn trước lưỡng viện Quốc Hội Hoa Kỳ, Washington, DC.

-11:15 AM: Thăm thánh đường St. Patrick và Cơ Quan Thiện Nguyện Tổng Giáo Phận Washington, DC.

-4 PM: Rời phi trường Andrews, Maryland, bay đi New York.

-5 PM: Ðến phi trường quốc tế John F. Kennedy, New York.

-6:45 PM: Cầu nguyện tại nhà thờ chánh tòa St. Patrick’s Cathedral, New York.

Thứ Sáu, 25 Tháng Chín

-8:30 AM: Thăm trụ sở Liên Hiệp Quốc, New York, và đọc diễn văn trước Ðại Hội Ðồng LHQ.

-11:30 AM: Tham dự Thánh Lễ đa tôn giáo tại đài tưởng niệm và viện bảo tàng 9-11 ở Trung Tâm Thương Mại, New York.

-4 PM: Thăm trường học Our Lady Queen of Angels, East Harlem, New York.

-6 PM: Chủ tế Thánh Lễ tại Madison Square Garden, New York.

Thứ Bảy, 26 Tháng Chín

-8:40 AM: Rời phi trường quốc tế John F. Kennedy, New York, để bay đi Philadelphia, Pennsylvania.

-9:30 AM: Ðến phi trường Atlantic Aviation, Philadelphia.

-10:30 AM: Chủ tế Thánh Lễ tại thánh đường Cathedral Basilica of St. Peter and St. Paul, Philadelphia.

-4:45 PM: Thăm tòa nhà Ðộc Lập, Philadelphia.

-7:30 PM: Thăm Ðại Hội Gia Ðình Công Giáo Thế Giới tại Benjamin Franklin Parkway, Philadelphia.

Chủ Nhật, 27 Tháng Chín

-9:15 AM: Gặp các giám mục tại giáo đường St. Martin’s Chapel và tu viện St. Charles Borromeo, Philadelphia.

-11 AM: Thăm nhà tù Curran-Fromhold, Philadelphia.

-4 PM: Chủ tế Thánh Lễ kết thúc Ðại Hội Gia Ðình Công Giáo Thế Giới tại Benjamin Franklin Parkway, Philadelphia.

-7 PM: Thăm ban tổ chức, thiện nguyện viên, và các nhà bảo trợ Ðại Hội Gia Ðình Công Giáo Thế Giới tại phi trường Atlantic Aviation, Philadelphia.

-8 PM: Bay về Rome, Ý. (Ð.D.)

 

Các chiến binh được Mỹ huấn luyện tiến vào Syria

Các chiến binh được Mỹ huấn luyện tiến vào Syria

VOA
Các chiến binh từ 'Trung đoàn thứ nhất' thuộc lực lượng Quân đội Giải phóng Syria tham gia một cuộc huấn luyện quân sự ở vùng nông thôn miền tây Aleppo.

Các chiến binh từ ‘Trung đoàn thứ nhất’ thuộc lực lượng Quân đội Giải phóng Syria tham gia một cuộc huấn luyện quân sự ở vùng nông thôn miền tây Aleppo.

20.09.2015
Nhiều chiến binh nổi dậy Syria được Mỹ và các đối tác liên quân huấn luyện đã tiến vào miền bắc Syria, theo tin của một nhóm quan sát.
Ðài quan sát Nhân quyền Syria hôm Chủ nhật nói rằng 75 chiến binh được huấn luyện tại Thổ Nhĩ Kỳ đã băng qua biên giới vào Syria sáng sớm thứ Bảy.
Các giới chức của liên quân do Mỹ lãnh đạo chưa bình luận về diễn biến mới này.
Trong khi đó, Pháp tấn xã loan tin rằng phe nổi dậy và các lực lượng chính phủ vừa thỏa thuận ngưng bắn với hiệu lực tức thời.
Không có tin tức về thời hạn của thỏa thuận ngưng bắn, nhưng Ðài quan sát Nhân quyền Syria nói với Pháp tấn xã rằng các bên xung đột sẽ tiếp tục đàm phán cho một thỏa thuận ngừng bắn rộng lớn hơn.
Hôm thứ Bảy, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ John Kerry nói rằng Tổng thống Syria Bashar al-Assad phải từ chức, nhưng thời điểm để ông ra đi sẽ được quyết định qua thương lượng.

Ngoại trưởng Mỹ John Kerry nói về cuộc khủng hoảng đang diễn ra tại Syria trong cuộc họp báo với Ngoại trưởng Anh Philip Hammond tại Lonon, ngày 19/9/2015.

Ngoại trưởng Mỹ John Kerry nói về cuộc khủng hoảng đang diễn ra tại Syria trong cuộc họp báo với Ngoại trưởng Anh Philip Hammond tại Lonon, ngày 19/9/2015.

Ông Kerry phát biểu như vậy tại London sau khi hội đàm với người tương nhiệm Anh Philip Hammond. Ông kêu gọi cả Nga và Iran dùng ảnh hưởng của họ đối với Syria để thuyết phục ông Assad thương lượng việc từ chức nhằm chấm dứt cuộc nội chiến thảm khốc ở Syria.
Ông Kerry cũng nhấn mạnh đến sự liên hệ của cuộc nội chiến Syria với làn sóng khổng lồ người tị nạn đổ vào Châu Âu. Ông gọi 4 năm nội chiến Syria là “căn nguyên” của cuộc khủng hoảng di dân, và gọi làn sóng di dân khổng lồ là “thách thức chính cho Châu Âu.”
“Chúng tôi cần phải thương lượng với ông Assad,” Ngoại trưởng Kerry nói. “Đó là điều chúng tôi đang tìm cách thực hiện, và chúng tôi hy vọng Nga và Iran hay bất cứ quốc gia nào khác có ảnh hưởng giúp cho tiến trình đó.
“Chúng tôi sẽ bàn về một số ý tưởng…làm thế nào để sử dụng thời điểm này khi Nga hình như muốn hành động nhiều hơn” để chống lại các phần tử chủ chiến Nhà nước Hồi giáo đang tìm cách chiếm quyền kiểm soát Syria.”
Ông Kerry nói: “Đó là mục tiêu.”
Moscow và phương Tây bất đồng sâu sắc về các chiến lược nhằm chấm dứt cuộc nội chiến đã nổ ra vào năm 2011. Các chính phủ Tây phương quả quyết rằng cuộc khủng hoảng sẽ không chấm dứt cho đến khi nào ông Assad tự thôi chức hay bị truất bỏ quyền hành, trong khi Moscow nói rằng mối đe dọa do các phần tử hiếu chiến đề ra cần phải dập tắt trước khi giải quyết tương lai của ông Assad.
Ước tính 250.000 người Syria đã thiệt mạng trong khi tiến trình ngoại giao bế tắt. Hàng trăm ngàn người bị Nhà nước Hồi giáo đe dọa và các binh sĩ chính phủ tháo chạy, tìm đến những nơi an toàn và sung túc hơn ở Châu Âu.

Giới đòi dân chủ ở Thái Lan xuống đường biểu tình

Giới đòi dân chủ ở Thái Lan xuống đường biểu tình

Nguoi-viet.com

BANGKOK, Thái Lan (AP) – Hơn 200 người tranh đấu đòi dân chủ đã bất chấp các đe dọa của hội đồng quân nhân cai trị Thái Lan đã xuống đường để tham dự cuộc biểu tình hiếm thấy tại thủ đô Bangkok, đánh dấu ngày xảy ra cuộc đảo chánh của quân đội lật đổ một chính phủ do dân bầu lên và đưa quốc gia vùng Đông Nam Á này vào gần một thập niên bất ổn chính trị.

Khoảng 200 người đấu tranh đòi dân chủ biểu tình tại thủ đô Bangkok, đánh
dấu ngày xảy ra cuộc đảo chánh của quân đội nước này. (Hình: Christophe
Archambault/AFP/Getty Images)

Các nhà tranh đấu đã tuần hành tới Tượng Đài Dân Chủ, một biểu tượng đã trở thành nơi tập trung của các cuộc biểu tình đòi dân chủ mấy năm trở lại đây.
Người biểu tình mang theo bích chương biểu ngữ chống hội đồng quân nhân và hô khẩu hiệu đòi dân chủ. Lực lượng cảnh sát túc trực đông đảo nhưng không tìm cách phá vỡ cuộc biểu tình.
Cuộc biểu tình khởi sự bằng hội thảo ở đại học Thammasat ở Bangkok, vốn được phép của giới hữu trách, nhưng không cho phép tuần hành bên ngoài khuôn viên đại học.
Người biểu tình, thuộc một nhóm mệnh danh là Phong Trào Tân Dân Chủ, kêu gọi hãy đánh dấu cuộc đảo chánh ngày 19 Tháng Chín năm 2006 lật đổ chế độ của Thủ Tướng Thaksin Shinawatra, với lý do là ông này tham nhũng, lạm quyền và bất kính với nhà vua. Cuộc đảo chánh đưa Thái Lan vào các đợt biểu tình bạo động giữ những người ủng hộ ông Thaksin và thành phần chống ông.
Năm ngoái, quân đội Thái Lan lật đổ chính quyền của bà Yingluck Shinawatra, em gái của ông Thaksin, lấy lý do là phải tái lập trật tự và hòa giải chính trị giữa các phe phái.
Các giới chỉ trích, ở cả trong và ngoài nước, cho rằng hội đồng quân nhân từng do tướng Prayuth Chan-ocha lãnh đạo, người hiện là thủ tướng Thái Lan, không hề có nỗ lực tạo hòa giải mà chỉ chú trọng vào việc đàn áp đối lập, giới hạn các quyền công dân.
Lúc đầu ông Prayuth hứa sẽ nhanh chóng tổ chức bầu cử để tái lập nền dân chủ, nhưng nay ông cho hay phải sớm nhất là năm 2017 mới có bầu cử. (V.Giang)

Hungary đóng cửa biên giới, chặn làn sóng di dân

Hungary đóng cửa biên giới, chặn làn sóng di dân

Nguoi-viet.com

BUDADPEST, Hungary (AFP) Chính phủ Hungary hôm Thứ Ba ra lệnh đóng cửa biên giới với Serbia để ngăn chặn làn sóng người di dân đang cuồn cuộn kéo vào, trong khi chính phủ Ðức lên tiếng đả kích các quốc gia khác trong khối EU, gọi là điều “đáng xấu hổ” vì không nhận thêm di dân sau khi có thêm 22 người chết trên biển.


Hungary nay đóng cửa biên giới hoàn toàn với di dân. (Hình: Getty Images)

Quyết định của Budapest được đưa ra sau khi giới chức Áo và Slovakia khởi sự việc tạm thời kiểm soát biên giới, như Ðức đã làm từ ngày hôm trước.

Ðây là điều đi ngược lại với thỏa thuận Schengeng có từ nhiều năm nay giữa các quốc gia EU, nhằm đối phó với hơn nửa triệu người di dân đang kéo đến biên giới của khối này từ đầu năm tới nay.

Phó Thủ Tướng Ðức Sigmar Gabriel nói rằng Âu Châu “tự làm xấu hổ chính mình” sau khi các bộ trưởng EU không đạt được thỏa thuận hôm Thứ Hai về việc san sẻ gánh nặng đón nhận người di dân.

Cảnh sát Hungary dùng hàng rào kẽm gai khóa lại khoảng trống rộng chừng 40m, vốn cho đến khuya ngày Thứ Hai vẫn được người di dân dùng để vượt qua biên giới.

Tuy nhiên đến sáng Thứ Ba, cổng qua biên giới tại Roskzke và Asothalom đều bị đóng, khiến hàng trăm người bị kẹt trên lãnh thổ Serbia, không biết khi nào sẽ vào được quốc gia thành viên EU này để tiếp tục đi tới Ðức hay Áo như những người di dân trước đó.

Việc đóng cửa được thực hiện sau khi Hungary ban hành luật mới, theo đó coi việc vượt biên giới bất hợp pháp là một tội có thể bị phạt tới ba năm tù. (V.Giang)

Đức kiểm soát biên giới ngăn dòng di dân đổ vào

Đức kiểm soát biên giới ngăn dòng di dân đổ vào

Di dân lên một chuyến tàu trong vùng tại nhà ga chính ở thành phố Munich, Đức, ngày 13 tháng 9, 2015.

Di dân lên một chuyến tàu trong vùng tại nhà ga chính ở thành phố Munich, Đức, ngày 13 tháng 9, 2015.

Đức đang tạm thời khôi phục biện pháp kiểm soát hộ chiếu dọc theo biên giới của mình với Áo để hạn chế dòng di dân và người tị nạn đang đổ vào nước này.

“Mục đích của biện pháp này là để ngăn chặn dòng người hiện đang đổ vào Đức và quay trở lại một quá trình có trật tự,” Bộ trưởng Nội vụ Đức Thomas de Maiziere cho biết.

Đức và Áo gần đây đã đồng ý cho di dân nhập cảnh trong một nỗ lực nhằm giảm bớt số lượng người tập trung ở Hungary.

Cảnh sát Đức cho biết khoảng 12.200 người tị nạn đang xin được bảo hộ tị nạn tại Liên minh châu Âu đã tràn ngập thành phố Munich ở miền nam vào ngày thứ Bảy.

Trong một nỗ lực kiểm soát dòng di dân, giới chức đường sắt ở cả hai nước loan báo dịch vụ tàu lửa từ Áo tới Đức đã bị đình chỉ hôm Chủ nhật. Không rõ việc du hành theo hướng ngược lại từ Đức tới Áo như thế nào, một phát ngôn viên của công ty đường sắt Áo OeBB nói.

Hơn 430.000 di dân tìm kiếm cuộc sống tốt hơn, trong đó có người tị nạn từ Syria và Iraq, đã vượt Địa Trung Hải đến châu Âu trong năm nay. Gần 3.000 đã thiệt mạng trong hành trình này, theo Tổ chức Di cư Quốc tế.

Con số này đã nhích lên cao hơn vào Chủ nhật khi ít nhất 28 người bị chết đuối ngoài khơi Hy Lạp sau khi thuyền của họ bị lật.

Hàng chục người khác đã được cứu sống gần đảo Farmakonisi ở Biển Aegea phía đông nam.

Pháp: Vì sao di dân không được thương cảm như thuyền nhân Việt 1979 ?

Pháp: Vì sao di dân không được thương cảm như thuyền nhân Việt 1979 ?

Thụy My

media

Tị nạn và thuyền nhân đổ vào đảo Lesbos, Hy Lạp, ngày 10/09/2015REUTERS

Trước làn sóng người nhập cư đổ vào châu Âu hiện nay, người Pháp vẫn có tâm lý e ngại, thờ ơ, cho đến khi những hình ảnh thương tâm của em bé Syria chết đuối đánh động được dư luận. Tâm lý này tương phản với phong trào cứu vớt thuyền nhân Việt Nam vào cuối thập niên 70.

Vào thời kỳ đó, một phong trào đầy cảm động đã nổi lên ở nước Pháp và nhiều quốc gia phương Tây khác, nhằm cứu vớt hàng chục ngàn thuyền nhân chạy trốn chế độ cộng sản Việt Nam trong các điều kiện bi thảm, và cả người Cam Bốt, người Lào.

Vô số hình ảnh những con tàu nhỏ bé trôi dạt trên Biển Đông được phổ biến rộng rãi, đã thức tỉnh lương tâm mọi người. Những hình ảnh này cũng giống những gì thấy được trên báo chí trong mấy tháng gần đây : những ánh mắt hoảng loạn, những thân người kiệt sức, chen chúc trên những con tàu thô sơ ở Địa Trung Hải.

Nhưng bối cảnh rất khác nhau. Nước Pháp vào lúc ấy với tỉ lệ thất nghiệp thấp (chỉ 3,3%, còn nay là 10%), đã nhiệt tình đón tiếp. Hơn nữa người Việt và người Cam Bốt đến từ Đông Dương thuộc Pháp cũ, biết được ngôn ngữ và ít nhiều thấm đẫm văn hóa Pháp, trong khi di dân hiện nay đa số là người Hồi giáo.

Đặc biệt là sự dấn thân ngoạn mục của giới trí thức Pháp thời ấy, cả cánh tả lẫn cánh hữu, từ nhà văn đồng thời là nhà triết học nổi tiếng Jean-Paul Sartre cho đến Raymond Aron – nhà báo kiêm nhà sử học, triết gia, chính khách.

Cuối năm 1978, tàu Hải Hồng chở 2.500 người Việt Nam đã đến được Malaysia nhưng bị đẩy ra, phải trôi dạt 45 ngày trên biển từ bến này sang bến khác, đã gây xúc động lớn. Các nhà báo quay phim những cảnh khốn khổ của thuyền nhân trên tàu trong đó có nhiều trẻ em: thiếu thức ăn, nước uống, thuốc men, trốn tránh ánh nắng đổ lửa dưới những tấm bạt rách nát. Cuối cùng, các nước châu Âu quyết định tiếp nhận những người Việt tị nạn này.

Bị chấn động trước số phận chiếc tàu vô tổ quốc, và thảm kịch của những người mà người ta bắt đầu gọi là « boat people », nhiều nhân vật tiếng tăm của Pháp tập hợp xung quanh bác sĩ Bernard Kouchner và triết gia André Glucksmann, năm 1979 đã quyết định tung ra chiến dịch « Một con tàu cho Việt Nam ».

Họ vận động quyên góp để cải tiến một chiếc tàu mang tên « L’île de lumière » (Đảo Ánh sáng) thành một tàu bệnh viện, đi vớt các thuyền nhân khác trên Biển Đông, rồi thả neo ở đảo Palau Bidong (Malaysia) để các bác sĩ Pháp tình nguyện chăm sóc cho 34.000 người Việt bị giam trên đảo.

Trên đài truyền hình TF1, người dẫn chương trình Roger Gicquel kêu gọi : « Hỗ trợ cho chiến dịch không chỉ là hào hiệp mà còn là điều cần thiết ». Người bác sĩ trẻ Kouchner từ trên boong tàu « Đảo Ánh sáng » thuyết phục nhà báo Jacques Abouchar trước ống kính đài truyền hình France 2. Vị « French doctor » muốn tuyên truyền rộng rãi trên truyền thông, trong khi những người khác lại muốn âm thầm hoạt động.

Ủy ban « Một con tàu cho Việt Nam » được thành lập, được nhiều nhân vật lỗi lạc ủng hộ : triết gia Michel Foucault, giáo sĩ Do Thái Josy Eisenberg, Đức Hồng y François Marty, nhà văn Đức Heinrich Boll, ca sĩ kiêm diễn viên Yves Montand…

Ông Michel Rocard, chính khách đảng Xã hội chống lại chủ nghĩa cộng sản, ký vào bản kiến nghị nhưng Tổng thư ký đảng là ông François Mitterrand thì không. Một bộ phận trong cánh tả Pháp vẫn e dè vì nhiều người vẫn coi chủ nghĩa cộng sản là một mô hình để noi theo.

Cảm động nhất là sự ủng hộ của nhà văn mác-xít Jean-Paul Sartre và nhà trí thức lớn chủ trương tự do Raymond Aron, hai nhân vật này vốn không nhìn mặt nhau suốt 30 năm qua. Hôm 20/09/1979, Tổng thống Valéry Giscard d’Estaing đã hội tụ ở điện Elysée nhiều tên tuổi, trong đó hai trí thức lừng lẫy trên đã siết chặt tay nhau. Đó là một hình ảnh gây tác động mạnh mẽ, chứng tỏ một nước Pháp đoàn kết, ít nhất là trong chủ đề thuyền nhân Việt.

Nhân dịp này, nhà văn nổi loạn Jean-Paul Sartre đã trở thành nhà hoạt động nhân đạo. Ông nhắc lại những từ ngữ mà chính ông đã chỉ trích nhà văn Albert Camus 25 năm về trước : « Tôi ủng hộ những con người mà có lẽ không phải là bạn tôi vào thời kỳ Việt Nam đấu tranh cho tự do, nhưng điều này có quan trọng gì, vì đó là những người đang gặp nguy hiểm đến tính mạng ».

Tiếp bước triết gia Aron, cánh hữu Pháp trở nên thoải mái hơn trong hồ sơ này. Đô trưởng Paris là ông Jacques Chirac đưa ra lời kêu gọi tiếp đón boat people, và bản thân ông cũng nhận một thuyền nhân trẻ Việt Nam – cô Anh Đào – làm con nuôi.

Năm năm sau đó, vào năm 1984, một nhóm nhạc rock Pháp mang tên Gold phát hành một album trong đó có bản nhạc « Gần bên những ngôi sao », nhằm vinh danh thuyền nhân Việt Nam, đã thành công rực rỡ với 900.000 đĩa bán ra.

Từ năm 1975 đến đầu thập niên 80, đã có trên 120.000 người Việt Nam được đón tiếp tại Pháp, được cấp giấy tờ chính thức là « người tị nạn ». Giáo sư Karine Meslin vào năm 2006 đưa ra con số « 128.000 người Đông Dương, trong đó có 47.356 người Cam Bốt đã nhập cư hợp pháp vào lãnh thổ nước Pháp ». Nhiều người khác đến Pháp nhưng không với tư cách tị nạn.

Từ năm 1975 đến 1985, trên một triệu người Việt đã bỏ trốn khỏi đất nước, trong đó có 800.000 boat people, và theo các nhà nghiên cứu, một phần tư những người vượt biên đã thiệt mạng.

Vì sao cuộc khủng hoảng di dân hiện nay không tạo nên được một làn sóng tương trợ như đối với thuyền nhân Việt Nam cuối thập niên 70 ? Bên cạnh nguyên nhân kinh tế và văn hóa như đã nói ở trên, còn có nhiều lý do khác.

Đợt sóng thuyền nhân Việt mang tính giai đoạn, trong khi áp lực dân số ở châu Phi, sự phức tạp của những cuộc xung đột ở lục địa đen và Syria, quân thánh chiến đủ các phe nhóm có thể tạo nên những cuộc di dân hàng loạt kéo dài.

Nhiều người còn nêu lên mặc cảm của cánh tả Pháp, trước đây ngưỡng mộ chủ nghĩa mác-xít, nên giang tay cứu vớt những người tị nạn cộng sản như một cách chuộc lỗi. Còn trước Hồi giáo cực đoan hiện nay, châu Âu không có cùng tình cảm này, ngược lại còn là nạn nhân. Bên cạnh đó, vai trò của trí thức Pháp cũng không còn như 36 năm về trước.

Thế nên cách đây vài tháng, khi xảy ra hàng loạt vụ chìm tàu làm chết hàng ngàn người trên biển, cũng đã có những lời kêu gọi tương trợ. Nhưng rốt cuộc, Địa Trung Hải năm 2015 không phải là vịnh Thái Lan năm 1979, và « Đảo Ánh sáng» đã không xuất hiện tại đây.

Âu Châu Là Nạn Nhân Của Nạn Di Dân

Âu Châu Là Nạn Nhân Của Nạn Di Dân

Vụ khủng hoảng có nguyên nhân kinh tế, nhưng hậu quả chính trị…

Âu Châu đang gặp một vụ khủng hoảng di dân nghiêm trọng nhất từ Thế chiến II. Khối Liên hiệp Âu châu cố giải quyết bằng cách phân phối di dân cho các thành viên, với nước Đức được coi là ân nhân. Hậu quả lâu dài lại thúc đẩy nhiều sức ly tâm gây thêm phân hóa trong nội bộ Âu Châu….

Âu Châu có trào lưu chung của các nước công nghiệp hóa tiên tiến là có tỷ lệ sinh sản thấp hơn và tuổi thọ trung bình cao hơn. Dân số hay nhân khẩu là định mệnh trong ý nghĩa đó.

Sau Thế chiến II, Âu Châu áp dụng chiến lược phát triển với niềm tin rằng lực lượng lao động đông đảo sẽ góp đủ thuế để chu cấp cho thành phần ở ngoài tuổi lao động – dưới 15 và trên 64 tuổi. Khi thấy tỷ lệ sinh sản giảm dần, một số quốc gia có tăn trợ cấp cho gia đình đông con nhằm khuyến khích việc sinh đẻ – đứa con thứ ba là “miễn phí” – với kết quả thật ra cũng giới hạn trước một chiều hướng văn hóa phổ biến và khó cưỡng.

Vì vậy, Âu Châu mới có giải pháp di dân, là nhập cảng sức lao động từ bên ngoài.

Di dân sẽ nâng sức lao động và mức cầu kinh tế để tạo thêm việc làm và sự thịnh vượng. Thành phần di dân có tay nghề cao thì giúp kinh tế phát triển các ngành sản xuất chuyên biệt để khai thác lợi thế tương đối của từng quốc gia. Thành phần thiếu chuyên môn thì lao động trong những ngành cực nhọc mà dân bản xứ không muốn làm. Đã vậy, lực lượng lao động càng đông thì thành phần thọ thuế càng nhiều sẽ tăng mức thu cho ngân sách để nhà nước lo toan cho những người ở ngoài tuổi lao động.

Nhưng lý luận kinh tế lạc quan ấy lại đụng vào thực tế cứng đầu. Và Âu Châu đang bị khủng hoảng với làn sóng di dân thứ ba, dữ dội nhất, kể từ 10 năm qua. Xin hãy nói về ba làn sóng đó trước.

Sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ năm 1991, các nước Âu Châu lạc quan thúc đẩy việc hội nhập để thành lập Liên hiệp Âu châu. Từ đó, Liên Âu đã “Đông tiến”, kết hợp dân số đông đảo của các nước Đông Âu, nhất là các quốc gia có mật độ dân số cao như Ba Lan hay Romania (Lỗ Ma Ni là cách gọi ngày xưa). Lao động Đông Âu đã “Tây tiến” và góp phần giải quyết vấn đề thiếu hụt dân số của các nước tân tiến hơn ở miền Tây. Đấy là đợt di dân đầu tiên, vào thời 2004-2007.

Nối tiếp là đợt thứ nhì vào các năm 2009-2010, khi khủng hoảng tài chánh tại các nước miền Nam mở ra phong trào “Bắc tiến”. Dân cư của các nước lâm nạn ở miền Nam đi tìm việc làm trong các quốc gia giàu mạnh hơn ở “vùng cốt lõi” là miền Bắc, từ Pháp qua Đức và các lân bang.

Trong hai đợt ấy, hiện tượng di dân vẫn có tính chất nội bộ Âu Châu và dù có gây va chạm, kể cả phản ứng chống di dân, thì cũng chẳng dẫn tới khủng hoảng khi 22 thành viên trong số 28 nước Liên Âu đã ký Hiệp ước Schengen về quyền tự do lưu thông người và vật từ năm 1995.

Đợt thứ ba là ngày nay thì khác.

Làm sóng di dân bùng lên từ Trung Đông và một số quốc gia bị nội loạn ở nơi khác đã dập vào bến bờ Âu Châu để xin tỵ nạn. Di dân là nạn dân và gây vấn đề trước tiên cho các nước lâm nạn kinh tế tại miền Nam, như Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, rồi lan qua nước khác, với cao điểm là Hungary.

Trong đợt trước (2009-2010), nếu làn sóng “Bắc tiến” có nhất thời hạ giảm thất nghiệp thì cũng gây ra nạn “xuất não” là thành phần có chuyên môn và tốt nghiệp đại học bỏ xứ đi làm trong các doanh nghiệp Đức Pháp. Các nước lâm nạn chưa kịp phục hồi thì lại bị làn sóng nạn dân đập vào bờ. Thành phần di dân tỵ nạn này không có thông hành Âu Châu nên vừa khó kiếm việc ở tại chỗ lại cũng chẳng thể tạm “quá quan” để đi vào các nước Âu Châu khác. Làn sóng đó bị ứ tại miền Nam và chờ đợi quyết định thu nhận hay phân bố di dân của Liên Âu.

Sự kiện đa số của thành phần này lại theo Hồi giáo, đã chẳng phù hợp với văn hóa hay tôn giáo Âu Châu mà chưa chắc là đã muốn hội nhập, càng dễ gây phản ứng ngược từ phong trào quốc gia dân tộc cực đoan hoặc tinh thần chống di dân tại Âu Châu. Thí dụ như nhiều trại tạm trú di dân tại miền Đông nước Đức đã bị cư dân đập phá, hay đảng Mặt trận Quốc gia theo xu hướng cực hữu đã lên như diều tại Pháp, và đảng Dân Chủ chống di dân đang thắng thế tại Thụy Điển.

Một thí dụ khác là Ba Lan sẽ có bầu cử vào tháng tới và đảng bảo thủ đang cầm quyền lại mất phiếu vào phe đối lập theo khuynh hướng quốc gia. Chính quyền Hung Gia Lợi cũng gặp bài toán tương tự trước sức ép của phong trào quốc gia bên cánh hữu, trong khi Chính quyền Đức chưa kịp mở cửa biên giới để nhận thêm nạn dân ứ đọng tại các trại tạm trú của Hung.

Vì thế, khi thương thuyết việc phân bố hay nhận “hạn ngạch” (định mức di dân) do Liên Âu quyết định, mỗi chính quyền lại cân nhắc lợi hại chính trị trong nội bộ, và đối chiếu với yêu cầu hội nhập và tinh thần liên đới của Âu Châu. Vốn dĩ đã có quá nhiều dị biệt về thực tế kinh tế và lập trường chính trị, Liên Âu lại bị thêm một sức ly tâm mới.

Nhìn về dài, “định mệnh” của một quốc gia là cơ cấu dân số hay nhân khẩu cũng có nhiều khác biệt.

Thí dụ như có nền kinh tế mạnh nhất và tinh thần rộng lượng nhất với nạn dân nên đã quyết định đón nhận 800 ngàn người một năm, nước Đức là một nạn nhân của nạn lão hóa dân số. Theo dự phóng của Liên Âu, từ năm 2020 đến 2060, dân số Đức sẽ mất 10 triệu người. Và “tỷ số lệ thuộc” của thành phần cao niên sống nhờ hưu bổng và trợ cấp y tế do lực lượng lao động (ở tuổi 15-64) tạo ra lại từ 36% trong hiện tại tăng đến mức 59%, cao nhất của Âu Châu. Nhìn cách khác, lực lượng lao động tại Đức sẽ mất một phần tư. Bài toán ngân sách của đệ nhất cường quốc kinh tế Âu Châu là thiếu tiền. Người đi làm ít hơn mà phải gánh vác một loại chi phí chỉ có tăng chứ khó giảm (sống lâu hơn và càng lớn tuổi thì càng lắm bệnh!)

Vì lẽ đó, Đức mới hào phóng với di dân: để nhập cảng sức lao động. Hai năm trước, Đức còn có luật lệ quy định rằng một nạn dân chỉ được phép đi làm 12 tháng sau khi được nhập cư. Thời hạn này vừa được giảm xuống ba tháng. Thà như vậy còn hơn là gặp hiện tượng lao động chui và trốn thuế khá phổ biền trong thành phần di dân nhập lậu vào Mỹ!

Bên kia biển Bắc, Anh quốc (United Kingdom) thì bị tiếng ích kỷ vì có chủ trương hạn chế di dân.

Là quốc gia hải đảo đã chẳng ký Hiệp ước Schengen, nước Anh cũng đứng ngoài vòng tranh luận – dù bị đả kích – vì không gặp bài toán nhân khẩu như Đức. Anh quốc sẽ là nước đông dân nhất Âu Châu: từ 67 triệu vào năm 2020 dân số Anh sẽ lên tới 80 triệu vào năm 2060. Nhìn cách khác, tỷ lệ sinh sản tại Anh thuộc loại cao nhất Liên Âu: trung bình một phụ nữ đẻ được 1,9 trong quãng đời sinh sản của mình. Nhờ các bà lạc quan yêu đời như vậy, tỷ số lệ thuộc tại Anh sẽ chỉ tăng từ 30% đến 43% trong khoảng thời gian dự phóng của Liên Âu (2020-2060).

Cho nên sự chuyển động chậm rãi của dân số trong trường kỳ có thể giải thích nhiều khác biệt về đối sách với di dân.

Nhưng trước mắt thì vụ khủng hoảng đang gây nhiều thách đố cho Liên Âu. Các nước nghèo, hoặc lâm nạn như mấy quốc gia miền Nam, thì không đủ công quỹ giải tỏa sức ép của làn sóng nạn dân. Họ cần tiền. Nhiều nước khác, giàu như Bắc Âu hoặc nghèo như Nam Âu, thì hoài nghi chủ trương hội nhập loại di dân không muốn làm công dân và chẳng muốn tự hội nhập vào xã hội mới. Họ cũng sợ khủng bố Hồi giáo, là điều không phải là vô lý. Vì vậy, họ chỉ muốn cứu nạn dân theo Thiên Chúa giáo mà thôi.

Các nước Đông Âu (nhìn theo trục Đông-Tây) hay Trung Âu (nhìn theo trục Nam-Bắc) thì có quan niệm khác. Sau khi xuất cảng dân công về phía Tây từ đợt sóng trước, các quốc gia này, như Ba Lan, Romania và Bulgaria, lại cần di dân vì cuộc sống cải thiện cũng dẫn tới trào lưu ít đẻ con. Nhưng hậu quả chính trị của nỗ lực kinh tế là các quốc gia ấy trở thành “hành lang quá quan”. Họ phải nhận di dân từ các nước nghèo hơn mà lại mất dần thành phần có chuyên môn và sức lao động cho các nước giàu hơn ở phía Tây, hay thậm chí cho Hoa Kỳ. Khi đả kích các quốc gia này là vội quên việc các nước khác đã giúp họ khi Liên Xô tan rã, người ta chỉ nhìn thấy một mặt của vấn đề mà thôi.

* * *
Chúng ta thấy gì từ những vấn đề quá đỗi phức tạp như vậy?

Bản chất bài toán di dân thành rõ nét hơn từ vụ khủng hoảng hiện nay: không có giải đáp ổn thỏa để đảo ngược trào lưu dân số của Âu Châu: không muốn có con nữa. Mọi thử nghiệm cấp thời chỉ gây thêm phân hóa trong nội bộ Âu Châu sau này. Lý tưởng Âu Châu về một thế giới vô cương, không biên giới, thật ra chỉ phản ảnh nhu cầu thực tế về dân số của từng xã hội và đặt ra nhiều vấn đề khác.

Ngược lại, khi lạc quan ca tụng giá trị đạo đức của mô hình Âu Châu vì thu nhận người Hồi giáo từ các quốc gia có lập trường chống Âu Châu, Thiên Chúa giáo hay nguyên tắc dân chủ thì ta cũng nên hỏi rằng những người Hồi giáo ấy có muốn là dân Âu Châu không? Hay chỉ muốn có một đất tạm dung mà họ không cho là quê hương vì nhiều người còn nín thinh khi trong cộng đồng của họ có những kẻ mưu đồ việc khủng bố để làm sáng danh Thượng Đế. Trong làn sóng nạn dân từ Syria, chúng ta thấy vắng bóng các giáo sĩ của đạo Hồi. Tại sao vậy?

Thế giới đa đoan!

Aylan Kurdi ơi: Em đã chết cho mọi người được sống!

Aylan Kurdi ơi: Em đã chết cho mọi người được sống!

Nguoi-viet.com

Nam Lộc

Hình ảnh của em bé thuyền nhân tỵ nạn Syrian 3 tuổi tên là Aylan Kurdi nằm gục mặt chết trên bãi cát khi xác của em trôi dạt vào bờ biển Bodrum, Thổ Nhĩ Kỳ tuần qua đã làm thức tỉnh lương tâm nhân loại trong lúc các con đường dẫn những người phải bỏ nước ra đi vì chế độ độc tài và diệt chủng để tìm đến một nơi an toàn tại các quốc gia Âu Châu lánh nạn đã bị chặn lại và cánh cửa nhân đạo hầu như đều khép kín.


Một nghệ sĩ Ấn Ðộ làm mô hình cát em bé người Syria bị chết trôi dạt vào bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ. (Hình minh họa: Asit Kumar/AFP/Getty Images)

Aylan đã chết đuối cùng với người anh lớn hơn em 2 tuổi và người mẹ của mình cùng hàng chục người khác khi chiếc xuồng của họ bị chìm đắm trên vùng biển Bắc Ðại Tây Dương. Hoàn cảnh của hàng trăm ngàn người tỵ nạn từ các nước Iraq, Afghanistan và đặc biệt là từ Syria tràn vào Âu Châu bằng đường bộ hay bằng đường thuyền cùng với sự xua đuổi của những người lính Hung Gia Lợi trong tuần qua đã gợi lại cho đồng bào tỵ nạn Việt Nam chúng ta cơn ác mộng vượt biên 30 năm về trước. Âm thanh của bài hát Xác Em Nay Ở Phương Nào hoặc câu “tự do ơi, tự do, em đổi bằng thân xác…” bỗng dưng vọng lại bên tai như những Lời Kinh Ðêm quen thuộc mà thuyền nhân đã cầu nguyện thuở nào! Thì ra người Việt chúng ta đã trải qua những nỗi gian truân đó từ lâu, khủng khiếp hơn, khổ đau hơn và bất hạnh hơn. Chỉ khác là vào thời điểm đó phương tiện truyền thông chưa phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng như hiện nay để thế giới biết rằng có đến gần nửa triệu người VN đã chết trên biển Ðông như số phận cùng hoàn cảnh của cậu bé Aylan.

Nhưng cũng chính vì sự tiến bộ kỹ thuật bây giờ mà hình ảnh của cậu bé Aylan chết tức tưởi, oan khiên trên biển cả, đã như một phép lạ từ từ mở rộng những cánh cửa đã bị loài người ích kỷ khóa lại từ suốt gần một tuần qua. Chính phủ Hung Gia Lợi đã phải làm những hành động tối thiểu, dù không tiếp nhận, nhưng cũng đã cung cấp xe bus để đưa người tỵ nạn đến biên giới của những quốc gia nhân đạo hơn, Phần Lan đã mở rộng cánh tay, Ðức đã quyết định tiếp nhận và sẵn sàng cung cấp công ăn, việc làm cho hàng trăm ngàn người tỵ nạn, sau đó là Áo, Anh, Bỉ, Pháp, v.v… và dĩ nhiên là cả Hoa Kỳ, đất nước được xem là có một trách nhiệm lớn trong cuộc khủng hoảng ở Trung Ðông, đặc biệt là chính sách bị nhiều người chỉ trích là “bất nhất” của chính phủ Obama từ suốt 3 năm qua về vấn đề Syria cùng nhà lãnh đạo độc tài và tham quyền, cố vị: Bashar ai-Assad.

Nhưng tình hình đã có phần nào thay đổi theo chiều hướng tích cực trong mấy ngày qua, phải chăng nỗi bất hạnh của Aylan Kurdi cùng gia đình em đã được đổi lại bằng sự may mắn và hạnh phúc của hàng trăm ngàn nạn nhân của bọn độc tài, khủng bố, đã quyết định vượt biên và có thể cũng sẽ là niềm hy vọng cho hàng triệu người khác đang sống nhục nhằn trong các trại tỵ nạn ở Lebanese, tại Thổ Nhĩ Kỳ hay ngay tại đất nước Syria hiện nay? Các nhà lãnh đạo ở trên thế giới kể cả tay cựu trùm KGB, Vladimir Putin, đang là tổng thống nước Nga dù cứng đầu đến đâu cũng phải quyết định ngồi xuống để tìm ra một giải pháp hầu giải quyết cơn khủng hoảng trầm trọng này hầu cho người dân Syria có một cuộc sống ổn định ngay trên quê hương của họ thay vì phải mang đời lưu vong. Và nếu đúng như vậy thì Aylan Kurdi ơi, em đã chết cho mọi người được sống!

Nhìn hình ảnh bé Aylan nằm chết như mơ, như thiên thần đang gục đầu ngủ yên trên bãi cát, nó cũng thảm thương như thân phận của những đứa trẻ VN bất hạnh thuở nào, lòng tôi trùng xuống một nỗi buồn vô hạn. Trước đó một tuần, khi xem được đoạn phim chiếu cảnh người đàn ông Syrian gò lưng đi bán từng cây bút nắp xanh để kiếm được miếng ăn cho đứa con gái nằm ngủ trên vai trong cơn nóng thiêu đốt trên đường phố ở Beirut, bỗng dưng tôi nhớ lại tình cảnh của hơn 2000 “Người Việt Còn Lại” ở Phi Luật Tân vào những năm đầu thập niên 2000, những người đã bị thế giới lãng quên qua gần 20 năm trời khổ hạnh với mẫu “căn cước” được đóng dấu là dân “vô tổ quốc” (Stateless)! Và ở đó, tôi cũng đã thấy hình ảnh người đàn ông tỵ nạn VN cõng trên vai đứa con gái chưa đầy 2 tuổi trong cơn nóng thiêu đốt ở Palawan để bán từng đôi dép cho những người dân làng hầu may ra mua được cho con mình một khúc bánh mì hay một bình sữa lạnh!

Tiếng reo của chuông điện thoại làm tôi tỉnh lại, sờ lên mắt, không biết là mình đã khóc từ lúc nào, và tự nhủ lòng, có lẽ mình sẽ phải làm một điều gì để cùng đồng hương chúng ta xoa dịu được một phần nào vết thương đang nhỏ máu của nhân loại dù chỉ là một điều nhỏ nhoi như hạt cát trong sa mạc.

Bên kia đầu dây là giọng nói của một người bạn trẻ tên là James ở Toronto, Canada, em ngỏ ý muốn mời tôi làm MC cho một buổi “sinh hoạt” tại đây, sau khi thỏa thuận thù lao xong, tôi hỏi em về nội dung chương trình, lúc đó James mới cho biết mục đích của ngày sinh hoạt này là để phát động chiến dịch gây quỹ cho dự án có tên là “Lifeline Syria Project” ngõ hầu tìm phương tiện để bảo trợ cho các gia đình người tỵ nạn Syrian đang phải đối phó với những nỗi khốn cùng trên đường tìm tự do! Lòng tôi chợt bùng sáng lên như một kẻ đang đói khát được người ta ban phát cho một khúc bánh mì cùng ly nước lạnh! Tôi hân hoan nói với James, em ơi, tôi sẵn sàng nhận lời tham dự và xin phép cho tôi được đóng góp toàn bộ số tiền thù lao của tôi vào buổi gây quỹ trong ngày hôm đó để tiếp tay với ban tổ chức. James thoạt đầu hơi ngạc nhiên và ngần ngại, nhưng sau đôi lời trao đổi em đã hiểu lòng tôi và vui vẻ đồng ý. Tuy nhiên khi James đề cập đến thời điểm của buổi tổ chức sẽ rơi vào một ngày cuối tuần trong Tháng Mười sắp tới thì tôi vô cùng lo lắng và hơi thất vọng, vì lịch trình diễn đã đầy ắp, không còn rảnh một weekend nào trong Tháng Mười cả, đấy là chưa kể đến chuyến đi Úc Châu kéo dài hơn một tuần lễ vào giữa Tháng Mười, 2015! Nhưng khi mở lịch ra xem, thì tôi thấy còn trống một ngày Thứ Bẩy duy nhất đó là October 3rd, nhưng đã dự định mua vé để bay sang Washington DC cho một event khác diễn ra vào buổi trưa Chủ Nhật October 4th. Và như một “phép lạ,” James cho tôi biết, vì tính cách cấp bách của sự việc cho nên BTC đã quyết định tổ chức vào ngày Thứ Bảy, mùng 3 Tháng Mười, 2015. Nghe em nói lòng tôi như mở hội, như vậy thì xem như “giấc mơ” ấp ủ “được làm một điều gì để cùng đồng hương chúng ta xoa dịu phần nào vết thương đang nhỏ máu của nhân loại” đã thành sự thật. Hai anh em chúng tôi cùng vui, và sau khi James email cho tôi thêm chi tiết cùng tấm ảnh chúng tôi chụp chung với nhau trong lần tiếp đón và bảo trợ những người Việt tỵ nạn cuối cùng từ Thái Lan đến Vancouver vài tháng trước đây, tôi mới biết đó là James Nguyễn, cựu chủ tịch Hội Người Việt Toronto, và buổi gây quỹ lần này sẽ phối hợp cùng tổ chức VOICE Canada và một số cơ quan, đoàn thể người Việt tại đất nước giầu lòng nhân đạo này. VOICE Canada cũng không xa lạ gì với tôi, vì ngoài nỗ lực tranh đấu, vận động cũng như định cư những người Việt tỵ nạn muộn màng, vào Tháng Tư 2015 vừa qua, họ còn gây quỹ được $100 ngàn để tiếp tay cho Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh VNCH và Quả Phụ Tử Sĩ do bà Hạnh Nhơn làm chủ tịch.

Tôi tin rằng điều may mắn được góp mặt cùng “Lifeline Syria Project” lần này là do sự sắp đặt của Thượng Ðế như một “ơn gọi” của Bề Trên, của Trời Phật dù lời cầu xin của tôi chỉ mới là những tiếng nhủ thầm trong bụng. Tôi đem chuyện này chia sẻ với các gia đình tỵ nạn VN từ Palawan, Phi Luật Tân, những người cũng đã từng bị thế giời lãng quên. Họ đang tổ chức ngày “Tri Ân và Hội Ngộ” để kỷ niệm 10 năm định cư, đồng thời để cảm tạ những người đã giúp họ được làm lại cuộc đời nơi đất khách. Trong đêm họp mặt gọi là “tiền hội ngộ,” Thứ Bảy, mùng 5 Tháng Chín, 2015 vừa qua, sau khi nghe tôi trình bày có người đã rơi nước mắt, hồi tưởng lại thân phận mình và so sánh với hoàn cảnh của người tỵ nạn Syrian cùng thân xác của vị “Thánh Tí Hon” tên là Aylan Kurdi, đã hy sinh cuộc đời để cho đồng bào mình được cứu sống! Và kết quả là trong đêm họp mặt ngày hôm sau, mùng 6 Tháng Chín, trước sự hiện diện của các quan khách cùng ân nhân Việt, Mỹ và đặc biệt là đại diện của chính phủ Phi Luật Tân, quốc gia duy nhất đã không trục xuất thuyền nhân VN. Luật Sư Trịnh Hội đã đại diện các gia đình tỵ nạn VN từ Palawan chính thức loan báo rằng những thuyền nhân người Việt muộn màng này sẽ bảo lãnh 4 gia đình người tỵ nạn Syrian, và họ nhờ tôi liên lạc với các cơ quan thiện nguyện để bắt đầu thủ tục định cư tại thành phố Houston. Anh Trung Ðình Nguyễn, trưởng ban tổ chức đã cho các ân nhân và quan khách Việt, Mỹ cũng như Phi Luật Tân hiện diện trong ngày hôm đó biết rằng: “Cách duy nhất mà chúng tôi có thể làm được bây giờ để trả ơn quý vị là đưa tay ra để cứu giúp những người bất hạnh khác, như quý vị đã cứu giúp chúng tôi”! Thật là một hành động dấn thân mang đầy ý nghĩa.

Nhân đây chúng tôi cũng xin cám ơn quý vị đồng hương ở khắp mọi nơi đã đáp lại lời kêu gọi của chúng tôi để đóng góp vào quỹ “Thank You America” của cơ quan thiện nguyện USCC hầu giúp đỡ và tiếp tay cho tổ chức đã từng bảo trợ chúng ta để định cư những người tỵ nạn Syrian bất hạnh nói trên. Tính đến cuối Tháng Bảy, 2015, sau 4 tháng phát động, hội USCCLA cho biết là họ đã nhận được khoảng 60 ngàn dollars từ cộng đồng người Việt, và cơ quan này cũng đã gởi thơ cám ơn đến từng quý vị ân nhân đã đóng góp.

Qua nghĩa cử cao đẹp trước hết là của “Lifeline Syrian Project” ở Toronto, Canada, theo sau là anh chị em trong nhóm “Người Việt Còn Lại” tại Houston, Texas, chúng tôi mong mỏi sẽ có những tổ chức hoặc các hội đoàn hay cá nhân ở những địa phương khác cũng sẽ tiếp tay đóng góp, đón nhận hoặc bảo trợ các gia đình tỵ nạn đang sống vất vưởng tại các trại tỵ nạn ở nhiều nơi trên thế giới. Nếu muốn tìm hiểu thêm chi tiết hoặc tin tức, xin quý vị cứ email về địa chỉ của chúng tôi là: namloc@sbtn.tv

Khủng hoảng di dân tràn sang Hy Lạp và Macedonia

Khủng hoảng di dân tràn sang Hy Lạp và Macedonia

Những người di dân đang đợi cảnh sát Macedonia cho phép đi qua biên giới giữa Hy Lạp và Macedonia.

Những người di dân đang đợi cảnh sát Macedonia cho phép đi qua biên giới giữa Hy Lạp và Macedonia.

Giữa lúc người tỵ nạn từ Syria và các nước khác bị xâu xé vì chiến tranh tìm đường từ Hungary đi sang nước Đức và các điểm đến khác ở Châu Âu, hàng ngàn người khác đang bị kẹt ở Hy Lạp và Macedonia, mà không hề biết khi nào họ có thể tiếp tục cuộc hành trình.

Cao Ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc cho hay khoảng 30.000 người di dân đã tới Hy Lạp, kể cả từ 15.000 tới 18.000 người chỉ trên đảo Lesbos mà thôi, trong khi 7.000 người tỵ nạn Syria đã tới Macedonia, một nước cộng hoà thuộc Nam Tư cũ.

Bộ trưởng Nội vụ lâm thời của Hy Lạp Yiannis Mouzalas được Pháp tấn xã dẫn lời nói trên một đài phát thanh ở địa phương rằng tình hình trên đảo Lesbos “sắp bùng nổ”.

Hãng thông tấn Reuters nói cơ quan tỵ nạn LHQ đã ra lời kêu gọi khẩn cấp nói rằng con số người tỵ nạn tìm đường lánh nạn trên khắp Địa Trung Hải để tới Châu Âu sẽ lên tới 400.000 người trong năm nay.

Bà Melissa Fleming, người phát ngôn của Cao Uỷ Tỵ nạn LHQ, được Reuters dẫn lời nói với các nhà báo ở Geneve hôm nay rằng các nước EU phải thiết lập ‘một hệ thống bảo đảm tái định cư”, trong đó mỗi nước cam kết sẽ nhận một con số di dân nhất định.

AFP tường thuật rằng họ có thông tin là Chủ tịch Ủy Hội Âu Châu Jean-Claude Juncker dự kiến ra mắt một kế hoạch vào ngày mai, theo đó Đức sẽ nhận 31.000 người di dân, Pháp nhận 24.000 người và Tây Ban Nha 15.000 người.

Phó Thủ Tướng Đức Sigmar Gabriel nói với báo chí hôm qua rằng nước ông có khả năng tiếp nhận tới 500.000 người tỵ nạn mỗi năm trong vài năm tới.

Đức trước đây nói rằng họ dự kiến sẽ nhận tới 800.000 người tỵ nạn trong năm nay.

Bà Suu Kyi kêu gọi quốc tế giám sát bầu cử Myanmar

Bà Suu Kyi kêu gọi quốc tế giám sát bầu cử Myanmar

Lãnh tụ đối lập Myanmar Aung San Suu Kyi phát biểu tại bang Shan ở miền nam Myanmar, ngày 6/9/2015.

Lãnh tụ đối lập Myanmar Aung San Suu Kyi phát biểu tại bang Shan ở miền nam Myanmar, ngày 6/9/2015.

Lãnh tụ đối lập Aung San Suu Kyi kêu gọi nên có một cuộc giám sát quốc tế để theo dõi cuộc tổng tuyển cử ở Myanmar vào tháng 11 này.

Đây là cuộc bầu cử đầu tiên tính từ nhiều thập niên nay từ khi quân đội lên cầm quyền, cho tới khi chế độ quân phiệt kết thúc vào năm 2011.

Trong một băng video tải lên hôm nay trên trang Facebook của chính đảng của bà, là Liên minh Dân chủ Toàn quốc, gọi tắt là NLD, nhà đấu tranh cho dân chủ lâu năm nói rằng cuộc bầu cử này là lần đầu tiên trong nhiều thập niên mà nhân dân Miến Điện có cơ hội mang lại những thay đổi thực sự.

Bà Suu Kyi nói “đây là một cơ hội mà chúng ta không thể bỏ lỡ. Chúng tôi hy vọng rằng cả thế giới hiểu được việc có được các cuộc bầu cử tự do và công bằng quan trọng như thế nào đối với chúng tôi, và đảm bảo các kết quả của một cuộc bầu cử như vậy phải được tất cả các bên liên quan tôn trọng. ”

Bà nói thêm “hãy giúp chúng tôi bằng cách quan sát những gì đang diễn ra, trước các cuộc bầu cử, trong các cuộc bầu cử, và đặc biệt quan trọng sau khi diễn ra bầu cử. Đây là đóng góp lớn nhất mà quý vị có thể làm cho hoà bình và tiến bộ của nước này.”

Hôm này là ngày đầu tiên của chiến dịch vận động chính thức cho cuộc bầu cử ngày 8/11 để bầu ra quốc hội mới và quốc hội đó sẽ chọn tổng thống.

Đảng NLD được dự kiến sẽ đoạt được nhiều thắng lợi trong cuộc bầu cử này. Nhưng bà Suu Kyi không hội đủ điều kiện để trở thành tổng thống, vì một điều khoản trong Hiến Pháp loại trừ bà vì bà có hai người con trai có quốc tịch nước ngoài.

Nạn nhân chiến tranh VN lên tiếng về bức ảnh bé trai Syria chết đuối

Nạn nhân chiến tranh VN lên tiếng về bức ảnh bé trai Syria chết đuối

Bà Kim Phúc và phóng viên Nick Út đứng trước bức ảnh 'em bé naplam'

Bà Kim Phúc và phóng viên Nick Út đứng trước bức ảnh ’em bé naplam’

LHQ: Khủng hoảng người tị nạn là ‘thời khắc định hình’ cho châu Âu

07.09.2015

Bà Kim Phúc, bé gái trong bức ảnh do nhiếp ảnh gia Nick Ut của hãng AP chụp năm 1972 vào lúc cao điểm của chiến tranh Việt Nam, nói bà hy vọng cái chết của bé trai người Syria sẽ làm ‘cả thế giới thức tỉnh’.

Hãng tin CBC của Canada tường thuật rằng bà Kim Phúc phát biểu như vậy tại Winnipeg hôm qua, Chủ nhật, khi bà đến Nhà Thờ Baptit Grant Memorial để ký tên sách “Girl in the Picture – Cô gái trong bức Ảnh”.

Tại buổi sinh hoạt này, bà Kim Phúc nhắc tới tình cảnh hàng ngàn người tỵ nạn Syria và những hành động tội ác đã buộc họ phải rời bỏ quê hương ra đi tìm đường sống.

Từng là chủ đề của tấm ảnh được ’em bé napalm’ được thế giới biết đến, được cho là đã có tác động tới công luận quốc tế về chiến tranh Việt Nam, bà Kim Phúc nói tấm ảnh chụp xác của Alan Kurdi, cậu bé 3 tuổi người Syria, trôi giạt vào một bờ biển ở Thổ Nhĩ Kỳ, đã đặc biệt gây tiếng vang nơi bà, vì bà từng có kinh nghiệm về tác động mà những bức ảnh chụp các thảm hoạ có thể có đối với lịch sử.

Bà Kim Phúc chỉ mới 9 tuổi khi nhiếp ảnh gia Nick Ut chụp tấm ảnh một bé gái không quần áo với nét mặt kinh hoàng, vừa chạy vừa la hét sau khi bị bỏng bom Napalm trong chiến tranh Việt Nam năm 1972. Từ đó, Kim Phúc đã trở thành một biểu tượng sống của những thảm cảnh chiến tranh.

Nhiều sử gia cho rằng tấm ảnh của nhiếp ảnh gia Nick Ut, chụp 5 đứa trẻ Việt Nam chạy sau một cuộc tấn công bom napalm đã khơi dậy cho phong trào phản chiến. Tấm ảnh mang đã giúp Nick Ut đoạt Giải Pulitzer về ảnh phóng sự năm 1973.

Nghệ sĩ Ấn Độ Sudarsan Pattnaik tạo ra một tác phẩm trên cát ở bãi biển Puri miêu tả cậu bé chết đuối người Syria Alan Kurdi.

Nghệ sĩ Ấn Độ Sudarsan Pattnaik tạo ra một tác phẩm trên cát ở bãi biển Puri miêu tả cậu bé chết đuối người Syria Alan Kurdi.

Hãng tin CBC tường thuật về phản ứng của bà Kim Phúc khi xem bức ảnh của bé trai Syria nói rằng bà đã khóc rất nhiều khi xem tấm ảnh, và tự hỏi “tại sao lại có nhiều đứa trẻ vô tội phải chết như thế. Tôi hy vọng là bức ảnh này sẽ làm cả thế giới thức tỉnh.”

Nay định cư ở Canada, bà Phan Thị Kim Phúc góp tiếng cùng với nhiều tiếng nói khác, kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới hãy làm việc với nhau để giải quyết cuộc khủng hoảng tỵ nạn Syria.

Bà Kim Phúc nói bà hy vọng quê hương thứ hai của bà là Canada, và các nước khác trên khắp thế giới sẽ mở rộng vòng tay và mở cửa biên giới để đón nhận người tỵ nạn Syria.

Theo CBC, Thanh Nien.