CẢM NHẬN ÂN SỦNG CHÚA

CẢM NHẬN ÂN SỦNG CHÚA

Tuyết Mai

Có khi nào trong anh chị em cảm thấy sôi sục và bị đốc thúc để đi tìm đến với người cùng khổ bất hạnh, ở khắp mọi nơi hay không?.   Thật chính những lúc đó anh chị em phải tin rằng mình có được Ơn Chúa Thánh Linh.   Ngài thúc đẩy chúng ta phải đi hay phải làm điều gì đó cho Ngài hay cho anh chị em của chúng ta, trong khả năng cá biệt mà Ngài ban cho.

Ân Sủng Chúa Thánh Linh có rất nhiều hình thức, khả năng, và công tác khác nhau.   Có người thì Chúa ban cho ơn viết lách, làm nhạc, làm thơ theo linh ứng.   Có nghĩa anh chị
em chỉ là cây viết của Chúa không hơn không kém! Vì cây viết thì đã có đầy mực và Chúa chỉ dùng anh chị em cầm dùm cây viết cho Chúa mà thôi!.   Hay Chúa chỉ nhờ anh chị em ngồi đó, mượn 10 ngón tay hữu dụng, để đánh dùm cho Chúa những điều Chúa muốn anh chị em hoàn thành trên trang giấy đó!.

Nên nhớ rằng Chúa không cần cái trí thông minh của mình đâu nhé, chỉ khi ấy anh chị em mới hiểu rằng đó là Ơn Chúa xuống trên anh chị em!.   Vì ngoài Ơn Chúa ra hết thảy chúng ta chỉ là cây viết cạn khô mực, đáng được vứt vào sọt rác.   Đó là lý do mà tôi muốn cùng được chia sẻ cùng anh chị em vì có người sẽ hỏi hay thắc mắc, sao tôi có thể viết được nhiều đến thế?.   Có khi một ngày tôi có thể viết được 2 bài hoặc có khi hơn và vì sao tôi luôn có ý để viết, dù bất cứ ý gì, đề tài gì? Vâng, cảm tạ Chúa vì đó là Ơn và là ý Chúa!.   Đối với
tôi, Chúa ban cho tôi Ơn Gọi cách đặc biệt trong sự chia sẻ kinh nghiệm sống về gia đình và con cái của chúng tôi đến cho mọi người; cho những ai cần.   Nhất là cho những anh chị em trẻ, rất mới mẻ trong cuộc sống gia đình.

Tôi biết Người đang dùng tôi cách hữu hiệu nhất! Nếu không, bảo đảm tôi sẽ rất nhút nhát vì tự ti mặc cảm nơi chính mình.   Trình độ học viết luận văn của tôi ư? Đã có vài Webs đã
từ chối đăng bài của tôi vì tôi không đủ tiêu chuẩn?.   Chẳng những tôi chẳng buồn phiền chi cả, nhưng chỉ tiếc rằng họ không nhận biết việc họ làm, thế thôi!.   Tôi viết bài chẳng phải để cho BBT đọc.   Tôi viết bài chẳng phải để cho quý cha đọc.   Hay tôi viết bài chẳng phải để cho những nhà thông thái đọc.   Nhưng tâm lý họ quên rằng, tất cả những người có trình độ cao thường thì chẳng ai muốn đọc bài của ai cả!?.   Đó có phải là điều đáng buồn, nhưng đó là sự thật!?.

Còn tôi ư? Vâng, tôi viết là để cốt ý muốn chia sẻ cho những ai có cùng trình độ.   Dễ hiểu và biết rằng ngoài kia cũng có rất nhiều anh chị em, có vấn đề trong gia đình và con cái.   Chia sẻ để thấy rằng chẳng phải ai cũng có Thánh Giá nhẹ để vác, mà không học cách của người khác để vác cho không cảm thấy nặng nề, và bớt đau khổ, v.v….. Nhất là thế hệ con cháu của mình.   Tôi cũng nhìn nhận rằng dạo sau này Chúa muốn tôi viết thật nhiều, chắc biết rằng trong tương lại rất gần tôi sẽ bị chứng bệnh “Mất trí nhớ” là Alzeimer’s chăng?.   Và không ai bằng, chính tôi cảm nhận được điều đó!.

Cái đầu của tôi đã chịu thua và thôi học lâu lắm rồi! Chắc vì Chúa hiểu cái trí thông minh của tôi rất giới hạn cho nên Người đã giúp tôi lấy được cái chứng chỉ hạng bét của ngành Y Tá; nhưng cũng đủ giúp tôi nuôi cả gia đình suốt hơn 10 năm trời nay; thay thế ông nhà
tôi sau khi ông bị thất nghiệp.   Ai từng đọc những bài viết của tôi chắc hẳn đều cảm nhận được điều này?.   Thế đấy, cái đầu bị bệnh của tôi khả năng của nó chẳng có thể viết được một bài luận văn mà không có đủ trăm lỗi chính tả trong đó!.   Nhưng Thiên Chúa đã dùng khả năng còn lại của tôi là chính 10 ngón tay Người ban và trái tim luôn biết Xin Vâng theo
Thánh Ý Người.

Xin Vâng là điều lệ đầu tiên mà Chúacó thể vào tận cõi lòng của chúng ta, dù tội lỗi của ta có ngập lụt.   Vì sự Xin Vâng và ta có cho phép Chúa thì Chúa mới có thể vào để tu sửa, canh tân, và đổi mới chúng ta được, thưa anh chị em!.   Điều sai là chúng ta cứ tưởng tội lỗi của ta đã làm cái chắn “kỳ đà cản mũi” giữa ta và Chúa, nhưng không phải thế đâu! Mà là vì ta không cho phép Chúa đến với ta đấy mà thôi!.

Có ai còn nhớ tấm hình Chúa Giêsu nửa đêm khuya khoắt, đến trước cửa nhà ta mà gõ cửa để hy vọng rằng, chúng ta có ý muốn mời Chúa vào nhà tâm hồn của chúng ta, và cho Chúa được ở lại hay không?.   Hình ảnh đó nói lên điều gì thưa anh chị em? Là hãy mở cửa tâm hồn ra để mời Chúa vào nhà.   Chứ Chúa không biết rằng hết thảy chúng ta đây, ai là kẻ không có tội? Chúa không biết rằng nhà nào nhà nấy, bên trong cũng đầy dẫy những màng nhện giăng, mối mọt gặm nhấm, ngay cả căn nhà đó nó sắp sập đến nơi mà chúng ta cũng nào có biết?.

Vâng, hãy mở cửa mời Chúa vào nhà, thì bảo đảm Chúa sẽ quét sạch hết căn nhà dơ dáy “tội lỗi” của chúng ta rất nhanh chóng.   Sạch như căn nhà mới được xây xong!.   Để sau đó chúng ta mới được Sống cách đúng nghĩa hơn.    Trong không khí trong lành, không bệnh tật rồi chết cách bất đắc kỳ tử; không được trối trăn hay không kịp ăn năn tội.

Đã có Chúa trong đời thì có phải bệnh Ung Thư hay mọi bệnh nan y cũng đều được Chúa chữa cho khỏi, ngay cả cái chết gần kề.   Amen.

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

(10-16-12)

 

Trái tim nhân hậu

Trái tim nhân hậu

Chân phước Mẹ Têrêsa Calcutta cả đời đấu tranh cho giá trị nhân phẩm của những con người nghèo khổ nhất, đã nêu gương luân lý làm cầu nối các khoảng cách về văn hóa, giai cấp và tôn giáo. Một con người có vóc dáng nhỏ bé nhưng lại có trái tim “cực đại” và đầy lòng nhân ái. Bà nói: “Ngay cả những người giàu cũng khao khát tình yêu, muốn được quan tâm, muốn có ai đó thuộc về mình”.

Cha mẹ của bà là người Albani. Bà sinh ngày 26-8-1910 tại Shkup (nay là Skopje), thuộc Cộng hòa Nam Tư (Macedonia), trước đó là Yugoslavia, với tên “cúng cơm” là Agnes Gonxha Bojaxhiu. Bà là con út trong 3 người con. Lúc bà 7 tuổi, cha của bà bị giết,
nên bà quan tâm chính trị. Tuổi thiếu niên, bà là thành viên của nhóm bạn trẻ trong giáo xứ, gọi là nhóm Tương tế Tôn giáo (Sodality), dưới sự hướng dẫn của một linh mục Dòng Tên, bà cảm thấy quan tâm việc truyền giáo. Lúc 17 tuổi, bà gia nhập Dòng Nữ tử Loreto ở Ai-len, một dòng chuyên về giáo dục, rồi bà được gởi tới Bengal năm 1929 để vào nhà tập. Bà chỉ lõm bõm tiếng Anh nhưng vẫn khấn lần đầu, với tên dòng là Têrêsa (chọn theo tên của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu).

Đến năm 1950, nữ tu Têrêsa lập Dòng Truyền giáo Bác ái (Dòng Thừa sai Bác ái, Missionaries of Charity). Bà nhận Giải Nobel Hòa bình năm 1979 và nhận Giải Bharat Ratna (भारत रत्न, nghĩa là “Viên ngọc Ấn Độ”, giải thưởng cao nhất của Ấn Độ dành cho người dân) năm 1980. Trước đó, năm 1962, bà đã được chính phủ Ấn trao giải Padma Shri. Trong những thập niên kế tiếp bà được trao tặng các giải thưởng lớn như Giải Jawaharlal Nehru về Hiểu biết Quốc tế năm 1972.

Trong thời kỳ Ấn Độ bị người Anh đô hộ (British Raj), trường Loreto nhận rất ít người Ấn, đa số là người Hindu Bengal, con gái các gia đình có thế lực ở Calcutta, nhưng đa số
giáo viên vẫn là các nữ tu gốc Ai-len. Nữ tu Têrêsa không thuộc Dòng Nữ tử Loreto nữa nhưng thi thoảng bà vẫn về thăm. Bà dạy ở các trường nữ khác trong 3  năm trước khi (như bà nói) “theo Chúa đến với người nghèo khổ”. Theo các nữ sinh nói, sự gián đoạn đó không hoàn toàn thân thiện, ít là phần các nữ tu Dòng Loreto.

Hình ảnh nữ tu Têrêsa nhỏ bé, với tấm khăn choàng sari (trang phục của phụ nữ Ấn) xõa xuống vai và lưng, bước đi trên đường đá đỏ, trông thật giản dị và khiêm nhường. Bà luôn có một hoặc hai nữ tu choàng sari đi theo. Bà là con người kỳ lạ của thế kỷ XX. Có thể bà “khác người” vì chúng ta không thấy nữ tu nào choàng sari như vậy. Nhưng đó là thói quen của nữ tu Têrêsa vùng Calcutta, bà “quên” mình là người Albani để hòa nhập và hoàn toàn nên giống các phụ nữ Ấn.

Chính phủ đã “ầm ĩ”chống truyền giáo nhưng chưa bao giờ làm khó các nữ tu truyền giáo.

Đầu thập niên 1950, các học sinh không có đạo ở Nhà Loreto đã nghi ngờ ý định của Mẹ Têrêsa trong việc giúp đỡ các trẻ em đường phố hoặc trẻ mồ côi. Bà đang cứu vớt chúng để
“dụ” đưa chúng vào đạo Công giáo? Cứ hai tuần một lần, Mẹ Têrêsa nói chuyện để vận động phụ nữ không phá thai và bảo vệ sự sống. Dự định của Mẹ Têrêsa là chăm sóc những người bệnh ở thời kỳ cuối, những người đến Đền Kalighat để được chết gần “thánh địa”. Mẹ Têrêsa không mong kéo dài sự sống cho họ, nhưng buồn về tình trạng nhơ uế và cô độc của họ trong thời gian cuối đời. Mẹ Têrêsa quan ngại về tỷ lệ tử vong và ám ảnh về cách chết của họ, ngược với quan niệm của người Hindu về sự tái sinh và sự chết là được giải thoát khỏi maya.

Mẹ Têrêsa lập một trại phong (Leprosarium) ở ngoại ô Calcutta, trên khu đất do chính phủ cấp. Bà là người lý tưởng hóa hơn là người lập dị. Người phong cùi bị coi thường không chỉ
ở Calcutta mà ở khắp Ấn Độ, đến vài xu lẻ cũng không ai muốn bố thí cho họ. Ai cũng sợ bị lây nhiễm. Từ đó, người ta cũng có ánh mắt không thiện cảm với Mẹ Têrêsa.

Từ năm 1970, Mẹ Têrêsa trở nên một nhân vật nổi tiếng thế giới với các hoạt động nhân đạo cứu giúp người nghèo và những người sống trong hoàn cảnh tuyệt vọng, một phần cũng
nhờ cuốn sách và bộ phim tư liệu tựa đề “Something Beautiful for God” (Điều tốt đẹp dành cho Chúa) của Malcome Muggeridge.

Bà không chỉ là nhà truyền giáo, mà còn là một “lương y” tận tình chăm sóc người phong cùi. Cách dấn thân của bà đã thay đổi người dân Calcutta, chính các nữ tu Dòng Loreto
cũng trở lại tìm bà.

Dân Calcutta rất quý mến Mẹ Têrêsa. Các chị em ở trường nữ Loreto hồi thập niên 1970 đều trở nên các bà vợ tốt, có địa vị trong xã hội và tình nguyện hoạt động xã hội theo ý định
của Mẹ Têrêsa, nhất là vì trại phong. Những năm sau, Mẹ Têrêsa rất tin tưởng những phụ nữ tốt nghiệp trường Loreto.

Số phận những người vận động luân lý dễ bị tổn thương vì các thay đổi của thói đạo đức giả hoặc tùy tiện của các chiến dịch. Những kẻ gièm pha đã kết tội Mẹ Têrêsa là phóng đại
cảnh nghèo khổ của dân Calcutta. Mẹ Têrêsa luôn phải phải đấu tranh, dù vẫn bị người ta chỉ trích nhưng hoạt động của bà không suy giảm. Thậm chí bà còn thành công và cảm hóa chính những người đã nghi ngờ hoặc những người ghen ghét bà. Chính Mẹ Têrêsa đã thay đổi nhiều trái tim, đó là phép lạ thực sự vĩ đại.

Mẹ Têrêsa nói: “Ở Tây phương có sự cô đơn, điều mà tôi gọi là bệnh-phong-của-Tây-phương. Bằng nhiều cách, nó còn tệ hơn người nghèo của chúng tôi tại Calcutta. Tôi không bao giờ từ chối một đứa trẻ nào, không bao giờ, dù chỉ một”.

Năm 1950, cũng là năm Mẹ Têrêsa lập Dòng Truyền giáo Bác ái, ĐGH Piô XII đã phê chuẩn dòng này. Mẹ Têrêsa cũng đã từng có những lần sang thăm Việt Nam.

Vì tuổi cao sức yếu, Mẹ Têrêsa qua đời ngày 5-9-1997, sau hơn nửa thế kỷ phục vụ những người cùng đinh trong xã hội trong đức ái của Chúa Giêsu. Mẹ Têrêsa được ĐGH Gioan Phaolô II tôn phong chân phước ngày 19-10-2003.

Lạy Chân phước Têrêsa, xin ban cho chúng con trái tim nhân hậu như Mẹ để chúng con yêu thương mọi người, nhất là những người nghèo khổ, những người bị ruồng bỏ, những người bị ngược đãi,… Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ
của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

BUỒN

BUỒN

thanh_nien_giau

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay tường thuật về hai cái buồn: một cái buồn của Đức Giêsu và một cái buồn của anh nhà giàu.  Đức Giêsu buồn vì người Ngài yêu mến đã từ chối lời mời gọi của Ngài, buồn vì người mà Chúa yêu thương lại gắn bó với tiền bạc nhiều hơn là gắn bó với Chúa, đã chọn của cải vật chất hơn là chọn Chúa.  Anh nhà giàu buồn vì có sự rạn nứt nơi bản thân.  Anh đã đi tìm gặp Chúa, đã thao thức tìm kiếm “một cuộc sống vĩnh cửu đời đời”, nhưng anh đã bị tiền bạc vật chất trói buộc; anh đã từ chối lời mời gọi của Chúa, đã cúi mặt bước đi với đầy phiền muộn.

Thầy Giêsu đòi anh từ bỏ tiền bạc của cải, điều mà anh đã thu góp và gắn bó trong bao nhiêu năm, điều mà anh yêu mến nhất và muốn giữ lại nhiều nhất. Tiền bạc là chỗ dựa của đời anh, anh sẵn sàng làm mọi điều Thầy đòi hỏi, trừ việc từ bỏ chỗ dựa này.

Không biết anh có nhìn thấy “con người thật” của mình không? Có thấy mình đang bị của cải trói buộc? Có thấy mình đang làm nô lệ cho tiền bạc vật chất? Tiếc thay anh không đủ quyết tâm và nỗ lực để ra khỏi sự trói buộc này, anh cũng không có đủ can đảm để cởi bỏ sự nô lệ với tiền bạc vật chất, dù anh vẫn khát khao sự sống vĩnh cửu đời đời.

Cái buồn của anh, đôi khi cũng là của bạn và tôi hôm nay. Ai trong chúng ta cũng từng bị giằng co giữa ước mơ lý tưởng và níu kéo ràng buộc của tiền bạc vật chất. Của cải vật chất có sức hấp dẫn mãnh liệt. Ta làm chủ nó hôm nay, nhưng nếu không cương quyết và sáng suốt,
ngày mai nó sẽ làm chủ ta và trở thành xương thành thịt của ta, mà ta không thể thể dứt bỏ.

Không chắc anh nhà giàu có bị luận phạt hay không, nhưng chắc chắn anh ta khó có được cuộc sống hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ đến với người dám sống và làm theo lời mời gọi của Chúa.

Vào thời Đức Giêsu, giàu có được coi là một phúc lành. Vậy mà Ngài lại coi giàu có là một cản trở nguy hiểm.  “Người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (Mc.10:23). Nếu ta biết bỏ tất cả những gì cản trở để đến với Chúa, ta sẽ đạt được chính Chúa.  Được Chúa là được tất cả. Có Chúa là có tất cả. Vì Chúa là hạnh phúc viên mãn.  Được Chúa rồi ta sẽ không còn khao khát gì khác nữa.

Chính vì thế, khi thánh Phêrô hỏi Chúa: “Chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Chúa, chúng
con sẽ được gì?
” (Mc.10:28). Chúa đã trả lời: “Ai bỏ mọi sự mà theo Ta, sẽ được gấp trăm, và được sự sống vĩnh cửu.
(Mc.10:30).

Lắm tiền nhiều của sẽ làm con người có ảo tưởng là mình giỏi, mình thành công, mình cao sang quan trọng…Nó làm con người trở nên kiêu căng, khép kín trước Thiên Chúa, không cần Thiên Chúa, và hay nhẫn tâm chà đạp lên quyền lợi phúc lộc của người anh em. Tệ nạn tham nhũng hối lộ và cường quyền áp bức ở Châu Á ngày nay là một thí dụ về sự nguy hiểm
của tiền bạc.

Theo Đức Giêsu, đôi khi ta phải chấp nhận tay trắng, chịu bấp bênh thua thiệt. Nhưng đừng quên theo Ngài cũng là trở nên giàu có.  Không phải sự giàu có do ích kỷ giữ lại, nhưng là sự giàu có do mở ra và trao tặng.  Không phải sự giàu có do tìm kiếm chiếm đoạt, nhưng là sự giàu có đến như một quà tặng biếu không.

Người khôn ngoan thì phải biết nhìn xa trông rộng.  Biết bỏ những mối lợi trước mắt để tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu.  Như thế yêu mến Chúa là chìa khóa của sự khôn ngoan. Chọn Chúa là chọn giá trị tuyệt đối, vĩnh cửu không gì có thể so sánh được.

Theo Đức Giêsu, ta sẽ được lại cả những điều đã mất. Và cái được quan trọng nhất là được chính Đức Giêsu (Pl.3:8).

***

Lạy Chúa! Xin cho con đừng quay lưng trước lời mời gọi của Chúa, đừng ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho con.

Xin dạy con biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Vì Chúa là hạnh phúc và là cùng đích của đời con. Amen.

(Tổng hợp từ R. Veritas)

nguồn: Nguyễn Kim Bằng gởi

Con hạc trắng

Con hạc trắng
Bạn có bao giờ ngắm kỹ một con hạc trắng chưa? Nó trông thật mảnh mai; chân dài, người mỏng, trong một bộ lông trắng muốt. Trông nó thanh cao như một người luống tuổi mà vẫn giữ được phong cách ung dung… Con hạc được coi là một con vật sống lâu cho nên người ta gọi tuổi của các cụ là tuổi hạc.
Tết năm nào gia đình tôi cũng lên Đà Lạt nghỉ ngơi tại nhà 1 người anh bà con. Ðằng sau nhà anh tôi có một con đường mòn dẫn tới một công viên. Con đường mòn vào cuối Xuân chớm Hạ thật là đẹp. suối róc rách chảy, cây cỏ xanh mướt, những bông hoa núi nở trắng xóa. Chúng tôi mỗi buổi sáng dắt theo con chó đi bộ, vừa đi vừa trò chuyện.
Tôi bất giác hỏi:
– Sao con người không giống cây cỏ, vào mùa đông héo, úa, rụng, đến xuân, hạ lại hồi sinh nhỉ?
Anh tôi cười, nói:
– Cứ giữ mãi được Xuân, Hạ trong lòng mình là tốt rồi.
Chúng ta những người ở  lứa tuổi đang bước vào tuổi già hay đã già. Tinh thần và thể xác không còn như hai mươi năm, mười năm về trước hay thậm chí như mới năm ngoái nữa.
Thông thường bất cứ người mang quốc tịch nào, sinh sống ở phần đất hay hoàn cảnh nào thì khi về già hay ngồi gậm nhấm lại quá khứ. Ở tuổi già, không có phương tiện di chuyển, bị trở ngại trong giao tiếp đã làm một số người sống một cuộc sống tẻ nhạt, từ tẻ nhạt đưa tới trầm cảm, khép kín.
Từ đó sinh ra bao nhiêu bệnh, và khi có bệnh, sự chạy chữa xem chừng không có hiệu quả lắm cho những người này.
Bác Sĩ Ornish, tác giả cuốn sách Love & Survival, nói rõ: Tách lìa tình thân gia đình và bạn bè là đầu mối cho mọi thứ bệnh từ ung thư, bệnh tim đến ung nhọt và nhiễm độc.
Tình thương và tinh thần lạc quan là gốc rễ làm cho chúng ta bệnh hay khỏe.
Ba mươi năm trước mà nghe ai nói cô đơn sinh ra các chứng bệnh thì người ta sẽ chỉ cười nhẹ.. Nhưng bây giờ điều này đã được nhiều bác sĩ công nhận là đúng.
Những buổi tĩnh tâm chung, có cầu nguyện, có tịnh niệm (tùy theo tôn giáo của mỗi người) chia sẻ những buồn vui, lo lắng của mình cùng người khác cũng giúp khai thông được những tắc nghẽn của tim mạch như là ăn những thức ăn rau, đậu lành mạnh vậy.
Nếu không nói ra được những gì dồn nén bên trong thì chính là tự mình làm khổ mình. Khi nói ra, hay viết ra được những khổ tâm của mình thì hệ thống đề kháng được tăng cường, ít phải uống thuốc.
Theo Bác Sĩ Ornish, khi bị căng thẳng cơ thể sẽ tiết ra một hóa chất làm cho mọi sinh hoạt ứ đọng, ăn không ngon, đầu không suy nghĩ, mạch máu trì trệ,mất sức đề kháng, dễ cảm cúm.
Như vậy sự cô đơn cũng là chất độc như cholesterol trong những thức ăn dầu mỡ, mà chỉ có sống lạc quan mới cứu rỗi được.
Nếu bạn không mở tâm ra cho người khác thì bác sĩ bắt buộc phải mở tim bạn ra
thôi!!!
Tuổi như thế nào thì gọi là già, chúng ta biết khi một người qua đời ở tuổi 60 thì được gọi là
‘hưởng thọ’.   Vậy sau tuổi 60 mỗi ngày ta sống là một “bonus”, phần thưởng của Trời cho.
Chúng ta nên sống thế nào với những ngày ‘phần thưởng’ này. Lấy thí dụ một người lớn tuổi, sống cô đơn, biệt lập, không đi ra ngoài, không giao thiệp với bạn hữu, thế nào cũng đi đến chỗ tự than thân trách phận, bất an, lo âu, ủ dột và tuyệt vọng. Từ đó bắt nguồn của bao nhiêu căn bệnh.
Trong Những lời Phật dạy có câu:

Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình.


Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng…

Chắc trong chúng ta không ai muốn rơi vào hoàn cảnh này. Gặp gỡ bè bạn thường xuyên trong những sinh hoạt thể thao là điều tốt lành nhất cho thể lý.
Ði tập thể thao như nhẩy nhẹ theo nhạc, tắm hơi, bơi lội, tennis v.v… đã giúp cho người lớn tuổi giữ được thăng bằng, ít ngã, và nếu có bệnh, uống thuốc sẽ công hiệu hơn, mau lành hơn.
Gặp bạn, nói được ra những điều phiền muộn cho nhau nghe, ngồi tĩnh tâm, đến nhà thờ, chùa cầu nguyện giúp được làm chậm lại sự phát triển của bệnh.
Bác Sĩ Jeff Levin giáo sư đại học North Carolina khám phá ra từ hàng trăm bệnh nhân, nếu người nào thường xuyên đến nhà nguyện họ có áp suất máu thấp hơn những người không đến nhà nguyện, ông bỏ ra hàng đêm và nhiều cuối tuần để theo dõi, tìm hiểu những kết quả cụ thể của ” Tín ngưỡng và sức khỏe “!
Cuốn sách ông phát hành gần đây nhất có tên là God, Faith and Health. Trong đó ông cho biết những người tín ngưỡng khỏe mạnh hơn, lành bệnh chóng hơn, ít bị nhồi máu cơ tim, gặp sự thăng trầm trong đời sống họ biết cách đối diện, họ luôn luôn lạc quan.
Lạc quan là một cẩm nang mà chúng ta nên luôn luôn mang theo bên mình. Ðừng bao giờ nói, hay nghĩ là ” Tôi già rồi, tôi không giúp ích được cho ai nữa ”  hoặc  ” Tôi vụng về, ít học, chẳng làm gì được ” .
Tôi xin kể câu chuyện Hai con ngựa của thầy phó tế George A.Haloulakos.
Cạnh nhà tôi có một cánh đồng cỏ, hàng ngày có một cặp ngựa, con nọ lớn hơn con kia một chút thong thả ăn cỏ ở đấy. Nhìn từ xa chúng là đôi ngựa bình thường giống những con ngựa khác. Tuy nhiên nếu bạn đến gần, bạn sẽ khám phá ra là có một con mù.
Trên đường trở về chuồng mỗi chiều, con ngựa nhỏ chốc chốc lại ngoái cổ lại nhìn bạn, muốn biết chắc bạn mù của nó vẫn đi theo tiếng chuông của nó để lại đằng sau..
Chủ nhân của nó chắc thương nó không nỡ bỏ đi, mà còn cho nó một chỗ ở an toàn. Chính điều này đã thành một câu chuyện tuyệt vời.
Ðứng bên chúng, bạn chợt nghe có tiếng chuông rung, phát ra từ cái đai nhỏ vòng quanh cổ con ngựa nhỏ hơn, chắc là một con cái. Tiếng chuông báo cho con bạn mù của nó, biết là nó đang ở đâu mà bước theo. Quan sát kỹ một chút bạn sẽ thấy cái cách con ngựa sáng chăm sóc con ngựa mù, bạn nó, chu đáo như thế nào. Con ngựa mù lắng nghe tiếng leng keng mà theo bạn, nó bước chậm rãi và tin rằng bạn nó không để nó bị lạc.
Cũng giống như chủ nhân của đôi ngựa có lòng nhân từ, Thượng đế không bao giờ vứt bỏ bạn vì bạn kiếm khuyết, hoạn nạn hay gặp khó khăn. Người luôn luôn đem đến cho chúng ta những người bạn khi chúng ta cần được giúp đỡ.Ðôi khi chúng ta là con ngựa mù, được dẫn dắt bởi tiếng chuông mầu nhiệm mà Thượng đế đã nhờ ai đó rung lên cho chúng ta. Những khi khác chúng ta là con ngựa dẫn đường, giúp kẻ khác nhìn thấy.
Bạn hiền là như vậy. Không phải lúc nào ta cũng nhìn thấy họ, nhưng họ thì luôn hiện diện đâu đó. Hãy lắng nghe tiếng chuông của nhau.
Hãy tử tế hết sức mình, bởi vì có một người mà bạn gặp trên đời, biết đâu cũng đang ở trong một hoàn cảnh khó khăn nào đó họ phải phấn đấu để vượt qua. Không gì hơn là tuổi già nương dựa vào nhau trong tình bạn. Luôn luôn nghĩ bao giờ mình cũng có cái cho đi mà người khác dùng được.
Tính hài hước, làm cho người khác cười cùng với mình cũng là những liều thuốc bổ.
Thi sĩ Maya Angelou vào sinh nhật thứ 77, trong chương trình phỏng vấn của Oprah, hỏi về sự thay đổi vóc dáng của tuổi già, bà nói:
” Vô số chuyện xẩy tới từng ngày… Cứ nhìn vào bộ ngực của tôi xem. Có vẻ như hai chị em nó đang tranh đua xem đứa nào chạy xuống eo trước ” . Khán giả nghe bà, cười chẩy cả nước mắt.
Những vấn đề chính ảnh hưởng đến sức khỏe của bạn (qua tinh thần) là:
+Sự cảm thông giữa cha mẹ và con cái, giữa ông bà với các cháu.
+Tinh thần chấp nhận và lạc quan.
+Nghĩ đến những điều vui nhỏ mỗi ngày.
+Tham gia những sinh hoạt nào phù hợp với sức khỏe.
+Làm việc thiện nguyện.
Sinh, bệnh, lão, tử. Con đường đó ai cũng phải đi qua. Nhưng đi như thế nào thì hầu như 80% chính mình là người lựa chọn.
+Nhóm bạn: Ðọc sách, kể chuyện,
đánh cờ, chơi bài (không phải ăn thua).
+Tham gia các lớp thể dục: Như Yoga, ngồi thiền, khí công v.v…Và ngay cả chỉ đi bộ với nhau 30 phút mỗi ngày cũng giúp cho tinh thần sảng khoái, sức khỏe tốt hơn là ở nhà nằm quay mặt vào tường.
Hãy thỉnh thoảng đọc lên thành tiếng câu ngạn ngữ này: ‘Một nét mặt vui vẻ mang hạnh phúc đến cho trái tim và một tin vui mang sức khỏe cho xương cốt.’
Chúc tất cả anh chị em luôn cảm thấy vui khoẻ và trọn vẹn an lành trong tâm hồn !
nguồn: Anh chị Thụ Mai gởi

TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU VÀ LÒNG XÓT THƯƠNG

TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU VÀ LÒNG XÓT THƯƠNG

Lm. Giuse Trần Đình Long

Dòng Thánh Thể

 

 

Lễ an táng chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu, một nữ tu Dòng Kín từ giã cõi đời lúc vừa tròn 24 cái xuân xanh, được cử hành tại nghĩa trang thành phố Lisieux ngày 4/10/1897. Đó là một
đám táng rất đơn sơ, lèo tèo vài vị giáo sĩ, một nhóm bà con bạn hữu và mấy chị Dòng Kín bậc hai. Tất cả chỉ có thế ! Cuộc sống của chị đơn sơ tầm thường quá, tới nỗi có chị đã nói : “Không biết mai đây Têrêsa chết đi, chúng ta sẽ viết tiểu sử giới thiệu ra sao đây ?”. Con đường nên thánh của chị giản dị quá. Nụ cười của chị hồn nhiên qua. Lời nói của chị tình cảm quá, tới nỗi khi cuốn sách “Một Tâm Hồn” được gởi tới những vị có uy tín trong Giáo Hội, một vị đã đọc với một vẻ hoài nghi lạnh nhạt : “Chà, Thánh đâu như hoa lề đường, sao mà dễ thế ! Chuyện gì phải qua rồi cũng sẽ qua !”.

Nhưng các vị đó đã lầm. Bông hoa lề đường đó đã tỏa hương thơm ngào ngạt khắp thế giới. Ngọn gió Thánh Linh thổi nhè nhẹ nhưng đã làm rung chuyển thế kỷ 20. Thánh nữ là sứ
điệp của Thiên Chúa, là lời sống động của Thiên Chúa. Chị đã khám phá ra một con đường nên Thánh mới lạ, rất ngắn, rất dễ, ai cũng có thể đi để tới Thiên Chúa.

Tuyên dương đời sống của thánh nữ, giáo hội ca ngợi giáo thuyết của chị và đã công nhận con đường thơ ấu thiêng liêng rất phù hợp với tinh thần Phúc Âm. Đường thơ ấu thiêng liêng là một bí quyết nên thánh cho mọi tín hữu khắp hoàn cầu. Nếu đường thiêng liêng này được phổ biến, chúng ta sẽ thấy việc canh tân xã hội và giáo hội được thực hiện. Thiên Chúa đã muốn làm tăng giá trị cho Têrêsa bằng một hồng ân khôn ngoan rất đặc biệt. Đức Piô XII đã mạnh bạo đặt sứ mệnh quan trọng của thánh nữ ngang với sứ mệnh của các vị tiến sĩ trong Giáo Hội.

Thánh nữ thành Lisieux đã tìm ra một con đường rất thẳng, rất ngắn, rất mới lạ, lại đơn giản dễ dàng. Đức Piô XI khẳng định : “Chị Dòng Kín khiêm nhượng đã đem cho thế giới một sứ điệp mới. Đường thơ ấu thiêng liêng đã mở ra trong giáo hội một giai đoạn mới, khiến việc nên thánh trở nên dễ dàng với mọi người.”

Tình yêu là tâm điểm, là nguyên tắc, là tận cùng của con đường thơ ấu thiêng liêng. Têrêsa nói : “Với TÌNH YÊU không những tôi CHẠY mà còn BAY”.Châm ngôn sống của thánh nữ là TÌNH YÊU. Yêu Chúa, yêu người với tất cả tấm lòng khiêm cung nhỏ bé như trẻ thơ tin
yêu phó thác vào cha mẹ.

Tinh thần Têrêsa quy tụ phần tinh túy nhất của Tin Mừng. Chúng ta thuộc về một gia đình siêu nhiên liên kết thành huyền thể Chúa Kitô và lan tràn vô biên. Chúng ta có Thiên
Chúa là Cha, Đức Trinh Nữ Maria là mẹ, và tất cả các thánh trên trời dưới đất là anh chị em trong Chúa Kitô.

Têrêsa không có những việc hãm xác kỳ lạ. Mẹ Agnès làm chứng : Tôi thấy Têrêsa càng về cuối đời, càng cố sống hãm mình cách hoàn toàn đơn sơ và mực độ. Chị thường nói với tôi rằng : “Ma quỷ hay đánh lừa những linh hồn quảng đại nhưng thiếu khôn ngoan bằng cách
thúc đẩy họ vào những hy sinh thái quá, vừa làm hại sức khỏe, vừa khiến họ không thể chu toàn bổn phận được, đồng thời lại muốn lấy đó làm tự mãn.Chỉ với những việc làm hèn mọn vô tên tuổi, nhưng lại trung thành lãnh nhận, linh hồn sẽ đạt tới đức yêu mến tinh tuyền là sự bỏ mình hoàn toàn cách mau chóng hơn.”

Giáo hội bảo đảm chắc chắn rằng lối khổ hạnh mới mẻ gồm những việc nhỏ mọn này là con đường nên thánh đích thực không kém đường lối khổ hạnh phi thường.

Cách cầu nguyện của Têrêsa rất đơn giản : “Tôi ở như đứa trẻ không biết chữ. Tôi cứ đơn sơ thật thà trần tình với Chúa những điều tôi muốn nói và bao giờ tôi cũng được Chúa
cảm thông.”

Têrêsa không có những hoạt động hiển hách : “Các chị đừng tưởng phải làm những việc lớn lao mới nên trọn lành được. Chúa Giêsu không cần đến những công trình hiển hách, hay những tư tưởng quảng bác của chúng ta. Nếu Ngài muốn những quan niệm cao siêu, Ngài
đã chẳng có các Thiên Thần thông biết trổi vượt các bậc kỳ tài trần gian ư ? Vậy Chúa không đến trần gian để tìm kẻ thần thông hay các bậc thiên tài, nhưng để yêu dấu sự đơn sơ chân thành.”

Chân lý sáng ngời nhất trong quan niệm của Têrêsa về thế gian cũng như trong cái nhìn Kitô giáo về vũ trụ là :TÌNH CHA của Thiên Chúa đối với chúng ta.

Sở dĩ tín điệp Têrêsa có sức mạnh chinh phục là vì nó biết tìm lại chân lý căn bản của Kitô
giáo. Êm dịu biết bao khi gọi Thiên Chúa là Cha và trở nên con của Ngài. Thánh nữ chỉ nhìn thấy sự dịu hiền vô tận và lòng nhân từ thương xót của Cha trên trời chiếu giãi trong ánh sáng của Thánh Linh, đơn sơ, nhưng sâu sắc.

Quả thật tình yêu là căn nguyên mọi hoạt động của Thiên Chúa trên các vật thụ tạo. Têrêsa dễ nhận ra rằng :Lòng thương xótlà nguyên nhân công việc cứu chuộc của Chúa Kitô
và tất cả chương trình quan phòng của Thiên Chúa.

“Không phải vì đã được gìn giữ khỏi phạm tội trọng mà tôi phó thác yêu mến tiến về Chúa. Cả khi tôi cảm thấy lương tâm bị đè nặng bởi những tội có thể phạm, tôi cũng dám nức lòng phó thác, và với tâm hồn thống hối tôi gieo mình vào vòng tay cứu chuộc… Tôi biết rằng chỉ trong nháy mắt, mọi xúc phạm sẽ tiêu tan như giọt lệ rơi trong than hồng.”

Không bao giờ Têrêsa tỏ vẻ buồn bực khó chịu đối với những chị em đến làm phiền mình. Trong giờ giải trí chị đem hứng thú cho mọi người. Cuối đời chị, lúc bệnh nặng, một hôm Têrêsa viết nhật ký ở ngoài vườn, mấy chị em quấy rầy chị luôn. Mỗi lần, thay vì bực bội hay là xin chị em để mình thư thái, Têrêsa êm đềm đặt bút xuống và gấp tập lại với nụ cười tươi nở trên môi. Chị tự nhủ : “Em đang viết về đức bác ái huynh đệ thì đây là lúc thực hành… Thực hành bác ái huynh đệ bao nhiêu là yêu Chúa bấy nhiêu.”

Bác ái chân chính là biết chịu đựng lỗi lầm của bạn hữu, không ngạc nhiên khi thấy họ yếu
đuối.

Thánh Têrêsa đã khám phá một chân lý mới trong Tin Mừng, mà chính Chúa Giêsu đã nhấn mạnh rất nhiều là : “Trung thành trong điều rất nhỏ mọn”. Bổn phận dù hèn kém, dù tầm thường đến đâu cũng hợp với nền luân lý hoàn hảo nhất.

Sự thánh thiện trước hết là biết thánh hóa đời sống hàng ngày. Phải có một lòng trung thành tuyệt đối và tươi vui với bổn phận trong khung cảnh rất giản dị của đời sống
tầm thường, nơi mà Chúa nhân hậu đã đặt ta vào dưới sự thúc đẩy bền bỉ và mạnh
mẽ của TÌNH YÊU.

Trong cuộc sống âm thầm nơi tu viện, chính khi thực hành những phận sự hèn mọn nhất, tương tự như công việc tầm thường hàng ngày của ta, mà chị Têrêsa Hài Đồng đã trở nên vị
đại thánh đáng kính mến.

Têrêsa sống như trẻ thơ. Trẻ nhỏ đã ý thức được sự yếu hèn của mình, nó cảm thấy mình nghèo khổ thiếu thốn mọi sự và hoàn toàn lệ thuộc : “Ở như trẻ nhỏ tức là biết sự hư vô
của mình, chờ mong mọi sự nơi Chúa từ bi như trẻ con chờ mong cha mình, tức là không lo lắng gì, không tìm kiếm gì…Ta càng khiêm nhường nhận biết mình yếu đuối và khốn nạn, Thiên Chúa từ nhân càng ghé mình đến ta để đổ ơn thánh cho ta dồi dào hơn…Nơi những linh hồn thật khiêm nhường, tình yêu không có gì cản trở, ngay cả những lỗi lầm cũng giúp họ nâng mình gần Chúa hơn.”

Không bao giờ chị Têrêsa Hài Đồng xin cho mình một chút an vui. Chị chấp nhận tất cả từ tay Chúa với một niềm tin yêu phó thác : “Bây giờ tôi không ước ao điều gì nữa nếu điều
đó không làm cho tôi mến Chúa Giêsu đến điên rồ. Chính tình yêu lôi cuốn tôi…Tôi không biết xin gì nữa ngoài việc chu toàn ý Chúa… Chỉ có một điều tôi ao ước, đó là Ý CHÚA…Tôi đã phó thác dù sống hay chết.”

Phó thác đích thực là chỉ tìm ý Chúa. Thánh nữ đã thú nhận phải mất lâu ngày mới đạt tới bậc phó thác đó : “Tôi phải qua nhiều thác ghềnh trước khi đến dòng sông bình an, trước khi đến quả ngon ngọt của việc phó thác hoàn toàn, và của tình yêu hoàn hảo.”

Sau này Mẹ Agnès đã thú nhận rằng : “Không bao giờ tôi có thể đoán được rằng một ngày kia có thể có vấn đề phong thánh cho một chị dòng sống như mọi người thường. Và người ta
thấy chị nhà bếp phân vân không biết nhà dòng sẽ có thể lấy gì mà kê lên bảng thông cáo khi chị Têrêsa qua đời, vì họ chỉ đoán chị là một nữ tu tốt lành.”

Để đạt tới tuyệt đỉnh thánh thiện, không cần làm phép lạ hay ngất trí, không cần phải hoàn tất những công việc phi thường, nhưng chỉ cần mỗi ngày biết chấp nhận bổn phận Chúa
đã ủy thác và hoàn tất với tâm tình yêu mến là đủ. Cách nên Thánh theo Têrêsa là một nếp sống thường ngày hết sức đơn sơ mà được thánh hóa bởi tình yêu.

Chúa muốn dẫn chúng ta tới tột đỉnh thánh thiện, chỉ cần bỏ mình để vâng theo những kế hoạch do lòng nhân từ và thương yêu của Chúa với tâm tình hiếu thảo, cậy trông như
một trẻ thơ. Việc nên thánh ở tại tâm hồn đơn sơ khiêm nhường, ý thức sự yếu hèn của mình mà bạo dạn phó thác cho lòng nhân từ và thương xót của Chúa.

Việc giáo hội phê nhận đường thơ ấu thiêng liêng của chị thánh Têrêsa mời gọi ta mở rộng quan niệm về việc nên thánh. Thánh nhân không chỉ là một người bằng khổ hạnh ăn chay
hãm mình hay đánh tội đến chảy máu, làm cho mọi người phải kinh ngạc. Nhưng thánh
nhân còn là người khiêm tốn, đơn sơ, thuận theo ý Chúa, tín thác hoàn toàn vào lòng thương xót của Chúa, âm thầm chu toàn bổn phận rất nhỏ nhặt hằng ngày của mình trước những con mắt hằn học và khinh khi của người đời.

Đây là lúc để cùng Mẹ Maria, cùng hai thánh nữ Têrêsa và Faustina, chúng ta trở về với con đường nên thánh trong tin yêu phó thác vào lòng thương xót của Chúa. Hãy làm mọi việc, dù là những việc nhỏ nhặt tầm thường nhất, trong tình yêu, theo cách Con Một Chúa đã làm. Vì sứ điệp của Têrêsa trước hết là sứ điệp của TÌNH YÊU: “Ơn gọi của con là trở nên tình yêu.Trong trái tim giáo hội, Mẹ yêu dấu, con sẽ là tình yêu. Như thế con sẽ là tất cả!”

“Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa”

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

XIN CHÚA CHÚC LÀNH TRÊN CON GÁI VÀ MỌI NGƯỜI

XIN CHÚA CHÚC LÀNH TRÊN CON GÁI VÀ MỌI NGƯỜI

Tác giả: Tuyết Mai

Hình như hết thảy chúng ta cha mẹ thường thương con không đồng đều? Hay vì làm
bậc cha mẹ luôn lo lắng, luôn bận tâm cho những đứa con khù khờ, thường ốm đau,
và nghèo khổ hơn?. Điều này thì hết thảy cha mẹ tôi nghĩ ai cũng thế!. Chứ những đứa con mạnh khỏe, giỏi dang, thành công trên đường đời, có tiền có bạc, thì chúng ta ít cần để ý tới chúng vì thường chúng cũng chẳng để ý gì đến ai ngoài chúng!?. Nên khi tôi nhớ con gái khờ khạo ngu ngơ của tôi cũng đúng và phải thôi!.

Hôm nay là sáng thứ Bẩy chắc cháu gái nhà tôi, đang vui vẻ lắm đây vì được thamdự vào một chương trình gây quỹ rất quy mô, rất có đông người đỡ đầu (sponsor) đến tham dự, cũng có rất đông người đến xem, chung vui và giúp cho nhau một tay (American Cancer Society). Trong số người đó có con gái tôi. Chỉ nghĩ thế thôi cũng đã cho tôi một niềm vui khó tả vì biết rằng con gái đang theo đuổi đúng Con Đường và Chúa rất hài lòng về cháu. Còn hãnh diện nào so sánh cho bằng khi biết rằng mình làm cha mẹ đã dậy con cái làm điều đúng. Sống đúng với điều Chúa dậy, mong muốn, và sống cho anh chị em.

Tuy cháu có những suy nghĩ không được trưởng thành và thường là rất ngu ngơ khờ
khạo. Nhưng việc làm của cháu nó đánh bại được tất cả sự suy nghĩ nông cạn của cháu. Như người Mỹ có câu “Action speak louder than words” có nghĩa “Hành động chứng minh mạnh mẽ hơn những lời nói xuông”.

Cầu xin Thiên Chúa ban phép lành cho tất cả mọi người có mặt tại đó nhất là trời hôm nay có nắng ấm và trong xanh; hứa hẹn sẽ gặt được thành công mỹ mãn, thành công mọi bề. Hứa hẹn sẽ quyên góp được nhiều hiện kim để giúp cho tất cả những ai đang mang chứng bệnh Ung Thư có được cơ hội chữa trị. Nếu chúng ta không chứng kiến tận mắt thì chúng ta vẫn tưởng rằng thời nay con người ta sống thiếu tình người, trái tim chai lạnh, thờ ơ trước những con người bất hạnh. Nhưng hãy đến để mà xem thấy được tình Chúa và tình người hòa quyện với nhau trong bầu không khí lành mạnh, thánh thiêng, và rất hạnh phúc.

Cầu xin Thiên Chúa luôn ban cho chúng con mở rộng Trái Tim, mở rộng đôi bàn
tay, và mau mắn cho đi hay chia sẻ để người người cùng đi trên một Con Đường mà
Thánh Giá Chúa luôn là Ánh Quang dẫn đường cho tất cả con cái Chúa đến được bến
bờ của sự Sống Muôn Đời, Nơi có Thiên Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần.
Amen.

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

(10-13-12)

CÒN RẤT NHIỀU NGƯỜI SỐNG TỐT LÀNH

CÒN RẤT NHIỀU NGƯỜI SỐNG TỐT LÀNH

(Gia Đình Hạnh Phúc)

Tác giả:Tuyết Mai

Tối hôm thứ Năm hơn 10g thì cháu gái lớn “cả” nhà tôi vừa mới đi học lớp tối về, thì anh bạn trai mới “già” đã có mặt chờ cháu ở trước cửa nhà chúng tôi.   Để gặp gỡ anh bạn này, tôi và ông nhà tôi, đã chờ cơ hội này suốt mấy ngày nay rồi! Vì hai đứa chúng cũng đã chuẩn bị để cùng nhau đi làm việc thiện nguyện cho một chương trình rất quy mô của Mỹ được tổ chức hàng năm; suốt 3 ngày liên tiếp cuối tuần nhưng bắt tay vào việc là ngay sáng thứ Sáu.   Chương Trình này có tên là American Cancer Society là Hội giúp đỡ cho tất cả bệnh nhân bị bệnh Ung Thư.   Hội tổ chức “chạy tiếp sức” suốt 24 giờ không ngừng nghỉ và suốt trong 2 ngày liền là hai ngày thứ Bẩy và Chúa Nhật.

Anh bạn trai này đã có mặt trong ban tổ chức cả 10 năm nay rồi! Chỉ riêng nhóm của anh không cũng thu vào được cho Hội là ½ triệu US Dollars; chưa kể còn mấy chục nhóm giống anh nữa!.   Ngoài công việc sắp xếp bàn ghế, dựng lều, chỗ ăn chỗ ở cho nhóm, anh còn kiêm thêm việc chụp hình cho Hội vì anh là thợ chuyên nghiệp về chụp hình (professional photographer).

Nhân dịp này anh muốn đem cháu gái đến Hội để giới thiệu cháu cho mọi người, cùng để cháu học hỏi thêm cách sinh hoạt của Hội có tầm cỡ lớn mạnh như thế nào?.   Chỉ trong một chút thời gian ngắn được nói chuyện với anh bạn của cháu, chúng tôi cũng hiểu và đọc
được trong ánh mắt sự thành thật của con người anh như thế nào?.   Anh là một con người nồng nhiệt, trung thực trong lời nói, đơn giản, vui vẻ, hiền lành, và có trái tim cộng tấm lòng thật lớn.   Không trách con gái chúng tôi rất mến mộ anh vì anh có Chúa trong anh, nên anh luôn thích những công việc thiện nguyện giúp người.  Tôi rất có cảm tình với anh vì tôi rất yêu chuộng những con người có tấm lòng luôn trải rộng ra như thế vì anh chị em
bất hạnh.

Bây giờ thì tôi tin những lời con gái cháu nói với tôi là hai đứa hiện chỉ là bạn nhau trong sáng và lành mạnh vì chúng tin rằng có Chúa luôn ở giữa chúng.   Thật sự ra thì các cháu
nhà tôi chúng còn đang bận học hành, nhưng cảm tạ Chúa đây là thời gian mà tôi được Bình An nhất, bởi tôi luôn tin rằng gia đình chúng tôi đã luôn có Chúa và Đức Mẹ chăm lo.   Luôn được gìn giữ cả xác lẫn hồn.

Chúng tôi luôn ao ước các con sống cuộc đời chân chính, đơn giản cuộc sống, ít đòi hỏi, chấp nhận cuộc đời với tinh thần vui vẻ và lạc quan.   Luôn bỏ thời giờ rảnh rỗi và công sức
cho những chương trình thiện nguyện.   Nếu có thể và có khả năng thì đi càng xa nhà càng tốt.   Nghèo nhưng cuộc sống luôn có Chúa và có anh chị em ở quanh mình, thì còn hạnh phúc nào hơn cho cuộc đời của mình, thưa có phải?.   Ích kỷ và gom góp thì không bao giờ là bài học dậy cho các cháu nhà tôi, ngay cả học cách nói dối!.

Ý tôi muốn nói thời buổi của ngày nay ai cũng gặp nhiều khó khăn, nhất là túng thiếu về tiền bạc, nhưng thưa anh chị em Tiền không mua được Tình Chúa và Tình người.   Tiền là
bạc!!??.   Tôi còn ao ước cho chúng được một lần trong đời là đi tham dự Giới Trẻ Thế Giới để cho chúng được cảm nhận và hãnh diện đạo Công Giáo của chúng ta.   Là đạo truyền thống được duy trì không bao giờ thay đổi từ thời Chúa Giêsu giao lại cho Thánh Phêrô cách nay gần 2000 năm.   Để tin rằng Giáo Hội Chúa sẽ không bao giờ bị hủy diệt (no matter what).   Đi để thấy rằng con cái Chúa Tốt Lành còn rất nhiều nhiều người ở khắp mọi nơi trên toàn trái đất.

Lậy Thiên Chúa Vua của tình yêu, xin thương ban cho tất cả con cái Chúa học dần cách Buông Bỏ thì tâm hồn chúng con mới được nhẹ nhõm như trái bong bóng, đưa chúng con đến thẳng Nhà Chúa, cách dễ dàng.   Amen.

 

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

(10-13-12)

 

TỪ BÈ TAM ĐIỂM ĐẾN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

TỪ BÈ TAM ĐIỂM ĐẾN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Ngày 26-11-1929, sau trận chiến nội tâm ”tàn-khốc”, ông Einar Berrum quyết định gởi thư đến trụ sở hội tam điểm tại Na-Uy, xin rút tên ra khỏi hội.

Thư gửi đi, ông tức khắc tìm được niềm an bình hạnh phúc khôn tả! Cùng ngày đó, ông đến gặp Cha Sở nhà thờ chính tòa Công Giáo Oslo, thủ đô Na-Uy, xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo .. Bốn năm sau, ông lấy giấy ghi lại cuộc trở về với Giáo Hội Công Giáo.

Con đường dẫn tôi đến với Giáo Hội là con đường bình thường. Có lẽ không bao giờ tôi viết lại, nếu không có người xin tôi viết. Và khi chấp nhận lời yêu cầu, cùng lúc tôi muốn bày tỏ lòng yêu mến và ghi ơn Giáo Hội Công Giáo, Mẹ chúng ta.

Tôi sinh năm 1872 tại Osolo và được may mắn lớn lên trong gia đình Kitô. Thân phụ tôi là tín hữu tin lành mộ đạo.

Sau khi mãn bậc tiểu học, tôi được cha mẹ gửi sang Anh quốc, bắt đầu bậc trung học đệ nhất cấp tại trường Thánh Olave ở thành phố York.

Đây là trường học tin lành. Dĩ nhiên người ta nói với chúng tôi về ông tổ tin lành Luther và trình bày cho chúng tôi biết tất cả thành kiến xấu về Giáo Hội Công Giáo và Vị Giáo Hoàng của Giáo Hội này! Chính trong bầu khí bài xích Giáo Hội Công Giáo mà tôi đi vào thế giới của tôn giáo và của văn chương khoa học.

Tôi không bao giờ quên Chúa Nhật đầu tiên tại thành phố York. Hôm ấy tôi bước vào nhà thờ mang tên Thánh Olave, vị thánh người Na-Uy. Đó là nhà thờ Anh giáo. Ban đầu tôi cứ ngỡ mình đang ở trong nhà thờ Công Giáo, vì lúc ấy, tôi chưa thạo tiếng Anh cho lắm..

Lần đầu tiên trong đời, tôi học biết quỳ gối. Và những nghi lễ trang trọng cùng với thánh ca có nhạc cụ đi kèm, nghe thật du dương và thật sốt sắng. Buổi phụng vụ Chúa Nhật ghi vào lòng tôi một ấn tượng tốt đẹp. Từ đó, tôi có thói quen đến nhà thờ này vào mỗi Chúa Nhật để tham dự các nghi lễ phụng vụ.. Sau này, khi trở lại Oslo, tôi cũng thường đến tham dự các buổi cử hành phụng vụ tại nhà thờ Anh giáo. Tôi đến đây không phải vì tâm tình mộ đạo cho bằng bị lôi cuốn bởi nét đẹp của các buổi cử hành. Thế thôi.

Sau khi mãn bậc trung học đệ nhất cấp tại Anh quốc, tôi trở về Na-Uy học tiếp. Đến năm 1908 – tôi 36 tuổi – xảy ra biến cố làm thay đổi cuộc đời. Thân phụ tôi giữ chức vụ cao trong hội tam điểm. Ông muốn các con trai ông phải ghi tên vào hội này. Ngày 24-4-1908, anh em tôi chính thức ghi tên gia nhập hội tam điểm.

Năm 1918, tôi thành hôn với thanh nữ Đan-Mạch sống tại thủ đô Copenhagen. Hiền thê tôi là tín hữu tin lành đạo đức và là phụ nữ trí thức. Nàng say mê văn chương và thích nghe bài giảng hay. Khi thành hôn với tôi, nàng về sinh sống tại tỉnh nhỏ ở Na-Uy. Chỉ có điều duy nhất nàng cảm thấy nhung nhớ, đó là những bài giảng hay trong các nhà thờ tin lành ở thủ đô Copenhagen.

Một Chúa Nhật mùa chay năm 1928, khi trở về nhà, nàng hớn hở nói với tôi nàng vừa tìm ra vị giảng thuyết thật hay, tại nhà thờ Công Giáo thánh nữ Brigitte. Tôi tỏ dấu tức giận và hờn dỗi, vì thấy vợ tự ý đi tìm nhà thờ Công Giáo, với vị giảng thuyết Công Giáo. Dầu vậy, từ đó, chúng tôi đều đặn đến nghe giảng tại nhà thờ này .. Tuy nhiên, hạnh phúc lứa đôi bắt đầu lung lay. Đôi khi chúng tôi còn cãi vả to tiếng với nhau nữa. Trong khi đó, vợ tôi mỗi ngày một đến gần Giáo Hội Công Giáo.

Ngày 2-12-1928, Chúa Nhật Mùa Vọng, sau khi bất bình với nhau về nhiều sự, vợ tôi vẫn cố gắng thuyết phục tôi đi lễ nơi nhà thờ Các Linh Mục dòng Đaminh tại Oslo. Tôi miễn cưỡng nghe lời vợ. Đến nơi, tôi chọn ngồi vào hàng ghế sau cùng. Nhưng thay vì cảm thấy khó chịu, tôi lại cảm thấy lòng thanh thản lạ thường. Vị Linh Mục chủ lễ và giảng hôm đó là
người Pháp. Vậy mà ngài nói rành tiếng Na-Uy, không thể chê được. Thêm vào đó, bài giảng thật hay. Tôi xúc động thật sự.

Năm sau, ngày 4-10-1929, vợ tôi chính thức gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Cuộc chiến nội tâm của tôi còn kéo dài đến ngày 26-11 cùng năm. Sau đó tôi quyết định ra khỏi hội tam điểm và xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Từ đó tôi tận hưởng niềm an bình hạnh phúc thật sự.

(”Stella Maris”, Octobre/1993, trang 30-31).


Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Maria Thanh Mai gởi

XIN MẸ MARIA CHÚC PHÚC CHO ĐỜI TU

XIN MẸ MARIA CHÚC PHÚC CHO ĐỜI TU

(AI MUỐN THỬ TU DÒNG?)

c giả: Tuyết Mai

Có phải đây là câu hỏi được đặt ra cho rất nhiều người trẻ cũng như già? Giới trẻ cùng bao nhiêu người có nhiệt huyết, nhiệt tình, âm ỉ với câu hỏi không biết mình có Ơn Chúa Gọi
không nhỉ?.   Rồi thì bậc làm cha mẹ cũng rất muốn được dâng hết con cái của mình cho Chúa.   Có cảm động lắm không khi chứng kiến ngày Lễ  ở Tay của con mình?.   Ôi thánh thiện làm sao thưa có phải?.   Rồi thì chúng ta cũng đặt câu hỏi là muốn tu Dòng hay tu
Triều?.   Hai cách tu khác nhau như thế nào?.   Ở đây và hôm nay tôi xin được nói sơ về việc Tu trong Dòng thôi nhé, vì tôi có người cháu trai Tu Dòng.   Tu Dòng thì cực khổ lắm thưa anh chị em!.   Tu Dòng không khác mâý với cuộc sống trong Quân Đội.   Ai chịu cực khổ được và có Lý Tưởng dâng hiến tuyệt đối cuộc đời cho Chúa, hoàn toàn không dính bén, chọn cuộc sống cam khổ thì hãy xin Tu Dòng.

Có rất nhiều Dòng có kỷ luật rất khắt khe.   Tuyệt đối phải có đức Vâng Lời Bề Trên của
mình.   Nếu con nhà giầu mà được cưng chìu từ tấm bé đến giờ thì xin đừng vào thử làm gì, trừ khi mình nhận được  Tiếng Gọi của Chúa thật vang dội trong cái đầu của mình, thì chắc rằng Chúa muốn Gọi anh chị em đó!.   Còn không xin đừng phí thời giờ và công sức.   Kẻo
lại mang tiếng ăn cơm Nhà Chúa mà chẳng được lợi ích gì cho ai, hoặc ngược lại còn làm nơi tôn nghiêm trở thành nơi buôn bán thì không tốt.   Hay có ảnh hưởng xấu đến những người có lòng Tu thì …. Thật đáng tội!.

Thời gian Tu gồm học tập, cầu nguyện, dâng Thánh Lễ, và mọi sinh hoạt trong ngày đều phải theo giờ giấc nhất định.   Rất nghiêm chỉnh cần phải được tuân theo.   Tôi không hiểu ai khác ra sao, nhưng riêng tôi thì luôn nể trọng và rất yêu quý các cha và thầy Dòng.   Tôi rất phục các ngài trong tiêu chuẩn sống rất thanh bần và nghèo khổ, rất giản đơn.   Tất cả
hiện kim và đồ vật có ai biếu cho thì đều đem về nhà Dòng để làm của chung. Tinh thần sống nghèo của các ngài rất là cao và rất giầu trong tình Chúa và tình người.

Các ngài trong Dòng không hề dính bén của trần gian.   Các ngài rất nhã nhặn, lịch thiệp,
và rất khiêm nhường trong mọi người.   Nhìn thấy các ngài xem giống như là Của Lễ Toàn Thiêu dâng lên cho Chúa, rất trong sạch, và rất thánh thiện. Ngoài ra các ngài là tay chân, là khí cụ rất hữu ích và hữu dụng cho Chúa.

Giúp các ngài, hổ trợ tinh thần cho các ngài là xin đừng có lời bất kính, chọc ghẹo, hay có tính cách bông đùa.   Đời Tu đã khó và các ngài vẫn còn mang bản chất rất con người, còn yếu đuối, nhất là các thầy còn trẻ.   Cám dỗ ư? Xin được ở thật xa các ngài, càng xa càng tốt.   Lời nói xin được minh bạch.   Ánh mắt nhìn xin được “tỏ sáng” như ánh sao mai; để các ngài giữ được Lời Thề Khấn hứa trọn đời.

Tôi nghĩ rằng Tu Dòng thì nam hay nữ cũng có cùng một Khổ Tu; có nghĩa chịu cực chịu khổ và muốn sống xa mọi cám dỗ thú trần.   Tận hiến cả cuộc đời mình cho Chúa và cho
anh chị em có cuộc đời bất hạnh.   Tu đây có phải là các ngài tu mắt.   Mắt chỉ nhìn ngắm mọi sự trên Trời; có nghĩa xem tất cả mọi người như anh chị em và nhìn thấy Chúa trong họ.   Tu miệng có nghĩa lời nói thốt ra phải xứng đáng để Chúa nhận lời, vì miệng các ngài dùng để đọc Lời Chúa, và cao rao chúc tụng Chúa!.   Miệng, ngoài miếng ăn chừng mực tu khổ hằng ngày, các ngài còn dùng để an ủi kẻ âu lo và kêu gọi kẻ có tội trở về cùng Chúa.   Tai tránh nghe hay gạn lọc lời nói không thích hợp với Đời Tu nhưng để lắng tai nghe Lời Chúa, trong giờ thinh lặng, trong giờ nguyện cầu.

Đời Tu quả là khó vì sự cám dỗ không ngừng trong từng ngày sống của các ngài.   Vì thế cho
nên giáo dân chúng ta hãy “kính nhi viễn chi” là tốt nhất, để các ngài tránh được mọi cám dỗ và không bị mang tiếng cho các ngài và cho Nhà Dòng.

Nhân dịp tháng Mân Côi tháng Đức Mẹ chúng con xin Đức Mẹ Maria thương yêu quý cha quý thầy cách đặc biệt.   Để quý ngài luôn sống bền vững và trung thành trong lời Khấn
Hứa trung thành sống bên Chúa và Mẹ.   Đức Tin được mạnh mẽ.   Xa ma chước cám dỗ.   Luôn sống hòa thuận một nhà trong Đức Vâng Lời và có phải đó là Tiêu Chuẩn để được Tu Dòng??.

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

(10-12-12)

 

ĐGH Gioan XXIII sau 50 năm Công đồng Vatican II

ĐGH Gioan XXIII sau 50 năm Công đồng Vatican II
Tác giả: Trầm Thiên Thu
Nửa thế kỷ qua, từ sau khi Chân phước GH Gioan XXIII triệu tập Công đồng Vatican II (1962-1965), Giáo hội Công giáo đã được canh tân. Người triệu tập Công đồng Vatican II là một “ông già vui vẻ”, được mệnh danh là “Giáo hoàng Tốt lành” (Good Pope). Ngài đã được Chân phước GH Gioan Phaolô II tôn phong chân phước năm 2000. Liệu vị “Giáo hoàng Tốt lành” có được tôn phong hiển thánh? Có nên như vậy?
Chiều ngày 3-6-1963, ĐGH Gioan XXIII đã đi vào cõi vĩnh hằng sau 4 năm rưỡi làm giáo hoàng. Văn phòng báo chí Tòa Thánh chỉ nói ngắn gọn: “Ngài không còn chịu đau khổ nữa”.
Ngay lập tức, có một phong trào nổii lên do một số người thân cận với ngài muốn ngài được phong thánh, như các vị thánh trong những thế kỷ đầu của Giáo hội. Khóa họp thứ nhất của Công đồng Vatican II kế thúc vào tháng 12-1962, ĐGH Gioan XXIII đã công bố Tông thư Pacem in Terris (Hòa bình trên Thế gian) vào tháng 4-1963 tạo bước ngoặt của đời ngài.
Ngài được lòng nhiều người trên thế giới, những người hiểu biết mức độ quan trọng của lịch sử đối với triều đại giáo hoàng ngắn ngủi và dự án Công đồng Vatican II của ngài.
Được biết, vào lúc ĐHY Leo Suenens (Bỉ), thân cận với ĐGH Gioan XXIII, và có tiếng nói uy tín trong Công đồng Vatican II, ủng hộ việc mau chóng phong hiển thánh cho Chân phước Gioan XXIII. ĐHY Suenens nói rằng người ta cần những con người đương thời mới làm khuôn mẫu cho việc phong thánh để gợi hứng cho họ trong đời sống tâm linh.
Một lời đề nghị được lan truyền trong các giám mục, thúc đẩy tiến hành nhanh, nhưng các vị lãnh đạo theo truyền thống và Bộ phong thánh đã thắng. Người kế vị ĐGH Gioan XXIII là ĐGH Phaolô VI đã tuyên bố năm 1965 rằng hai án phong thánh cùng được mở: ĐGH Piô XII và ĐGH Gioan XXIII. Hai cuộc điều tra được tiến hành, và một vị được phong chân phước năm 2000 là ĐGH Gioan XXIII, ngày xưa gọi là á thánh, bước cuối cùng là hiển thánh.
Ngoài Thánh Phêrô, mới chỉ có 80 trong 264 giáo hoàng được chính thức tôn kính trên bàn thờ. Trong 400 năm qua, Giáo hội vẫn nghiệm ngặt trong việc chính thức mở án phong thánh, điều tra và xác nhận phép lạ. Vì thế, dù thế nào thì cơ hội cho bất kỳ vị giáo hoàng nào được tôn phong hiển thánh cũng rất ít.
Tuy nhiên, ĐGH Gioan XXIII lại khác. Khi hài cốt ngài được chuyển từ hầm mộ  giáo hoàng (papal crypt) bên dưới Đền thờ Thánh Phêrô và cải táng bên dưới Bàn thồ Thánh Jerome ở lầu chính của Đền thờ vào năm 2001, khoản 40.000 người đã tham dự nghi thức cải táng này.
Khi mở quan tài, thi hài ĐGH Gioan XXIII vẫn nguyên vẹn, không hề hư nát (remarkably uncorrupted). Sau gần một ngày, người ta thấy được khuôn mặt của ĐGH Gioan XXIII. ĐHY Virgilio Noe, người giám sát và chịu trách nhiệm vụ này, đã diễn tả khuôn mặt của ĐGH Gioan XXIII vẫn “nguyên vẹn và thanh thản” (intact and serene). Ngài nói rằng các nhân chứng hiện diện khi mở nắp quan tài đã ngạc nhiên và vui mừng khôn tả. Thế giới chỉ mong chờ một phép lạ được xác định là của Chân phước Gioan XXIII là đủ thủ tục.
Rất có thể ngài sẽ được tôn phong hiển thánh vào năm 2013, sau 50 năm ngài qua
đời. Tại sao? Công đồng Vatican II của ĐGH Gioan XXIII đúng là một phép lạ!
Người Công giáo tin rằng, nhờ Chúa Thánh Thần, Công đồng Vatican II đã cứu Giáo
hội Công giáo khỏi tình trạng xơ cứng và suy sụp. Người ta vẫn nói rằng, cứ khoảng 300 năm tới 500 năm, Giáo hội lại cần tái tự kiểm tra và kiểm tra vị trí của mình trên thế giới. Đó là điều đã xảy ra tại Công đồng Nicê (Nicaea) hồi thế kỷ thứ 4 và Công đồng Trentô (Trent) hồi thế kỷ 16 – và đặc biệt là Công đồng Vatican II trong thế kỷ 20.
ĐGH Gioan XXIII tìm cách canh tân Giáo hội, ngài vẫn luôn luôn sống bác ái và
khiêm nhường, qua những tháng ngày đen tối nhất của lịch sử thế giới, khi còn là một linh mục trẻ và một binh sĩ, khi là nhà ngoại giao của Giáo hội, nhất là khi trở thành người kế vị Thánh Phêrô. Chứng cớ đời sống nội tâm của ngài được  ghi rõ trong “Journal of a Soul” (Tờ báo của một Linh hồn), một kiệt tác tôn giáo và phản ánh rõ nét mà ngày nay nên đọc nhiều.
ĐGH Gioan XIII thực sự là một vị thánh, đã và đang được nhiều người yêu mến trên khắp thế giới. Họ không cần sự chấp nhận chính thức của Tòa Thánh xác nhận những gì đã được ghi tạc vào tâm hồn họ.
TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ ReligionNews.com)

Khai mạc “Năm Đức Tin”, 11-10-2012

NGƯỜI GIẦU KHÓ VÀO NƯỚC TRỜI

NGƯỜI GIẦU KHÓ VÀO NƯỚC TRỜI

(CN 28 TN, Năm B)

Tác giả:Tuyết Mai

Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: “Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽcó một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta”. Nhưng người ấy nghe những lờiđó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Chúa Giêsu nhìn chung quanh và bảo các môn đệrằng: “Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao!” Chúa Giêsu bảo các ông rằng: “Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa”. (Mc
10, 17-27).

Điều hay lẽ phải Chúa dậy cho chúng ta thì muôn đời chẳng bao giờ sai trái như câu rất quen thuộc mà ta thường nói với nhau là “tađã nói mi rồi mà mi không nghe” hay “I told you so”; nói thường hơn nữa là những bậc cha mẹ hay dùng câu này để nói với các con. Vì chúng ít khi nào tin lời cha mẹ của chúng. Chúng nghĩ rằng cha mẹ già mà biết cái gì, nhưng chúng hoàn toàn không biết là Trường Đời thì chỉ có một trường mà thôi!. Có khác chăng là một người tốt nghiệp ra trường Công Giáo hay không Công Giáo.

Thật phải là chẳng phải đợi Chúa dậy thì chúng ta mới biết là Đường Về Trời và Đường Đời, cả hai là hai Quốc Gia không đội trời chung. Chỉ có chính ta là phải quyếtđịnh cho Linh Hồn sống đời của chúng ta sau này muốn được đến Thế Giới nào hay Quốc Gia nào?. Có
Quốc Gia luôn luônđón nhận chúng ta bất cứ ở giờ phút nào hay cả liền ngay bây giờ nếu chúng ta chán đời, không muốn sống nữa. Nhưng có Quốc Gia giầu mạnh, có tự do; ai cũng bằng ngang nhau, không ai ở cao trên ai, và cũng không ai phải ở dưới ai. Và là mạnh giầu bậc nhất so với cả thái dương hệ cộng lại cũng không sao sánh ví cho bằng. Muốn được đến đó thật chẳng phải dễ, vì lẽ con đường đi cách đàng hoàng mà không phải đi chui hay đi lậu thì đòi hỏi thời gian dài chờ đợi, nhất là chờ đợi cho có đủ tiền cái đã thì mới điđược chứ!?.

Dù chúng ta không có khả năng để xin cho được định cư lâu dài, nhưng cũng có thể đi một chuyến du lịch cho biết thì cũng đòi hỏi nơi ta công sức và mồ hôi, để tạo ra tiền mà ra nước
ngoài du lịch. Thì hà huống gì con người chúng ta lại muốn, ao ước, và khao khát trông đợi để được Có Tên Định Cư vĩnh viễn trên Nước Trời.

Một Nơi mà sẽ không đòi hỏi bất cứ một ai phải ra tay làm lụng vất vả ngày đêm. Mồ hôi,đau khổ, bị hành hạ, đau bệnh, già nua, và chết sẽ hoàn toàn không còn thấy có trên Nước Trời. Điều Chúa cam kết đó, chúng ta phải tin làm vậy!. Điều này đã chứng minh cho
toàn thể con người cách nay đã được 1979 năm trước, vì ngày đó trong thời gian đó là ngày Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết trên Thập Giá, để con người cũng sẽ được sống lại như Người.

Cùng tương tự trải qua suốt bao nhiêu thời đại, các Thánh Nam Nữ cũng đã chứng minh cho chúng ta thấy là Đường lên Trời chỉ có duy nhất một Con Đường mà ai cũng muốn lên đó, đều phải trải qua con Đường Hẹp. Là vác Thánh Giá đời mình cho trọn. Là từ bỏ tất
cả mọi thú vui thếtrần do ma quỷ chúng bày mưu và giăng bẫy để chúng ta dễ dàng theo chúng mà không chút do dự hay nghi ngờ.

Ai bảo con đường lên Trời là dễ dàng đâu? Nếu ai từng nghe người Mỹ nói là “no pain no gain” có đồng nghĩa là nếu ta không đổ mồhôi thì ăn cơm không ngon. Nhưng đối với rất nhiều người xem lời ấy chẳng có nghĩa gì cả. Mà theo Chúa thì con đường để được lên
Nước Chúa chẳng khó khăn gì lắm vì hầu hết dân Chúa đều là nghèo. Có Của đâu để mà dính bén. Có cái gì quý đâu để mà canh chừng hay ham muốn. Ngoài tấm lòng luôn rộng mở và lòng bác ái thì to hơn cả cái gia tài của cả gia đình cộng lại. Luôn sống thiện hảo và biết kính sợ Chúa hình như đó là bản ngã của dân nghèo được Chúa cấy sẵn trong tâm hồn, trái tim, và tận sâu thẳm trong cõi lòng của họ!?. Do đó 2 Điều Răn của Chúa đối với họ có khó khăn chi! Như anh nhà giầu trả lời Chúa là anh vẫn giữ tất cả Điều Răn Chúa dậy ngay từ thuở nhỏ.

Người giầu có khó có thể vào Nước Thiên Đàng bởi lối sống của dân nhà giầu thường là không biết Chia Sẻ. Đã thế họ rất thích để được gom góp, tích lũy, càng gom nhiều càng tốt. Mà muốn gom muốn tích thì nguồn ở đâu để cho họ gom và họ tích? Mà không do từ những
cái mánh khóe để trục lợi của dân nghèo ở khắp cùng mọi nơi. Từ sự gian ác trong lãnh vực mướn người làm công, trả lương họ thật rẻ mạt ngay cả không thể nuôi nổi cho người thợ đói lòi cả xương. Rồi thì khi họ đổ bệnh thì liệng họ ra ngoài đường cách tàn nhẫn vô nhân đạo.

Vâng, có phải Ý Chúa muốn nói vậy hay không? Rõ ràng nhất là chuyện của anh phú hộ giầu có và anh Lazaro nghèo ghẻ lở. Anh phú hộ giầu có ngày ngày sống nhởn nhơ,vô tư lự như con ve sầu, chẳng để ý gì đến ai, thế mà Chúa phạt cho xuống Hỏa Ngục đời đời.
Thưa chỉ vì cái tội“chẳng để ý đến ai” đấy thôi!.

Lậy Thiên Chúa của Lòng Thương Xót! Ban cho chúng con có tấm lòng nhân lành và bác ái, giống Chúa. Có được cái đầu khôn ngoan để biết tính toán Nơi sau này chúng con muốn Đến. Có khôn ngoan không thưa Chúa khi ở đời này chúng con chịu cực, chịu thương chịu
khó, chịu nhịn nhục, thì ở Đời Sau là sự thưởng ban mà không gì quý giá hơn cả cho bằng được Chúa ban cho Nước Trời. Được sống một đời sung mãn, hoan lạc, trong yêu thương, trong đoàn kết, trong tựdo.

Thương yêu nhau trong tình yêu ba ngôi Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần. Cùng được tìm về bên Mẹ Maria yêu dấu. Nơi ấy sẽ hoàn toàn không còn ngăn cách, mất mát, và chia lìa. Ôi còn gì hạnh phúc cho bằng lậy Thiên Chúa vô cùng rất Yêu
Thương của chúng con. Xin ban cho chúng con sự khao khát thèm thuồng Nước Chúa
ấy, luôn nung nấu trong tận thâm sâu cõi lòng của chúng con. Để cùng đích là cho Linh Hồn sống đời của chúng con chiếm hữu được Lòng Thương Xót của Chúa và Nước Trời. Amen.

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

(10-11-12)

 

MẸ BAN BÌNH AN TRÊN GIA ĐÌNH

MẸ BAN BÌNH AN TRÊN GIA ĐÌNH

(Hạnh Phúc Gia Đình)

Tác giả: Tuyết Mai

Cả một ngày hôm qua vợ chồng chúng tôi vẫn còn tiếp tục bàn về chuyện liên hệ tình cảm của cháu với người bạn trai “già” mới quen.   Thật tình mà nói chuyện của hai cháu cũng rất mới mẻ, còn trong thời gian quen biết, và  tìm hiểu.   Tôi cũng cảm tạ Thiên Chúa cho chúng tôi có buổi nói chuyện gia đình quan trọng này cùng có mặt của cháu gái lớn “cả” của chúng tôi.

Ít nhất chúng tôi cũng cho cháu hiểu rằng đâu là điều kiện để cháu được an toàn mà cháu cần lưu ý ở người bạn trai lớn tuổi hơn cháu nhiều.   Vì già nên anh ta có nhiều kinh nghiệm
sống đời từng trải.   Nếu già mà tốt và hiền lành, có tín ngưỡng đàng hoàng thì là điều tốt cho cả hai.   Ngặt nỗi anh bạn này ở mãi tận L.A. nên sự gặp gỡ qua lại của hai cháu cộng những lần đi chơi khuya làm chúng tôi đâm lo lắng, đứng ngồi không yên, và cảm thấy bất an thế nào ấy!.   Dù cháu khẳng định rằng hai đứa chỉ là bạn nhau thôi với một tình cảm rất trong sáng và lành mạnh (vì có Chúa ở giữa chúng, cháu bảo vậy!).

Sự quan tâm của bố cháu theo con mắt của ông nhà tôi thì là điều ông không thể chấp nhận được, bởi ông nghĩ rằng cháu chưa lớn đủ để hiểu đời và không thể lường được mọi người.   Thứ nhất vì chúng tôi không từng biết gì về anh ta, tuy nhiên bạn bè quen thân trong nhóm đi làm việc thiện nguyện, đều biết rất rõ về anh ta và sự đàng hoàng của anh ấy!.   Và con gái tôi đã quen biết anh cũng trong những dịp làm việc thiện nguyện với nhau, hầu như là mỗi tuần.   Nhưng đối với con mắt nhìn lạc quan của tôi, ngoài cái tuổi tác của anh ra thì anh ta cũng được.

Vì Face Book của anh tôi cũng biết.   Anh làm việc tại đâu tôi cũng tỏ.   Quan hệ của anh
trong quá khứ tôi cũng nắm phần nào.   Nhà anh ở đâu tôi cũng hay.   Số phôn của anh tôi có và số phôn của anh trưởng nhóm trong nhóm thiện nguyện nhà cũng ở rất gần với anh ta.   Được biết anh ta rất yêu Chúa và những giờ rảnh rỗi cũng chỉ tìm những nơi để làm việc thiện nguyện và giúp người có cuộc sống bất hạnh.   Và vì lý do này mà con gái lớn nhà tôi rất mến mộ anh ta, vì hai đứa có cùng Lý Tưởng Sống cho người.

Đối với tôi tuổi tác tuy có chênh lệch nhưng nếu 2 con tim hát cùng một bài hát yêu thương người thì dù có sóng gió chúng cũng cùng nhau vượt qua và quá khứ đã được chứng minh điều đó!.   Không nhất thiết chồng hơn tuổi vợ mà hứa hẹn rằng chồng sẽ chết trước vợ đâu nhé!.   Như bà chị kế của tôi đây, chồng hơn vợ đến 20 tuổi tròn, nhưng sức khỏe hiện giờ thì bà chị tôi lại bệ rạc hơn ông nhiều.   Anh rể tôi lớn tuổi hơn nhiều nhưng rất hiền
lành.   Theo đạo và sống một cuộc đời luôn thương yêu Chúa, gia đình, và yêu người.   Có biết bao nhiêu người yêu thương ông ấy!.   Có khả năng nuôi cả gia đình.   Con cái nên người và tất cả đều đã thành nhân và nên gia thất.   Thế thì đâu là tệ?.   Hoặc giả ai dám cam đoan vợ chồng trẻ ngang tuổi nhau lại sống với nhau đến răng long đầu bạc? Không có vấn đề?.

Như ông nhà tôi lớn hơn tôi những 13 tuổi thì lại thấy đó là vấn đề ư?.   Nếu người mà thấy là vấn đề thì người ấy phải là tôi chứ, thưa có phải?.   Đối với tôi vấn đề hay không là ở cách ăn ở sao trong cách sống của mình.   Tỏ lộ sự yêu thương, chăm lo, và quan tâm đến nhau.   Đừng tỏ ra là mình có quyền hành trên vợ rồi hiếp đáp vợ mình vì đó là điều chẳng phải tí nào, khi vợ là người luôn cần đến sự bảo bọc của chồng.   Nhiều nhất, khác nhất đối với tôi vẫn là sự chọn lựa cách nhìn đời và nhìn người cách lạc quan hơn mới phải.   Khác nhau lắm là ở chỗ đó!.

Người lạc quan là con người can đảm, chấp nhận mọi tình huống trong cuộc đời.   Vấp té bể đầu cũng tự vực  mình dậy để đi tiếp chứ không nằm yên đó chờ đợi có người đến hỏi han chăm sóc, nhất là thời nay!.   Chuyện tệ tới đâu cũng nhủ lòng rồi thì ngày mai trời lại sáng.   Luôn tìm niềm vui trong đau khổ.   Biết tìm lời an ủi người để chính mình cảm thấy được an ủi vì dẫu sao người vẫn đau khổ và kém may mắn hơn mình nhiều.

Nhưng có phải con người  cứ mỗi buổi sớm mai thức dậy cũng luôn cảm thấy thiếu Nguồn Sinh Lực Sống và cần được lãnh nhận từ Nguồn của Nó? Thưa nguồn ấy ở đâu?.   Thưa nguồn Sinh Lực không giới hạn ấy là từ Trời Cao là từ Thiên Chúa của chúng ta.
Đó là điều mà tất cả chúng ta cần phải làm ở mỗi buổi sáng sớm.   Là tịnh tâm, lắng lòng, dâng lời tạ ơn và kinh nguyện; gọi là “thiền” (meditation) đó thưa anh chị em!.   Do đó và nhờ đó mà mỗi ngày chúng ta có một ngày mới tinh trong; hay một tờ giấy trắng trong ngày của cuộc đời.

Có nghĩa tờ giấy trắng ấy nó cho ta “đủ” những gì ta sắp xếp trong ngày để cho ta có cuộc sống quân bình.   Tờ giấy ấy luôn luôn trên cùng và sau hết là Lời Cảm Tạ Chúa.   Khoảng giữa là tất cả mọi điều chúng ta có thể làm tùy theo thứ tự quan trọng của chúng cần phải làm trước làm sau là do ta quyết định.   Như công ăn việc làm.   Thời giờ cơm nước và với
nhau trong gia đình.   Thời giờ thăm hỏi bạn bè cùng người thân thuộc.   Hay tìm thời giờ riêng cho chính mình, v.v…..

Tôi thấy Thiên Chúa của chúng ta Người cho chúng ta thời giờ ngày 24 tiếng là tuyệt hảo là rất vừa vặn và vừa sức cho con người.   Chứ không chắc chẳng ai qua được tuổi 50.   Tôi thấy Người thật Tuyệt Hảo vì cứ thế con người ta sống còn có bao nhiêu cơ hội để làm lại cuộc đời vì mỗi sớm mai Chúa cho chúng ta một ngày mới toanh.   Một trang giấy nhật ký mới và tùy ở mỗi người chúng ta muốn chọn cách sống sao để những trang giấy ấy là một tác phẩm tuyệt đẹp để đời?.

Tất cả mọi người chúng ta có phải đã từng nghe có những cuốn nhật ký của ai đó đã qua đời, nhưng để lại cho con cháu một bài học “đời” đáng để lưu lại từ thế hệ này qua thế hệ kia.   Ngược lại cũng có những cuốn nhật ký mà đọc một lần thôi thì chỉ muốn đốt nó đi vì
trong ấy chỉ chứa đựng toàn những mối mọt, mục nát, và bợn dơ bám phủ đầy, phát
gớm?.

Lậy Mẹ Maria! Xin Mẹ ban cho tất cả gia đình chúng con luôn sống trong an vui, hạnh phúc, và Bình An của Chúa.   Dù cuộc sống có nghèo cũng luôn giúp nhau sống nên Thánh được giống như Gia Đình Thánh Gia gương mẫu và mực thước.   Nghèo chẳng phải là cái tội phải không thưa Mẹ? Nhưng ngược lại đó là cái Phúc vì có thế chúng con mới biết thông cảm và biết an ủi người.   Vì khi chúng con an ủi người là chính lúc chúng con tìm được nguồn Bình An và được Chúa chúc phúc.   Amen.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

(10-11-12)