Sám hối tội ác chiến tranh, người cộng sản không làm được?

Sám hối tội ác chiến tranh, người cộng sản không làm được?

 Kính Hòa, phóng viên RFA

Bức tường khắc tên những chiến binh Mỹ tử trận ở Việt Nam, tại Washington, DC. Ảnh chụp ngày 11/11/2016. AFP photo

Kỷ niệm 42 năm ngày chiến tranh Việt Nam kết thúc, ngày 26 tháng tư tại đảo Jeju, Hàn Quốc, một bức tượng người mẹ ôm con mang tên Lời ru cuối cùng được khánh thành.

Theo báo chí Việt Nam thì bức tượng này hình thành trong trào lưu các cựu chiến binh Hàn Quốc nhìn nhận những hành động tội ác mà họ đã gây ra trong cuộc chiến Việt Nam.

Các cựu chiến binh Mỹ cũng có những hành động tương tự bấy lâu nay.

Ở phía ngược lại, không có những hành động tương tự từ phía lực lượng của Đảng Cộng sản.

Tại sao?

Bắt đầu câu chuyện với chúng tôi, nhà báo Võ Văn Tạo hiện sống ở Nha Trang nói về chiến tranh:

“Chiến tranh nào cũng tội lỗi hết, chả có cuộc chiến tranh nào tránh được những sai lầm, cũng như chuyện gây ra tội ác, dù mục đích này hay mục đích khác, thì nó cũng đều gây tai nạn cho người dân, thương vong cho người dân. Đó là điều khó tránh trong những cuộc chiến tranh lớn”.

Ông Võ Văn Tạo từng tham gia chiến tranh Việt Nam trong hàng ngũ bộ đội cộng sản, từng tham dự chiến dịch khốc liệt 1972 tại chiến trường Quảng Trị.

Ông Hoàng Ngọc Diêu, hiện sống ở Úc, ra đi từ Việt Nam sau năm 1975, nhận định về hành động sám hối của các cựu chiến binh Hàn Quốc:

“Cúi đầu chấp nhận những việc mình đã làm sai trong quá khứ, là một hành động can đảm. Họ nhận được cái đúng và cái sai, chấp nhận, công khai với mọi người rằng họ đã làm một hành động sai. Theo tôi đó là một hành động rất nhân bản, bởi thật sự trong quá khứ họ đã làm những việc sai. Họ không dùng lý do chiến tranh để biện hộ cho họ”.

Lực lượng Hàn Quốc, hay còn gọi là Nam Hàn, tham gia chiến tranh bên cạnh lực lượng miền Nam Việt Nam và quân đội Hoa Kỳ, có hai sư đoàn đóng quân dọc theo các tỉnh miền Trung từ Quảng Ngãi cho đến Nha Trang. Ông Võ Văn Tạo là người quê ở vùng này nói rằng trong nhiều trận càn quét binh lính Nam Hàn đã giết chết nhiều dân thường.

Những hoạt động tưởng nhớ chiến tranh với cảm giác tội lỗi cũng xảy ra đối với quân đội Hoa Kỳ, khi một số cựu chiến binh trở về làng Sơn Mỹ tưởng nhớ trận thảm sát dân thường ở đây. Hay gần đây nhất người ta nói đến lời thú nhận phạm tội của ông Bob Kerrey, cựu dân biểu Hoa Kỳ đã từng chỉ huy một trận càn ở tỉnh Bến Tre làm chết nhiều dân thường.

Về phía bộ đội cộng sản, người ta hay nói đến biến cố Mậu Thân 1968, khi mà hàng ngàn người dân thường bị bắn chết và vùi chôn tập thể ở thành phố Huế.

Tuy nhiên cho đến nay không có một lời thú nhận nào về hành động đó từ phía Đảng Cộng sản Việt Nam, mặc dù theo ông Hoàng Ngọc Diêu, ngày càng có nhiều chứng cứ, hình ảnh và tư liệu chứng minh rằng có cuộc thảm sát Mậu Thân Huế 1968.

“Đó là một hành động che đậy thiếu can đảm, thiếu minh bạch của một nhà cầm quyền luôn tự xưng là đúng đắn và chính nghĩa. Có lẽ là với lý do bảo vệ cái họ cho là chính nghĩa nên họ không dám minh bạch những chuyện đó”.

Ông Võ Văn Tạo đưa ra một sự phân tích về thái độ khác nhau đối với quá khứ phạm tội ác chiến tranh như vậy từ hai phía:

“Tôi nghĩ rằng ở những nước có tự do ngôn luận thì lương tâm con người ta được trình bày một cách đầy đủ. Còn ở Việt Nam thì nó khác, những quyền ăn quyền nói, tự do, lương tâm,… đều bị bóp nghẹt hết. Tự do chính trị, tự do tư tưởng cũng thế. Nhà nước cộng sản Việt Nam luôn thực thi chính sách tuyên truyền một chiều, tô hồng tất cả những gì Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện hoặc chủ xướng, và bôi đen cái mà họ không thích. Điều đó dẫn đến chuyện hầu hết bộ đội của Việt Nam, sau cuộc chiến, không bao giờ tự vấn lương tâm rằng mình đã làm gì trong chiến tranh mà gây tội ác”.

Tuy nhiên ông Tạo nói rằng không phải người bộ đội cộng sản nào cũng hoàn toàn không tự vấn lương tâm như vậy. Ông kể lại câu chuyện người bạn của ông là ông Trần Đức Thạch đã nhận nhiệm vụ che giấu cuộc thảm sát dân thường tại chiến trường Xuân Lộc vào năm 1975. Lúc đó, sau khi bị một tổn thất nặng nề bị mất 250 tay súng, cộng với sự tuyên truyền của các chính trị viên rằng vùng Xuân Lộc là nơi sinh sống của những người gốc Bắc di cư, chống cộng quyết liệt, đơn vị của ông Thạch gây ra một cuộc thảm sát dân thường để trả thù. Ông Trần Đức Thạch bị ám ảnh và trở về chiến trường xưa thắp hương hối hận.

Tuy nhiên ông Võ Văn Tạo nói rằng trường hợp như ông Thạch là một trường hợp riêng lẻ rất hiếm hoi.

K.H.

Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/the-penitent-of-war-why-communists-cannot-do-that-kh-04272017080451.html

Vụ Đinh La Thăng: Ván cờ sinh-tử chỉ mới bắt đầu

Vụ Đinh La Thăng: Ván cờ sinh-tử chỉ mới bắt đầu


Đinh La Thăng (trái) và Nguyễn Phú Trọng.

Đinh La Thăng (trái) và Nguyễn Phú Trọng

Không bắn pháo hoa!

Lễ kỷ niệm 30 tháng Tư “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” năm 2017 đặc biệt chưa từng thấy: cùng vào cuối giờ chiều ngày 27/4 khi các tờ báo trong nước được Ủy ban Kiểm tra trung ương “phát lệnh nổ súng” để đăng nguyên bản kết luận kiểm tra hàng núi vụ việc bị xem là “rất nghiêm trọng” tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam) cùng trách nhiệm của đương kim ủy viên bộ chính trị Đinh La Thăng, một phó chủ tịch của chính quyền TP.HCM là bà Nguyễn Thị Thu đã như ngậm ngùi thông báo với báo giới “Ban bí thư không cho phép thành phố tổ chức bắn pháo hoa 15 phút vào đêm 30/4”, dù trước đó thành phố này đã làm văn bản xin “bắn”.

Không có lời giải thích nào từ Ban bí thư của ông Đinh Thế Huynh về việc không cho bắn pháo hoa, nhưng một phó giám đốc Sở Văn hóa – thể thao của TP.HCM đã tiết lộ: tùy vào tình hình thực tế, chính trị xã hội và mỗi giai đoạn khác nhau…

Hoàn toàn không phải lý do “tiết kiệm” cho số tiền chỉ khoảng một chục tỷ đồng chi phí bắn pháo hoa – chỉ bằng 1/340 so với khoản lỗ mà Trịnh Xuân Thanh đã gây ra tại PVC – một doanh nghiệp con thuộc Petro Vietnam từ thời ông Đinh La Thăng còn là Chủ tịch Hội đồng thành viên.

Có thể cho rằng đây là lần đầu tiên TP.HCM kỷ niệm lễ 30/4 mà không được bắn pháo hoa, trong khi bầu không khí trước ngày này dường như không có gì bất thường về mặt an ninh. Cũng chưa thấy dấu hiệu nào để hình thành một “làng kháng chiến Đồng Tâm” tại thành phố này…

Vậy thì sợ gì mà không “bắn”? “Nội bộ” chăng?

Có vẻ “bài học Quân khu 9” vào thời gian trước đại hội 12 cùng vụ “tướng chữa bệnh” Phùng Quang Thanh vẫn còn nguyên ám ảnh.
Chiến thắng thứ hai
Một nỗi ám ảnh khôn nguôi đã đặc cách dành cho Tổng bí thư Trọng từ sau đại hội 12, cho dù ông đã lau được nước mắt trước đối thủ chính trị số một là ông Nguyễn Tấn Dũng.

Nỗi ám ảnh ấy còn đeo đẳng ghê gớm, đã trở nên cao trào mất ngủ bằng vụ biến mất cực kỳ thách thức của Trịnh Xuân Thanh. Cho dù ông Nguyễn Tấn Dũng đã cam kết trở thành “người tử tế”, vẫn còn không thiếu kẻ luôn chực chờ gây hậu họa cho ông Trọng.

Cuộc chiến “chống tham nhũng” của tổng bí thư cũng bởi thế đã dần hóa thân vào ân oán quyền lực và thể diện.

Nhưng phải mất đến một năm một quý từ sau đại hội 12 rạng rỡ thắng lợi, Tổng bí thư Trọng mời giành được chiến thắng thứ hai.

Bài bản được lặp lại phong cách của Vương Kỳ Sơn của Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung Quốc mà ông Nguyễn Phú Trọng đã dẫn đoàn “học tập” vài năm trước: dù không có được nhân chứng Trịnh Xuân Thanh, cũng chẳng trưng ra lời khai nào của Vũ Đức Thuận – nguyên trợ lý của Đinh La Thăng, vẫn còn sờ sờ ra đó một núi hậu quả bị cho là trách nhiệm của ông Thăng thời còn tại vị nơi Petro Vietnam, chưa kể một “hình án” có dấu hiệu rất rõ là 800 tỷ đồng mà Petro Vietnam góp vào Ngân hàng Đại Dương của Hà Văn Thắm đã hoàn toàn biến mất.

Không phải Bộ Công an có vẻ khá chậm chạp ngay cả khi tổng bí thư đã “tự cơ cấu” vào Thường vụ đảng ủy công an trung ương vào tháng 9 năm 2016, mà Ủy viên bộ chính trị Trần Quốc Vượng của Ủy ban kiểm tra trung ương mới bắt buộc phải nổi lên như một Vương Kỳ Sơn của Việt Nam.

Khó mà hình dung khác hơn, cử chỉ Ủy ban Kiểm tra trung ương công bố kết luận về Petro Vietnam ngay trước khi Hội nghị trung ương 5 của đảng cầm quyền diễn ra là có chủ ý. Cùng nhận định “rất nghiêm trọng” của ủy ban này đối với vụ Petro Vietnam, việc Ủy ban Kiểm tra trung ương nêu đề nghị chính thức gửi Bộ chính trị và Ban bí thư về “kỷ luật đồng chí Đinh La Thăng” tất sẽ dọn đường cho Hội nghị trung ương 5 bỏ phiếu kỷ luật Bí thư TP.HCM.

Nếu thông tin dư luận về việc Ban bí thư đã thống nhất kỷ luật ông Đinh La Thăng với mức độ “cảnh cáo về mặt đảng” là đúng, mức kỷ luật tại Ban chấp hành trung ương thông thường sẽ không nhẹ hơn. Và chỉ cần có thế, đương nhiên chức bí thư thành ủy TP.HCM sẽ một sớm một chiều bị tước khỏi tay ông Đinh La Thăng. Để trong trường hợp khả quan nhất, ông Thăng cũng chỉ nhận được một chức vụ “làng nhàng” nào đó trong bộ máy trung ương – gần giống với đương kim Trưởng ban Kinh tế trung ương Nguyễn Văn Bình, nhưng có lẽ thấp hơn ông Bình.

Còn nếu nặng hơn, đó sẽ là “cách chức về mặt đảng”, thậm chí khai trừ đảng và mở đường đến truy cứu trách nhiệm hình sự liên quan những vụ việc tại Petro Vietnam. Khi đó thì đừng có nghĩ gì đến việc tồn tại trong Bộ Chính trị, thậm chí trong Ban chấp hành trung ương.

Báo nhà nước Việt Nam, bỉ bôi thay, đang rầm rộ khởi phát một chiến dịch “xét lại Đinh La Thăng”, cho dù chỉ mới năm ngoái chính những tờ báo này đã tung hô ông Thăng lên tới mây xanh, còn gần đây nhất lại câm bặt vụ nông dân Đồng Tâm, Hà Nội phản kháng triều đình.

Nếu vụ ông Đinh La Thăng diễn ra “đúng quy trình” và theo đúng tuyên ngôn “kỷ luật vài người để cứu muôn dân” của ông Trọng, bàn cờ chính trị Việt Nam sẽ được “tái cơ cấu” thấy rõ: cùng với ông Thăng, nhân vật thứ hai đã quá mang tai tiếng là Ủy viên bộ chính trị Nguyễn Văn Bình cũng có thể bị “xét lại”. Hoặc ở vào thế “quy thuận triều đình”, ông Bình sẽ ngồi yên tại Ban Kinh tế trung ương cho đến lúc đủ tuổi hưu.
Ván cờ sinh – tử bắt đầu!
Hội nghị trung ương 5 cũng bởi thế có thể mang đến triển vọng “phục thù” cho Tổng bí thư Trọng đối với thất bại không thể cơ cấu hai nhân vật Vương Đình Huệ và Nguyễn Bá Thanh vào Bộ Chính trị tại Hội nghị trung ương 7 – diễn ra vào tháng 5/2013.

Chiến thắng thứ hai của Tổng bí thư Trọng, dù khá muộn màng, vẫn mở toang cánh cửa để ông Trọng có dịp “hội kiến” với cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Có vẻ ông Trọng không còn “đường” nào khác.

Không phải đại hội 12. Giờ đây, ván cờ quyết định sinh – tử mới bắt đầu.

Khỏi phải nói, cũng có thể hình dung ông Nguyễn Tấn Dũng và “dây” của ông đang ở vào thế nguy biến đến thế nào.

Nhưng ông Dũng sẽ làm gì?

Tôi đã có một Việt Nam như thế……

Tôi đã có một Việt Nam như thế……

Ngày xưa tôi đã có một thành phố được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông. Tuy nó còn thua xa những thành phố ở những nước phát triển, nhưng nó là điều gần nhất với văn minh mà đất nước tôi có. Ngày xưa tôi đã có một thành phố mà những người ở vùng khác luôn ngưỡng mộ và ao ước để trở thành một người dân ở đó. Thành phố đó tuy nhỏ nhưng luôn mở rộng cửa để đón người tứ xứ về làm ăn buôn bán. Người dân ở thành phố đó chẳng bao giờ quan tâm đến bạn từ nơi đâu tới, cha mẹ bạn là ai, bạn nói tiếng Việt với giọng bắc hay nam. Họ cũng không bao giờ phân biệt người khác qua cái hộ khẩu. Ngày xưa tôi đã có một thành phố là đầu tàu của cả nước, là sự tổng hợp của những văn hóa và tinh hoa của thế giới. Thành phố đó là nơi mọi người nhìn vào để học hỏi và noi gương. Ngày xưa, tôi đã có một thành phố như thế.

Ngày xưa tôi có những anh cảnh sát khiến tôi luôn cảm thấy an toàn và trật tự. Tôi đã có những anh cảnh sát mà tôi luôn tin tưởng và luôn tìm đến khi có một vấn đề gì cần giải quyết. Họ không bao giờ đi vòng vòng kiểm tra tạm trú hay tạm vắng, hay đúng hơn là làm có cái thứ gì gọi là tạm trú tạm vắng đâu mà kiểm tra. Tôi đã có những anh cảnh sát nếu phải giữ gìn trật tự đường phố và vỉa hè, họ cũng không bao giờ đánh đuổi những người bán hàng rong. Họ chỉ nhắc khéo và mỉm cười. Và nếu họ phải kêu đi thì họ sẽ sẵn lòng phụ giúp dọn dẹp. Tôi đã có những anh cảnh sát không bao giờ đánh dân, những người sẽ luôn sẵn lòng hy sinh bảo vệ tôi. Tôi đã có những anh cảnh sát trên xa lộ mà tôi gọi là những con bồ câu trắng, đó là những anh cảnh sát xa lộ luôn sẵn lòng giúp tôi đẩy chiếc xe nếu nó bị hư dọc đường. Tôi đã có những anh cảnh sát mà tôi luôn ngưỡng mộ. Ngày xưa tôi đã có những anh cảnh sát như thế.

Ngày xưa thành phố của tôi có các bệnh viện chuyên chữa bệnh miễn phí cho người bệnh, nếu có viện phí cho dù có cao đến mức nào, thì cũng không từ chối chữa bệnh. Tôi đã có một hệ thống y tế không phân biệt giàu nghèo. Một hệ thống y tế dù phải hoạt động theo quy luật tài chính, nhưng không bao giờ để tiền làm cản trở y đức. Tôi đã có một hệ thống y tế sẵn lòng kêu một chiếc trực thăng để giải cứu bất cứ ai gặp nạn.  Tôi đã có những bác sĩ và y tá chuyên tâm làm việc và ít khi nào, nếu có, vòi tiền bệnh nhân. Ngày xưa, tôi đã có một hệ thống y tế như thế.

Ngày xưa tôi đã có những người thầy và người cô luôn dạy tôi cách làm người trước khi dạy tôi học thức. Tôi đã có những người thầy cô luôn tận tâm giảng dạy, luôn học hỏi để trao dồi kiến thức. Tôi đã có những thầy cô, tuy tư tưởng vẫn mang tính chất văn hóa Nho Giáo, những luôn cho tôi phát biểu, luôn cho tôi chỉ trích, luôn cho tôi không đồng ý. Tôi có thể công khai phản đối bài tập, tôi có thể biểu tình để đòi hỏi quyền lợi mà tôi cho rằng mình nên có. Tôi đã có những thầy cô luôn mang tầm hồn của những nhà học thức. Ngày xưa tôi đã có những người thầy và người cô như thế.

Ngày xưa tôi đã có những nhạc sĩ tài ba, những nhạc sĩ sáng tác những bài hát mà tôi nghe không bao giờ biết chán. Họ ít khi nào, hoặc chẳng bao giờ, đạo nhạc. Vì mỗi bài họ sáng tác là một tác phẩm nghệ thuật.

Ngày xưa tôi đã có những nhà sách bán đầy sách, mọi thể loại sách. Nơi đó là nơi tôi gọi là những thư viện tri thức. Nơi đó bán những cuốn sách của nhiều tác giả của nhiều quốc gia khác nhau. Nơi đó thậm chí bán những cuốn sách mà tôi không hề thích và đồng ý chút nào. Nhưng đã là nhà sách thì phải da dạng và phong phú. Ngày xưa tôi đã có những nhà sách như thế.

Ngày xưa tôi đã có một Tổng Thống khiến tôi cảm thấy hãnh diện. Ông ấy có thể nói tiếng Anh, đủ để hiểu, đủ để trả lời phỏng vấn của các phóng viên quốc tế, đủ để đàm phán với các nhà lãnh đạo quốc tế, đủ để cất lên tiếng nói cho tất cả người dân dù đa số người dân không bầu chọn ông ta. Ngày xưa tôi đã có một Tổng Thống khiến tôi tự tin để nói với các bạn bè quốc tế rằng “that is our President.” Ngày xưa, tôi đã có một Tổng Thống Như Thế.

Ngày xưa tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng khiến tôi tự hào về lực lượng Quân Lực. Tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng khiến tôi cảm thấy an toàn, cho dù đất nước vẫn còn trong thời chiến. Tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng khiến tôi cảm thấy yêu nước để sẵn lòng mặc bộ quân phục để bảo vệ đất nước. Và cho dù có chết thì tôi cũng vinh dự. Ngày xưa, tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng như thế.

Ngày xưa tôi đã có một Việt Nam khiến tôi muốn trở về. Khi tôi hoàn thành chương trình du học của mình, tôi không màn đi tìm việc làm ở nước sở tại, cũng chẳng quan tâm đến thẻ xanh hay thẻ đỏ, cũng chẳng mộng mơ hay để trở thành một công dân của nước khác, cũng không nghĩ đến việc mình nên ở hay về, vì điều duy nhất trong đầu tôi là trở về. Cho dù đất nước đó vẫn đang trong thời chiến, cho dù nơi ấy tôi phải làm việc nhiều lần hơn, cho dù nơi ấy có nhiều rủi ro hơn. Nhưng tôi chỉ muốn trở về, đơn giản, bởi vì nơi đó, đất nước Việt Nam đó, mảnh đất đó là nơi tôi gọi là nhà. Vì tôi chỉ muốn về nhà. Ngày xưa, tôi đã có một Việt Nam như thế.

Ngày xưa tôi đã có một nước Việt Nam khiến tôi tự hào. Tôi đã có một nước Việt Nam khiến tôi không thổ thẹn khi cầm hộ chiếu ra nước ngoài và không cảm thấy xấu hổ khi nói “I’m Vietnamese.”

Ngày xưa tôi đã có một Việt Nam như thế. Tôi đã từng có một Việt Nam như thế. Nhưng đó là quá khứ. Bởi vì bây giờ nước Việt Nam như thế đã không còn. Nhưng tôi lại muốn nó trở lại. Tôi muốn có một nước Việt Nam như thế. Bạn có thể gọi tôi hoang tưởng hay gọi tôi mơ mộng. Tôi không mơ mộng hay ảo tưởng. Tôi cũng không tôn vinh bất cứ thể chế hay chế độ nào. Tôi chỉ muốn có một nước Việt Nam như thế. Có thể bạn sẽ hỏi: “Vì sao? Để làm gì?” Đơn giản, bởi vì ngày xưa tôi đã có một nước Việt Nam như thế.

Ku Búa @ Café Ku Búa

PS: Tôi là một người sinh ra khi nước Việt Nam như thế đã không còn nữa.

LƯỢC LẠI LỊCH SỬ VÙNG ĐẤT NAM BỘ

From facebook: Nguyễn Vô with Bich Nguyễn and 41 others.

THEO DÒNG LỊCH SỬ

BÀI 085: LƯỢC LẠI LỊCH SỬ VÙNG ĐẤT NAM BỘ

Về nguyên tắc của công pháp quốc tế, biên giới quốc gia đã được định hình trong những biến cố lịch sử từ khi nó được thế giới công nhận, không hồi tố. Đòi lại vùng đất mà cách đây hàng trăm năm đã được sát nhập vào quốc gia khác mà chủ yếu là do Tổ Tiên mình dâng hiến là không thể xem xét. Sam Rainsy chỉ lợi dụng vấn đề này để kích động tính dân tộc của người Khmer mà thôi.
Vào sáng thứ Ba 8/7/2014 khoảng 200 người tụ tập biểu tình trước Đại sứ quán Việt Nam ở thủ đô Phnom Penh của Campuchia.
Thực chất đấy là việc các thế lực đối lập cực đoan ở Campuchia mà đại diện là phái Sam Rainsy phối hợp với truyền thông phương Tây, có sự bảo trợ của Trung Quốc đang kích động một nhóm sinh viên biểu tình để phản đối ông Trần Văn Thông Đại sứ Việt Nam tại đây vì đã giải thích:
– Pháp vào Việt Nam năm 1858, năm 1863 vào Campuchia …
– Khi vào Đông Dương, Pháp không cắt đất Việt Nam cho Campuchia và cũng không cắt đất Campuchia cho Việt Nam. Cho tới khi nhân dân Đông Dương đấu tranh giành độc lập, khi rút khỏi Đông Dương Pháp cũng không cắt đất Campuchia cho Việt Nam.
Chúng yêu cầu: “Ông Thông phải xin lỗi công khai về việc ông ta hiểu lầm về lịch sử Kampuchea Krom, mà nay là một phần của miền Nam Việt Nam.” Thực chất, ông Thông đã nói đúng.
Để hiểu rõ vấn đề này, tôi xin LƯỢC LẠI LỊCH SỬ VÙNG ĐẤT NAM BỘ như sau:

1. VƯƠNG QUỐC CỔ PHÙ NAM
Vùng đất trù phú Nam Bộ của Việt nam ngày nay, từ khu vực Ðồng Nai đến Hà Tiên xưa thuộc Vương Quốc Phù Nam. Phù Nam là tên phiên âm tiếng Hán của từ Phnom có nghĩa là núi. Vương quốc Phù Nam là vương quốc đầu tiên hình thành tại Ðông Nam châu Á, tồn tại từ đầu thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên.
Lịch sử quốc gia này được biết đến bắt đầu từ khoảng năm thứ nhất sau Công nguyên, tương đương với nhà Tây Hán Trung Hoa.
Theo truyền thuyết thì một vị giáo sĩ anh hùng (Brahman) người Ấn Độ tên là Kaundinya được thần linh chỉ đường xuống thuyền xuôi về hướng đông. Sau một cuộc hành trình đầy gian truân, thuyền của Kaundinya đến được đất liền của đồng bằng sông Cửu Long. Bỗng từ đất liền xuất hiện một mỹ nhân đi trên chiếc thuyền nan bơi ra chặn thuyền của Kaundinya lại. Mỹ nữ này là Nữ Chúa Soma, con gái của vua Rắn Hổ mười đầu. Trận thư hùng diễn ra giữa anh hùng và giai nhân. Nhờ phép thuật thần thông nên Kaundinya thắng trận. Nữ chúa Soma cầu hòa. Sau đó không lâu hai người yêu rồi cưới nhau sinh ra một người con trai. Người con trai này trở thành vị vua đầu tiên của Vương quốc Phù-Nam lấy hiệu là KAMPU.

Kinh đô trù phú của vương quốc được xây dựng tại thành Vyadhapura.
Vào năm 245 sau Công nguyên nhà Hán Trung Hoa sai sứ giả là K’ang T’ai đi kinh lý vương quốc Phù Nam. Ông đã mô tả là vương quốc này đã biết cách luyện kim, kinh đô Vyadhapura có xây thành bằng gạch kiên cố chung quanh, có hệ thống kênh đào để thuyền bè có thể đi xuyên qua lãnh thổ …
Trong vòng 300 năm sau ngày lập quốc, Phù Nam đã có một hạm đội chiến thuyền và quân lực hùng mạnh và đã chinh phục được hầu như toàn bộ những khu dân cư của vùng Mã Lai – Thái lan – Miên và nam Miến Ðiện để kiểm soát đường hàng hải của các thương thuyền giữa Trung Hoa và Ấn Ðộ.

Những thần dân của Phù Nam xưa thuộc giống người thổ da đen Khmer, Môn-Khmer, Miến, và dân đa đảo Malay-indônêsiên. Ngôn ngữ sử dụng thuộc hệ Ấn độ pha trộn với nhiều sắc thái, thổ ngữ địa phương.
Người nước Phù Nam theo đạo Bà La Môn và Phật giáo.
Vương quốc Phù Nam đạt đến sự cực thịnh dưới triều vua Kaundinya Jajavarman (478-514).
Vương quốc Phù Nam bị suy tàn bởi nội loạn và sự nổi dậy của dân tộc Khmer (một xứ phiên thuộc của Phù Nam), tràn sang từ vùng đất thuộc nước Lào bây giờ.
Một yếu tố khác góp phần vào sự suy tàn của Phù Nam là nền kinh tế của quốc gia đã đi xuống từ sau những tiến bộ về kỹ thuật hàng hải. Thuyền buôn vào thời điểm này đã có thể đi xa bờ và ít có nhu cầu ghé lại Óc Eo trên đường đi qua Trung Quốc.
Năm 539 vương quốc Phù Nam bị buộc phải triều cống cho người Khmer lúc đó là Vương quốc Chân Lạp.
Ðến năm 627 Phù Nam bị người Khmer dưới quyền vua Chân Lạp là Bhavavarman xóa hẳn tên trên bản đồ. Những thần dân của Phù Nam bị sát nhập vào vương quốc Khmer. Hoàng gia của Phù Nam dùng đường biển tị nạn sang đảo Java của Nam Dương (Indonesia).
Từ năm 550 trở về sau cho đến khi chúa Nguyễn bành trướng thế lực đến miền Nam, người Khmer cai trị xứ này theo niên hiệu các vị vua Chân Lạp. Ngày nay, người Khmer nhìn nhận các vương triều Phù Nam là tổ tiên của dân tộc Khmer và là một phần của lịch sử Khmer. Người Khmer còn được chúng ta biết đến qua nhiều danh xưng Cao Miên, Chân Lạp, Cam bốt và Kampuchia.

2. VƯƠNG QUỐC CHÂN LẠP LÀM CHỦ KHU VỰC MIỀN NAM VIỆT NAM (Từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 17 sau Công Nguyên):
Năm 600-611 có triều vua Mahendravarman tiếp theo là vua Isanavarman đóng đô tại Ankor Borey.
Năm 750 vua Jayavaman I mở rộng lãnh thổ, xây thêm đền đài, cho khẩn hoang và trồng lúa cùng các loại hoa màu dọc bờ sông Cửu Long xuống tới miền Tây Việt Nam ngày nay.
Khoảng năm 780 dòng Vương cũ của Phù Nam giờ thành Vương Triều Sailendra của đảo Java (Indonesia) trở nên hùng mạnh đã dùng binh lực chinh phục và buộc vương quốc Chân Lạp của người Khmer phải triều cống và lệ thuộc.
Từ năm 800 đến 887 nước chân Lạp dưới sự lãnh đạo của vua Jayavaman II (802-887) và Jayavaman III (850-887) đã giành lại được độc lập từ dòng Sailendra của Java. Vương quốc Chân Lạp được đổi tên là Kampuchia. Trong thời này những thế lực phong kiến có khuynh hướng chia đế quốc Chân lạp thành Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp (Thủy Chân Lạp là vùng đồng bằng miền nam tức Phù Nam xưa).
Năm 803 Puskarak lên ngôi Vương Thủy Chân Lạp, lấy hiệu là Jayavaman II rồi tuyên bố độc lập. Tuy nhiên, Vương triều của đảo quốc Java không ngừng dòm ngó vương quốc Kampuchia của Jayavaman II. Trong suốt 50 năm trị vì ông đã dời đô 5 lần vì chiến tranh với Java. Khi Jayavaman III qua đời không con nối dõi nên một người bà con họ mẹ đã lên ngôi xưng vương hiệu là Indravaman I (877-889).

Vua Indravaman I là một vị vua anh hùng, có tài thao lược và cũng yêu nghệ thuật văn thư. Trong đời ông đã có công thống nhất Lục Chân Lạp với Thủy Chân Lạp và xây dựng thêm nhiều thành phố lớn, khuyến khích nông nghiệp và thương mại. Indravaman I cũng khởi đầu nới rộng Ðế quốc Khmer (Kampuchia), thay đổi bản đồ chính trị trên bán đảo Ðông Dương bằng những võ công nổi bật.
Con của Indravaman I nối sự nghiệp của cha xưng hiệu là Yaksovaman I (889-900).Yaksovaman I dời kinh đô từ Hari Hara Ley đến Yaso Tha Bura trên cao nguyên Bakheng. Chính vào thời điểm này, sự phú cường của Ðế quốc Kampuchia đã cho phép nhà vua khởi công nhiều công trình kiến trúc vĩ đại trong đó có:
– Angkor Wat (Ðế Thiên Ðế Thích): Là một công trình kiến trúc vĩ đại nhất của vùng Ðông Nam Châu Á.
– Đền đài Lo Ley.
– Đền đài Phnom Bok.
Những công trình này đa phần nhờ vào sức lực của hàng vạn tù binh và nô lệ bắt được từ những trận chiến chinh phạt Xiêm và Lào.

Suốt thế kỷ thứ 9 Ðế quốc Khmer-Chân Lạp có 6 triều vương đó là:
– Hashavaman I (900-922).
– Isanavaman II (922-928).
– Jayavaman IV (928-941).
– Harshavaman II (941-944).
– Rajendravaman II (944-968).
– Jayavaman V (968-1001).

Sau cái chết của Jayavaman V năm 1001, toàn lãnh thổ Chân Lạp rơi vào cảnh đại loạn kéo dài 9 năm.
Lãnh chúa Suryavaman I (1002-1050) đã đàn áp được những thế lực khác và thống nhất ngôi Vương tại Angkor Wat.
Từ năm 1050 đến 1177 đế quốc Khmer tiếp tục bành trướng. Phía bắc giáp Trung Hoa, phía nam giáp biển Xiêm La (Thái Lan), phía tây giáp Miến Ðiện, phía đông giáp Chiêm Thành.
Năm 1177 quân Chăm của Vương Quốc Chiêm Thành (Champa) xâm lăng và giết được vua Khmer là Tri-Bhuvanadit-yavarman khởi đầu cho quá trình suy tàn của đế quốc Khmer từ thế kỷ thứ 13.

Sự suy yếu của Ðế quốc Khmer vào thế kỷ 13 tạo cơ hội cho người Thái (Xiêm) nổi dậy giành độc lập. Danh xưng “Thái” có nghĩa là “tự do” không còn nô lệ nữa.
Quân đội người Thái đã tấn công đế đô Angkor (trong khoảng thời gian 1431-1432) và tàn sát hàng mấy vạn người để trả thù sự tàn bạo hà khắc mà người Khmer đã áp đặt lên họ trước kia. Sự tàn sát này khủng khiếp đến độ không còn ai sống sót để nhớ lại nơi chốn này. Vì vậy Ðế đô Angkor đã bị quên lãng bởi chính người Khmer trong suốt 500 năm … mãi đến thế kỷ 19, ông Henri Mouhot, người Pháp, trong lúc đi thám hiểm rừng sâu mới tìm lại phế tích Angkor Wat năm 1860.

Năm 1401 vua Chân Lạp Ponhea Yat dời đô về Phnom Penh (Nam Vang) đánh dấu một triều đại mới, chấm dứt kỷ nguyên Angkor. Chữ Phạn Ấn độ cổ Sanscrit không còn được sử dụng nữa. Lối chữ mới theo thể Pali giống Mã Lai được thay vào. Toàn thể những dòng dõi vương tôn, quí tộc cũ theo văn hóa Ấn Ðộ biết đọc, viết chữ Sanscrit đã bị người Thái tận diệt.
Năm 1528 vua Ong Chân I lại phải dời đô về Lovek (La Bích).
Ðến năm 1593 quân Xiêm lại tấn công La Bích.
Từ đó người Thái nắm quyền phế lập các vua chúa Khmer.

3. VỊ THẾ CHÚA NGUYỄN VÀ THẾ LỰC CỦA NGƯỜI VIỆT TẠI THỦY CHÂN LẠP (Từ thế kỷ 17-18 sau Công Nguyên):
Một biến cố chính trị tại phương đông, miền cực nam nước Ðại Việt đã làm thay đổi tình thế lúc đó, là sự xuất hiện của chúa Nguyễn Hoàng, truyền nhân của Nguyễn Bặc, Nguyễn Trãi và Nguyễn Kim.
Chính sách Nam Tiến của các chúa Nguyễn sau đó nhằm để chống lại thế lực của chúa Trịnh ở Thăng Long tạo nên áp lực to lớn cho hai quốc gia lân bang là Champa và Chân Lạp.
Trong khoảng thời gian từ năm 1611-1653 vương quốc Champa đã bị dồn nén bởi thế lực của chúa Nguyễn nên co cụm lại một vùng nhỏ từ Nha Trang đến Phan Thiết.
Sau một thời gian ở Xiêm làm con tin, Chey Chetta II về Chân Lạp lên ngôi vương năm 1618. Tân vương cải cách mọi việc và mang lòng không phục người Xiêm. Chey Chetta II dời đô về Oudong (Long Úc), thuộc tỉnh Kompong Luông. Tân vương tổ chức quân đội có thực lực. Mấy năm liền không thấy Chân Lạp dâng phẩm vật triều cống, Xiêm vương mang quân tấn công vào Chân Lạp 2 lần đều bị quân của Chey Chetta II đẩy lui.
Tuy nhiên về lâu về dài Chân Lạp sẽ không thể đương đầu với quân Xiêm. Chey Chetta II quyết định nhờ vào thế lực của chúa Nguyễn Ðàng Trong, lúc đó là Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635).

Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đã quyết định gả Hoàng Nữ Ngọc Vạn cho vua Cao Miên năm 1620. Hoàng nữ Ngọc Vạn được tấn phong Hoàng Hậu với tước hiệu là Somdach Prea Peaccayo dey Preavoreac.
Chúa còn hai Hoàng nữ khác là Ngọc Khoa gả cho vua Chiêm Pô Romê và Hoàng nữ Ngọc Hoa lại gả cho một thân vương người Nhật.

Năm 1620, dưới sự bảo trợ của Hoàng hậu Ngọc Vạn, lưu dân người Việt từ Ðàng Trong ồ ạt theo đường biển vào lập nghiệp tại vùng Thủy Chân Lạp.
Họ làm nghề nông, buôn bán, tiểu công nghiệp, đánh cá, thợ rèn .v.v..
Chỉ 3 năm sau, tức năm 1623 lưu dân Việt định cư tại Thủy Chân Lạp lên đến 20,000 người. Sãi vương liền viết thư cho “con rể” xin mượn vùng đất tại Prey Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobey (Bến Nghé) để tiện việc thu thuế người Việt tại đây. Vua Cao Miên chấp thuận.
Sau khi quốc vương Cao Miên băng hà (chỉ sau 5 năm lấy vợ Việt), toàn vùng Bà Rịa giáp giới Chiêm Thành, Kâmpéâp Srekatrey (Biên Hòa), Prey Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobey (Bến Nghé) đều thuộc quyền người Việt cai trị và thu thuế.

Từ sau khi vua Chey Chetta II băng hà, các hoàng tử con của các bà phi người Chân Lạp liên tiếp lên làm vua: Ponhea To (1629-1630), Ponhea Nu (1630-1640). Sau cái chết mờ ám của vua Ponhea Nu, năm 1640 quan phụ chính Prah Outey (là hoàng thúc của vua) đưa con mình là Ang Non I (1640-1642) lên ngôi.
Vào năm 1642 một người con của vua Chey Chetta II liên hiệp với người Mã Lai nổi dậy giết toàn gia hoàng thúc Prah Outey để lên ngôi xưng hiệu Ponhea Chan I (1642-1659). Sử Việt gọi vị vua này là Nặc Ông Chân.

Các hoàng thân thuộc phe cánh Ang Non I vào cung bà Hoàng Thái Hậu Ngọc Vạn xin cầu viện chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648-1687). Chúa Hiền nhân cơ hội có lời yêu cầu nên hưng binh chinh phạt Chân Lạp vào tháng 10 năm 1658.
Quân Chân Lạp thua to tại ngoài khơi Bà Rịa và trận Gò Bích.
Chúa Hiền đưa Hoàng tử So con trai bà Thái hậu Ngọc Vạn lên ngôi vua lấy hiệu là Batom Réachea (1658-1672). Vào thời điểm này triều đình Chân Lạp đã hợp thức hóa chủ quyền của nhà Nguyễn tại Ðồng Nai.

Năm 1672 vua Batom Réachea bị ám sát. Con trai là Ang Chey tức Nặc Ông Ðài lên nối ngôi. Tân vương dựa thế lực người Xiêm mang quân lấn ép vùng Ðồng Nai. Lưu dân người Việt kêu cứu triều đình chúa Nguyễn. Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần sai các tướng Nguyễn Dương Lâm cùng với Nguyễn Diên Thái và Văn Sùng mang quân tới tận Oudong hỏi tội Nặc Ông Ðài rồi đưa Ang Saur tức Nặc Ông Thu hiệu Chey Chetta IV, em của Nặc Ông Ðài lên ngôi Chính Vương ở Oudong Lục Chân Lạp.
Chúa Hiền lại đồng thời cho Ang Non tức Nặc Ông Nộn con trai thứ của bà Ngọc Vạn và vua Chey Chetta II làm Thứ Vương vùng Ðồng Nai – Mô Xoài. Vua Nặc Ông Nộn đóng đô tại Sài Gòn tức Prey Nokor. Lúc đó là năm 1674. Cả hai vị vua Chân Lạp đều phải triều cống xưng thần với chúa Nguyễn tại Kim Long. Vua Nặc Ông Nộn ở Sài Gòn đến khi chết năm 1691 thì toàn quyền cai trị tại đây thuộc về chúa Nguyễn.

4. CÁC DI THẦN NHÀ MINH VỚI VÙNG ĐẤT BIÊN HÒA, MỸ THO THỦY CHÂN LẠP:
Vào năm 1679 tức năm Khang Hy thứ 18 nhà Ðại Thanh, cựu thần của nhà Minh vì kháng cự lại quân Thanh đến xin hàng phục nhà Nguyễn.
Bọn di thần nhà Minh gồm có: Tổng binh Long Môn Dương Ngạn Ðịch, Phó tướng Hoàng Tiến, và Tổng Binh các phủ Cao, Lôi, Liêm là Trần Thượng Xuyên, Phó tướng Trần An Bình … mang 3000 binh lính, thủ hạ và gia quyến trên 50 chiến thuyền đến cửa Tư Dung và Ðà Nẵng xin được làm thần dân của chúa Nguyễn. Chúa Hiền chấp thuận cho giữ nguyên binh hàm, chức tước rồi truyền cho vua Cao Miên cho phép người Minh vào định cư ở xứ Ðồng Nai và sau đó đến Cần Thơ.

Nhờ đợt di cư này mà ảnh hưởng của nhà Nguyễn tại đất Thủy Chân Lạp ngày càng lớn. Các tướng nhà Minh giờ làm quan cho triều đình nhà Nguyễn. Họ cũng góp phần xông pha trận mạc mở rộng lãnh thổ cho nhà Nguyễn, nổi bật là Thống Binh Trần Ðại Ðịnh con của Trần Thượng Xuyên triều chúa Ninh Vương.
Người Minh vốn cùng văn hóa với người Việt nên hợp nhau khai hoang khẩn đất, lập chợ, xây dựng phố phường, buôn bán tấp nập. Những nơi như Gia Ðịnh, Biên Hòa, Thủ Ðức, Cần Thơ không mấy chốc trở nên sầm uất. Triều đình nhà Nguyễn lại được dịp có thêm dân, thêm đất và thêm thuế thu nhập.

Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần băng hà năm 1687 ở ngôi 39 năm, Nghĩa Vương Nguyễn Phúc Thái (còn gọi là Trăn) lên thay (1687-1691). Nghĩa Vương dời đô về Phú Xuân (Huế).
Trong thời gian chúa mới lên ngôi có một di thần nhà Minh là Hoàng Tiến giết chủ tướng là Dương Ngạn Ðịch ở Mỹ Tho rồi tự xưng là Phấn Dũng Hổ Oai Tướng Quân thống lĩnh quân sĩ Long Môn người Minh đóng đồn ở Ðịnh Tường. Hoàng Tiến thả quân qua Cao Miên cướp của giết người. Vua Cao Miên là Nặc Ông Thu bất bình vì việc làm sai quấy này và ngờ là chủ ý của Thiên Vương nhà Nguyễn. Vua Nặc Ông Thu quyết định bỏ triều cống và chuẩn bị binh lính chống lại triều đình nhà Nguyễn.

Tháng Giêng năm 1690 Chúa Nghĩa sai lão tướng là Vạn Long mang quân đến Rạch Gầm dàn trận. Vạn Long dùng kế bắt được Hoàng Tiến rồi xua quân qua Cao Miên đánh thốc tới Nam Vang và Long Úc (thành Oudong). Vua Cao Miên cả sợ dâng 30 thớt voi, 150 lạng vàng, 600 lạng bạc, 6 con tê giác để xin hòa và giữ lệ triều cống như xưa. Quan quân nhà Nguyễn rút về Phú Xuân tháng 8 năm đó.
Chúa Nghĩa không thọ lâu, ngài băng hà năm 1691 thọ 43 tuổi.

Năm 1698 chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) sai Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đi đánh Cao Miên và kinh lược mấy tỉnh miền Nam. Lễ Thành Hầu chia cắt giới phận, canh cải địa điền, kiểm kê nhân khẩu, lập sổ đinh điền cho có nề nếp. Lúc đó toàn miền Nam có dân số 40.000 gia đình (hộ) đất đai mở ra 1.000 dặm.

5. MẠC CỬU VỚI VÙNG ĐẤT HÀ TIÊN
Năm 1671 có người Minh tên là Mạc Cửu quê ở Lôi Châu, Quảng Ðông (Trung Quốc) mang gia quyến và binh lính 400 người và 10 chiếc thuyền di cư sang Thủy Chân Lạp, đổ bộ lên bờ biển Panthaimas vịnh Thái Lan.
Mạc Cửu đến Oudong xin yết kiến vua Nặc Ông Thu và ở lại hợp tác giữ chức Óc Nha cho đến năm 1681.
Lúc ấy thấy chính sự Chân Lạp rối ren, ông xin vua Chân Lạp cho đi khai khẩn vùng đất hoang Panthaimas. Vua thuận cho. Mạc Cửu chiêu tập đám cướp biển lại mở sòng bạc, chiêu mộ dân phiêu bạt chạy trốn nhà Thanh về lập nên 7 xã là: Mán Khảm (Peam), Long Kỳ (Ream), Cần Bột (Kampot), Hương Úc (Konpong Som), Sài mạt (Cheal Meas), Linh Quỳnh (Rạch Giá) và Phú Quốc (Koh Tral). Thủ phủ đặt tại Hà Tiên tức Căn Khẩu. Mạc Cửu đặt tên vùng đất của mình là “Căn Khẩu Quốc”.
Lãnh địa này thuộc Chân Lạp nhưng vua Chân Lạp không đủ sức cai quản nên được qui chế tự trị. Không bao lâu Căn Khẩu Quốc của Mạc Cửu trở nên giàu có, người đi vào buôn bán, cờ bạc, đổi chác tấp nập.

Thấy kinh tế vùng Căn Khẩu nổi lên như sóng, vua Xiêm chuẩn bị thôn tính vùng đất này.
Năm 1678 quân Xiêm tràn sang cướp phá bắt Mạc Cửu và gia quyến về Muang Galapuri (Vạn Tuế Sơn). Hai năm sau nhân lúc nước Xiêm có loạn ông mang quyến thuộc trốn về lại Căn Khẩu. Ông lại bắt tay khôi phục lại Căn Khẩu. Mạc Cửu nhiều lần xin triều đình Chân Lạp cứu nhưng Vương triều Chân Lạp lúc đó quá yếu, tự giữ mình còn không xong nên từ chối không thể giúp được gì cho họ Mạc.

Năm 1711 Mạc Cửu cùng đoàn tùy tùng là Trương Cầu, Lý Xá mang vàng lụa đến gõ cửa Khuyết ở Huế xin thần phục chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725). Mạc Cửu được giữ chức Tổng Binh toàn quyền cai trị xứ Căn Khẩu mà không phải nộp thuế cho triều đình.
Nghe được tin này vua Xiêm cho 20.000 quân tấn công Căn Khẩu Quốc, một thuộc địa mới của nhà Nguyễn. Mạc Cửu thua chạy về Gia Ðịnh xin triều đình Huế cứu giúp.
Quân Triều Nguyễn đánh đuổi người Xiêm đi và trả lại toàn vẹn đất đai cho Mạc Cửu cai trị, nhưng đổi tên Căn Khẩu thành Hà Tiên Trấn với mục đích lưu lại dấu ấn của triều đình họ Nguyễn.

Mùa hạ năm 1735 Mạc Cửu chết, hưởng thọ 81 tuổi. Ninh Vương Nguyễn Phúc Thụ (có sử ghi là Trú:1725-1739) phong ông làm Khai Trấn Thượng Trụ Quốc Ðại Tướng Quân, tước Cửu Lộc Hầu.
Ðến đời Minh mạng được phong làm Thần hiệu là Thọ Công Thuận Mỹ Trung Ðẳng Thần.

Năm 1738 chúa Nguyễn Phúc Thụ ban cho dòng họ Mạc “Thất Diệp Phiên Hàn” (Bảy chữ quý tộc: bảy đời rào giậu cho quốc gia), lấy bảy chữ “Thiên, Tử, Công, Hầu, Bá, Tử, Nam” nối đời làm chữ lót, lấy năm chữ “Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ” trong Ngũ hành tương sinh, khởi đầu từ Bộ “Kim” để đặt tên và thêm Bộ “Ấp” vào chữ “Mạc” để tỏ ý không phải họ “Mạc” của Đăng Dung.
Do theo phương pháp đặt tên đó chúng ta thấy như sau về các thế hệ của họ Mạc, mỗi thế hệ dùng một hay vài người làm ví dụ:

1- Con trai Mạc Cửu là: Mạc THIÊN Tứ
2- Con của Thiên Tứ là: Mạc TỬ Thiêm, TỬ Duyên, TỬ Dung, TỬ Hoàng, TỬ Thượng, TỬ Sanh (Tử này có nghĩa là con).
3- Con của Tử Sanh là: Mạc CÔNG Du, CÔNG Tài (CÔNG Thê là con của TỬ Thiêm).
4- Con của Công Du là: Mạc HẦU Lâm.
5- Con của Hầu Lâm là: Mạc BÁ Bình.
6- Con của Bá Bình là Mạc TỬ Khâm (chữ tử nầy viết và đọc y như chữ tử bên trên, nhưng có nghĩa là tước thứ tư: Tử Tước, trên Nam tước).
7- Con của Tử Khâm là Mạc Nam Lan (bà Nam Lan tuyệt tự hết người thừa kế nhưng cũng vừa tròn bảy chữ vua ban).

6. VÙNG ĐẤT MÉSO – LONGHOR (tức Mỹ Tho, Vĩnh Long)
Năm 1731 quân Chân Lạp đánh Gia Ðịnh. Ninh Vương sai Tướng Trương Phước Vĩnh và Cai Cơ Ðạt Thành cùng tướng quân Trần Ðại Ðịnh (con của Trần Thượng Xuyên người Minh) đem quân ra chống đỡ.
Cai Cơ Ðạt Thành bị quân Cao Miên giết ở Bến Lức. Trần Ðại Ðịnh mang quân bản bộ Long Môn đắp đồn Cây Mai ở Sài gòn để cầm cự. Cai đội Nguyễn Cửu Triêm đem quân cứu ứng đến Bến Lức, quân Miên lại rút về Tân An.
Tháng 4 năm 1731 Trần Ðại Ðịnh đánh vào Lovek (La Bích).
Cha con quốc vương Chân Lạp là Nặc Yêm (Ang Em) và Nặc Tha (Satha II) thua trận xin nhường đất Mésa (Mỹ Tho) và Longhor (Dinh Long Hồ tức Vĩnh Long bây giờ) để cầu hòa.
Chúa Nguyễn sai đo đạc, đặt thành Châu Ðịnh Viễn và dinh Long Hồ.

7. MẠC THIÊN TỨ NỚI RỘNG THÊM LÃNH THỔ CHO NGUYỄN VƯƠNG ĐÀNG TRONG:
Mạc Thiên Tứ cai trị trấn Hà Tiên rất thịnh vượng. Tứ mở văn đàn làm thơ, phổ nhạc, vịnh phú, lập Chiêu Anh Các để chiêu nạp nhân tài.
Về võ công Tứ cũng lẫy lừng không kém.
– Năm 1739 Tứ dẹp tan một trận tấn công của vua Cao Miên.
– Năm 1747 Tứ dẹp yên bọn cướp biển ở Long Xuyên.

Năm 1753 vua Cao Miên là Nặc Ông Nguyên (Ang Snguôn) hà hiếp người Chăm từ Chiêm Thành tị nạn Việt Nam qua Cao Miên, đồng thời thông mưu với chúa Trịnh ngoài Bắc để đánh úp chúa Nguyễn đòi lại đất đai đã mất.
Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1739-1765) sai Nguyễn Cư Trinh hưng binh đánh Cao Miên mùa hạ năm 1754. Binh triều vừa đi tới sông Vàm Cỏ thì quân địch cả sợ ra hàng. Nặc Nguyên chạy ra Vĩnh Long.
Ở vùng Vàm cỏ Nguyễn Cư Trinh chiêu dụ người Chăm tị nạn bây giờ không nơi nương tựa có tới 10.000 người và hộ tống họ đi về Ðồng Tháp Mười (Tà Vô Ân).
Ở đây phục binh của vua Cao Miên ùa ra đánh giết người Chăm chết mất 5.000 người. Quân tiếp ứng của ông Thiện Chính đến không kịp để cứu. Về sau Vũ Vương giáng chức ông Thiện Chính xuống làm Cai Ðội.
Nguyễn Cư Trinh cứu được 5.000 người Chăm cho về định cư ở núi Bà Ðen, Châu Ðốc. Nguyễn Cư Trinh lại tuyển người Chăm khoẻ mạnh đưa cho khí giới thúc họ đi tiên phong đánh quân Cao Miên trả thù. Quân triều Nguyễn đi sau ủng hộ. Thanh thế to lớn nên vua Cao Miên bỏ chạy xuống Hà Tiên nhờ Thiên Tứ cứu mạng.

Vua Cao Miên nhờ Tứ xin với Võ Vương cho dâng hai phủ: Tầm Bôn (Gò Công) và Lôi Lập (Tân An) để chuộc tội.
Chúa Nguyễn thuận cho và truyền cho nhập vào châu Ðịnh Viễn.
Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát cho vua Cao Miên Nặc Ông Nguyên về nước. Vua Nặc Ông Nguyên băng hà năm 1758.
Dòng họ vua Cao Miên tranh nhau làm vua. Mạc Thiên Tứ giúp cho Nặc Ông Tôn lên làm vua nên được tặng đất Tầm Phong Lâm (Meat Chruk) tức Châu Ðốc và Sa Ðéc.
Nội chiến ở Cao Miên vẫn không dứt. Các vua Cao Miên lại sang triều Nguyễn dâng đất cầu cứu. Thế là:
– Nặc Ông Thuận (Thommo Réchea) hiến Sóc Trăng, Bạc Liêu.
– Nặc Ông Tôn (Ang Tong) hiến hết đất từ núi Thất Sơn, Sa Ðéc, Kiên Giang và Long Xuyên về sau đều thuộc chủ quyền chúa Nguyễn.

Từ đây chấm dứt cuộc Nam tiến của dân tộc Việt nam.
Và như vậy vùng đất Nam Bộ đã thuộc về Việt Nam trước khi người Pháp xâm lược Đông Dương, nó không như luận điệu dối trá của các thế lực Samrensi tuyên truyền.
Về nguyên tắc của công pháp quốc tế, biên giới quốc gia đã được định hình trong những biến cố lịch sử từ khi nó được thế giới công nhận, không hồi tố. Đòi lại vùng đất mà cách đây hàng trăm năm đã được sát nhập vào quốc gia khác mà chủ yếu là do Tổ Tiên mình dâng hiến là không thể xem xét.
Sam Rainsy chỉ lợi dụng vấn đề này để kích động tính dân tộc của người Khmer mà thôi.

KHOAN VỀ ANH ƠI !…

From facebook:  Phan Thị Hồng‘s post.
 

KHOAN VỀ ANH ƠI !…

Thôi nhé khoan về thăm anh yêu ơi !
Quê nghèo bây giờ mịt mờ trùng khơi
Tôm cua cá ốc chết nằm la liệt
Có gì vui đâu mà về đây chơi !…

Thôi nhé khoan về thăm chốn quê xưa
Biển rộng sóng trào hôi thúi xông bừa
Giòi bọ lan tràn đục thân cá chết
Khổ ải chi bằng biển vắng chiều mưa !…

Thôi nhé khoan về biển ấm quê hương
Dẫu xa nhung nhớ thương sao là thương
Bây giờ ô nhiễm nước càng thêm độc
Cá chết tràn bờ biển cả đầy xương !…

Thôi nhé khoan về… khoan về nha anh
Nhớ chiều hai đứa dạo biển trời xanh
Tay đan trong tay tình yêu ngây ngất
Nhưng biển bây giờ chất độc bao quanh !…

Thôi nhé khoan về…em vẫn nhớ thêm
Khấn nguyện trời xanh đêm lại qua đêm
Cầu cho quê mẹ qua cơn hoạn nạn
Trăm họ thái bình cuộc sống êm đềm !…

Mai mốt anh về biển dệt thành thơ
Nhà nhà hạnh phúc cuộc sống như mơ
Mai mốt anh về tung tăng trong gió
Cánh diều ấm áp nụ cười trẻ thơ !…

Liverpool.29-4-2016
Song Như.

Tác giả Song Như – cô gái nhỏ trong hình – cùng cha mẹ đã nhiều lần viếng thăm miền Trung.
(hình chụp tại phi trường Đà Nẵng).

Việt Nam chịu thiệt nhiều nhất trong Bộ Quy Tắc ứng xử biển Đông

Việt Nam chịu thiệt nhiều nhất trong Bộ Quy Tắc ứng xử biển Đông

 
 ASEAN sắp họp để thông qua Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông (COC) và nhiều khả năng sẽ không đề cập đến Quần đảo Hoàng Sa. Theo phân tích của tạp chí Forbes, đó sẽ là viễn cảnh tệ hại nhất đối với quá trình đòi lại chủ quyền biển đảo của Việt Nam.
Trung Quốc cho xây dựng các công trình quân, dân sự trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa (ảnh: Amusingplanet.com)
Trung Quốc cho xây dựng các công trình quân, dân sự trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa (ảnh: Amusingplanet.com)

Tuần này, các nhà lãnh đạo 10 nước ASEAN (Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á) đang họp tại Philippine, có thể trọng tâm các cuộc thảo luận là về giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng biện pháp hòa bình.

Bốn nước thành viên ASEAN gồm Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam đều có tuyên bố chủ quyền tại các hòn đảo và vùng nước giàu tài nguyên trên Biển Đông. Trong khi, Trung Quốc cho rằng toàn bộ diện tích  3,5 triệu km2 vùng biển này đều nằm dưới quyền kiểm soát của họ.

Sau nhiều năm thảo luận, trong cuộc họp lần này các nước ASEAN mong muốn có thể chốt đưa ra Quy tắc Ứng xử (COC) vào tháng 6 tới, sau đó sẽ rà soát lại lần nữa vào cuối năm nay hoặc đầu năm 2018 trước khi áp dụng chính thức.

COC là một bộ các quy tắc ràng buộc nhằm mục đích giảm các rủi ro khi các bên hành xử trong vùng biển tranh chấp. Các bên liên quan đều né tránh không thảo luận sâu thêm về COC suốt từ khi họ ký kết vào Tuyên bố Ứng xử (DOC) năm 2002 nhằm khởi động đàm phán COC toàn diện.

 

Theo đánh giá của Tạp chí Fobes, nếu COC được thông qua lần này, bên chịu thua thiệt nhất sẽ là Việt Nam.

Việt Nam, với tư cách là thành viên ASEAN có tuyên bố chủ quyền Biển Đông sẽ muốn có một quy tắc ứng xử hoặc bất kỳ một văn kiện liên quan nào đó phải bao gồm Quần đảo Hoàng Sa. Nhưng Trung Quốc không đồng ý điều này. Bắc Kinh đã kiểm soát toàn bộ 130 đảo nhỏ trong Quần đảo Hoàng Sa, nằm ở phía Tây Nam HongKong từ năm 1974. Khi đó, chiến tranh Việt Nam đang leo thang căng thẳng với sự thất thế của chính quyền miền Nam (Việt Nam Cộng Hòa), Trung Quốc đã thực hiện một trận đánh chớp nhoáng chiếm toàn bộ Quần đảo Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hòa. Hiện tại, Cộng hòa XHCN Việt Nam vẫn tuyên bố chủ quyền trên Quần đảo Hoàng Sa, nhưng đã mất hoàn toàn quyền kiểm soát trên thực chất.

Chính vì đã hoàn toàn kiểm soát Quần đảo Hoàng Sa nên Trung Quốc dùng mọi biện pháp để ngăn cản không cho tàu thuyền Việt Nam hoặc bất cứ nước nào khác đến gần quần đảo này. Nếu COC đề cập tới Quần đảo Hoàng Sa tức sẽ có hàm ý rằng một quốc gia khác có thể tiếp cận các rạn đá ngầm, đảo san hô và các vùng nước xung quanh quần đảo. Do đó, Trung Quốc nhất quyết phản đối COC nhắc tới Quần đảo Hoàng Sa và thực tế suốt 6 năm qua nước này vẫn tìm cách ngăn cản ASEAN thông qua COC vì lo sợ rằng sẽ làm ảnh hưởng đến sự kiểm soát của Trung Quốc trên Biển Đông.

 

Việt Nam cùng 3 thành viên ASEAN khác và Trung Quốc cùng tuyên bố chủ quyền của mình và đang chia sẻ kiểm soát trên các đảo nhỏ tại một quần đảo khác ở Biển Đông, quần đảo Trường Sa. Các nước đều đang cho thăm dò tìm kiếm tài nguyên khoáng sản như khí và dầu mỏ dưới đáy biển ở khu vực đảo do mình kiểm soát.

Đặc thù ở Trường Sa là nhiều nước cùng kiểm soát, nên nếu Trung Quốc không muốn thông qua một quy tắc ứng xử chung cho việc di chuyển an toàn trong vùng biển này, họ cũng sẽ gặp nhiều nguy cơ rủi ro tương tự như các nước khác.

Giáo sư chính trị học Carl Thayer của Đại học New South Wales, Úc cho biết: “Không ai có thể buộc Trung Quốc rút khỏi Hoàng Sa. Điều khả dĩ nhất chúng ta có thể hy vọng là Việt Nam sẽ dùng biện pháp tài phán, chẳng hạn như kiến nghị lên Tòa Trọng tài Thế giới The Hague”.

Việt Nam đang cố gắng có mối quan hệ tốt hơn với Trung Quốc bất chấp hai nước có hàng loạt các tranh chấp lãnh thổ trên đất liền và biển đảo hàng nhiều thế kỷ qua.

Tâm lý chống Trung Quốc vẫn còn rất cao trong đa số người dân Việt Nam. Nhưng chính quyền Hà Nội vẫn đang đàm phán song phương với Bắc Kinh về vấn đề lãnh thổ trên biển bên ngoài khuôn khổ ASEAN và vẫn hưởng những lợi ích kinh tế như nhập khẩu giá rẻ và số lượng lớn khách du lịch Trung Quốc.

Cho dù, giờ đây Trung Quốc có thể tạm làm yên lòng các nước ASEAN có yêu sách chủ quyền trên biển bằng cách hỗ trợ và đầu tư. Nhưng, có thể cuối cùng họ vẫn sẽ phải đối mặt với sức ép từ chính phủ Hoa Kỳ vì những hành động quá mức của mình. Trong suốt nhiều thập kỷ qua, Bắc Kinh đã liên tục mở rộng kiểm soát biển, bao gồm cả việc xây dựng các hòn đảo nhân tạo sẵn sàng lắp đặt hệ thống radar và các hạ tầng quân sự, máy bay chiến đấu.

Việt Nam và các nước thành viên ASEAN đang có 4 ngày họp tại Philippines, kết thúc vào thứ Bảy 29/4, có lẽ sẽ không đưa vấn đề Hoàng Sa vào COC, ngay cả khi Việt Nam cố gắng thuyết phục. Các nước kiên định ủng hộ Trung Quốc có Cambodia và Lào, ngay cả nước Chủ tịch ASEAN năm nay là Philippines cũng sẽ bỏ qua tranh chấp biển để ủng hộ Trung Quốc. ASEAN là một tập thể luôn theo đuổi sự đồng thuận toàn bộ và không muốn gây rạn nứt nội khối, cũng như với các nước bên ngoài.

COC mà không có điều khoản đề cập tới Quần đảo Hoàng Sa sẽ cho phép Trung Quốc tăng cường ảnh hưởng nhiều hơn đến quần đảo này, nơi mà Bắc Kinh đang xây dựng một thành phố nhỏ, cùng nhiều cơ sở hạ tầng quân sự.

Ông Collin Koh, chuyên gia nghiên cứu về an ninh hàng hải tại Đại học Kỹ thuật Nanyang ở Singapore, cho biết: “Tôi không nghĩ rằng Trung Quốc sẽ muốn có điều đó trong quy tắc ứng xử, bởi vì tôi nghĩ rằng đối với Trung Quốc Hoàng Sa là một vấn đề song phương giữa nước này và Việt Nam, và tôi thậm chí còn thấy rằng một số quốc gia ASEAN có thể cũng không muốn đề cập tới Hoàng Sa trong COC bởi vì họ biết đó là một yếu tố phức tạp không cần thiết”.

Xuân Thành/ theo Forbes

Ba Dũng, La Thăng, Bá Tỵ ơi, ngồi đó mà đợi chết hay sao?

From facebook: Hoa Kim Ngo and Thanh Tran shared Thành Phạm‘s post.
Image may contain: 2 people, suit
No automatic alt text available.

Thành Phạm added 2 new photos — with Minh Tuan Nguyen 

 Ba Dũng, La Thăng, Bá Tỵ ơi, ngồi đó mà đợi chết hay sao?

Ba Dũng không thể không run khi thấy Nguyễn Phú Trọng cùng phe nhóm đã sờ đến gáy Đinh La Thăng. Mức kỷ luật chỉ là cảnh cáo. Cảnh cáo là một trong 7 bậc xử lý kỷ luật của Luật lao động hiện hành. Nếu chỉ ở cấp độ chính quyền xử lý thì Thăng còn đang thoát. Nghĩa là chức vụ vẫn còn nguyên. Còn bên Đảng căn cứ vào mức kỷ luật cảnh cáo để xử lý tiếp thì tôi không biết Thăng sẽ còn bị thế nào nữa? Như khai trừ khỏi đảng, chẳng hạn. Mà khai trừ khỏi đảng thì các chức vụ khác cũng teo và con đường Thăng đi bóc lịch dài ngày là khó thoát. Khai trừ đảng để thịt Thăng, điều này có xảy ra không? Chỉ có Nguyễn Phú Trọng và vây cánh chủ chốt của ông ta mới biết được. Ba Dũng bây giờ đang ở vòng ngoài cũng chỉ đoán già, đoán non, khó mà biết chính xác số phận Thăng sẽ có một hạ hồi như thế nào?.

Tôi đoán, Thăng sẽ khó thoát, không chỉ dừng lại ở mức bãi nhiệm chức rồi vô hiệu hóa mà ở mức nặng hơn. Nguyễn Phú Trọng, cách đây độ vài tháng đã bắn tín hiệu: “Kỷ luật một vài người để cứu vạn người”, là Trọng nhằm bắn vào Thăng. Việc Phú Trọng chỉ mới kỷ luật Thăng ở mức độ “cảnh cáo”, là Phú Trọng tạo cảm giác cho Thăng đã thóat nạn để Thăng bỏ ý định quậy đến mức công khai chống lại Phú Trọng. Cách làm này của Trọng không có gì mới mà chỉ là biểu hiện thực hiện theo đúng kịch bản mà ông ta đã tuyên bố: “Giết chuột nhưng phải giữ cái bình”. Nếu Thăng không tỉnh táo nhận ra chiến thuật từng bước, từng bước của Phú Trọng, để Thăng phòng vệ và quyết đấu, Thăng sẽ bị Nguyễn Phú Trọng dần dần lột từng cái áo, cái quần cho đến khi Thăng bị phơi trần truồng ra rồi sau đó Trọng mới từ từ đưa Thăng vào lò nấu cao.
Nếu Thăng không đủ mạnh, đủ mưu lược, quyết đoán trong phòng vệ nhất định Thăng sẽ bị Phú Trọng đưa vào lò nấu cao toàn tính.

Thăng đến số rồi Thăng ơi! Chưa kể đến những oán hận trong đấu trường quyền tiền diễn ra trong mấy năm nay mà Trọng và phe Trọng đã phải chịu nhiều cay đăng vì Thăng và đồng sự; chỉ xét ở hình thức hiện tại thì Thăng đã vào số phải làm vật hiến tế cho Nguyễn Phú Trọng và phe cánh rồi. Vì, Nguyễn Phú Trọng không thể cứ muối mặt chiến thắng như chiến thắng những chú gà đã chết khi cách chức mấy vị chức sắc mà hiện tại họ không còn giữ chức đó nữa. Cứ diễn mãi cái trò thắng gà chết đó, chỉ tổ cho thiên hạ đàm tiếu chê cười. Và thực tế thiên hạ đã đàm tiếu, đã phỉ nhổ vào mặt Nguyễn Phú Trọng về cái trò kỷ luật “đá thắng gà chết” này rồi. Nguyễn Phú Trọng, còn chút liêm sĩ trong người, không thể không gỡ chút ít sĩ diện bằng cách phải giết ít nhất một con “gà” còn đang sống nào đó. Thăng, số phân rủn rui thế nào lại trở thành con “gà” sống bị hiến tế trong tay Phú Trọng. Hơn nữa, diệt Thăng, là Phú Trọng vừa dọn vật cản, vừa rằn mặt những kẻ còn lừng khừng không ủng họ Trọng tiếp tục làm thêm nửa khóa nhiệm kỳ tổng bỉ thư đảng sẽ quyết định trong tháng 5 tới đây.

2. Nhưng nấu cao Thăng chưa phải là cái đích mà Nguyễn Phú Trọng nhắm đến trước khi nghỉ chức tổng bí thư. Đích nhắm đến của Nguyễn Phú Trọng vẫn là anh Ba Dũng. Óan thù giữa Phú Trọng với Ba Dũng là oán thù không đội trời chung. Thăng bị nấu cao, rồi tới đây đại tướng Đỗ Bá Tỵ về hưu, Ủy viên Bộ chính trị, Trưởng ban Kinh tế Nguyễn Bình bị vô hiệu hóa, thì là lúc Ba Dũng cũng theo đàn em mà vào chuồng Cọp của Phú Trọng. Tôi nghi Ba Dũng chưa lường đến viễn cảnh này. Vì Ba Dũng là dân Nam bộ khoáng đạt. Vì là dân Nam bộ khoáng đạt nên Ba Dũng và chả mấy người Nam bộ biết dân Bắc Kỳ, đặc biệt là dân vùng Cổ Loa thành, có bản tính thù dai như thế nào đâu. Người Tàu chọn Nguyễn Phú Trọng làm vua ở Việt Nam lâu dài, ngoài biết Phú Trọng ngu dốt, lú lẫn ra, họ còn biết rõ Phú Trọng có bản tính thù dai của dân Cổ loa thành. Chưa diệt được Ba Dũng, Nguyễn Phú Trọng không bao giờ từ bỏ chức vụ đang giữ. Mà Trọng biết thời gian còn tại vị của Trọng dài nhất cũng chỉ còn có hơn 2 năm nữa.

Ba Dũng, ông đừng trương mắt ếch lên nhìn ngó xem Phú Trọng sẽ lột da Đinh La Thăng từng bước như thế nào để ông tính toán việc phòng vệ. Đừng nghĩ Thăng chỉ bị cảnh cáo là xong việc. Nghĩ và đợi như vậy, thình lình có ngày, Phú Trọng sẽ có Tàu Cộng yểm trợ sẽ tóm ông như tóm một con lợn đực rừng rồi đẩy ông vào trong rọ. Ông và phe ông muốn sống, muốn tồn tại của cải thì phải hành động ngay tức thì. Trong những năm 2012, 2013, 2014, 2015 và đầu 2016, tôi đã khuyên ông nhiều lần, cần phải tổ chức đảo chính cung đình đi, trong lúc lực lượng của phe ông thừa khả năng để ông dám làm và sẽ ông chiến thắng. Nhưng vì ông quá sợ Tàu Cộng nên không dám làm. Dẫn đến phải chấp tay vái Phú Trong xin được “làm người tử tế”. Để rồi mỗi ngày ông sống là mỗi ngày ông nơm nớp lo sợ Phú Trọng đến diệt ông bất kỳ lúc nào.

Nay thời cơ sống và bảo toàn tài sản của ông vẫn còn. Vấn đề là ông có dám bỏ của cải của ông ra để thực hiện một cuộc đấu công khai với Phú Trọng hay không mà thôi. Nó hoàn toàn là ý chí vượt qua nỗi sợ của chính ông như những người đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam đã từng vượt qua. Ông hãy dũng cảm lựa chọn và kiên quyết đứng về phe nhân dân. Như vậy, được mất của đời ông gắn với sự tồn vong của dân tộc và đất nước sẽ có ý nghĩa hơn nhiều khi ông chỉ trương mắt ếch lên nhìn phe cánh từng đứa của ông bị Phú Trọng đưa vào lò nấu cao và người cuối cùng bị đưa vào lò nấu cao lại chính là ông.

* Chú giải thêm: Trong chế độ độc tài cộng sản, thằng quan nào cũng tham ô, tham nhũng, hà lạm quyền lực, đàn áp và cướp bóc. Vì vậy, thằng nào cũng đáng chết. Nhưng, chết một thằng chết nhiều thằng, dư luận thích, nhưng những cái chết đó có đem lại lợi ích gì cho xã hội hay không mới là điều tôi quan tâm. Vì, thằng này chết thằng kia lên, chúng lại đi theo đúng đường mà những thằng đàn anh trước đã đi thì chết hay sống của thằng nào cũng rứa. Có khi thằng mới lên, mức độ tham ô, tham nhũng, cướp bóc đàn áp dân lành còn khốc liệt hơn lớp đàn anh của chúng. Bởi lý do đó, khen hay chê trước một cái chết nào đó tôi thường phải lựa chọn. Cái chết đó có ích hay vô ích cho xã hội, được mất gì trước mắt cho xã hội.

Nhưng, để góp phần làm cho chế độ độc tài cộng sản tiến nhanh đến sự sụp đổ, tôi luôn cổ vũ cho chúng đánh nhau. Càng đánh nhau to càng tốt. Và tôi không đóng vai chỉ là khan giả khách quan ngồi xem. Tôi chọn một bên để cổ vũ. Người hay đội tôi chọn để khuyến khích biểu dương là người hay đội tôi tin tưởng họ tốt hơn người hay đội ở phía đối thủ. Phân biệt “ tốt” hay “ xấu” ở đây tôi luôn đem cán cân tồn vọng của đất nước để kiểm chứng. Trong mấy năm qua, tôi ủng hộ người và đội của Ba Dũng, phê phán đả kích người và đội của phe Phú Trọng. Cán cân tồn vong của đất nước cho tôi biết rằng, tham lam, phá hoại dân tộc và đất nước, bọn chúng đều như nhau, nhưng theo “án tại hồ sơ” thì biểu hiện bán nước, bán dân tộc cho Tàu Cộng của Phú Trọng và phe nhóm Phú Trọng hơn hẳn Ba Dũng và phe nhóm Ba Dũng.

42 năm qua dưới sự cai trị của cộng sản, người Việt Nam được gì?

42 năm qua dưới sự cai trị của cộng sản, người Việt Nam được gì?

Tác giả Phùng Văn Phụng

Hai triệu người Việt nam chết trong chiến tranh ba mươi năm, để xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà TBT Nguyễn Phú Trọng than thở không biết cuối thế kỹ này có thực hiện được hay không nữa.?

Sau ba mươi năm chiến tranh gia đình nào cũng có người chết hay bị thương tật.

Một triệu người vượt biên trốn chạy cộng sản ra nước ngoài

Ước tính năm trăm ngàn người chết ở biển đông hay trong rừng sâu Campuchia, Thái lan.

Sau 42 năm cộng sản cai trị miền Nam, dân tộc Việt nam được gì?

  • Trước năm 1975 công kỹ nghệ miền Nam đang cất cánh hàng tiêu dùng đủ cho nhu c cùng làm không đủ sống.
  • Hỉện nay, VN không có tự do nghiệp đoàn. Trước năm 1975 có Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt nam, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam v.v….
  • Báo chí không có tự do. Không có báo chí tư nhân. Trước năm 1975 báo chí hoàn toàn tự do, báo chí có thể chỉ trích chính quyền  như các báo Tin Sáng, Đại Dân Tộc, Chính Luận, Sống Thần v.v …
  • Đại Học không được tự trị
  • Không có tự do kinh doanh
  • Không có tự do biểu tình
  • Không có tự do cư trú.
  • Không có tự do thành lập đảng phái. Trước năm 1975, các đảng phái được tự do hoat động, đối lập với chánh quyền như Đai Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, đảng Tân Đại Việt v.v…
  • Không có tự do bầu cử và ứng cử. Ở miền nam trước 1975, bầu cử Thượng Viện rất nhiều Liên danh ra tranh cử. Bầu cử Hạ Nghị Viện, có đơn vị cần một người, có 5, 7 người ra tranh cử . Người dân có quyền đi bầu cử hay không đi bầu cử. Muốn thắng cử phải tranh đua quyết liệt chứ không như bây giờ, đảng cử dân bầu. Chưa bầu cử đã biết ai thắng cử rồi.
  • Bây giờ tam quyền nhập cục, dưới sự lảnh đạo của đảng cộng sản. Trước đây có Tối Cao Pháp Viện, Toà án, Tư pháp hoàn toàn độc lập với Hành pháp. Quốc hội thực sự do dân bầu, độc lập với Hành pháp. Ba cơ quan Hành pháp, Lập pháp và Tư pháp kiểm soát lẫn nhau.( Tam quyền phân lập)
  • Nhờ có báo chí đối lập, có dân biểu, nghị viên đối lập mà cơ quan hành pháp không dám làm bậy, bớt tham nhũng vì sợ báo chí và các thành phần đối lập phanh phui.
  • Hiện nay người dân Việt nam đi làm mướn ở khắp nơi trên thế giới qua Đại Hàn, Đài Loan, ngay cả qua Lào và Campuchia để làm mướn.
  • Phụ nữ qua Singapore, Mã Lai bán dâm.
  • Vẫn còn người Việt tìm cách trốn chạy khỏi Việt nam qua nhiều cách khác nhau.

Như vậy, hy sinh 2 triệu người trong chiến tranh, 500 ngàn chết vì vượt biên, gia đình nào cũng có người thân chết hay bị thương tật. Người dân hy sinh tất cả các quyền tư do căn bản như đã nói trên, cuối cùng dân tộc Việt nam được gì?

Việt nam từng là đất nước đứng đầu Đông Nam Á, thập niên 1960, Lý Quang Diệu mơ ước Singapore bằng được Sài gòn là mừng lắm rồi.

Sau 42 năm cộng sản cai trị, ở Việt Nam, mọi thứ đều tụt hậu,  đứng chót Đông Nam Á,  thua cả Lào và Campuchia.Tại sao?

Chỉ duy nhất một nhóm nhỏ cán bộ, đảng viên có chức, có quyền giàu có nhờ tham nhũng, tước đoạt tài sản của dân mà thôi.

Ghi thêm: Năm 1945 Nhật Bản thua trận, tất cả nhà máy đều tan hoang, 20 năm sau, 1965 thành một cường quốc.

Năm 1975, Việt cộng chiếm miền Nam, nhà máy còn nguyên, tại sao 42 năm sau Việt nam có tình trạng tụt hậu như ngày hôm nay.?

NIỀM VUI TRONG ĐAU KHỔ

NIỀM VUI TRONG ĐAU KHỔ

Một cặp vợ chồng vừa cho chào đời một đứa trẻ bị cụt cả tứ chi, đã có tâm sự thật cảm động như sau. Chúng tôi muốn nói với các bạn một điều: ngày đứa con đầu lòng của chúng tôi mới chào đời, nhìn con chúng tôi bị cụt cả hai tay hai chân chúng tôi xúc động mạnh lắm, những giọt nước mắt của đứa trẻ vừa mở mắt chào đời bị cụt tứ chi làm chúng tôi cảm thấy xót xa như dao cắt cõi lòng. Nhưng chúng tôi có thể nói bằng nụ cười của một đứa trẻ bị cụt tay chân từ lúc mới sinh. Không còn gì an ủi cho bằng ẵm lấy đứa trẻ bị cụt tay chân vào lòng, không còn gì sâu sắc hơn ánh mắt của đứa trẻ tật nguyền ấy. Chúng tôi có thể nói với các bạn rằng khi nhìn đứa bé tật nguyền ấy với cặp mắt tràn lệ sung sướng nó như muốn nói với bạn rằng: “Cám ơn ba má đã thương yêu con và đã muốn con được hạnh phúc”. Lúc đó, bạn sẽ bắt đầu hiểu những gì bạn chưa bao giờ hiểu trước đó.

Nếu bạn nhìn lên Chúa Giêsu chết treo trên thập giá, bạn sẽ nhìn lại và nhìn thẳng vào ánh mắt của Ngài, Ngài cũng hầu như không còn tay chân nữa, bởi vì cả hai tay chân Ngài đã bị đinh sắt đâm thâu, bị bất động và bị đóng chặt vào gỗ thánh giá. Rồi bạn hãy nhìn chăm chú không phải vào tay chân bị cụt mất của đứa con yêu dấu tật nguyền của bạn, nhưng bạn hãy nhìn vào ánh mắt của con, vào trái tim và vào tâm hồn của nó nếu bạn có thể nhìn được. Và rồi bạn sẽ sung sướng khám phá ra những gì cặp mắt của thân xác bạn không thể nhìn thấy, đó là người con yêu dấu bất hạnh của bạn đang chiếm hữu hạnh phúc bất diệt của thiên đàng.

***

Chứng từ của cha mẹ đứa bé tàn tật trên đây nói lên lòng tin vững mạnh vào Mầu Nhiệm Ðau Khổ. Ðó cũng là cách mà các tín hữu tiên khởi suy niệm khi nhớ lại lời giảng của Chúa Giêsu. Những lời nói thật chói tai nhưng có sức đánh động tâm hồn họ hơn cả: “Phúc thay ai sầu khổ vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5:5) hay “Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc9:23).

Cái chết khổ hình thập giá của Chúa Giêsu đã làm cho dân Do Thái phải kinh ngạc: Qua những phép lạ lớn lao tay Ngài thực hiện, nào là cho bánh hoá nhiều, chữa lành bệnh tật, kẻ chết sống lại; thế mà đến lúc cuối đời, dù bị oan ức, tra tấn sỉ nhục và chết cách dã man trên thập giá, Ngài cũng không làm một phép lạ nào để tự cứu mình khỏi khổ đau.

Ngài đã lau khô nước mắt của những người đau khổ, đã biến những nỗi khổ đau thành niềm vui, nhưng Ngài không hoàn toàn khử trừ đau khổ khỏi mặt đất! Bởi vì mầu nhiệm của đau khổ và sự chết vẫn là một thực tại được tiếp diễn qua mọi thời đại. Nhưng việc Phục sinh khải hoàn của Chúa Giêsu chính là sự bảo đảm và là lời minh chứng hùng hồn về giá trị của đau khổ.

Ðau khổ không phải là cùng đích của đời sống con người, cũng chẳng phải là con đường cùng; nhưng đối với những kẻ tin vào sứ mệnh cứu độ của Chúa Giêsu thì bên kia bóng tối của sự chết và đau khổ, chính là ánh sáng của sự sống vĩnh cửu và của hạnh phúc bất diệt.

***

Lạy Chúa, con có thể tìm Chúa trong mọi nẻo đường và nơi các sự vật, con cũng có thể gặp Ngài ngay trong những đau khổ chồng chất của đời con. Vâng, con tin chắc rằng khi con gặp được Chúa là con gặp được sự ủi an, hạnh phúc và niềm vui. Xin Chúa giúp con luôn xác tín rằng ơn cứu độ của Chúa sẽ biến đổi những đau khổ chóng qua của con hôm nay thành hạnh phúc bất diệt cho con ngày mai trên Nước Trời. Amen.

Thầy Uông Đai Bằng gởi

“Có lần tôi thấy một người đi,”

 Suy Tư Tin Mừng Chúa nhật thứ 3 Phục Sinh 23/4/2017

Tin Mừng (Lc 24: 13-35)

Vào ngày thứ nhất trong tuần, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Emmau, cách Giêrusalem chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Ngài. Ngài hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.

Một trong hai người tên là Clêôpás trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay.” Đức Giêsu hỏi: “Chuyện gì vậy?” Họ thưa: “Chuyện ông Giêsu Nadarét. Ngài là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Ngài để Ngài bị án tử hình, và đã đóng đinh Ngài vào thập giá. Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Ngài là Đấng sẽ cứu chuộc Israel. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Ngài đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy.

Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông rằng: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Ngài sao? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh.

Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa. Họ nài ép Ngài rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” Bấy giờ Ngài mới vào và ở lại với họ. Khi đồng bàn với họ, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài, nhưng Ngài lại biến mất Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Ngài nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao? “

Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simôn.” Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Ngài bẻ bánh.

&   &   &

“Có lần tôi thấy một người đi,”

“chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì.

Chân bước hững hờ theo bóng lẻ,

một mình làm cả cuộc phân ly.”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

Thấy người đi hôm ấy, nhà thơ cứ ngỡ mình làm cuộc “phân ly”. Biết Chúa đã sống lại, nhà Đạo lại ngờ rằng: đó không phải. Vì nghĩ không phải, nên mới hững hờ. Thờ ơ. Tranh cãi.

Trình thuật thánh Luca, nay đưa ra luận cứ về điều mà nhiều thành viên Hội thánh xem ra vẫn cãi tranh, giành giựt mọi thắng lợi để thuyết phục người người chấp nhận lý lẽ mình đưa ra.

Về sống lại, nhiều sự kiện xảy đến với Chúa, không theo hướng quen thuộc, nên nếu người người sử dụng ngôn ngữ bình thường để suy nghĩ, sẽ thấy cũng khó mà tin. Khó, nhưng đó là việc có thật, từng xảy đến. Chúa sống lại, tuy gây dao động, nhưng đã tạo cho mọi người xác tín rằng niềm tin chính là quà tặng Chúa ban để mọi người có dịp suy nghĩ. Suy và nghĩ, những gì xảy đến với Chúa, rất hợp tình. Hợp lý. Chẳng nghi nan.

Xét bề ngoài, ta thấy nhiều việc xảy đến với Chúa xem ra khá mâu thuẫn. Nên trên thực tế, không phải ai ai cũng đều công nhận Chúa đã sống lại làm người thường. Nhưng, nếu Ngài lại bằng cách mặc lấy xác phàm làm người thường, thì sau đó, chắc Ngài sẽ phải chết thêm lần nữa.

Sự thật, không phải thế. Trình thuật hôm nay, thánh Luca mô tả việc Chúa đến đồng hành với môn đệ bằng hình hài ta thấy và sờ chạm được bằng chân tay, nhưng không thể tưởng tượng được là: Ngài sẽ phải chết, thêm lần nữa. Thật ra, không thể có chuyện như thế. Điều, thánh Luca kể ở Tin Mừng, là để nói lên ý nghĩa nào đó mà nhiều vị gọi là truyện “Đường Emmaus, hành trình với môn đệ”.

Về thể lý, một khi đã chết rồi, thì những gì là xác thân hoặc vật thể vũ trụ, đều rữa nát, vỡ tan. Không ai có thể trở lại sống với xác thân có xương thịt vẹn toàn như khi trước. Chẳng người nào lại có thể duy trì cùng một xác thân, suốt miên trường. Khi đã chết rồi, mà lại tái sinh với nguyên vẹn hình hài như khi trước, thì đó chỉ có thể là vòng chuyển luân, luẩn quẩn hết kiếp này đến kiếp khác, khoanh tròn quanh thành vòng quay sống-chết/chết-sống, không lối thoát.

Truyện hai môn đệ hướng về thành đô Giêrusalem được thánh Luca ghi chép, còn để nói lên rằng: Đức Giêsu được đồ đệ nhận ra Ngài đích thực là Đức Chúa Ngôi Hai, vẫn tồn tại với mọi người. Ngài chẳng là quỉ ma hiện hồn theo qui cách của người thật. Nhưng, Ngài hiển hiện qua hình hài sao đó, rất sống động (Mc 16: 12).

Ở đây nữa, khi viết Tin Mừng Phục Sinh, thánh Luca tập trung nhấn mạnh vào điểm, bảo rằng: Chúa tỏ cho mọi người thấy hình hài của Ngài theo qui cách rất khác, nên khi gặp lại Ngài, đồ đệ thấy mình sợ hãi, đến khiếp kinh (Lc 24: 37). Vì kinh khiếp, nên đồ đệ mới nói năng những điều chẳng có nghĩa. Theo nhà chú giải Kinh thánh Herbert McCabe, thì: khi đồ đệ gặp Thầy Chí Ái, các thánh cứ tưởng Thầy là Vị đồng hành chẳng hề quen biết. Kịp đến khi Thầy nhắc lại toàn bộ chi tiết về lịch trình cứu độ, các thánh mới vỡ lẽ ra đó là Thầy.

Xem thế thì, Phục Sinh là điều mà người phàm xác thịt chúng ta chẳng thể nghiệm ra bằng lý lẽ của đời thường, để kiểm chứng. Bởi, dù biết Chúa sống lại thật, các thánh vẫn không coi đó như một chứng cứ hiển nhiên, tựa khi Ngài còn sống. Nhận biết hình hài Chúa rất nhãn tiền, điều đó có nghĩa: các thánh đã có động thái tin-yêu rất khác thường, trong cuộc sống. Và, đây là thực tại chỉ xảy đến với những người cũng trỗi dậy như Chúa và với Chúa bằng niềm xác tín yêu thương của người vẫn tin. Tin, theo qui cách và ý nghĩa khác. Khác ra sao, đó là vấn đề. Là, sự thực. Thực ra sao? Cũng nên suy xét.

Trở về với lập trường chú giải của các tổ phụ thuộc Giáo hội Đông phương thời tiên khởi, như: Thượng phụ Origen, Grêgôriô thành Nyssa… khi gọi sự việc gì là ‘cảm nhận linh thiêng’, các ngài có ý nói về cảm xúc thiêng liêng, sốt sắng. Điều mà các đấng bậc trên nói đến, có ý bảo rằng: tất cả chúng ta đều mang trong người cung cách yêu thương có nhận thức sự vật mà não-bộ-thần-kinh-thuộc-mé-trái không thể lĩnh nhận.

Nhờ yêu thương như thế, con người ‘định hình’ sự vật thành những ảnh hình như do chính mình tạo ra. Làm như thế, là để tác tạo thực thể như mọi người vẫn làm cho chính mình, nơi phần sâu thẳm của con người. Làm như thế, là để nhận thức rằng: thực thể ấy có thật. Vượt quá phạm vi và qui cách của ảnh hình. Nói theo ngôn từ triết học, thì các triết gia gọi đó là “tiềm thức”. Coi đó là giòng chảy sống, rất diệu kỳ. Là, sờ chạm thế giới nguyên uỷ không hư nát, mà thường ra, ta không sống ở trong đó.

Nhận thức sự vật như thế, giống hệt cảm giác thấy được ‘lửa ngọn’ rực cháy trong người mình. Lửa rực cháy, khiến mình sống yêu thương, hạ mình. Thúc bách mình sống bừng sáng luôn tiến về phía trước. Có tiến như thế, mới cảm nhận được ‘lửa ngọn bùng bừng’ đang trào dâng với mức độ rất mới mẻ. Khác thường. Có kinh nghiệm từng trải rồi, người người sẽ nhận ra cuộc sống lại thực sự đang dâng trào nơi con người mình.

Đó là cung cách mà dân con đồ đệ dám sử dụng thơ văn như chưa từng làm, và cũng chẳng ai nghĩ tới để diễn tả tình huống Chúa Phục Sinh hiện hình với dân con của Ngài, thật như thế. Có thể nói, các thánh đã sờ chạm Chúa. Cảm nhận được nhịp đập nơi tim mạch cùng vết thương đầy máu của Ngài. Thấy được Thầy mình bẻ bánh rồi cầm lên ăn. Các thánh không thể quên được vị ngọt nơi bánh thánh Thầy trao tặng. Tự thân, các thánh đều biết rõ chính Thầy là Đấng đã bẻ bánh phân phát cho người nghèo hèn, rất đói kém. Tương lai mai ngày, rồi ra các ngài cũng sẽ tạo nên thơ/văn như thế để kể về Thầy đến với mình, nơi nào đó. Thầy đến để bẻ bánh, ban phát tình thương yêu nồng thắm, cho chúng nhân.

Thực tế là như thế. Nhưng ngày nay, điều đáng buồn là rất nhiều tín hữu Đức Kitô cứ khăng khăng tin rằng thân xác Chúa trỗi dậy với cuộc sống theo hình thức rất thể lý. Rất nghĩa đen. Và, họ coi đó như thực tại duy nhất, không bàn cãi nữa. Buồn hơn nữa, lẽ đáng ra, ta phải hiểu Phục Sinh nhiều hơn thế.

Nếu hiểu Phục Sinh chỉ là Chúa hiện diện với hình hài xác thể như khi trước thôi, tức là ta tự mình để luột mất ý nghĩa chính đáng, của nhiệm tích có thực. Buồn biết bao, khi nhiều người/nhiều vị vẫn lên án các đấng bậc nào khác nhận thức Chúa sống lại theo kiểu cách thơ văn mà thánh Luca viết theo dạng dụ ngôn, hay sao đó. Buồn nhiều cả, là: các vị không nghe và không thấy giòng chảy thi ca/âm nhạc vẫn tiềm tàng ẩn mình ở trong đó. Thực tại Sống Lại rất thật. Thật, một cách đích thực.

Quả thật, Chúa sống lại THỰC. Ngài khiến ta THỰC THỤ sống lại với tình

Thương như bao giờ sống vậy. Trong tâm tình đó, tưởng cũng nên ngâm nga tiếp nguồn thơ/văn của thi sĩ trên, còn viết tiếp:

“Có lần tôi thấy một bà già

Đưa tiễn con đi, trấn ải xa

Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng

Lưng còng đổ bóng, xuống sân ga.”

(Nguyễn Bính – Những Bóng Người Trên Sân Ga)

“Thấy một bà già” hay thấy nhiều bà mẹ còn đó bóng hình đổ trên sân ga cuộc đời, là thực tại. Thấy lưng bà còng. Thấy bóng hình chờ con của bà “sống lại” rồi chợt đến để sẻ bánh/chia cơm, mà sống thực. Thực tình sống cõi đời đầy yêu thương, như Chúa dạy. Suốt miên trường. Đó cũng là ý nghĩa và tác động của thơ văn, trong đời.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –

Mai Tá lược dịch.

Tôi van xin đừng đến nữa tình yêu ơi.”

Chuyện Phiệm Đọc Trong Tuần thứ 3 Phục Sinh năm A 30/4/2017

KHÔNG 2 – NGUYỄN ÁNH 9 – ca sỹ DAVID MINH ĐỨC

httpv://www.youtube.com/watch?v=-suN-cYXWFc

“Thôi, thôi, tôi van xin

Tôi van xin đừng đến nữa tình yêu ơi.”

(Nguyễn Ánh 9 – Không 2)

(Mt 5: 33-37)

Ối chà chà, là âm-nhạc! Nhạc gì mà, cứ hết hát chữ “Không 1” rồi lại “Không 2”, toàn những “Không” và Không”, đến rợn người. Thơ gì mà cứ nói, hết tiếng “Thôi” cho xong, rồi lại phán tiếp những từ và những ngữ “Đừng”, rồi “Chớ” và “Thôi” đến liên hồi?

Này nhé, bạn thử xem: bàn chuyện tình-yêu, mà người viết nhạc cứ kể nhiều chi-tiết như thể bảo:

“Tình yêu cho tôi chi nhiều ngây ngất.

Tình yêu cho tôi chi lắm men say.

Để tình yêu đem thương đau và nước mắt.

Để tình yêu đem cho tôi lắm chua cay.

Người ơi cho tôi chi lời ân ái.

Người ơi cho tôi chi phút mê say.

Để giờ đây ai cho tôi lời cay đắng.

Để giờ đây ai cho tôi lắm phũ phàng.”

(Nguyễn Ánh 9 – bđd)

Thôi thì, hôm nay đây, bần đạo chả dám mạn-đàm về những câu ca/tiếng hát đầy tiêu-cực, đến như thế. Cũng hệt như thể, bần đạo đây, chỉ muốn sưu-tầm các nhạc buồn vời vợi, mãi không…thôi, ư?

Thôi thì, hôm nay đây, nhân lúc đàm-đạo dăm ba câu chuyện rất ư là “tiêu-cực” để bạn và tôi, ta thấy được rằng: trong cuộc đời người, nhiều điều/nhiều thứ cũng đa-dạng, tích-cực và tiêu-cực đầy đủ hết.

Thôi thì, hôm nay đây, trước khi đi vào chủ-đề chính-yếu và chính-chuyên, xin mời bạn/mời tôi, ta cứ dấn bước đi vào vùng trời truyện kể, có sự thể rất tiêu-cực đối-chọi với điều tích-cực, hoặc về: kiếp trước/kiếp sau đối-chọi nhau, như sau:

“Bạn hỏi mình: Có kiếp trước hay không?

Sao mỗi con người sanh ra lại khác nhau đến thế?

Có kẻ đẹp kẻ xấu. Có người khôn người ngu. Có đứa sang đứa hèn.

Nhưng bạn ơi, xấu – đẹp, khôn – ngu, sang – hèn … là do bạn nhìn nó như vậy.

Chứ bản thân mỗi người đều là mỗi tuyệt tác đấy thôi.

Máu ai cũng đỏ. Nước mắt ai cũng trong. Trái tim ai cũng đập.

Sự phân-biệt đến do bạn nhìn như vậy.

 Bạn lại hỏi mình: Có kiếp sau hay không?

Mình mới hỏi lại: Bạn cần kiếp sau để làm gì?

Để thấy người sống thiện được đền đáp,

người tội lỗi bị dầu sôi, người tu đạo được giải thoát.

Nhưng bạn ơi, đâu cần tới kiếp sau.

Nhân quả nhãn tiền.

Chỉ do bạn không thấy.

 Bạn có bao giờ nhìn sâu vào cuộc sống.

Người có lòng Từ, khuôn mặt sẽ dịu nhẹ bao dung, vòng tay sẽ ân cần rộng mở.

Kẻ thủ ác, trong tim chứa đầy lửa dữ. Tự đốt mình, đâu cần địa ngục xa xôi. Đôi mắt láo liên, hằn những đường gân máu. Luôn cau mày, luôn nhức nhối thân tâm.

Ai xức nước hoa, người sẽ thoang thoảng hương thơm.

Trái tim ai đẹp sẽ lung linh như vầng trăng ấy.

 Và bạn ơi, phút giây này hạnh phúc. Được mỉm cười, được chiêm ngắm đổi thay. Tìm cầu chi nữa quá khứ vị lai. Chẳng nơi nào đẹp như bây giờ hiện tại. Cành sen trắng đang rưng rưng trong nắng. Bụt mỉm cười lấp lánh đoá Vô Ưu.

 “Đừng bao giờ giữ lại một cái gì mà chờ cơ-hội đặc-biệt cả. Mỗi ngày sống, đã là một cơ-hội đặc-biệt rồi!”

 Tôi suy đi nghĩ lại câu nói này, và nó đã thay đổi cuộc đời tôi. Hiện nay tôi đọc sách nhiều hơn trước và bớt dọn dẹp nhà cửa. Tôi ngồi trước mái hiên mà ngắm cảnh chứ không buồn để ý đến cỏ dại mọc trong vườn.

 Tôi dành nhiều thì giờ cho gia đình và bạn hữu, hơn là cho công việc. Tôi hiểu rằng, cuộc đời là những cảm-nghiệm mình cần phải nếm. Từ ngày ấy, tôi không còn cất giữ một cái gì nữa. Tôi đem bộ ly pha-lê ra sử-dụng mỗi ngày; tôi mặc áo mới để đi siêu-thị, nếu mình bỗng thấy thích. Tôi không cần dành nước hoa hảo-hạng cho những ngày đại lễ, tôi xức nước hoa khi nào mình thấy thích.

 Những cụm-từ như: “một ngày gần đây” và “hôm nào”, đang bị loại khỏi vốn tự-vựng của tôi. Điều gì đáng bỏ công, thì tôi muốn xem, muốn nghe, muốn làm ngay bây giờ. Tôi không biết chắc là vợ của bạn tôi hẳn sẽ làm gì, nếu cô ấy biết trước rằng mai đây mình không còn sống nữa. (một ngày mai mà tất cả chúng ta xem thường)

 Tôi nghĩ rằng, cô ấy hẳn sẽ mời mọi người trong gia-đình, mời bạn bè thân-thích đến. Có thể cô sẽ điện cho vài người bạn cũ, và làm hòa hay xin lỗi về một chuyện bất hòa trước đây. Tôi đoán rằng: cô ấy sẽ đi ăn các món Tàu (vì cô rất thích ăn đồ Tàu!)

 Chính những chuyện vặt-vãnh mà tôi chưa làm, khiến cho tôi áy náy, nếu tôi biết rằng: thì giờ tôi còn rất có hạn. Tôi sẽ rất áy-náy vì không đi thăm một vài người bạn mình cần phải gặp, mà cứ hẹn lần hồi. Áy náy, vì không nói thường hơn, với những người thân của mình rằng: mình yêu thương họ. Áy náy, vì chưa viết những lá thư, mà mình dự định ‘hôm nào’ sẽ viết.

 Giờ đây, tôi không chần-chờ gì nữa, tôi không hẹn lại và không cất giữ điều gì, có thể đem lại niềm vui và nụ cười cho cuộc sống chúng tôi. Tôi tự-nhủ rằng mỗi ngày là một ngày đặc biệt. Mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút đều đặc-biệt cả. Nếu bạn nhận được thư này, ấy là vì có một ai muốn điều hay cho bạn, và vì bạn cũng có quanh mình những người bạn quý yêu. 

 Nếu bạn quá bận, đến độ không thể dành ra vài phút gửi đến cho ai khác và tự nhủ: “mai mốt tôi sẽ gửi” thì mai mốt đó, có thể là một ngày thật xa hoặc là bạn không bao giờ gửi được.” (trích điện-thư bạn gửi cho nhau, trên mạng, cũng rất nhiều).

 Vâng. Những nhắn-nhủ và tự-nhủ như trên, đã đưa người kể và người đọc hãy cứ suy-tư đôi chút về những điều được nói đến, ở Kinh/Sách nhà Đạo, có những câu/những chữ “Đừng”, “Chớ” và không được” như sau:

 -“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ.” (Mt 5: 17)

“Nhưng cũng có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi.” (Mt 4: 7)

 -“Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.” (Mt 5: 33-37)

Quả là, các lời khuyên răn trong Đạo, luôn luôn bao gồm rất nhiều chữ như: Chớ, đừng, Không nên, không được… đều là những từ và những chữ nói lên tính tiêu-cực, trong hành-động.

 Quả là, trên thực-tế, có những luật “bất thành văn” vẫn được nhiều vị cứ là bảo nhau phải tuân giữ, như: việc hãm mình/phạt xác, làm việc đền tội đến “khó thở”, chịu đựng cực nhọc quá sức mình, kiêng ăn nhịn uống đủ mọi loại-hình có hại cho cơ thể. 

Cứ như thế, nếu bạn và tôi, ta có thì giờ mà tản-mạn trong vười Kinh Sách sẽ thấy rất nhiều thứ tiêu-cực được diễn-tả trong nhiều truyện kể, câu nói hoặc phán bảo của nhiều đấng bậc, ở trong Đạo.

Cứ như thế, đấng bậc thuộc nhà Đạo nọ lại đã minh-chứng tính tiêu-cực ở Kinh Sách bằng lời lẽ, cũng tiêu cực không kém như sau:

“Hàng thế kỷ lâu nay, sau khi các đoạn văn Kinh Sách được viết xuống và được gọi là “Lời Chúa”, ông Phaolô cũng trích-dẫn rất nhiều lời từ Kinh Sách tiếng Do-thái cổ để hỗ-trợ lập-trường “tiêu-cực của ông đối với phụ-nữ; và ngang qua Phaolô, các lời lẽ như thế đã đúc thành lối hiểu/biết rất khuynh-loát của Tân-Ước về người nữa. Nữ-giới không được tạo-dựng theo hình-ảnh của Thiên-Chúa. Các bà được định-mẫu thành người “bạn đời” của nam-nhân, chứ không như con người biệt-lập. Bởi lẽ, câu truyện tạo-dựng này lâu nay vẫn tạo ảnh-hưởng khá mạnh trong việc định-nghĩa giới-tính cho con người mãi đến hôm nay…” (X. TGm John Shelby Spong, Recasting the Negativity, The Sins of Scripture, Exposing the Bible’s Texts of Hate to Reveal the God of Love, HarperCollinsPublishers 2005 tr. 73, 101-109)

Tính-cách tiêu-cực hiện rõ trong tư-tưởng hoặc hành-động, vẫn được kể lể nhiều qua các truyện dài/ngắn ở đời người. Có một truyện được kể cũng kha khá, dù có được coi là hư-cấu hoặc tự-tạo, cũng nói lên được một bài học để đời về những đối chọi/kình-chống giữa tiêu-cực và tích-cực.

Đó là câu truyện kể về cuộc đối-thoại giữa thày/trò Khổng-Tử và Nhan Uyên, như sau:

“Nhan Uyên ham học hỏi, tính tình tốt bụng, là một đệ tử đắc ý của Khổng Tử. Một ngày nọ, trên đường đi làm việc, Nhan Uyên thấy một đám đông ồn ào trước cửa tiệm vải. Anh bước đến hỏi mới biết là đang có tranh chấp giữa người mua và người bán vải.

 Chỉ nghe người mua hét lớn:

-Ba nhân tám là 23, sao ông cứ đòi ta 24 đồng?

Nhan Uyên đến trước mặt người mua, lễ phép nói:

-Vị đại ca này, ba nhân tám là 24, sao có thể là 23 được? Anh tính sai rồi, không nên cãi lộn ầm ĩ nữa.

 Người mua không phục, chỉ thẳng mặt Nhan Uyên nói:

-Ai cần ngươi phân xử hay sao? Ngươi biết tính toán sao? Muốn phân xử chỉ có cách tìm Khổng phu tử, đúng hay sai hãy để ông ấy định đoạt! Đi, ta hãy tìm ông ấy để phân xử!”

 Nhan Uyên đáp:

-Được. Nếu Khổng phu tử nói anh sai, vậy xử lý sao?

Người mua nói:

-Nếu ta sai, hãy lấy đầu ta. Nhà ngươi sai thì sao?

Nhan Uyên trả lời:

-Nếu tôi sai, tôi sẽ từ quan.

Hai người đánh cuộc với nhau như thế, cũng đã tìm gặp được Khổng Tử.

 Sau khi hỏi rõ đầu đuôi, Khổng Tử quay sang Nhan Uyên cười nói:

-Ba nhân tám là 23 đó! Nhan Uyên, con thua rồi, lấy mũ quan xuống đem cho người ta đi!

Nhan Uyên từ trước giờ chưa bao giờ cãi lại sư phụ. Nghe Khổng Tử nói mình sai, anh đành tháo mũ xuống giao cho người mua kia nhưng trong lòng không phục. Người mua nhận mũ, đắc ý rời đi.

 Nhan Uyên cho rằng Khổng Tử già rồi đâm ra hồ đồ, liền không muốn ở lại học tập Khổng Tử nữa. Ngày hôm sau, Nhan Uyên quay lại lấy cớ nhà có việc muốn xin nghỉ học… Khổng Tử rất rõ tâm tư Nhan Uyên, nhưng không nói gì, chỉ gật đầu đồng ý.

 Trước khi đi, Nhan Uyên quay lại cáo biệt Khổng Tử. Khổng Tử muốn Nhan Uyên trở về nhà bình an, cũng dặn dò hai câu:

 “Ngàn năm cổ thụ không náu thân, sát nhân không rõ chớ động thủ”.

Nhan Uyên đáp lại một câu:

-Con xin ghi nhớ”, rồi rời đi.

 Trên đường về, gió thổi mây dâng, sấm rung chớp giật, trời muốn đổ mưa to. Nhan Uyên tiến đến một cây đại thụ, muốn tránh mưa. Anh đột nhiên nhớ lại lời Khổng Tử đã nói: “Ngàn năm cổ thụ không náu thân”…

 Nghĩ thầm, sư đồ nhất tràng, anh nghe theo lời sư phụ, tránh xa khỏi cái cây mục rỗng. Vừa rời đi không xa thì nghe một tiếng sấm, sét đã đánh tan cây cổ thụ kia. Nhan Uyên kinh ngạc: “Câu đầu sư phụ nói đã ứng nghiệm sao! Chẳng lẽ ta còn có thể sát nhân ư?”

 Khi về tới nhà thì trời cũng đã khuya. Không muốn kinh động người nhà, Nhan Uyên dùng bảo kiếm mang theo bên người để đẩy chốt cửa phòng nơi thê tử của anh đang ngủ.

 Đến bên giường, sờ lại thấy hai người nằm hai bên giường. Nhan Uyên vô cùng tức giận, giơ kiếm định chém, lại nghĩ đến câu nói thứ hai của Khổng Tử: “Sát nhân không rõ chớ động thủ”, bèn đốt đèn lên xem, hóa ra một người là vợ, người kia là em gái của anh.

 Ngày hôm sau, Nhan Uyên quay trở lại, thấy Khổng Tử liền quỳ xuống nói: “Sư phụ, hai câu người nói đã cứu ba người là con, vợ con và muội muội của con đó! Sao người lại biết trước chuyện sẽ xảy ra vậy?”

 Nhan Uyên cảm thấy kính phục thầy sâu sắc, cũng đã biết được ẩn ý của Khổng Tử. Khổng Tử đỡ Nhan Uyên dậy và nói: “Ngày hôm qua thời tiết khô nóng, đoán chừng sẽ có cơn dông, nên ta nhắc nhở con: “ngàn năm cổ thụ không ai náu thân”, con lại mang khí bực trong người, trên thân đeo bảo kiếm, cho nên ta khuyên con “sát nhân không rõ chớ động thủ”!”

 Nhan Uyên vừa vái lạy vừa nói: “Sư phụ liệu sự như thần, đệ tử mười phần kính nể!”

Khổng Tử lại nói tiếp: “Ta biết rõ con xin phép về nhà nghỉ là mượn cớ, thật ra cho rằng ta đã già nên hồ đồ rồi, không muốn học ta nữa. Con nghĩ xem, ta nói 3 nhân 8 bằng 23 là đúng, con thua, bất quá là thua cái mũ quan kia, nếu ta nói 3 nhân 8 bằng 24 mới đúng, người mua bán kia thua, đây là một mạng người đó! Vậy con nói xem, chức vị quan trọng hay mạng người quan trọng hơn?”

 Nhan Uyên bỗng giật mình tỉnh ngộ, quỳ gối trước mặt Khổng Tử mà thưa: “Sư phụ trọng đại nghĩa coi nhẹ tiểu tiết, đệ tử còn tưởng rằng Sư phụ vì lớn tuổi mà thiếu minh mẫn, đệ tử hổ thẹn vạn phần!”

 Từ đó về sau, bất luận Khổng Tử đi đến đâu, Nhan Uyên theo đến đó không rời sư phụ… Câu chuyện này gợi cho chúng ta nhớ đến một lời dạy của người xưa: “Lùi một bước biển rộng trời trong”, đúng như vậy, đôi khi bạn tranh đấu giành được điều bạn cho là lẽ phải, nhưng điều mất đi có lẽ còn quan trọng hơn. Và nếu bạn biết nhường nhịn và lắng nghe thì có lẽ bạn sẽ học hỏi được nhiều điều hơn. Hãy luôn luôn phân rõ sự tình nặng nhẹ. Đừng gắng sức tranh giành, rồi sau hối hận cũng không kịp! 

Trong thực tế, khi chúng ta hơn thua với khách hàng, thì thắng ấy cũng là thua (khi sản phẩm mới cần đổi mẫu, bạn sẽ biết); khi hơn thua với ông chủ, thì thắng ấy cũng là thua (cuối năm lúc đánh giá thành tích, bạn sẽ biết); khi hơn thua với người già, thì thắng ấy cũng là thua (người ta không để ý tới bạn đâu, bạn vẫn phải tự mình làm thôi); khi hơn thua với bằng hữu, thắng ấy cũng là thua (làm không tốt sẽ mất đi một người bạn).

 Trong tất cả vấn đề thì chữ nhẫn rất là trọng yếu, bất luận điều gì chưa rõ, thì không nên tức giận hay lỗ mãng, hãy tìm hiểu kỹ sự việc, rất có thể nguyên nhân đó ở chính bản thân bạn, khi hiểu được vấn đề thì hãy cùng nhau bàn bạc để giải quyết. Nếu không, sai một niệm có thể sẽ hỏng một đời… 

Hãy tranh đấu với chính bản thân để trở thành người Khiêm Tốn, Bao Dung,… thì lúc đó bạn mới thật sự THẮNG. Tự chế để tránh một cuộc tranh cãi tức là bạn đã thắng bản thân, cái thắng đó mới đáng kể.

 Không cần biết 3 nhân 8 có đúng là 23 hoặc 24, vẫn là chuyện để ta và mọi người nhớ mãi một lời khuyên để đời trong cuộc sống, Một cuộc sống có những vấn-nạn ngay sau khi nghe kể truyện nhân chia, rằng:

“Vì sao Khổng tử dạy học trò: 3 x 8 = 23? Trong cuộc sống hàng ngày, người ta thường hay bị sa vào những cuộc tranh cãi, đôi co. Ai cũng nghĩ là mình phải, mình đúng, mình biết nhiều hơn… do đó phải đỏ mặt tía tai cãi cho lấy thắng. Họ không hiểu rằng dính vào một cuộc tranh cãi là họ đang thua. Vì sao?

– Tranh cãi với khách hàng? Bạn thắng rồi, khách mất đi.

– Tranh cãi với đồng nghiệp? Bạn thắng rồi, đoàn đội tiêu tan.

– Tranh cãi với người nhà? Bạn thắng rồi, tình thân biến mất.

– Tranh cãi với bạn hữu? Bạn thắng rồi, bạn hữu dần xa.

– Tranh cãi với vợ chồng? Bạn thắng rồi, tình cảm nhạt phai…

Nói tóm lại, tranh cãi với bất kỳ ai, bạn thắng rồi thì sao? Bạn sẽ THUA!”

Xem thế thì, có thắng hay thua trong tranh-cãi hoặc nhận-định ở đời, vẫn là chuyện của người đời còn sống mãi với người đời, rất hôm nay.

Để kết luận, tưởng cũng nên đề-nghị bạn, đề-nghị tôi, ta quay về với lời ca ở trên không cần biết lời ca có là tích-cực hoặc tiêu-cực, một ý-nghĩa, vẫn cứ hát, rằng:

“Không, không, đến với tôi đến với tôi nữa làm gì.

Không, không, đến với tôi đến với tôi nữa làm gì.

Thôi, thôi, tôi van xin

Tôi van xin đừng đến nữa tình yêu ơi.

 Tình yêu cho tôi chi nhiều ngây ngất.

Tình yêu cho tôi chi lắm men say.

Để tình yêu đem thương đau và nước mắt.

Để tình yêu đem cho tôi lắm chua cay.

Người ơi cho tôi chi lời ân ái.

Người ơi cho tôi chi phút mê say.

Để giờ đây ai cho tôi lời cay đắng.

Để giờ đây ai cho tôi lắm phũ phàng.”

(Nguyễn Ánh 9 – bđd)

Hát thế rồi, nay xin mời bạn/mời tôi ta cứ hiên-ngang đi vào cuộc đời để sống hãnh-tiến suốt một đời, dù đời người có ra tiệc-cực hoặc tích-cực, cũng mặc.

Thế đó, là lời kết xin được gửi đến bạn đọc và người viết những tình-tự rất tương-tự, để còn sống mãi mãi một tương-lai xa vời vợi gần như là vĩnh-cửu.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ suy-tư nhiều về tiêu-cực, tích-cực

Và vĩnh cửu, thiên thu rất mai ngày

Một cuộc đời ở nhà Đạo hay ngoài đời

Cũng đều thế.

Sắp đến 30/4, hãy nhìn lại 42 năm VN thống nhất, và trả lời các câu hỏi:

 
 
From facebook:  Trần Bang
Sắp đến 30/4, hãy nhìn lại 42 năm VN thống nhất, và trả lời các câu hỏi:

Cái gì? Nguyên nhân nào?

Làm cho kinh tế VN nát bét?
Làm môi trường tự nhiên nát bét?
Làm giáo dục nát bét?
Làm văn hóa, y tế, du lịch nát bét?
Làm cho công lý thành trò hề?
Làm cho Luật pháp thành gông cùm, đòn roi ( công cụ) của phe đảng cai trị?
Làm đồn công an thành nơi “tự tử”?
Làm công đường thành chợ mua bán bản án?
Làm quan tòa thành xướng ngôn viên của phe đảng cường quyền ?
Làm cho nhiều khái niệm ngôn ngữ, chữ nghĩa bị đánh tráo?
…..
Làm khoa học tự nhiên và xã hội luẩn quẩn , không có thành tựu, (bằng cấp, học vị, học hàm loạn cào cào) đề tài nghiên cứu khoa học thì tầm phào, sao chép, vô bổ… thường thì chỉ phục vụ mục đích hợp thức hóa thành tích và giải ngân ?

Làm cho tâm tính người Việt (đa số) thay đổi từ cần cù, trung thực, hiếu học, hiền lương, trọng nhân nghĩa, trung dũng, can đảm, công minh… thành lười biếng, tham lam, giả dối, vụ lợi, đố kỵ, độc ác và sợ hãi lên tiếng chống bất công, áp bức, suy đồi, vô liêm sỉ và hèn nhát, im lặng đồng lõa với cái ác, với cái sai trái?

Làm cho dân tộc VN có nguy cơ bị ngàn năm Bắc thuộc lần hai chưa bao giờ rõ như bây giờ?