Nga sẽ mau lẹ quyết định sử dụng võ khí nguyên tử khi tình thế đòi hỏi

Ba’o Nguoi-Viet

June 24, 2024

MOSCOW,Nga (NV) – Nga, nước có kho võ khí nguyên tử lớn nhất thế giới, có thể giảm bớt thời gian họ phải cân nhắc việc sử dụng võ khí nguyên tử nếu Moscow cho rằng có mối đe dọa cấp bách cho nền an ninh của mình từ bên ngoài, theo lời vị chủ tịch ủy ban quốc phòng của nghị viện Nga, thông tấn xã Reuters đưa tin hôm Chủ Nhật, 23 Tháng Sáu.

Cuộc chiến tranh tại Ukraine đã dẫn tới cuộc chạm trán nghiêm trọng nhất giữa Nga và các nước Tây Phương kể từ cuộc Khủng Hoảng Hỏa Tiễn Cuba năm 1962. Hồi tháng trước, Tổng Thống Vladimir Putin tuyên bố Nga có thể thay đổi các tiêu chuẩn để có thể lập tức sử dụng võ khí nguyên tử để đối phó với mọi tình huống bất ngờ.

Hôm Chủ Nhật, chủ tịch ủy ban quốc phòng hạ viện Nga Andrei Kartapolov đã được thông tấn xã nhà nước RIA dẫn lời ông tuyên bố rằng nếu có mối hiểm nguy cao độ cho nước Nga thì thời gian Nga quyết định việc sử dụng võ khí nguyên tử sẽ được rút ngắn để kịp thời đối phó với mối đe dọa cho sự sinh tồn của đất nước.

Mô hình bom nguyên tử AN-602, còn có tên là Bom Nga Hoàng, có sức công phá mạnh nhất từng được thí nghiệm tại Trung Tâm Triển Lãm Nước Nga ở Moscow ngày 6 Tháng Mười Hai, 2023 (Hình: NATALIA KOLESNIKOVA/AFP/Getty Images)

Nguyên tắc mới để Nga sử dụng võ khí nguyên tử một cách cấp bách như nói trên đã được đưa ra hồi năm 2020, cho phép các lực lượng Nga khẩn cấp đối phó với các lực lượng thù địch khi họ sử dụng võ khí nguyên tử hoặc võ khí tiêu diệt hàng loạt tấn công vào lãnh thổ Nga.

Nguyên tắc nói trên cho thấy có sự nhượng bộ trước áp lực của phe cứng rắn trong hàng ngũ giới lãnh đạo Nga, từ Tổng Thống Putin trở xuống, khi họ tin tưởng rằng ông Putin phải rút ngắn thời gian quyết định việc sử dụng võ khí nguyên tử để kịp thời phản ứng chống lại các cuộc tấn công của quân địch.

Tuần trước, Tổng Thống Putin đã nhắc lại rằng sở dĩ có chuyện thay đổi nguyên tắc sử dụng võ khí nguyên tử của Nga là vì các lực lượng thù địch đã phát triển các loại võ khí có khả năng tương đương với võ khí nguyên tử, trực tiếp đe dọa nền an ninh của đất nước Nga.

Cả Moscow và Washington đã từng cắt giảm mạnh mẽ kho võ khí nguyên tử của mình sau khi Liên Bang Sô Viết sụp đổ, nhưng công cuộc cắt giảm võ khí đó trong thời Chiến Tranh Lạnh, cuối cùng, đã sụp đổ, dẫn tới cuộc chạy đua võ trang gần như bất tận giữa các cường quốc trên thế giới như hiện nay. (TTHN)


 

NHẬT BẢN KHÔNG BAO GIỜ CÓ NGƯỜI ĂN XIN?

 NHỮNG BÀI POST HAY.

Lien Hoa Dao

VÌ SAO DÙ NGHÈO ĐÓI CỠ NÀO, NHẬT BẢN KHÔNG BAO GIỜ CÓ NGƯỜI ĂN XIN?

Một điều kì lạ khi đến Nhật Bản đó là thật khó có thể gặp một người vô gia cư hay ăn xin nào đang ngửa tay ra xin tiền người qua đường trên phố. Tại sao vậy?

Một người Việt Nam trong lần đến thăm thành phố Ginza của Nhật Bản đã bắt gặp một cảnh tượng khiến anh vô cùng kinh ngạc. Anh kể rằng mình đã trông thấy một người đàn ông nhưng không biết có thể gọi là ăn xin hay không. Ông ấy mặc bộ Kimono màu vàng pha nâu được là ủi sạch sẽ tươm tất, chân đi giày trắng bóc như vừa mua từ cửa hiệu, tay cầm chuông, tay còn lại cầm chiếc bát gỗ, đầu đội chiếc nón che gần hết cả khuôn mặt. Ông ấy đứng im trên vẻ hè, ai đi ngang cho gì thì cho, nhưng ông không xin. Anh thắc mắc đến người hành khất cũng có lòng tự trọng đến nhường này sao?

Ông ấy đứng im trên vẻ hè, ai đi ngang cho gì thì cho, nhưng ông không xin.

Vì sao Nhật Bản không có ăn xin ngoài đường?

Theo một số liệu thống kê thú vị, tại Tokyo có 2.000 người vô gia cư, nhưng bạn sẽ không bao giờ gặp được bất kỳ người vô gia cư nào hay một cậu bé lấm lem nào trên đường phố Nhật Bản đang ngửa tay ra xin tiền một người qua đường hay một ai đó.

Chính phủ Nhật Bản đầu tư thực thi chính sách “trợ cấp nhân sinh”, có nghĩa là bất kỳ người nghèo hay người vô gia cư khi cảm thấy điều kiện vật chất quá khó khăn và cần được giúp đỡ thì họ có thể đến chính quyền địa phương xin nhận trợ cấp. Trung bình một người có thể nhận số tiền trợ cấp hàng tháng lên tới 120.000 Yên (khoảng hơn 22 triệu đồng) để trang trải cuộc sống tối thiểu. Tuy nhiên, rất nhiều người nghèo ở Nhật Bản từ chối nhận chính sách này.

Hầu hết những người vô gia cư ở Nhật Bản đều là những người già, trẻ em khuyết tật, chủ doanh nghiệp bị phá sản, nhân viên văn phòng, sinh viên tốt nghiệp ra trường vì một lý do nào đó mà phải rẽ ngang cuộc đời. Dù rơi vào bế tắc hay bi thương họ không hề ngửa tay ra xin tiền, đơn giản vì họ nghĩ rằng như vậy đang làm mất đi lòng tự tôn trong nhân cách của mình.

Lòng tự trọng của người Nhật rất cao, họ cho rằng mình có thể chết nhưng không được xin của bố thí. Tại Nhật Bản, những người ăn xin là những người bị coi thường nhất, vì họ cho rằng tinh thần võ sĩ đạo sẽ không cho phép họ làm vậy.

Người Nhật tâm niệm rằng: Một người cho dù đến bước đường cùng cũng không bao giờ nhụt chí.

Cũng chính bởi vậy, từ đống đổ nát hoang tàn sau cuộc chiến tranh khốc liệt, Nhật Bản đã tự vươn mình trở thành một siêu cường quốc kinh tế chỉ trong một thời gian ngắn, khiến cả thế giới phải ngả mũ thán phục.

Tự trọng – Tinh thần võ sĩ đạo trong tính cách người Nhật

Lòng tự trọng được xem là giá trị cốt lõi trong văn hóa của người Nhật. Không chỉ riêng đối với người giàu mà ngay cả người vô gia cư cũng hiểu rằng, sự tôn nghiêm làm nên một con người chứ không phải tiền bạc hay chức vị.

Giáo dục cho trẻ em về lòng tự trọng trong nhân cách được người Nhật chú trọng ngay từ những khi còn bé. Đến Nhật, bạn có thể trông thấy một cậu bé 2-3 tuổi đang lẫm chẫm tập đi theo mẹ, nhưng nếu chẳng may trượt ngã, không bao giờ người mẹ cuống quýt, vội vã đỡ con dậy. Thay vào đó, mẹ cậu bé sẽ quay lại và nói: Con hãy cố tự mình đứng dậy nhé! Không dựa dẫm, tự đứng dậy ngay tại chính nơi mình vấp ngã là bài học về lòng tự trọng đầu tiên mà mỗi người con Nhật Bản được học ngay từ khi bé.

Có thể bạn chưa biết, tại Nhật, khi một người cảnh sát khi bắt gặp một người lái xe vi phạm luật giao thông, anh ấy sẽ không bắt người tài xế xuống xe mà sẽ bước đến bên buồng lái hỏi chuyện với người tài xế chỉ vì muốn giữ lòng tự trọng cho người lái xe.

Tại một cửa hàng của Nhật Bản, người chủ tiệm đã quyết định lắp đặt camera để quản lý trông coi hàng hóa phòng trường hợp bị mất cắp. Ngay một thời gian sau, không có bất kỳ vị khách nào ghé đến cửa hàng mua đồ nữa, họ tẩy chay chủ tiệm vì ông ấy đã làm tổn thương lòng tự trọng của mình. Cũng từ đây, trong các siêu thị hay tiệm tạp hóa của Nhật đều không lắp camera như các nơi khác.

Và một điều kì lạ trong hàng tá những kì lạ về xứ sở này đó chính là chỉ trong vài ba năm, nước Nhật có tới từ 4-5 Thủ tướng, không phải người đứng đầu của đất nước bị cách chức mà họ xin từ chức. Từ chức vì lòng tự trọng.

Ngày 12/7/2007, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe xin từ chức vì cho rằng ông đã không đảm nhiệm tốt vai trò của mình sau 1 năm làm Thủ tướng đầy sóng gió. (Ảnh dẫn qua: WFDD)

Trong bất kể một lĩnh vực nào, dù chỉ là một sai phạm nhỏ, dù đó là do cấp dưới gây ra, người đứng đầu luôn nhìn nhận rằng nguyên nhân dẫn đến hậu quả này xuất phát từ chính họ, là lỗi của mình. Có câu chuyện kể về một vị giáo sư khi bị người khác đâm xe làm ngã, ông đứng dậy và nói với người làm ông ngã rằng: “Xin lỗi, vì tôi mà ông gây ra chuyện này!”

Người Nhật rất kiêng kị xúc phạm người khác. Trong giao tiếp, họ luôn cố gắng tìm cách nói giảm, nói tránh bằng những hành động ít mang tính đe dọa, không làm tổn thương người khác trước đám đông vì người Nhật muốn giữ lòng tôn nghiêm cho người khác.

Vậy tự trọng là gì mà từ một giáo sư học thức đến một người ăn xin ngoài đường coi trọng đến vậy?

Tự trọng là một phẩm chất cao quý, ước chế con người ta không phát sinh tham lam, tật đố; tự trọng hướng con người ta đi đúng đường, bước đúng bước không mưu cầu quá nhiều mà biết sống đúng mực. Tự trọng có thể được xem như thước đo của đạo đức mà con người có thể dùng để đối đãi với nhau. Không có tự trọng hay lòng tự tôn nhân cách con người dễ bị hoen ố, sống không cần biết quan tâm đến xung quanh và dần trở nên tha hóa. Cũng bởi vậy mà tự trọng đã trở thành bài học đầu tiên mà mỗi em nhỏ người Nhật được học ngay những bước vấp ngã đầu tiên của cuộc đời.

Người Nhật hiểu rằng, giữ lòng tự trọng không phải mục đích vì để thể hiện tôi là ai, tôi là người như thế nào với người khác; mà họ tin khi có tự trọng con người sẽ biết phân biệt đâu là đúng, đâu là sai; điều gì nên và không nên làm, từ đó mà gặt hái sự tôn nghiêm của chính bản thân mình. Tự trọng trong văn hóa người Nhật xuất phát từ tâm niệm sống tốt đẹp, dạy con người ta biết vươn lên sau những khó khăn; luôn cố gắng suy nghĩ và hạn chế tối đa thương tổn trong tâm người khác.

Nhật Bản ngày nay có lẽ đã không chỉ là xứ sở của hoa anh đào hay những ngọn núi tuyết cao sừng sững, mà còn là đất nước của những giá trị nhân cách cao cả…

Tác giả: Hồng Tâm


 

Putin đi Bắc Hàn ‘vỗ về’ đồng minh, chống Tây Phương

Ba’o Nguoi-Viet

June 19, 2024

BÌNH NHƯỠNG, Bắc Hàn (NV) – Công chúng tụ hội đón mừng Tổng Thống Nga Vladimir Putin bằng những tràng hoa lọng phướn rợp trời tại Bình Nhưỡng hôm Thứ Tư, 19 Tháng Sáu, nơi lãnh tụ Bắc Hàn Kim Jong Un “ủng hộ triệt để” cuộc xâm lược toàn diện tại Ukraine và cam kết tăng cường cố kết về chiến lược với Moscow, theo thông tấn xã Reuters.

Một đội danh dự gồm có các kỵ binh cùng rất nhiều người dân tụ tập tại quảng trường Kim Il Sung (Kim Nhật Thành) bên bờ Sông Taedong (Sông Đại Đồng) chảy qua thủ đô, đoạn phim do phương tiện truyền thông Nga phát sóng cho thấy. Trong buổi lễ tiếp đón cấp nhà nước còn có trẻ em cầm bong bóng cùng chân dung bệ vệ của hai lãnh tụ và quốc kỳ trang hoàng tòa nhà chính tại quảng trường.

Sau đó họ Kim và Putin cùng nhau tới Cung Điện Kumsusan (Cẩm Tú Sơn, còn gọi là Lăng Kim Nhật Thành) để hội đàm thượng đỉnh.

Người dân Bắc Hàn chào đón xe limousine chở lãnh tụ Kim Jong Un và Tổng Thống Nga Vladimir Putin tại quảng trường Kim Nhật Thành ở Bình Nhưỡng ngày 19 Tháng Sáu, 2024 (Hình: GAVRIIL GRIGOROV/POOL/AFP/Getty Images)

“Chúng tôi đánh giá cao lòng ủng hộ nhất quán và vững chắc mà ông dành cho chính sách của Nga, trong đó có cả cuộc xâm lược tại Ukraine,” hãng thông tấn nhà nước Nga RIA trích lời nói mở đầu của Putin trong cuộc hội đàm.

Putin cho biết Moscow đang đấu tranh với chính sách bá quyền, đế quốc của Hoa Kỳ và các đồng minh, truyền thông Nga đưa tin.

Họ Kim cho biết bang giao Bắc Hàn-Nga đang bước vào giai đoạn mới, “thịnh vượng cao vời vợi.”

“Hiện nay tình hình thế giới đang phức tạp hơn và biến chuyển mau chóng. Trước viễn cảnh đó, chúng tôi dự tính tăng cường hợp tác chiến lược với giới lãnh đạo Nga quyết liệt hơn nữa,” họ Kim cho biết.

Bắc Hàn “bày tỏ lòng ủng hộ và đoàn kết hoàn toàn với chính phủ, quân đội và nhân dân Nga trong chiến dịch quân sự đặc biệt tại Ukraine nhằm bảo vệ chủ quyền, lợi ích an ninh cũng như toàn vẹn lãnh thổ,” họ Kim nói thêm.

Putin hạ cánh tại phi trường Bình Nhưỡng vào sáng Thứ Tư. Sau khi được họ Kim chào đón bằng cái ôm thắm thiết, hai lãnh tụ san sẻ “những suy tư sâu lắng nhất” trên đường đến tòa quốc khách, truyền thông nhà nước Bắc Hàn cho biết.

Putin thực hiện chuyến công du đầu tiên tới thủ đô Bắc Hàn sau 24 năm, có thể định hình lại bang giao Nga-Bắc Hàn sau nhiều thập niên vào thời điểm cả hai nhà nước đều chịu sự cô lập của quốc tế.

Bang giao giữa hai quốc gia là “động lực hun đúc việc gầy dựng thế giới đa cực mới” và chuyến viếng thăm của Putin là minh chứng cho quan hệ đượm tình hữu nghị và sự nhất quán giữa hai quốc gia là bất khả chiến bại và trường tồn, hãng thông tấn nhà nước Bắc Hàn KCNA cho biết.

Nga từng tận dụng quan hệ nồng ấm với Bắc Hàn để châm chích Washington, trong khi đó Bắc Hàn vốn bị Hoa Kỳ trừng phạt tan nát cũng được Moscow hậu thuẫn về phương diện chính trị cùng lời hứa hẹn giúp đỡ kinh tế và thương mại.

Hoa Kỳ và các đồng minh lo ngại Nga có thể quân viện Bắc Hàn cho các chương trình hỏa tiễn và nguyên tử, vốn bị các quyết nghị của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc cấm tuyệt đối, đồng thời tố cáo Bình Nhưỡng tuồn hỏa tiễn đạn đạo và đạn pháo mà Nga từng dùng để bắn phá trong cuộc xâm lược Ukraine.

Moscow và Bình Nhưỡng phủ nhận hành động chuyển giao võ khí.

Họ Kim tay bắt mặt mừng với Putin, ôm chầm và giả lả vài lời kế bên phi cơ chở lãnh tụ Nga. Sau đó, hai người bước vào chiếc limousine Aurus của Putin do Nga sản xuất lên đường tới Tòa Quốc Khách Cẩm Tú Sơn.

Có lẽ do thời gian hạn hẹp, nên buổi đón tiếp diễn ra không mấy long trọng, họ Kim chỉ chào lãnh tụ Nga trên thảm đỏ mà không tổ chức buổi lễ trọng thể mà Bắc Hàn từng tổ chức để cung nghinh Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong chuyến viếng thăm năm 2019.

Hình ảnh do phương tiện truyền thông nhà nước công bố cho thấy phố phường tại Bình Nhưỡng đầy chân dung của Putin còn mặt tiền Khách Sạn Ryugyong hình kim tự tháp cao 101 tầng còn đang xây cất dở dang và bị bỏ trống thì được thắp sáng rực rỡ với dòng chữ “Chào Mừng Putin” to tướng.

Chương trình nghị sự hôm Thứ Tư giữa hai quốc gia gồm có một buổi hòa nhạc, thiết đãi quốc yến, duyệt binh danh dự, lễ ký kết các văn kiện và tuyên bố với giới truyền thông, hãng thông tấn Interfax của Nga trích lời Yuri Ushakov, cố vấn chính sách đối ngoại của Putin.

Một tín hiệu cho thấy Nga, thành viên có quyền phủ quyết tại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, đang đánh giá lại cách thức giao hảo với Bắc Hàn, Putin ca tụng Bình Nhưỡng trước khi tới Bắc Hàn vì hành động chống lại áp lực kinh tế, tống tiền và đe dọa từ Hoa Kỳ.

Trong một bài viết trên tờ báo chính thức của đảng cầm quyền Bắc Hàn, Putin hứa hẹn “phát triển các chính sách thương mại và thỏa thuận chung trong đó Tây Phương không kiểm soát” và “gầy dựng thượng tầng an ninh bình đẳng và không thể chia cắt tại Âu Á.”

Bài viết của Putin ngụ ý rằng đó là thời cơ để Bắc Hàn nâng tầm vóc kinh tế dưới một khối kinh tế chống Tây Phương do Nga dẫn đầu, đây là thông điệp có thể hấp dẫn họ Kim, Rachel Minyoung Lee, phân tích gia của đề án 38 North tại Washington cho biết.

Putin cũng vừa ban hành sắc lệnh tổng thống trong đêm trước chuyến viếng thăm, nói rằng Moscow đang tìm cách ký kết “hiệp ước đối tác chiến lược toàn diện” với Bắc Hàn. Ushakov cho biết hiệp ước này sẽ bao hàm các vấn đề an ninh. (TTHN)


 

 Biểu tình chống phe cực hữu trước cuộc bầu cử bất thường tại Pháp

Ba’o Nguoi-Viet

June 15, 2024

PARIS, Pháp (NV) – Hôm Thứ Bảy, 15 Tháng Sáu, các nhóm chống kỳ thị chủng tộc đã hợp lực cùng các nghiệp đoàn và một liên minh cánh tả vừa ra đời để biểu tình phản đối tại thủ đô Paris và các thành thị khác của Pháp, thông tấn xã AP đưa tin.

Bộ Nội Vụ Pháp cho biết có khoảng 250,000 người đã xuống đường để phản đối trên toàn quốc, trong đó có 75,000 người tại Paris. Bất kể trời mưa gió, những người dân Pháp, hằng lo sợ cuộc bầu cử sắp tới sẽ dẫn tới một chính quyền cực hữu lần đầu tiên từ sau Thế Chiến Thứ Hai, đã tập họp tại Công Trường Cộng Hòa trước khi tuần hành về miền Đông nước Pháp. Chính quyền đã phải tung ra tới 21,000 nhân viên cảnh sát và hiến binh để giữ gìn an ninh trật tự.

Những người biểu tình giương cao các biểu ngữ viết: “Tự Do cho tất cả. Công Bằng cho mọi công dân và Tình Huynh Đệ cho mọi người,” dựa theo tinh thần của một câu châm ngôn Pháp. Rồi đến câu: “Hãy san bằng mọi biên giới và giấy tờ ràng buộc con người, dẹp bỏ đạo luật di dân.” Một số người còn reo hò “Giải Phóng Palestine,” “Palestine Bất Diệt” trong khi những người khác thì cho thấy họ đang đội khăn trùm Hồi Giáo.

Người dân Pháp biểu tình chống kỳ thị chủng tộc và bài phe cực hữu tại Paris, ngày 15 Tháng Sáu, 2024 (Hình: LAURE BOYER/Hans Lucas/AFP/Getty Images)

Trong số những người đi biểu tình có cô Nour Cekar, một nữ sinh 16 tuổi tại vùng thủ đô Pháp, đầu đội khăn trùm và là con của một cặp vợ chồng Pháp và Algeria.

“Tôi cho rằng những kẻ cực hữu là nguy hiểm bởi vì họ ủng hộ tư tưởng sợ hãi kẻ khác trong khi tất cả chúng ta đều là công dân Pháp, cho dù chúng ta có khác biệt nhau như thế nào đi nữa,” cô gái nói với AP.

Giữa tiếng nhạc đệm và giọng hát của ca sĩ Aya Nakamura, một người Pháp lai Mali, đám đông reo hò: “Ai ai cũng thù ghét kỳ thị chủng tộc cả.”

“Nước Pháp được tạo dựng bằng các công dân có cội nguồn khác biệt nhau. Đó là sức mạnh của chúng ta. Phe Tập Hợp Quốc Dân lại muốn phá vỡ truyền thống đó,” ông Mahamed Benammar, 68 tuổi, một bác sĩ y khoa người gốc Tunisia và hiện phục vụ tại một bệnh viện ở Paris, tuyên bố với AP. (TTHN)


 

 Biển Đông và Đệ Tam Thế Chiến

Ba’o Nguoi-Viet

June 14, 2024

Hiếu Chân/Người Việt

Từ ngày 15 Tháng Sáu, lực lượng Cảnh Sát Biển (Hải Cảnh) Trung Quốc sẽ bắt đầu khám tàu và bắt người trên các vùng biển theo một quy định mới có tên “Thủ tục thực thi luật hành chánh của các cơ quan tuần duyên” do chính phủ nước này ban hành hôm 15 Tháng Năm. Hành động mới của Trung Quốc chắc chắn làm leo thang xung đột trên Biển Đông, thậm chí khơi mào đụng độ quân sự trực tiếp với Hoa Kỳ và mở màn cuộc chiến tranh Đệ Tam Thế Chiến.

Tàu Cảnh Sát Biển Trung Quốc (phải) bắn vòi rồng vào một tàu được Hải Quân Philippines thuê để thực hiện nhiệm vụ tiếp tế thường lệ cho quân đội đóng tại bãi cạn Scarborough và Bãi Cỏ Mây hôm 5 Tháng Ba ở Biển Đông. (Hình: Ezra Acayan/Getty Images)

Quy định nói trên cho phép Hải Cảnh Trung Quốc chặn đường, lên tàu điều tra và bắt giữ mọi nhân sự và tàu bè của “những người nước ngoài xâm phạm hoặc có hành vi hỗ trợ xâm phạm lãnh hải hoặc vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, gây nguy hiểm cho an ninh và lợi ích quốc gia của Trung Quốc.” Trong những vụ đơn giản, người và tàu thuyền vi phạm sẽ bị giam giữ tới 30 ngày không cần xét xử; còn trong những vụ phức tạp, thời hạn giam giữ có thể kéo dài tới 60 ngày. Hải Cảnh Trung Quốc cũng được phép sử dụng vũ lực để khống chế những người chống đối việc bắt giữ.

Những người am hiểu luật pháp đều cho rằng đây là điều chưa từng có trong luật pháp và thông lệ quốc tế. Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) quy định mọi quốc gia đều có quyền tự do hàng hải và hàng không ở tất cả các vùng biển quốc tế, thậm chí được quyền “đi qua vô hại” trong lãnh hải rộng 12 hải lý của các quốc gia ven biển mà không cần phải khai báo. Bằng việc ban hành và thực thi một quy định chưa từng có như vậy, Trung Quốc mặc nhiên biến Biển Đông thành một cái “ao nhà” của họ, theo ngôn ngữ pháp lý là “vùng nội thủy,” ở đó họ tùy tiện áp dụng luật quốc nội bất chấp thực tế đây là vùng biển nhộn nhịp nhất của hàng hải thế giới.

Vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền thể hiện trong “đường lưỡi bò chín đoạn” do nước này vẽ ra, bao phủ 90% diện tích Biển Đông, lấn sâu vào thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei. Theo quy định mới của Trung Quốc, hoạt động của các nước ven Biển Đông kể trên – bao gồm thăm dò và khai thác dầu khí, đánh cá, tập trận,… – trong vùng EEZ của mình nhưng chồng lấn với khu vực đường chín đoạn mà Bắc Kinh vẽ ra đều bị coi là gây hại cho Trung Quốc, do đó có nguy cơ bị Hải Cảnh Trung Quốc ngăn cản và bắt giữ. Thành phần bị xâm hại trước tiên là ngư dân Việt Nam, Philippines mà nhiều đời nay đã mưu sinh trên các ngư trường giàu hải sản của khu vực.

Yêu sách chủ quyền quá đáng đó của Trung Quốc đã bị Tòa Án Trọng Tài Quốc Tế về Luật Biển của Liên Hiệp Quốc tại La Haye, Hòa Lan tuyên bố là “không có căn cứ theo luật pháp quốc tế” trong phán quyết ngày 14 Tháng Bảy, 2016, kết thúc vụ kiện mà Philippines khởi xướng năm 2013. Bắc Kinh chẳng những không chấp nhận phán quyết mà còn trở nên quyết đoán hơn.

Chính phủ Philippines đã phản đối kịch liệt quy định mới của Trung Quốc và tuyên bố sẽ không chấp nhận bất kỳ vụ bắt giữ công dân hoặc ngư dân nào trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Ngày 19 Tháng Năm, ông Ferdinand Marcos Jr., tổng thống Philippines, cảnh báo: “Những quy định kiểu như vậy là hoàn toàn không thể chấp nhận được. Chúng tôi sẽ thực hiện mọi biện pháp để luôn bảo vệ công dân của mình.” Bộ Ngoại Giao Việt Nam không trả lời một cách cụ thể Việt Nam có phản đối quy định mới của Trung Quốc hay không.

***

Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc đã có từ lâu, ít nhất là từ thập niên 1970 và càng ngày Bắc Kinh càng có những thủ đoạn thâm độc, lấn dần từng bước theo kiểu “tằm ăn dâu” để biến tham vọng đó thành hiện thực. Việc ban hành và thực thi quy định bắt giữ nói trên là bước mới nhất trong chuỗi hành động càn rỡ của Bắc Kinh, lợi dụng lúc Hoa Kỳ và thế giới đang bận tâm với cuộc chiến tranh ở Ukraine và Israel.

Va chạm giữa Trung Quốc với Philippines và Việt Nam gia tăng đáng kể trong thời gian gần đây. Truyền thông quốc tế đã có nhiều bài tường thuật các vụ Hải Cảnh Trung Quốc tấn công các tàu nhỏ hơn của Tuần Duyên Philippines bằng vòi rồng cực mạnh, bằng chùm tia laser cấp quân sự trong khu vực gần bãi cạn Scarborough và Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal), nơi có một tiền đồn của Philippines do một nhóm lính thủy trấn giữ trong chiếc tàu chiến gỉ sét mà Manila cố tình cho mắc cạn vào năm 1999 để làm cột mốc lãnh thổ.

Mới đây nhất, ngày 7 Tháng Sáu, Hải Quân Philippines cáo buộc Hải Cảnh Trung Quốc cản trở nỗ lực di tản một thành viên bị bệnh trên tàu BRP Sierra Madre trên Bãi Cỏ Mây, gọi hành động đó là “tàn bạo và vô nhân đạo.” Phía Trung Quốc nói họ sẽ cho phép Philippines vận chuyển hàng tiếp tế và di tản binh lính khỏi chiếc tàu chiến nếu Manila báo trước với Bắc Kinh. Đáp lại, ông Eduardo Ano, cố vấn an ninh quốc gia Philippines, tuyên bố Manila sẽ tiếp tục hoạt động tiếp tế và duy trì các tiền đồn trên Biển Đông mà không cần xin phép bất kỳ quốc gia nào.

Sau sự việc đó, tổng thống Philippines nói với quân đội rằng Philippines cần chuẩn bị cho mọi tình huống xấu có thể xảy ra do hành động leo thang xung đột của thế lực ngoại bang ở Biển Đông. “Sự đe dọa từ các thế lực ngoại bang đang ngày càng trở nên rõ ràng và đáng lo ngại. Đó là lý do tại sao chúng ta cần phải chuẩn bị,” ông Marcos phát biểu hôm 10 Tháng Sáu.

Cùng thời điểm này, Việt Nam lên tiếng phản đối việc Hải Quân Trung Quốc đưa tàu khảo sát Hải Dương 26 vào hoạt động trái phép trong vùng EEZ của Việt Nam, có lúc chỉ cách bán đảo Sơn Trà thuộc thành phố Đà Nẵng khoảng 40 hải lý về phía Đông Bắc. Đáng chú ý đây là con tàu khảo sát của quân đội Trung Quốc, không phải tàu dân sự và thường bí mật xâm nhập vùng EEZ của nhiều nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc. Các nguồn tin mới nhất cho biết, tàu Hải Dương 26 đã rời vùng biển Việt Nam sau khi ông Tô Lâm, tân chủ tịch nước, tiếp ông Hùng Ba, đại sứ Trung Quốc, và nêu vấn đề với ông này.

***

Phản ứng của Philippines đối với Trung Quốc về Biển Đông đã cứng rắn hơn rất nhiều, nhất là sau hội nghị thượng đỉnh giữa tổng thống Philippines với Tổng Thống Mỹ Joe Biden ở thủ đô Washington ngày 12 Tháng Tư. Tổng Thống Biden tái khẳng định sự hỗ trợ “sắt đá” của Mỹ theo Hiệp Ước Phòng Thủ Chung Mỹ-Philippines ký kết năm 1951 và được củng cố bằng nhiều thỏa thuận sau này. Điều V của hiệp ước quy định, nếu lực lượng Philippines bị tấn công quân sự trên Biển Đông thì quân đội Mỹ sẽ can thiệp và bảo vệ đồng minh.

Tuy vậy, Điều IV của hiệp ước cũng quy định, sự can thiệp của quân đội Mỹ chỉ được thực hiện sau khi vụ tấn công quân sự đã được báo cáo lên Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc và hành vi can thiệp sẽ chấm dứt sau khi Hội Đồng Bảo An có biện pháp cần thiết để vãn hồi và duy trì hòa bình, an ninh quốc tế. Cho đến nay, Manila chưa lần nào báo cáo lên Hội Đồng Bảo An những vụ gây hấn của Hải Cảnh Trung Quốc và hành động gây hấn bằng vòi rồng, dù gây hư hại tàu thuyền và làm vài thủy thủ Philippines bị thương, vẫn chưa được coi là xung đột quân sự đến mức Manila yêu cầu Mỹ can thiệp. Có thể thấy, cho tới nay mặc dù Trung Quốc ngày càng hung hăng nhưng chưa dám vượt “lằn ranh đỏ,” thực hiện một hành động quân sự ở Biển Đông.

Nhưng tại Diễn Đàn An Ninh Quốc Tế Shangri-La ở Singapore hồi cuối Tháng Năm, tổng thống Philippines tuyên bố “nếu có một công dân Philippines bị giết do một hành vi cố ý thì sự kiện đó đã gần với cái mà chúng tôi định nghĩa là hành động chiến tranh.” Điều đó có nghĩa là, xung đột với Trung Quốc trên Biển Đông, nếu gây chết người, thì nguy cơ chiến tranh sẽ rất gần. Một khi Manila kêu gọi sự hỗ trợ của Mỹ thì cuộc đối đầu giữa tàu Hải Cảnh Trung Quốc với chiến hạm của Hải Quân Mỹ có thể xảy ra.

Thật dễ tưởng tượng một diễn biến đáng sợ: một tàu Tuần Duyên Philippines làm nhiệm vụ tiếp tế cho tiền đồn ở Bãi Cỏ Mây thì bị Hải Cảnh Trung Quốc ngăn chặn và bắt giữ, phía Philippines chống đối và súng nổ, người chết. Máu kêu máu, thêm nhiều người chết, lằn ranh đỏ bị vượt qua. Phía Trung Quốc huy động Hải Quân và dân binh tiếp viện còn Tuần Duyên Philippines kêu gọi hỗ trợ của Hải Quân và Tuần Duyên Hoa Kỳ hiện diện gần đó. Một đụng độ nhỏ nhanh chóng biến thành một vụ xung đột nghiêm trọng.

Nếu xảy ra một biến cố như vậy, chính quyền Biden chắc chắn sẽ hành động nếu không muốn lòng tin của các đồng minh bị giảm sút. Hơn nữa, tâm lý chống Trung Quốc đang mạnh ở Washington, cả hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa đều không muốn tỏ ra mềm yếu trước Bắc Kinh.

***

Trong lịch sử, nhiều cuộc chiến tàn khốc bắt đầu từ những biến cố rất nhỏ, một tính toán sai hoặc một sự hiểu lầm, dẫn tới hàng chục triệu sinh mạng bị giết, nhiều thành phố bị san bằng. Trong một bài đăng trên Asia Times ngày 4 Tháng Sáu, Giáo Sư Bob Savic, khoa chính trị và quan hệ quốc tế đại học University of Nottingham, Anh, nhắc lại cuộc chiến tranh Đệ Nhất Thế Chiến nổ ra ngày 28 Tháng Sáu, 1914, chỉ từ vụ ám sát Hoàng Thân Franz Ferdinand của hoàng gia Áo tại Sarajevo xứ Serbia, để rồi cả Châu Âu bị lôi vào cơn binh lửa tàn khốc với hơn 20 triệu người thiệt mạng.

Lần này, cái chết của một thủy thủ Philippines ở Biển Đông có thể là biến cố tương tự, dẫn tới chiến tranh Đệ Tam Thế Chiến. “Trung Quốc và Hoa Kỳ phải bảo đảm họ sẽ không mộng du vào việc lặp lại thảm kịch 1914 vào nửa cuối Tháng Sáu, 2024, hoặc bất kỳ thời điểm nào trong tương lai,” ông Savic viết. [qd]


 

 Ảnh hưởng của tân Tổng thống Mỹ đối với tương lai an ninh châu Âu

Ba’o Tieng Dan

Đỗ Kim Thêm

14-6-2024

Vấn đề

Việc tòa án New York sẽ công bố mức án của phạm nhân Donald Trump vào ngày 11 tháng 7 năm 2024 và kết quả của cuộc bầu cử tổng thống vào ngày 5 tháng 11 năm 2024 là hai diễn biến nội chính trọng đại của nước Mỹ, nhưng cũng sẽ là thách thức mới dành cho các nước khắp thế giới. Nhiều nước đang quan tâm, theo dõi và chuẩn bị tìm cách đối phó, trong đó có cả châu Âu.

Cho dù Trump sẽ nhận mức án như thế nào đi nữa và ai sẽ đắc cử tổng thống Mỹ, Biden hay Trump, đối với châu Âu, vấn đề ngoại giao và an ninh trong tương lai là chuyện sống còn, mà cụ thể là chiến tranh Ukraine, đến nay vẫn chưa kết thúc.

Quan tâm trước mắt của chính giới châu Âu là phải biết kết hợp hai chính sách cũ và mới sao cho phù hợp, để phục vụ cho lợi ích lâu dài. Châu Âu sẽ tiếp nối truyền thống hay phải thích nghi với tình hình mới là vấn đề sẽ được thảo luận ở đây.

Trump 2.0

Ngay trong nhiệm kỳ đầu Tổng thống, Trump tuyên bố rằng sẽ thay đổi vai trò căn bản của Hoa Kỳ ở châu Âu. Trump tỏ ra coi thường các đồng minh lâu đời và không dành thiện cảm đối với khối NATO và Ukraine.

Ngược lại, châu Âu luôn xem trọng vai trò lãnh đạo của Mỹ trong việc thi hành chính sách an ninh và muốn là Mỹ sẽ duy trì vai trò trụ cột. Tình thế đổi thay trước một tương lai đầy bất trắc, châu Âu bắt đầu có nhiều lo ngại.

Trong cuộc bầu cử ở Mỹ lần này, châu Âu tỏ ra bi quan không kém khi nhận ra rằng, nếu tái đắc cử, Trump sẽ không thay đổi chính sách đối ngoại trước kia của ông ta. Do đó, để tìm cách ứng phó trước các bất lợi khôn lường sắp đến, châu Âu tự phải chuẩn bị cho mình một chiến lược chu đáo hơn.

Nhưng nhìn chung, nếu so với nhiệm kỳ đầu, Trump có hai thay đổi quan trọng.

Đầu tiên, về mặt nhân sự, đội ngũ cố vấn đối ngoại của Trump lần này sẽ rất khác biệt. Những tướng lĩnh và các nhà ngoại giao Mỹ có nhiều kinh nghiệm lão luyện trong mối quan hệ đối tác chiến lược xuyên Đại Tây Dương và xây dựng lợi ích của Mỹ, vì nhiều lý do khác nhau, sẽ không quay trở lại tham chính. Thay thế cho giới này là một thế hệ mới gồm các nhà hoạt động thuộc cánh hữu của đảng Cộng hòa và các tổ chức tư vấn. Hai nhóm này đều đang được đảng ủng hộ và sẽ tranh nhau vai trò lãnh đạo trong tương lai.

Nhóm đầu tiên là những thành phần tỏ ra kiềm chế, họ muốn đặt các ưu tiên về chính trị và ngân sách để giải quyết vấn đề nhập cư ở biên giới phía nam và sẽ yêu cầu cắt giảm mọi sự hợp tác về an ninh quốc tế. Ý kiến này được các tổ chức cựu chiến binh và các thành phần quân sự ủng hộ, mà cả hai vốn dĩ luôn hòai nghi về sự can dự của quân đội Mỹ ở châu Âu và Trung Đông.

Nhóm thứ hai là những thành phần muốn đặt các ưu tiên trong chính sách đối ngoại, nhưng đặc biệt là Mỹ phải tập trung ảnh hưởng ngoại giao nhiều hơn vào châu Á và Trung Quốc, trước mắt là tìm cách ngăn chặn việc Trung Quốc xâm lăng Đài Loan mà họ suy đoán là có thể xảy ra vào năm 2027.

Cho dù có những ưu tiên khác nhau, điểm ngạc nhiên là cả hai nhóm này cùng có một quan điểm chung: An ninh của châu Âu không còn là mối quan tâm hàng đầu của Mỹ vì các nước châu Âu phải chịu trách nhiệm của mình. Mỹ phải cắt bỏ các nguồn quân viện và triệt thóai các binh sĩ ra khỏi châu Âu, nếu không thi hành triệt để như vậy, thì châu Âu sẽ không bao giờ tự lực phát triển chính sách quốc phòng và an ninh.

Thứ hai, bối cảnh an ninh quốc tế và châu Âu đã thay đổi đáng kể ngay sau khi Nga tấn công Ukraine và phải xem đây là một cuộc chiến có tiềm tàng bùng nổ trên quy mô lục địa.

Tình hình chiến cuộc leo thang giữa Israel và Palestine ở Gaza, một lần nữa đã lôi kéo Mỹ vào cuộc xung đột ở Trung Đông. Nhìn chung, thế giới đang bùng cháy khắp mọi nơi, nhưng Mỹ phải đặt ra những ưu tiên để giải quyết. Dù chọn ưu tiên nào, Mỹ cũng phải tính đến chi phí cho châu Âu, nhiều hay ít.

Giới thân cận của Donald Trump đã lần lượt đưa ra một số lựa chọn cho nhiệm kỳ thứ hai: Mỹ sẽ rút khỏi khối NATO và hòa đàm trực tiếp với Nga. Nhưng cụ thể, Trump sẽ làm gì sau khi tái đắc cử, không ai biết rõ. Tuy nhiên, các kịch bản sau đây có thể đang được chuẩn bị.

Ukraine

Rõ ràng là Trump tin rằng, Mỹ không nên trở thành cảnh sát đạo đức của thế giới và không còn muốn cung cấp viện trợ cho Ukraine nữa. Trump muốn chấm dứt chiến tranh Ukraine, nhưng lại không quan tâm đến sự toàn vẹn lãnh thổ. Trump cáo buộc Biden đã lôi Mỹ vào cuộc chiến toàn cầu vì lý do tài chính. Lý do của Donald Trump là kho vũ khí của Mỹ nay đã cạn kiệt, vì chính quyền Biden dành quá nhiều ưu tiên cho chiến trường Ukraine. Tranh luận về một giải pháp quốc tế cho Ukraine đã trở thành đề tài gây phân hóa trong chính trị quốc nội.

Để giải quyết, Trump hứa sẽ xúc tiến ngay việc hòa đàm để nhanh chóng kết thúc cuộc chiến. Thực tế, có nghĩa là Donald Trump đàm phán trực tiếp với Vladimir Putin để đạt thỏa thuận. Và thuận lợi chính cho Trump hiện nay là đã có tình bạn thân thiết với Putin.

Khối NATO

Donald Trump cho rằng Mỹ có quá nhiều cam kết để bảo vệ an ninh ở nước ngoài và đang bị các đồng minh lợi dụng triệt để. Đối với những người ủng hộ Trump, việc Mỹ rút quân khỏi châu Âu là hợp lý và là cơ hội duy nhất để thực hiện kế hoạch này. Việc yêu cầu các đồng minh trong khối NATO phải tuân thủ cam kết đóng đủ 2% chi tiêu quân sự chỉ là một khía cạnh của vấn đề.

Hơn nữa, để giảm thiểu vai trò của Mỹ, Mỹ nên buộc châu Âu phải nhận trách nhiệm điều hành khối NATO, có nghĩa là, Mỹ không mở rộng bất kỳ lĩnh vực nào mới và nhanh chóng giảm bớt sự hiện diện ở châu Âu.

Ngoài ra, Trump còn cáo buộc là Joe Biden làm suy yếu quyền tự chủ chiến lược của châu Âu bằng cách tăng cường đồn trú 20.000 lính Mỹ ở châu Âu hồi năm 2022 và tăng cường hỗ trợ phòng không của Mỹ.

Tóm lại, châu Âu phải tự tạo ra một cấu trúc an ninh mới, không lấy Mỹ làm trung tâm, quân đội Mỹ rút và sửa đổi các quy tắc của NATO. Từ nay, châu Âu lãnh đạo NATO và Mỹ chỉ đóng vai trò hỗ trợ.

Rút quân khỏi Trung Đông

Cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa đều tin rằng, kỷ nguyên can thiệp và xây dựng một quốc gia dân chủ theo kiểu Mỹ dành cho Trung Đông đã kết thúc và khu vực này không còn đóng vai trò ưu tiên.

Tuy nhiên, sau vụ tấn công của Hamas vào Israel ngày 7 tháng 10 năm 2023, Tổng thống Joe Biden đã bị lôi kéo trở lại khu vực. Đảng Cộng hòa đồng ý hỗ trợ quân sự và chính trị cho Israel. Đồng thời, cả hai giới chủ trương kiềm chế và ưu tiên của Đảng Cộng hòa đều muốn tránh sự can dự trực tiếp của quân đội Mỹ vào khu vực. Cả hai đều muốn rút 3.500 lính Mỹ khỏi Iraq và Syria, những người có nguy cơ bị Iran và các lực lượng ủy nhiệm của nước này tấn công.

Ngoài ra, Mỹ còn có các lo ngại khác: Iran ngày càng tác động mạnh hơn để tạo nên các cuộc khủng hoảng mới nghiêm trọng ở Trung Đông. Kể từ sau vụ sát hại ba lính Mỹ ở tiền đồn Jordan, người Mỹ muốn Mỹ rút quân. Nếu để quân Mỹ ở lại Iraq và Syria mà không có sứ mệnh quân sự nào rõ ràng, thì việc đồn trú này không giúp Mỹ an toàn hơn; trái lại, có nhiều nguy cơ tổn thất về nhân mạng và leo thang thành một cuộc chiến tranh quy mô.

Các phong trào cánh hữu liên kết

Xu hướng chung của các chính phủ châu Âu tự do là muốn kết hợp việc đề cao vấn đề bản sắc vào trong chính sách đối ngoại, thí dụ như Đức đã có các hướng dẫn việc đề cao vai trò nữ quyền trong chính sách đối ngoại và Liên Âu, sẵn sàng áp dụng các chính sách giáo dục và nhập cư một cách tự do hơn.

Ngược lại, đảng Cộng hòa luôn phản đối việc đề cao chuyên đề bản sắc trong các chương trình nghị sự. Các cuộc thăm dò cho thấy, vấn đề bản sắc và tính đúng đắn trong lập trường chính trị là đầu mối của sự phân hóa lưỡng đảng. Đảng Cộng hòa liên tục cáo buộc đảng Dân chủ bị ám ảnh nặng nề bởi chủ trương thiên về bản sắc và không công khai bảo vệ lợi ích của Mỹ trên toàn thế giới.

Trong thời gian tại chức, ngoài Vladimir Putin, Donald Trump còn dành nhiều thiện cảm cho Thủ tướng Hungary Viktor Orbán, là người nổi tiếng chống lại trào lưu nhập cư ào ạt. Mối thiện cảm này hiện đã lan rộng đến nhiều đảng viên Cộng hòa khác. Điều này có thể dẫn đến suy luận là tổng thống tương lai và ngay cả trong đảng Cộng hòa sẽ ngày càng thân thiết với Hungary và xem Thủ tướng Hungary tâm đầu ý hiệp về mặt tư tưởng hơn là với Pháp và Đức, hai quốc gia dân chủ có cùng truyền thống hợp tác với Mỹ.

Biden 2.0 sẽ không khác Trump 2.0 về chính sách công nghiệp

Lập luận chung cho rằng, nếu Joe Biden tái đắc cử, tình hình chung của Mỹ sẽ ít bất ổn và mối quan hệ quốc tế sẽ liên tục hơn nếu so với sự kiện Trump trở lại Nhà Trắng. Thật ra, dù ai cầm quyền đi nữa, Mỹ cũng phải đối mặt với một số biến động khác, nhất là trong việc thực thi các chính sách thương mại, công nghiệp chiến lược và cạnh tranh với Trung Quốc. Điểm ngạc nhiên là, về mặt hoạch định chính sách, viễn tượng Biden 2.0 sẽ không khác nhiều khi so với Trump 2.0.

Qua thời gian, về mặt kinh tế, đảng Cộng hòa và Dân chủ cùng có một tầm nhìn giống nhau, có nghĩa là, ít triệt để hơn để theo đuổi chủ thuyết tân tự do trong việc giải quyết nền kinh tế quốc nội hay quốc tế.

Do sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa Mỹ và Trung Quốc cũng như tầm quan trọng của cử tri thuộc tầng lớp lao động ở các tiểu bang dao động, hai đảng cùng nhận ra rằng, vấn đề bảo hộ mậu dịch sẽ là giải pháp chính để tạo ra công ăn việc làm trong nước và thu hút các giới cử tri. Về mặt chiến lược phát triển, cả hai cùng xem một số ngành công nghệ nhất định là quan trọng như nhau và cân nhắc cẩn trọng có nên chuyển ra nước ngoài không.

Đối với vấn đề thâm hụt thương mại của Mỹ, dường như Trump bị ám ảnh nặng nề hơn. Trump cho rằng các thỏa thuận trong chính sách thương mại trước đây đã đưa Mỹ vào bẫy mà không mang lại công bằng, trong khi đó các đồng minh châu Âu giành được lợi thế kinh tế trước Mỹ lại còn được Mỹ bảo đảm an ninh.

Trong nhiệm kỳ đầu, Trump dùng mọi biện pháp thương chiến với Trung Quốc để làm giảm tình trạng thâm hụt thương mại. Trong chiến dịch tranh cử hiện tại, ông ta có hứa là sẽ tăng thuế đối với tất cả các mặt hàng nhập khẩu của Mỹ từ Trung Quốc lên 10%, Trump dự định 40 điểm phần trăm đến 60 phần trăm.

Cho đến nay, Biden đã duy trì hầu hết các biện pháp của Trump trong việc làm tái cân bằng và xây dựng năng lực sản xuất của Mỹ. Thí dụ như thuế quan đối với nhôm và thép nhập khẩu từ châu Âu đã được Biden thay thế bằng hạn ngạch và hạn chế xuất khẩu tự nguyện. Hoa Kỳ vẫn chưa có ý định tham gia lại Hiệp định kế thừa Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), vốn đã bị Trump hủy bỏ, và cũng không quan tâm đến việc tạo ra một Hiệp định thương mại tự do với Liên Âu.

Thay vào đó, Biden theo đuổi một chính sách công nghiệp chiến lược mà mục tiêu là trợ cấp cho các ngành công nghiệp nội địa nào mà Mỹ muốn duy trì vị trí dẫn đầu. Một số chính sách quan trọng đã được Biden thực hiện trong nhiệm kỳ đầu gồm: Đạo luật đầu tư cơ sở hạ tầng và việc làm; và Đạo luật khoa học và giảm lạm phát. (Infrastructure Investment and Jobs Act, der CHIPS and Science Act und der Inflation Reduction Act).

Trong nhiệm kỳ thứ hai, Biden cũng sẽ không thể làm khác hơn là tiếp tục giảm sự phụ thuộc kinh tế của Mỹ từ Trung Quốc.

Liên Âu thay đổi nhận thức

Về cơ bản, việc Nga xâm chiếm Ukraine đã làm thay đổi mức độ đe dọa an ninh đối với châu Âu và ảnh hưởng đến tương lai về chính sách an ninh và quốc phòng cho toàn lục địa.

Trước ngày 24 tháng 2 năm 2022, các cuộc tranh luận của Liên Âu về an ninh và quốc phòng thường xoay quanh các chủ đề nhắm vào việc phát triển khả năng xử lý khủng hoảng trong khu vực lân cận. Khi nhìn lại cuộc chiến ở Nam Tư cũ, ngay về mặt địa lý cũng phải nhận ra rằng, Nam Tư nằm ngay trước cửa Liên Âu, nhưng vào thời điểm đó, không ai cho rằng sự bất ổn tại Nam Tư sẽ tác động to lớn đến nền an ninh chung như chiến cuộc Ukraine ngày nay.

Do kinh nghiệm trong quá khứ, châu Âu có thói quen tập trung vào khía cạnh xử lý khủng hoảng hơn là chuẩn bị cho việc phòng thủ chung bằng các biện pháp quân sự. Cho đến nay, Liên Âu luôn xem khu vực Balkan, Trung Đông, Bắc Phi và vùng Sahara là các mối đe dọa gián tiếp và có thể được giải quyết bằng các cách xử lý thích hợp.

Khi Nga xâm lược Ukraine năm 2022, Liên Âu thay đổi triệt để nhận thức về mọi mặt: Hình ảnh tội ác chiến tranh của Nga xảy ra hằng ngày, làn sóng người Ukraine tị nạn ngày càng tăng, Nga đe dọa leo thang chiến cuộc bằng cách dùng vũ khí hạt nhân và hóa học. Do đó, Liên Âu nhận ra rằng Nga đang đe dọa trực tiếp đến vận mệnh lục địa. Nhưng phải làm để gì ứng phó trước tình thế là vấn đề.

Một mặt, Liên Âu tỏ ra đoàn kết hơn và đồng ý phải tăng cường chi tiêu quốc phòng. Mặt khác, tình hình đảo ngược làm cho việc Mỹ dự định rút khỏi châu Âu phải trì hoãn. Mỹ phải định hình lại khả năng phòng thủ của châu Âu và tìm kiếm sự hỗ trợ của châu Âu. Mỹ muốn dùng các thói quen cũ thời Chiến tranh Lạnh, nhưng lại muốn tìm sự hỗ trợ cho những nỗ lực của mình trong hoàn cảnh mới. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên. Châu Âu hiện nay không đủ khả năng phòng thủ để chống lại Nga ngoài khuôn khổ NATO, đặc biệt là liên quan đến việc răn đe bằng vũ khí hạt nhân.

Việc Nga tấn công Ukraine khiến cả Thụy Điển và Phần Lan thay đổi vị thế trung lập cố hữu và trở thành thành viên mới của khối NATO. Các nước Trung, Đông Âu và vùng Baltic luôn ngờ vực về ý chí và khả năng của Liên Âu trong việc răn đe Nga hay tự vệ. Tất cà các nước hầu như chỉ đặt niềm tin vào khả năng quân sự của Mỹ. Tuy nhiên, điều khoản hỗ trợ của Liên Âu (Điều 42 (7) của Hiệp ước về Liên minh Châu Âu) tạo ra một cam kết chính trị không được xem là hỗ trợ bởi khả năng quân sự.

Nếu Liên Âu không thể tự bảo vệ mình trước sự xâm lược của Nga, thì không thể nói đến khả năng xử lý các cuộc khủng hoảng ở khu vực lân cận. Sau thất bại ở Balkan vào thập niên 1990, các quốc gia thành viên Liên Âu cam kết tại Helsinki năm 1999 là có thể triển khai lực lượng từ 50.000 đến 60.000 binh sĩ trong vòng 60 ngày và sẽ được duy trì ít nhất một năm. Sau khi Nga tấn công Ukraine, trong chiến lược của Liên Âu từ tháng 3 năm 2022 con số này được đưa ra là 5.000 binh sĩ.

Sự phân hóa đang đe dọa

Trong nhiệm kỳ thứ hai, Trump có thể mang lại những rủi ro cho Ukraine và khối NATO, cụ thể là rời bỏ khối NATO, cho phép Nga tấn công các thành viên NATO không hoàn thành nghĩa vụ đóng góp 2% và chấm dứt chiến tranh ở Ukraine trong vòng 24 giờ, tất cả các tuyên bố này đã gây hoang mang tột độ cho Liên Âu.

Nhưng hoang mang vẫn không đủ để giải quyết vấn đề, mà phải chuẩn bị ứng phó như thế nào. Cho đến nay, Liên Âu vẫn chưa ứng phó toàn diện trong kịch bản Trump 2.0. Cho dù đã có những sáng kiến ​riêng của từng quốc gia, nhưng thật ra vẫn chưa đủ.

Thí dụ như Đức, là nước trợ viện trợ quân sự lớn thứ hai cho Ukraine sau Mỹ, Đức đã có nhiều đóng góp quan trọng. Đan Mạch đã cung cấp hỏa lực pháo binh cho Ukraine và Ba Lan hứa sẽ tăng chi tiêu quân sự lên đến 4% tổng sản phẩm quốc nội.

Tuy nhiên, những nỗ lực này không thể bù đắp được việc Mỹ ngừng hỗ trợ cho Ukraine. Trump có thể sẽ đề ra các sáng kiến khác về chính trị để tìm một giải pháp, nhưng không chắc sẽ tạo điều kiện cho tất cà các nước khác cùng tham gia giải quyết.

Nếu Liên Âu không đoàn kết chính trị, thì nhiều nguy cơ khác có thể xảy ra, có thể Trump sẽ gây chia rẽ Liên Âu để tạo thành một tình thế hỗn loạn, kết quả là Ukraine suy yếu, Liên Âu và khối NATO bị phân hóa. Đây là dự kiến mà Putin cũng sẽ cùng theo đuổi với Trump.

Trump sẽ gây áp lực buộc Ukraine phải chấp nhận một hòa ước trong điều kiện tương nhượng một phần lãnh thổ cho Nga, việc này sẽ gây ra tranh cãi trong Liên Âu và khối NATO. Theo các suy đoán hiện nay, Hungary và Thổ Nhĩ Kỳ có thể sẽ ủng hộ; ngược lại, Anh, Pháp và các nước khác phía Đông sẽ phản đối giải pháp này.

Trong chiều hướng này, Đức sẽ đóng một vai trò quan trọng. Gần đây, Thủ tướng Đức Olaf Scholz và Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky đã ký một thỏa thuận song phương, hợp tác về an ninh vào tháng 2 năm 2024, trong đó Đức cam kết khôi phục chủ quyền lãnh thổ của Ukraine trong phạm vi biên giới Ukraine năm 1991, nhưng về mặt nội dung, đây là một lời tuyên bố về ý định hơn là có giá trị ràng buộc về mặt luật quốc tế.

Tất nhiên, với tính khí bất thường cố hữu, Trump sẽ còn làm nhiều chuyện ngoạn mục hơn, có thể là đi ra ngoài khuôn khổ giải quyết vấn đề Ukraine, mở rộng sang việc can thiệp trong các vấn đề khác như khí hậu, thương mại, Trung Quốc và xung đột Israel – Palestine.

Kết luận

Châu Âu đang hy vọng các kịch bản trên sẽ không xảy ra hoặc một kịch bản xấu nhất trong đó sẽ không xảy ra, nhưng cuối cùng đồng thuận được một kế hoạch an ninh chung là vấn đề then chốt. Đó là vấn đề cải thiện khả năng quân sự để bù đắp cho việc Mỹ rút quân và tạo khả năng hành động độc lập cho phù hợp. Thoả thuận chung tại Brussels hoặc thông qua các hiệp định song phương để đạt được các mục tiêu này là thách thức mới khởi đầu.

Cuộc chiến tranh của châu Âu với Nga, nếu xảy ra, năng lực phòng thủ quân sự là chuyện sinh tử. Châu Âu không chỉ lo bảo vệ Ukraine, lục địa mà còn phải tìm cách ngăn chận các phương sách mà Trump sẽ gây chia rẽ châu Âu trong các lĩnh vực chính sách khác. 


 

Tại sao nhiều gia đình trung lưu Trung Quốc tìm cách vượt biên sang Mỹ?

Tại sao nhiều gia đình trung lưu Trung Quốc tìm cách vượt biên sang Mỹ?

09:32 | Posted by BVN4

Marrian Zhou, “Why so many middle-class Chinese migrants take risky, illegal route to U.S.,” Nikkei Asia, 02/05/2024

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Tình trạng bất ổn kinh tế, nợ nần và tuyệt vọng đã buộc các giađình phải vượt rừng đến biên giới Mexico.

Nửa đêm trên bãi biển Capurgana ở Colombia xa xôi, trời tối đến nỗi Wang Zhongwei chẳng thể nhìn thấy bàn tay của chính mình đang để trước mặt. Khoảng 20 người bắt đầu xuống một chiếc xuồng gỗ lớn trong lúc sóng vỗ vào bờ cát. Chuyến đi này sẽ đưa cả nhóm đến Darien Gap khét tiếng nằm giữa Colombia và Panama, nơi những người di cư sẽ đi bộ nhiều ngày liền trong rừng rậm hướng tới biên giới nước Mỹ.

Đó là một đêm mưa vào tháng 5/2023, Wang, 32 tuổi, buộc chặt đứa con trai 14 tháng tuổi vào ngực, trong khi vợ anh ngồi phía sau. Cô con gái 7 tuổi của họ ngồi với ông bà. Sóng liên tục đẩy thuyền của họ lên cao vài mét trong suốt cuộc hành trình kéo dài hai giờ. Vợ chồng Wang phải chật vật dùng áo mưa để giữ cho mặt cậu con trai sơ sinh được khô ráo trong khi cố gắng bám chặt vào thành thuyền. Tất cả hành khách đều ướt sũng từ đầu đến chân.

Wang nói với Nikkei Asia bằng tiếng Quan Thoại: “Chuyến đi kéo dài hai giờ và con trai tôi đã khóc suốt hai giờ đó. Tôi chỉ lo thằng bé sẽ không còn thở khi nó kiệt sức đến mức không thể khóc được. Cho đến tận hôm nay, tôi vẫn nhớ tiếng khóc của con”.

Cuối cùng, khi Wang và gia đình đến được biên giới Mỹ-Mexico vài tuần sau đó, họ đã bị các thành viên băng đảng Mexico chĩa súng vào người và đòi mỗi người phải trả khoảng 800 USD thì mới được cho qua. Những người di cư phải cởi bỏ quần lót để cho bọn côn đồ thấy rằng họ đã giao nộp tất cả tài sản có giá trị trước khi các thành viên băng đảng dẫn họ đến cửa khẩu biên giới.

Bất chấp cuộc hành trình đầy nguy hiểm đó, Wang nói: “Tôi không hối hận khi đi bộ đến đây. Chẳng còn hy vọng nào cho gia đình tôi ở Trung Quốc.

Số người di cư Trung Quốc vượt qua biên giới Mỹ-Mexico đã tăng vọt vào năm 2023. Dù rất khó để xác định con số chính xác, nhưng theo Cơ quan Hải quan và Bảo vệ Biên giới Mỹ (CBP), hơn 37.000 công dân Trung Quốc đã bị giam giữ ở biên giới với Mexico vào năm ngoái. Con số này lớn gấp 10 lần so với những năm trước đại dịch.

Trong số những người đến đây, các gia đình có trẻ em là nhóm tăng đặc biệt nhanh. Dữ liệu của CBP cho thấy các đặc vụ tuần tra biên giới của Mỹ đã bắt gặp các gia đình di cư Trung Quốc 6.645 lần trong năm tài chính 2023 (từ tháng 10/2022 đến tháng 9/2023) và 7.081 lần kể từ tháng 10/2023 cho đến nay. Trong năm tài chính 2022, con số này là 1.151 lần.

Hồi tháng 4, Kurt Campbell, Thứ trưởng Ngoại giao, phát biểu tại một cuộc họp của Ủy ban Quốc gia về quan hệ Mỹ-Trung: “Nhiều người di cư Trung Quốc đã phải chi một số tiền khổng lồ để [đến Mỹ]… Việc này chưa nhận được đủ sự quan tâm, nhưng nó là một điều đáng chú ý… Tôi nghĩ rằng chính phủ Trung Quốc đã biết về điều đó, có thể hơi lo ngại về nó, nhưng tôi không nghĩ họ đã thực hiện các bước cần thiết vào thời điểm này để hạn chế nó”.

Tuy nhiên, Campbell cho biết lượng lớn người di cư này đang “gây lo ngại” ở Mỹ. Thật vậy, với cuộc bầu cử sắp diễn ra vào tháng 11, an ninh biên giới và quan hệ Mỹ-Trung đang trở thành hai trong số những vấn đề nóng nhất giữa Tổng thống Joe Biden và đối thủ Donald Trump.

Theo hãng tin Associated Press (AP), vào năm 2022, Trung Quốc đã tạm dừng hợp tác với Mỹ về vấn đề di cư bất hợp pháp giữa lúc căng thẳng gia tăng, nhưng sau đó đã lặng lẽ nối lại các chuyến bay hồi hương cho những người di cư bất hợp pháp vào mùa xuân này. Vấn đề này có lẽ đã khiến Bắc Kinh xấu hổ và vẫn là nguồn gốc gây căng thẳng giữa hai nước: “Trung Quốc kiên quyết phản đối việc Mỹ lấy vấn đề nhập cư bất hợp pháp làm cái cớ để bôi nhọ Trung Quốc”, người phát ngôn của Đại sứ quán Trung Quốc tại Washington cho biết vào ngày 14/05.

Những người nhập cư bất hợp pháp từ Trung Quốc đang cố gắng giữ ấm khi họ bị Lực lượng Tuần tra Biên giới Mỹ tạm giữ ở Nam California vào ngày 05/02, sau khi vượt biên từ Mexico. (Ảnh của Masahiro Okoshi)

Các chuyên gia cho rằng lượng công dân Trung Quốc đến Mỹ bất hợp pháp gia tăng đột biến gần đây đã vẽ nên một bức tranh u ám về tình hình của họ ở quê nhà. Dữ liệu do Liên Hiệp Quốc tổng hợp cho thấy trong năm 2022 và 2023, tổng số lượng di cư hàng năm đã tăng lên hơn 300.000, tính theo dòng di cư ròng, so với mức trung bình khoảng 190.000/năm trong vòng 10 năm tính đến năm 2019. Tỷ lệ di cư đã sụt giảm vào năm 2020, khi đại dịch COVID xảy ra.

Victor Shih, chuyên gia về chính sách kinh tế Trung Quốc tại Đại học California, San Diego, nhận xét “Thật bất thường khi một quốc gia có thu nhập trung bình có tốc độ tăng trưởng kinh tế tích cực, như trường hợp của Trung Quốc, lại có dòng người di cư bất hợp pháp lớn. Bởi di cư theo con đường bất hợp pháp là quá rủi ro”.

Shih nói thêm: “Vì vậy, tôi nghĩ, đối với họ, điều đó cho thấy sự tuyệt vọng lớn đến mức nào. Thật khó để giải thích từ góc độ kinh tế thuần túy – tôi nghĩ phần lớn nguyên nhân liên quan đến chính sách công ở Trung Quốc. Nước này vẫn có mạng lưới an sinh xã hội nhưng ở mức cực kỳ tối thiểu. … Nếu bạn rơi vào thảm họa sức khỏe hoặc thảm họa việc làm, thực sự có rất ít nguồn lực của chính phủ để giúp bạn”.

Hầu hết người di cư Trung Quốc trước đây đều chọn những con đường dễ dàng hơn –  xin thị thực du lịch hoặc đăng ký vào các trường đại học Mỹ. Nhưng đối với một nhóm nhỏ tầng lớp trung lưu Trung Quốc, vốn đang ngày càng lớn dần, những lựa chọn này không có sẵn. Du học là chuyện rất tốn kém, và ngày càng khó để xin thị thực vì quan hệ Mỹ-Trung liên tục xấu đi. Nhưng nhiều người sẵn sàng bất chấp nguy cơ bị cướp, đi thuyền mạo hiểm, cảnh sát tham nhũng, lở đất và nguy cơ tử vong trong rừng để có cơ hội sống ở Mỹ. Mỗi gia đình nhập cư đều có một câu chuyện đau lòng của riêng mình.

Bỏ phiếu bằng chân. Dòng di cư ra khỏi Trung Quốc tăng nhanh sau đại dịch (Di cư ròng, tính theo số người). Nguồn: Phòng Triển vọng Dân số Thế giới của Liên Hiệp Quốc

“Cả thế giới của tôi  một cái lồng”

Nhiều gia đình Trung Quốc trên đường đến Nam Mỹ cũng giống như gia đình Wang; họ đã từng sống cuộc sống thoải mái ở Trung Quốc. Nhưng sau ba năm Trung Quốc triển khai chính sách zero-COVID và thị trường bất động sản sụp đổ, các chủ doanh nghiệp và nhân viên công ty đang phải vật lộn để tồn tại.

Gia đình Wang đành chọn dấn thân vào cuộc hành trình nguy hiểm xuyên Mexico khi mất hết hy vọng về tương lai ở Trung Quốc, đặc biệt là cho con cái của họ.

Trở lại Trung Quốc, “Anh chứng kiến những bi kịch xảy ra xung quanh mình mà tin tức thậm chí không đề cập đến”, Wang nói với Nikkei. “Cứ nhìn vào cuộc khủng hoảng bất động sản. Một cuộc khủng hoảng ngân hàng sẽ sớm xảy ra, liệu ngành nào còn có thể tồn tại trong môi trường này?”. Wang đang đề cập đến bong bóng bất động sản của Trung Quốc, vốn đã đốt sạch khoản tiền tiết kiệm của nhiều gia đình trung lưu kể từ năm 2021.

Sự bi quan là đặc biệt lớn trong nhóm các chủ doanh nghiệp nhỏ. Wang từng sở hữu một nhà máy may mặc ở thành phố công nghiệp Ôn Châu phía nam, chuyên xuất khẩu áo cánh của phụ nữ sang châu Âu, chủ yếu là Pháp và Ý. Trước đại dịch, anh có khoảng 30 đến 40 công nhân và kiếm được khoảng 30.000 đến 60.000 USD lợi nhuận mỗi năm. Vợ chồng anh từng sống thoải mái, có nhà, có xe.

Đại dịch đã buộc Wang phải đóng cửa nhà máy của mình, nhưng anh vẫn phải còng lưng trả nợ.

Theo báo cáo tháng 2 của Học viện Tài chính Toàn diện Trung Quốc tại Đại học Nhân dân Trung Quốc, hơn một phần ba các doanh nghiệp nhỏ ở Trung Quốc không bền vững về mặt tài chính, do các vấn đề như không đủ tiền mặt và thiếu khả năng vay vốn, theo đó có thể ảnh hưởng đến việc làm của 18 triệu công nhân. Báo cáo này dựa trên cuộc khảo sát 2.349 công ty nhỏ, chủ yếu thuộc lĩnh vực sản xuất chế tạo và bán lẻ.

Giấc mơ thăng tiến trong xã hội của các gia đình đang tan thành mây khói khi tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên tăng cao và áp lực phải cung cấp cho trẻ em một nền giáo dục tốt – thường phụ thuộc vào việc học thêm tốn kém – ngày càng nặng nề hơn.

Shih từ Đại học California, San Diego, cho biết, thăng tiến xã hội trong những năm gần đây ở Trung Quốc đang ngày càng khó. Trong thập niên 1980 và 1990, câu chuyện về một nông dân trở thành doanh nhân thành đạt không phải là hiếm. Nhưng giờ đây, việc tự quyết định vận mệnh của chính mình trở nên khó khăn hơn nhiều.

Shih nói: “Đối với các doanh nghiệp quy mô nhỏ, rất khó để thành lập và phát triển. Hoặc họ phải trả những khoản hối lộ khổng lồ để được lòng các cơ quan nhà nước, hoặc họ phải chịu mọi hành vi trục lợi”.

Sau khi đóng cửa nhà máy vào năm 2021, Wang trở thành tài xế trên nền tảng gọi xe của Didi Chuxing, nơi anh gặp gỡ các tài xế khác, nhiều người trong số họ từng là doanh nhân, “chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu”. Anh vẫn có một ít tiền tiết kiệm, nhưng gánh nặng kinh tế cứ dần nặng nề hơn.

“Tôi có ý nghĩ tự tử mỗi ngày”, anh nói. “Tôi cảm thấy như cả thế giới của mình là một cái lồng và không còn hy vọng. Mỗi điều nhỏ nhặt xảy ra đều góp phần vào nghịch cảnh – nhà máy của tôi, lệnh phong tỏa do đại dịch – vô số những điều tồi tệ ập đến khiến tôi cảm thấy vô vọng”.

Anh trai của Wang, người đang sống ở Los Angeles, đã kể cho anh về “con đường đi bộ” đến Mỹ. Wang liền vội lên Douyin, trang video ngắn của Trung Quốc và YouTube để tìm hiểu cách thực hiện chuyến đi.

Video về những người di cư Trung Quốc đã hoàn thành hành trình khiến Wang hy vọng rằng sự chăm chỉ có thể mang lại kết quả xứng đáng cho gia đình anh ở Mỹ. Anh biết được rằng trẻ em nhập cư có thể học trường công ở Mỹ miễn phí. Sau đó, Wang đã bán nhà và xe hơi, gom góp tất cả tiền tiết kiệm của gia đình và lên đường.

Con đường đầy rủi ro của người di cư Trung Quốc đến biên giới Mỹ-Mexico. Các mũi tên là ví dụ về một hành trình và chỉ mô tả hướng đi chung, không phải tuyến đường thực tế được sử dụng. Nguồn: Nghiên cứu của Nikkei Asia

Theo đuổi hy vọng

Pan Mengen, một chủ tiệm làm tóc 32 tuổi ở thị trấn Tô Châu, tỉnh An Huy, đến Mỹ vào tháng 1/2023 cùng vợ, cô con gái 12 tuổi và cậu con trai 9 tuổi.

“Nền kinh tế tồi tệ, không có khái niệm về dân quyền hay tự do, các con tôi sẽ chẳng có tương lai nếu chúng lớn lên ở Trung Quốc”, Pan nói. “Tôi có thể thấy điều gì đang chờ các con mình trong tương lai; sẽ không có cách nào để chúng vượt lên trên tầng lớp xã hội hiện tại. Chúng tôi phải rời đi”.

Tại Tô Châu, Pan nói rằng mình và vợ điều hành một tiệm làm tóc nổi tiếng với người dân địa phương, kiếm được hơn một triệu nhân dân tệ (138.914 USD) mỗi năm trước đại dịch. Gia đình anh sống một cuộc sống rất thoải mái ở thành phố hạng ba này, nơi chi phí sinh hoạt thấp hơn nhiều so với các thành phố như Bắc Kinh và Thượng Hải. Năm 2018, Pan bắt đầu xem xét lộ trình nhập cư bằng con đường đầu tư, đặc biệt là đến các quốc gia như Mỹ, Canada, Australia, và New Zealand. Nhưng đại dịch đã ập đến trong lúc gia đình anh đang chuẩn bị chuyển đi.

Tiệm của Pan buộc phải đóng cửa và cả gia đình sống bằng tiền tiết kiệm. Anh chứng kiến nhiều người bạn của mình phá sản hoặc buộc phải đóng cửa hàng để cắt giảm chi phí. Dù khách hàng của Pan đã quay trở lại khi Trung Quốc mở cửa trở lại nhưng anh vẫn tỏ ra bi quan.

Chuyến thăm Tô Châu của Nikkei vào tháng 5 phần lớn đã xác nhận những lời của Pan. Tại thành phố nhỏ ở tỉnh phía đông tỉnh An Huy, dấu hiệu suy thoái kinh tế của Trung Quốc hiện rõ ở khắp mọi nơi. Những dãy nhà bê tông dang dở và các thiết bị xây dựng đứng im lìm. Một ga tàu mới được khai trương vào cuối năm 2022, nhưng có rất ít dấu hiệu cho thấy hoạt động kinh doanh đang bùng nổ. Tại một trung tâm mua sắm lớn, đèn đã tắt trong giờ ăn trưa ở một số khu vực không có người thuê.

Vào buổi tối, chợ đêm trở thành điểm thu hút chính của thành phố khi những người bán hàng bắt đầu bày hàng dọc các phố đi bộ. “Đây là khu vực nhộn nhịp nhất của thành phố này, nhưng cứ nhìn sau lưng tôi đi”, một người đàn ông bán ở quầy sushi nói rằng năm nay việc kinh doanh gặp khó khăn và chỉ tay về một cửa hàng trống. “Nơi này đóng cửa đã lâu nhưng biển hiệu vẫn treo vì chưa có người thay thế”.

Gia đình Pan không đủ tiền để nhập cư thông qua các chương trình đầu tư và không thể xin được thị thực. Anh cũng đã tìm hiểu về hành trình đi bộ trên Douyin và YouTube. Anh thừa nhận đây là một hành trình đầy rủi ro, nhưng đoạn video của một blogger Trung Quốc đã khiến anh kinh ngạc.

“Blogger Douyin đó là một chàng trai chỉ có một chân”, Pan nói. “Anh ấy đi bộ qua rừng nhiệt đới bằng nạng, và tôi tự nghĩ, nếu anh ấy có thể làm được, dù rất khó khăn, thì chúng tôi cũng có thể làm được”.

Dù thu nhập của Pan được coi là cao ngay cả ở những thành phố như Bắc Kinh, nhưng anh sợ cuối cùng mình sẽ mất tất cả khi chính trị ngày càng bất ổn và chi tiêu tiêu dùng vẫn yếu ở Trung Quốc.

Việc thiếu mạng lưới an sinh xã hội là nỗi lo lắng của nhiều người nhập cư Trung Quốc mà Nikkei đã phỏng vấn. Cả Pan và Wang đều cho biết họ chưa từng quen ai bị mất việc có thể nhận được trợ cấp thất nghiệp. Hầu hết bạn bè và gia đình của họ không tin vào an sinh xã hội. Những gì họ làm ra là tất cả những gì họ có. Wang nghĩ gia đình anh nên rời đi trong khi họ vẫn còn một số tiền để bắt đầu lại.

Shih nói “Tổng quy mô ngân sách chính thức của Trung Quốc chỉ chiếm một phần nhỏ trong GDP của nước này so với hầu hết các nước phát triển. Nhưng thậm chí so với nhiều nước đang phát triển, ngân sách đó vẫn nhỏ. Với khoản tiền đó, chính phủ Trung Quốc lại đặt ưu tiên cao hơn nhiều cho những thứ khác ngoài phúc lợi xã hội, như an ninh quốc gia và ổn định nội bộ”.

Wang nói rằng nếu Trung Quốc muốn người dân ở lại, họ phải cải cách triệt để hệ thống giáo dục và phúc lợi xã hội để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của mọi người.

“Mọi người sống vì hy vọng, họ cần có hy vọng”, Wang nói. “Giáo dục không giải quyết được sự bất bình đẳng, nhưng ít nhất nó có thể đưa mọi người đến một vạch xuất phát bình đẳng hơn; nó mang lại cho mọi người niềm hy vọng”.

Dân số Trung Quốc nhập cư vào Mỹ (Tính bằng triệu). Bao gồm những người nhập cư từ Trung Quốc đại lục, Hong Kong, và Macao. Nguồn: Dữ liệu Điều tra Dân số mười năm một lần của Mỹ (1980, 1990, 2000), Cục Diều tra Dân số Mỹ (2010), Khảo sát Cộng đồng người Mỹ (2021)

Tuy nhiên, theo Shih, chính phủ Trung Quốc có rất ít động lực để khắc phục vấn đề này.

Ông nói “Việc di cư ra nước ngoài là một loại đai an toàn cho chính phủ Trung Quốc. Nếu bạn không thích những gì đang xảy ra ở Trung Quốc, hãy để những người này rời đi, họ không còn là vấn đề đối với chính phủ Trung Quốc nữa”.

Shih giải thích có một số “hậu quả thứ yếu”, chẳng hạn như một số người di cư bắt đầu “hoạt động chính trị” ở nước ngoài. “Nhưng tôi không nghĩ chính phủ Trung Quốc quan tâm quá nhiều đến điều đó”, ông nói. “Đó không phải là mối đe dọa trong nước”.

Đáng để mạo hiểm

Không có biện pháp kích thích hoặc trợ giúp của chính phủ, các công ty ở Trung Quốc thời hậu đại dịch buộc phải cắt giảm chi phí để duy trì hoạt động, đồng nghĩa với việc phải làm nhiều việc hơn nhưng lương ít hơn, thậm chí là sa thải nhân viên. Sau cùng, chính người lao động phải gánh chịu hậu quả và một số công nhân trẻ thà mạo hiểm vào rừng còn hơn.

Michael Yu, 33 tuổi, và Dida Tan, 27 tuổi là một cặp vợ chồng vượt biên vào đầu tháng 4 vừa qua. Yu là thợ cơ khí được một công ty nhà nước ký hợp đồng, còn Tan làm việc tại một công ty thủy sản ở Nam Kinh. Họ rời đi vì lương của họ bị giảm quá nhiều trong năm qua, đến mức họ không đủ khả năng trang trải chi phí sinh hoạt hoặc thanh toán nợ thế chấp.

Tan kể lại “Trước đại dịch, chúng tôi cũng phải làm thêm giờ, nhưng ở mức chấp nhận được. Còn bây giờ, tôi phải làm thêm giờ liên tục, không có thời gian cho bản thân, nhưng lương vẫn giảm, khoảng 70% kể từ tháng 10 năm ngoái”.

Yu và Tan có một người bạn đã đi bộ sang Mỹ và nói với họ rằng cuộc sống ở Los Angeles tốt hơn nhiều. Cặp đôi mong muốn tìm được công việc tốt hơn nhưng hy vọng vun đắp cho gia đình mới là lý do chính khiến họ đến Mỹ

Cặp đôi này đã trả tổng cộng khoảng 50.000 USD cho một “công ty nhập cư” ở Phúc Kiến để đưa họ từ Nam Kinh đến biên giới Mỹ-Mexico. Yu và Tan trước đó đã cố gắng đến Cairo từ Hong Kong rồi tự đến Quito một mình, nhưng họ đã bị các hãng hàng không và nhân viên sân bay chặn lại, vì bất kỳ người Trung Quốc nào cố gắng bay đến Quito đều bị nghi ngờ là dân nhập cư bất hợp pháp. Theo Tan, “công ty nhập cư” của họ biết chuyến bay nào sẽ cho phép hành khách Trung Quốc, và sử dụng thông tin này, họ có thể thực hiện chuyến đi.

Bằng cách sử dụng các nền tảng truyền thông xã hội như Douyin, TikTok, YouTube, và Telegram, những người di cư Trung Quốc đã tạo nên một dòng sông thông tin dọc Nam Mỹ. Những người đi trước cập nhật cho những người đi sau về những việc nên và không nên làm, ai đáng tin cậy và ai không. Thông tin liên hệ của xà đầu, tức những kẻ buôn người, được chia sẻ trong các nhóm tin nhắn.

Theo những người di cư Trung Quốc mà Nikkei Asia phỏng vấn, một khi họ đến Mỹ, các gia đình thường ở một thời gian ngắn tại các trại tạm giam. Nhưng có sự khác biệt đáng kể về thời gian, Yu và Tan được thả chỉ một ngày sau khi đến Mỹ, nhưng mẹ của Wang bị giam hơn một tháng. Các gia đình, phụ nữ, và trẻ em thường được gửi đến các khách sạn do nhà nước tài trợ ở San Diego. Xe buýt của chính phủ chở người di cư từ trại tạm giam đến khách sạn, nơi họ chờ đợi ở sân để ổn định chỗ ở. Những người khác, nhiều người trong số họ là đàn ông độc thân, được đưa đến một trung tâm giao thông, nơi họ có thể bắt xe buýt đến thành phố khác.

Vào một buổi sáng thứ bảy đầy nắng của tháng 4, nhiều người Trung Quốc mới đến đã tụ tập tại một quảng trường nhỏ ở Công viên Monterey, ngoại ô Los Angeles.

Wang, hiện đã ổn định cuộc sống mới, đã tổ chức một sự kiện tình nguyện cho người di cư Trung Quốc. Anh yêu cầu mọi người xếp hàng để nhận thức ăn và đồ uống được quyên góp. Yu và Tan đến để giúp đỡ bạn mình, đồng thời cũng tận hưởng thời tiết ấm áp, và trò chuyện với một phụ nữ Thượng Hải lớn tuổi đang xếp hàng chờ đợi. Trong một tòa nhà văn phòng cũ ở quảng trường, Pan và một đồng nghiệp đang cắt tóc miễn phí, trong lúc một người đàn ông và con trai ngồi trên ghế chờ và đùa giỡn với Pan sau hành trình dài xuyên Nam Mỹ.

Nhiều người có mặt tại đây cho biết họ đã mang đủ tiền tiết kiệm để mua một xe hơi cũ và thuê một căn hộ nhỏ trong vài tháng để tìm kiếm việc làm. Nhiều người cho biết con họ đã bắt đầu học trường công miễn phí như họ mong đợi. Bằng cách sử dụng mạng lưới và tài khoản mạng xã hội của riêng mình, nhiều người trong số những người di cư này đã tìm được việc làm, thường là trong ngành dịch vụ. Trong khi một số người gặp khó khăn, thì những người khác lại phát triển mạnh mẽ.

Pan đã bắt đầu làm việc tại một tiệm làm tóc thuộc sở hữu của người Trung Quốc ở Irvine, một cộng đồng thượng lưu ở Quận Cam, phía nam Disneyland. Sau một năm tìm kiếm khách hàng thông qua bạn bè và mạng xã hội, cùng với kinh nghiệm làm chủ tiệm làm tóc ở Trung Quốc, Pan đã trở thành quản lý. Với thu nhập hàng tháng hiện đã vượt quá 10.000 USD, anh cười thoải mái và nói rằng vợ anh vừa mới sinh một cậu con trai khác.

Gia đình đang ổn định trong lúc chờ ngày ra tòa di trú vào năm 2026.

Pan nói, “Đây là cuộc sống mà tôi luôn mong muốn”.

*

Thông tin bổ sung từ Wataru Suzuki, hiện sống tại Tô Châu.

M.Z.

Nguồn: Nghiencuuquocte.org


 

 Nước Pháp ngả về phía cực hữu?

Ba’o Tieng Dan

Lâm Bình Duy Nhiên

10-6-2024

Đảng Tập hợp Dân tộc (Rassemblement national – RN), cực hữu đã thắng lớn trong cuộc bầu cử Nghị viện Châu Âu diễn ra từ ngày 6/6 đến 9/6/2024.

Tổng thống Pháp ra quyết định giải tán Quốc hội và cho bầu lại trong hai đợt: 30/6 và 7/7/2024.

Đây là lần thứ sáu giải tán Quốc hội dưới thời Đệ Ngũ Cộng hoà. Lần sau cùng vào năm 1997, ông Tổng thống Jacques Chirac đã phải chấp nhận nội các của một Thủ tướng từ Đảng Xã hội, ông Lionel Jospin.

Kết quả của cuộc bầu cử Nghị viện Châu Âu hôm nay là một thất bại nặng nề của cá nhân Tổng thống Pháp, Emmanuel Macron. Dẫu ông cố gắng vận động nhiều cho cuộc bầu cử, ứng viên của ông, bà Valérie Hayer, đã thất bại nặng so với ứng cử viên RN, ông Jordan Bardella.

Jordan Bardella, một “ngôi sao” đang lên của phe cực hữu Pháp. Chính áp lực từ thắng lợi lịch sử của RN, đã khiến cho Macron không còn giải pháp nào khác ngoài việc giải tán Quốc hội Pháp.

Không chỉ cực hữu tại Pháp thắng lớn. Đảng Tự do (PVV) ở Hà Lan, Đảng Những người anh em Ý (FdI) tại Ý cũng giành thắng lợi quan trọng.

Các đảng cực hữu chiếm ưu thế tại nhiều nước trong Liên Âu vì họ tập trung chỉ trích các chính sách và chủ trương gây bức xúc, bất mãn như vấn đề người nhập cư, cảm giác bất an trong xã hội và đời sống ngày càng đắt đỏ…

Đảng RN muốn gỡ bỏ lệnh cấm vận với Nga và xem lại các chính sách giúp đỡ Ukraina trong cuộc chiến với Nga.

Chưa bao giờ phe cực hữu lại gây tiếng vang lớn như hiện nay. Từ thời FN của ông Jean-Marie Le Pen đến con gái ông, bà Marine Le Pen với RN, đảng cực hữu đã thay đổi rất nhiều trong ánh mắt người dân Pháp. Họ đã quá chán chường với những lời hứa hẹn từ hữu sang tả nhưng cuộc sống khó khăn và bất an xã hội vẫn không thay đổi.

RN với một Jordan Bardella trẻ trung đang chiếm ưu thế tại chính trường Pháp. Phe cực hữu ngày nay cẩn thận hơn khi tuyên bố về di dân, nhập cư. Không còn những tuyên bố sốc về kỳ thị chủng tộc như ông Jean-Marie Le Pen! Ngày nay, RN cũng những chủ đề về người di dân, nhập cư, nhưng họ kín đáo hơn, không để lộ con bài kỳ thị chủng tộc như xưa. Họ đánh vào tâm lý chung của người dân: sợ cái lạ, cái bất ổn và mong mỏi một cuộc sống tốt hơn!

Suy cho cùng, RN vẫn kỳ thị và phân biệt chủng tộc nhưng dưới cái nhãn “ôn hoà” hơn. Họ vẫn không ngần ngại ủng hộ các chế độ độc tài. Từ Nga sang Trung Quốc, đến các quốc gia Hồi giáo cực đoan. Họ không muốn nước Pháp cởi mở, nhân bản, như trong lịch sử. Đây cũng là luận điểm gây nhiều tranh cãi: nhân bản đến mức độ nào? Nhân bản để phải đón tiếp mọi sự khốn cùng của thế giới?

Đảng cực hữu Pháp muốn một nước Pháp bảo thủ. Một nước Pháp dành cho người Pháp. Chuyện bên ngoài là chuyện của thiên hạ. Đâu đó, các chủ trương của RN mang hơi hướng của một nước Mỹ dưới thời ông Trump. Một nước Mỹ của người Mỹ. Một nước Mỹ “Make America Great Again” như lời ông hứa hẹn.

Một sự trớ trêu là rất có thể nước Pháp sẽ có một Thủ tướng, Jordan Bardella, và một nội các từ phe cực hữu RN và người Mỹ sẽ lại có một Tổng thống Trump cho nhiệm kỳ hai.

Cả hai sẽ cùng “Làm vĩ đại lại” nước Pháp và nước Mỹ?

Và thiên hạ, nhất là các chế độ độc tài như Nga và Trung Quốc sẽ ung dung áp đặt “quyền lực mềm”, thậm chí cả quân sự ở bất cứ nơi nào họ muốn!

Nước Pháp, cái nôi của nền dân chủ. Nước Mỹ, siêu cường và lá cờ tiên phong của sự Tự do. Cả hai đang đứng trước những sự lựa chọn lịch sử!

Cái hay của nền chính trị dân chủ là tất cả đều do người dân định đoạt. Giới chính trị gia “cổ điển”, hay “truyền thống”, từ hữu sang tả, một khi không làm gì ra trò thì sẽ bị đánh bại bởi các đảng cực hữu, thậm chí cực đoan.

Tuy nhiên, thậm chí trong một kịch bản tồi tệ nhất khi cực hữu lên nắm quyền thì sự thức tỉnh hay trỗi dậy của người dân cũng sẽ là hồi kết cho sự cầm quyền của các đảng cực hữu.

Tất cả đều được định đoạt bởi lá phiếu của người dân. Và dẫu có lên tiếng than phiền “gian lận bầu cử” thì các nền dân chủ vẫn là những mô hình tốt nhất và tương đối hoàn thiện nhất tại các quốc gia tiến bộ.

Dẫu sao vẫn hơn độc tài toàn trị. Bầu cử cho có vì đối lập đã bị đàn áp, khủng bố hay ngăn cấm.

Quyền lực người dân hay tập trung nơi độc tài toàn trị? Câu trả lời phụ thuộc vào một xã hội nào chúng ta muốn sống và xây dựng cho các thế hệ sau! 


 

 Người Nhật

 

1  Chuyện của cụ Phan Bội Châu 

Trong hồi kí ‘Tự Phán’ cụ Phan Bội Châu kể một câu chuyện mà tôi tóm tắt như sau: Chuyện kể rằng vào năm 1905 (hơn 1 thế kỉ trước) cụ Phan Bội Châu và Tăng Bạt Hổ đi xe lửa từ Kobe đến Tokyo để thăm một người bạn tên là Ân Thừa Hiến (người Hoa, được Lương Khải Siêu giới thiệu). Khi ra khỏi ga Tokyo, cụ Phan Bội Châu đưa địa chỉ cho một người phu xe, nhưng người này không biết chữ Hán nên anh ta tìm một người phu xe khác biết chữ Hán giúp đỡ.

Người phu xe biết chữ Hán xuất hiện và chở hai ông khách họ Phan và Tăng đến địa chỉ, nhưng đến nơi thì mới biết ông Ân Thừa Hiến đã dọn đi nơi khác. Người phu xe bảo hai ông khách hãy chờ đó, anh ta sẽ tìm địa chỉ mới. Sau 3 giờ tìm kiếm (mà cụ Phan nghĩ là ‘chắc tiêu rồi’), anh phu xe quay lại và cho biết đã tìm ra địa chỉ mới. Phải mất 1 tiếng đồng hồ nữa thì người phu xe mới đưa hai ông khách đến địa chỉ mới.

Nhưng điều làm cụ Phan giật mình là anh phu xe chỉ lấy “2 hào 5 xu”. Cụ Phan viết: “Bấy giờ hỏi giá xe nó chỉ đòi năm hào hai xu. Chúng tôi lấy làm lạ lắm, rút một đồng bạc trong túi ra trao cho nó và tỏ tấm lòng cảm ơn (…) nhưng nó không chịu lấy, rút vở nhỏ trong túi ra viết chữ nói với chúng tôi rằng: ‘Theo quy luật Nội vụ sảnh đã định thì từ ga Ðông Kinh đến nhà này, giá xe chỉ có ngần ấy, vả lại các người là người ngoại quốc, yêu mến văn minh nước Nhật Bản mà đến, vậy nên ta hoan nghênh các người, chứ không phải hoan nghênh tiền đâu. Bây giờ các người cho tôi tiền xe quá lệ, thế là khinh bạc người Nhật Bản đó’.”

2  Chuyện của tôi 

Đọc câu chuyện cụ Phan làm tôi liên tưởng đến chuyện của mình. Năm đó (chắc cũng cả 20 năm), tôi sang Osaka (Nhật) dự hội nghị loãng xương vì có lời mời nói một bài về di truyền loãng xương. Đó là lần đầu tiên tôi đến Nhật nên trong bụng hào hứng lắm. Tôi tới Osaka lúc gần 12 giờ đêm. Thấy vài anh tài xế taxi đứng mà tôi đoán là đang chờ khách, tôi đến một anh và đưa ra địa chỉ khách sạn.

Anh tài xế nói tiếng Nhật xí xô xí xào một chút, rồi trả cái tờ giấy địa chỉ cho tôi. Anh ta không mở cửa xe. Tôi lại nói bằng tiếng Anh là tôi muốn đi tới khách sạn Nikko đó. Anh ta lại nói xí xô xí xào nữa, nhưng vẫn không chịu mở cửa xe! Nhìn mặt mũi anh ta thì rất thân thiện, chứ không có gì là ‘unfriendly’. Tôi lại nói nữa, và lần này thì anh ta chịu mở cửa xe và giúp tôi đem cái vali vào xe. Anh ta nói gì đó, rồi lái một cái vèo (không đầy 2 phút) là tới nơi.

Xuống xe, tôi lấy bóp ra trả tiền, nhưng anh ta xua tay và nói xí xô xí xào, rồi lái xe đi. Trời ơi! Anh ta không lấy tiền! Bây giờ tôi mới hiểu là chắc hồi nãy anh ta nói rằng cái khách sạn Nikko nó rất gần đây và tôi nên đi bộ, thay vì phải đi taxi. Nhưng hành động của anh làm tôi quá cảm phục người Nhật.

Trong thời gian ở đó, tôi hay đi đây đó và … lạc đường. Mỗi lần lạc đường là mỗi trải nghiệm về tinh thần giúp đỡ tha nhân của người Nhật. Có một lần tôi hỏi anh chàng đi đường, anh ta dừng lại và ân cần chỉ hướng đi. Điều làm tôi cảm động là tôi đi đến ngã tư, mà anh ta vẫn đứng nhìn tôi để chắc ăn là tôi không lạc đường. Xin nhắc lại là lần nào tôi cũng được ân cần giúp đỡ như vậy, chứ không phải chỉ 1 lần.

3  Chuyện người khách Nhật ở TPHCM 

Chuyện này thì báo đã viết, nhưng tôi tóm tắt như sau: ông Oki trong lúc đi dạo phố ở Quận 1 thì một người đạp xích lô đến mời chào, tình huống rất phổ biến ở Việt Nam. Khi đến gần chợ Bến Thành, ông Oki đồng ý cho người phu xích lô chở ông về khách sạn Liberty ở bến Bạch Đằng.

Đoạn đường chỉ có 1500 mét, mà ông Oki hào hiệp trả 500,000 đồng (khoảng 23 USD). Nhưng chưa kịp trả thì người phu xe đã thọc tay vào bóp của ông Oki và lấy 2,900,000 đồng (tức 132 USD)! Vậy mà ông Oki vẫn nhận lỗi về mình vì ông nói trước khi lên xe ông không hỏi giá.

Nếu tôi là ông Oki, xác suất mà tôi quay lại Việt Nam chắc rất thấp. Thật vậy, đa số du khách đến Việt Nam đều là ‘một đi không trở lại’. Tình trạng này, tôi nghĩ, không phải chỉ do dịch vụ du lịch (mà tôi không ngày nay không tệ), mà có thể còn do tánh cách của một số người Việt xấu xí.

Dù không muốn so sánh với ai, nhưng phải thừa nhận một điều là là chúng ta còn thua và thấp hơn người Nhật cả thế kỉ.

Trong câu chuyện về người phu xe Nhật, cụ Phan so sánh và tự nhủ “Than ôi ! Trí thức trình độ dân nước ta xem với tên phu xe Nhật bản,chẳng dám chết thẹn lắm hay sao !”

Sưu tầm 


 

Ukraine tấn công trạm radar hạt nhân chiến lược của Nga nằm sâu trong lãnh thổ cách xa 1800 cây số

Tình báo Quốc phòng Ukraine gần đây đã hoàn tất một chiến công đáng chú ý: sử dụng máy bay không người lái của họ để tấn công một dàn radar cảnh báo sớm của Nga, là bộ phận của hệ thống phòng thủ hạt nhân chiến lược nằm cách biên giới Ukraine 1.800 km

  • Ngày tấn công: Ngày 26/5/2024.
  • Mục tiêu: Hệ thống radar được đề cập là Voronezh-M, một trạm phát hiện mục tiêu tầm xa.
  • Địa điểm: Thành phố Orsk thuộc tỉnh Orenburg của Nga.
  • Khoảng cách kỷ lục: Cuộc tấn công này đã lập kỷ lục mới đối với máy bay không người lái của Ukraine, bao phủ khoảng cách ấn tượng 1.800 km.

Radar Voronezh-M là một phần của radar cố định tầm xa của Nga. Những radar này được thiết kế để phát hiện cả các vật thể không gian và khí động học, bao gồm cả tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình. Với phạm vi phát hiện mục tiêu lên tới 6.000 km, radar này đóng vai trò quan trọng trong hệ thống cảnh báo sớm của Nga2.

Chiến dịch tấn công bằng Drone UAV táo bạo này cho thấy khả năng của Tình báo Quốc phòng Ukraine và làm nổi bật động lực xung đột đang diễn ra giữa Ukraine và Nga.

©Trạm phát hiện mục tiêu tầm xa Voronezh-M của Nga ở tỉnh Orenburg, ngày 26 tháng 5 năm 2024. Ảnh: Schemy© Ukrainska Pravda

Phóng viên thuộc chương trình Skhemy của Đài Radio Tự Do – Liberty, đã công bố các hình ảnh vệ tinh từ Planet Labs, cho thấy hậu quả của cuộc tấn công ngày 26 tháng 5 của máy bay không người lái của Cơ quan Tình báo Quốc phòng Ukraine nhằm vào trạm phát hiện mục tiêu tầm xa Voronezh-M của Nga ở tỉnh Orenbur.

Chi tiết: Hình ảnh ngày 27 tháng 5 được cho là cho thấy các đốm đen xuất hiện trên lãnh thổ của radar mà trước đây không có. Các nhà báo của Skhemy cho rằng đây là dấu vết của một vụ hỏa hoạn do một cuộc tấn công của UAV gây ra. Ngoài ra, dự án lưu ý rằng độ phân giải của bức ảnh không cho phép đánh giá mức độ thiệt hại có thể xảy ra đối với nhà ga Nga.

Hình ảnh vệ tinh xuất hiện cho thấy hậu quả của cuộc tấn công của Tình báo Quốc phòng Ukraine vào radar Nga cách biên giới 1.800 km© Ukrainska Pravda

Trạm phát hiện mục tiêu tầm xa Voronezh-M của Nga ở tỉnh Orenburg, ngày 27 tháng 5 năm 2024. Ảnh: Schemy

Tình báo quân sự Ukraine cũng tấn công một radar Voronezh khác ở làng Glubokii ở Krasnodar Krai vào ngày 23/5, gây ra hỏa hoạn tại cơ sở này, theo nguồn tin của báo Kyiv độc lập.

Hệ thống radar Voronezh M. (Bộ Quốc phòng Nga)© Kyiv Độc lập
 

Radar Voronezh là thiết bị cảnh báo sớm cung cấp khả năng giám sát không phận đường dài, tập trung vào các cuộc tấn công tên lửa đạn đạo và máy bay. Phạm vi hoạt động của nó lên đến 6.000 km (khoảng 3.700 dặm).

Vào đầu tháng 5, một máy bay không người lái tầm xa khác của Ukraine đã tấn công một nhà máy lọc dầu, Gazprom Neftekhim Salavat, ở Cộng hòa Bashkortostan của Nga.

Máy bay không người lái, do Cơ quan An ninh Nhà nước (SBU) vận hành, đã đi được 1.500 km (khoảng 930 dặm) để tấn công mục tiêu, một khoảng cách kỷ lục đối với Ukraine vào thời điểm đó.

Vào tháng Tư, Ukraine đã tấn công các cơ sở sản xuất ở Cộng hòa Tatarstan của Nga, cách biên giới nhà nước 1.300 km (800 dặm).

 Phụ nữ Việt vượt biên vào nước Anh để trồng cần sa, bán dâm

Ba’o Dat Viet

April 20, 2024

Một thuyền chở di dân lậu đi qua Eo biển Manche

Những di dân Việt đi lậu theo sự điều hành của các băng nhóm tội phạm và họ thường làm việc trong các quán chăm sóc móng tay chân, tức làm nghề nail, hay trong các trại trồng cần sa hoặc hành nghề mại dâm, The Sun và Daily Mail cho hay.

The Daily Telegraph đăng bài trong các ngày từ 15-19/4 trích dẫn các nguồn thuộc Bộ Nội vụ Anh và phát biểu từ người phát ngôn của thủ tướng nói rằng người Việt đi lậu qua con đường nguy hiểm chiếm số lượng nhiều nhất, vượt qua cả các nhóm người Afghanistan – đông nhất năm 2023 – và Iraq, Iran.

Tuy nhiên, các báo Anh viết rằng các nguồn tin tại Bộ Nội vụ không đưa ra con số cụ thể và rằng phải đến tháng 5 bộ mới công bố thông tin.

Theo The Sun, Daily Mail, The Times và The Daily Telegraph, con số di dân Việt đi lậu vào Anh là 505 người hồi năm 2022 nhưng đã tăng hơn gấp đôi vào năm ngoái thành 1.323 người và tiếp tục tăng trong những tháng đầu năm nay.

Còn trong 5 năm từ 2018 đến hết năm 2023, dữ liệu của chính phủ Anh cho thấy 3.356 người Việt đến Anh bằng thuyền nhỏ, đưa Việt Nam vào top 10 nước dẫn đầu các quốc gia có di dân bất hợp pháp vào Anh bằng phương thức nguy hiểm này.

Trong tuần lễ tính đến ngày 19/4, tờ The Sun và The Times nói rằng phần lớn những di dân lậu người Việt là phụ nữ, trái ngược với xu thế của các nhóm quốc tịch khác có tới 3/4 là nam giới.

The Times viết rằng số di dân lậu người Việt tăng vọt được cho là có liên quan đến việc Việt Nam và Hungary ký kết hiệp định mới về visa, giúp người Việt nhập cảnh dễ dàng hơn vào Hungary, nước thành viên của Vùng Schengen vốn cho phép các quốc gia thuộc Liên hiệp châu Âu (EU) được qua lại nhau một cách tự do.

Những di dân Việt đi lậu theo sự điều hành của các băng nhóm tội phạm và họ thường làm việc trong các quán chăm sóc móng tay chân, tức làm nghề nail, hay trong các trại trồng cần sa hoặc hành nghề mại dâm, The Sun và Daily Mail cho hay.

Họ bị các nhóm tội phạm bóc lột và phải làm việc như nô lệ để trả dần các món nợ mà họ đã vay để trang trải cho hành trình vượt biên từ Việt Nam qua các nước Đông Âu như Ba Lan hay Hungary để đến Anh.

Việt Nam có bãi biển tuyệt vời và phong cảnh đẹp, kinh tế tăng trưởng tới 6%, với nhiều nhà máy của các hãng lớn trên thế giới và được cho là sẽ trở thành một con hổ về kinh tế…, nhưng vẫn có nhiều người chưa thoát cảnh nghèo đói và bị những kẻ buôn người dụ dỗ, lừa phỉnh, do đó liên tục có nhiều người bất chấp hiểm nguy, kể cả nguy cơ mất mạng, vẫn đi lậu sang Anh, các báo của nước này viết.

The Sun và Daily Mail phỏng vấn những người nắm vấn đề, trong đó có ông Dan Barcroft thuộc Cục Tội phạm Quốc gia Anh và bà Mimi Vũ, chuyên gia về chống buôn người và nô lệ hiện đại ở Việt Nam, và họ xác nhận rằng phần lớn những người đó ra đi là vì lý do kinh tế.

Bà Mimi Vũ nói với The Sun và Daily Mail rằng những tay môi giới ở địa phương bên Việt Nam thu phí cho hành trình vượt biên có khi lên tới 43.000 bảng Anh/người (hơn 53.000 đô la Mỹ, hay hơn 1,3 tỷ đồng), trong khi thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam là khoảng hơn 94 triệu đồng/năm.

Nhìn chung, các di dân lậu không có sẵn số tiền nêu trên nên họ phải vay nặng lãi và trở thành nạn nhân bị bóc lột, các báo Anh viết, dẫn lời các chuyên gia.

Hồi năm 2019, đã xảy ra thảm kịch trong đó 39 người Việt đi lậu bị thiệt mạng trong một thùng xe tải đông lạnh ở Essex, Anh, nhưng sự kiện đau lòng này không hề làm giảm làn sóng vượt biên trái phép.

Anh và Việt Nam mới đây ký thỏa thuận nhằm tăng cường hợp tác giải quyết vấn đề di cư bất hợp pháp và ngăn chặn người Việt mạo hiểm tính mạng khi vượt Eo biển Manche để vào Anh.

(Theo VOA)


 

Quá trình dỡ bỏ tượng Lenin ở Đông Âu

Ba’o Tieng Dan

Cù Tuấn

7-4-2024

Việc dỡ bỏ các tượng đài Lenin ở Đông Âu là vấn đề phức tạp, nhiều mặt, gắn liền với bối cảnh lịch sử, chính trị của khu vực này. Trong những năm gần đây, đã có một nỗ lực mới nhằm lật đổ những tượng đài cuối cùng còn sót lại, không chỉ Lenin, mà là của quân đội Liên Xô được xây dựng trong thời kỳ các Đảng Cộng sản Đông Âu nắm quyền.

  1. Ukraine

Việc dỡ bỏ tượng đài này một phần được thúc đẩy bởi cuộc xâm lược Ukraine của Nga, dẫn đến sự tập trung quan tâm mới vào vai trò của binh lính Liên Xô trong khu vực trong Thế chiến thứ hai. Ở Ukraine, việc phá hủy các tượng đài Lenin, được gọi là “Leninopad”, bắt đầu một cách nghiêm túc vào năm 2013 và được đẩy mạnh sau các cuộc biểu tình ở Euromaidan.

Chính phủ Ukraine đã tích cực khuyến khích việc dỡ bỏ các tượng đài liên quan đến thời kỳ cộng sản, và vào năm 2015, Verkhovna Rada của Ukraine đã bỏ phiếu ủng hộ đạo luật bắt buộc chính quyền địa phương phải dỡ bỏ tượng đài các nhân vật cộng sản trên lãnh thổ Ukraine.

Việc tháo dỡ các tượng đài Lenin ở Ukraine bắt đầu từ thời Liên Xô sụp đổ và tiếp tục ở một mức độ nhỏ trong suốt những năm 1990, chủ yếu ở một số thị trấn phía tây Ukraine. Tuy nhiên, đến năm 2013, hầu hết tượng Lenin ở Ukraine vẫn còn đó. Tượng đài Lenin lớn nhất tại lãnh thổ Ukraine chưa bị Nga chiếm đóng, từng nằm ở Kharkov, cao 20,2 m. Bức tượng Lenin này ở Kharkov đã bị lật đổ và phá hủy vào ngày 28 tháng 9 năm 2014.

Sự khởi đầu của “Leninopad” trên quy mô lớn được khởi đầu bằng việc phá hủy tượng đài Lenin ở Kyiv trên Quảng trường Bessarabian. Sự kiện diễn ra vào khoảng 6 giờ chiều ngày 8 tháng 12 năm 2013. Nhiều người Ukraine bắt đầu phá hủy ồ ạt các tượng đài về quá khứ của Liên Xô sau khi có báo cáo về các nhà hoạt động Euromaidan bị cảnh sát chống bạo động ở Kyiv đánh đập vào năm 2013.

Vào tháng 1 năm 2015, Bộ Văn hóa Ukraine tuyên bố sẽ khuyến khích tất cả các sáng kiến công cộng liên quan đến việc dọn sạch các biểu tượng và tượng đài của Liên Xô tại Ukraine. Bộ Văn hóa Ukraine đã khởi xướng việc loại bỏ khỏi Sổ đăng ký Nhà nước về Di tích Bất động sản của Ukraine tất cả các di tích liên quan đến thời kỳ Xô Viết.

Theo Bộ trưởng Văn hóa Vyacheslav Kyrylenko, bộ của ông sẽ bắt đầu loại bỏ tất cả các di tích liên quan đến thời kỳ Xô Viết khỏi Sổ đăng ký Nhà nước về Di tích Bất động sản của Ukraine. Ông nói: “Nhà nước sẽ không phản đối, mà ngược lại, sẽ ủng hộ bằng mọi cách có thể tất cả các sáng kiến công nhằm đấu tranh để thanh lọc Ukraine khỏi những di tích của quá khứ toàn trị”.

Vào tháng 4 năm 2015, Verkhovna Rada của Ukraine đã bỏ phiếu ủng hộ dự thảo luật “Về việc lên án các chế độ toàn trị cộng sản và Đức Quốc xã ở Ukraine và cấm tuyên truyền các biểu tượng của họ“. Đặc biệt, luật này sẽ bắt buộc chính quyền địa phương phải dỡ bỏ các tượng đài về các nhân vật cộng sản trên lãnh thổ Ukraine. Các tượng đài cộng sản bị lật đổ trong đợt Euromaidan, với việc những người biểu tình đã lật đổ một số bức tượng của Vladimir Lenin ở các thành phố của Ukraine. Một số ước tính cho biết có hơn 90 bức tượng Lênin đã bị lật đổ trong giai đoạn này. Vào tháng 12 năm 2015, Tuần báo Ukraine tính toán rằng, 376 tượng đài Lenin đã bị dỡ bỏ hoặc phá hủy vào tháng 2 năm 2014.

  1. Ba Lan, Latvia, Litva và Estonia

Ở Ba Lan, việc dỡ bỏ tượng đài Lenin bắt đầu một cách nghiêm túc vào năm 1989, khi đất nước này giành lại độc lập từ Liên Xô. Chính phủ Ba Lan nhanh chóng lật đổ tượng đài Felix Dzerzhinsky, một quý tộc Ba Lan, người đã tổ chức lực lượng cảnh sát mật Liên Xô sau cuộc cách mạng Bolshevik năm 1917. Dưới sự cai trị của ông, Cheka, tiền thân của KGB, chịu trách nhiệm về làn sóng khủng bố người Ba Lan.

Năm 2016, Ba Lan ban hành luật xóa bỏ văn hóa cộng sản, kêu gọi thanh lọc các biểu tượng và tên tuổi gắn liền với thời kỳ Đảng cộng sản nắm quyền. Tuy nhiên, một số thành phố không có đủ tiền cho việc đó nên Viện Tưởng niệm Quốc gia đã vào cuộc để giúp đỡ. Kể từ tháng 2 năm 2022, viện Ba Lan đã xác định được 60 di tích cần dỡ bỏ và đã lật đổ hơn 20 di tích.

Ở Latvia và Estonia, nơi có cộng đồng người Nga thiểu số khá lớn, việc dỡ bỏ các tượng đài của Liên Xô đã gây ra những cảm xúc phức tạp hơn, khiến người dân địa phương và chính phủ Nga coi đây là hành vi xúc phạm đến những anh hùng chiến tranh của họ. Ở Latvia, việc dỡ bỏ một tấm bia tưởng niệm của Hồng quân ở thủ đô Riga đã nhận được sự cổ vũ của dân chúng, nhưng ở Estonia, một bản sao xe tăng Liên Xô có hình ngôi sao màu đỏ đã được dỡ bỏ bằng cần cẩu và được chở đến một bảo tàng thay vì phá bỏ.

Ở Litva, một số đài tưởng niệm còn sót lại của Liên Xô đã bị dỡ bỏ kể từ khi quốc gia này giành được độc lập mà không phải chịu sự phản đối.

Ở Ba Lan, việc dỡ bỏ các tượng đài Hồng quân đã vấp phải nhiều phản ứng trái chiều. Một số người coi đây là một bước cần thiết để xóa bỏ các biểu tượng của sự áp bức trong quá khứ, trong khi những người khác lo sợ sự xóa bỏ ký ức lịch sử hoặc coi đó là sự sỉ nhục đối với tổ tiên của họ, những người đã chiến đấu bên cạnh các Hồng quân Liên Xô.

Trong một số trường hợp, người dân địa phương ủng hộ việc giữ lại các đài tưởng niệm Hồng quân vì vai trò của họ trong việc đánh bại Đức Quốc xã. Tại thành phố Gdansk phía bắc Ba Lan, đã có một cuộc tranh luận sôi nổi về biểu tượng xe tăng T-34 của Liên Xô trên Đại lộ Chiến thắng và thành phố này đã quyết định không dỡ bỏ nó. Chỉ huy xe tăng này là một trung úy người Ba Lan, và binh lính Ba Lan đã đóng vai trò then chốt trong việc giải phóng thành phố này, tên cũ là Danzig, khỏi Đức Quốc xã.

  1. Tóm tắt:

Việc dỡ bỏ tượng đài Lenin ở các nước Đông Âu phản ánh mối quan hệ phức tạp và thường xuyên gây tranh cãi giữa quá khứ và hiện tại của khu vực này. Đó là lời nhắc nhở về sự cần thiết phải đối mặt và giải quyết các di sản của quá khứ, đồng thời tìm cách tưởng nhớ và ghi nhớ các sự kiện và trải nghiệm đã định hình nên lịch sử của khu vực trên.