Vì sao học sinh Việt Nam “tỵ nạn giáo dục” tại Mỹ ngày càng tăng?

httpv://www.youtube.com/watch?v=wO9rAZXz3E4

Vì sao học sinh Việt Nam “tỵ nạn giáo dục” tại Mỹ ngày càng tăng?

Khi nói đến giáo dục là nói đến hệ thống giá trị, nói cách khác là giải đáp câu hỏi “ta muốn đào tạo con em ta thành loại người gì?”. Sự kiện phụ huynh trong nước tìm mọi cách để cho con em du học cho thấy họ không chấp nhận con em họ trở thành loại người mà đảng cộng sản muốn. Ở Mỹ, giáo dục là để phát triển con người toàn diện. Học sinh được đào tạo để suy nghĩ cho chính mình, để có niềm và tự hào thực hiện ước mơ của mình, để ý thức được chỗ đứng của mình trong xã hội, và để có đầu óc phê phán về hiện tình xã hội. Những giá trị đó, giáo dục của cộng sản Việt Nam không hề có.

From SBTN

Anh chị Thụ & Mai gởi

Hiểm họa Trung Cộng và bài học Tây Tạng

Hiểm họa Trung Cộng và bài học Tây Tạng

Trần Trung Đạo (Danlambao) – Việt Nam chỉ hơn Tây Tạng một điểm duy nhất là còn thời gian dù rất ngắn để quyết định số phận của mình. Chọn lựa của dân tộc Việt Nam hôm nay, do đó, là chọn lựa giữa tiếp tục sống dưới chế độ độc tài CS để rồi mất nước, hay dân chủ hóa, hiện đại hóa nhanh chóng để có thể ngăn chặn được bước chân Trung Cộng. Nếu chỉ biết nhịn nhục, cúi đầu, một ngày không xa họa diệt vong sẽ tới. Đến lúc đó, đừng oán trách chi ai, đừng đỗ thừa cho ai khác, ngoài oán trách, đỗ thừa cho sự ươn hèn, nhu nhược của chính mình…

*

Hôm nay, ít ra một nửa của học viện Larung Gar nổi tiếng thế giới đang bị phá hủy. Dù che giấu dưới bất cứ lý do gì, thực chất của việc phá hủy cũng chỉ nhằm xóa bỏ nền văn hóa lâu đời của Tây Tạng. Chính sách đồng hóa Tây Tạng không chỉ bắt đầu mới đây mà từ năm 1950 khi Trung Cộng xua quân chiếm đóng nước này.

Giống như các chế độ CS khác, chế độ CS tại Trung Quốc nói chung và Tây Tạng nói riêng tồn tại nhờ vào hai phương tiện được thực hiện song song và có tác dụng hỗ tương: trấn áp bằng bạo lực và tẩy não bằng tuyên truyền.

Hơn nửa thế kỷ trôi qua, dân tộc nhỏ nhoi nhưng được xem như là “mái che” của thế giới với đỉnh Mt Everest cao 8,848 mét đang chịu đựng dưới chính sách trấn áp khắc nghiệt của Trung Cộng, nhất là tại các nhà tù.

Nếu nhà tù San Quentin được xây ở Tây Tạng

Đại sư Chagdud Tulku là một bậc cao tăng của Phật Giáo Tây Tạng. Trước khi viên tịch vào năm 2002, ngài được thỉnh giảng tại nhiều trường đại học danh tiếng ở Mỹ và Châu Âu. Đại sư rất được trọng vọng và những lớp giảng của ngài có hàng ngàn người tham dự. Tuy nhiên, ngài không quan tâm đến số đông hay danh dự dành riêng cho ngài nhưng sẵn lòng đi đến bất cứ nơi nào cần sự có mặt của mình dù nơi đó là một khu biệt giam dành cho tử tù và dù chỉ để làm lễ thọ giới cho một tù nhân. Nơi ngài đến là nhà tù San Quentin, tiểu bang California và người được ngài quy y là tử tù Jay Master đang thọ án tử hình. Nghi thức diễn ra ngay tại phòng thăm viếng của nhà tù vào năm 1989.

Như Jay Master kể lại trong blog của anh. Hôm đó, đại sư Chagdud Tulku đến nhà tù San Quentin rất sớm. Ngài ngồi im. Những ngón tay nâu đậm đầy vết nhăn đang lặng lẽ lần tràng hạt. Đôi mắt ngài như đang chiêm nghiệm những gì đang xảy ra chung quanh. Vạt áo tràng với những nút màu xám phủ dài trên sàn phòng đợi rất ồn ào với đủ hạng người đang chờ giờ thăm viếng thân nhân. Có người bực dọc lớn tiếng vì chờ đợi quá lâu.

Để làm dịu không khí, đại sư Chagdud Tulku chia sẻ với mọi người một câu chuyện cũng về nhà tù, không phải San Quentin ở Mỹ mà một “San Quentin” trên quê hương Tây Tạng của ngài. Trong nhà tù ở Tây Tạng, tù nhân bị đày đọa thảm khốc và chịu đựng hình phạt nặng nề hơn tù nhân ở Mỹ nhiều.

Đại sư Chagdud Tulku kể rằng người Trung Quốc bắt tù nhân Tây Tạng đào một hố thật sâu. Cái hố sâu đó chính là nhà tù. Những người tù Tây Tạng sống, ăn ở và phơi bày thân thể dưới cả nắng mưa như thế cho đến chết. Ngay cả sau khi chết đi, tù nhân cũng bị chôn trong lòng hố sâu đó. Ngài kể rằng ở Tây Tạng có sáu mươi ngàn tù nhân bị giam giữ trong tình cảnh đau thương đó.

Nhân loại kết án Hitler, Pol Pot. Dĩ nhiên những ác nhân kia xứng đáng với mọi lời nguyền rủa của người đời. Nhưng nếu so sánh phương pháp giết người bằng lò hơi ngạt của Hitler hay bằng cuốc xẻng đánh vào đầu của Pol Pot, phương pháp của Trung Cộng còn tàn ác gấp nhiều lần. Tù nhân Tây Tạng chết lâu hơn, chết dần mòn hơn trong đói khát, nắng mưa, bịnh hoạn, lở loét, thối rữa và thân xác cuối cùng cũng bị chôn vùi dưới đáy hầm sâu.

Nhưng đó chỉ là một trong hàng trăm phương pháp đọa đày mà dân tộc Tây Tạng đã và đang chịu đựng sau “Nổi dậy Lhasa” vào tháng Ba, 1959 bị dập tắt.

Không giống như thập niên 1950 khi tội ác của Trung Cộng còn được dễ dàng che giấu, trong thời đại tin học ngày nay, những cảnh đàn áp dã man đã được tiết lộ ra ngoài bằng hình ảnh và cả phim ảnh. Thế giới bàng hoàng khi chứng kiến cảnh công an Trung Cộng đánh đập các nhà sư hay thường dân Tây Tạng không một phương tiện gì để tự vệ hay kéo lê lết họ trong máu me trên đường phố Lhasa.

Cách phản kháng tuyệt vọng nhưng phổ biến nhất của tu sĩ và nhân dân Tây Tạng là tự thiêu để gây tiếng vang trước dư luận quốc tế. Chỉ trong vòng sáu năm từ tháng 2 năm 2009 đến tháng 4 năm 2015 đã có 138 tu sĩ và thường dân Tây Tạng tự thiêu tại nhiều nơi để phản đối chính sách diệt chủng của nhà cầm quyền Trung Cộng. Riêng năm 2012 đã có 86 vụ tự thiêu. Ngọn lửa được thắp lên bằng xương thịt dường như chưa đủ sáng lương tâm loài người và đêm đen Tây Tạng.

Quan điểm “chủ quyền lịch sử” của Trung Cộng đối với Tây Tạng

Dù là văn hóa, lịch sử hay lãnh thổ, quan điểm chung của Trung Cộng là nơi nào các triều đại Trung Hoa từng đô hộ nơi đó thuộc về Trung Hoa. Đó là lý do một học giả Trung Cộng năm 1996 đã từng tuyên bố ở Hong Kong rằng trống đồng Đông Sơn là của Trung Hoa chứ không phải của Việt Nam vì trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn Việt Nam thuộc Trung Hoa.

Quan điểm bá quyền hoang tưởng và ngang ngược của Trung Cộng đi ngược với các nguyên tắc về chủ quyền của thế giới. Napoleon từng là vua không chỉ của Pháp mà còn của cả một phần lớn châu Âu trong đầu thế kỷ 19 nhưng ngày nay không một học giả Pháp nào cho rằng Ý, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ v.v… phải thuộc vào nước Pháp.

Nhân Dân Nhật Báo tóm tắt quan điểm của Trung Cộng đối với vấn đề Tây Tạng trong bình luận vào tháng 4, 2008: “Trong hơn 700 năm, chính phủ trung ương Trung Hoa đã liên tục thực hiện chủ quyền của Trung Hoa tại Tây Tạng và Tây Tạng chưa bao giờ là một nước độc lập. Không một chính phủ nào trên thế giới thừa nhận Tây Tạng… Kể từ khi giải phóng hòa bình năm 1951, Tây Tạng đã tiến hành các thay đổi xã hội sâu sắc bao gồm các cải cách dân chủ, mở cửa và đạt được các tiến bộ xã hội đáng kể”.

Không ai chối cãi trước 1950 Tây Tạng còn là một nước nghèo, lạc hậu về kinh tế, tuổi thọ thấp, thiếu thốn các phương tiện giao thông nhưng đó không phải là lý do để Trung Cộng xua 40 ngàn quân xâm lược một quốc gia mà quân đội chỉ có 4 ngàn.

Lý luận của Trung Cộng là lý luận của kẻ cướp

Những lời ngụy biện của thực dân đỏ Trung Cộng trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay không khác gì cách giải thích “đến để khai hóa” mà thực dân trắng Âu châu đã dùng với các nước Á châu và Phi châu từ thế kỷ thứ 15.

Từ nhiều ngàn năm trước, Tây Tạng đã là một dân tộc có một nền văn hóa cao, thuần nhất với các giá trị độc đáo riêng tồn tại song song bên cạnh các nền văn hóa khác. Các triều đại Tây Tạng ra đời từ thế kỷ thứ nhất sau công nguyên và vào thế kỷ thứ bảy đã xây dựng nên một quốc gia hùng mạnh với lãnh thổ trải rộng qua nhiều quốc gia vùng Trung Á, kể cả một phần của Trung Hoa. Nhiều trăm năm Tây Tạng đã là một nước hoàn toàn độc lập. Dĩ nhiên, giống như hoàn cảnh các nước nhỏ khác trong vùng, khi yếu kém Tây Tạng lại phải chịu lệ thuộc vào các nước mạnh không chỉ Trung Hoa mà có khi còn bị ảnh hưởng bởi Mông Cổ hay Nepal.

Các dân tộc, dù lớn bao nhiêu, trong lịch sử ít ra cũng một lần bị ảnh hưởng bởi ngoại bang nhưng không phải vì thế mà quốc gia đó thuộc về ngoại bang. Giống như lịch sử đầy hy sinh xương máu đã diễn ra tại Việt Nam suốt hàng ngàn năm, chặng đường bị lệ thuộc vào Trung Hoa của Tây Tạng cũng được đánh dấu bằng những cuộc nổi dậy anh hùng của các thế hệ Tây Tạng. Bởi vì trong máu huyết, Tây Tạng chưa bao giờ là một phần của Trung Hoa trước đây hay Trung Cộng ngày nay.

Sự sụp đổ của nhà Thanh là cơ hội để nhân dân Tây Tạng phục hồi toàn bộ chủ quyền đất nước chứ không phải đó chỉ là lần đầu tiên dân Tây Tạng vốn đã thuộc Trung Hoa bỗng dưng đứng lên đòi độc lập.

Và từ 1913, Tây Tạng là một quốc gia có chủ quyền, độc lập, có ngôn ngữ riêng, chính phủ riêng, hệ thống tư pháp riêng, bưu điện riêng, đơn vị tiền tệ riêng, hộ chiếu quốc tế riêng. Hộ chiếu do chính phủ Tây Tạng cấp năm 1947 được các quốc gia lớn như Ấn Độ, Mỹ, Anh, Pháp, Ý, Thụy Sĩ, Iraq, Hong Kong chấp nhận và đóng dấu cho phép thông hành.

Theo công pháp quốc tế, một quốc gia sẽ không chuẩn y và đóng dấu vào chiếu khán do chính phủ của một quốc gia khác cấp nếu không thừa nhận chính phủ của quốc gia đó. Khi đóng dấu thông hành, các cường quốc Anh, Mỹ, Ấn, Pháp, Ý trong thực tế đã thừa nhận vai trò lãnh đạo của chính phủ Tây Tạng. Việc công nhận hay chưa công nhận trong bang giao chỉ là thủ tục ngoại giao, nhất là trong giai đoạn từ 1913 đến 1950 Tây Tạng vẫn chưa được quốc tế biết nhiều và cả thế giới phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh vô cùng khốc liệt.

Trung Cộng tự hào là nước lớn nhưng không có nghĩa được mọi quốc gia công nhận họ. Mỹ không công nhận Trung Cộng mãi tới 1972 và chậm hơn nữa cho tới tháng 10, 1990 Singapore mới công nhận Trung Cộng. Ngay cả hiện nay vẫn có đến 21 quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc không công nhận Trung Cộng.

Tây Tạng có đủ bốn tiêu chuẩn quốc tế để xác định một quốc gia gồm chủ quyền, chính phủ, lãnh thổ và dân số, trong lúc Trung Cộng không đưa một lý do gì, một chứng minh gì ngoài “chủ quyền lịch sử” mà họ luôn bám vào trong mọi cuộc tranh chấp lãnh thổ.

Trung Cộng viện lý do “Tây Tạng đã là một phần của Trung Quốc suốt bảy trăm năm”. Bảy trăm năm thì sao? Bảy trăm năm tại Tây Tạng hay một ngàn năm tại Việt Nam cũng chỉ là thời kỳ đô hộ, cưỡng chiếm và cai trị bằng sắt máu. Thời gian đó không có giá trị gì một khi dân tộc bị trị đủ mạnh để đứng lên giành độc lập.

Chính sách xóa bỏ Tây Tạng của Trung Cộng được thực hiện bằng hai cách, (1) diệt chủng văn hóa qua việc tàn phá chùa chiền, bôi nhọ đức Đạt Lai Lạt Ma, buộc Hoa Ngữ là ngôn ngữ chính thức, học sinh phải học lịch sử từ quan điểm Trung Cộng, và (2) đồng hóa chủng tộc qua việc định cư ồ ạt người Hán vào Tây Tạng, tập trung nền kinh tế Tây Tạng trong tay người Hán. Chính Mao Trạch Đông trong Tuyển Tập Mao Trạch Đông xuất bản có hiệu đính năm 1987, đã thừa nhận cho tới năm 1952 cũng “không có một người Hán nào ở Tây Tạng” nhưng hiện nay số người Hán tại Tây Tạng đông hơn chính người Tây Tạng.

Bài học cho Việt Nam

Ngoại trừ những buổi tiếp xúc đức Đạt Lai Lạt Ma một cách không chính thức của các tổng thống Mỹ hay một hai lá thư phê bình cách đối xử nặng tay của nhà cầm quyền Trung Cộng, chưa một lãnh đạo cường quốc nào có một biện pháp tích cực và hữu hiệu để ngăn chặn lưỡi đao Trung Cộng.

Đơn giản bởi vì Tây Tạng không có những mỏ dầu khí lớn như Iraq, không có những mỏ kim cương lớn như Nam Phi và cũng không giữ vị trí chiến lược như Thổ Nhĩ Kỳ. Các quốc gia Tây Phương không thể hy sinh các quyền lợi vật chất quá lớn với Trung Cộng chỉ để bảo vệ các giá trị tinh thần cho một nước nhỏ xa xôi. Cuộc đấu tranh, đầu tiên cho đến cuối cùng, vẫn là tranh đấu bằng máu xương, hy sinh và chịu đựng của dân tộc Tây Tạng.

Đối với trường hợp Việt Nam, không cần phải phân tích nhiều mà chỉ thay chữ Tây Tạng bằng chữ Việt Nam trong bài viết, sẽ thấy một viễn ảnh Việt Nam đen tối hiện ra.

Tập Cận Bình đang gấp rút xây dựng các căn cứ quân sự và dân sự trên Biển Đông nhằm mở rộng vòng đai an ninh và sự hiện diện ngoài lục địa. Nếu họ Tập thành công, Việt Nam có khả năng nằm bên trong “không gian sinh tồn” của Trung Cộng và đặt các cường quốc vào thế đã rồi như trường hợp Hitler chiếm Áo vào tháng Ba, 1938 trước sự làm ngơ của Anh và Pháp.

Việt Nam chỉ hơn Tây Tạng một điểm duy nhất là còn thời gian dù rất ngắn để quyết định số phận của mình. Chọn lựa của dân tộc Việt Nam hôm nay, do đó, là chọn lựa giữa tiếp tục sống dưới chế độ độc tài CS để rồi mất nước, hay dân chủ hóa, hiện đại hóa nhanh chóng để có thể ngăn chặn được bước chân Trung Cộng. Nếu chỉ biết nhịn nhục, cúi đầu, một ngày không xa họa diệt vong sẽ tới. Đến lúc đó, đừng oán trách chi ai, đừng đỗ thừa cho ai khác, ngoài oán trách, đỗ thừa cho sự ươn hèn, nhu nhược của chính mình.

30.07.2016

Trần Trung Đạo

danlambaovn.blogspot.com

Nga đối diện với một tương lai đen tối – Có cách nào để thoát ra không?

Nga đối diện với một tương lai đen tối – Có cách nào để thoát ra không?

Tác giả: David Satter

Dịch giả: Phạm Đức Duy & Lê Minh Nguyên

31-7-2016

Lời dịch giả: Đây là một đoạn trích ra từ cuốn sách mới của nhà nghiên cứu David Satter, “The Less You Know, the Better You Sleep: Russia’s Road to Terrorism and Dictatorship Under Yeltsin and Putin” (Bạn biết càng ít, bạn ngủ càng ngon: Con đường đưa nước Nga đến khủng bố và độc tài dưới thời Yeltsin và Putin).

Tương lai tốt nhất cho nước Nga là loại bỏ chế độ Putin bằng một cuộc bầu cử tự do và công bằng. Nhưng gần như việc này sẽ không thể xảy ra. Chỉ khi nào có một cuộc nổi dậy rất lớn từ bên dưới, đội ngũ an ninh và quân đội trở nên thờ ơ với việc bảo vệ chế độ, nhóm lãnh đạo đương thời bị phân chia để ít nhất một phần trong số họ đứng về phía quần chúng thì mới lật đổ được chế độ Putin.

[Lê Minh Nguyên: Do hệ thống chính trị được thiết kế từ ban đầu là không thể thay đổi, trừ khi bị sụp đổ, Cộng Sản Việt Nam cũng tương tự, không muốn và không có khả năng thay đổi qua dân chủ pháp trị. Sự thay đổi thực sự nếu có ở VN là do dân chúng đứng lên mà ra, với sự trung lập của lực lượng đàn áp và một mảng của Đảng tách ra đứng cùng quần chúng].

Trong những trường hợp này, điều quan trọng cần được nhấn mạnh đến là những lời hiệu triệu (the banners) mà từ đó một cuộc cách mạng dân chủ sẽ xảy ra. Cái mà nước Nga cần là một ý thức (consciousness), có khả năng hướng dẫn một phong trào quần chúng để tiến đến sự cam kết cho các giá trị phổ quát.

Khuynh hướng của Nga sử dụng con nguời (individual) như vật liệu sổi (raw material) để thực hiện những tham vọng của nhà nước đã ăn sâu bắt rễ vào tâm lý quốc gia, nó đã giúp cho sự chiến thắng của chủ nghĩa cộng sản và sau đó nó định vị cho chủ nghĩa tư bản không luật pháp, để rồi ngày nay dẫn đến một quốc gia tội phạm.

Để xây dựng việc tôn trọng con người như nền tảng cho một sự bắt đầu mới, nước Nga cần phải có một cái nhìn chân thật vào quá khứ của chính mình. Nga đã thất bại trong việc đối diện với sự thật về các tội ác của chế độ cộng sản, nhưng có lẽ càng cấp bách hơn nữa cho nước Nga là sự đối mặt với những tội ác xảy ra sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ. Điển hình là thảm sát tại tháp truyền hình Ostankino vào năm 1993, pháo kích vào Nhà Trắng Nga, tình trạng đạo tặc trong quá trình tư nhân hoá các xí nghiệp quốc doanh, các cuộc đánh bom những chung cư năm 1999, việc bao vây tấn công Nhà hát Moscow năm 2002, bao vây tấn công trường học Beslan năm 2004, dùng phóng xạ đầu độc Alexander Litvinenko ở London, những vụ ám sát Anna Polikovskaya, Sergei Yuschenkov, Yuri Shchekochikhin, Paul Klebnikov, Natalya Estemirova và Boris Nemtsov.

[LMN: CSVN cũng như Nga, sử dụng con người như đồ vật thí nghiệm cho sự nắm quyền bằng mọi giá của Đảng. Những vụ giết dân tập thể Tết Mậu Thân ở Huế năm 1968, Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm, đầu độc phóng xạ Nguyễn Bá Thanh, ám hại Nguyễn Hữu Thắng (Cục trưởng Cục đường sắt VN), Dương Văn Đầy, ĐS Đinh Bá Thi, tướng Thi Văn Tám, thượng tướng Nguyễn Khắc Nghiên… Hiện nay, tuy giữ Mác-Lê làm bình phong để nắm quyền, CSVN đang theo chủ nghĩa tư bản không luật pháp, cướp ngày là quan của chế độ đạo tặc].

Trong số những tội ác này, quan trọng nhất là những vụ đánh bom các chung cư năm 1999. Những vụ đánh bom ở Moscow, Buinaksk và Volgodonsk là hậu quả của nước Nga tội phạm dưới thời Boris Yeltsin và là chìa khóa để Putin nổi lên nắm quyền. Người ta có thể lập luận rằng không có chứng cớ về tội lỗi của Yeltsin và Putin trong các vụ đánh bom này. Điều này đúng, nhưng chỉ đúng trong ý nghĩa là khi có một toà án công lý (độc lập) xử và công bố ra như vậy cho kẻ bị truy tố phạm tội. Chế độ Putin đã không bao giờ đối mặt với một tòa án của luật pháp như thế, do bởi chính họ kiểm soát tiến trình pháp lý và ở trong vị trí thu thập rồi giấu diếm các bằng chứng. Toàn bộ các chứng cớ của hoạt cảnh (circumstantial evidence) – nó không giống như chứng cớ trực tiếp (direct evidence) vì không thể nào giả tạo ra được – cho ra một bức tranh tội lỗi của chế độ một cách hết sức thuyết phục, mà nếu đây là một vụ án hình sự cá nhân, kết quả tội lỗi sẽ rất rõ ràng và không thể chối cãi.

Cho đến nay, chế độ đã ngăn chận ba nỗ lực để tiến hành cuộc điều tra độc lập về các vụ đánh bom những chung cư, cũng như ngăn chận điều tra các vụ ám sát những cá nhân đã cố gắng điều tra độc lập các vụ đánh bom trên, điều này cho thấy sự nghi can chạy tội của chế độ. Nếu chính quyền muốn bác bỏ những cáo buộc về việc họ tham gia vào các vụ đánh bom chung cư, họ lẽ ra nên công bố các bằng chứng quan trọng cho các cuộc điều tra độc lập, đặc biệt là những quả bom đã được đặt dưới hầm của tòa nhà Ryazan và bị cơ quan an ninh FSB tịch thu và giấu kín (sequestered), (không cho điều tra) vi phạm trực tiếp pháp luật về bí mật nhà nước.

Nga hiện nay đối mặt với một tương lai đen tối. Ðiều cấp thiết nhất cho nước Nga là một ủy ban điều tra sự thật, giống như Ủy ban về Sự thật và Hòa giải của Nam Phi, ngõ hầu có thể điều tra một cách khách quan những tội ác thời hậu cộng sản và công bố kết quả với nhân dân Nga. Nhiều tội ác thật là khủng khiếp, nên sự nhận thức về bản chất thật sự của chúng sẽ rất quan trọng trong việc xây dựng một xã hội dân chủ mới.

[LMN: VN hiện nay cũng đang đối mặt với một tương lai đen tối, nhiều tội ác thật là khủng khiếp đã xảy ra, chính quyền càng ngày càng có hiện tượng biến VN trở thành một quốc gia tội phạm, văn hoá lành mạnh đã bị phá nát, mua quan bán chức để đạo tặc tài nguyên quốc gia và hút máu đồng bào. Đảng đang đi con đường tội phạm của Nga và dân muốn đi con đường dân chủ của Ukraine].

Trong trường hợp Nga có thể bắt chước được các kinh nghiệm của Ukraine trong việc lật đổ một chế độ tội phạm, thì việc triệu tập một Quốc Hội Lập Hiến mới, có khả năng soạn ra một hiến pháp, cao cả đặc định (enshrining) việc phân chia quyền lực, sẽ là một điều hết sức cần thiết. Nga chưa bao giờ phục hồi lại được từ sự dẹp bỏ Quốc Hội Lập Hiến hồi Tháng Giêng năm 1918; do vậy mà cấu trúc chính trị ở Nga đã luôn luôn được sử dụng như những công cụ cho sự chuyên quyền (arbitrary power).

Người dân Nga có tư tưởng dân chủ có lẽ chiếm không quá 10-15 phần trăm dân số, nhưng kinh nghiệm của thời kỳ Đổi Mới và Tái Cấu Trúc (perestroika) cho thấy rằng họ có thể hướng dẫn hàng triệu người khác theo cùng. Tuy nhiên, để làm được điều này, họ sẽ cần phải đối mặt với sự thật về kinh nghiệm “dân chủ” hậu Xô Viết tại Nga (dân chủ giả). Có làm như thế thì mới giúp cho đất nước được thực sự trong sáng. Các lực lượng dân chủ mới có thể phá vỡ được lịch sử bi thảm của nước Nga và tạo nền tảng cho tương lai của đất nước. Họ chỉ cần tập trung vào giá trị của con người và để cho sự thật dẫn dắt họ.

Tác giả: Ông David Satter là nhà báo Mỹ và là chuyên gia về Nga, Liên Xô, Đông Âu. Ông là tác giả các cuốn sách và các bài báo về sự suy tàn và sụp đổ của Liên Xô và sự nổi lên của nước Nga tội phạm hậu Xô viết. Ông Satter bị chính quyền Putin trục xuất khỏi Nga tháng 12/2013. Ông là thành viên cao cấp của Viện Nghiên Cứu Hudson và là thành viên của Viện Chính sách đối ngoại, Trường Nghiên cứu quốc tế cao cấp, Đại học Johns Hopkins (SAIS).

Lễ Hội & Quốc Hội- S.T.T.D Tưởng năng Tiến

Lễ Hội & Quốc Hội

S.T.T.D Tưởng năng Tiến

RFA

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

Tôi thì may mắn không dính dáng gì đến đám ma cô và  đĩ điếm nhưng lại phải sống tha phương cầu thực cũng gần cả đời người. Lê la và lê lết rất nhiều nơi nhưng  không thấy đâu lại có lắm thứ lễ lạt như ở quê mình:

  • Lễ Đón Nhận Danh Hiệu Anh Hùng
  • Lễ Đón Nhận Danh Hiệu Đoạt Chuẩn Quốc Gia
  • Lễ Trao Tặng Vinh Dự Nhà Nước
  • Lễ Trao Tặng Dụng Cụ Cho Học Sinh Nghèo
  • Lễ Trao Tặng Huy Hiệu Đảng
  • Lễ Đón Nhận Bằng Khen
  • Lễ Tôn Vinh Doanh Nghiệp Xuất Sắc & Doanh Nhân Tiêu Biểu
  • Lễ Tôn Vinh Thương Hiệu Phát Triển Bền Vững
  • Lễ Tiếp Nhận Cán Bộ Chuyên Trách Về Công Tác
  • Lễ Tiếp Nhận Thiết Bị Phòng Thí Nghiệm
  • Lễ Vinh Danh Các Doanh Nghiệp Du Lịch Hàng Đầu
  • Lễ Vinh Danh Báo Cáo Thường Niên Tốt

Mới đây, L.S Lê Công Định còn cho biết thêm một thứ nghi lễ mới (Lễ Trao Giấy Chứng Nhận Chấp Hành Xong Án Phạt Quản Chế) chưa từng có trong lịch sử nước nhà:

Sáng hôm qua 6/2/2016, tôi đến trụ sở Công an phường lúc 8 giờ, trình diện lần cuối theo án lệnh quản chế từ 3 năm nay… Buổi trình diện diễn ra nhanh chóng rồi chuyển ngay sang phần quan trọng hơn, đó là lễ trao Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt quản chế cho tôi...

Thành phần tham dự, ngoài tôi, còn có ông Chủ tịch phường, ông Chủ tịch Mặt trận tổ quốc phường, hai nhân viên an ninh thuộc Công an TPHCM, một nhân viên an ninh thuộc Công an quận 7 TPHCM, một cảnh sát khu vực và một đại diện Cơ quan thi hành án quận 7. Tại Việt Nam, các cơ quan thi hành án là bộ phận của ngành công an… Buổi lễ được ghi hình trực tiếp bởi nhân viên an ninh thuộc Công an TPHCM …

Thiệt là thầy chạy!

Lễ lạt tuy nhiều nhưng không lắm bằng hội hè, đình đám. Theo nhà văn Võ Thị Hảo thì “cả nước có hơn có hơn 8000 lễ hội” (tám ngàn, tôi ghi thêm cho rõ, tnt) nên “không thể thống kê hết số người bị thương, đổ máu hoặc ngất xỉu ngay trong một mùa hội và qua vài năm gần đây.”

Bữa rộn ràng và hoạt náo nhất (vào hôm 22 tháng 5 năm 2016 vừa qua) may thay không có ai bị thương hay đổ máu. Báo chí nhà nước mệnh danh đây là Ngày Hội Lớn Của Non Sông:

Riêng tại Bắc Kạn, ngoài cờ, hoa, biểu ngữ, tranh cổ động … Đoàn Nghệ Thuật Dân Tộc Tỉnh còn có một chương trình biểu diễn nghệ thuật đặc biệt (Như Có Bác Giữa Ngày Hội Non Sông) nữa!

Nguồn ảnh:backantv

Thiệt là tưng bừng, náo nhiệt, hết biết luôn. Sau cái ngày Hội Của Non Sông linh đình này, báo Báo Công An Nhân Dân hân hoan tường thuật:

“Hội đồng Bầu cử Quốc gia cho biết, theo báo cáo ban đầu của  63 tỉnh, thành phố, đến hết 19h cùng ngày đã có 98,77%, tương đương khoảng 65 triệu cử tri cả nước đã đi bỏ phiếu.”

Cùng lúc, Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân long trọng tuyên bố: “Ngày 22/5 thực sự là ngày hội lớn của toàn dân.” Ô, như thế thì cái gọi là ngày hội non sông (“thực sự”) lại là ngày bầu cử. Đúng là “làm xiếc ngôn từ.” Nghe mà ớn chè đậu!

Té ra Ngày Hội Non Sông vừa qua chỉ là một ngày hội giả, do nhà nước “thiết kế” để tạo ra một cuộc bầu bán giả, và một cái quốc hội cũng giả luôn. Chỉ có khoản chi phí là thật, và vô cùng tốn kém, theo nhận xét của tác giả Mạc Văn Trang – vào hôm 21 tháng 5 năm 2016:

Vậy Đảng công bố luôn danh sách các đại biểu Đảng đã chọn xong, cho dân biết. Thế có phải nhanh, gọn, minh bạch, thật thà, tiết kiệm hơn không!

Ai cũng biết là vậy, lại còn cứ tuyên truyền giả tạo, đóng kịch làm gì! Nào là Bầu cử là “Ngày Hội non sông”, “Lá phiếu là Trái tim của cử tri”, “Lá phiếu của cử trị sẽ chọn ra người tài đức”, đi bầu là “Quyền và Nghĩa vụ thiêng liêng của công dân”; nào là “toàn dân nô nức”, nào là “cảnh giác các thế lực thù địch phá hoại”; nào là cờ, đèn, kèn trống, loa đài khẩu hiệu rợp trời, nào loa đọc suốt ngày, nào truyền hình trực tiếp….

Tốn kém đến 3.500 tỉ đồng và bao nhiêu sức người, sức của; bao nhiêu là long trọng, bao nhiêu là hoa mĩ, bao nhiêu là phô trương… chỉ để làm một việc … không cần thiết.

TX Kỳ Anh lộng lẫy trước ngày hội lớn. Ảnh chú thích: baohatinh

Hơn sáu mươi năm trước, vào ngày 30 tháng 10 năm 1956, tại Hội Nghị Mặt Trận Trung Ương, L.S. Nguyễn Mạnh Tườngcũng đã đưa ra một nhận định (gần) tương tự:

“Dư luận quần chúng quan niệm rằng Quốc hội chỉ có quyền thông qua chính sách mà thôi… với vai trò yếu ớt hiện thời quyền dân chủ của quần chúng không được thực hiện.”

Thảo nào mà Lê Phú Khải phải kêu trời: “Tôi đã phải sống với ‘con điếm’ ấy cả đời người.” Sức chịu đựng của  nhà văn chúng ta quả là bền bỉ. Và đây là đức tính chung của cả dân tộc Việt, chứ nào có phải riêng ai.

Hơn sáu mươi năm qua, dường như, chỉ có ba công dân Việt Nam không đủ nhẫn nại trước cái trò (“bầu bán”) đĩ điếm này thôi – theo như tường thuật (chắc có thêm hơi nhiều mắm muối) của báo Người Lao Động:

“… năm 2005, Huỳnh Ngọc Tuấn không chịu tham gia Bầu cử Quốc hội khóa XII, khi tổ công tác đến nhà vận động đi bầu cử thì Tuấn và gia đình lăng mạ, chửi bới, xúc phạm. Mới đây, trong đợt bầu cử của năm 2011, Tuấn cùng con gái là Huỳnh Thục Vy và con trai Huỳnh Trọng Hiếu tiếp tục ‘không’ tham gia bầu cử Quốc hội khóa XIII và Bầu cử HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016. Ngoài ra, ba cha con Tuấn còn lấy thẻ cử tri ghi vào dòng chữ “NO!

Ba cha con ông Tuấn ghi chữ “NO” vào thẻ cử tri và chụp ảnh đưa lên mạng để bôi nhọ cuộc bầu cử Quốc hội. Ảnh & chú thích: Báo NLĐ

Nếu vỏn vẹn chỉ có ba chữ “NO” trong số hơn sáu chục triệu thẻ cử tri thì sợ rằng dân tộc Việt còn phải sống với “con điếm” này lâu, phải vài “đời người” (nữa) không chừng!

Việt Nam vẫn mắc kẹt tại ngã ba đường

Việt Nam vẫn mắc kẹt tại ngã ba đường

Viet-studies

Nguyễn Quang Dy

Albert Einstein và câu nói nổi tiếng của ông. Nguồn: interne

Albert Einstein và câu nói nổi tiếng của ông. Nguồn: internet

“Có hai thứ vô hạn: vũ trụ và sự ngu xuẩn của con người…” (Two things are infinite: the universe and human stupidity – Albert Einstein)

Hơn bảy thập kỷ sau khi lập quốc (1945) và hơn bốn thập kỷ sau cuộc chiến tranh Việt Nam (1975), đất nước vẫn đang mắc kẹt tại ngã ba đường. Tại sao lại có bi kịch này? Làm thế nào để thoát ra ra khỏi ngã ba đường của lịch sử?

Trong nhiều thập kỷ, đất nước đã bị sa vào chiến tranh và bạo lực, cực đoan và hận thù, như cái bẫy ý thức hệ. Những thế lực cực đoan (trong và ngoài nước) đã thao túng số phận đất nước này, làm cho chính họ và ít nhất một thế hệ người Việt bị ngộ nhận, lạc vào ma trận (như chiến tranh Việt Nam). Muốn thoát ra khỏi ngã ba đường không dễ. Báo cáo “Việt Nam 2035” khuyến nghị phải đổi mới thể chế và cải cách vòng hai.   

Có nhiều việc phải làm, như cách thể chế và chống tham nhũng. Trong phạm vi bài viết này, hãy thử xem lại mấy điều cơ bản: Thứ nhất là đặc điểm bối cảnh hiện nay; Thứ hai là nguyên nhân và hệ quả; Thứ ba là các giải pháp khả thi.

Đặc điểm bối cảnh hiện nay

Cuộc tranh cãi hiện nay về giải pháp nào cho các vấn nạn quốc gia vẫn còn bế tắc. Đất nước có thể tiếp tục suy thoái và tụt hậu, nếu vẫn chưa cải cách được thể chế, vẫn chưa xử lý được nạn tham nhũng bị thao túng bởi các nhóm lợi ích.

Sau bao thăng trầm, Việt Nam vẫn bị mắc kẹt tại ngã ba đường, bị các nhóm lợi ích tham nhũng bắt làm con tin, mà vẫn tưởng mình đang làm chủ. Đoàn tàu đất nước bị bắt cóc (hijacked), đang đi chệch đường ray, chạy loanh quanh trong thung lũng mù, mà vẫn tưởng đang chạy trên đường ray “kinh tế thị trường định hướng XHCN”.

Nhiều người ngồi trong các toa tàu (cả chủ lẫn khách) vẫn tưởng an toàn và vô can, mà không biết rằng đoàn tàu đang lầm đường lạc lối. Một số người nhanh chân thu gom tài sản, nhảy khỏi đoàn tàu, hy vọng thoát thân tại một “thiên đường” nào đó.

Một hệ quả đáng buồn là dòng người và dòng tiền đang lũ lượt ra đi. Theo UN DESA, từ năm 1990 đến 2015 đã có 2.558.678 người Việt di cư ra nước ngoài (trung bình mỗi năm gần 100 ngàn người). Theo World Bank (năm 2013), Việt Nam là một trong 10 quốc gia có nhiều người di cư nhất khu vực Đông Á-Thái Bình Dương.

Trong mấy năm qua, đã có 92 tỷ USD được chuyển ngầm ra nước ngoài bằng nhiều cách, và có hàng trăm người Việt có tên trong Hồ sơ Panama và có tài khoản tại các “thiên đường trốn thuế” như Virgin Islands, Cayman và Malta… Đây không chỉ là hiện tượng tham nhũng, chảy máu chất xám và tài nguyên, mà còn là khủng hoảng lòng tin.

Những vấn đề hậu chiến như hòa giải dân tộc, tái thiết đất nước, cải cách kinh tế và chính trị, vẫn còn ngổn ngang như mới bắt đầu. Những thành tựu đầy ấn tượng của hai thập kỷ cải cách kinh tế thị trường đã bị triệt tiêu bởi thiếu đổi mới chính trị. Các nhóm lợi ích dựa vào cơ chế thân hữu, tiếp tục thao túng thể chế “kinh tế thị trường định hướng XHCN” như một miếng mồi ngon, làm đất nước ngày càng kiệt quệ và tụt hậu.

Không khỏi giật mình khi nhìn vào các chỉ số kinh tế cơ bản. Hàng trăm ngàn doanh nghiệp phá sản hoặc “chết lâm sàng”. Thâm hụt ngân sách tới mức báo động. Nợ xấu và nợ công chồng chất. Các khoản vay World Bank để ứng phó thay đổi khí hậu, phát triển đồng bằng Mekong, và nâng cao năng lực cạnh tranh, như muối bỏ bể.

Theo Ngân hàng Nhà nước, tính đến đầu năm 2016, dự trữ ngoại hối của Việt Nam chỉ còn khoảng 30 tỷ USD, đến tháng 6/2016 tăng lên 38 tỷ USD. Theo Bộ tài chính Mỹ, Việt Nam nắm giữ 12 tỷ USD trái phiếu chính phủ Mỹ (chiếm 1/3 dự trữ ngoại hối), do đó dự trữ tiền mặt chỉ có 26 tỷ USD. Năm 2015, Việt Nam phải trả nợ 20 tỷ USD và năm 2016 ít nhất là 12 tỷ USD (trả nợ nước ngoài chiếm 40%). Năm 2015, nhập siêu từ Trung Quốc là 30 tỷ USD (nhập chính thức) và 20 tỷ USD (nhập lậu). Nếu Trung Quốc muốn, họ có thể làm cho dự trữ ngoại hối của Việt Nam (30 tỷ USD) bốc hơi trong một ngày.

Chỉ cần quan sát kỹ một chút là thấy bức tranh quốc gia đầy bất ổn, cả về sức khỏe kinh tế lẫn ổn định chính trị và chủ quyền quốc gia. Cách đây 26 năm, cựu ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã bức xúc thốt lên rằng một thời kỳ bắc thuộc mới bắt đầu. Những hệ quả của Thành Đô vẫn dai dẳng như một nghiệp chướng, chưa biết bao giờ thoát Trung.

Mấy năm qua, tai họa môi trường xảy ra liên tiếp. Không phải chỉ do ông trời làm thay đổi khí hậu, mà còn do con người gây ra. Trong khi hạn hán và ngập mặn chưa từng có trong lịch sử tại đồng bằng Mekong đe dọa cuộc sống hàng triệu nông dân, vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu, thì thảm họa môi trường biển miền Trung do Formosa gây ra đãg hủy diệt hải sản và môi sinh, đe dọa cuộc sống hàng vạn ngư dân và cộng đồng. Không phải chỉ có ngành hải sản và du lịch biển bị tê liệt, mà chủ quyền Biển Đông có nguy cơ bị mất.

Tại sao ta lại từ chối đề nghị giúp đỡ của cộng đồng quốc tế (như Liên Hợp Quốc và Mỹ)? Tại sao phạt Formosa có 500 triệu USD để đền bù thiệt hại (và cho tồn tại)? Tại sao lại phải nhẹ tay “khoan hồng” đối với thủ phạm đã và đang gây ra thảm họa môi trường miền Trung? Trong khi lại nặng tay đàn áp người dân biểu tình ôn hòa đòi “biển sạch” và “minh bạch”? Và bưng bít thông tin bằng cách kiểm duyệt và đe nẹt báo chí? Tại sao Chính phủ và các cơ quan chức năng phải mất gần 3 tháng mới công bố nguyên nhân và thủ phạm gây ra thảm họa môi trường (trong khi hầu như ai cũng biết thủ phạm là Formosa)?

Thật là nghịch lý nếu ta phải cầu cứu Trung Quốc giúp đỡ, khi đồng bằng sông Mekong bị hạn, (do họ xây quá nhiều đập thủy điện trên thượng nguồn) và khi máy bay Su 30MK và CASA 212 bị rơi liên tiếp ngoài khơi Biển Đông (một cách bí ẩn). Tại sao ta lại sợ Trung Quốc như vậy? Trong khi Philippines dám kiện (và đã thắng), nhiều nước ủng hộ phán quyết của PCA, thì Việt Nam vẫn giữ thái độ rất dè dặt, không dám kiện.

Nguyên nhân và hệ quả

Thứ nhất là nỗi sợ đi vào tiềm thức. Đó là nguyên nhân sâu xa gây chia rẽ, hận thù, nghi ngờ, dối trá, không thể hòa giải (như những chỉ số năng lượng tiêu cực). Người Việt vốn sợ Tây, sợ Tàu, sợ tất cả, nên căm thù và đánh tất. Nhưng khi phải quyết định lựa chọn kế thoát hiểm, thì lại sợ thay đổi thể chế, nên mắc kẹt tại ngã ba đường. Dân sợ và không tin chính quyền. Chính quyền sợ dân (coi dân như thù địch), vì sợ mất ghế, mất chế độ, mất độc quyền, nên phải bưng bít thông tin và trấn áp. Làm sao thoát khỏi nỗi sợ?

Trung Quốc không đáng sợ như vậy, và họ đang suy yếu. Về đối ngoại Trung Quốc ngày càng bị cô lập, nhất là sau phán quyết của PCA về Biển Đông. Về đối nội, kinh tế xuống dốc, uy tín của Đảng cầm quyền suy giảm. Theo một báo cáo của Ủy ban Kỷ luật Trung ương (1/7/2016) chỉ có 2,2% đảng viên đạt tiêu chuẩn, và 90% bộ máy cầm quyền của Đảng phải cải tổ, vì “đã mục nát triệt để”. Các lãnh đạo cao nhất của Đảng (như Tập Cận Bình và Vương Kỳ Sơn) đã công khai thừa nhận chế độ Cộng sản Trung Quốc đang đứng trước “nguy cơ vong Đảng” và đã đến “điểm giới hạn gần như sụp đổ” (theo Vương Kỳ Sơn).

Thứ hai là tư tưởng cực đoan ẩn tàng trong cộng đồng, nhất là các quan tham muốn “làm giàu bằng mọi giá”, nên thường bỏ qua và quên mọi rủi ro tiềm ẩn (do vô minh). Tư tưởng cực đoan dẫn đến “hội chứng nhất” (cái gì cũng phải nhất). Ví dụ, Hà Tĩnh có dự án to nhất (Formosa), tốc độ duyệt dự án này cũng nhanh nhất, và có số cán bộ tham gia trung ương cũng đông nhất (16 người). Nay xảy ra thảm họa môi trường cũng lớn nhất.

Có thể nói, đó là hệ quả của cực đoan và bè phái, là hai trở ngại lớn nhất đối với quá trình đổi mới và phát triển. Các nhóm lợi ích thân hữu (bán nước hại dân) có thể làm đất nước trệch khỏi đường ray phát triển, và tiếp tục mắc kẹt tại ngã ba đường. Phải chăng nhóm lợi ích thân hữu  lũng đoạn Hà Tĩnh đã biến Formosa Vũng Áng thành một tô giới Tàu, hay “vương quốc nước ngoài trong lòng Hà Tĩnh” (GDVN, 26/7/2016).

Thứ ba là khủng hoảng nhân cách (như đa nhân cách). Trong khi các quan lại (địa phương và trung ương) làm giàu bất minh và gây ra tai họa, thì họ luôn mồm “vì quê hương đất nước”.  Khi đã mất nhân cách thì họ thường vô cảm, vô minh, và làm như “vô can” trước tai họa do họ gây ra. Vì vậy, ông Võ Kim Cự mới tỏ ra “thực sự bất ngờ…không lường được” và thản nhiên phán “phải kiên quyết xử lý đối với những vi phạm dù bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào” nhưng lại khẳng định “ký giấy chứng nhận đầu tư là đúng luật và đúng quy trình…”

Điệp khúc “đúng quy trình” là một cách ngụy biện thô thiển đến phản cảm, mà những kẻ đạo đức giả và mất nhân cách hay sử dụng để qua mặt những ai nhẹ dạ cả tin. Làm “đúng quy trình” mà không cần biết quy trình đúng hay sai và hậu quả ra sao, là một trò lừa đảo mà những nhóm lợi ích (bán nước hại dân) hay dùng để thao túng luật lệ trong một thể chế bất minh có nhiều kẻ hở. Họ tìm đủ cách lý giải và đổ cho quy trình và kỹ thuật (chứ không phải do con người), đổ lỗi cho người khác (chứ không phải do mình).

Vì vậy, sau khi xảy ra tai họa thì ông Cự làm như vô can, rồi lý giải như “lấy thúng úp voi” (lời ông Phạm Quyết Thắng, nguyên phó Tổng thanh tra Chính phủ). Ông Thắng bức xúc hỏi, “ông là người trình xin thủ tướng cho phép dự án có thời hạn 70 năm hay trình dự án 50 năm mà thủ tướng chữa lại thành 70 năm?… Tôi không loại trừ trong quá trình quan hệ đó có lý do nể nang, quen biết, cảm tình, và có cả vấn đề lợi ích cá nhân… Ông Cự chủ động, tích cực làm việc này, nhưng chắc chắn phải có người hậu thuẫn, bật đèn xanh cho ông ấy.

Formosa: Phần nổi của tảng băng chìm

Đại dự án Formosa như “con ngựa thành Troy” đã gây ra thảm họa môi trường và đẩy đất nước vào một cuộc khủng hoảng với những hệ quả khôn lường, liên quan đến phát triển kinh tế, ổn định chính trị và an ninh quốc phòng. Nó xẩy ra đúng lúc chuyển giao quyền lực giữa chính phủ cũ (đã “ăn không từ cái gì”) và chính phủ mới (còn “chưa ấm chỗ”), nên đối phó bị động và lúng túng như “gà mắc tóc” và “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.

Hãy điểm lại mấy nét chính của câu chuyện Formosa, với những lỗ hổng lớn về quản lý nhà nước và giám sát an toàn môi trường. Không thể đổi mới thể chế, nếu không làm rõ và xử lý thích đáng vụ Formosa như một “case study” mà cả ba chỉ số cơ bản của mô hình cải cách đều thiếu hụt: (1) chống tham nhũng (corruption), (2) quản trị tốt (governance), (3) minh bạch & trách nhiệm giải trình (transparency & accountability).

Điều phi lý nhất là sau khi để xảy ra một thảm họa môi trường lớn như vậy, và sau khi Formosa (nhà đầu tư) đã nhận tội, phía chủ nhà vẫn im lặng như vô can, vì làm “đúng quy trình”, mà không hề quan tâm quy trình đó đúng hay sai. Nếu ông Cự (nguyên Chủ tịch/Bí thư Hà Tĩnh) và những quan chức liên đới trong chính phủ cũ và các bộ ngành (TN&MT, KH&ĐT, KH&CN, NN&PTNT…) mà vô can, thì ai là bị can đây?

Ông Cự  đúng là người có “công đầu”, đưa đường chỉ lối cho Formosa vào đầu tư tại Vũng Áng và Sơn Dương (một vị trí chiến lược tại Miền Trung), nhưng không phải chỉ có một mình. Nếu ông Cự (và cộng sự) không biết Formosa nổi tiếng hủy diệt môi trường, và đằng sau Formosa là Trung Quốc, thì là vô minh. Ông Cự (và cộng sự) còn tìm mọi cách lách luật (hay phạm luật) để đáp ứng các yêu cầu tối đa của FHS (chủ đầu tư Đài Loan) và MCC (nhà thầu Trung Quốc). Đó là bất minh (chứ không phải “bất ngờ”).

Ông Cự đầy tự tin và tự hào về “đứa con” Formosa sẽ “làm cho Hà Tĩnh và đất nước này thay đổi cơ bản… góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế Hà Tính và khu vựcđây là dự án chủ lực của Hà Tĩnh. Nếu đi vào hoạt động, dự án sẽ đem lại lợi ích rất lớn. Riêng tiền thu được từ thuế cũng lên đến hàng chục tỷ USD. Ngoài ra, còn tạo ra hàng ngàn việc làm cả trong và ngoài hàng rào nhà máy…Khi đi vào hoạt động, 12 huyện thị của Hà Tĩnh sẽ trở thành khu hậu cần cho dự án. Hơn nữa, dự án sẽ tạo ra cú hích để cấu trúc lại kinh tế cho nhiều thế hệ. Đây là cơ hội tốt để người dân Hà Tĩnh đổi đời” (Tiền Phong, 10/4/2014).

Nay “cháy nhà ra mặt chuột”, ông Cự có muốn người dân Hà Tĩnh “đổi đời” bằng cách bỏ ngư trường Biển Đông (cho Trung quốc)? Sự vô minh và bất minh của ông Cự (và cộng sự) khác gì bán nước hại dân. Nhưng đến nay ông Cự vẫn khẳng định “tôi làm đúng, khi thẩm định dự án đều có ý kiến của 12 bộ nghành… sau đó báo cáo Chính phủ và được Chính phủ đồng ý…”. Theo báo Tuổi Trẻ, ngày 9/4/2008 ông Cự ký văn bản số 858/UBND-CN2 gửi Formosa nêu rõ thời hạn cho thuê đất là 70 năm. Tới ngày 8/5/2008, Hà Tĩnh mới có công văn gửi các bộ nghành xin ý kiến. Theo Thanh tra Chính phủ, ý kiến các bộ ngành không đề nghị Chính phủ cho phép thời hạn 70 năm, và tại thời điểm đó Chính phủ cũng chưa có ý kiến cho phép thời hạn trên 50 năm. Nếu đúng vậy thì ông Cự phạm tội nói dối, và đổ lỗi quanh.

Trước khi FHS đầu tư vào Khu Kinh tế Vũng Áng làm nhà máy thép Formosa và cảng biển Sơn Dương, thì Tata Group, một tập đoàn lớn có kinh nghiệm sản xuất thép hơn 100 năm của Ấn Độ cũng quyết định đầu tư vào Vũng Áng. Nhưng vì ông Cự đã chọn FHS nên Tata đành bỏ cuộc. Trả lời phỏng vấn báo Tiền Phong, ông Cự giải thích, “Đúng là Tata vào trước, đáng ra Tata phải được ưu tiên, nhưng do họ triển khai quá chậm nên Formosa đã chớp lấy cơ hội!”. Phải chăng Formosa nhanh chân hơn Tata, hay lại quả nhiều hơn, nên ông Cự cũng “chớp lấy cơ hội” bất chấp rủi ro tiềm ẩn về môi trường và an ninh?

Không biết ông Cự vì quê hương đất nước hay vì “lợi ích cá nhân” (như lời ông Quyết Thắng), mà bất chấp luật lệ và dư luận xã hội, cho Formosa hưởng quá nhiều ưu đãi (như một tô giới). Buông lỏng quản lý và giám sát đã dẫn đến thảm họa môi trường (“đúng quy trình”). Đó là quy trình gì? Làm bậy “đúng quy trình” rồi đổ lỗi để chạy tội là một đặc thù văn hóa tham nhũng kiểu Việt Nam (tham nhũng “đi vào ổn định”). Đó là quy trình siêu tốc đối với một đại dự án, khi hai bên câu kết trở thành đồng minh về lợi ích, thao túng luật lệ. Nếu Formosa đã từng thao túng chính quyền Quốc Dân Đảng tại Đài Loan thì nay (với MCC) họ thừa sức thao túng những quan tham trong chính quyền Hà Tĩnh (và Hà Nội).

Báo cáo đầu tư của Formosa lập trong 3 ngày (thật kỷ lục!). Quá trình thẩm định và phê duyệt dự án của UBND tỉnh làm trong 1 tháng. Ngày 9/4/2016, ông Cự (lúc đó là phó chủ tịch tỉnh) ký văn bản số 858/UBND-CN2 xác nhận ưu đãi đầu tư cho Formosa thuê đất 70 năm. Chỉ 2 tháng sau (12/6/2008) ông Cự đã ký giấy phép đầu tư, và chỉ 18 ngày sau (30/6/2008) bộ TN&MT đã phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường (DTM).

Theo nhà báo Lan Anh (VTC) người đã phỏng vấn ông Chu Xuân Phàm với câu nói nổi tiếng “chọn cá hay thép” (25/4/2016), chỉ 3 ngày sau (28/4) ông Phan Tấn Linh (giám đốc sở TTTT Hà Tĩnh) đã gửi công văn cho các cơ quan chức năng, đề nghị xử lý VTC vì đã phát nội dung cuộc phỏng vấn. Tại sao ông Linh lại mẫn cán gửi công văn bênh vực Formosa và chĩa mũi nhọn vào báo chí? (tuy báo chí làm đúng chức năng). Lý giải hành động mẫn cán của ông Linh, nhà báo Lan Anh gọi đó là hành động “cõng rắn cắn gà nhà”.

Trong khi cá chết hàng loạt thì ông Đặng Ngọc Sơn (phó chủ tịch UBND) khuyên dân cứ ăn cá và tắm biển (như không có chuyện gì). Hôm đó chắc không phải là “ngày cá 1/4” và cá chết không phải là chuyện đùa. Còn ông Đặng Quốc Khánh (chủ tịch UBND) thì vẫn yên lặng một cách bí ẩn, chưa hề xuất hiện và lên tiếng (tuy 3 tháng đã trôi qua).

Đến nay, một số nhà thầu phụ Hà Tĩnh vẫn đang tiếp tay cho Formosa gây ô nhiễm môi trường bằng cách bí mật di chuyển hàng ngàn tấn rác thải các loại đi chôn trộm tại nhiều nơi (như công viên, khu dân cư) tại Kỳ Anh, Hà tĩnh, và chở hàng trăm tấn chất thải nguy hiểm ra chôn trộm tại Phú Thọ. Nếu bị phát hiện thì họ đổ lỗi quanh, và cho người hành hung báo chí. Phải chăng vì đồng tiền nên họ “đâm lao phải theo lao”? Nhưng điều đáng nói là một số quan lại địa phương vẫn vô cảm và vô can trước thảm họa môi trường (mà họ là đồng phạm). Một quan nhỏ như Phan Duy Vĩnh (phó chủ tịch thị xã Kỳ Anh) mà cũng dám coi thường công chúng khi viết trên Facebook, “Biển nhiễm chất độc từ cái mồm của các bạn.

Tiến sỹ Tô Văn Trường (một chuyên gia về môi trường) cho biết ông “không khỏi giật mình vì sự tắc trách và trình độ chuyên môn của những người có trách nhiệm phía Việt Nam trong công tác kiểm tra, và giám sát môi trường…Khuyết điểm lớn nhất không phải là cấp giấy phép xả thải hay báo cáo ĐTM mà chính là lỗ hổng về công tác kiểm tra, giám sát về môi trường của Bộ TN&MT và Sở TN&MT Hà Tĩnh…Một số người phụ trách về môi trường chẳng những làm ngơ, mà còn nhận làm thuê, đổ chất thải của Formosa không đúng quy định… Chỉ có một nguyên nhân là họ tham tiền và đã bị Formosa móc ngoặc”. (BVN, 27/7/2016).

Ông Trường còn đặt nghi vấn là ngoài chất độc đã được phát hiện là phenol, cyanua mà thủ phạm là Formosa, liệu còn chất độc nào khác chưa bị lôi ra ánh sáng? Một số người vẫn tin là phải có một lượng độc tố khác ngoài phenol và cyanua, được thải vào biển. Theo kỹ sư Nguyễn Minh Quang (Basam.info, 28/7/2016), kết quả phân tích mẫu cá chết của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt nam đã xác nhận cá chết vì ammonia. “Mọi bằng chứng khoa học về nguyên nhân cá chết hàng loạt tại miền Trung đều hướng về phía ammonia chứa trong nước thải xả từ nhà máy luyện than coke của Formosa”.

ĐBQH Trần Quốc Khánh cho rằng, Formosa là bài học cảnh tỉnh cho những ai có tư duy bất chấp tất cả để chạy theo lợi ích, kể cả lợi ích cá nhân và lợi ích địa phương… Cần phải xử lý nghiêm khắc những sai phạm tại Formosa, kể cả xử lý hình sự”. ĐBQH Trương Trọng Nghĩa cũng nói, “Tôi ủng hộ quan điểm nên thành lập Ủy ban Lâm thời để xem xét, điều tra các vấn đề môi trường nổi cộm. Trước mắt là tập trung vào trường hợp Formosa… Đã đến lúc phải rà soát lại tất cả các quy trình để xem có đủ sức ngăn chặn được những tiêu cựccủa những người có trách nhiệm xây dựng cũng như là phê chuẩn những quy trình đó hay không”.

Ông Vũ Quốc Hùng (nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra TƯ) khẳng định. “lần này theo chỉ đạo của Trung ương, khi xem xét khuyết điểm của cán bộ thì không hề có bất cứ vùng cấm nào, bất luận người đó đương chức hay đã về hưu, ngay cả đương chức thì dù ở bất cứ chức vụ nào cũng phải bị xem xét Về xử lý nội bộ, Đảng không phân biệt một ai, kể cả là đã về hưu nhiều năm nhưng nếu có liên quan đến những sai phạm trong thời kỳ công tác thì cũng không có chuyện “hạ cánh an toàn”. Chúng ta hãy chờ xem!

Phải nhắc lại câu chuyện Formosa bởi vì đó là phần nổi của tảng băng chìm. Nó lý giải một phần tại sao Việt Nam vẫn đang mắc kẹt tại ngã ba đường. Ông Trịnh Xuân Thanh, ông Vũ Huy Hoàng, và bà Nguyễn Thị Nguyệt Hường đã “lên thớt” (theo chỉ đạo của TBT) trong chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” (kiểu Việt Nam). Trận “Núi Pháo” cũng đã mở màn. Nhưng chưa biết bao giờ đến lượt ông Võ Kim Cự (và cộng sự)? Đến nay ông Cự vẫn vô can, vẫn là đại biểu Quốc Hội và Chủ tịch Liên Minh Hợp Tác Xã. Việc ông Cự “lên thớt” hay hạ cánh an toàn là thước đo lập trường của Việt Nam đối với câu chuyện Formosa và Biển Đông (sau phán quyết của PCA), và đổi mới thể chế (như khuyến nghị trong báo cáo “Việt Nam 2035”).

Miến Điện & Mông Cổ: Bài học chuyển đổi

Trong mấy thập kỷ qua, nhiều nước đã chuyển đổi thể chế chính trị từ độc tài thành dân chủ. Trong đó, Miến Điện và Mông Cổ là hai bài học thành công, đáng để cho Việt Nam tham khảo và học hỏi. Tất nhiên, bối cảnh lịch sử mỗi nước một khác, với những đặc thù kinh tế, văn hóa, tôn giáo, sắc tộc cũng khác nhau, nhưng đây là hai câu chuyện chuyển đổi thành công bằng đường lối ôn hòa và không bạo lực.

Trong khi Trung Quốc và Việt Nam đổi mới kinh tế khá thành công (với các mức độ khác nhau), nhưng không đổi mới chính trị, nên đất nước đang gặp rắc rối. Việc tham khảo các mô hình chuyển đổi như Miến Điện và Mông Cổ là cần thiết, để đổi mới thể chế, nhằm giải phóng và phát huy những tiềm năng của đất nước.

Người ta đã nói nhiều về Miến Điện như một bài học chuyển đối mà Việt Nam cần tham khảo. Những người dẫn dắt quá trình chuyển đổi ôn hòa tại Miến Điện đã thành công vì họ đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích riêng. Ông Then Sein (cựu tổng thống) và bà Aung San Suu Kyu (lãnh tụ đảng NLD) đã thay đổi lịch sử Miến Điện bằng hòa giải dân tộc, chuyển đổi nền độc tài quân sự thành thể chế dân chủ. Nhưng họ mới đi được nửa đường.

Nhiều người cho rằng Miến Điện đang có dấu hiệu bất ổn, vì bà Aung San Suu Kyi đã khẳng định “ở trên tổng thống” (trong vai trò “cố vấn nhà nước”). Người ta lo rằng hành động này làm xói mòn nền dân chủ mà chính bà chủ trương. Một số người lên án đảng NLD của bà đang lạc vào chủ nghĩa độc đoán. David Matieson (một chuyên gia về nhân quyền) nhận xét, “Văn hóa trong đảng rất không minh bạch và độc đoán…Nhiều đảng viên bị khoá miệng không được nói…Họ đang thật sự cố gắng để giữ kỉ luật đảng ở mức độ phi dân chủ.”

Trong khi đó, những người khác cho rằng bà Suu Kyi cũng chỉ là con người, và là một chính khách. Để làm một chính khách khác với đoạt giải Nobel, và hoạt động dân chủ. Không nên nhầm lẫn. Trong một cuộc phỏng vấn với CNN, bà Suu Kyu nói, “Tôi đã là một chính khách từ lâu… Tôi khởi đầu làm chính trị không phải như một người bảo vệ nhân quyền, hay một nhà hoạt động nhân đạo, mà là lãnh tụ của một đảng chính trị. Nếu đó không phải là chính khách thì tôi không hiểu thế nào mới là chính khách”.

Đây là những vật vã trong quá trình phát triển (growing pains), chứ không phải bế tắc tại ngã ba đường. Miến Điện đã thoát khỏi ngã ba đường và đang trên con đường dân chủ hóa và kiến tạo đất nước. Khó khăn, thử thách còn nhiều. Bà Suu Kyu không chỉ là một “ngọn đèn hi vọng” (như lời Tổng thống Obama), mà là một tổng thống (de facto).

Bên cạnh bài học Miến Điện, bài học Mông Cổ cũng đáng suy nghẫm. Một nước nghèo, lạc hậu, dân số ít, bị kìm kẹp giữa hai nước láng giềng khồng lồ, đã trỗi dậy và chuyển đổi ngoạn mục. Trong suốt bảy thập kỷ, Mông Cổ chưa hề biết đến tự do và dân chủ, bị chìm đắm trong bóng đen của nền độc tài. Nhưng người Mông Cổ đã dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, đồng hành với tự do dân chủ để tiến bước về phía tương lai của dân tộc.

Tsakhiagiin Elbegdorj (sinh 1963), là lãnh tụ của phong trào dân chủ Mông Cổ, được ca ngợi như là Thomas Jefferson của Mông Cổ. Khi từ Moscow trở về nước (năm 1989), hành trang của anh sinh viên 26 tuổi này không phải là tài liệu sách vở về CNXH học được tại trường đảng Moscow mà là những thay đổi từ chính sách Glasnost của Gorbachev. (Theo Trần Trung Đạo, “Dân cần minh bạch”, Danlambao.vn, 21/5/2016).

Elbegdorj tin rằng chỉ có dân chủ mới cứu được Mông Cổ. Trong bài phát biểu (28/11/1989), Elbegdorj đã nhấn mạnh, “Mông Cổ cần dân chủ và minh bạch…”  Mông Cổ phải chuyển đổi từ độc tài sang dân chủ bằng một cuộc cách mạng bất bạo động.

Cuộc biểu tình tuyệt thực đầu tiên ngày 10/12/1989 chỉ có 13 “tên phản động” (do Elbegdorj cầm đầu). Ngày nay người Mông Cổ gọi họ một cách kính trọng là “13 nhà dân chủ Mông Cổ đầu tiên”. Cuộc cách mạng dân chủ không làm rơi một giọt máu nào là do hầu hết 2.1 triệu dân Mông Cổ dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, trong số đó có Tổng Bí Thư Đảng Công sản Jambyn Batmönkh. Năm 1998, khi cách mạng thành công, Elbegdorj được bầu làm Thủ Tướng, và năm 2009 ông được bầu làm Tổng thống Cộng Hòa Mông Cổ.

Elbegdorj đã biến điều không thể thành có thể. Về đối nội, Mông Cổ từ bỏ chính sách “kinh tế kế hoạch hóa tập trung” theo mô hình Liên Xô cũ, và áp dụng chiến lược “hai chọn một”. Về đối ngoại, từ 1994, Mông Cổ theo phương châm “ngoại giao trong thế cân bằng về khoảng cách”.  Từ cuối thập niên 1990, Mông Cổ thực hiện chính sách “láng giềng thứ ba”, và đến năm 2015, đề xuất ý tưởng “nước trung lập vĩnh viễn”. Mông Cổ đã từng bước phá thế kìm kẹp địa chính trị để tạo ra bước nhảy vọt, mở rộng không gian sinh tồn cho mình.

Mông Cổ coi mối quan hệ cân bằng với Nga và Trung Quốc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong chính sách ngoại giao của mình. Tháng 8/2014, tại Ulan Bator, Mông Cổ và Trung Quốc đã ra tuyên bố chung về “xây dựng và phát triển mối quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện”. Đồng thời, ngoài Nga và Trung Quốc, Mông Cổ đã phát triển quan hệ hợp tác với các nước lớn khác như Mỹ, Nhật và Đức theo chính sách “láng giềng thứ ba”.

Vai trò của của Ulan Bator trong vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên cũng như mở rộng đối thoại đa phương đã giúp Mông Cổ có vai trò quan trọng trên thế giới. Mông Cổ đã dần trở thành cầu nối giữa Triều Tiên và các nước Đông Bắc Á, và đã tận dụng ưu thế này để trở thành nước hòa giải giữa Triều Tiên và Hàn Quốc. Mông Cổ đã đề xuất sáng kiến “Đối thoại Ulan Bator” nay trở thành diễn đàn đa phương quan trọng, bên cạnh vòng đàm phán 6 bên do Bắc Kinh khởi xướng. Khi Đàm phán 6 bên bị đình trệ thì “Đối thoại Ulan Bator” là kênh đàm phán hiệu quả nhất giữa Bình Nhưỡng với thế giới.

Nói tóm lại, Mông Cổ đã dũng cảm và khôn ngoan chuyển đổi thành công, mà vẫn giữ được độc lập chủ quyền, trong khi Việt Nam vẫn mắc kẹt tại ngã ba đường.

Thay lời kết: Lối thoát nào cho Việt Nam

Trong lịch sử gần đây, không có một chính thể độc tài nào (kể cả Miến Điện và Mông Cổ) lại tình nguyện từ bỏ độc quyền và độc tài, nếu không có đủ sức ép đòi đổi mới. Mọi chuyển đổi (dù ôn hòa và bất bạo động) đều phải từ dưới lên (bottom up), chứ không chỉ từ trên xuống (top down). Điều kiện thiết yếu là phải dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, để đưa dân tộc tiến tới tự do dân chủ (như Miến Điện và Mông Cổ).

Đặc điểm của những người không dám đoạn tuyệt với quá khứ là họ chỉ phê bình hiện tượng, nhưng tránh nhắc đến bản chất, chỉ nói đến hệ quả nhưng bỏ qua nguyên nhân, chỉ nói lên thực trạng xã hội mà không lý giải nguyên nhân nào dẫn đến thực trạng đó. Có lẽ hầu hết là sản phẩm của ý thức hệ đã thấm dần và ăn sâu vào tiềm thức thành thói quen tư duy. Họ thường  hoài nghi những thay đổi “không chính thống”, mà không hiểu rằng chế độ đã bị thao túng bởi các nhóm lợi ích bất minh như tư bản đỏ và xã hội đen.

Bị ngộ độc bởi ý thức hệ cực đoan, lòng tin gần như vô thức của nhiều người quen lệ thuộc vào cơ chế xin cho và ban phát. Nay dù ủng hộ tự do dân chủ, nhưng tâm thức và thói quen tư duy của họ vẫn chưa thoát khỏi ám ảnh về cực đoan và bạo lực, là hệ quả của chiến tranh. Mọi thay đổi đều có quy luật và phải trả giá. Đổi mới thể chế tại Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Phải từ bỏ cực đoan và bạo lực. Không thể thay thế độc quyền này bằng độc quyền khác. Muốn thoát Trung và thoát khỏi ngã ba đường, phải ra khỏi cái hang ý thức hệ. Einstein đã từng nói, “không thể giải quyết vấn đề bằng chính tư duy đã tạo ra vấn đề đó”.

NQD. 29/7/2016

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 29-7-16

Người ta đi kiếm giàu sang cả,

 “Người ta đi kiếm giàu sang cả,

Mình chỉ mơ hoài chuyện viển vông.

Em biết giàu sang đâu đến lượt,

Nợ đời nặng quá gỡ sao xong.”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

Mai Tá lược dịch.

Mơ hoài giàu sang, đâu có là chuyện viển vông! Viển-vông đời thường, là thái-độ loanh-quanh với ý-nghĩ thường-tình: “Người ta đi kiếm giàu sang cả”, hoặc“nợ đời nặng quá, gỡ sao xong.”

“Nợ đời giàu sang”, còn là chuyện Chúa nói qua Tin Mừng thánh Luca hôm nay. Thánh Luca đề-cập đến chủ-đề giàu sang, được Chúa dẫn-giải bằng một dụ-ngôn rất tinh-tế. Dụ-ngôn Chúa kể, là về những điều quan-trọng, trong cuộc đời. Quan trọng, khi Ngài nhấn mạnh đến sự khác-biệt giữa “ta là ai”? với “Ta có gì”?

Mở đầu trình thuật, là những ưu tư về phân chia gia tài mà người Do Thái thường hay trình lên vị tư tế, chánh thẩm. Nhưng vị Tư Tế hôm nay, không muốn dự phần vào các tranh giành/cãi vã có tính cách thế tục. Ngài nhắn nhủ: “Hãy coi chừng! mạng sống con người không được bảo đảm nhờ của cải đâu.” Chính vì lòng tham lam của cải, mà nhiều gia đình đã đổ vỡ. Vì, mải lo tranh chấp gia tài, mà nhiều anh em cùng nhà cứ xâu xé nhau. Xâu xé, là để giàu sang.

Giàu sang. Đó là mơ ước của nhiều người, ở đời. Giàu sang, là chiếc đũa thần giúp người người tạo nên những thứ họ muốn. Nhưng khi đã giàu sang, vẫn không phải là hết chuyện để ưu tư. Đây là ngộ nhận lớn, nơi quan niệm của người đời.

Người đời những tưởng: khi đã ổn định tài chánh, đã có nhà có cửa, có xe có tiền rồi, là có tất cả. Mọi sự coi như đã thành công. Thật sự, của cải tiền bạc tuy được coi là dấu hiệu của sự thành công; nhưng, đó vẫn chỉ là quan niệm của người đời, ở đời thường. Quan niệm của nhà Đạo, khác hẳn.

Bài đọc thứ nhất hôm nay, sách Giảng viên quả quyết: “Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân!” (Gv 1: 2). Ở bài đọc thứ hai, thánh Phaolô thêm:“Anh em hãy giết chết những gì thuộc về hạ giới: đam mê, ước muốn xấu và tham lam, thảy đều là ngẫu tượng”. (Cl 3: 5).

Và, ở trình thuật thánh Luca, Đức Kitô khuyên:“Hãy giữ mình khỏi mọi thứ tham lam; không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm, nhờ của cải đâu.” (Lc 12: 15).

Quả thật, khi khẳng định chân lý ấy, Đức Kitô không bắt mọi người phải chịu đau khổ. Ngài chỉ muốn nhắc: mọi người hãy tìm phương thức tốt nhất để tạo an toàn, hạnh phúc cho nhau. An toàn, để có cuộc sống ổn định. Cuộc sống có ý nghĩa đích thực. Nơi đó, mọi người trao cho nhau tình yêu thương, an bình. Mọi người san sẻ với nhau cũng một hạnh phúc chung. Hạnh phúc, chỉ có chỗ đứng, khi mọi người đều cùng hưởng. Hạnh phúc, phải được sẻ san cho nhau.

Với dụ ngôn hôm nay, ta lưu ý: truyện kể cho thấy có mỗi nhân vật chính, là nhà phú hộ. Ông cương quyết biến mình thành trung tâm của vũ trụ, nơi mình sống. Ông dồn tất cả tiền bạc của cải, gom lại để nuôi sống mỗi mình mình. Ông chỉ lo cho mình ông, thôi. Tất cả, chỉ để mình ông ung dung hưởng thụ. Chẳng bận tâm đến ai, chẳng cho ai, dù một xu lẻ.

Ở đây, Đức Kitô không phản đối chuyện ta có thể trở nên giàu sang, sung túc. Miễn là, sự giàu sang của ta không tạo bất công cho mọi người. Ở đây nữa, Đức Kitô muốn chứng minh cho con dân của Ngài thấy được, là: giàu sang – sung túc đích thực mới tồn tại dài lâu. Và, sự sung mãn hạnh phúc không nằm nơi của cải, tiền bạc. Mà, ở nơi khác. Của cải tiền bạc, chỉ tạo được hạnh phúc tạm bợ, chóng qua, những “nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã” (Lc 12: 20). Còn hạnh phúc đích thật, lại nằm ở nơi khác

Nhìn vào thực tế, chắc mọi người vẫn còn nhớ nhà tỷ phú Howard Hughes, hôm trước. Ông chết đi, bỏ lại đằng sau đến 2 tỷ Mỹ kim. Giàu sang sung mãn đấy. Nhưng vào cuối đời, ông vẫn sống trong hãi sợ, trộn lẫn với cô đơn.

Dù chuẩn bị trước mọi thứ, ông vẫn chết trong quên lãng, chết rất tủi hổ. Và khi chết, ông nào có khác người nghèo? Có khi lại không bằng người nghèo đang chết ở Calcutta. Người nghèo ở Calcutta, họ cũng chết. Nhưng, được chết trong vòng tay yêu thương của Mẹ Têrêxa. Và của các nữ tu hiền hoà, đầy yêu thương chăm sóc.

Mahatma Ghandi, một thời là luật sư trẻ nổi tiếng, có của. Nhưng ông không màng giàu sang, sung túc. Vẫn bỏ hết những gì mình có, chọn lựa cuộc sống giản đơn hơn, không vướng mắc những nào của cải vật chất. Vì thế khi chết đi, ông đã để lại cho hậu thế một di sản thật lớn. Di sản ấy, người giàu và sang như Howard Hughes không tìm thấy. Di sản ấy, chính là: tạo sự bình an hưng phấn cho nhiều người. Di sản ông để, là: biết quan tâm đến người cô thân, cô thế.

Hợp cùng trình thuật hôm nay, thánh Phaolô gợi lên một tư tưởng khác: “Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới.” (Cl 3: 2). Nghe thánh Phao-lô đề nghị, hẳn có người cho rằng: lời khuyên của thánh nhân thiếu phần thực tế. Nhưng, thánh nhân đâu có đề nghị ta hãy nhắm mắt làm ngơ trước thực tại, của trần thế. Thánh Phaolô chỉ khuyên: hãy hy vọng và hướng lòng vào Nước Trời. Hãy “cởi bỏ con người cũ, để mặc lấy người mới”. Con người được thay đổi theo hình ảnh Đấng Tối Cao. Hãy trỗi dậy với Đức Kitô. Để rồi, ta sẽ cùng Ngài hưởng phúc vinh quang, miên trường.

Cởi bỏ con người cũ, là bỏ đi các hành vi mang tính hủy diệt. Những tính hư nết xấu, như: gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu xa và tham lam, vị kỷ. Bởi, những thứ đó là “ngẫu tượng” là phàm tục. Cởi bỏ con người cũ, là bỏ đi tính ích kỷ, chỉ muốn thu vén cho riêng mình. Cởi bỏ người cũ, không phải là tự sát/tự hủy, nhưng mặc lấy những gì là mới mẻ. Mới mẻ, với giá trị thăng tiến, hướng thượng. Mới mẻ, trong nhận thức biết rõ mà định hướng cuộc đời. Định hướng, bao gồm một đổi thay toàn bộ con người mình. Thay đổi, để nên giống Đức Kitô hơn. Định hướng và đổi thay, để rồi sẽ lớn mạnh trong Đức Kitô và cùng với Đức Kitô vào với Nước Trời, ở trần gian.

Với Nước trời đầy tình người này, ta chẳng cần đến những an toàn bằng tài sản, hoặc kế thừa. Chẳng cần trúng độc đắc, số lô-tô. An toàn đích thực, chỉ có thể đạt được nếu ta chấp nhận là thành viên của cộng đoàn biết chăm nom, và đùm bọc. Chăm nom lẫn nhau. Đùm bọc bên nhau, thì Nước Trời chính là trạng thái sống đang diễn ra trong lòng Hội Thánh, ngay trước mắt.

Nước Trời hôm nay, bao gồm cuộc sống hòa mình với mọi người. Hòa mình với môi trường sinh sống, rất thân thương. Nước Trời đây, không có chỗ cho những kỳ thị, phân biệt. Nước Trời đây, không tách biệt Hy Lạp với Do Thái. Nước Trời đây, chẳng bao giờ rẽ chia giới cắt bì với phường ô uế, không chịu cắt. Nước Trời của Chúa, không ly cách kẻ man di, nô lệ với người tự do. Ở Nước trời của chúa, tất cả vẫn là chi thể cùng một Thân Mình, Đức Kitô yêu dấu ở với ta. Ngài là Tất cả. Ngài ở trong mọi người.

Hiệp-thông liên-kết với Đức Kitô, ta có tất cả. Có an-ninh, an-toàn và sự bình-an bên trong. An-bình trong kết-hợp với Chúa, đó là sự giàu sang, sung-túc, đáng được ta mơ ước. Ước mơ của tất cả mọi người. Giàu sang đích-thực, chính là thế. Giàu sang sung-mãn, không do của cải vật-chất cung-cấp. Nhưng, có được là nhờ biết xác-tín hiệp-thông, trong Nước Trời.

Trong hân-hoan xác-tín sự bình-an đang có ngay trước mắt, ta hân-hoan hiệp-thông với mọi người, hát lên lời ca sau đây:

“Nhịp sống thắm thiết vui,

Kìa ánh-sáng thắm tươi.

Bốn phương lừng vang cung đàn khắp nơi.”(Xuân Lôi/Nhật Bằng – Ánh Sáng Miền Nam)

 Vui thắm thiết. Sống hạnh-phúc vang lừng khắp nơi. Nơi, có Ánh sáng Nước Trời đã và đang hoà nhịp, thắm thiết. Vui, vì lâu nay ta vẫn giàu sang, sung-túc. Chẳng cần của cải vật-chất, nhưng vẫn sang. Sang và giàu, không là “chuyện viển-vông” hay “chưa đến lượt”. Nhưng, là sống đích-thực lời Ngài dặn-dò. Giàu sang, là sống theo lời Đức Kitô dặn. Chính đó, là giàu sang miên-trường. Giàu sang không hư-nát, nhưng rất bền nhiều phấn-khởi.

Lm Richard Leonard sj biên-soạn  –

Mai Tá lược dịch.

Ta yêu em lầm lỡ!

 “Ta yêu em lầm lỡ!”

Bây giờ đường nào đi!”
Em yêu ma quỷ dữ,

Đã đến gieo sầu bi
Em là cây cỏ úa,

Em đến gieo buồn thương!

(Trịnh Công Sơn – Ta Yêu Em Lầm Lỡ)

Video Ta Yêu Em Lầm Lỡ:

httpv://www.youtube.com/watch?v=s-wjz3LclA0

(Công Vụ 20: 7)

 Trần Ngọc Mười Hai

Đã yêu Em, sao còn nói chữ “lầm lỡ”? Đã lỡ-lầm, sao còn thấy mình vẫn cứ yêu? Yêu hay không, vẫn là nét diễm-kiều tràn đầy do tình-thương đem đến. Dù, tình đó có là tình người, tình bạn hoặc tình nhân-thế, rất dễ yêu.

Yêu lầm lỡ”, lại vẫn được nghệ-sĩ hát lên bằng cả hơi thở có những lời lẽ rất như sau:

“Ta cho em tất cả.
Hỡi nụ hôn tình đầu!
Bây giờ tình tan vỡ.
Ta còn lại thương đau.

Ta yêu em lầm lỡ.
Ôm vòng tay dại khờ.
Em là loài hoang thú
Ta vất vả tinh khôn.
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Yêu lầm lỡ, cũng có thể lầm và lỡ thế nào đi nữa, hãy cùng nhau hát tiếp ca-từ tuyệt-vời, như sau:

“Loài phù hoa mắt mờ.
Bạc vàng phấn son mơ.
Nơi mộ hoang lạc thú.
Em bước hỏng lửng lơ.

Ôi! chông gai đầy lối,
Cất bước đi về đâu?
Một lần ta lầm lỡ,
Trăm đường còn sầu đau!
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Ôi! Chông gai đầy lối, đó là tình-tự của người đời, ở với đời. Và, tình người đi Đạo có bao giờ “lầm lỡ” với Đức Chúa-là-Tình-Yêu theo kiểu-cách của nhà Đạo chứ? Và, một trong các kiểu cách mà người nhà Đạo vẫn diễn-tả bằng hình-thức/phong-cách được đấng bậc đưa ra, qua hỏi/đáp sau đây:

Thưa Cha, con không hiểu tại sao các Chủ-nhật là ngày của Chúa, mà lại được Giáo-hội cử-hành/mừng kính long-trọng vào Chủ-nhật, thay vì thứ Bẩy tức ngày Sabát, của người Do-thái vậy? Xin Cha cho con một giải-thích thoả-đáng để con còn biết được mà trả lời của bạn bè của con ở các nơi cứ hỏi hoài hỏi mãi mà chẳng biết nói làm sao, đây. Cảm ơn cha rất nhiều.”

 Thế đó, là câu hỏi của nữ giáo-dân mộ-đạo chuyên-chăm chuyện nhà thờ/nhà thánh, mới hỏi han những điều như thế. Chứ, người thường làm gì có thì-giờ mà hỏi-han/vấn nạn, mất thời-gian.

Thế nhưng, có là thắc-mắc hay vấn-nạn từ đâu đó, ngắn gọn hay dài giòng, nay vẫn cứ mời bạn/mời tôi, ta đi vào giòng diễn-giải có lời lẽ đạo mạo và đạo-đức như sau:

“Câu hỏi anh/chị đưa ra, hẳn đã qui về điều thứ 3 trong 10 điều răn có ghi rõ ở sách Xuất-hành, cứ nói rằng:

 Trong sáu ngày,

người ta sẽ làm việc,

nhưng ngày thứ bảy là một ngày sabát,

một ngày nghỉ hoàn toàn, dâng Đức Chúa:

kẻ nào làm việc trong ngày sabát

sẽ bị xử tử.”

(Xh 31: 15)

 Điều thứ 3 lại đã ghi: “Nhớ tuân-giữ các ngày lễ buộc!” như đã dặn. Với người Do-thái-giáo, thì: ngày Sabát là ngày thứ bẩy trong tuần, tức: ngày dành riêng để ta nghỉ-ngơi, tĩnh-dưỡng như Giavê Thiên-Chúa đã giải thích rõ ở Cựu Ước.

 Ngõ hầu nắm rõ lý-do của việc này, ta cũng nên trở về với công-cuộc tạo-dựng trời đất có ghi ở sách Sáng Thế Ký, như sau:

 Ngày thứ bảy,

Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người làm.

Khi làm xong mọi công việc của Ngài,

ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi.

Thiên Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó,

vì ngày đó Ngài đã nghỉ,

ngưng làm mọi công việc sáng tạo của Ngài.”

(Sáng Thế Ký 2: 2-3)

 Về câu hỏi: kể từ lúc nào Đạo Chúa của ta dời một ngày để nghỉ-ngơi phụng thờ Thiên-Chúa vào Chủ nhật, thế? Sự việc này, xảy ra gần như tức khắc, cách tự phát. Sách Công Vụ Tông Đồ được viết vào thập-niên 70 thế-kỷ đầu, có nói rõ, là:

 “Ngày thứ nhất trong tuần,

chúng tôi họp nhau để bẻ bánh.

Ông Phaolô thảo-luận với các anh em,

và vì hôm sau ông ra đi,

nên ông đã kéo dài cuộc nói chuyện đến nửa đêm.”

(Cv 20: 7)

 Nói cho cùng, thì: với thời xưa, ngày đầu tuần chính là ngày Chủ-nhật và việc cử-hành nghi-thức bẻ bánh, hay Tiệc Thánh-Thể hoặc lễ Misa, cũng đều thế. Sách Điđakê xuất-hiện khoảng cuối thế-kỷ thứ nhất, cũng có nói: “Vào các ngày của Chúa, hãy tụ-tập nhau lại mà bẻ bánh và cảm-tạ Chúa.” (Didache 14: 1a). Đó, là lần đầu tiên Giáo-hội dùng cụm từ “Ngày của Chúa” để chỉ về ngày Chúa-nhật.         

 Kitô-hữu thời tiên-khởi, cũng đã tụ-tập vào các ngày Chúa-nhật để cử-hành Tiệc Thánh như thế. Nhưng lúc đầu, nhiều vị trong Giáo-hội cũng vẫn tiếp-tục đến với hội-đường Do-thái-giáo vào ngày thứ Bẩy như dạo trước. Tông-thư “Dies Domini” (tức: “Ngày của Chúa”) viết năm 1998, rõ rang thánh Gioan Phaolô đệ Nhị có nói: “Các thánh tông-đồ và đặc-biệt là thánh Phaolô lúc đầu cũng tiếp-tục đến hội-đường để rao-giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô bằng và bàn-luận ‘lời các ngôn-sứ đọc vào ngày Sabát’ (Cv 13: 27).

 Một số cộng-đoàn khi trước cũng giữ ngày Sabát cùng với việc cử-hành thánh-lễ Chúa nhật. Tuy nhiên, không lâu sau đó, một số vị đã tách-bạch hai ngày này rõ ràng hơn, phần lớn là để phản-ứng với Kitô-hữu khi trước theo Do-thái-giáo, vẫn nhất-định duy-trì việc giữ luật buộc ở thời trước.” (Điđakê đoạn 23)

Lý-do chính khiến ta tụ-tập ngày Chúa-nhật và gọi đó là “Ngày của Chúa”, là vì: ngày ấy, Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết vào đầu tuần (Ga 20: 1). Cũng hệt thế, lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống vào ngày Ngũ Tuần lại cũng được mừng kính vào Chúa-nhật, rất trọng-thể. Tuy nhiên, tín-hữu thời tiên-khởi còn đi xa hơn bằng cách kết-hợp ngày đầu tuần vào với ngày thứ nhất khi Thiên-Chúa tạo dựng trời đất muôn vật.

 Thánh Gioan Phaolô đệ Nhị lại cũng bảo: “Suy-nghĩ của Kitô hữu chúng ta luôn nối-kết cách hài-hoà với Phục Sinh xảy đến vào đầu tuần”, cùng với ngày thứ nhất trong chuỗi ngày Chúa tạo-dựng trời đất. (Stk 1: 2 – 2:4). Nối kết này, giúp ta hiểu Phục Sinh như một khởi-đầu tạo-dựng xem đó như hoa quả đầu mùa là Đức Kitô quang-vinh mà thánh Phaolô tông-đồ gọi Ngài là “Trưởng-tử sinh trước mọi loài thọ-tạo” (Côlôsê 1: 15) và “Trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại” (Côlôsê 1: 18; Điđakê 24). Điều đáng kể, là như thể ánh-sáng được tạo-thành ngay từ ngày đầu, và Đức Kitô là “ánh-sáng thế-gian” (Gioan 8: 12)…

Vào giữa thế-kỷ thứ hai, thánh Justinô đã sử-dụng chủ-đề này để luận-bình về ý-nghĩa ngày đầu trong tuần được định-danh theo sau mặt trời ở tiếng La-tinh, khi bảo rằng: “Chúng ta tụ-tập nơi đây vào ngày mặt trời, bởi lẽ đó là ngày đầu-tiên [tiếp theo sau ngày Sa-bát ở Do-thái-giáo, nhưng đây cũng là ngày đầu-tiên] khi ấy Giavê Thiên-Chúa phân-định sự vật khỏi tối-tăm bao trùm, tạo-thành vũ-trụ vạn-vật; và cũng vào ngày này Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu-Chuộc chúng ta khỏi cõi chết” (1 Apol. #67).

Tín-hữu thời tiên-khởi qui về Đức Kitô là “mặt trời công-chính” và vì thế mới ăn-khớp với những điều mà các vị ấy muốn vinh-danh Ngài vào ngày này hơn việc phụng-thờ mặt trời như dân ngoại vẫn làm.

 Thế nhưng, Chúa-nhật lại cũng là ngày thứ tám và ta gọi được thế là để nhắc đến ngày tháng không có kết-thúc, tức cuộc sống miên-trường ở chốn vĩnh-cửu nghỉ-ngơi mãi với Chúa. Thánh Âu-tinh viết trong cuốn “Lời xưng-thú” có xin Chúa ban cho chúng ta “sự an-bình lặng-thinh, tức sự hài-hoà của ngày Sa-bát, một hài-hoà không có chiều tà nào hết” (Lời Xưng thú đoạn 13, câu 50).

 Thánh Gioan Phaolô đệ Nhị trích lời thánh Basil có giải-thích rằng: “Chúa-nhật quả thật tượng-trưng cho ngày độc-nhất vốn dĩ theo sau thời hiện-tại, là ngày không có kết-đoạn cũng chẳng có buổi sáng hoặc buổi chiều gì hết, là thời bất-tử không bịết đến già-nua, lãi hoá bao giờ. Chúa-nhật là ngày báo trước không ngừng sự sống không có đoạn-kết vốn dĩ canh-tân niềm hy-vọng của các tín-hữu đi theo Đức Kitô và khích-lệ họ trên đường họ vẫn đang đi. (x. On the Holy Spirit đoạn 27 câu 66, Điđakê #26)     

        Xem thế thì, Chúa-nhật là ngày ta cử-hành mừng-kính Phục-sinh vào mỗi tuần, tức “Ngày của mọi ngày” và như thế mới có ý-nghĩa quan-trọng với sự sống của mọi người.” (Lm John Flader, Why is the Lord’s Day celebrated on Sunday instead of Saturday, The Catholic Weekly 17/4/2016, Question Time, tr. 18)                     

   Nói gì thì nói, tham-dự Tiệc Thánh Lòng Mến ngày Sabát hay đầu tuần, tức Chủ-nhật, được nhiều người hiểu: đây là thời-gian đẹp nhất để ta và mọi người cùng nhau nguyện-cầu cùng Chúa Cha. Bởi, Tiệc thánh Lòng Mến có nghi-thức để ta và người cùng đọc câu kinh “Lạy Cha” đầy ý-nghĩa do Đức Giêsu dạy.

Nguyện cầu ở Tiệc thánh, còn là và vẫn là cách nguyện và cầu như nhận-định của đấng bậc từng nói ở bài giảng bên dưới:

“Khi dạy dân con đồ đệ biết cách mà nguyện cầu cho đích đáng, Đức Kitô nhắc mọi người, một chân lý. Chân lý ấy, tóm gọn nơi lời khuyên: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho.” Và: “Ai trong anh em là người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó ư?” (Lc 9-10)

 Thoạt nghe, tưởng chừng như có nghịch lý, khác thường ở lời Ngài. Nếu Thiên Chúa Cha trên trời chăm lo cho ta đủ mọi điều, thì tại sao ta lại cứ liên tục xin-xỏ mãi như thế? Cầu nguyện, như Đức Kitô dạy, không phải cứ lải-nhải như dân ngoại. Hẳn mọi người đều nắm vững được rằng: Cha chỉ phú-ban những gì ta cần, chứ không phải những gì ta muốn hoặc ưa-thích. Bởi, những gì mọi người ưa thích, chỉ là ưa và thích những là vật-chất tạm bợ, gồm tóm cho riêng mình, thôi.

 Cách hay nhất để nguyện cầu, là: hãy tìm-hiểu xem mình đang ở vị-trí nào trong tương-quan với Chúa. Với mọi người và với thế-giới ở quanh ta. Liên lỉ nguyện cầu -nhưng không phải là cứ ê a sớm tối-  nhưng là giúp ta định ra được những gì mình cần có và cần làm.

 Và, liên lỉ nguyện cầu, còn giúp ta biết lọc-lựa, cả lời kinh. Việc nguyện cầu, giúp ta làm sang-tỏ giá-trị nội-tại cũng như niềm hy-vọng mình đang có. Có nguyện-cầu như thế, ta mới chú-tâm đến những gì mình thật cần, để được cứu. Nguyện-cầu, là cầu và mong Chúa thực-hiện điều Ngài muốn ta làm theo ý Ngài.

 Nói tóm lại, mục-đích tối-hậu của việc nguyện-cầu, là biết đầm mình trong tương-quan với Chúa, với mọi người quanh ta. Đi vào với tiệc long-mến hôm nay, ta sẽ cùng với người anh/người chị trong Hội thánh, cứ chung-vai sát-cánh mà nguyện-cầu cho mọi người sẽ mãi mãi ở lại trong tương-quan với Cha. Để rồi, cùng với Đức Kitô, ta sẽ thực-hiện thánh-ý Cha trong mọi hoàn-cảnh của đời thường.” (X. Lm Richard Leonard sj, Suy Tư Tin Mừng tuần thứ 17 thường niên năm c,www.suyniemloingai.blogspot.com 17/7/2016)

Nói gì thì nói, có tham-dự phụng-vụ Tiệc Thánh ngày Sabát hoặc ngày-của-Chúa tức Chủ-nhật, cũng là để cùng nhau tôn-dương cảm-tạ Thiên-Chúa-là-Tình-Yêuqua và bằng hành-động cụ-thể biến yêu-thương thành hiện-thực.

Nói gì thì nói, nói chuyện tu-đức hoặc giáo-lý niềm-tin là nói như thế. Nói, về tình-thương-yêu đùm bọc trên thực-tế cuộc đời, còn là và mãi mãi là: nói theo truyện kể để dễ nhớ. Nói, như kể cho nhau nghe đôi ba câu truyện đại để cũng dễ nhớ, mà người kể truyện đã đặt tiêu-đề là “Không nên so-sánh”, như sau:

“Trong cuộc sống không nên so sánh, một người lái chiếc xe Mercedes-Benz giá 4 tỷ, nhưng họ có thể vay ngân hàng tới 20 tỷ, cuộc sống của họ thực sự đang rất khốn đốn.

 Một người đi chiếc xe Volkswagen 500 triệu, nhưng họ có thể đang nợ ngân hàng tới 2 tỷ đồng, cũng đang ở trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng.

 Một người đi chiếc xe đạp điện 6 triệu, nhưng họ vẫn có 60 triệu gửi ngân hàng. Họ sống một cuộc sống an nhàn.

 Lúc 3 người gặp nhau ở trên đường, người đi xe đạp điện ngưỡng mộ người lái xe Volkswagen, người lái xe Volkswagen ngưỡng mộ người lái xe Mercedes-Benz, người lái xe Mercedes-Benz lại mong muốn có được cuộc sống như người đi xe đạp điện.

 Đây chính là thực tại trong xã hội, ai cũng có thể trở thành nô lệ của đồng tiền, nô lệ của cuộc sống!

Mèo thích ăn cá, nhưng mèo lại không biết bơi. Cá thích ăn giun, nhưng cá lại không thể lên bờ. Thượng đế mang đến cho bạn rất nhiều thứ hấp dẫn, nhưng lại không cho bạn dễ dàng đạt được nó.

 Nhưng, cũng không thể cứ đổ máu thì kêu đau, sợ tối thì bật điện, nhớ nhung thì liên lạc, ngày hôm nay với bạn là chuyện lớn, nhưng có thể ngày hôm sau lại là chuyện nhỏ. Cuộc đời giống như cây bồ công anh, nhìn có vẻ tự do, nhưng kỳ thực lại là thân bất do kỷ.

Có những chuyện không phải là không thèm lưu tâm, mà là có lưu tâm cũng chẳng làm được gì. Chỉ biết dốc toàn lực của mình để ứng phó là được, cuộc đời không có nếu, chỉ có hậu quả và kết quả …

Đời là bể khổ, bây giờ bạn không khổ, sau này sẽ càng khổ!

Vạn sự tương sinh tương khắc, không có lên thì không có xuống, không có thấp thì không có cao, không có đắng thì không có ngọt.

Chỉ khi biết thế nào là mệt mỏi, thì mới cảm nhận được thế nào là an nhàn; nếm qua cay đắng thì mới biết thế nào là ngọt bùi. Nhân lúc đang còn trẻ, dũng cảm bước đi, nghênh đón phong sương gió mưa, tôi luyện bản thân, có thể độ lượng, có thể nhìn xa trông rộng, thì hạnh phúc mới đến.

Trên thế giới này ngoại trừ bạn ra, thì không có ai có thể thực sự giúp đỡ bạn, nếu có giúp thì cũng chỉ là tạm thời. Rất nhiều người đã từng nếm thử “trứng luộc trong nước trà”, vỏ trứng nứt càng nhiều, thì trứng ăn càng ngon miệng.

 Tương tự như vậy, trong cuộc sống trải nhiệm càng nhiều, trắc trở càng nhiều thì sẽ càng có hương vị. Trứng gà bị vỡ do tác động từ bên ngoài là đồ ăn, bị vỡ do tác động từ bên trong thì chính là sinh mệnh. Cuộc sống cũng vậy, làm vỡ từ bên ngoài là áp lực, làm vỡ từ bên trong chính là trưởng thành.

Nếu bạn chờ người khác làm vỡ bạn từ bên ngoài, thì nhất định bạn sẽ là món ăn của người khác; nếu bạn có thể đánh vỡ chính mình từ bên trong, như vậy bạn sẽ thấy rằng mình đã thực sự trưởng thành, cũng giống như là được tái sinh.

Nhìn thấy con bướm đang giãy-giụa muốn thoát ra khỏi cái kén, có người hảo-tâm giúp nó thoát ra. Nhưng không ngờ rằng, sau khi con bướm thoát ra ngoài, nó lại không thể duỗi đôi cánh ra được, và cuối cùng thiệt-mạng.

Giãy-giụa chính là điều con bướm cần làm để trưởng-thành, lúc đó bạn giúp nó thoải-mái, nhưng sau này nó sẽ không có đủ sức mạnh để đối mặt với những thử-thách sẽ phải gặp trong cuộc đời.

Nếu bạn muốn hóa-thân thành con bướm, thì bạn phải chịu-đựng được nỗi khổ của quá-trình giãy-giụa ở trong kén, vậy thì mới có thể dang cánh bay cao được.

Trong cả cuộc đời, bạn phải tôn-trọng bao nhiêu người, thì sẽ có bấy nhiêu người tôn-trọng bạn.
Bạn tin-tưởng bao nhiêu người thì sẽ có bấy nhiêu người tin-tưởng bạn.

 Bạn có thể giúp bao nhiêu người thành-công, thì sẽ có bấy nhiêu người giúp bạn thành-công!
Trên thế-giới này, người giàu có nhất, thường là người vấp ngã nhiều nhất. Người có thể thành-công là người mỗi lần vấp ngã, không chỉ có thể đứng dậy, mà vẫn có thể kiên-trì tiếp-tục bước đi. 
(Nguồn: Sưu tầm)

Truyện kể trên, có thể không xứng với chủ-đề bạn và tôi, ta bàn chuyện nhà Đạo ở nhiều nơi dù nhiều người không đồng ý như thế. Nhưng, đã là truyện kể không để minh-hoạ cho điều mình cố ý nêu ra, đôi khi chỉ là cơ-hội để ta nhìn vào cuộc sống có nhiều ý-nghĩa; của những suy-tư vớ-vẩn chẳng ăn-nhập chuyện gì, nhưng dễ nhớ và dễ hiểu hơn chuyện nhà Đạo.

Nói gì thì nói, nói mọi chuyện bằng truyện kể và thơ/văn-âm/nhạc vẫn thích hơn là nói bằng những biện-luận có mở đề, phản-đề và tổng-đề, như một triết-thuyết không-kịp-sống thực trước đã, mà chỉ kịp nói lý và luận bàn cùng minh-định như thế rồi, nay ta cùng nhau quay về lại với nhạc-bản ở trên, mà hát những câu thêm-thắt, rất như sau:

Ta yêu em vất vả,
Ôi! lần cuối lần đầu.
Em là cành gai sắc,
Cho thịt nát xương đau.

Yêu em nên mất cả,
Vỡ nụ hôn tình đầu.
Yêu là sầu chất-chứa,
Yêu còn được là bao?

Người ngoảnh lưng giấu mặt,
Cuộc đời mới đi xây.
Đi van xin hạnh phúc,
Nô lệ nào rủi may.

Ta thương em nhỏ bé,
Với giấc mơ bạc vàng.
Em là cây cỏ úa,
Ta là loài ma hoang.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Nói gì thì nói, nói bằng thi-ca/âm-nhạc hoặc bằng luận-lý/biện-luận chi bằng ta đi vào vườn hoa Lời Vàng có những dặn dò như sau:

Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia.

Ngài cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Ngài:

‘Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu-nguyện,

cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông.’

Ngài bảo các ông:

‘Khi cầu nguyện, anh em hãy nói:
‘Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển,
Triều Đại Cha mau đến…”
(Lc 11: 1-4)

Và tiếp theo đó, Ngài còn dặn thêm:

“Thế nên Thầy bảo anh em:

anh em cứ xin thì sẽ được,

cứ tìm thì sẽ thấy,

cứ gõ cửa thì sẽ mở cho.

Vì hễ ai xin thì nhận được,

ai tìm thì thấy,

ai gõ cửa thì sẽ mở cho.”

(Lc 11: 9-10)

Xem thế thì, có cầu-nguyện hay cầu xin điều gì đi nữa, cũng hãy cùng nhau làm việc ấy trong yêu-thương giùm giúp, hết mọi người.

Trần Ngọc Mười Hai

Nhiều lúc vẫn nhủ lòng mình

luôn phải như thế để còn thương.

Thương người, thương ta,

thương cả-và-thế-gian

hết mọi người.

NIỀM TIN CỦA CON ĐÃ CỨU CON

NIỀM TIN CỦA CON ĐÃ CỨU CON

Tác giả:  Huệ Minh

Trang Tin Mừng hôm nay cho ta thấy tiến trình niềm tin của Mácta. Từ việc coi Đức Giêsu như một ngôn sứ đến việc tuyên xưng Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa.

Qua việc cho Ladarô sống lại, Chúa Giêsu dẫn đưa Mácta tiến sâu vào con đường đức tin, giúp cho cô vững tin Ngài chính “là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (c.27). Đối với Mácta, niềm vui này còn lớn hơn niềm vui tìm lại được người em đã chết, bởi vì niềm tin ấy đưa cô đến sự sống đời đời: “Ai tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (c.26).

Tin vào con người Đức Kitô thì cũng đồng thời là tin vào Lời của Ngài, bởi vì Ngài chính là Ngôi Lời (Ga 1, 1), và Lời Ngài là Lời hằng sống, Lời đem lại sự sống đời đời (Ga 6, 68). Và ta thấy Chúa Giêsu mạc khải chính Ngài là mục tử đem lại sự sống dồi dào cho dân. Điều kiện để đón nhận là ai sống và tin vào Thầy.

Sau khi mạc khải Ngài là sự sống lại và là sự sống. Chúa Giêsu hỏi Mácta có xác tín vào điều đó không. Mácta với câu trả lời rất xác quyết: “con vẫn tin”. “Con vẫn tin” nghĩa là trước đây con đã tin, hiện giờ con luôn tin và sau này lòng tin của con vào Thầy vẫn không thay đổi.

Giữa cơn thử thách lớn lao, Mácta đã gặp Đức Kitô, và lời Ngài đã vực chị dậy để chị đứng vững trong niềm tin. Ta đã làm gì khi gặp thử thách trong đời sống, trong đức tin?

Thật vậy, khi gặp thử thách mới thấy niềm tin của mình như thế nào! Ta hãy cùng bạn bè, người thân chia sẻ kinh nghiệm cá nhân khi đối diện thử thách, dựa vào  gương của Mácta trong câu truyện Tin Mừng hôm nay, và hãy khích lệ nhau vững tin vào Chúa hơn.

Quả thật Mácta biết Chúa, tin Chúa và yêu Chúa bằng tất cả tấm lòng yêu mến hết tình, tin tưởng và phó thác trọn vẹn. Cả trong những lúc buồn bã nhất như tình cảnh vừa mất một người thân, thì Mácta vẫn biết, vẫn tin và vẫn một lòng yêu mến tín thác vào tình thương của Thầy Giêsu. Cuộc đối thoại rất thân tình chứng tỏ mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và gia đình Bêtania rất keo sơn. Cuộc sống thường ngày của chúng ta, chúng ta đã gắn bó với Chúa ở mức độ nào ?

Khi người em là Ladarô chết, Mácta và Maria buồn sầu báo tin cho Chúa Giêsu. Giữa những đau khổ thử thách đó, Mácta vẫn giữ được bình tĩnh. Mácta đã thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy”. Dù rằng em cô là Ladarô đã chết, Mácta vẫn tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu cách tuyệt đối: “Thưa Thầy: vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”. (Ga 11, 27).

Ta biết mục đích chính và là cùng đích ơn cứu độ Chúa Giêsu thực hiện cho loài người, là Ngài làm cho ai tin theo và kết hợp nên một với Ngài, thì dù họ có chết cách nào, chết bao lâu, Ngài cũng làm cho người ấy được sống lại vinh hiển trong Ngài. Thế mà suốt đời phục vụ của Chúa Giêsu, rất nhiều người chứng kiến những phép lạ Ngài làm, nhưng dưới ngòi bút của thánh sử Gioan, chưa từng có ai tuyên xưng Đức Tin vào Đức Giêsu như chị Mácta : “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. Vì vậy “nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết” (Ga 11, 24.32). Và Chúa Giêsu đã từng nói : “Đức Tin của con đã cứu con”  (Mc 5,34 ; Lc 7,50).

Thật thế, “người công chính sống bởi Đức Tin” (Rm 1,17), và “đức Mến làm cho con người tồn tại” (1Cr 13,13c). Anh Laladô được sống lại là nêu giá trị Tín Điều Các Thánh Cùng Thông Công.

Không phải chỉ thông công với Đức Tin và lòng Mến của các thánh, mà nhất là còn được thông công với lòng Mến của Thiên Chúa. Thánh Gioan nói về tình yêu của Thiên Chúa như thế này : “Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ.

Nếu ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong ta, và tình yêu của Người nơi ta mới nên hoàn hảo.

Phần chúng tôi, chúng tôi đã chiêm ngưỡng và làm chứng rằng: Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng cứu độ thế gian. Hễ ai tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Thiên Chúa ở lại trong người ấy và người ấy ở lại trong Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa,và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga 4, 7-16).

Vậy chính nhờ Đức Tin của chị Mácta mà Chúa Giêsu đã làm cho Ladarô, em chị được sống lại.

Chúa là sự sống lại và là sự sống, Ngài luôn hiện diện bên cạnh chúng ta. Ngài mong ước trao ban cho ta sự sống và tình yêu của Ngài. Để mỗi người chúng ta được sống và sống dồi dào. Thử hỏi ta có tin và sẵn sàng đón nhận ? Để sự sống của Ngài được lớn mãi trong ta và tình yêu của Ngài được lan tỏa đến tha nhân.

Với niềm tin của Mácta, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho Lagiarô sống lại sau khi chôn cất trong mồ đã bốn ngày.

Mừng lễ thánh nữ Mácta hôm nay, theo gương thánh nữ Mácta, ta sống đức tin mạnh mẽ giữa những cơn thử thách của cuộc sống. Nhờ đó, ta cố gắng vượt qua những thử thách hiện tại và hướng đến sự phục sinh vinh quang với Chúa Kitô.

Tác giả:  Huệ Minh

“BẠN ANH ĐÓ ĐANG SAY NGỦ YÊN…”

“BẠN ANH ĐÓ ĐANG SAY NGỦ YÊN…”

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

Tri’ch EPHATA 704

QUANG TRI

Tôi theo những anh em trong lãnh vực Mỹ Thuật đến thăm Cổ Thành Đinh Công Tráng, tỉnh Quảng Trị, vào những ngày hè nóng bức tháng 7 năm 2016. Ở đây đang có trại sáng tác các tác phẩm mỹ thuật của ngành điêu khắc. Cuộc triển lãm được đặt tên: “Bất tử và Hồi sinh”. Nói đến Cổ Thành Đinh Công Tráng tỉnh Quảng Trị hay còn gọi tắt là Cổ Thành Quảng Trị là gợi về một nỗi đau của dân tộc Việt Nam, nơi đây vào những ngày đầu năm 1972, kéo dài cho đến mùa thu năm ấy, cuộc chiến khốc liệt giữa hai miền Nam Bắc đã tàn phá biết bao cuộc đời những thanh niên trai tráng khỏe mạnh, dũng cảm đang tuổi xuân tràn đầy sự sống. Không chỉ gây ra những cái chết đau thương, chiến tranh còn để lại những di lụy trên những người què cụt trở về và một miền đất ngập tràn bom đạn.

Ngoài những người lính của hai miền, bao nhiêu đồng bào vô tội đã chết thảm dưới vì chiến tranh, bao nhiêu tài sản, nhà cửa bị tàn phá… 44 năm qua rồi, nhiều chứng từ đã được công bố, nhiều bài viết đã ghi lại cuộc chiến tàn khốc này, chỉ cần vào trang Google gõ những chữ liên quan như: Cổ Thành Quảng Trị, Mùa Hè Đỏ Lửa… sẽ gặp hàng trăm bài viết, hàng trăm hình ảnh về biến cố đau thương của miền đất dân gầy quê hương ta. Ngay cửa chính vào Cố Thành, một đống đá gạch vụn nát còn lại phía bên phải như một chứng tích duy nhất về một cổ thành một thời lừng danh với người anh hùng yêu nước Đinh Công Tráng, tất cả đã được xây dựng lại, xòa đi những vết tích chiến tranh, vết tích của một trận chiến dài ngày đến nỗi không còn một hòn đá nào trên hòn đá nào.  Qua cửa chính, khách viếng thăm không khỏi xúc động trước câu thơ được in trên một tảng đá:

Nhẹ bước chân và nói khẽ thôi,

Cho đồng đội tôi nằm yên dưới cỏ,

Trời Quảng Trị trong xanh và lộng gió,

Ru mãi bài ca Bất Tử đến vô cùng.

( Phạm Đình Lân )

Quả thật người ta đã để lại rất nhiều  đồng  đội “nằm yên dưới cỏ”. Những người đang thực hiện những tác phẩm dự triển lãm chỉ cho chúng tôi một tác phẩm

điêu khắc nằm ở giửa khu vườn bên phải cửa vào, họ nói, khi đào móng để làm bệ tượng, chúng tôi gặp một bộ cốt nằm dưới đất. Tôi hỏi kỹ về bộ cốt này với những câu hỏi như có thấy thẻ bài không, có thấy đôi giầy còn không, có thấy dây đeo vật dụng quân trang bên hông không… Tất cả là không, không một dấu vết nào về bộ

cốt “nằm yên dưới cỏ”. ( Ảnh chụp một người lính VNCH quỳ cầu nguyện giữa đống đổ nát của Vương Cung Thánh Đường La Vang, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 ).

Có bao nhiêu bộ cốt không vết tích còn “nằm yên dưới cỏ” ở nơi “trời trong xanh và lộng gió” này ? Bao nhiêu gia đình 44 năm nay ra vào thương nhớ người con thân yêu ? Bao nhiêu người con gái cuộc đời xoay hướng khác vẫn còn thầm nhớ về người bạn trai năm xưa ra đi không trở về ? Không một dấu vết !

Dạo quanh một vòng các tác phẩm điêu khắc người ta nhận ra ngay sự đơn điệu đến trơ trẽn của một thể loại được kể là nghệ thuật đương đại trong trại gọi là trại sáng tác này. Hơn một nửa nội dung các sản phẩm chúng ta đã gặp thấy ở bất cứ cuộc triển lãm nào về điêu khắc hoặc hội họa. Cũng nón tai bèo, cũng chiến sĩ khăn rằn cầm súng ra trận, cũng bà mẹ liệt sĩ đứng ngẩn ngơ, cũng liên minh công nông… Về ngôn ngữ và bút pháp có thể nói các sản phẩm cùng một thể loại, không cái nào khác đột phá ra ngoài những đường nét hao hao từa tựa nhau như các sản phẩm cùng một lò thủ công nghiệp. Thô thiển hơn nữa là các bệ đặt sản phẩm đươc xây như nhau, cái nào cũng trên bệ cao 1 mét ! Nói cho công bằng thì cũng tìm được một vài tác phẩm xem ra đỡ làm khách thăm viếng mỏi mắt, nhưng còn lên thì đầy dẫy những hạt sạn khó nhai, làm ê cứng răng khách thưởng ngoạn.

Tôi được biết các tác phẩm dự trại gởi mẫu phác thảo đến, có một đơn vị nhận thầu mọi chuyện từ đầu đến cuối, tác giả chỉ cần ra để mài dũa một chút và làm công việc đề tên mình, dĩ nhiên kinh phí do ngân sách đài thọ được chia đúng quy trình.

Chúa Nhật 18 Thường Niên năm C, bài đọc 1 trích trong sách Giảng Viên. Tác giả Kinh Thánh nhắc chúng ta về sự chọn lựa khôn ngoan trong cuộc sống, chạy đua theo những lý tuyết phù du gây tổn hại cho bao người, tan nát bao gia đình, tổn thương bao tâm hồn, chính là tự phá tan tương lai đời đời mình. Tàn ác trong hành xử để gây dựng cơ đồ hiện tại, hưởng thụ trên bàn son thảm gấm mà quên rằng: “Đồ ngốc, đêm nay ta đòi mạng người về, ngươi để lại những thứ đó cho ai ?”

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 29.7.2016

Tựa đề lấy từ bài hát “Một mai giã từ vũ khí” của Ngân Khánh

Đảng, các ông mở cửa hậu cho Trung Quốc?

Đảng, các ông mở cửa hậu cho Trung Quốc?

“Đảng phải tự kiểm điểm chính mình một cách thành thật và chấp nhận các giải pháp khắc khe để thay máu. Đây là cuộc cách mạng nội thân ý nghĩa nhất nếu Đảng còn tin vào sự mầu nhiệm cách mạng mà hơn 70 năm qua Đảng đã dựa vào.  Nếu không, dân sẽ thay Đảng làm cuộc cách mạng cho chính họ.  Nếu không, chính Đảng đã thừa nhận rằng mình tự mở cửa hậu cho Trung Quốc vào Việt Nam và Đảng sẽ trở thành một tập thể bán nước lớn nhất trong lịch sử nhân loại”.

_____

Blog RFA

CanhCo

30-7-2016

Từ trái qua phải: Tập Cận Bình, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Xuân Phúc, Đinh Thế Huynh tại Hà Nội, 05/11/2015. Nguồn: internet

Cuộc chiến giữa nhân dân và Đảng về vấn đề Trung Quốc đã rẽ sang bước ngoặc mới. Một là Đảng tồn tại vì được Trung Quốc tiếp tay khủng bố quần chúng để dần dần biến Việt Nam thành vùng đất nô lệ, hai là Đảng phải thay đổi cách ứng phó với Trung Quốc trong hàng trăm vấn đề, mà vấn đề hiện hữu nhất là an ninh lãnh thổ.

Bước ngoặc này không do người có lòng với đất nước tạo ra để áp lực Đảng mà đến từ Trung Quốc, đất nước ngày càng chứng tỏ lòng tự đại vượt mọi giới hạn, trong đó chủ nghĩa dân tộc điên cuồng đang làm cho Bắc Kinh dần dần trở thành kẻ thù của toàn thế giới, ngoại trừ với những chính phủ độc tài toàn trị.

Sự việc hacker Trung Quốc công khai nhìn nhận đã tấn công hàng loạt phi trường Việt Nam trong ngày 29 tháng 7 cho thấy việc bảo vệ lãnh thổ của quân đội, an ninh mạng cũng như các cơ quan tình báo, chống xâm nhập của Việt Nam quá thô thiển, lạc hậu và thụ động vượt qua sự tưởng tượng của người dân, vốn luôn tin rằng quân đội cũng như các hệ thống vừa nói đủ sức đối phó với Trung Quốc, hay ít ra đủ thông tin để ứng phó sau khi cuộc tấn công diễn ra. Những bài báo ca ngợi tính chiến đấu của quân đội nhân dân hay tâng bốc tính năng an ninh mạng vượt bậc của Việt Nam trở thành khôi hài và từ đó người dân đang chờ sự tuyên bố của nhà nước trước vấn đề hệ trọng này.

Hệ trọng vì nếu hacker tấn công được hệ thống hàng không dân dụng, cụ thể là các phi trường quốc tế của Việt Nam, có nghĩa là hacker Trung Quốc có thể tấn công vào những cơ chế khác, dân sự lẫn quân sự khi chiến tranh xảy ra.

Hacker Trung Quốc từng thâm nhập Bộ quốc phòng Mỹ ăn cắp dữ liệu, ai dám đảm bảo Bộ Quốc phòng Việt Nam ưu việt hơn Mỹ để vô hiệu hóa hoạt động gián điệp của chúng?

Về dân sự ai đảm bảo rằng các phi trường Nội Bài, Đà Nẵng, Cam Ranh, Tân Sơn Nhất hay Cần Thơ sẽ không bị tê liệt một lần nữa. Nhưng lần tê liệt sắp tới sẽ nghiêm trọng hơn, dài ngày hơn vì hacker đã biết cách tránh né mọi kỹ thuật phòng chống của an ninh mạng Việt Nam?

Ở các lĩnh vực khác, nơi nào được điều hành bằng hệ thống máy tính thì nơi đó sẽ tê liệt khi bọn hacker tấn công.

Và điều chắc chắn nhất sẽ xảy ra: Khi Trung Quốc chuẩn bị chiến tranh, hệ thống phát thanh, truyền hình toàn quốc sẽ bị cướp mất, như đã được chúng làm thí điểm trong vài ngày vừa qua tại Nha Trang và Đà Nẵng, để thay vào đó là các bài tuyên truyền chống Việt Nam phát liên tục 24 giờ, cùng lúc mạng Internet Việt Nam hoàn toàn sụp đổ, người ta không thể liên lạc qua phone, e-mail hay thậm chí qua Facebook, bởi các phần mềm gián điệp của Trung Quốc được cài sẵn từ các ISP (Internet Service Provider) của Việt Nam lúc ấy sẽ thức dậy và hoạt động.

Bọn hacker cũng thức dậy ngay từ chiếc computer của người dân bình thường nếu nó được sản xuất từ Trung Quốc. Không ai ngạc nhiên vì điều này, có ngạc nhiên chăng là chính phủ Việt Nam biết rõ hơn người dân rằng, công ty phần mềm Hoa Vi (Huawei) là nơi gián điệp của Trung Quốc đang mượn để núp bóng hoạt động. Nó đã bị vạch mặt tại nhiều nước trên thế giới và người ta đưa ra phương cách đối phó mạnh mẽ, kể cả cấm hoạt động trong nước của họ, còn Việt Nam, vẫn như cũ vẫn cứ rẻ là được phần còn lại hãy để cho cơ quan trách nhiệm lo.

Cơ quan được gọi là trách nhiệm ấy biết rõ tất cả các máy computer được Trung Quốc sản xuất đều có cửa hậu backdoor, nơi thích hợp nhất cho hacker thâm nhập. Biết nhưng vẫn lờ đi vì nếu đánh động lên sẽ bị Trung Quốc tát tai bằng những câu chữ hết sức hữu nghị.

Những câu chữ ấy bây giờ Đảng Cộng sản Việt Nam phải nhận thức rõ rằng chúng chỉ có giá trị được dùng để xâm lược, và khi cần người bạn đồng chí này của Đảng sẽ trở mặt như Thủ tướng Hun Sen.

Trung Quốc chỉ dẫn cho Hun Sen cách cho Việt Nam một bài học lần thứ hai, có lẽ là sự cần thiết để chế độ chính trị hiện nay thức tỉnh, thức tỉnh trước khi nhân dân dạy cho Đảng bài học thứ ba: Bạo lực cách mạng.

Đảng không nên nghi ngờ sức mạnh quần chúng. Đảng càng không nên tiếp tục tìm cách giữ ghế bằng việc gieo rắc nỗi sợ hãi trong nhân dân, và một điều nữa, Đảng càng không nên quên lịch sử có thể lập lại bất cứ lúc nào.

Đảng không nên quên bài học sáng hôm nay, 30 tháng 7 một ngày sau khi hacker Trung Quốc chiếm lĩnh 2 phi trường lớn nhất Việt Nam, người dân Nghệ An đã áp dụng đúng những gì mà Đảng dạy cho dân nhiều chục năm về trước, đó là bài học bạo lực cách mạng.

Những hình ảnh ghi lại trên một video clip cho thấy người dân tại xã Nghi Tiến, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An đã phản ứng lại việc công an đàn áp họ trong dự án xây dựng nhà máy xi măng Nghi Tiến. Khi lực lượng cơ động tấn công vào người dân, đã bị dân chúng ném đá không nương tay vào những “chiến sĩ” trang bị tận răng nón sắt, khiên, dùi cui. . .và rốt cuộc đã có những chiến sĩ gần trở thành “liệt sĩ” nếu không được cấp cứu kịp thời.

Nhiều nơi khác đã từng phản ứng “tích cực” như vậy và báo chí tường trình rất chi tiết. Những tập hợp tích cực về sự phản kháng sẽ ngày một lớn hơn, mà quan trọng và tiềm ẩn lớn nhất là nỗi lo sợ nước mất vào tay Trung Quốc.

Những cuộc biểu tình chống hacker Trung Quốc nếu nổ ra Đảng không nên tiếp tục ra tay đàn áp để đi tới đổ máu khi sự bức xúc của người dân lên tới đỉnh điểm. Đảng không thể ru ngủ người dân khi kẻ thù đã vào tới cửa ngõ nhà mình. Điều mà Đảng có thể làm trong những ngày sắp tới là khai tử lý thuyết mềm mỏng để bắt tay vào xây dựng sách lược đối phó mà trong đó Đảng hãy can đảm khai trừ những thành phần hèn nhát, cơ hội, dựa vào Trung Quốc để tiếp tục hút xương tủy nhân dân.

Đảng phải tự kiểm điểm chính mình một cách thành thật và chấp nhận các giải pháp khắc khe để thay máu. Đây là cuộc cách mạng nội thân ý nghĩa nhất nếu Đảng còn tin vào sự mầu nhiệm cách mạng mà hơn 70 năm qua Đảng đã dựa vào.

Nếu không, dân sẽ thay Đảng làm cuộc cách mạng cho chính họ.

Nếu không, chính Đảng đã thừa nhận rằng mình tự mở cửa hậu cho Trung Quốc vào Việt Nam và Đảng sẽ trở thành một tập thể bán nước lớn nhất trong lịch sử nhân loại.

Chào ánh sáng, chào những ánh mắt mở ngủ mê

Chào ánh sáng, chào những ánh mắt mở ngủ mê

Tuấn Khanh

30-7-2016

Ảnh: một góc của cuộc chiến tranh 1979 chống Trung Cộng xâm lược. Ảnh: internet

Sự kiện tin tặc Trung Cộng tấn công vào hệ thống IT của phi cảng Tân Sơn Nhất và Nội Bài, ngày 29/7, như có một luồng ánh sáng chớp lóe lên trong suy nghĩ của hàng triệu người dân Việt. Hy vọng thay, đó là khoảnh khắc sẽ thức tỉnh được nhiều con người về hiện trạng đất nước.

Có lẽ, bất kỳ ai vẫn lớn tiếng kêu to rằng đừng quan tâm chính trị, hãy chỉ lo làm ăn – làm giàu, và hãy cứ phỏ mặc cho Nhà nước giải quyết mọi chuyện, lúc này sẽ phải dành chút ít thời gian nghĩ về thân phận của mình và gia đình mình. Trên các chuyến bay của ngày 29/7, một nhà triệu phú hay một người nghèo khó đều có thể bỏ xác ngay trên đất nước mình trong niềm tin cố thơ ngây phi chính trị ấy. Có hơn 400.000 hành khách đã bị ảnh hưởng như vậy từ hành động cảnh cáo của nhóm tin tặc 1937cn, do Bắc Kinh tài trợ và nuôi dưỡng, mà bên cạnh đó, có những lời tố cáo cho biết các thành viên của nhóm này đã xâm nhập từ lâu vào hệ thống IT của Việt Nam. Dĩ nhiên, còn chưa tính tới việc có ai đó là kẻ phản bội và bán đứng các thông tin quan trọng cho giặc phương Bắc.

Nhưng vì sao, giữa vô vàn thống khổ lâu nay của quê hương – từ nạn bauxite đang giết dần mòn Tây Nguyên, từ biển và đảo đang mất dần, ngư dân bỏ mạng trên biển và tuyệt vọng trên bờ, cho đến những dự án nguy nga giả tạo xây lên để tạo ra ngân khoản rút rỉa mồ hôi nước mắt nhân dân, những cuộc cưỡng chiếm đất đai của nông dân như bọn thổ phỉ chiếm đóng – chuyện mất an ninh mạng của các phi cảng Việt Nam lại gây chấn động như vậy?

Người dân Việt Nam bị ru ngủ trong một thông điệp mơ hồ là hãy chỉ nên lo cho bản thân mình, lâu nay đã trở thành những vùng quần cư ích kỷ và hẹp hòi, nên rồi chỉ biết nẹp mình trong chén cơm và manh áo. Họ quên cả đồng bào, quên cả tổ quốc, quên cả số phận tương lai của mình. Sự xót thương không còn nhưng lại liều lĩnh tội nghiệp như những hành khách theo lệnh ra khơi mà không bao giờ được chu cấp một chiếc phao cứu sinh. Những ngày cá chết, ngư dân tuyệt mạng thì nhiều người Việt nghe chừng đâu đó rất xa xôi. Bùn đỏ tràn miền Thượng thì nghe như bản tin quốc tế thoáng qua với họ. Chỉ đến khi sinh mạng của từng người bắt đầu bị đe dọa thì mới xuất hiện sự hoảng sợ và ý thức. Nhất là đối với từng con người đang chăm chút cho số tiền để dành, cho sự bình yên phi chính trị… chợt bừng tỉnh rằng mọi thứ là vô nghĩa trước một tình cảnh quá hoang tàn.

Có ý kiến hùng tráng cho rằng dân tộc Việt Nam đang bật lên đoàn kết sự kiện hoảng hốt này. Đó là một loại ngụy biện đáng thương. Sẽ không có chứng cứ nào về loại đoàn kết từ sự rúm ró sợ hãi và mơ hồ về tương lai của mình như vậy. Những con cừu chỉ còn đứng tụm vào với nhau trong niềm đau đớn bất lực trước những con sói bất kỳ giờ phút nào cũng có thể xông vào trang trại, trong khi các chủ trại chỉ biết chè chén mỗi ngày và ngủ mê với cái nhìn tin yêu, rằng bọn chó sói có thể trở thành chó chăn cừu.

Những con cừu ấy, vốn sống theo tiếng gậy chăn dắt, mang niềm tin rằng chúng cứ ăn no, dâng hiến đời mình cho chủ trại là trọn phận. Sống ngu ngơ và chết lặng im.

Từ vụ tấn công ngày 29/7/2016, hãy nghĩ đến những ngày về sau. Đáp trả lại một câu, mà một nhân viên hải quan Việt Nam nào đó ghi trên hộ chiếu có đường lưỡi bò, Bắc Kinh đã gửi đến một thông điệp đầy tính đe dọa không đơn giản, rằng họ đang ở khắp mọi nơi.

Mà không phải chỉ riêng hôm nay, các vụ tấn công nằm sâu trong các tin tức bị ỉm đi, bị che giấu như chuyện tầm phào, từ truyền thanh ở Đà Nẵng, Huế bị chiếm sóng, tia laser tấn công vào các phòng lái máy bay ở phi trường, kể cả những lần bị mất sóng kiểm soát không lưu khiến đường bay hỗn loạn, các sự cố mất điện bất thường ở sân bay…  nhân dân bị đối xử như trẻ dại, không nên bàn đến, không cần biết đến – mặc dù những người có trách nhiệm thì ngày càng giới thiệu rõ sự bất lực của mình.

Nhưng chính nhân dân cũng bất lực. Họ nhận ra cái chết của mình mỗi ngày, nhận ra nỗi khốn khổ của quê hương này mỗi ngày bên cạnh các tuyên bố thề trung thành với tình hữu nghị bất chấp. Vận mệnh dân tộc đang bị nhấn chìm trong biển hữu nghị ấy – bao gồm lời gào thét của các quan chức cấp cao khi một mực đòi chấp nhận cho Trung Cộng nắm giữ các dự án quan yếu của đất nước, thậm chí nhượng bộ các yêu sách của Trung Quốc liên quan đến an ninh quốc gia. “Các người đã làm được gì cho đất nước chưa?” – dĩ nhiên là chưa, vì với mọi sắp đặt tàn độc đó, người Việt chỉ còn rơi nước mắt nhìn tổ quốc mình trong tay những kẻ thỏa hiệp và bọn phản bội.

Giờ thi không ai còn hồ nghi nữa, rằng Trung Cộng đã có một bước đi thâm hiểm từ rất lâu, và chỉ đợi thời cơ để chứng minh khả năng đè bẹp Việt Nam. Đừng trút mọi oán giận lên kẻ thù – vì  đó là một kẻ thù đã được nhận biết rõ từ lâu – hãy oán giận những suy nghĩ kết thân với kẻ thù, tay bắt mặt mừng, thề thốt và rước kẻ thù vào nhà.  Nếu không có những kẻ đó, hàng trăm cây số biên giới Việt Nam không mất cùng Thác Bản Giốc, biển Việt Nam không nguy hiểm chập chờn từng ngày, Tây nguyên không suy kiệt và Formosa Hà Tĩnh không thể hủy diệt môi trường và con người Việt Nam.

Và vì sao, những người anh chị em Việt Nam xuống đường kêu gọi chống lại âm mưu xâm lược của Bắc Kinh luôn bị đánh đập, giam cầm?

Trong một bài thơ của Bùi Chí Vinh, ông có viết rằng:

Mãi quốc cầu vinh tất quả báo nhãn tiền
Chào một ngày soi rõ mặt anh em!

Trong bất lực, người ta chỉ còn biết nghĩ đến quả báo, nhưng một cách tự an ủi mình, và mong manh hy vọng kẻ ác có thể tỉnh giác để trở lại làm người. Nhưng với hiện thực hôm nay, mọi thứ sẽ như một luồng ánh sáng soi rọi đến từng trái tim con người Việt. Thức tỉnh từng con mắt đang mở mà như vẫn ngủ mê. Hãy biết qúy trọng từng cơ hội đi qua sợ hãi – chào một ngày mới, không phải để đoàn kết mộng mị – mà dựa vào đó để soi rõ mặt các loại anh em, bao gồm loại anh em đang phản bội lại máu thịt và tương lai dân tộc.

Formosa: Cùng nhau lợi dụng lỗ hổng pháp luật

Formosa: Cùng nhau lợi dụng lỗ hổng pháp luật

Nam Nguyên, phóng viên RFA

000_CL8R5-622.jpg

Tại cuộc họp báo công bố nguyên nhân gây ra tình trạng cá chết hàng loạt ở 4 tỉnh miền Trung chiều 30/6/2016 ở Hà Nội, chính phủ Việt Nam cũng cho chiếu một đoạn video với lời phát biểu nhận lỗi của ông Trần Nguyên Thành, chủ tịch hội đồng quản trị công ty gan thép Hưng nghiệp Formosa Hà Tĩnh.

AFP

Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Báo cáo Quốc hội về thảm họa môi trường 4 tỉnh ven biển miền Trung, Chính phủ thừa nhận có sự lợi dụng lỗ hổng pháp luật về đầu tư cũng như xây dựng và môi trường trong dự án Formosa. Bên cạnh đó Chính phủ cũng giảm số lượng người bị ảnh hưởng trực tiếp vì thảm họa Formosa.

Làm gì để phục hồi niềm tin của công chúng?

Thực hiện yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bản báo cáo của Chính phủ về thảm họa môi trường ven biển miền Trung do Formosa gây ra đã tới tay các đại biểu Quốc hội hôm 26/7 vừa qua. Theo đó, Chính phủ nhìn nhận sự cố môi trường đã làm giảm lòng tin của người dân với Nhà nước. Trong bản báo cáo dài 23 trang do Bộ trưởng Tài nguyên Môi trường Trần Hồng Hà ký tên và được phổ biến trên mạng, Chính phủ nhìn nhận:“Người dân nghi vấn về sự đúng đắn, đầy đủ của quá trình thẩm định, phê duyệt các thủ tục đầu tư, xây dựng, vận hành nhà máy ở Hà Tĩnh, giảm lòng tin vào khả năng của các cơ quan trong việc ứng phó với các tình huống khẩn cấp về môi trường.”

Chuyện bắt buộc đầu tiên phải là pháp luật và tôi đề cao chuyện đó, nếu không dùng pháp luật thì không một biện pháp nào có thể lấy lại niềm tin được.
-LS Lê Văn Luân

Trả lời chúng tôi vào tối 28/7, đáp câu hỏi qua thảm họa Formosa Nhà nước Việt Nam có thể làm gì để phục hồi niềm tin của công chúng, Luật sư nhân quyền Lê Văn Luân từ Hà Nội phát biểu:

“Chuyện để mà lấy lại niềm tin thì chỉ có pháp luật bởi vì một xã hội được duy trì vào thượng tôn pháp luật, mà đây chính là mục tiêu của bất kỳ nhà nước nào kể cả nhà nước Việt Nam cũng phải thượng tôn pháp luật, thì đương nhiên phải sử dụng pháp luật để điều tiết xã hội, điều chỉnh xã hội và không nương nhẹ với bất kỳ ai đặc biệt là quan chức. Bởi vì quan chức mới là người có cơ hội, có quyền lực, có khả năng để tham nhũng, để lạm dụng những kẽ hở, hoặc là chính Đảng Cộng Sản làm những việc gọi là gây hậu quả nghiêm trọng, chứ người dân thì không có. Cho nên chuyện bắt buộc đầu tiên phải là pháp luật và tôi đề cao chuyện đó, nếu không dùng pháp luật thì không một biện pháp nào có thể lấy lại niềm tin được.”

Trong bản báo cáo gởi các đại biểu Quốc hội, Chính phủ cho biết thảm họa môi trường 4 tỉnh ven biển khiến 17.682 tàu thuyền khai thác hải sản với khoảng 41.000 lao động trực tiếp và hơn 176.000 người phụ thuộc bị ảnh hưởng do sự cố môi trường gây ra. Sản lượng khai thác ven bờ và vùng lộng tức khu vực sát bờ bị thiệt hại khoảng 1.600 tấn mỗi tháng.

Như vậy bản báo cáo chính thức này đã giảm bớt khoảng gần 60 ngàn người cần được trợ cấp lương thực và tài chính cũng như chuyển nghề. Thời gian qua báo chí nhà nước đồng loạt đưa tin số lao động trực tiếp bị ảnh hưởng là hơn 100.000 người và hơn 176.000 người phụ thuộc.

Trong báo cáo, Chính phủ nhìn nhận về tình trạng bất an xã hội, nhân dân lo lắng về việc mất sinh kế, thất nghiệp, nợ nần, phá sản do không tiêu thụ được cá và sản phẩm từ hải sản.

image006-620.jpg

Giáo dân thuộc giáo xứ Cồn Sẻ biểu tình phản đối Formosa Hà Tĩnh hôm 7/7/2016.

Chúng tôi xin nhắc lại đã xảy ra cuộc biểu tình bị đàn áp vào ngày 7/7/2016 vừa qua của hàng ngàn giáo dân Cồn Sẻ Quảng bình, một địa phương hoàn toàn sống nhờ nghề cá. Lúc đó, Linh mục Phê Rô Hoàng Anh Ngợi, Chánh xứ Cồn Sẻ đã nói với Đài RFA:

“Chuyện cá chết, từ tháng tư đến giờ không đi biển được. Thêm nữa một số bè cá trên sông trong 4 ngày này bị chết. Những con nào không chết bây giờ đem đi các chợ bán không ai mua. Về nhà vợ chồng phải ôm nhau khóc vì lỗ 100 triệu, 70-80 triệu. Ở một miền quê mà lỗ 100 triệu, 70-80 triệu- một khoản tiền rất lớn. Có khi họ làm cả đời cũng không được khoản tiền như thế. Mà ở đây cả hằng trăm bè cá. Bức xúc quá khứ, bức xúc hiện tại chồng nhau. Công bố nói Formosa đền 500 triệu đô. Họ nghĩ đền 500 triệu đô thì làm sao đánh đổi được cuộc sống của họ, chưa nói đến 4 tỉnh miền Trung. Lấy gì cho tương lai đây.”

Có cần Formosa đến 70 năm không?

Được biết, ngày 29/7/2016 trong phiên thảo luận tại Quốc hội về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 2016, nhiều đại biểu đã tập trung vào vấn đề giải quyết thảm họa môi trường ven biển, điều mà đại biểu Trần Công Thuật, Phó bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình gọi là quả bom Formosa.

Thời báo kinh tế Saigon Online dẫn lời đại biểu Trần Công Thuật nói nguyên văn: “Khi nào bà con yên tâm ăn cá và hải sản, khi nào môi trường biển an toàn? Đúng là chúng ta vừa cần tôm cá, vừa cần thép, nhưng có cần Formosa đến 70 năm không?”

Việc đánh đổi tăng trưởng với môi trường, thì thực sự các chuyên gia trong nước cũng đã nhắc đến từ lâu, cảnh báo với họ từ lâu. Rất đáng tiếc, bởi vì không phải một chế độ dân chủ nên người ta phớt lờ những ý kiến đó của người dân…
-TS Nguyễn Quang A

Ông Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình Trần Công Thuật còn công khai một thảm trạng của tỉnh nhà, đó là trong 4 tháng qua kinh tế của Quảng Bình điêu đứng, lòng dân không yên. Quả bom Formosa, theo lời ông Trần Công Thuật, đã kéo lùi sự phát triển của Quảng Bình, kể cả về kinh tế, xã hội, an ninh , trật tự mất ổn định và làm giảm lòng tin của nhân dân.

Theo tường thuật của SaigonTimes Online, Người đại diện của Quảng Bình đã kêu gọi Chính phủ làm rõ trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân liên quan, đồng thời nhanh chóng giải quyết những khó khăn của người dân về việc làm, về thu nhập, ổn định đời sống lâu dài một cách căn cơ để nhân dân yên tâm.

Tại phiên họp Quốc hội chiều 29/7/2016, ông Trần Hồng Hà Bộ trưởng Tài nguyên Môi trường cho biết thêm thông tin về số tiền 500 triệu USD mà Formosa chấp thuận bồi thường. Theo đó, tính đến ngày 28/7, Formosa đã chuyển một nửa số tiền này tức 250 triệu USD vào một tài khoản tạm giữ. Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết tiền sẽ được chuyển cho các tỉnh, nhưng các địa phương chịu trách nhiệm về việc phân phối. Phần 250 triệu USD còn lại Formosa hứa chuyển vào ngày 28/8 sắp tới.

Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo toàn diện đã trải qua một giai đoạn phát triển kinh tế bằng mọi giá, bất chấp những cảnh báo về hiểm họa môi trường mà giới trí thức, học giả đã kiến nghị. Dự án Formosa Vũng Áng, cũng từng được cảnh báo trong mấy năm liền không những về ô nhiễm môi trường biển, mà quan trọng hơn nữa là vấn đề an ninh quốc phòng. Tuy vậy những phản biện về dự án Vũng Áng cũng như bauxite Tây Nguyên, đã không được Đảng và Nhà nước lắng nghe.

Điều này đã được TS Nguyễn Quang A, nhà hoạt động dân quyền ở Hà Nội nhận xét:

“Việc đánh đổi tăng trưởng với môi trường, thì thực sự các chuyên gia trong nước cũng đã nhắc đến từ lâu, cảnh báo với họ từ lâu, ít nhất từ đợt lấy kiến nghị phản đối bauxite Tây Nguyên và liên tục sau đó đã có rất nhiều tiếng nói. Rất đáng tiếc, bởi vì không phải một chế độ dân chủ nên người ta phớt lờ những ý kiến đó của người dân…”

Phải đợi tới khi một thảm họa thực sự xảy ra cho 4 tỉnh ven biền Bắc Trung Bộ, Đảng và Nhà nước mới như được thức tỉnh. Trong báo cáo gởi đại biểu Quốc hội ngày 26/7/2016, Chính phủ Việt Nam nói rằng, qua sự cố Formosa, Chính phủ nhìn nhận, đánh giá đầy đủ, toàn diện hơn về những thách thức và vấn đề môi trường đặt ra trong chính sách phát triển hiện nay.