Cái chết trong tù CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát

Cái chết trong tù CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát

Nguyễn Tú

Bác Sĩ Phan Huy Quát sinh năm 1908 tại Nghệ Tĩnh, tham chính nhiều lần, từng làm Tổng Trưởng Giáo Dục, Tổng Trưởng Quốc Phòng, lần cuối cùng giữ chức vụ Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa, vào năm 1965. Ông cũng là Chủ tịch Liên Minh Á Châu Chống Cộng, phân bộ Việt Nam, và là chủ nhiệm tuần báo Diễn Ðàn, Sài gòn, 1972. Ngày 16 Tháng Tám 1975 Bác Sĩ Quát bị Cộng Sản bắt do nội phản trên đường vượt biên; và chưa đầy bốn năm sau ông từ trần trong nhà tù Chí Hòa. Bài dưới đây do ký giả kỳ cựu Nguyễn Tú, bạn ông, và cũng là bạn tù (người đã sống bên cạnh Bác Sĩ Quát trong những ngày tháng và giờ phút cuối cùng tại khám Chí Hòa), kể lại “như một nén hương chiêu niệm chung.”

Trong thời gian bị cầm tù, Bác Sĩ Quát bị bệnh gan rất nặng song Việt Cộng không cho chữa chạy, thuốc men do gia đình tiếp tế không được nhận. Người con trai út bị giam ở phòng bên, có thuốc cho bố, cũng không làm sao mang sang. Khi biết ông không thể nào qua khỏi, chúng mới đem ông lên bệnh xá. Ông chết ở đó vào ngày hôm sau, 27 Tháng Tư 1979.

Tang gia đã được phép để mang thi hài ra quàn tại chùa Xá Lợi và phát tang ở đấy vào ngày hôm sau, song phút chót, Hà Nội ra lệnh phải an táng ngay, vì ngày đó, 28 Tháng Tư 1979, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc tới Sài Gòn; Việt Cộng sợ dư luận quốc tế – nếu biết đến cái chết bị bỏ mặc của một cựu Thủ Tướng Miền Nam – có thể ngó tới tình trạng giam cầm của hàng trăm ngàn người khác. Cũng bởi thế, rất ít người nghe biết đến sự đày đọa tù nhân Phan Huy Quát cũng như cái chết trong tù của ông – bên cạnh các trường hợp tương tự của các trí thức văn nghệ sĩ khác – của nhà cầm quyền Hà Nội.

Chí Hòa, Sài Gòn – Một ngày cuối Tháng Tư 1979

Hôm nay đến lượt bốn phòng 5-6-7-8-, gác 1, khu ED được đi tắm, giặt. Mọi người đều rộn rạo, hối hả chuẩn bị, cười hô hố. Cứ ba ngày rưỡi mới được sối nước trên thân thể hôi hám, ngứa ngáy và vò vội quần áo đã tích trữ kha khá mồ hôi, đất ghét, thì trước cái hạnh phúc nhỏ nhoi chỉ được phép hưởng hai lần mỗi tuần, ai mà không “vui vẻ, hồ hởi, phấn khởi” dù, trên lý thuyết, thời gian tắm được quy định 30 phút cứ bị cán bộ ăn bớt, chỉ còn vỏn vẹn 15 phút.

Cả bốn phòng đã lần lượt ra hành lang ngồi xổm sắp hàng đợi cán bộ gác đến điểm số. Lần đó, viện cớ bị cảm, tôi xin phép ở lại trong buồng. Tôi có mục đích riêng.
Kiểm tra xong số người ở lại mỗi buồng, cán bộ ra hiệu cho mọi người đứng dậy, tiến về phía cầu thang. Tiếng guốc, tiếng dép khua trên cầu thang, tiếng nói lao xao của đoàn người xa dần rồi lắng hẳn. Từ dưới sân đã bắt đầu vọng lên tiếng sối nước ào ào, tiếng nói oang oang, tiếng cười khanh khách thỉnh thoảng xen tiếng chửi thề thân mật, tiếng sặc nước, tiếng rú khoái trá của các bạn tù được làn nước mát như nước lũ chẩy dồn dập trên da. Hạnh phúc thật!

Buồng 5 chúng tôi ở đầu dãy, sát với đầu cầu thang, nơi đây đặt một cái bàn và một cái ghế cho cán bộ gác. Chỗ tôi nằm sát hàng song sắt. Tôi đứng dậy, nhìn về phía đầu cầu thang chỉ cách chừng ba thước rồi quay người, đảo mắt suốt dọc hành lang. Không có bóng cán bộ. Căn phòng vơi đi 58 người như rộng ra. Hơi nồng của 60 mạng tù tích tụ từ suốt ngày và đêm trước tự giải phóng dần dần đem lại một cảm giác thoáng khí hơn.

Căn phòng chỉ còn lại hai người không đi tắm là tôi và một người nữa đang nằm ở hàng giữa, sát tường, trên diện tích vỏn vẹn có 60 phân tức 2/3 của một chiếc chiếu hẹp. Ðó là khoảng không gian đã được chia rất đều cho 60 tù nhân mà Việt Cộng đã cải cho cái danh từ mỹ miều là “trại viên” Người đồng phòng này nằm, hai chân duỗi thẳng, hai cánh tay gập lại trên bụng, hai bàn chân chắp vào nhau, mắt nhắm, vẻ mặt bình thản. Ông bị bệnh đã hơn một tuần, không thuốc men. Nước da mặt đã chuyển sang màu tai tái càng nổi bật với màu trắng của chòm râu và mái tóc. Bệnh nhân nằm im, không cựa quậy, thân hình như đã quen đóng khung trong không gian 60 phân của chiếc chiếu. Ông là Bác Sĩ Phan Huy Quát đã từng là Tổng trưởng nhiều lần, chức vụ cuối cùng và cao nhất trong hoạt động chính quyền của ông là chức Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa vào Mùa Xuân 1965. Năm 1979 ông đã trên 70 tuổi.

Tôi đảo mắt một lần nữa suốt dọc hành lang, dõng tai nghe ngóng. Vẫn không một bóng người, không một tiếng động khả nghi nào trên tầng gác vắng lặng. Tôi bước vội tới chiếu của Bác Sĩ Quát rồi ngồi sát bên. Bệnh nhân vẫn nằm im, mắt nhắm, không một phản ứng nào chứng tỏ ông cảm giác thấy có người bên cạnh. Hơi thở yếu. Bộ đồ ngủ của ông bận có cũ nhiều nhưng không bị xô lệch. Ðôi ống quần được kéo thẳng tới cổ chân. Ðôi tà áo được khép gọn, ôm kín thân trên. Cánh tay áo trùm tới tận cổ tay. Chẳng phải vì cuộc sống tạm bợ trong tù rất nhiều hạn chế khắc nghiệt cộng thêm lâm bệnh nặng đã hơn một tuần – một trường hợp bất cứ ai cũng có thể buông thả, mặc cho thân phận nổi trôi và có thể kém đi nhiều, ít cảnh giác về cách phục sức và tư thế – mà Bác Sĩ Quát thiếu chững chạc. Và từ cái chững chạc này như toát lên một cái gì có vẻ nghịch lý đến độ vừa đau đớn vừa dũng mãnh giữa thân phận con người và hoàn cảnh.

Tôi khẽ lên tiếng: “Anh Quát! Anh Quát!”

Không một phản ứng của bệnh nhân. Tôi lắc nhẹ cánh tay bệnh nhân, hơi cao giọng: “Anh Quát! Anh Quát!” Vẫn không một phản ứng, tôi đưa ngón tay trỏ qua mũi bệnh nhân. Hơi thở quá yếu. Dưới sân, tiếng sối nước bắt đầu thưa dần. Thời gian tắm giặt sắp hết. Tôi không muốn mục đích khai bệnh giả của tôi bị lộ là cố ý ở lại buồng để đích thân nói ít điều cho là cần thiết với Bác Sĩ Quát và cả với tôi nữa.

Buồng 5 chúng tôi vẫn được Việt Cộng coi là một buồng “phản động” nhất trong số bốn buồng của lầu 1, khu ED vì chứa một cựu Thủ tướng, 3 cựu Tổng trưởng, nhiều sĩ quan cấp tá, một số ít dân sự “đầu chai đá, khó cải tạo, phần tử rất xấu, mất dậy.” Một buồng “ngụy nặng” nên được Việt Cộng tận tình “chiếu cố” trong sinh hoạt hàng ngày. Ngoài ra, còn phải kể tới một vài tên “ăng ten” tức chỉ điểm được cài trong buồng. Tóm lại, chúng tôi đều bị theo dõi rất sát, rất chặt. Tôi phải làm gấp. Tôi lắc mạnh hơn cánh tay bệnh nhân, cao giọng thêm: “Anh Quát! Anh Quát!”

Bệnh nhân vẫn lặng im. Phải làm thật gấp. Tôi xoay nghiêng mình, tỳ tay xuống chiếu, ghé miệng sát tai Bác Sĩ Quát, cố nói thật rành rẽ: “Anh Quát! Anh Quát! Nhận ra tôi không?” Lần này đôi mi bệnh nhân hơi động đậy rồi dướng lên, hé mở. Tôi thoáng thấy lòng trắng mắt vàng khè. Chẳng cần phải học ngành y mới biết bệnh gan của Bác Sĩ Quát coi mới nặng. Bệnh nhân vắn tắt thều thào: “Anh Tú!” Tôi hơi yên tâm. Miệng lại sát tai Bác Sĩ Quát, tôi nói: “Anh mệt lắm phải không?” Ðầu bệnh nhân hơi gật gật. Không hiểu lúc đó linh cảm nào xui khiến, tôi cố rót vào tai Bác Sĩ Quát, giọng hơi nghẹn: “Anh có nhắn gì về gia đình không?” Bệnh nhân cố gắng lắc đầu, mắt vẫn nhắm. Dưới sân không còn tiếng sối nước nữa. Có tiếng các buồng trưởng dục anh em tập hợp để điểm số lại trước khi lên buồng. Chỉ còn độ hơn một phút. May lắm thì hai phút. Tôi dồn dập bên tai Bác Sĩ Quát: “Ai đặt bày, lừa bắt anh? Ai phản anh? Thằng Liên phải không? Nói đi! Nói đi!” Ðôi môi bệnh nhân như mấp máy.

Tôi vội nhổm lên, ghé sát tai tôi vào miệng bệnh nhân. Một hơi thở khò khè, theo sau là vài tiếng khô khốc, nặng nhọc như cố trút ra từ một chiếc bong bóng đã dẹp hơi đến chín phần mười: “Thôi! Anh Tú ạ.” Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn ào đã bắt đầu từ chân cầu thang. Tôi chưa chịu buông: “Nói đi! Anh Quát! Nói đi!” Một hơi thở một chút gấp hơn, như làn hơi hắt vội ra lần chót! “Thôi! Thôi! Bỏ đi!” Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn ào đã tới quá nửa cầu thang. Tôi vội nhổm dậy, bước nhanh về chiếu mình, nằm thẳng cẳng, vắt tay lên trán.

Ngoài hành lang, các bạn tù hối hả, xôn xao phơi quần áo mới giặt. Vài tiếng kỳ kèo nhau về chỗ dây phơi. Rồi như một đội quân đã chọc được phòng tuyến địch, họ ùa vào phòng, đứng lố nhố nghẹt lối đi quá nhỏ giữa ba hàng chiếu. Căn phòng như bị co hẹp lại. Tiếng cười đùa thưa dần khi tất cả đã về được chiếu mình. Khói thuốc lá bắt đầu tỏa. Ðây đó tiếng rít của vài bình thuốc lào nổi lên sòng sọc. Bây giờ thì mọi người, sau trận tắm thỏa thuê, đã ngả lưng trên chiếu. Cả phòng lặng tiếng.
Tôi ngồi dậy, hỏi vọng qua hàng chiếu giữa, phía sát tường: “Anh Châm! Anh coi lại xem anh Quát bệnh tình hôm nay ra sao?”

Bác Sĩ Hồ Văn Châm, cựu Tổng trưởng Thông tin, Chiêu hồi và Cựu chiến sĩ, có phần chiếu liền bên Bác Sĩ Quát. Ông Châm quay về phía Bác Sĩ Quát, tư thế nằm vẫn y như trước. Cảnh lộn xộn, ồn ào, ầm ĩ vừa qua của căn phòng không làm Bác Sĩ Quát động đậy chút nào. Cái gì đã như làm tê liệt bộ phận giây thần kinh điều khiển nguồn năng ý chí con người đến nỗi Bác Sĩ Quát không phản ứng gì, hay không còn muốn phản ứng gì dù chỉ là một phác họa – trước cảnh huống bên ngoài? Một hình ảnh buồn thảm lóe lên trong tưởng tượng; nếu không phải là mùa oi bức thì một tấm nền mỏng đắp lên người dong dỏng và gầy guộc của Bác Sĩ Quát thừa đủ để đóng vai trò một tấm khăn liệm.

Bác Sĩ Châm hướng về phía tôi, lắc đầu. Tôi lên tiếng với buồng trưởng: “Anh Phương! Báo cáo cán bộ xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá chứ!” Phương là hạ sĩ quan binh chủng nhẩy dù, tuổi khoảng 30. Tuy còn trẻ, tóc Phương đã trắng xóa, có lẽ vì “xấu máu.” Anh em bèn dán cho cái nhãn hiệu “Phương đầu bạc.” Phương lặng thinh, coi bộ ngần ngại. Nói cho ngay suốt hơn một tuần lễ Bác Sĩ Quát lâm bệnh Phương đã mấy lần báo cáo xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá, nhưng đều bị từ chối. Tôi quay về phía Bác Sĩ Châm: “Anh Châm! Nói cho Phương biết bệnh trạng của Bác Sĩ Quát đi!” Ông Châm bèn bảo: “Anh Phương! Báo cáo cán bộ ngay đi!” Phương không đáp, lộ rõ vẻ ngần ngại. Trong phòng bỗng nhao nhao nhiều giọng thúc giục, gay gắt: “Báo cáo đi! Chờ gì nữa? Bệnh như vậy mà không đi báo cáo, còn chờ gì nữa? Chờ người ta chết à?” Căn phòng đang im ắng, sống động hẳn lên.

Nhiều bạn đang nằm, nhóm người nhìn về phía Phương. Ðang cởi trần, Phương uể oải đứng dậy, bận áo, ra khỏi phòng, đi về phía đầu cầu thang. Một lát khá lâu, cán bộ gác tới, có Phương theo sau. Anh chàng cán bộ, mặt hơi khinh khỉnh, từ bên ngoài song sắt cộc lốc hỏi vọng: “Ðâu?” Bác Sĩ Châm nhích người qua một bên, chỉ vào Bác Sĩ Quát: “Ðây, cán bộ!” Nhìn một lát, cán bộ quay lưng, Phương lẳng lặng về chiếu mình. Những anh em khác lại đặt mình nằm. Căn phòng chìm trong im lặng hoàn toàn như thể hồi hộp chờ đợi một phán quyết sinh tử của trại.

Chừng 20 hay 30 phút sau, có tiếng lao xao ở đầu cầu thang. Hai bạn tù được làm ở bệnh xá, đem một băng ca tới cùng với cán bộ gác và một cán bộ khác, chắc là ở bệnh xá. Căn phòng lại náo động. Mọi người đều ngồi dậy hoặc đứng lên phần chiếu của mình.

Phương “đầu bạc” dẫn hai anh mang băng ca đến chỗ Bác Sĩ Quát. Bệnh nhân như mê man, tự mình không ngồi dậy được. Bốn anh em khỏe mạnh trong phòng xúm nhau nâng bệnh nhân đặt trên băng ca. Trong lúc đó Bác Sĩ Châm vội nhét vào một túi nhỏ vài đồ cần thiết cho Bác Sĩ Quát: Kem và bàn chải đánh răng, vài đồ lót, thêm một bộ đồ ngủ, đũa, muỗng, chén… Băng ca được khiêng đi. Bệnh nhân vẫn nằm, mắt nhắm, không một phản ứng. Dưới sân, một tiếng kêu lớn! “Lấy cơm!” Căn phòng trở lại cuộc sống đơn điệu hàng ngày của một trại tù. Lúc đó khoảng 10 giờ rưỡi.

Trưa hôm sau, khi lấy cơm trở về, anh em thì thầm rỉ tai nhau: “Bác Sĩ Quát chết rồi!” Cả phòng nhao nhao: “Hồi nào? Hồi nào? Chết mau quá vậy?” Một anh đáp: “Nghe nói, hồi trưa hôm qua thì phải.”

Chỉ một lát cáo phó miệng của các bạn tù đi lấy cơm đã lan truyền khắp khu ED. Bữa cơm trưa hôm đó ít ồn ào hơn thường lệ. Có ai trong phòng thốt một câu: “Bệnh như vậy, suốt hơn một tuần xin đi bệnh xá, không cho. Ðợi gần chết mới cho thì còn gì!” Một điếu văn ngắn, gọn, hàm súc cho một bạn tù đã nằm xuống. Một lời ngắn, gọn, hàm xúc lên án chế độ bất nhân, ác nghiệt của Cộng Sản. Căn phòng gần như lặng đi. Không bao lâu sau bữa cơm, cán bộ gác tới, bảo buồng trưởng thu dọn đồ của Bác Sĩ Quát. Trước khi quay lưng, hắn còn nói với: “Nhớ làm bản kê khai, nghe không!” Ðối với tù nhân, đó là lời công nhận chính thức cái chết của bất cứ “trại viên” nào.

Lần này, là cái chết của một vị cựu thủ tướng.
Manh chiếu của Bác Sĩ Quát đã được gỡ đi theo giỏ đồ còn lại của ông xuống văn phòng khu. Chỗ nằm cũ của ông trơ ra phần sân xi măng đã xỉn đen thời gian, mồ hôi, đau khổ và uất ức dồn nén của hàng hàng lớp lớp thế hệ tù chính trị mà ông đã là một trong biết bao người kế tiếp bất tận. Trí tưởng tượng của ta có mặc sức tung hoành sáng tác biết bao nhiêu chuyện về trại tù và thân phận tù nhân dưới chế độ Cộng Sản, thì mảnh không gian xi măng đen kia thầm lặng mà hùng hồn nói lên còn hơn thế nữa. Những ngày kế tiếp, cái chết tức tưởi mang nhiều vẻ không rõ ràng của Bác Sĩ Quát còn là đề tài bàn tán của nhiều người trong phòng được tóm gọn trong hai chữ “nghi vấn.” Nhiều người cho rằng nếu được đi bệnh viện sớm hơn, hoặc nếu không, mà được phép biên thư về nhà để thân nhân kịp thời gửi thuốc thì có thể Bác Sĩ Quát đâu ra đến nông nỗi đó.

Năm 1979 vẫn còn nằm trong thời kỳ mà Việt Cộng gọi là “rất căng.” Cuộc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, nếu xuôi xẻ về mặt quân sự, thì về mặt dân tình và chính trị lại chẳng xuôi xẻ chút nào. Nhiều nơi đã nổi lên những phong trào chống đối vũ trang làm cho Việt Cộng vô cùng lo lắng trong việc ước lượng tầm cỡ của mỗi phong trào để liệu cơ đối phó. Ngay tại Sài gòn, năm 1976, vụ Vinh Sơn xẩy ra chưa đầy một năm sau “đại thắng Mùa Xuân” của Việt Cộng đã làm chúng thất điên bát đảo và mặc dù những người chủ trương và lãnh đạo vụ Vinh Sơn cùng với một số chiến hữu đã bị Việt Cộng thẳng tay đàn áp và thanh toán, dư âm và ảnh hưởng của vụ ấy vẫn còn kéo dài mãi tới 1979 và sau nữa. Lại thêm cuộc chiến với Trung Cộng Mùa Xuân 1979 ở miền Bắc và cuộc chiến với Căm Bốt ở miền Nam khởi sự từ 1978. Do đó Việt Cộng càng siết chặt kỷ luật đối với tù chính trị. Tuy không có bằng chứng rõ ràng, nhiều người trong phòng có cảm giác “ăng ten,” tức chỉ điểm viên, đã được tăng cường.

Cuộc sống tiếp tục trong bầu không khí càng ngày càng ngột ngạt. Việt Cộng “dư” lý lẽ để đối xử với tù nhân tàn nhẫn hơn, bất nhân hơn. Bác Sĩ Quát đã lâm bệnh trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó. Con trai út của ông là Phan Huy Anh bị bắt cùng với ông ngày 16 Tháng Tám 1975 không được ở chung cùng buồng, mà bị giam ở buồng 6 sát bên. Hai cha con chỉ trông thấy nhau những lần đi tắm, tức hai lần một tuần. Khi tắm cũng không được liên hệ với nhau. Huy Anh dù có muốn giúp bố giặt quần áo hay một vài việc vặt vãnh cũng không bao giờ được phép. Còn nói chuyện với nhau thì tuyệt đối cấm. Nếu bị bắt quả tang hay có người tố cáo, hai cha con sẽ bị cúp viết thư về nhà với hậu quả kèm theo là bị cúp thăm nuôi. Ấy là chưa kể có thể bị kỷ luật đưa đi biệt giam. Việc thăm nuôi của gia đình cũng tách rời, riêng biệt: không bao giờ hai cha con được thăm nuôi, gặp gỡ thân nhân cùng một lúc, cùng một ngày. Hai cha con sống sát buồng nhau mà còn hơn hai kẻ lạ. Hai kẻ lạ còn có thể xin phép trao đổi với nhau chút quà, nói với nhau dăm ba câu. Bác Sĩ Quát và Huy Anh luôn luôn bị từ chối và bị theo dõi kỹ. Khi được tin bố lâm bệnh, Huy Anh nhiều lần xin phép qua thăm và đem thuốc cũng không được. Chỉ tới phiên đi lãnh cơm, Huy Anh mới được bước ra khỏi buồng. Những lúc đó tôi thoáng bắt gặp ánh mắt buồn bã của Huy Anh kín đáo nhìn qua song sắt tới chỗ bố đang nằm lịm. Tôi còn nhớ hai ngày trước khi Bác Sĩ Quát được đưa đi bệnh xá, cán bộ gác mới cho phép Huy Anh đem thuốc cho bố, sau không biết bao nhiêu lần năn nỉ. Huy Anh chỉ được phép đứng ngoài cửa nhìn vọng vào. Thuốc thì do buồng trưởng nhận đưa cho Bác Sĩ Quát. Thuốc đến quá muộn, dù chỉ là thứ thuốc thông thường trị bệnh gan. Lần “nhìn thăm” thầm lặng được phép công khai đó dài không quá hai phút. Và đó cũng là lần chót Huy Anh được chính thức nhìn bố qua chiều dài gần 8 thước của căn buồng dưới đôi mắt cú vọ của cán bộ gác ngồi phía đầu cầu thang giám sát.

Hôm Bác Sĩ Quát được khênh đi bệnh xá, Huy Anh cũng không được phép ra khỏi buồng dù chỉ để nói ít câu thăm hỏi và nhìn bố nằm thoi thóp trên chiếc băng ca. Một ngày sau khi Bác Sĩ Quát chết, Huy Anh được trại cho phép về thọ tang bố. Nhiều người trong chúng tôi hi vọng sẽ có tin thêm về tang lễ và nhất là về cái chết quá đột ngột của Bác Sĩ Quát khi Huy Anh trở lại trại. Thói quen giấu diếm, bưng bít đã trở thành một thứ siêu vi trùng trong máu của Việt Cộng, thế nên khi Huy Anh trở về, chúng tôi chẳng biết tin gì thêm ngoài việc tang lễ đã xong xuôi. Sau này có tin là Huy Anh sẽ được thả nếu “thật tâm cải tạo tốt.” Có nghĩa là không được tiết lộ bất cứ điều gì liên quan đến cái chết, đến tang lễ của bố, đến bất cứ những gì Huy Anh đã nhìn được, nghe được ở xã hội Sài Gòn bên ngoài trong thời gian được về nhà. Phải thừa nhận Việt Cộng rất “siêu” về thủ đoạn dọa nạt, nhất là đối với những ai đang bị gọng kìm của chúng siết chặt. Dù Bác Sĩ Quát đã chết, không còn là một mối lo chính trị đối với Việt Cộng, do vậy không còn cần thiết giữ Huy Anh làm con tin để đe dọa, đầy đọa tinh thần ông bố nữa, cũng phải đợi đến cuối năm 1979, Huy Anh mới được thả.

Trong thập niên 1940, Bác Sĩ Phan Huy Quát đã được nhiều người ở Hà Nội biết tiếng là một lương y. Bệnh nhân của ông, cả Việt lẫn Pháp, rất tín nhiệm ông vì tư cách đứng đắn và lương tâm nghề nghiệp rất cao của ông. Ngay cả một số người Pháp đã chọn ông làm bác sĩ gia đình của họ, một trường hợp rất hiếm trong y giới người Việt thời ấy. Một đề tài nghiên cứu y học của ông có liên quan đến bệnh đau mắt của Hoàng Ðế Bảo Ðại thời đó đã được tặng giải thưởng đặc biệt của Hoàng Ðế. Cuộc đời chính trị của ông chỉ thực sự bắt đầu sau khi cựu Hoàng Bảo Ðại đã ký hiệp ước Vịnh Hạ Long với Cao ủy Bollaert của Pháp ngày 8 Tháng Ba 1949. Trong chính phủ đầu tiên của quốc gia Việt Nam do cựu Hoàng Bảo Ðại lãnh đạo, Bác Sĩ Quát tham chính với tư cách Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Sau đó ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng. Từ giữa năm 1953 trở đi, tình hình cuộc chiến với Việt Minh ở miền Bắc Việt Nam ngày càng tồi tệ. Thất trận của Pháp ngày 07 Tháng Năm 1954 ở Ðiện Biên Phủ mở màn cho Hội Nghị Genève về Ðông Dương với hậu quả là Việt Nam bị chia đôi ở vĩ tuyến 17 do Hiệp Ðịnh Genève được ký kết giữa Pháp và Việt Minh ngày 20 Tháng Bảy 1954.
Ở Pháp, Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông Ngô Ðình Diệm làm thủ tướng. Ngày 7 Tháng Bảy 54, ông Diệm về nước. Ðược ủy toàn quyền lãnh đạo Việt Nam, ông Diệm thành lập nội các mới và kiêm nhiệm luôn Bộ Quốc Phòng.

Bác Sĩ Quát trở lại nghề cũ, mở một phòng mạch ở Dakao gần đầu cầu Phan Thanh Giản. Suốt chín năm ông Diệm cầm quyền, Bác Sĩ Quát không tham chính: ông khó có thể thuận với Tổng Thống Diệm về lề lối làm việc quá quan liêu, hống hách và độc đoán của gia đình họ Ngô. Thêm nữa ông là một thành viên trong nhóm Caravelle đã công khai đưa ra bản tuyên bố chỉ trích chế độ và đòi chính quyền Diệm thực hiện tự do, dân chủ. Cuộc đảo chính ngày 01 Tháng Mười Một 1963 do một số tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa lãnh đạo chấm dứt chế độ Ngô Ðình Diệm theo liền cái chết bi thảm của vị tổng thống và hai em ông là Ngô Ðình Nhu và Ngô Ðình Cẩn. Ðại Tướng Dương Văn Minh và Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ cầm quyền mới được ba tháng thì bị Tướng Nguyễn Khánh, tư lệnh vùng II chiến thuật, chỉnh lý ngày 30 Tháng Giêng 64. Bác Sĩ Quát được mời làm Tổng Trưởng Ngoại Giao. Ông ở chức vụ này tới khoảng Tháng Chín, 1964 rồi lại trở về phòng mạch.

Cuộc đời chính trị của ông đạt tuyệt đỉnh danh vọng khi, vào giữa Tháng Hai năm 1965, ông được Tướng Nguyễn Khánh triệu mời thành lập nội các mới. Giữ chức thủ tướng được khoảng ba tháng thì ông trao quyền lại cho Hội Ðồng Quân Lực vì những mâu thuẫn khó bề giải quyết giữa ông và Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Ông lui về, trực tiếp điều khiển phòng thí nghiệm y khoa của ông ở đường Hai Bà Trưng. Hoạt động chính trị của ông thu hẹp lại trong khuôn khổ của Liên Minh Á Châu Chống Cộng mà ông là chủ tịch phân hội Việt Nam cho tới ngày Sài Gòn thất thủ 30 Tháng Tư 1975.

Nhưng ngày kết liễu nền Ðệ Nhị Cộng Hòa chưa phải là ngày chấm dứt hoạt động của Bác Sĩ Phan Huy Quát. Nó đưa hoạt động ấy sang một hướng khác, hoàn toàn xa lạ với con người vốn dĩ trong bao năm đã quen và chỉ quen hoạt động chính trị theo lối “chính quy,” trong “đường lối chính quy.” Và con người thận trọng trong ông đã lao vào một trận địa mà trước kia ông chưa từng một lần lưu tâm và nghiên cứu địa hình phức tạp, hết sức bất thường do vậy cũng hết sức bất ngờ: địa hình của trận địa hoạt động bí mật, mà vì tính chất của riêng nó, đòi hỏi một cách suy nghĩ khác, một thứ thông minh khác, một loại bén nhạy khác, thậm chí đến cái can đảm trong hoạt động bí mật cũng phải là cái can đảm khác. Vị cựu thủ tướng, tự thân, chưa được chuẩn bị kỹ càng cho hình thái hoạt động bí mật nó có những điều luật, những nguyên tắc đặc thù của riêng nó. Ðiều này cũng dễ hiểu: ông chưa từng thấy có nhu cầu đó. Hoạt động chính trị của ông từ trước không cần đòi hỏi ông có những nhu cầu đó. Vậy mà trước hoàn cảnh đất nước rối bời đang diễn tiến trước mắt, ông đã chọn dấn thân vào con đường mới mẻ này. Một quyết định dũng cảm của một con người ngày ấy đã gần 70 tuổi, và chắc chắn không phải là một quyết định dễ dàng.

Sau ngày Sai gon thất thủ 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Phan Huy Quát không đáp “lời mời” ra trình diện của Việt Cộng được phổ biến trên đài phát thanh, truyền hình và báo chí của chúng cho tất cả “ngụy quân, ngụy quyền”. Liền sau khi cộng quân ào ạt tuôn vào Saigon từ hai hướng Bắc và Nam ngày 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Quát đã dời tư thất ở đường Hiền Vương và bắt đầu cuộc đời “du mục” trong Saigon, quyết không để cho Việt Cộng bắt. Cứ đôi ba ngày các con ông thay phiên nhau dẫn ông đi thay đổi chỗ trú ngụ. Sau gần ba tháng trốn tránh như thế, ông có dấu hiệu mệt mỏi. Các con ông khuyên ông trốn “trụ” hẳn một nơi. Ông nhượng bộ, về nhà trưởng nữ trong một hẻm khuất ở quận Phú Nhuận.

Những ai đã sống ở Saigon sau ngày 30 Tháng Tư 1975 chắc khó quên cái không khí ồn ào, nhộn nhạo, hỗn tạp bao trùm khắp nơi, khắp chốn của cái thành phố hơn ba triệu người này hầu như ngày nào cũng hối hả tuôn ra đầy nghẹt đường phố. Vẻ mừng rỡ bề ngoài vì chiến tranh đã chấm dứt không che đậy nổi nhiều nỗi lo âu âm ỉ bên trong: Kẻ chiến thắng sẽ định đoạt số phận của Saigon như thế nào? Thái độ nào tốt nhất để đối phó với kẻ chiến thắng đang huênh hoang, ngạo mạn? Tùy hoàn cảnh và cương vị riêng của mỗi cá nhân, người thì chọn lối âm thần sống ẩn, người thì mặc, muốn ra sao thì ra, cứ sống “tự nhiên cái đã”. Nhưng đại đa số thì tính chuyện trốn khỏi Việt Nam bằng đường biển sau khi Mỹ đã vĩnh viễn phủi tay. Một số khác thì tính chuyện tiếp tục tranh đấu chống Cộng. Ðã manh nha những sự thăm dò, móc nối nhau, tìm ngõ ngách trong hai lãnh vực chính yếu: thứ nhất vượt biên, thứ nhì chống Cộng.

Hai lãnh vực này tưởng là hoàn toàn riêng biệt, trái lại, thường xoắn vào nhau khá chặt, bởi lẽ nhiều khi tìm đường vượt biển lại dẫn đến mối chống Cộng, tìm đường chống Cộng lại dẫn tới mối vượt biên. Bất cứ ai chọn dấn thân vào một trong hai lãnh vực này đều bị lôi cuốn vào cái vòng luẩn quẩn lưỡng nguyên bi hài kịch đó. Bác Sĩ Quát không ngờ sẽ rơi vào chính cảnh huống ấy. Trong thâm tâm, ông không muốn bỏ chạy: ông vốn nặng tình quê hương. Nhưng gia đình ông 14 người, mặc nhiên là một áp lực tinh thần, thầm lặng đấy, nhưng đáng kể, buộc ông không thể không nghĩ đến sự an toàn cho vợ, con, dâu, rể và các cháu nội ngoại, nghĩa là phải nghĩ đến chuyện vượt biên. Ngoài tình quê hương ông cũng nặng tình gia đình không kém.

Thực ra, khoảng một tuần trước ngày 30 Tháng Tư 1975 lịch sử, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã ra lệnh cho ông Ðại sứ của mình ở Saigon nhân danh chính phủ mời Bác Sĩ Quát qua Ðài Bắc trú ngụ nếu như phía Mỹ chưa lo liệu cho bác sĩ. Lúc đó Bác Sĩ Quát chưa quyết tâm ra đi nên chỉ cảm ơn và nói sẽ liên lạc sau. Về phía Mỹ, khi hay tin Bác Sĩ Quát còn ở Saigon, ngày 28 Tháng Tư 1975 đã liên lạc với ông, hứa đưa hai ông bà qua Mỹ. Bác Sĩ Quát trả lời không thể nhận sự giúp đỡ quý hóa ấy nếu tất cả gia đình ông gồm 14 người không được cùng đi. Phía Mỹ ngần ngại, nhưng rồi cũng thuận ý muốn của Bác Sĩ Quát và cho ông một điểm hẹn. Ðiểm hẹn này sau bị lộ. Thêm nữa ngày 29 Tháng Tư 1975, tình hình căng thẳng tột độ, chính phủ Dương Văn Minh ra tối hậu thư buộc Mỹ phải triệt thoái toàn bộ nhân viên D.A.O. tức bộ phận tùy viên Quốc Phòng của Mỹ trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Liên lạc giữa phía Mỹ và Bác Sĩ Quát bị tắc nghẽn. Chuyến trực thăng cuối cùng chở người Việt tị nạn không có Bác Sĩ Quát và gia đình.

Như đã nói, ông nặng tình gia đình, không muốn gia đình bị khổ trong vòng kìm kẹp của Cộng Sản và muốn gia đình sống một nơi an toàn. Ðồng thời ông cũng không muốn làm “kẻ bỏ chạy” vì ông cũng rất nặng tình quê hương, đất nước. Ông muốn, nếu đi thì cả nhà cùng đi. Nếu ở lại thì cả nhà cùng ở lại. Nhưng sau hai lần lỡ dịp di tản gia đình, Bác Sĩ Quát ý thức rất rõ hai mối tình song hành kia, tình gia đình và tình quê hương, đất nước, khó mà dung được với nhau và chỉ có thể chọn một. Và ông đã chọn.

Ông bằng lòng cho con trai út Phan Huy Anh đi thăm dò đường lối. Do một người bạn của Huy Anh giới thiệu, Bác Sĩ Quát thuận gặp một người tên Nguyễn Ngọc Liên. Liên tự xưng là một thành viên quan trọng của một tổ chức chống Cộng nhận nhiệm vụ bắt liên lạc với Bác Sĩ Quát, mời ông gia nhập tổ chức và nơi tổ chức có thể giúp gia đình ông vượt biên. Bác Sĩ Quát đồng ý về đề nghị thứ hai của Liên. Còn về đề nghị gia nhập tổ chức, ông nói sẽ có quyết định sau khi gặp người đại diện có thẩm quyền của tổ chức. Ðôi bên đồng thuận. Gia đình Bác Sĩ Quát gồm bà Quát, các con, cháu hơn mười người được dẫn đi trước xuống Cần Thơ, ở lại đó hai ngày. Hôm sau lên xe đi tiếp, dọc đường bị chận lại, đưa về khám Cần Thơ. Cả nhà biết là đã bị mắc lừa. Một tuần sau bị giải về trại giam Chí Hòa, Saigon. Bà Quát, tuy tuổi đã cao và mắc bệnh đau tim, vẫn bị biệt giam, điều kiện sinh hoạt rất khắc nghiệt. Do con, cháu bà năn nỉ mãi, Việt Cộng cho phép một cháu ngoại gái của bà mới 12 tuổi qua ở biệt giam để chăm sóc bà. Ðược mấy tháng, vì tình trạng sức khỏe ngày càng xấu đi, bà Quát được đưa ra ở phòng tập thể với các con cháu. Ðược hơn một năm, có lẽ vì xét thấy gia đình bà Quát đại đa số là giới nữ và khai thác cũng không thêm được gì, Việt Cộng bèn thả hết. Riêng người con rể còn bị giữ lại, đưa đi trại cải tạo Hàm Tân, gần mười năm sau mới được thả.

Về phần Bác Sĩ Quát và con trai út của ông là Huy Anh thì được tên Liên đưa đi tạm trú tại một căn nhà kín đáo ở Chợ Lớn. Hai ngày sau, theo kế hoạch, tên Liên đưa Bác Sĩ Quát và Huy Anh ra khỏi Saigon. Khi xe ô-tô tới một điểm hẹn vắng vẻ thuộc tỉnh Biên Hòa thì đã có một xe ô-tô khác đậu bên đường, nắp ca pô mở sẵn theo mật hiệu đã quy định. Xe chở Bác Sĩ Quát và Huy Anh dừng lại. Một toán người đi tới, vây quanh xe, rút súng hăm dọa. Bác Sĩ Quát biết mình bị lừa. Ông và Huy Anh được giải về Bộ Tư lệnh Cảnh Sát, đường Võ Tánh, Saigon. Hôm đó là ngày 16 Tháng Tám 1975, khởi đầu cuộc thử thách chót trong đời vị cựu Thủ tướng. Một cuộc thử thách không giống bất cứ một thử thách nào ông đã đương đầu trước kia. Một cuộc thử thách mà chủ đích của Việt Cộng nhằm hạ nhục con người chỉ chấm dứt sau khi vị cựu Thủ tướng đã vận tất cả năng lượng vật chất và tinh thần ném hết vào cuộc đấu tranh cuối cùng của ông, lần này mới thực là mặt đối mặt với quân thù với không biết bao nhiêu căng thẳng, gay go về nhiều mặt. Cuộc đấu tranh riêng lẻ mà ông chưa từng có một ý niệm và không bao giờ ngờ có ngày phải tiến hành trong đơn độc, đã kết thúc vào trưa ngày 27 Tháng Tư 1979, đúng ba hôm trước ngày Kỷ niệm Saigon thất thủ.

Cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát đã vĩnh viễn nằm xuống sau ba năm, tám tháng đấu tranh không nhượng bộ trong gọng kìm Việt Cộng.

Ngày 30 Tết, năm Mậu Ngọ (dương lịch: 1978)

Gần một tháng trước Tết Mậu Ngọ tôi bị chuyển về phòng 1, gác 1, khu BC. Ba phòng 2, 3, 4 bỏ trống. Chỉ riêng phòng 1 có “khách hàng”. Bác Sĩ Quát và tôi gặp lại nhau ở đó. Trong mấy ngày Tết, kỷ luật nới lỏng, mọi người được đi lại thăm bạn bè ở các phòng khác, gác khác trong cùng một khu. Bác Sĩ Quát và tôi không ra khỏi gác 1. Chúng tôi thường đi bộ dọc hành lang trống vắng vẻ, Bác Sĩ Quát bắt nhịp đi theo tiếng chống nạng của tôi lúc đó chân bị tê liệt. Mấy ngày Tết quả là một dịp hiếm có để có thể nói với nhau nhiều chuyện, khỏi sợ bị để ý hay soi mói quá đáng. “Ăng ten” cũng phải ăn Tết chứ! Bác Sĩ Quát đã tóm lược cho tôi nghe cuộc “phiêu lưu” của ông và gia đình. Tôi có hỏi ông về thời gian ông giữ tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát, đường Võ Tánh. Ông kể:

“Chúng bắt tôi viết bản tự khai tất cả những gì tôi làm khi tôi giữ chức Thủ tướng. Bản viết của tôi không dài quá một trang tôi viết vắn tắt là trong thời gian tôi ở cương vị Thủ tướng, tôi lãnh đạo việc nước, tôi chỉ đạo cuộc chiến chống Cộng. Tất cả mọi cấp, từ cấp thấp nhất, đến cao nhất gần gũi với Thủ tướng ở mọi ngành quân, dân, chính đều làm việc theo chỉ thị và mệnh lệnh của tôi. Một mình tôi trách nhiệm. Chúng không bằng lòng, bắt tôi viết lại. Tôi viết y như trước. Cù cưa như vậy đến hơn một tháng, gần hai tháng. Chúng bèn chuyển sang thẩm vấn. Hỏi câu nào tôi trả lới vắn tắt: Tôi trách nhiệm. Chúng đủ trò áp lực như anh biết đấy. Sau đó, để bớt căng thẳng, tôi nhận viết. Vả lại, thú thực lúc đó nhịp tim đập của tôi loạn xạ đã nhiều ngày, và tôi không có thuốc trợ tim. Tôi cảm thấy chóng mệt. Tôi cứ từ từ viết được hơn 70 trang, trong đó tôi nêu một số nhận định về thời cuộc, đưa ra một số đề nghị kiến thiết quốc gia. Trên trang nhất, tôi đề tên người nhận văn bản của tôi là Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Chúng bắt tôi xóa, chỉ được viết là bản tự khai. Tôi không chịu. Sau cùng chúng cũng nhận tập viết của tôi.”

Tôi hỏi Bác Sĩ Quát: “Anh có tin là chúng chuyển tập viết của anh tới Nguyễn Hữu Thọ không? – Tôi ngờ lắm. Ông đáp. Nhưng không sao. Tôi mượn cớ đề tên Nguyễn Hữu Thọ để ngầm bảo chúng rằng tôi không biết tới Hà Nội trong khi tất cả chúng ta đều rõ là Nguyễn Hữu Thọ và Mặt trận Giải phóng Miền Nam chỉ là công cụ của Hà Nội và Hà Nội thừa biết điều đó hơn ai hết.”

Tôi bật cười, Bác Sĩ Quát cũng cười theo. Chúng tôi hiểu nhau. Trong buồng có một vài bạn tù đứng đắn, chúng tôi có thể nói chuyện thẳng thắn, cởi mở, không nghi ngại. Tôi nhớ một lần, vẫn trong dịp Tết Mậu Ngọ, chúng tôi năm người đứng nói chuyện gần ở một góc hành lang, câu chuyện loanh quanh thế nào mà dẫn đến việc một bạn tù hỏi Bác Sĩ Quát về một vài cộng sự viên thân cận nhất của ông mà ông thật tâm tác thành cho: “Có thật hay không, tiếng đồn có người đá ngầm anh khi có dấu hiệu anh trên đà xuống dốc?” Bác Sĩ Quát mỉm cười, trả lời, giọng bình thản: “Tôi đã có nhiều dịp gần cụ Trần Trọng Kim khi sinh thời cụ. Tôi nhớ mãi một lời cụ dậy: sống ở đời phải cho nó chững. Tôi thường kể lại cho các con, cháu trong nhà nghe lời của cụ Trần, kẻo uổng.” Câu nói của Bác Sĩ Quát không trả lời thẳng vào câu hỏi của anh bạn. Nhưng có vẻ như mấy bạn biết thưởng thức câu trả lời đó vì họ cười ha hả.

Sau Tết, chúng tôi bị chuyển sang phòng 5, gác 1, khu ED. Ðược vài hôm, phòng nhận thêm một tù nhân từ biệt giam qua. Người này, khi nhận thấy Bác Sĩ Quát thì tỏ vẻ lúng túng, ngượng ngập. Có chi lạ đâu? Hắn là Nguyễn Ngọc Liên, người mời chèo Bác Sĩ Quát vào khu để rồi rơi vào bẫy sập ở Biên Hòa. Trong phòng ngoài Bác Sĩ Quát và tôi, không một ai khác biết mối liên hệ giữa Bác Sĩ Quát và hắn. Bác Sĩ Quát cư xử rất tự nhiên, không tỏ vẻ gì khó chịu bực tức, nóng nẩy. Riêng tôi cũng không để lộ cho tên Liên rõ là tôi biết chuyện của hắn. Cuộc sống ở Chí Hòa đơn điệu, buồn tẻ, ngột ngạt.

Ngày này sang ngày khác, mọi người như chết đi trên 2/3 manh chiếu của mình. Không bao giờ tôi nghe thấy Bác Sĩ Quát thốt lên dù chỉ nửa lời than van về số phận của mình hay của gia đình về sự mất mát tài sản mà Việt Cộng đã tịch thu toàn bộ chỉ để lại cho ông hai bàn tay trắng. Ông sống lặng lẽ, trầm ngâm, kín đáo. Nhiều lần, cán bộ Việt cộng cố ý công khai làm nhục ông trước mặt mọi người. Ông giữ im lặng, cái im lặng kẻ cả. Không ai nhận thấy ở ông một vẻ gì kiêu kỳ, của một người đã từng giữ những chức vụ cao sang trong chính quyền cũ.

Ông biết hòa mình một cách đúng mức. Với anh em cùng cảnh ngộ và cái đúng mức không gượng ép ấy tự nhiên bảo vệ tư thế riêng của ông bằng một khoảng cách mà chẳng ai dám nghĩ muốn vượt qua. Ngay đối với tên Liên mà nhiều yếu tố trong vụ Biên Hòa đủ để được xứng đáng nhãn hiệu “tên phản bội, tên lừa bịp”, ông vẫn giữ được cách lịch sự bao dung buộc kẻ kia tự mình phải có thái độ ăn năn, kính cẩn đối với ông. Thế nên tôi rất hiểu tâm địa ông khi ông thều thào: “Thôi! Bỏ đi!” để trả lời câu hỏi dồn ông về tên Liên bên chiếu bệnh. Ông biết vì ông mà vợ, con, cháu ông đang dũng cảm chịu khổ, chịu nhục, chịu thiếu thốn ở khu phụ nữ. Ông biết một cháu nội gái của ông, con gái đầu lòng của Huy Anh, mới ba tháng đã “được” Việt cộng bỏ tù vì bố mẹ và đang thiếu sữa.

Ông biết chừng nào Việt Cộng chưa bẻ gãy được ý chí đối kháng thầm lặng của ông thì gia đình ông, đa số là phụ nữ và con nít vần là những con tin hữu hiệu trong tay Việt Cộng dùng làm lợi khí đe dọa, đầy đọa tinh thần ông, nghiền nát những gì là nhân tính trong ông, buộc ông phải thốt lên một lời quỵ lụy quy hàng, Nhưng ông đã đứng được đầu gió.
Vì ông đã cứng.

***

Tôi thường nghĩ, trong suốt cuộc đời tham chính, thành tựu của Bác Sĩ Phan Huy Quát có ý nghĩa lớn lao nhất, có ích cho quốc dân nhất, do đó quan trọng vào bậc nhất vì trực tiếp liên quan sâu sắc nhất đến tiền đồ tổ quốc, là ông đã giành được chủ quyền cho ngành giáo dục Việt Nam, khi ông được Cựu Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông làm Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục trong chính phủ đầu tiên của Quốc gia Việt Nam mới được Pháp thừa nhận nền độc lập. Do lòng trí kiên nhẫn, thái độ khéo léo, mềm dẻo nhưng không thiếu cương quyết trong thương thảo rất khó khăn, nhiều khi đến độ rất căng thẳng với phái đoàn Pháp mà một số thành viên lại là thầy học cũ của ông ở Ðại học Y khoa Hà Nội. Ông đã thuyết phục được phía Pháp trao trả Việt Nam trọn quyền của ngành giáo dục. Ông đã đặt nền móng vững chắc cho việc dùng Việt ngữ là ngôn ngữ chính trong mọi giáo trình, mở đầu kỷ nguyên cải cách giáo dục toàn diện từ tiểu học, qua trung học, lên tới đại học và trên đại học mang tính chất hoàn toàn quốc gia mà dấu ấn căn bản và nguyên tắc đó không một ai, sau ông, có thể thay đổi được. Pháp ngữ đã lui xuống thứ hạng như bất cứ sinh ngữ nào khác được giảng dậy trong mọi cấp học trình. Thành quả tranh đấu gay go trong thầm lặng nhưng thật rực rỡ của ông với Phái đoàn Pháp và công cuộc tiến hành cải cách giáo dục của ông đã được báo chí thời đó xưng tụng và mệnh danh một cách rất xứng đáng là “Kế hoạch giáo dục Phan Huy Quát.” Tên tuổi ông đã gắn liền với tương lai của biết bao thế hệ nam, nữ, thanh, thiếu niên trong lãnh vực giáo dục nó là chìa khóa của tiến bộ văn minh và phát triển văn hóa cho đất nước, cho dân tộc.

Thành công nào có thể đẹp hơn, lâu bền hơn thành công của ông trong sự nghiệp giáo dục đào tạo con người?

***

Một phòng lẻ loi dành cho lính gác ở ngoài vòng rào trại giam Chí Hòa đã được quét dọn khá tươm tất. Giữa phòng, một tấm ván gỗ khổ hẹp đặt trên đôi mẻ. Trên tấm ván một hình người nằm ngửa, chân duỗi thẳng, hằn rõ dưới tấm mền mỏng phủ kín từ đầu xuống chân.
Thi thể Bác Sĩ Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa nằm đó, cô đơn, lạnh lẽo giữa một buổi trưa hè nắng gắt, oi nồng. Cùng với tấm ván và đôi mẻ, thi thể ông là tĩnh vật trang trí độc nhất của căn phòng lính gác quạnh hiu. Chung quanh không một bóng người. Cái tĩch mịch của căn phòng như muốn thét lên mà bị nghẹn.

Tang gia được chính quyền Việt Cộng hứa cho phép quàn thi hài Bác Sĩ Quát tại chùa Xá Lợi. Ðến phút chót Việt Cộng bội hứa như chúng vẫn có thói quen đó đã trở thành quán tính. Chúng buộc tang gia phải chôn cất ngay ngày hôm sau tức là ngày 28 Tháng Tư 1979. Tìm hiểu ra mới biết ngày 28 là ngày ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc tới Saigon: cho đem thi hài Bác Sĩ Quát về quàn tại Chùa Xá Lợi có thể gây ra nhiều phiền phức, rối ren không lường được. Quái thật! Một chế độ luôn luôn tự vỗ ngực lớn tiếng huênh hoang ta đây “Anh hùng nhất mực” và “ra ngõ là gặp anh hùng” lại sợ đủ thứ!
Sợ từ đứa bé sơ sinh sợ đi nên phải bắt nó vào tù với mẹ nó cho chắc!

Sợ từ cái xác chết sợ đi, nên bắt chôn ngay sợ xác chết “thần giao cách cảm” với Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc thì rầy rà to. Ðám tang bị hối thúc rồi cũng chu toàn nhờ sự tận tình giúp đỡ của thân bằng, quyến thuộc.
Sau tang lễ đơn sơ, còn sót lại là nghi vấn về cái chết của vị Cựu Thủ tướng. Hồ sơ bệnh lý do Việt cộng chính thức đưa ra là “nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não cùng viêm gan siêu vi trùng”.
Hồ sơ vẫn nguyên vẹn là một nghi vấn.

***

Nếu tôi biết hát, tôi sẽ cất giọng ca vừa đủ nghe tù khúc:

“Anh nằm đây,
Bạn bè anh cũng nằm đây…”

Gọi là một chút để ấm lòng người đã khuất.

Nguyễn Tú

Ký giả Nguyễn Tú, nguyên đặc phái viên chiến trường Nhật báo Chính Luận tại Việt Nam trước 1975, cũng như của nhiều báo ngoại quốc, đã bị giam hơn mười năm trong lao tù Cộng Sản. Ông vượt biên tới Hong Kong năm 1990 và sau đó tới Hoa Kỳ. Hiện ông cư ngụ tại vùng Hoa Thịnh Ðốn.

Ta sẽ không tàn phá

Ta sẽ không tàn phá

Đăng bởi lúc 12:30 Sáng 30/07/13

VRNs (30.07.2013) – St 18, 30 – 32

Abraham thưa:

“Lạy Chúa, xin đừng nổi giận,

con chỉ xin thưa lần này nữa thôi:

Nếu tìm được mười người công chính ở đó thì sao?”

Chúa phán:

“Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá”.

Abraham đã không thưa lần nào nữa

và Sodoma đã bị tàn phá.

Nhưng cả nhân loại này tội lỗi,

cả bản thân con cũng tội lỗi

chẳng cần có Abraham nào thưa gởi cho con,

chẳng tìm được mười người nào công chính cứu con

Chúa vẫn không tàn phá.

Vì đã có một người,

còn hơn cả sự công chính nữa

đã chết và sống lại vì con.

Con gọi là Chúa Cứu Thế.

Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, dcct.

Chúa nhật 17 TN. C.

HẠNH PHÚC KHÔNG TRỌN ĐẦY

HẠNH PHÚC KHÔNG TRỌN ĐẦY

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Ở đời, ai cũng mong đi tìm và sống hạnh phúc. Khi tìm thấy và sống hạnh phúc rồi thì ai cũng mong cho mình được hạnh phúc tròn đầy. Mong vẫn là mong và trong ước mong có người đạt được nhưng có người vẫn chơi vơi khi hạnh phúc chưa trọn vẹn.

Bén duyên, tôi biết hai anh em nhà nọ từ gần hai chục năm nay ở Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Biết họ bởi lẽ cứ đến giờ hành hương kính Đức Mẹ thì hai anh em đã có đó trước tôi. Thời gian trôi cứ vẫn trôi, hai anh em vẫn ngày mỗi ngày đến với Mẹ và đặc biệt không bỏ ngày thứ Bảy kính Mẹ bao giờ cả.

Trước khi biết là anh em tôi cứ nghĩ là cặp đôi đạo đức nhưng khi hỏi ra mới biết họ là hai anh em ruột chứ không phải là vợ chồng như tôi nghĩ. Tôi vội vàng xin lỗi họ bởi sự nhầm lẫn và kém cõi của tôi.

Lễ xong, hai anh em cứ quấn quýt bên hang đá Mẹ ở góc nhà thờ. Từ khi Mẹ Sầu Bi được đặt ở phòng hài cốt thì hai anh em lại tiến sâu vào trong để cầu nguyện với Mẹ, cầu nguyện cho các linh hồn.

Bén duyên thêm tí nữa tôi biết gia cảnh của hai anh em.

Giọng trầm buồn của người anh trải lòng về gia đình.

Hai anh em đều mất cả cha lẫn mẹ. Giờ thì hai anh em sống đùm bọc nhau.

“Cha biết không ? Ba con ngày xưa đi học tập … ở trong trại đói khổ và bệnh tật … sau đó người ta đưa ba con về. Về nhà không được bao lâu thì ba con mất vì di chứng của bệnh tật ở trong trại cải tạo. Khi ba con đi học tập về, nhà con nghèo kinh khủng. Con không muốn nhớ lại những ngày đó vì quá khổ. Sau đó, bác con cho con mượn tiền và mua nhà. Lúc đó con mua được căn nhà mặt tiền ở quận I. Sau 3 tháng, con bán lại và được phần lãi rất cao. Con gửi lại phần vốn cho bác và phần lãi đó có thể giúp cho gia đình con sống ổn định cho đến ngày hôm nay. Gia đình con vừa ổn định một chút thì Mẹ con bị ung thư máu và cũng mất luôn. Hai anh em con buồn lắm. Nỗi buồn cứ day dứt mãi cho đến ngày hôm nay, nhất là mỗi khi đêm về, hai anh em chúng con nhớ ba mẹ lắm. Đến giờ ba con mất hai chục năm, mẹ con hơn mười năm nhưng vẫn còn buồn. Nỗi buồn cứ day dứt mãi với anh em chúng con cho đến ngày hôm nay vẫn chưa hết …

Giờ hai anh em chúng con dù có cuộc sống ổn định nhưng vẫn nhớ ba mẹ lắm. Phận mồ côi mà cha. Giờ thì đời sống kinh tế ổn định nên hai anh em chúng con ngày nào cũng đi nhà thờ. Tạ ơn Chúa đã cho anh em chúng con được như vậy …

Nhiều người nói cha mẹ mất sớm như vậy thì con cái cũng sẽ như thế … sẽ chết sớm như cha mẹ …”

Nghe xong tâm tình này, tôi nói ngay với anh rằng sống chết tất cả đều nằm trong sự quan phòng của Chúa chứ chẳng ai có thể cũng như định được ngày sống của mình cả. Tất cả chỉ có Chúa biết mà thôi nên đừng bận tâm lo lắng làm chi.

Trong tâm sự của mình, anh không ngớt lời tạ ơn Chúa bởi vì nhờ ơn Chúa hai anh em của anh mới có được như ngày hôm nay. Và, cứ mãi day dứt nhớ đến ba mẹ của họ dù ba mẹ của họ khuất cũng đã khá lâu.

Nghe anh chia sẻ, tôi cũng chung chia với anh :

“Anh biết không, mình cũng thế ! May mắn cũng không đến với mình trọn vẹn. Khi gia đình tương đối ổn định thì Mẹ mất. Mẹ mình mất cách đây gần hai mươi năm cũng vì chứng bệnh ung thư. Giờ đây, mỗi khi nhớ đến thì không dám nhớ lâu bởi lẽ nhớ đến Mẹ là hai hàng nước mắt nó cứ trào ra. Bây giờ có chiếc xe tay ga để đi tới đi lui lại càng nhớ Mẹ. Ngày xưa chở Mẹ đi khám bệnh bằng con dame cà tàng. Giờ có xe ga nhưng không còn Mẹ để chở …”

Còn nhiều điều muốn chia sẻ thêm với anh nhưng đợi lần sau.

Cuộc trao đổi kết thúc, hình ảnh hai anh em mồ côi vẫn còn đâu đó bên tôi.

Cũng chẳng dám nói là tội nghiệp họ nhưng thấy cuộc sống hiện tại của hai anh em có cái gì đó. Tình yêu, nỗi nhớ da diết về đấng sinh thành của hai anh em đã làm cho hai anh em cứ hụt hẫng, cứ chênh vênh. Xét về đời sống vật chất, cơm áo gạo tiền thì hai anh em không phải bận tâm như nhiều người khác nhưng về tình yêu thương cha mẹ và một gia đình đầm ấm như bao nhiêu gia đình khác lại là mơ ước quá xa vời với hai anh em. Giờ họ có tất cả, họ đầy đủ tất cả, họ chỉ thiếu có một điều : thiếu cha thiếu mẹ.

Cha mẹ phải chăng là gia tài quý giá nhất và lớn nhất mà chẳng có gì thay thế được để rồi những ai dù giàu dù nghèo về vật chất nhưng còn cha đủ mẹ quả là hạnh phúc nhất của cuộc đời.

Cuộc đời vẫn còn đó những chênh vênh.

Những ai đang có hạnh phúc trong tay hãy nguyện xin hạnh phúc đó được mãi tròn đầy trên cuộc đời mình.

Những hai đang dở dang với hạnh phúc hãy chia sẻ, cảm thông với nhau để lấp đầy những khoảng trống trong cuộc đời đã bị mất hầu vơi đi một chút nào đó những mất mát của cuộc đời.

Anmai, CSsR

NÔNG TRẠI KOINONIA

NÔNG TRẠI KOINONIA

Br. Huynhquảng

Clarence Jordan (1912 – 1969) có hai bằng tiến sĩ, một về nông nghiệp và một về Kinh Thánh. Ông là người có nhiều tài năng và kiến thức sâu rộng, ông có thể kiếm tiền và tìm một địa vị trong xã hội một cách dễ dàng, tuy nhiên ông đã chọn phục vụ người nghèo.

Vào thập niên 1940, Clarence Jordan thành lập nông trại Koinonia tại Americus, Georgia. Trong nông trại này, nhiều nông dân da trắng lẫn da màu đều được tạo công ăn việc làm và đều được ông phục vụ như nhau. Vì ý tưởng này, dĩ nhiên vào thời điểm ấy, ông bị chống đối kịt liệt, đặc biệt từ những người cùng niềm tin tôn giáo với ông. Trong vòng 14 năm, rất nhiều người dân trong thành phố đã cố gắng ngăn chặn kế hoạch của ông, kể cả loại trừ ông và quấy rầy những người nghèo thuộc nông trại Koinonia. Cuối cùng vào năm 1954, quá mệt mõi vời Clarence Jordan, Ku Klux Klan (KKK) – một tổ chức phân biệt người gia màu và chống chính sách nhập cư tại Mỹ, đã quyết định loại bỏ ông Jordan. Vào một đêm tối, với vũ khí và đuốc, KKK đã đốt tất cả các căn nhà trong nông trại Koinonia và đuổi tất cả dân làng đi hết, chỉ trừ căn nhà của ông Clarence Jordan. Trong hoãng loạn đêm đen, ông Clarence cũng đã  nhận ra những giọng nói quen thuộc, trong đó có một số người cùng thuộc cộng đoàn tôn giáo với ông.

Sáng hôm sau, các phóng viên đến hiện trường để tìm hiểu sự việc. Họ gặp ông Clarence Jordan đang cuốc đất và trồng lại những cây cối đã bị tàn phá tối hôm qua. Các nhà báo hỏi chuyện, “Tôi nghe một thảm cảnh xảy đến với nông trại của ông, chuyện đầu đuôi ra sao?” Ông Clarence vẫn tiếp tục cuốc đất và trồng cây trong thinh lặng. Các nhà báo vẩn cố tìm cách lôi kéo ông Clarence vào cuộc với giọng dễu cợt, “Tiến sĩ Jordan, ông có hai bằng tiến sĩ và ông đã phí 14 năm trên nông trại này. Bây giờ không còn gì nữa. Ông nghĩ là ông đã thành công hay sao?” Ông Clarence ngừng lại, nhìn những nhà báo với giọng cương quyết ông đáp: “Thưa các ông, thành công như thập giá vậy! Tôi không nghĩ là các ông hiểu chúng tôi. Những gì chúng tôi đang làm tại nông trại này không phải vì thành công, nhưng là vì trung tín. Chúng tôi sẽ tiếp tục ở đây!” Từ ngày ấy trở đi, ông Clarence và những cộng sự của ông đã xây dựng lại nông trại Koinonia và nó vẫn phát triển cho đến ngày nay.[1]

* * *

“Những gì chúng tôi đang làm tại nông trại này không phải vì thành công, nhưng là vì sự trung tín.” Một lời khẳng định chắc chắn nhắm tới cho một mục đích rõ ràng: Trung tín với lý tưởng của mình. Đó có thể là thách đố cho những ai dấn thân đời mình cho lý tưởng phục vụ con người và xã hội.

Thông thường khi ta dấn thân cho một lý tưởng phục vụ, ta được thúc đẩy từ những hoàn cảnh thực tế – có thể ta là nạn nhân, hoặc có thể ta cảm nhận được lý tưởng dấn thân của ta có giá trị cho con người. Chính vì lẽ đó, thời gian đầu luôn làm cho ta phấn khởi bởi những thành quả mà ta đạt được; hay ít ra ta cũng thấy ý nghĩa của những hy sinh của ta. Nhưng theo thời gian năm tháng, những nỗ lực hay thành quả của ta – dù nó vẫn có đó, nhưng không còn mới mẽ như xưa, nên đôi khi ta cũng không nhận ra được thành quả nữa. Chỉ tiếc rằng, ta ít khi nhận ra điều này. Đáng buồn hơn, khi ta không “tạo” thêm thành quả mới thì ta dễ rơi vào suy  nghĩ tiêu cực là ta “vô dụng.”  Thực tế, căn nhà đã xây xong là một thành quả, dù sau 20 năm nó cũng là một thành quả. Không phải suy nghĩ như thế để an ủi chính mình, nhưng đó là thực tế thành quả của chính ta, của công sức của ta, của nỗ lực của ta. Căn nhà tôi xây dù có cũ đi, không có nghĩa rằng nó không phải là thành quả của tôi!

Lý tưởng phục vụ con người cũng như thế. Năm tháng và giới hạn về thể lý, hoàn cảnh của con người sẽ ảnh hưởng đến lý tưởng và sáng kiến phục vụ của mình, nhưng điều đó không có nghĩa là mình vô dụng. Điều quan trọng là sự trung tín với lý tưởng bao lâu có thể. Hoàn cảnh và thể lý có thể không cho phép ta thực hiện những hoài bão như dự tính, nhưng sự trung tín với lý tưởng đã là một nỗ lực thành công rất lớn rồi. Hơn ai hết, Mẹ Têrêsa Calcutta đã thấm thía thế nào là thành công khi xung quanh mẹ vẫn là những người bất hạnh không được chăm sóc đầy đủ. Tiếng kêu của Mẹ vẫn không được những người quyền thế và giàu sang hưởng ứng. Sự dấn thân của mẹ vẫn bị nhiều người phê bình lên án. Vâng, giữa những sự không thành công ấy, Mẹ vẫn khẳng định: “Tôi không được Chúa gọi vì sự thành công, nhưng vì sự trung tín.”[2]

Thưa bạn, khi chân bạn mõi, gối bạn chùn, mắt mờ, và trí óc tăm tối, bạn chỉ hướng đến một điểm thôi, để có thể nói rằng: Tôi được gọi không vì thành công, nhưng vì sự trung tín.

Br. Huynhquảng

Đức Mẹ tiên báo Thời Cuối Cùng

Đức Mẹ tiên báo Thời Cuối Cùng

Tác giả:Trầm Thiên Thu

LOURDES POLICARPIO

Nhật là một trong những quốc gia giàu nhất thế giới, nhưng số Kitô hữu chưa được 10% dân số. Ai có thể quên được Hiroshima và Nagasaki, nơi những trái bom nguyên tử đầu tiên nổ tung? Tại một đất nước bị bom nguyên tử khủng bố, Đức Mẹ đã cảnh báo nghiêm trọng với nhân loại vào năm 1973. Điều đó còn thích hợp với ngày nay?

Tượng Đức Mẹ bằng gỗ ở Akita

Sự kiện kỳ lạ xảy ra tại Akita (Nhật) bắt đầu bức tượng Đức Mẹ bằng gỗ được phát hiện tại Dòng Nữ tỳ Thánh Thể (Institute of the Handmaids of the Eucharist). Máu rỉ ra từ tay phải của bức tượng và máu rỉ ra từ tay trái của nữ tu Agnes Sasagawa (người Nhật). Bức tượng toát mồ hôi nhiều và chảy nước mắt. Phòng thí nghiệm tại Đại học Akita xét nghiệm nước chảy ra từ đôi mắt của tượng Đức Mẹ và chứng thực đó là nước mắt thật của người. Khoảng 500 người đã chứng kiến tượng Đức Mẹ khóc, người ta còn quay phim được những chỗ Đức Mẹ khóc, vài lần được chiếu trên ti-vi và phát thanh khắp nước Nhật.

Nhiều cuộc nói chuyện và chữa khỏi bệnh đã được công nhận là của Đức Mẹ Akita. Một phụ nữ Hàn quốc là Teresa Chun đã hồi phục cách kỳ lạ khỏi chứng u não sau khi cầu nguyện với Đức Mẹ Akita. Việc này đã được lưu tài liệu tại Bệnh viện St. Paul ở Seoul và được các giám mục Hàn quốc gởi về Rôma.

Sự trừng phạt ghê gớm hơn Đại Hồng Thủy

Quan trọng hơn những sự lạ siêu nhiên là những điều Đức Mẹ Akita nhắn nhủ qua nữ tu Agnes. Đức Mẹ cảnh báo: “Nếu nhân loại không ăn năn sám hối và sống tốt hơn thì Chúa Cha sẽ giáng hình phạt khủng khiếp hơn Đại Hồng Thủy thời ông Noe mà không hề báo trước nữa”.

Một số người có thể không tin vào tính nghiêm trọng trong sứ điệp của Đức Mẹ Akita. Tuy nhiên, những người theo sát các sứ điệp của Đức Mẹ thì nhận ra ngay rằng trong sứ điệp của Đức Mẹ Akita cũng lặp lại lời cảnh báo đã được nhắc nhở tại Fatima và Amsterdam. Tại Fatima, lời cảnh báo tập trung vào những điều ác của cộng sản vô thần do nước Nga truyền bá. Tại Amsterdam (Hà Lan), Đức Mẹ các Quốc gia (the Lady of all Nations) đã cảnh báo về sự thoái hóa của các quốc gia. Còn Đức Mẹ Akita nhấn mạnh đến “công việc của ma quỷ sẽ xâm nhập Giáo hội”. Trong khi các sứ điệp của 3 lần hiện ra khác nhau về điều được nhấn mạnh, chủ đề chung xuyên suốt vẫn là “nhân loại tội lỗi quá mức và đáng chịu sự trừng phạt nặng nề của Thiên Chúa”.

Đã tròn 40 năm Đức Mẹ hiện ra ở Akita, nhưng có vài vấn đề vẫn được thắc mắc. Có nhiều thiên tai và chiến tranh đã xảy ra từ thập niên 1970, không có thế chiến và không có thiên tai thế giới như Đại Hồng Thủy thời ông Noe. Vậy là lời đe dạo trừng phạt đã qua? Các lời cảnh báo đã được cất vào văn khố lưu trữ? Hay là chúng ta được cho thêm thời gian để ăn năn?

Tạp hôn

Nói rằng không có lời đe dọa trừng phạt của Thiên Chúa là tin rằng nhân loại trở nnê tốt hơn qua thời gian. Tuy nhiên, hãy cân nhắc… Năm 1997, Viện Gallup đã thăm dò ý kiến tại 16 quốc gia với câu hỏi này: “Bạn có nghĩ rằng chỉ là bình thường khi hai người có con mà không kết hôn?”. Tại 12 nước, người ta trả lời rằng “đó là bình thường”. Trong đó có những nước Mexico, Tây Ban Nha và Pháp, những nước có số người Công giáo chiếm đa số!

Trung tâm ủng hộ phá thai là Trung tâm Luật sản sinh (Center for Reproductive Law and Policy) ở New York cho biết rằng hiện nay có 54 quốc gia không cho phép phá thai – các nước này chiếm 61% dân số thế giới. Trong danh sách các nước cho phép phá thai có Pháp, Anh, Ý, Nga, Hoa Kỳ, và Trung quốc – các siêu cường quốc trong thế giới ngày nay!

Viện Alan Guttmacher (AGI – Alan Guttmacher Institute) có dữ liệu phá thai ở Hoa Kỳ, từ năm 1973 tới 2000, đã có hơn 40 triệu vụ phá thai tại Hoa Kỳ. Mỗi năm tại Hoa Kỳ ước tính có 1,5 triệu vụ phá thai. AGI lưu ý rằng những trường hợp tử vong do phá thai chỉ trong 1 năm ở Hoa Kỳ cũng nhiều hơn số tử vong do chiến tranh trong nhiều năm gộp lại, kể cả thế chiến I và II.

Ngày nay, theo số liệu ngày 16-11-2003, số vụ phá thai hàng tháng là 1.229 triệu vụ. Các nước có tỷ lệ phá thai cao phải kể tới Nga và Trung quốc.

Phá thai ở nước Nga

Những người lạc quan sẽ cho rằng thế giới ngày nay tốt hơn vì chủ nghĩa cộng sản vô thần đã sụp đổ tại Đông Âu. Nhờ cộng sản sụp đổ mà nước Nga đã có thế hệ luân lý hơn.

Nếu chúng ta phê phán qua tin tức, nhất là về vấn đề phá thai, Nga vẫn xa rời những lời tiên báo của Đức Mẹ Fatima, không biết qua đối thoại chúng ta có ý nói một thế hệ luân lý hoặc quan trọng đối với Thiên Chúa hay không. Tỷ lệ phá thai ở Nga cao hơn rất nhiều (cao hơn ở Hoa Kỳ) dù mới đây đã giảm. Tại Nga, từ 4,6 triệu vụ phá thai hồi năm 1988, tổng số giảm còn 1,78 triệu vụ hồi năm 2002.

Ngày 28-8-2003, báo Christian Science Monitor nói rằng thống kê chính thức ở Nga cho biết rằng cứ 3 trường hợp sinh thì có 2 trường hợp phá thai. Khi tỷ lệ phá thai giảm 23% so với những năm từ 1993 tới 1997, điều này không vì lý do luân lý. Khi Liên Xô sụp đổ, lại có các dạng khác về hạn chế sinh sản. Bác sĩ phụ khoa Lyudmila Timofeyeva nói: “Nguyên nhân chính khiến giảm tỷ lệ phá thai trong những năm qua là các phụ nữ trẻ khéo léo hơn về cách dùng các biện pháp tránh thai và kế hoạch hóa gia đình”.

Ma quỷ xâm nhập Giáo hội

Cẩn thận đọc sứ điệp của Đức Mẹ Akita, chúng ta có thể thấy mối quan tâm của Đức Mẹ về Giáo hội: “Công việc của ma quỷ sẽ xâm nhập Giáo hội”. Vài năm trước, luận điệu lạm dụng tình dục của các giáo sĩ Hoa Kỳ đã gây chấn động. Điều làm người Mỹ bị sốc không chỉ là sự giống nhau trong các vụ ấu dâm của các linh mục mà còn là kiểu “văn hóa bí mật” (culture of secrecy) mà các viên chức Giáo hội đã vận dụng các trường hợp khác nhau (Báo Time, số ra ngày 1-4-2002). Lạm dụng tình dục thiếu niên là sai lầm luân lý (moral aberration) và được xử lý bằng cách xưng tội, đó cũng là trọng tội và có thể trừng phạt bằng luật pháp.

Tại Philippines, việc bỏ tù các linh mục có thể là lời nguyền rủa đối với dân chúng. Còn ở Hoa Kỳ, người ta thấy rằng từ năm 1950, có 1.341 linh mục đã bị kết tội lạm dụng tình dục – một con số quá lớn so với ước tính trước đây. Con số này chỉ được tính theo các vụ kiện có liên quan, chưa cho thấy những người không bị phát hiện, và có thể còn có các dạng khác liên quan tình dục mà không ai biết.

Với Giaxinta, một trong ba trẻ được Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Đức Mẹ cho biết: “Nhiều linh hồn sa hỏa ngục vì phạm tội về xác thịt nhiều hơn vì các tội khác”.

Trưởng thành Kitô giáo

Do đó, tranh luận rằng sứ điệp của Đức Mẹ Akita là không thích hợp vài nhân loại đã biến đổi thì cũng giống như nhìn vào thế giới qua lăng kính màu hồng. Người ta phải bật ti-vi lên để tìm mức độ bi quan về giới tính đã nhấn chìm thế giới.

Mặt khác, cũng cần đáp lại sứ điệp của Đức Mẹ Akita bằng sự trưởng thành Kitô giáo. Phần khác trong sứ điệp của Đức Mẹ là kêu gọi cầu nguyện, ăn năn và đền tội. Điều sai lầm là chỉ tò mò và tuyên truyền ầm ĩ nhưng chính mình vẫn dửng dưng với lời kêu gọi của Đức Mẹ về việc cầu nguyện và sám hối.

Cách đáp lại của chúng ta phải tràn đầy đức tin. U sầu và thất vọng ư? KHÔNG! Ma quỷ trong thế giới ngày nay chắc chắn đang tràn ngập nhưng cũng có những tia hy vọng. Tòa Thánh cho biết rằng từ 1978 tới 2001, số linh mục trên thế giới giảm 4%. Tuy nhiên, để bù vào số linh mục thiếu hụt, chúng ta đang chứng kiến có sự góp phần của các giáo dân trong Giáo hội. Thật vậy, sự anh hùng thầm lặng của đa số các linh mục và tu sĩ lại không được nhắc tới. Đó là vấn đề của truyền thông.

Ngay tại Nga, người ta hy vọng rằng sự giết hàng loạt nhữn người vô tội sẽ phải chấm dứt vào một ngày nào đó, hoặc ít ra cũng là giảm bớt. Tháng 9-2003, Nga đã ban hành luật hạn chế sinh sản lần đầu tiên trong vòng 50 năm. Luật mới này giới hạn các trường hợp phụ nữ có thể phá thai từ 12-22 tuần tuổi. Nhưng không may là luật mới này không được ban hành vì lý do luân lý mà về vấn đề sức khỏe của thai phụ. Thống kê cho thấy có 30% số thai phụ tử vong tại Nga và dân số giảm khiến Tổng thống Vladimir Putin phải gọi là “thảm họa dần dần” (creeping catastrophe). Với quân đội thì đó là phòng thủ yếu ớt!

Thật khích lệ có tin liên quan các chính khách có đạo đã nói rằng họ sẽ tiếp tục đưa vấn đề phá thai lên hàng đầu trong cuộc thảo luận công khai và sẽ chỉ cho phép phá thai nếu tính nạng người mẹ bị đe dọa. Thiểu số Kitô hữu thuộc Đảng Dân Chủ nói rằng đó là do có sự “hỗ trợ” của tôn giáo – gồm có Chính thống giáo, Hồi giáo Nga, và Công giáo.

Mặt khác, tại Hoa Kỳ, người ta chỉ có thể thắc mắc về những phim khiêu khích của Hollywood đối với hàng triệu khán giả khắp thế giới. Nhưng ở đây vẫn có tia hy vọng! Phim “Cuộc Khổ Nạn của Chúa” (The Passion of the Christ) của đạo diễn Mel Gibson là “phim giật gân”. Những người không có niềm tin hoặc đa nghi không thể đọc Kinh Thánh hoặc sách giáo lý, nhưng họ vẫn có thể xem phim này. Đạo diễn Công giáo Mel Gibson đã tận dụng sự ảnh hưởng to lớn này. Thật vậy, Chúa Thánh Thần có thể tác động ngay trong những cách ngoài quy ước!

Cuối cùng, chúng ta chỉ có thể trao phó mọi thứ cho Đức Mẹ. Lời cảnh báo của Đức Mẹ Akita đã đặt tiền đề: “Nếu loài người không ăn năn và sống tốt hơn”. Dù chúng ta tin tưởng vào sự can thiệp mạnh mẽ của Đức Mẹ, chúng ta cũng vẫn phải đáp lại một cách đại lượng. Chính Đức Mẹ đã nói: “Cầu nguyện, sám hối, và hy sinh có thể làm dịu cơn giận của Chúa Cha”.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com)

NGƯỜI DÁM LỘI NGƯỢC DÒNG ĐỜI

NGƯỜI DÁM LỘI NGƯỢC DÒNG ĐỜI
Lm. Giuse Trần Đình Long
Dòng Thánh Thể
Người bạn trẻ thân mến,
Từ nhiều năm nay, ở trong nhà Dòng, sau khi điểm tâm, tôi có thói quen ngồi ghế đá “điểm báo buổi sáng” bên ly cà phê. Cầm tờ báo lật từng trang vẫn thú vị hơn bấm nút để coi báo điện tử. Bạn có thấy vậy không? Những tin tức đọc hàng ngày đúng là tin…tức, vì đọc xong thấy tức thật ! Nhưng cũng nhờ đó mà tôi sống được mầu nhiệm nhập thể của Đức Giêsu, chia sẻ buồn vui của phận người, lo toan của nhân thế. Tôi có chất liệu để suy tư, cầu nguyện, chia sẻ và để dâng lên Chúa trong chén thánh mỗi ngày. Nhờ đó những bài giảng không viễn vông trên mây trên gió, cũng không phải lấy nguyên xi bài giảng trên mạng xuống đọc thuộc lòng, để rồi sau thánh lễ có bạn đến gặp và nói : “Bài giảng của cha hôm nay hay quá, nhưng con thấy quen quen vì mới đọc tối qua trên web…”
Cầm tờ báo Pháp Luật hôm nay đọc thấy toàn tin… buồn :

  • Chiều 30-6, thấy chiếc chiếu cũ không biết của ai phơi trên hàng rào của dãy nhà trọ hẻm 68, phường Linh Xuân, Thủ Đức, Sơn lấy trải xuống đất nhậu cùng 2 người bạn. Thiện đi làm về thấy nhóm Sơn lấy chiếu của mình nên lớn tiếng hỏi. Sơn xin lỗi và hứa giặt sạch trả lại. Tuy nhiên Thiện vẫn lao vào lấy khúc cây đánh Sơn túi bụi. Sơn lấy con dao đâm vào ngực Thiện khiến nạn nhân gục tại chỗ và tử vong tại bênh viện.

  • Khuya 6-7, ở phường Xuân Hà, Đà Nẵng, nhóm của Thắng mâu thuẫn với nhóm của anh Việt (sinh viên năm II ĐH Quảng Nam). Thắng và đồng bọn dùng dao bấm đâm anh Việt tử vong và một người khác bị thương nặng.

  • Tại Brazil-chủ nhà World Cup 2014, Olympic 2016 và Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2013 vừa xảy ra một thảm kịch bóng đá dẫn đến giết người thật man rợ. Trong trận bóng đá ở TP Sao Luis, trọng tài Silva phạt thẻ đỏ một cầu thủ nhưng anh ta không chịu ra sân mà quay lại chửi bới trọng tài. Silva rút một vật nhọn đâm nhiều nhát vào cầu thủ này. Lập tức người thân cùng bạn bè cầu thủ đó nhào vào sân hành hung trọng tài, ném đá và đánh đến chết. Chưa hả cơn giận, họ còn chặt chân tay, và chặt đầu trọng tài treo lên cọc nhọn như kiểu hành xử man rợ thời tiền sử!
Bạn nghĩ sao khi đọc thấy những tin thời sự đầy bạo lực nhan nhãn trên phương tiện truyền thông mỗi ngày ? Thú thật có nhiều lúc tôi không muốn đọc báo nữa. Càng biết nhiều càng thấy khổ tâm nhiều. Khổ vì biết mà không làm gì được. Nhiều lúc muốn “giả điếc làm ngơ” vì thấy sự dữ lộng hành mọi nơi mọi chốn, ngay cả những chốn thiêng thánh nhất, nơi những người nắm giữ chức vụ cao nhất, đạo đức nhất. Chính vì vậy nhiều bạn trẻ ngày nay chọn “giải pháp an toàn”, chẳng dại gì “ách giữa đàng, mang vào cổ”, riết rồi trở thành “vô cảm” và ích kỷ, như ĐGM Bùi Tuần nhận xét : “Dù trong hoàn cảnh nào, tất cả đều tuỳ thuộc ở hoạt động của cái tâm. Cái tâm thương cảm hay vô cảm. Cái tâm tế nhị hay ích kỷ. Với cái tâm thương cảm và tế nhị, một người nghèo khó bệnh tật vẫn nghĩ được cách lo cho người khác, bằng những việc nhỏ, âm thầm, nhưng thực sự mang chiều kích thiêng liêng, rất ích lợi cho nhiều người.” (CGDT, 1909).

  • Chúa là Đấng Hằng Sống, là Đấng Xót Thương
Sáng thứ Sáu 05-07-2013, hòa cùng niềm vui với các công nhân làm việc tại Vatican, Đức nguyên giáo hoàng Bênêđictô XVI đã đến tham dự buổi lễ làm phép bức tượng Tổng lãnh thiên thần Micae tại khu Vườn Vatican do Đức giáo hoàng Phanxicô chủ sự.
Nếu bạn có mặt trong nhóm công nhân hôm đó, bạn sẽ được nghe ĐGH Phanxicô nhắn nhủ : “Đây không chỉ là dịp vui mừng nhưng còn là lời mời gọi suy tư và cầu nguyện, rất phù hợp trong Năm Đức Tin này. Micae – có nghĩa là “Ai bằng Thiên Chúa?” – là người bênh vực phẩm tính tối cao, siêu việt và quyền năng của Thiên Chúa. Micae chiến đấu để khôi phục nền công bình của Thiên Chúa và bảo vệ dân Chúa khỏi tay mọi kẻ thù, nhất là ma quỷ. Và Thánh Micae đã chiến thắng bởi vì có Thiên Chúa hành động trong ngài…”
Trong cuộc sống hiện nay nhiều bạn trẻ cảm thấy thất vọng chán nản, muốn buông xuôi bỏ cuộc vì thấy sự dữ thắng thế trên mọi mặt trận. Báo chí đăng biết bao người lành bị ức hiếp bị hàm oan mà chẳng biết kêu cầu ai, chẳng được ai bênh đỡ. Trong khi kẻ cậy quyền cậy thế chà đạp dân lành, làm bao điều phi pháp sai trái thì cứ phởn phơ sống ngoài vòng pháp luật.
Bạn có bao giờ dám lên tiếng bênh vực chân lý, bảo vệ sự thật, “khôi phục nền công bình của Thiên Chúa và bảo vệ dân Chúa khỏi mọi kẻ thù” chưa? Nếu bạn mất hết dũng khí, không còn nghị lực để chống trả sự dữ nữa, hãy nghe ĐGH xác tín  :
“Tác phẩm điêu khắc này nhắc nhở chúng ta rằng sự dữ đã bị khuất phục, kẻ tố cáo đã bị lột mặt nạ, đầu bị nghiền nát, bởi vì ơn cứu độ đã được thực hiện một lần và mãi mãi trong Máu Thánh Chúa Kitô. Dù cho ma quỷ có ra sức làm xấu đi khuôn mặt của Tổng lãnh thiên thần và bộ mặt của nhân loại, Thiên Chúa vẫn mạnh hơn. Chiến thắng của Ngài và sự cứu rỗi của Ngài được ban cho mọi người. Chúng ta không lẻ loi trong cuộc hành trình hay trong những thử thách của cuộc sống; có các Thiên thần của Thiên Chúa đồng hành và nâng đỡ chúng ta. Có thể nói các Thiên thần cho chúng ta đôi cánh của các ngài để giúp chúng ta vượt qua nhiều nỗi hiểm nguy, để bay thoát lên cao khỏi những thực tại luôn đè nặng cuộc sống hoặc kéo ghì chúng ta xuống…”
Sáng Chúa Nhật 16-6-2013, nhân Ngày Sự Sống trong Năm Đức Tin, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành thánh lễ tại quảng trường thánh Phêrô với gần 100.000 tín hữu tham dự. Trong đó có phái đoàn của Phong Trào Thăng Tiến Sự Sống đến từ nhiều nước trên thế giới và hàng ngàn thành viên Hiệp Hội Môtô nhân đại hội kỷ niệm 110 năm hiện diện của loại môtô Harley-Davidson diễn ra tại Roma từ ngày 13 đến 16 tháng 6.
Đức Thánh Cha giải thích thái độ của Chúa Giêsu đến dùng bữa tại nhà một người Pharisêu, và để cho một phụ nữ tội lỗi đến gần gây cớ vấp phạm cho những người hiện diện. Người lại còn tha tội cho bà và nói: “Các tội của chị đã được tha vì chị đã yêu nhiều. Trái lại, ai yêu ít thì được tha ít” (Lc 7,47). Người đem sự sống của Thiên Chúa đến và biến đổi con người. Người đàn bà xức dầu thơm nơi chân Chúa đã để cho lòng xót thương của Chúa đụng chạm tới mình và được ơn tha thứ để bắt đầu một cuộc sống mới.
ĐGH kêu gọi mọi người lập đi lập lại : “Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, là Đấng xót thương!”
Thế nhưng ĐGH nhận xét : “Rất thường khi, con người không chọn lựa sự sống, không chọn lựa Tin Mừng sự sống, mà để cho mình bị hướng dẫn bởi các ý thức hệ và luận lý ngăn cản sự sống, không dung tha sự sống, bởi vì chúng bị chỉ huy bởi sự ích kỷ, lợi nhuận, bổng lộc, quyền bính, thú vui, chứ không phải bởi tình yêu thương và việc kiếm tìm thiện ích của người khác. Đó là ảo tưởng muốn xây dựng kinh thành của con người mà không có Thiên Chúa, không có sự sống và tình yêu của Thiên Chúa. Chính vì thế mới có chiến tranh, bạo lực, cướp của giết người. Nhân loại chẳng một ngày có bình yên.
Các bạn trẻ ngày nay đang xây một tháp Babel mới khi nghĩ rằng việc khước từ Thiên Chúa, khước từ Sứ Điệp của Chúa Kitô và Tin Mừng sự sống sẽ đem đến cho họ sự tự do. Thế nhưng thực tế các thần tượng mau qua của con người thay thế Thiên Chúa chỉ cống hiến sự “say choáng tự do” một lúc thôi, rồi cuối cùng chúng sẽ đem tới sự “nô lệ mới”.
Bạn có ở trong số hàng ngàn người xếp rồng rắn từ sáng sớm đợi hàng giờ để mua được tấm vé cả triệu đồng coi trận đấu giữa đội bóng đá Việt Nam và đội Arsernal đến từ nước Anh không ? Hoặc đội mưa chờ cả mấy tiếng đồng hồ để xem ngôi sao ca nhạc Hàn Quốc không? Thần tượng của bạn là ai ? Bạn có được tự do thực sự khi khước từ Thiên Chúa không, hay bạn lại sa vào làm nô lệ mới cho những đam mê ham muốn của bạn ?
ĐGH kêu gọi các bạn trẻ nhìn lên “Chúa là Đấng Hằng Sống, Người thương xót”, và hãy :

  • Nói có với “tình yêu”, nói không với “ích kỷ”
  • Nói có với “sự sống”, nói không với “cái chết”
  • Nói có với “sự tự do”, nói không với “nô lệ” của biết bao nhiêu thần tượng thời đại.
  • Nói “vâng” với Thiên Chúa là tình yêu, sự sống và tự do.
Chỉ có niềm tin nơi Thiên Chúa Hằng Sống mới cứu rỗi chúng ta mà thôi.

  • Hãy Can Đảm Đi Ngược Dòng Đời
Ngày 23 tháng 06, trước khi đọc Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha khích lệ các Kitô hữu, đặc biệt là các bạn trẻ, “hãy can đảm đi ngược dòng đời” để làm chứng cho Đức Kitô: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,24).
ĐTC cho thấy các thánh tử đạo là những mẫu gương tuyệt vời nhất về việc “liều mất mạng sống” vì Đức Kitô. Họ chấp nhận thà chết chứ không chối bỏ đức tin. Bên cạnh đó cũng có nhiều vị tử đạo trong đời sống thường ngày. Họ không chết nhưng đã “liều mất mạng sống” vì Đức Kitô khi chu toàn trách nhiệm của mình với tình yêu. Đó là những người cha người mẹ đã hy sinh chịu bao khó khăn vì lợi ích của gia đình trong đời sống thường ngày. Là những linh mục, nam nữ tu sĩ quảng đại dấn thân cho nước Thiên Chúa trong công việc phục vụ tha nhân. Là những người trẻ dám từ bỏ niềm vui riêng để phục vụ trẻ mồ côi, người tàn tật, già cả…
Kiểu tử đạo không đổ máu này coi bộ không dễ nuốt chút nào. Có bạn nói : “Con chỉ cầu người ta cấm đạo như xưa, con đưa cổ cho họ chém một nhát là xong. Tử đạo. Lên Thiên Đàng thẳng cánh!” Không đơn giản thế đâu bạn ạ. Nếu không tập tử đạo trong đời sống thường ngày bằng những hy sinh yêu thương phục vụ thì khi gặp cơn thử thách đe doạ đến tính mạng của mình, lúc đó làm sao đứng vững nổi. Sợ rằng “chưa đánh đã khai” rồi.
Bạn hãy nghe Chúa nói với thánh nữ Faustina : “Con hãy biết rằng cuộc tử đạo từng ngày âm thầm của con trong việc hoàn toàn suy phục thánh ý Cha đã dẫn đưa nhiều linh hồn đến thiên đàng. Và khi thấy đau khổ dường như vượt quá sức mình, con hãy chiêm ngưỡng các thương tích của Cha, và con sẽ vượt qua được sự khinh khi và xét đoán của con người. Con hãy suy gẫm cuộc khổ nạn của Cha để giúp con vươn cao trên mọi sự.” (NK, 1184)
Thánh Vinh Sơn Phaolô nói : “Thiên Chúa luôn tra tay hành động một khi Người đã cất hết mọi phương thế nhân loại, và bắt chúng ta phải thực hiện một việc vượt quá sức chúng ta.”
Đức Thánh Cha cũng nhắc đến mẫu gương sống động của Thánh Gioan Tẩy Giả, mừng lễ Sinh Nhật 24-6, trong việc dâng hiến mạng sống mình vì chân lý :
“Thánh Gioan đã chết vì chân lý, khi tố cáo tội ngoại tình của Hêrôđê và Hêrôđia. Có biết bao nhiêu người đã trả giá đắt vì dám dấn thân cho chân lý! Biết bao nhiêu người công chính muốn đi ngược dòng đời, để không phải khước từ tiếng nói của lương tâm và tiếng nói của chân lý! Những người công chính không sợ đi ngược dòng!”
Người bạn trẻ ơi,
Biết rằng “sự thật mất lòng”, biết rằng nói đụng đến quyền lực thì chỉ thiệt thân, biết rằng sống theo “tiếng nói của lương tâm và chân lý” là “liều mất mạng sống”. Làm như thế là đi ngược dòng đời, là chuốc lấy khó khăn. Chính vì thế nhiều bạn đã chọn con đường thoả hiệp, chọn lựa sự “khôn ngoan thế gian” để được hưởng “bổng lộc” được hưởng “ơn mưa móc” từ những người có chức có quyền. Họ chấp nhận sống luồn cúi, bợ đỡ, nói theo kẻ có quyền, sống xuôi dòng đời cho đời thảnh thơi. Họ chủ trương “ôm rơm chi cho rặm bụng”, thôi thì cứ “ai sao tôi vậy, ai làm bậy tôi làm theo” Thế mà sướng ! Thế mà có lợi và được người đời khen là khôn ngoan khéo léo. Họ thà sống yên thân với giá trị xấu hơn là bị thiệt thân khi lội ngược giòng sống giá trị Tin Mừng. Biết được não trạng ấy, ĐTC nhấn mạnh :
“Các con là những người trẻ, cha muốn nhắn nhủ rằng: Các con đừng sợ đi ngược dòng đời, khi mà những giá trị được bày ra cho chúng ta là những giá trị xấu, muốn cướp mất hy vọng của chúng ta. Những giá trị được ví như những bữa ăn, khi bữa ăn không lành mạnh, nó sẽ làm hại chúng ta. Những giá trị này làm hại chúng ta. Nhưng chúng ta phải đi ngược dòng đời!
“Và các con, các bạn trẻ, các con phải là người đi tiên phong. Hãy đi ngược dòng đời và hãy lấy làm hãnh diện khi đi ngược dòng đời như vậy. Hãy tiến lên, các con hãy can đảm và hãy đi ngược dòng đời.
“Trên con đường này, Mẹ Maria đã đi trước chúng ta ! Mẹ đã đánh mất mạng sống mình vì Chúa Giêsu đến tận Thập Giá, và Mẹ đã lãnh nhận sự sống với tất cả ánh sáng và vẻ đẹp của Đấng Phục Sinh. Xin Mẹ giúp chúng ta biết nỗ lực hết mình trong việc sống luận lý của Tin Mừng.”
Biết rằng “nói thì dễ, làm mới khó”, cho nên sau khi đọc Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha một lần nữa nhắn nhủ mọi người, đặc biệt các bạn trẻ hãy can đảm đi ngược dòng đời.
“Anh chị em hãy nhớ kỹ: Đừng sợ hãi khi đi ngược dòng đời! Hãy can đảm! Chúng ta không muốn ăn một thức ăn không tốt, thì chúng ta cũng không muốn mang lấy những giá trị xấu, những giá trị hủy hoại sự sống và đánh cắp niềm hy vọng. Hãy tiến lên!”
Alessandro Special là một nhà báo và nhà bình luận các vấn đề Vatican tại Rôma trong bài báo mang tựa đề : “Một trăm ngày ‘trăng mật’ của ĐTC sắp kết thúc ?” Ông viết : “Người dân kính mến ngài, nhưng nội bộ Vatican bắt đầu khó chịu…ĐTC thường xuyên lặp lại rằng Giáo Hội không nên dựa quá nhiều vào các kế hoạch được chuẩn bị một cách cẩn thận nhưng cần để không gian cho Chúa Thánh Thần hành động”.
Bạn thấy đó, chính ĐTC cũng đang vất vả lội ngược giòng khi dám mạnh dạn thay đổi từ chỗ ăn ở, xe cộ, phẩm phục, nhẫn, thánh giá đeo cho đến phong cách đơn giản, bình dân gần gũi và những bài chia sẻ rất thật rất thẳng, không ngại đụng chạm mất lòng. Chắc chắn ngài bị nhiều người chống đối bài bác vì dám phá vỡ những truyền thống, tục lệ, dám đụng đến những thế lực vô hình.
Ngày 21-6 tiếp 148 vị Sứ thần và Khâm sứ Toà Thánh tại Vatican, ĐTC nghiêm khắc cảnh báo các “Giám mục phải là mục tử, chứ không phải là Hoàng tử” và “Hãy chú ý không tham vọng, không tìm kiếm chức vụ giám mục… vì bị tinh thần thế tục chi phối làm cho người ta hành động vì bản thân chứ không phải vì vinh quang Thiên Chúa.”
Bạn ơi,
Chắc chắn bạn sẽ gặp muôn vàn trở ngại chống đối khi dám lội ngược dòng loan báo và làm chứng cho Tin Mừng, lúc đó bạn cũng muốn thoái thác như ngôn sứ Giêrêmia : “Ôi ! Lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói !” và Chúa cũng nói với bạn : “Ðừng nói ngươi còn trẻ ! Ta sai ngươi đi đâu, ngươi cứ đi” (Gr 1,6-7).
Nếu thấy mình không có khả năng và bất xứng, bạn đừng lo vì công việc này đâu phải dựa trên sức riêng con người nhưng là dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, như Phaolô đã khẳng định : “Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi” (2 Cr 4,7).

  • “Hãy Đi Và Làm Cho Muôn Dân Trở Thành Môn Đệ” (Mt 28,19)
Bạn thân mến,
Cuối Công Đồng Vaticanô II, ngày 8 tháng 12 năm 1965, ĐTC Phaolô VI đã gởi đến người trẻ trên thế giới một sứ điệp với lời khởi đầu : “Các bạn trẻ thân mến, chính các con là những người mà Công Đồng muốn nhắn gởi thông điệp cuối cùng của mình. Vì chính các con là những người đã lãnh nhận ngọn đuốc từ tay những người đi trước, là những người sống trong một thế giới có những sự biến chuyển lớn lao chưa từng có trong lịch sử. Chính các con, khi đón nhận các mẫu gương sống động cũng như những lời khuyên nhủ của cha mẹ và thầy cô, các con sẽ là những người khuôn đúc nên xã hội mai sau. Một xã hội mà các con có thể được cứu hay bị diệt vong trong đó.”
Sứ điệp kết thúc với lời nhắn nhủ : “Với lòng nhiệt thành, các con hãy xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn !”
Trong sứ điệp công bố ngày 16-11-2012, ĐTC Benedictô XVI cũng nhắc lại lời nhắn nhủ này với các bạn trẻ : “Hôm nay đây lời kêu gọi này vẫn còn cần thiết. Chúng ta đang trải qua một giai đoạn lịch sử rất đặc biệt. Những tiến bộ kỹ thuật đã mở ra những khả thể cho việc tương tác giữa người với người và giữa các quốc gia. Nhưng những mối quan hệ mang tính toàn cầu này chỉ giúp ích cho thế giới khi nó được đặt nền tảng trên tình yêu hơn là dựa trên chủ nghĩa vật chất. Tình yêu là điều duy nhất có thể lấp đầy trái tim con người và giúp con người xích lại gần nhau hơn. Thiên Chúa là Tình Yêu. Khi chúng ta lãng quên Thiên Chúa, chúng ta đánh mất hy vọng và không thể yêu thương người khác. Đó là lý do tại sao chúng ta phải minh chứng cho sự hiện diện của Thiên Chúa để người khác cũng có thể kinh nghiệm điều này. Sự cứu độ của con người phụ thuộc vào điều này, và đó cũng là sự cứu độ của mỗi chúng ta. Bất cứ ai hiểu được điều này thì cũng có thể tuyên bố như thánh Phaolô : “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng !” (1 Cr 9,16).
“Phúc Âm Hoá luôn khởi đi từ cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Những người đã đến với Đức Giêsu và đã kinh nghiệm về tình yêu của Ngài, lập tức họ sẽ muốn chia sẻ vẻ đẹp và niềm vui phát sinh từ tình bạn có được với Đức Kitô. Càng biết về Đức Giêsu, chúng ta càng muốn nói về Ngài. Càng thưa chuyện với Đức Kitô, chúng ta càng khao khát để nói về Ngài. Càng để Đức Giêsu chiếm đoạt mình, chúng ta càng khao khát lôi kéo người khác về với Ngài. Chính Thánh Thần của tình yêu là nguồn trợ lực cho sứ mạng chúng ta. Thánh Thần thúc đẩy chúng ta biết “đi ra” khỏi mình và “ra đi” để loan truyền Tin Mừng.
“Các con hãy để cho chính mình được dẫn dắt bởi tình yêu Thiên Chúa. Hãy để cho tình yêu đó giúp các con vượt qua mọi khuynh hướng khép kín lại nơi thế giới, nơi các vấn đề và thói quen của mình. Hãy can đảm để “đi ra” khỏi mình, “để đến” với người khác và chỉ cho họ thấy con đường gặp gỡ Thiên Chúa.
“Các con hãy mở mắt và nhìn xem xung quanh mình vẫn còn đó biết bao nhiêu người trẻ không tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời. Hãy ra đi ! Đức Giêsu cần các con. Hãy để cho chính mình bị bắt chộp và bị lôi kéo bởi tình yêu của Ngài.”
Bạn thân mến,
Nối tiếp tư tưởng “Hãy Ra Đi, Đừng Sợ ! Hãy Tiến Lên”, ĐTC Phanxicô có chuyến viếng thăm đầu tiên tại hải ngoại từ 22 đến 29-7 nhân Ngày Quốc Tế Giới Trẻ lần thứ 28 tại thành phố Rio de Janeiro Brazil, với chủ đề: “Hãy Đi Và Làm Cho Muôn Dân Trở Thành Môn Đệ” (Mt 28,19).
Ngày Giới Trẻ Thế Giới (tiếng Anh World Youth Day-WYD) là ngày hội của giới trẻ Công Giáo toàn thế giới. Ngày Giới Trẻ Thế Giới được Đức Chân Phước Gioan Phaolô II khởi xướng ngày Lễ Lá năm 1984 tại Roma. Ngày Quốc Tế Giới Trẻ năm nay lại trùng với Năm Đức Tin, được bắt đầu với chủ đề của Thượng Hội Đồng Giám Mục là “Tân Phúc Âm hóa nhằm thông truyền Đức Tin Kitô giáo”.
Bạn đã biết lịch trình của ĐTC chưa ? ĐTC rời Roma sáng thứ hai 22-7 để bay tới Rio de Janeiro. Sau nghi thức tiếp đón chính thức tại phi trường, ngài viếng thăm Tổng thống Brazil tại dinh Guanabara ở Rio. Thứ tư 24-7, ĐTC hành hương kính viếng Đền Thánh Đức Mẹ Vô Nhiễm ở thành Aparecida, bổn mạng Brazil, và viếng thăm nhà thương thánh Phanxicô Assisi Chúa Quan Phòng. Thứ năm 25-7, chính quyền thành phố Rio chính thức đón tiếp ĐTC với nghi thức trao chìa khóa và làm phép các lá cờ thế vận Olympic, sau đó ngài viếng thăm cộng đoàn Varginha khu xóm nghèo ổ chuột ở Rio. Ban chiều có buổi đón tiếp chính thức của các bạn trẻ quốc tế dành cho ĐTC tại bờ biển Capacabana. Thứ sáu, 26-7, ĐTC giải tội cho một số bạn trẻ ở công viên Quinta da Boa Vista, rồi gặp gỡ một số tù nhân trẻ ở tòa TGM thánh Gioakim ở Rio. Ban chiều, ngài chủ sự buổi đi đàng Thánh Giá trọng thể với các bạn trẻ cũng tại khu vực bãi biển Copacabana. Thứ bảy, 27-7, ĐTC cử hành thánh lễ tại Nhà thờ chính tòa thánh Sebastiano của giáo phận Rio, cùng với các GM, LM, và sự tham dự của các tu sĩ và chủng sinh. Buổi tối, ĐTC chủ sự đêm canh thức với các bạn trẻ tại Cánh Đồng Đức Tin ở Guaratiba. Cũng tại đây, sáng chúa nhật 28-7, ĐTC chủ sự thánh lễ bế mạc Ngày Quốc Tế Giới Trẻ 2013.
Những ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới rồi cũng qua, tôi và rất nhiều bạn, chúng ta không có điều kiện để tham dự, tuy nhiên chúng ta vẫn có thể hiệp thông trong kinh nguyện, xin cho những bạn trẻ “được thúc đẩy bởi kinh nghiệm về Ngày Giới Trẻ Thế Giới, biết mang đức tin, đức cậy và đức ái đến khắp bốn phương trời, đồng thời trở thành những người xây dựng nền văn hóa sự sống và hòa bình, và nên chất men xúc tác cho một thế giới mới”. Nếu không được như vậy thì cho dù có tổ chức hay tham dự bao nhiêu đại hội đủ các cấp cũng chẳng đem lại lợi ích gì, cũng chỉ như những buổi lễ hội, đại hội của thế gian “đến hẹn lại lên” thôi.
Bạn thân mến,
“Thế giới mới” đang cần những người trẻ mang những khuôn mặt rạng ngời niềm vui vì được trở nên người loan báo và làm chứng cho Tin Mừng chứ không phải vui vì có nhiều của cải, bằng cấp, chức tước, địa vị. Họ vui vì được gặp gỡ Chúa, được nghe Lời Chúa và dưỡng nuôi bằng Mình Máu Chúa, và họ đang cần đến Lòng Thương Xót của Chúa để trở thành chất xúc tác khơi dậy lòng nhân ái, xót thương trong một thế giới vô cảm.
Muốn được như thế, bạn hãy thực hiện lời nhắn nhủ của ĐTC Benedicto XVI :
“Cha khuyên các con hãy thực hành chầu Thánh Thể. Thời gian các con lắng nghe và thưa chuyện với Chúa Giêsu hằng hiện diện trong Mình Thánh sẽ trở nên nguồn lực mới mẻ cho lòng hăng say trong việc truyền giáo…Hãy biết tìm đến Thánh Thể là nguồn mạch của đời sống đức tin và của chứng tá Kitô hữu của chúng con. Hãy trung thành tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật và bất cứ khi nào có thể… Năng chạy đến với Bí Tích Hòa Giải : là một cuộc gặp gỡ quý báu với Lòng Thương Xót Chúa, hằng đón nhận chúng ta, thứ tha và đổi mới con tim chúng ta trong tình yêu.
Dù không đến được Brazin để chiêm ngắm tượng Chúa Cứu Thế ở Rio de Janeiro, nhưng bên tai tôi vẫn nghe văng vẳng lời mời gọi của vị cha chung :
“Các bạn trẻ thân mến, cuối cùng, cha ước mong tất cả các con, trong sâu thẳm của trái tim mình, hãy lắng nghe lời mời gọi của Đức Giêsu để công bố Tin Mừng. Tượng Chúa Kitô Cứu Thế ở Rio de Janeiro tỏ lộ nhiều điều : Trái tim của Ngài mở ra để yêu thương mỗi người và mọi người, cánh tay của Ngài mở rộng để vươn đến mọi người. Chính các con là con tim và đôi tay của Đức Giêsu !
“Hãy ra đi và làm chứng cho tình yêu của Ngài.
“Hãy trở thành một thế hệ truyền giáo mới, được thúc đẩy bởi tình yêu và rộng mở với tất cả…”

NGHỆ THUẬT LÀM GIÀU

NGHỆ THUẬT LÀM GIÀU

(Lc 12,13-21)

Tác giả: Thiên Phúc

thanhlinh.net

Một ngày nọ, vua Nghiêu đi tuần thú đất Hoa, viên quan địa phương đất ấy ra nghênh đón và chúc vua rằng: “Xin chúc nhà vua sống lâu“. Vua Nghiêu nói: “Đừng chúc thế!” Viên quan lại chúc: “Chúc nhà vua giàu có“. Vua Nghiêu lại nói: “Đừng chúc thế“. Viên quan chúc nữa: “Xin chúc nhà vua đông con trai“. Vua Nghiêu lại nói: “Đừng chúc thế“. Quan lấy làm lạ mới hỏi nhà vua: “Sống lâu, giàu có, đông con trai, ai cũng thích cả, sao nhà vua chẳng muốn?” Vua Nghiêu đáp: “Đông con trai thì sợ nhiều. Giàu có thì việc nhiều. Sống lâu thì nhục nhiều. Ba điều ấy không mang lại nhân đức nên ta từ chối“.

Viên quan tâu: “Nhà vua nói thế thực là bậc quân tử. Nhưng trời sinh ra mỗi người phải có một việc. Nếu đông con trai, hãy cắt đặt mỗi người một nhiệm vụ thì có lợi chứ có gì mà sợ? Giàu có mà đem phân phát cho người nghèo thì còn công việc gì mà lo? Ăn uống có chừng mực, thức ngủ có điều độ, trong lòng thanh thoả, thiên hạ tài giỏi thì vui cái vui của họ, trăm tuổi nhắm mắt về cõi trời. Một đời chẳng gây tai hoạ gì, hỏi có gì là nhục?”

***

Đứng trước tiền của, người ta có những thái độ rất khác nhau: Vua Nghiêu vì quá thận trọng chỉ nhìn thấy mặt trái của đồng tiền, nên của cải không sinh ích gì cho ông. Người phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay lại quá cậy dựa vào tiền của, nên khi thần chết bất ngờ đến thì tiền muôn bạc nén cũng không cứu được linh hồn ông. Duy chỉ có viên quan địa phương là có thái độ đúng mực về tiền bạc: Nếu giàu có thì đem chia sẻ cho người thiếu thốn. Đó chính là sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn loan báo cho chúng ta hôm nay: Hãy dùng của cải đời này mà “làm giàu trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12, 21). Đó chính là “nghệ thuật làm giàu” đích thực.

Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta chỉ là những con người nghèo khó. Cho dù có xây bao nhiêu kho lẫm, bao nhiêu két sắt, bao nhiêu tài khoản ngân hàng, cũng chỉ là con số không. Chúng ta chỉ thực sự giàu có trước mặt Thiên chúa khi chúng ta dốc cạn kho cho người nghèo khó, mở hầu bao giúp kẻ khốn cùng. Chúa phán: “Hãy bán của chi mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12, 33).

Quả thật, một kho lẫm dù có được khoá chặt đến đâu cũng không ngăn cản được kẻ trộm. Nhưng chỉ có những tài sản đích thực mà không ai có thể đánh cắp, chính là những tài sản thiêng liêng.

Thực ra, khi người giàu chia sẻ của cải cho kẻ nghèo, cũng chỉ là bổn phận của người quản lý mà thôi. Augier đã nói một câu chí lý: “Trong dự tính của Thiên Chúa, người giàu chỉ là viên thủ quĩ của người nghèo”. Vì thế, những ai “ê hề của cải, dư xài nhiều năm” mà “cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã” (Lc 12, 19) chính là những kẻ ăn cắp. Thánh Tôma Aquinô quả quyết: “Những người giàu đã đánh cắp của người nghèo khi họ tiêu xài phung phí những của cải dư thừa”.

Có thể nói, chúng ta đánh cắp của người nghèo khi chúng ta thu lợi quá mức trên sức lao động của kẻ khác.

Chúng ta đánh cắp của người nghèo khi chúng ta giữ lại đồ đạc tiện nghi mà chẳng bao giờ dùng đến.

Chúng ta đánh cắp của người nghèo khi chúng ta ăn chơi, mua sắm như ném tiền qua cửa sổ.

Thánh Basilio không một chút ngần ngại nói với chúng ta rằng: “Tấm bánh mà bạn giữ lại là của người đói khổ, chiếc áo mà bạn cất trong vali là của kẻ trần trụi”.

***

Lạy Chúa, Chúa để 80% của cải trên thế gian này vào tay 20% những người giàu có, là để họ biết chia sẻ cho những người thiếu thốn, là để họ “làm giàu trước mặt Thiên Chúa”, chứ không phải để biến họ thành những kẻ đánh cắp.

Xin dạy chúng con chỉ nên giữ lại những gì cần thiết, và biết san sẻ hồng ân của Chúa cho mọi người, để thế giới này không còn cảnh bất công, nghèo đói, nhưng sẽ là một thế giới công bằng và yêu thương. Amen. (TP)

(Thiên Phúc, “Như Thầy Đã Yêu”, năm C)

Vhd sưu tầm

“Let Us Journey Together.”

-Pope Francis -St. Peter’s Balcony 3-13-2013.

CÂU CHUYỆN NGƯỜI QUẢN LÝ

CÂU CHUYỆN NGƯỜI QUẢN LÝ

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R

Con người, khi bước ra khỏi cuộc đời này, đặc biệt trong giờ lâm tử, giờ hấp hối ai cũng muốn ra đi một cách thanh thản không vướng bận, không nợ nần ai để cho nhẹ cõi lòng. Nhẹ hay không nhẹ cũng do cách quản lý tài sản của mình khi còn sống. Nếu như ta biết cách vun vén, biết cách xử lý thì ắt hẳn ta sẽ không còn nợ nần ai và nếu hay hơn nữa thì người khác sẽ nợ ta chứ ta không nợ họ.

Câu chuyện người quản lý trong Tin Mừng theo Thánh Luca chương 16 từ câu 1 đến câu 8 mà người ta thường đặt tên cho đó là câu chuyện của “người quản lý bất lương”.

Những bài học về Nước Trời, Thầy Giêsu không chỉ dùng những hình ảnh, những câu chuyện, những nhân vật tốt mà Thầy còn dùng cả những câu chuyện nói được là không tốt gì cho lắm. Và khi dùng đến những câu chuyện, những hình ảnh, những nhân vật không tốt, Thầy Giêsu không cố ý cho các môn đệ bắt chước sống theo thái độ xấu nhưng để làm nổi bật một đặc tính nào đó và khuyên các đồ đệ hãy làm điều tốt với cùng một đặc tính như vậy.

Trong Mt 10,16 Thầy Giêsu đã dùng đến hình ảnh con rắn để khuyên các đồ đệ hãy khôn ngoan như con rắn; và trong Phúc Âm thánh Mátthêu chương 24, Thầy Giêsu so sánh mình với hình ảnh kẻ trộm đến ban đêm vào giờ chủ nhà không ngờ. Chúa không đề cao nếp sống của con rắn hay của tên ăn trộm, mà chỉ muốn nói đến đặc tính lanh lợi của con rắn để tránh những cạm bẫy và nhắc đến sự việc Chúa đến một cách bất ngờ như kẻ trộm, để kêu gọi các đồ đệ hãy tỉnh thức sẵn sàng luôn luôn.

Thời của Thầy Chúa Giêsu, tại vùng đất Palestina, những người sống về nghề quản lý tài sản cho người giàu là những kẻ có toàn quyền sắp đặt việc kinh doanh tài sản của ông chủ, miễn sao được lợi cho ông chủ. Và người quản lý được chia phần trong khoản lời kiếm được. Trong dụ ngôn Thầy Giêsu kể, sau khi biết rõ là ông chủ sẽ sa thải mình do những lỗi lầm đã phạm, người quản lý dùng quyền của mình mà bớt xuống số nợ và dĩ nhiên, khi làm như thế anh sẽ chịu thiệt thòi, vì tiền lời không còn nhiều và sẽ được chia lời với ông chủ ít đi. Nhưng anh chấp nhận chịu thiệt thòi như vậy trong hiện tại để có lợi khác là tình bằng hữu của những người mắc nợ ông chủ. Họ sẽ giúp lại anh sau đó khi anh mất việc. 

Và đây chính là thái độ khôn ngoan của người đầy tớ bất trung. Ở câu cuối cùng của dụ ngôn: “Con cái tối tăm khôn ngoan hơn con cái sự sáng” nhấn mạnh đến ý nghĩa chính của dụ ngôn. Thầy Giêsu không nhắm đề cao người quản lý gian ngoan sắp bị ông chủ cho nghỉ việc, nhưng chỉ nhắm nhấn mạnh đến những cố gắng toan tính của người quản lý sao cho có lợi cho cuộc sống vật chất của mình.

Trong cuộc sống thường nhật, chẳng ai dám cho mình là hay trong chuyện quản lý tiền bạc và cả quyền lực. Có lúc đầy túi tiền và quyền lực hết sức mãnh liệt ở trong tay nhưng cũng có lúc thèm một bữa cơm đạm bạc cũng không có và muốn làm một người bình thường cũng chẳng ai cho. Những kinh nghiệm sống đó không còn ở trang Tin Mừng của Thầy Giêsu, trong lý thuyết nữa nhưng diễn ra mỗi ngày trong dòng chảy của cuộc đời.

Cách đây không lâu, chúng ta thấy một nghệ sĩ nổi tiếng đã rơi vào tình cảnh nợ nần. Anh chia sẻ : “Bất động sản đóng băng nên tôi bị đóng đinh”

Cũng vì muốn có tiền, anh đầu tư kinh doanh nhưng đáng tiếc rằng mọi việc không xảy ra như anh tưởng. Anh chia sẻ thêm : “Thời buổi kinh tế khó khăn, doanh nghiệp làm ăn nợ nần là bình thường. Hãy cảm thông, chia sẻ với chúng tôi”.

Và gần đây nhất, một ca sĩ cũng tên tuổi  “đã đi đến đường cùng” vì nợ. Chị thừa nhận do kinh doanh thua lỗ, số nợ đã lên tới hàng tỷ đồng. Tuy con số không quá lớn, nhưng đối với một người nghệ sỹ đang ở chặng cuối của sự nghiệp như chị và đúng vào giai đoạn “show diễn khan hiếm” như hiện tại thì đó cũng là điều đáng ngại.

Vẫn còn may mắn hơn bao nười khác, hai nghệ sĩ này đã được bạn bè có lòng tốt đứng ra thay lời muốn nói cho họ. Hơn thế nữa, có những người có lòng tốt đã bỏ tiền ra để cứu họ trong khi họ gặp bế tắt.

Những tấm lòng này hiển nhiên được mở ra vì lòng cảm thông của tình người. Để được bạn bè, người thân “giải vây” trong lúc rơi vào tình trạng bế tắt chắc có lẽ do cách sống của họ, do khi còn tiền, còn vật chất họ đã chia sẻ cho người khác chứ không khư khư giữ cho riêng mình. Chính vì hiểu lòng của những người này nên nhiều người đã chung ta góp sức gỡ khó khăn.

Những câu chuyện rất thực và quá thực trong đời thường.

Dù lớn, dù bé, dù là thường dân hay quyền cao chức trọng, ta cũng chỉ là những người quản lý nó mà thôi. Nói chính xác hơn ta cũng chỉ là người quản lý tạm bợ bởi vì đến một lúc nào đó ta cũng phải nhắm mắt xuôi tay để trả lại tất cả tài sản, quyền lực mà trước đây ta có trong tay.

Chẳng có ai lột da sống đời và chẳng có ai giữ mãi tiền bạc và quyền lực trong tay cả. Một ngày nào đó ta sẽ chẳng còn gì cả ngoài căn phòng quạnh hiu bên trong chỉ có chiếc giường đơn giản nằm đó chờ … chết. Cuối đời, ai cũng như ai, dù sang hay giàu. dù nghèo hay hèn, dù quyền lực hay là bần dân khổ ải cũng chỉ nằm trong chiếc quan tài mà thôi.

Bớt chút thời gian để đến những viện dưỡng lão, những nhà hưu dưỡng … ta sẽ thấy bộ mặt thật của cuộc đời. Có những người từng một thời vang bóng, có những người từng một thời cao sang quyền quý và quyền lực trong tay nhưng cuối cùng cũng gia tài chỉ còn lại chiếc xe lăng hay chiếc giường được thiết kế tiện dùng cho người nằm liệt.

Nhìn cuộc đời rất thực như thế để ta cũng biết cách dùng những của cải, vật chất, quyền lực mà ta đang có trong tay để khi ta mất nó, ta về già, ta về với đất bụi cho lòng ta được thanh thản.

Lời mời gọi, bài học mà Thầy Giêsu vẫn còn văng vẳng bên tai ta. Những bài học, những lời mời gọi này tưởng chừng là cũ nhưng nó vẫn mới và vẫn còn giá trị cho mọi lúc mọi thời. Chuyện quan trọng là ta có nhớ để ta niệm, ta suy và ta áp dụng vào trong đời thường của ta hay không mà thôi.

Đừng để cho những bài học mà Thầy Giêsu đi qua đời ta một cách vô nghĩa. Và, hơn tất cả là đừng để những của cải, quyền lực mà Chúa trao cho ta nó làm hại đời của ta, nó làm ta mất tình mất nghĩa với anh em đồng loại và nhất là mất tình mất nghĩa với Chúa.

Anmai, CSsR

GẶP MẶT GIỚI TRẺ VIỆT NAM KHẮP NĂM CHÂU TẠI RIO

Lm Phêrô Đoàn Văn Khải
7/26/2013

Hôm nay, vào lúc 16g00 ngày 26 tháng 7, tại Nhà Thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm (Basilica Imaculada Conceicao Church) đoàn Việt Nam đã có ngày gặp mặt với các linh mục, quý tu sĩ nam nữ và khoảng 200 bạn trẻ Việt Nam từ trong nước và hải ngoại đang tham dự Ngày Quốc Tế Giới Trẻ, đó là Việt Nam, Úc Châu, Đan Mạch, Na Uy, Đức Quốc, Canada, Hoa Kỳ,…

Trước thánh lễ, Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, giám mục giáo phận Vinh, Chủ tịch Uỷ ban Công lý và Hoà bình trực thuộc Hội Đồng Giám mục Việt Nam đã có cuộc nói chuyện với các bạn trẻ. Ngài đã trình bày thực trạng đời sống đức tin của người Kitô tại Brazil, đặc biệt của người trẻ đang có nguy cơ giảm sút trầm trọng và có vẻ đang nhạt phai trước những trào lưu của xã hội. Vì thế, Đức Nguyên Giáo Hoàng Bê-nê-đi-tô XVI đã chọn Brazil là nơi tổ chức ngày Giới trẻ Thế Giới.

Sau những lời chia sẻ của Đức Cha Phaolô là thánh lễ đồng tế mừng kính Thánh Gioakim và Anna để cầu nguyện cho giới trẻ Việt Nam cũng như giới trẻ toàn thế giới.

Giảng trong thánh lễ, Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên, Chủ tịch Uỷ Ban Giới trẻ trực thuộc Hội Đồng Giám mục Việt Nam nói lên tinh thần của ngày gặp mặt, “Dù chúng ta ở đâu thì đều là người Việt Nam. Hai chữ “Việt Nam” diễn tả tình hiệp nhất yêu thương, và nói lên rằng chúng ta cùng một quê hương, cùng một dân tộc. Ngày gặp mặt hôm nay là dịp để chúng ta chứng tỏ đời sống đức tin của mình…”. Ngài nói tiếp, “Tất cả chúng ta về đây để cùng gặp nhau và cùng gặp vị đại diện của Chúa Kitô, là Đức Thánh Cha Phanxicô. Chúng ta gặp gỡ Đức Thánh Cha để rồi gặp gỡ Chúa Kitô. Khi gặp gỡ Chúa Kitô, là chúng ta gặp gỡ một con người đích thực, đang hiện diện và đồng hành với mỗi người chúng ta trong mọi khoảnh khắc của cuộc sống… Khi chúng ta gặp gỡ Đức Kitô, chúng ta được mời gọi trở nên sứ giả của Ngài. Chúng ta hãy ra đi, hãy làm chứng và hãy rao giảng về Chúa Kitô cho anh chị em xung quanh. Đó cũng chính là chủ đề mà Đức Thánh Cha muốn gửi đến các bạn trẻ trong Đại Hội này: Hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”.

Cuối thánh lễ, Đức Cha Giuse đã cám ơn quý cha và mọi người đang hiện diện, đặc biệt những ai đã lo tổ chức chu đáo cho ngày gặp mặt đầy ý nghĩa hôm nay.

Sau khi nhận phép lành của quý Đức Cha, quý cha và các bạn trẻ chụp hình kỷ niệm với đoàn Việt Nam và nói lời tạm biệt trong hiệp nhất và yêu thương.

Lm Phêrô Đoàn Văn Khải

Gởi Các Bạn trên 60 Tuổi và còn Khỏe mạnh

Gởi Các Bạn trên 60 Tuổi và còn Khỏe mạnh

Tuy trong rừng có nhiều cây đại thọ cả ngàn năm, nhưng người sống thọ đến 100 tuổi không nhiều. Bạn thọ lắm cũng chỉ sống đến 100 tuổi (tỉ lệ 1 trên 100.000 người).

Nếu bạn sống đến 70 tuổi, bạn sẽ còn 10 năm. Nếu bạn thọ 80 tuổi, bạn chỉ còn 20 năm. Vì lẽ bạn không còn bao nhiêu năm để sống và bạn không thể mang theo các đồ vật bạn có, bạn đừng có tiết kiệm quá mức.

Bạn nên tiêu những món cần tiêu, thưởng thức những gì nên thưởng thức, tặng cho thiên hạ những gì bạn có thể cho, nhưng đừng để lại tất cả cho con cháu. Bạn chẳng hề muốn chúng trở nên những kẻ ăn bám.

Đừng lo lắng về những gì sẽ xảy ra sau khi bạn ra đi, vì khi bạn đã trở về với cát bụi, bạn sẽ chẳng bị ảnh hưởng bởi lời khen hay tiếng chê bai nữa đâu.

Đừng lo lăng nhiều qúa về con cái vì con cái có phần số của chúng và chúng sẽ tự tìm cách sống riêng. Đừng trở thành kẻ nô lệ của chúng.

Đừng mong chờ nhiều ở con cái. Con biết lo cho cha mẹ, dù có lòng vẫn quá bận rộn vì công ăn việc làm và các ràng buộc khác nên không thể giúp gì bạn.


Các con vô tình thì có thể sẽ tranh dành của cải của bạn ngay khi bạn còn sống, và còn muốn bạn chóng chết để chúng có thể thừa hưởng các bất động sản của bạn.

Các con của bạn cho rằng chuyện chúng thừa hưởng tài sản của bạn là chuyện dĩ nhiên nhưng bạn không thể đòi dự phần vào tiền bạc của chúng.

Với những người thuộc lứa tuổi 60 như bạn, đừng đánh đổi sức khoẻ với tài lực nữa. Bởi vì tiền bạc có thể không mua được sức khoẻ. Khi nào thì bạn thôi làm tiền? và có bao nhiêu tiền là đủ (tiền muôn, tiền triệu hay mấy chục triệu)?

Dù bạn có cả ngàn mẫu ruộng tốt, bạn cũng chỉ ăn khoảng 3 lon gạo mỗi ngày; dù bạn có cả ngàn dinh thự, bạn cũng chỉ cần một chỗ rộng 8 mét vuông để ngủ nghỉ ban đêm.

Vậy chừng nào bạn có đủ thức ăn và có đủ tiền tiêu là tốt rồi.
Nên bạn hãy sống cho vui vẻ. Mỗi gia đình đều có chuyện buồn phiền riêng.


Đừng so sánh với người khác về danh vọng và địa vị trong xã hội và con ai thành đạt hơn, nhưng bạn hãy so sánh về hạnh phúc, sức khỏe và tuổi thọ… Đừng lo nghĩ về những chuyện mà bạn không thể thay đổi vì chẳng được gì, mà lại còn làm hại cho sức khỏe bạn…

Bạn phải tạo ra sự an lạc và tìm được niềm hạnh phúc của chính mình. Miễn là bạn phấn chấn, nghĩ toàn chuyện vui và làm những việc bạn muốn mỗi ngày một cách thích thú thì bạn thật đã sống hạnh phúc từng ngày.

Một ngày qua là một ngày bạn mất đi, nhưng một ngày trôi qua trong hạnh phúc là một ngày bạn “được”.
Khi bạn vui thì bệnh tật sẽ lành; khi bạn hạnh phúc thì bệnh sẽ chóng hết. Khi bạn vui và hạnh phúc thì bệnh sẽ chẳng đến bao giờ.
Với tính khí vui vẻ, với thể thao thể dục thích đáng, thừơng xuyên ra ánh sáng mặt trời, thay đổi thực phẩm đa dạng, uống một thuốc bổ vừa phải, hy vọng rằng bạn sẽ sống thêm 20  hay 30 năm tràn trề sức khỏe.

Và nhất là biết trân qúy những điều tốt đẹp quanh mình và còn BẠN BÈ .nữa..  họ đều làm cho bạn cảm thấy trẻ trung và có người cần đến mình… không có họ chắc chắn bạn sẽ cảm thấy lạc lõng, bơ vơ.!!!

Xin chúc bạn mọi điều tốt đẹp nhất.

( Xin chia sẻ những điều này với tất cả những người quen của bạn đã trên 60 tuổi hay nhưng người không bao lâu nữa cũng sẽ trên 60)..

S.T.

LÊN THIÊN ĐÀNG KHÓ HAY DỄ ?

LÊN THIÊN ĐÀNG KHÓ HAY DỄ ?
( phần 2)
Phan Sinh Trần
Trong phần 1 của bài “ Lên Thiên đàng khó hay dễ ?”, chúng ta chưa có câu trả lời về việc lên Thiên đàng dễ hay khó:
Khá nhiều người, trong đó có khi có cả tôi và bạn nữa nữa sẽ thốt lên rằng:
  • · “ Rất khó để được lên Thiên đàng”, chỉ có người cực thánh, là có thể được lên đó ngay mà thôi còn số đông phải ở trong luyện ngục một thời gian trước khi được chọn để vào Thiên đàng.
Về phần ý kiến của Chúa Giê Su thì sao? Ngài có công nhận với chúng ta là lên Thiên đàng quá khó khăn hay không?
  • · Trong Kinh Thánh, có trường hợp đã cho chúng ta thấy rằng lên Thiên đàng rất dễ dàng, có khi chỉ bằng 1 câu nói với một tinh thần tỏ ra ăn năn vào giờ thứ 25 như trường hợp của tên trôm lành. Khi hắn xin “Lạy Ðức Yêsu, xin nhớ tôi, khi Ngài đến trong Nước của Ngài!”. Thì Ngài đã nói với hắn: “Quả thật, Ta bảo ngươi: hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng làm một với Ta!”. Tên trộm đã được lên thẳng , dễ quá phải không bạn ? !
  • · Còn nhiều nữa những lời hứa của Chúa cho những người đương nhiên sẽ lên thiên đàng thẳng cánh, trong Matthew chương 5 câu 3 nói: “Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy!”. Ngoạn mục thay ! Nước Thiên đàng đã là của những người Tin vào ơn cứu độ và có tinh thần nghèo khó rồi, họ không cần phải mặc cả, lo lắng hay điều đình gì hết !!! Con mắt đức tin cho ta thấy, những người homeless, ăn xin đói khát, khổ sở mà thậm chí trong số đó có người đã chết trong kiệt lực, bệnh hoạn một cách rât cô đơn buồn tủi lại là những người có phúc nếu họ biết Tin vào ơn Cứu độ, họ thuộc diện có thể lên Thiên đàng “thẳng cánh”, giống như trường hợp của ông ăn mày tên Lazaro trong phúc âm vừa chết xong đã được các thiên thần rước lên Thiên đàng và “ ngồi ngay bên cạnh người “ Cha của những kẻ tin” là Ông Abraham; Người túng cực, nghèo khổ, một khi họ có tinh thần đơn sơ, chấp nhận và tin vào Chúa thì phần thưởng đời sau của họ là chắc chắn. Như thế ta đừng e ngại tinh thần sống khó khăn, đạm bạc ở đời này.
  • · Trong số những người lên Thiên đàng nhờ có tinh thần nghèo khó, ngạc nhiên thay lại rất có thể, không chừng sẽ có cả ông tỷ phú giàu nhất thế giới tên là Warren Buffet nữa, vì ông có tinh thần “nghèo khó”, ông là một người sống rất tiết kiệm, đạm bạc, ông không xài tiền cho nhà mình nhưng lại dâng cúng hết tài sản cho người nghèo. Ông công khai nhận định:
có nhiều hơn một cách để vào Thiên đàng nhưng đây là một cách rất hay và thuận tiện .
“There is more than one way to get to heaven, but this is a great way,”
Ông thật là một nhà đầu tư tài sản rất khôn ngoan cả về 2 phương diện đầu tư đời này và đầu tư đời sau.
Kinh Thánh có câu chuyện về ngày chung thẩm rằng:
Bấy giời Vua sẽ nói với những người ở bên phải: “Hãy đến! hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy lĩnh lấy làm cơ nghiệp Nước đã dọn cho các ngươi từ tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói mà các ngươi đã cho Ta ăn, Ta khát mà các ngươi đã cho Ta uống, Ta là khách lạ mà các ngươi đã tiếp rước, Ta mình trần mà các ngươi đã cho Ta mặc, Ta đau yếu mà các ngươi đã thăm viếng, Ta ở tù mà các ngươi đã đến với Ta. (Mat thêu 25: 34-36 )
  • · Thậm chí, bạn có thể là một thánh lớn trên Thiên đàng nếu bạn trở nên đơn sơ như trẻ nhỏ, Chúa Giê Su xác nhận trong Mat thêu đoạn 18 câu 4: “ Vậy, hễ ai trở nên khiêm nhường như đứa trẻ nầy, sẽ là lớn hơn hết trong nước thiên đàng.” Với một tinh thần đơn sơ như trẻ em của bạn , khi đó Chúa Thánh Thần sẽ có thể dậy dỗ bạn và làm cho bạn trỏ nên tinh tuyền, trỏ thành một ngôi đền của Chúa Ba Ngôi, một nguồn mạch suối trong mát cho Giáo Hội. Trường hợp điển hình như Thánh nữ Tê rê xa Hài Đồng Giê Su, Ngài chỉ có những hy sinh làm những việc nhỏ trong tinh thần đơn sơ từ nhỏ cho đến năm 24 tuổi nhưng chính Ngài đã là một Thánh Lớn của Giáo Hội.
Thánh nữ Tê rê xa Hài Đồng Giê Su
Tới đây chúng ta có thể đi tới kết luận rằng :
Lên Thiên đàng rất dễ nếu ta có sức giúp đỡ của Chúa Thánh Linh.
Chỉ cần bạn chịu đầu phục Chúa Giê Su cách trọn vẹn, quyết tâm hứa dâng cho Chúa hết các đam mê, các ước muốn xấu, các sự ai oán trần thế…
Chỉ cần bạn chịu quyết tâm thốt lên “con muốn thuộc về Chúa cách trọn vẹn” thì rồi Chúa Thánh Thần sẽ đến làm cho đời bạn thay đổi, mới mẻ hoàn toàn giống như là được sinh lại. Một khi đã được sinh lại thì bạn đã có bảo chứng đ vào nước Thiên đàng đời sau. Chúa Giê Su đã minh xác. “… Quả thật, quả thật, tôi bảo ông, ai không sinh ra bởi Nước và Thần khí, thì không thể vào được Nước Thiên Chúa.” ( Yn 3, 5b)
Xin chào bạn và hẹn gặp lại Bạn trong phần 3, khi chúng ta cùng bàn về các cách dễ lên Thiên đàng khác. Xin Chúa viếng thăm và chúc lành cho tinh thần đơn sơ, nghèo khó của Bạn.
Phan Sinh Trần

Đức Giáo Hoàng ổ Chuột trở về khu ổ chuột

Đức Giáo Hoàng ổ Chuột trở về khu ổ chuột.


Trần Mạnh Trác

7/25/2013

 

Đức Thánh Cha Phanxicô hình như không né tránh những chủ đề chính trị xã hội nhạy cảm của Brazil, đã tuyên bố với cư dân của một khu ổ chuột cuả Rio là các nhà lãnh đạo của họ phải làm việc tốt hơn để giúp họ.

Những ý kiến khiêu khích đó phản ảnh những lý tưởng thân thương nhất cuả vị giáo hoàng đầu tiên từ châu Mỹ: đó là công bằng xã hội và trợ giúp người nghèo.

“Tôi lên tiếng kêu gọi những người sở hữu các nguồn tài nguyên lớn, các cơ quan công quyền và tất cả mọi người có thiện chí đang làm việc cho công bằng xã hội,” Đức Giáo Hoàng đã nói với đám đông tụ tập chật ních trên một sân đá bóng mặc dù trời mưa tầm tã, trong một khu ổ chuột (favela) tên là Varginha.

“Đừng bao giờ mệt mỏi với việc làm cho một thế giới công bằng hơn, đánh dấu bằng sự đoàn kết lớn hơn”, Ngài nói trong tiếng vỗ tay nhiệt liệt.

“Không ai được vô cảm với sự bất bình đẳng vẫn còn tồn tại trên thế giới.”

Varginha là một khu ổ chuột nghèo thê thảm và đầy bạo lực cho nên đôi khi người ta còn gọi nó là Dải Gaza, đã được hưởng một đôi chút cải tiến từ những nỗ lực mới đây cuả chính phủ trong một chương trình bình định xã hội. Nhưng Đức Thánh Cha dường như muốn nói rằng những nỗ lực như thế vẫn là chưa đủ.

“Ở đây, cũng như ở mọi nơi khác cuả Brazil, có rất nhiều người trẻ tuổi. … đang có sự nhạy cảm đặc biệt đối với những bất công, nhưng thường bị thất vọng trước những sự việc tỏ tường nói lên nạn tham nhũng cuả những người đặt quyền lợi riêng tư lên trên lợi ích chung”.

“Hỡi quí bạn và tất cả mọi người, tôi lặp lại: Không bao giờ chán nản, không mất lòng tin, không cho phép hy vọng của bạn bị dập tắt. Tình huống có thể thay đổi, con người có thể thay đổi. ”

Đó là thông điệp có tính chất chính trị nhất đã được nêu ra trong cuộc hành hương của Đức Thánh Cha và rõ ràng Ngài có ý chỉ về các cuộc biểu tình lớn chống tham nhũng từng nổ ra hồi tháng trước, chỉ trích chính phủ chi tiêu quá nhiều vào thể thao mà thiếu đầu tư vào các dịch vụ như giáo dục cơ bản và chăm sóc sức khỏe.

Mạo hiểm vào khu ổ chuột Varginha có lẽ là việc làm nguy hiểm nhất trong cuộc tông du cuả Đức Giáo Hoàng ở Brazil. Vấn đề an ninh trở thành trầm trọng hơn vì xu hướng cuả Ngài thường vượt qua các qui định. Các đường phố ở khu ổ chuột lại chật hẹp, nhà cửa đổ nát, và đám đông, mặc dù có vẻ ngưỡng mộ Đức Thánh Cha, nhưng không thể đoán trước được.

Nhưng mọi sự đã xẩy ra êm xuôi.

Ngay ngày hôm trước, trước khi Đức Thánh Cha tới, khu phố của khoảng 36.000 người vẫn còn chuẩn bị ráo riết. Một bức tường xi măng được đổ thêm, các nhân viên nhà đèn sắp đặt thêm giây cáp điện cho nhà thờ.

Trong nhiều ngày trước, cảnh sát đã được huy động khắp hang cùng ngõ hẻm. Những tay súng bắn xẻ được bố trí trên các mái nhà.

Đức Thánh Cha đến trên một chiếc xe Fiat (sản xuất tại Brazil) 4 cửa nhỏ, cửa sổ mở toang.

Hàng ngàn cư dân chờ đợi trong mưa lạnh, cơn mưa bớt đi khi Ngài đến.

Varginha là một khu ổ chuột được xây dựng trên một đầm lầy cũ, là một trong những khu ổ chuột đã được ‘bình định’, nghĩa là chính phủ đã ‘chiếm đóng’ và đẩy các băng đảng ma túy đi nơi khác, và đã xây dựng các trung tâm cộng đồng, thư viện và trường học. Nhưng cư dân nói rằng họ chỉ nghe toàn lời hứa hão chứ thực tế không có bao nhiêu, và các dịch vụ cơ bản như cống rãnh và điện nước vẫn không có. Họ cũng phàn nàn rằng lực lượng cảnh sát thường lạm dụng và nặng tay, đối xử với dân như là những tên tội phạm.

Sau khi cầu nguyện tại một nhà thờ bé nhỏ nằm sâu trong ngõ hẻm, Đức Thánh Cha bước vào một căn nhà nhỏ, có nước sơn mới hai mầu cuả lá cờ Vatican, vàng và trắng.

“Ngay từ đầu,” Đức Thánh Cha nói, “Điều ước mơ của tôi trong lần đến Brazil này là có thể tới thăm tất cả các làng trên toàn quốc. Tôi mong ước được gõ mọi cánh cửa, và nói lời “chào buổi sáng”, và xin một ly nước lạnh, uống một hớp cafezinho, nói chuyện như một người bạn bè của gia đình.

“Tuy nhiên, Brazil lớn quá! Tôi không thể gõ mọi cánh cửa “, Ngài nói.

Vậy thì, Đức Thánh Cha nói, Favela sẽ là đại diện cho “tất cả các làng của Brazil.”