GE mô hình kinh doanh đặc biệt: Chủ Tàu điều hành toàn bộ là người Mỹ, hoạt động độc lập ở Mỹ

Bài viết của AI và Thông Tấn Xã AP

GE Appliances – mảng thiết bị gia dụng mang thương hiệu GE – không còn thuộc sở hữu của General Electric. Năm 2016, GE đã bán bộ phận này cho Haier Smart Home Company (một công ty con của tập đoàn Haier, Trung Cộng) với giá 5,6 tỷ USD. Hiện nay, GE Appliances hoạt động như một công ty con độc lập  khỏi hệ thống công ty mẹ là Haier Smart Home. Tuy nhiên theo hợp đồng này, Haier có quyền sử dụng thương hiệu GE cho thiết bị gia dụng đến năm 2056, Trụ sở chính của GE Appliances đặt tại Louisville, Kentucky, Mỹ.

Entrance to Appliance Park GE Appliances Global Headquarters

Trụ sở GE hàng gia dụng ở thành phố Louisville,  tiểu bang Kentucky, hình của GE.

Lợi thế của Haier trong cách kinh doanh song hợp này là, họ có được thương hiệu nổi tiếng của Mỹ để học kỹ thuật, thiết kế công nghệ và cách quản lý của GE, đó là chưa kể đến việc chiếm lĩnh thị trường Mỹ mà không phải hao tốn thời gian đầu tư xây dựng từ con số không.

TỆP – Một máy giặt General Electric được đặt bên trong một cửa hàng bán lẻ, ngày 15 tháng 9 năm 2023, tại Marietta, Ga. (Ảnh AP/Mike Stewart, Tệp) · Associated Press Finance · ASSOCIATED PRESS

Thị phần của GE ở Mỹ và Trung Cộng

  • GE Appliances là một trong những thương hiệu hàng đầu trong ngành thiết bị gia dụng lớn, chiếm khoảng 14–16% thị phần ở một số phân khúc (như tủ lạnh) và nằm trong Top 3 thương hiệu lớn nhất tại Mỹ, cạnh tranh với Whirlpool và Electrolux.
  • GE Appliances không phải là thương hiệu chủ lực ở Trung Cộng. Thị trường này do Haier (công ty mẹ của GE Appliances) thống trị, cùng với Midea và Gree. Haier hiện là hãng thiết bị gia dụng số  một tại Trung Cộng và cũng dẫn đầu toàn cầu về doanh số thiết bị gia dụng lớn.

Tuong Lai của GE đi về đâu?

Theo TTX AP,  GE Appliances có kế hoạch chuyển hoạt động sản xuất tủ lạnh, bếp gas và máy nước nóng ra khỏi Trung Cộng và Mexico như một phần của khoản đầu tư hơn 3 tỷ đô la nhằm mở rộng hoạt động tại Hoa Kỳ ở Kentucky, Georgia, Alabama, Tennessee và Nam Carolina.

Khoản đầu tư này – lớn thứ hai trong lịch sử công ty có trụ sở tại Louisville – dự kiến sẽ tạo thêm hơn 1.000 việc làm đồng thời tăng cường sản xuất trong nước và hiện đại hóa các nhà máy trong năm năm tới.

“Chiến lược dài hạn của chúng tôi là sản xuất gần khách hàng”, CEO Kevin Nolan cho biết. “Với sản xuất tinh gọn, nâng cao kỹ năng cho lực lượng lao động và tự động hóa, bài toán này hoàn toàn khả thi đối với ngành sản xuất tại Hoa Kỳ.”

Phần lớn hoạt động sản xuất thiết bị của GE hiện đã diễn ra tại Hoa Kỳ và sự chuyển dịch này chỉ có nghĩa là công ty sẽ chuyển nhiều công việc hơn đến các nhà máy trong nước.

GE cho biết sẽ di dời hoạt động sản xuất bếp gas từ Mexico đến một nhà máy ở Georgia, trong khi sáu mẫu tủ lạnh hiện đang sản xuất tại Trung Cộng sẽ được sản xuất tại nhà máy ở Alabama.

Decatur, Alabama | GE Appliances Pressroom

Nhà máy sản xuất tủ lạnh của GE gia dụng ở Decatur, tiểu bang Alabama.

Vào tháng 6, công ty cho biết sẽ chuyển hoạt động sản xuất máy giặt từ Trung Cộng đến khu phức hợp sản xuất rộng lớn ở Louisville. Thông báo về việc chuyển sản xuất về nước được đưa ra trong bối cảnh Tổng thống Donald Trump đang nỗ lực thu hút các nhà máy trở về Hoa Kỳ bằng cách áp đặt thuế nhập khẩu — thuế quan — đối với hàng hóa nước ngoài.

Aeriel view of Appliance Park, GE Appliances' Global Headquarters.

Khu liên hợp sản xuất máy giặt, máy xấy của GE hàng gia dụng ở tiểu bang Kentucky với 8000 nhân viên, hình của GE

GE Appliances cho biết hôm thứ Tư rằng giai đoạn đầu tiên của khoản đầu tư mới sẽ bắt đầu tại các nhà máy ở năm tiểu bang miền Nam — Kentucky, Alabama, Georgia, Tennessee và Nam Carolina.

Production team member holds a Built for America sign iin the Selmer TN plant.

“Chúng tôi đang định hình tương lai của ngành sản xuất tại GE Appliances bằng cách đầu tư vào nhà máy, con người và cộng đồng,” Nolan nói. “Không một công ty thiết bị gia dụng nào trong thập kỷ qua đầu tư nhiều hơn vào ngành sản xuất tại Hoa Kỳ như chúng tôi, và kế hoạch 5 năm trị giá 3 tỷ đô la của chúng tôi cho thấy cam kết của chúng tôi đối với ngành sản xuất tại Hoa Kỳ sẽ tiếp tục trong tương lai.”


.

Cựu chiến binh Mỹ David quay trở lại Việt Nam gặp lại người yêu cũ

Nguyễn Hoàng Tuấn

Cựu chiến binh Mỹ David quay trở lại Việt Nam gặp lại người yêu cũ.

Hơn 50 năm trước, giữa khói lửa chiến tranh Việt Nam, những con đường Sài Gòn náo nhiệt nhưng cũng đầy bất ổn. Trong bối cảnh ấy, những mối tình ngắn ngủi nhưng khắc sâu vào tâm khảm đã xuất hiện – một trong số đó là chuyện tình của David Thompson, chàng lính Mỹ 24 tuổi và Lệ Hằng, cô gái Việt Nam mới tròn 20, dịu dàng, đầy mơ mộng.

David lần đầu gặp Lệ Hằng ở một quán cà phê nhỏ gần chợ Bến Thành. Dù bất đồng ngôn ngữ, ánh mắt và nụ cười đã kéo họ lại gần. Những buổi chiều, họ dắt tay nhau dạo trên đường Tự Do – nay là đường Đồng Khởi, quận 1 – nơi sầm uất bậc nhất Sài Gòn thời ấy. Họ ăn những chiếc bánh mì nóng, ngồi bên ly cà phê sữa đá ngắm người xe qua lại, tạm quên tiếng bom đạn ở ngoại ô.

Tình yêu của họ lãng mạn nhưng cũng mong manh. Mỗi ngày David đều lo sợ: ngày mai liệu anh còn ở đây, hay sẽ phải ra trận, hay rút quân? Nhưng anh vẫn hứa với Hằng: “Khi chiến tranh kết thúc, anh sẽ tìm cách đón em sang Mỹ, mình sẽ bên nhau mãi mãi.” Lệ Hằng tin tưởng anh, dù lời hứa chỉ là thì thầm giữa khói thuốc và ánh đèn đường vàng vọt.

Ngày định mệnh đã đến. Hiệp định Paris năm 1973 ký kết, Mỹ rút quân cấp tốc. Trước ngày về nước, David được lệnh tập trung khẩn, không kịp quay lại chợ Bến Thành tìm gặp Hằng. Trong khoảnh khắc rời Sài Gòn trên chiếc trực thăng, anh khóc như chưa từng khóc, mang theo hình bóng cô gái anh yêu, cùng nỗi dằn vặt khôn nguôi.

Trở lại Mỹ, David cố gắng bắt đầu cuộc sống mới. Anh kết hôn, sinh hai người con, làm việc không ngơi nghỉ để quên đi những ám ảnh chiến tranh và kỷ niệm ở Việt Nam. Nhưng mỗi đêm, trong giấc mơ, anh lại thấy Hằng. Có khi cô bế một đứa bé, có khi chỉ đứng giữa phố Sài Gòn, ánh mắt buồn vời vợi. David tự hỏi: “Liệu mình đã bỏ lại đứa con nào đó mà không biết hay không?”

Những năm tháng trôi qua, David cũng già đi, tóc bạc, sức khỏe yếu dần. Khi đến tuổi nghỉ hưu, ký ức về Sài Gòn càng trở nên rõ nét. Trong một giấc mơ, Hằng nói với anh: “Em thích sống ở gần chợ Bến Thành. Anh còn nhớ không?” Câu nói ấy khiến ông quyết định phải quay lại Việt Nam, dù đã ngoài 75 tuổi.

David liên hệ báo chí cộng đồng người Việt ở Mỹ, hội cựu binh, để tìm manh mối. Thông tin chỉ vỏn vẹn: cô gái năm xưa sống ở một con hẻm gần đường Tự Do, thích đi chợ Bến Thành. Nhưng sau chiến tranh, khu vực này thay đổi quá nhiều, không ai còn nhớ rõ.

Khi đặt chân xuống sân bay Tân Sơn Nhất, David rưng rưng. Mùi không khí, tiếng xe máy, tiếng rao hàng – mọi thứ thân thuộc ùa về. Ông thuê một khách sạn nhỏ gần trung tâm, bắt đầu những ngày dài tìm kiếm. Hằng ngày, ông dạo khắp chợ Bến Thành, hỏi thăm từng người bán, chìa tấm ảnh cũ nhưng chỉ nhận lại những cái lắc đầu ái ngại.

Những buổi tối, ông ngồi trong phòng khách sạn, nhìn tấm ảnh, khóc trong im lặng. Ông nhớ từng câu nói, từng nụ cười, từng lần nắm tay Lệ Hằng đi dạo. Trong một đêm mơ, cô lại xuất hiện, nói với ông: “Em vẫn đợi anh ở chợ Bến Thành.” Câu nói vang vọng khiến ông bừng tỉnh, quyết tâm dậy từ 5 giờ sáng, ra chợ tiếp tục tìm kiếm.

Ông đi từ sáng đến chiều, vẫn vô vọng. Đến 6 giờ tối, thất vọng nặng nề, ông bước ra cổng chợ. Đúng lúc ấy, ánh mắt ông bắt gặp một bà cụ bán nước, ánh mắt quen thuộc ấy khiến tim ông thắt lại. Ông nghẹn giọng, hỏi:

– “Em… có phải là… Lệ Hằng…?”

Bà cụ sững người, nhìn chằm chằm vào ông. Rồi bà cười qua giọt nước mắt:

– “David… thật sự là anh sao?”

Hai người già nua ôm nhau giữa chợ Bến Thành, giữa dòng người tấp nập. Những người xung quanh dừng lại nhìn, vài người rơi lệ trước khoảnh khắc định mệnh của hai con người đã lạc mất nhau hơn nửa thế kỷ.

Bà Hằng dẫn ông David về căn nhà nhỏ trong con hẻm sát bên chợ. Mở cửa bước vào, ông sững sờ khi thấy một người đàn ông trung niên, khoảng hơn 50, đôi mắt, sống mũi giống hệt ông. Dù dáng vẻ lam lũ, áo quần sờn cũ, nhưng nét lai Mỹ hiện rõ trên khuôn mặt.

Bà Hằng nói qua tiếng nấc:

– “Anh biết cậu ấy là ai không? Đây… là Dũng… con trai ruột của anh.”

David gần như quỵ xuống, run rẩy:

– “Trời ơi… con… con của cha…”

Bà Hằng kể, sau khi David rời đi, bà phát hiện mang thai. Dù bị xã hội kỳ thị, mẹ bà khuyên nên giữ đứa trẻ. Bà đã nuôi Dũng khôn lớn, bất chấp khó khăn. Khi chương trình ODP (Orderly Departure Program) cho con lai Mỹ sang Mỹ, bà làm hồ sơ, nhưng lúc đó chồng sau của bà lâm bệnh nặng, bà không thể bỏ chồng để đi. Sau này, chính sách thay đổi, hồ sơ hết hiệu lực, Dũng mãi không có cơ hội ra đi.

David quyết định ở lại Việt Nam, thuê một mặt bằng nhỏ ngay gần chợ Bến Thành, mở một quán bán xúc xích chiên mang phong cách Mỹ-Việt để Dũng có công việc ổn định. Ông chăm sóc bà Hằng mỗi ngày, bù đắp những năm tháng bà đã khổ cực nuôi con. Mỗi tối, ba người ngồi trước hiên nhà, cùng kể chuyện, cười đùa, tận hưởng hạnh phúc muộn màng.

Tony xin chúc cho ông David, bà Lệ Hằng và Dũng luôn hạnh phúc bên nhau. Mong rằng câu chuyện này nhắc nhở chúng ta: hãy trân trọng những người thân yêu khi còn có thể, vì thời gian không bao giờ chờ đợi ai.

Chuyện Tình Chiến Tranh


 

Đi Tìm Hơi Ấm Đồng Hương – Tràm Cà Mau

Kimtrong Lam

Tràm Cà Mau

Con sông Illinois bốc khói mịt mù như có đám cháy lớn trong mấy ngày liên tiếp, rồi đá cục nổi lều bều, lổn nhổn trông rất hỗn độn. Sau đó thì mặt sông băng thành đá cứng phẳng lì, yên lặng, và phủ đầy tuyết màu trắng.

Mùa đông năm 1981 đó, sở khí tượng tiểu bang Illinois ghi nhận mức độ lạnh kỷ lục trong vòng năm mươi năm. Hàn thử biểu tụt xuống đến trừ tám mươi độ F khi có tác dụng của gió. Tuyết bay mịt mù trời đất. Tuyết được dồn thành những đống cao ngút bên hai lề đường. Sở Công Chánh của thành phố vất vả đêm ngày, gởi xe cào tuyết xúc dọn những con đường chính của thành phố, để xe cộ có thể lưu thông. Những con đường phụ, thì tuyết ngập cao, không biết đâu là lòng đường, lề đường, bằng phẳng như một góc của thảo nguyên miền địa cực.

Thở ra mịt mù như đang thổi khói thuốc lá, tôi thử khạc một bãi nước bọt, nhổ lên tường nhà xem có tạo thành tiếng kêu “cong” như người ta thường nói dóc hay không. Ông bạn tôi nói: “Lạnh như thế nầy, thì có lẽ khi tiểu tiện ngoài trời, nước đóng thành một cái cây đá cong cứng, nối từ đưới đất lên bụng”. Tôi nói đùa : “Thôi thôi, áo quần bảy tám lớp, làm sao mà tiểu tiện ngoài trời được. Có kéo ra được, thì e gió lạnh thổi, nó đóng thành băng và gãy mất thôi.””

Tay tôi, mang vớ len dày, bên ngoài trùm thêm vớ da. Thế mà hai bàn tay cũng tê buốt, mấy ngón tay cóng lại, khó cử động. Chân tôi mang hai lớp vớ bông, đi giày tuyết, thế mà cũng nhức nhối cả bàn chân khi đi ra đường. Bên trong nhà, hơi thở ẩm làm tuyết đóng dày, trắng xóa, làm thành cái gờ to bao quanh thành cửa sổ. Chúng tôi tưởng cái lạnh nầy là bình thường ở các xứ tuyết, nên khi nghe các ông bà Mỹ than lạnh quá, thì tôi cũng ngạc nhiên.

Vợ tôi nói, còn một tuần nữa là Tết Nguyên Đán. Tôi không trả lời nhưng trong lòng cũng thấy xao xuyến. Chỉ có trơ trọi hai gia đình Việt Nam trong cái thành phố Morris nhỏ bé với dân số bảy ngàn người nầy. Thành phố nằm về phía Tây Nam của thành phố Chicago, khoảng cách gần hai giờ lái xe. Chỉ hai gia đình thôi, thì ăn Tết với ai đây. Vui gì mà Tết nhất. Tôi nói với vợ :

“Hay là em thử kêu điện thoại cho anh chị Hy xem, họ có tính chuyện Tết nhất gì không. Họp nhau lại ăn Tết cho đỡ buồn.”

Vợ tôi kêu điện thoại, chị Hy bên kia giây nói :

“Sắp Tết rồi mà chúng tôi đâu biết, nếu anh chị không nhắc, thì có lẽ nó qua đi lúc nào chẳng hay. Tết rồi sao? Đây là cái Tết đầu tiên của tôi trên đất Mỹ. Anh chị có tính gì không, cho chúng tôi theo với.”

Với chúng tôi, tuy không là Tết đầu tiên, nhưng trong lòng cũng không yên, nghe đâu đó có chút gì xôn xao, chờ đợi. Cái Tết đầu, khi chúng tôi còn ở miền Tây nước Mỹ, vợ tôi chờ cho đến giao thừa, bốc điện thoại kêu chúc mừng năm mới bà con, bạn bè. Kêu điện thoại đường dài. Đánh thức bà con bạn bè dậy lúc nửa đêm. Nhiều người đang ngái ngủ, bực mình, nói chuyện lạt lẽo qua loa rồi gác máy. Cái hớn hở của vợ chồng tôi bị cụt hứng nhiều lần. Ông anh vợ tôi, đi du học và ở lại Mỹ làm việc đã nhiều năm, ở tận miền đông, cách chúng tôi ba múi giờ, ông hỏi rằng:

“Có việc gì khẩn cấp không? Sao mà dựng cổ anh dậy lúc ba giờ sáng để chúc Tết. Có khùng chưa? Sao không đợi đến sáng mai rồi kêu?”

Vợ tôi ngần ngừ đáp:

“Bây giờ là giao thừa!”

“Giao thừa. Hừ, giao thừa. Ở Mỹ cũng có giao thừa sao? Ha ha ha. Thôi, cô đừng kêu điện thoại cho ai khác nữa mà làm phiền họ.”

Nhờ anh, mà vợ chồng tôi dè dặt hơn, và sau nầy biết mình làm cái việc chúc mừng năm mới hơi lố.

Thế nhưng trong lòng chúng tôi chưa nguội lạnh được với cái tục lệ Tết đã ăn sâu vào trong tiềm thức từ thuở nào. Chúng tôi nhất định năm nay phải ăn Tết cùng gia đình anh Hy. Tôi nói:

“Tết mà không có bánh chưng, mứt, hạt dưa thì chẳng có mùi vị Tết. Có khác chi họp mặt ăn bình thường. Nhưng thôi, có họp nhau ăn Tết, còn hơn là quanh năm không có ngày nào Tết cả. Mình không có đạo, nên ngày Chúa giáng sinh cũng không đèn đóm, không cây thông, không bánh trái. Giáng sinh Mỹ thì nhà nhà đóng cửa, như lén lút ăn với nhau, không cho thiên hạ biết. Đường sá vắng hoe, không rần rần đi dạo phố nửa khuya quanh nhà thờ như bên mình. Không ai mời bạn bè, tiệc tùng đông đảo lúc nửa đêm. Mình không là Mỹ, thì Tết Tây cũng lạt phèo, không có chi vui, vợ chồng nằm nhà xem truyền hình.”

Chúng tôi bàn chuyện Tết với gia đình anh Hy. Vợ chồng anh mừng lắm, và hẹn sẽ cúng ông bà theo lối tập thể. Bày bàn thờ cúng chung. Anh Hy sẽ xin nghỉ việc một ngày, đưa chị Hy và vợ tôi về Chicago, xuống phố Tàu, mua nếp, hạt dưa và các thứ cần thiết để mừng xuân.

Sau khi đi Chicago về, anh Hy rối rít báo cho tôi biết là có gặp anh Sáu Nạc, anh nầy đang ở trong một tu viện tại thành phố La Salle, cách thành phố tôi chừng bốn mươi lăm phút lái xe. Sáu Nạc đề nghị tổ chức ăn Tết chung cho dân Việt Nam tị nạn trong vùng. Anh sẽ mượn hội trường của tu viện để tổ chức Tết. Anh liên lạc với những gia đình Việt Nam tị nạn rải rác trong các thành phố hẻo lánh của tiểu bang. Kêu điện thoại cho họ, và hẹn ngày giờ tụ họp làm một cái Tết nhớ quê hương. Qua niên giám điện thoại, anh đã liên lạc được mười mấy gia đình trong tám thành phố khác nhau. Chưa quen biết nhau, nhưng thấy có cái tên Việt Nam là kêu liền, và khi liên lạc được, họ rối rít đón mừng, cảm động. Anh bảo những người nầy tìm kiếm thêm đồng hương, và nhắn nhau về La Salle ăn Tết. Có gia đình ở dưới miền nam, tận tỉnh xa cũng hẹn về họp mặt.

Tôi nhớ rõ, nhờ cuốn niên giám điện thoại mà quen biết anh chị Hy. Khi công ty chuyển tôi từ California lên đây để gia nhập đoàn chuyên viên đang lo xây cất một nhà máy năng lượng hạt nhân trong vùng. Loại nhà máy nầy thường xây tại các nơi dân cư thưa thớt, để tránh sự chống đối của các nhóm bảo vệ môi sinh, và nếu lỡ có tai nạn, thì cũng bớt ảnh hưởng đến đông đảo dân chúng. Nằm trong khách sạn Holiday Inn, tôi dở cuốn điện thoại, tra tìm từ họ Nguyễn, họ Trần, họ Lê, họ Phan và qua các họ lớn khác, không thấy một ai tên Việt Nam. Lật lui lật tới mãi nhiều lần, tôi tìm được cái tên Dong Hy. Tôi thầm nghĩ, không chừng ông nầy người Tàu, là hậu duệ của ông Đổng Trác. Thử gọi điện thoại xem sao, nếu không phải Việt Nam thì xin lỗi, có mất gì đâu. Qua phút đầu tiên bỡ ngỡ, khi anh Hy biết tôi đang ở trong thành phố nầy, anh vui mừng rối rít, dù là đã chín giờ đêm, anh đòi đến khách sạn gặp tôi ngay. Anh đem cả bà mẹ già, vợ và hai con còn ẵm trên tay đến thăm xã giao. Hai vợ chồng cười vui rối rít, mừng như anh em trong nhà lâu ngày mới gặp lại nhau. Bà mẹ anh nắm tay vợ tôi mà nước mắt rưng rưng vì mừng. Chị Hy cho biết, trong thành phố nầy chỉ có gia đình anh chị là người Việt Nam nên rất thèm gặp đồng hương. Mỗi khi đi Chicago qua phố Tàu, thấy những cái đầu đen, thì lòng chợt ấm lại và nghe hân hoan. Gia đình anh chị Hy được nhà thờ bảo lãnh đến đây. Nhà thờ rất tử tế. Buổi đầu họ cung cấp nhà ở, trả luôn tiền điện nước. Mỗi tuần đưa đi chợ hai lần, và trả luôn tiền chợ. Sau mấy tuần, họ kiếm việc cho anh Hy làm trong một cơ xưởng tu bổ tàu thuyền. Phần việc của anh là cạo sét vỏ tàu. Treo mình tòn ten bên ngoài thành tàu mà gõ sét. Mùa hạ thì nắng nóng đốt cháy da thịt, khát nước liên tục, mùa đông thì gió tuyết quật, rét cắt da, gió hú ào ào. Nhưng anh Hy rất sung sướng và thỏa mãn với công việc đang làm. Lương đủ nuôi vợ, hai con nhỏ và một bà mẹ già. Chị Hy thì thỉnh thoảng đi lau chùi nhà cửa cho các ông bà già trong thành phố kiếm thêm tiền. Bà mẹ anh Hy là người Tàu chính gốc. Bà lưu lạc đến Việt Nam lúc mới mười lăm tuổi, và xem Việt Nam như quê hương. Mỗi lần nói chuyện, bà thường nói “bên mình” để chỉ cái quê hương Việt Nam của bà. Anh chị Hy khẩn khoản yêu cầu chúng tôi ở lại thành phố nầy, dù cái nhà máy chúng tôi đang xây nằm bên thành phố La Salle. Chúng tôi cũng mừng vì có đồng hương, chị Hy cùng vợ tôi chạy quanh tìm nhà thuê mà không có, phải nhờ bà bảo trợ của gia đình chị hỏi giúp. Bà vào nhà thờ, rao báo lên. Cuối cùng tìm được cho chúng tôi thuê nhà ông John. Ông ở từng dưới, và từng trên có cầu thang riêng, đầy đủ bếp núc, phòng khách, phòng ngủ, phòng tắm để cho thuê. Mỗi chủ nhật, chúng tôi ra nhà anh Hy chơi, có khi cùng ăn cháo trắng buổi sáng với cà na. Bà cụ thường lén rưng rưng nước mắt với vợ tôi, bảo là chị Hy không tốt, vì có lúc chị đánh thằng cháu nội của bà, và chị biết bà đau nhức xương cốt mà bắt ăn cà na, nhức xương thêm. Vợ tôi làm cho bà một hộp thịt chà bông lớn. Bà cảm động lắm. Thấy bà cô đơn, chúng tôi thường chở bà đi chơi, đưa bà vào quán Mỹ, mời bà ăn vài món lạ, cho bà uống sữa quậy nước dâu. Bà vui mừng và nói líu lo như đứa bé. Vợ chồng tôi cũng vui lây.

Anh Sáu Nạc dặn mỗi người đem một món đến ăn Tết. Tôi lãnh phần nấu bánh chưng theo lối cấp tốc. Cứ nấu riêng nhân đậu, thịt heo, và ba nồi xôi lớn có trộn phẩm ăn màu xanh lá chuối. Xôi phải nấu thật khô. Tôi dùng cái hộp sắt hình vuông làm khuôn. Cắt đáy hộp, lát giấy nhôm, bỏ xôi vào chừng nửa hộp, sau đó đổ nhân đậu xanh và thịt heo vào, phủ thêm một lớp xôi nữa. Gói lại, dùng tấm gỗ mà nén thật chặt. Dùng cái búa nện cho chắc hơn. Vợ tôi bảo đừng nện chặt quá, cơm nếp nát ra thành bánh dầy, khi mở ra thấy kỳ lắm. Cột thêm dây bên ngoài. Tôi đặt tên là bánh chưng mạo hóa. Trong một buổi tối, tôi làm được tám cái bánh chưng lớn. Vợ tôi lo ngại sẽ không tiêu thụ hết mấy cái bánh nầy, rồi đem bỏ đi thì tội của trời. Những năm nầy, chúng tôi không bao giờ dám phí phạm thức ăn. Vì chúng tôi đã từng đói ăn trong thời đất nước đang tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩ. Chúng tôi đã gần chết đói khi thuyền chết máy trôi dạt trên biển khơi. Mấy cái bánh chưng tôi làm vuông vắn, cứng và đẹp hơn cả bánh chưng thật. Đồ giả thường đẹp hơn đồ thật. Vợ chồng anh Hy xuýt xoa khen mấy cái bánh chưng của chúng tôi. Tôi dấu không cho họ biết cách nấu bánh chưng giả nầy.

Ngày họp mặt ăn Tết được chọn vào thứ bảy, vì chủ nhật nhà thờ làm lễ. Tuyết bay ngập trời, đan dày kín, thu ngắn tầm nhìn trước mặt. Quạt nước quay liên tục gạt tuyết. Tôi lái xe chạy trước, xe anh Hy bám theo sau. Phải chạy cách nhau một quãng dài, để kịp thắng khi cần. Gió hú ào ào như ma quỷ kêu gào dọa dẫm . Hai bên đường tuyết đóng thành những cánh đồng trắng xóa ngút ngàn. Có khi tuyết ngưng rơi, nhìn xuống cuối chân trời, trước mặt và hai bên, không thấy bóng cây, nhà cửa, nông trại. Tuyết mênh mông, trời đất trắng mênh mông, không có đường chân trời, hai chiếc xe lầm lũi đi tìm hơi ấm đồng hương, chở những con người còn nặng lòng thương nhớ nước non. Con đường liên tỉnh, mỗi chiều có một dòng xe, vắng hoe, như một con rạch chạy dài uốn khúc, hai bên tuyết đóng ụ cao. Những bầy chim nhỏ màu đen đói khát, đậu trên mặt đường tìm chút hơi ấm của khói xe còn vương đọng lại, chúng bay vù lên khi tránh xe đi qua, rồi đáp xuống lại trên đường. Vợ tôi thắc mắc không biết tuyết mênh mông trời đất như thế, thì lũ chim nầy ăn cái gì mà có thể sống qua suốt mấy tháng mùa đông. Trời lạnh cần nhiệt lượng, bụng mau đói, mà chỉ có tuyết trắng bao phủ dày đặc, đâu có ăn tuyết mà sống được. Từ tỉnh lộ, chúng tôi bắt qua xa lộ, xe cộ đông đảo hơn. Hai ven đường, năm bảy chiếc xe vận tải hàng, lớn như những căn nhà, bị trượt bánh, lật nằm ngã nghiêng. Những ông tài xế đường dài kia, chạy xe bất kể ngày đêm, đi băng qua lục địa Mỹ, đi từ bờ Thái Bình Dương qua đến bờ Đại Tây Dương và ngược lại. Chuyên chở hàng hóa, thực phẩm, và phải giao hàng đúng hạn kỳ vì sợ bị hư thối, hoặc chậm trễ công việc thương mãi. Các ông sống với sương gió nắng mưa dọc theo xa lộ nhiều hơn sống trong nhà, họ thiếu ngủ thường trực. Xe thì lớn cồng kềnh, dài lòng thòng, chỉ cần một sơ suất nhỏ là gây tai nạn dính chùm. Tôi nhìn những chiếc xe ngổn ngang chổng gọng nằm giữa tuyết ở hai ven đường mà cảm thương cho người, và sung sướng cho mình, không phải cực nhọc vất vả như cuộc đời của những người tài xế kia.

Đi qua khỏi cánh đồng tuyết mênh mông, thì thấy cái tháp chuông nhà thờ nhọn, nhú lên lờ mờ ở chân trời. Cứ nhắm hướng đó mà đi tới. Tuyết lại đổ mịt mù, che mất không gian trước mặt. Từng vờ tuyết lớn úp chụp vào kiếng xe. Con đường trơn trợt, tôi chạy chậm lại chờ xe anh Hy. Thấy xe anh Hy dừng, tôi lái xe thụt lùi lại hỏi. Anh Hy quay kiếng xuống nói vọng qua:

“Tuyết đổ dày quá, không thấy đường mà lái. Dừng lại chờ cho bớt cơn bão tuyết rồi đi.”

Tôi nói lớn trong gió gào:

“Không được. Dừng lại thì tuyết nó phủ dày, ngập bánh xe, không lái ra khỏi ụ tuyết đâu. Vả lại, dừng xe mà nổ máy, khói xe độc lắm, có thể chết người.”

Chúng tôi chạy xe thật chậm, cẩn thận trên con đường vắng hoe. Cuối cùng, cũng đến nơi. Tu viện lớn như tòa lâu đài cổ, nhiều căn nhà ngang dọc. Sân tu viện trắng xóa mênh mông. Trong bãi đậu xe đã có gần chục chiếc, đa số là xe cũ, kềnh càng, móp méo. Đúng là xe của những người tị nạn, thừa hưởng được từ lòng nhân ái của các hội nhà thờ đem tặng. Tôi và anh Hy xốc nách dìu bà cụ của anh, đi qua cái sân đầy tuyết. Bà cụ không đi, mà xìa chân ra trượt trên tuyết và cười hăng hắc vui vẻ.

Trong hội trường đã xôn xao tiếng người. Đa số đến trước giờ hẹn. Họ nôn nao quá, phải đi cho sớm để gặp đồng hương. Hai dãy bàn dài có trải khăn trắng, đã bày sẵn nhiều loại thức ăn khác nhau. Phía cuối tường có kê một cái bàn, làm bàn thờ tổ quốc, bên sau treo lá cờ lớn. Anh Sáu Nạc chạy lui chạy tới, tíu tít bận bịu. Mọi người đều góp tay vào việc sửa soạn. Không có ai là chủ, ai là khách.

Thế mà có gần đủ các món Tết của Việt Nam. Hạt dưa, mứt, dưa món, củ kiệu, bánh dầy, bánh chưng, bánh da lợn, bánh đúc, bánh bò, thịt kho nước dừa, có cả một nồi bún bò, và một thùng phở. Mọi người hớn hở vui cười nói chuyện hàn huyên. Tất cả có mười lăm gia đình, được bốn mươi sáu người. Gia đình anh Hy đông nhất, có bà cụ, hai vợ chồng và hai đứa con nhỏ. Có nhiều gia đình chỉ độc nhất một người như anh Sáu Nạc, Chị Nha, bà Trang, ông Phú và mấy người thanh niên khác nữa. Họ đến từ nhiều thành phố khác nhau trong các vùng phụ cận: Rochelle, Morris, Peru, Kewanee, Streator, Chillicothe, Pontiac, Peoria. Mười lăm gia đình ở chín thành phố khác nhau. Tất cả đều độn áo quần năm bảy lớp, làm cho thân thể sưng phồng lên tròn vo, trong lúc mặt mày còn xương xẩu, gầy còm, khắc khổ. Chứng tích của những ngày thiếu thốn trong trại tị nạn, và đậm nét hơn của những năm hòa bình, bữa khoai sắn, bữa bo bo, bữa cháo, bữa cơm.

Họ cười cười, nói nói hân hoan, nhưng trong ánh mắt họ chan chứa sâu thẳm nỗi buồn, không ai dấu được ai. Một anh lớn tuổi nhận xét :

“Trong một đám đông Á Châu, thì người ta có thể nhận ra ai là Việt Nam ngay, vì trên mặt họ không che dấu được nỗi buồn sâu kín.”

Có người hỏi lại:

“Tại sao mà buồn? Đã tìm được tự do, đã sống trên miền đất mơ ước còn buồn cái gì?”

“Anh nói lạ chưa. Nước mất, nhà tan, gia đình li tán khắp năm châu, kẻ tội tù, người bị đày đọa. Bạn bè, anh em, kẻ chết chìm đáy biển, người chết khô trên rừng, và người ở lại thì không thấy bóng tương lai. Họa là sắt đá mới không biết buồn. Ngay cả những nụ cười khi lòng hân hoan, cũng có cái buồn phảng phất đâu đó trên môi, trong ánh mắt.”

Tôi nhìn sâu vào ánh mắt từng người đồng hương và thở dài. Có lẽ cũng phải mười năm, mười lăm năm nữa, may ra họ mới quên lãng và hết buồn. Gặp gỡ, họ xoắn lấy nhau chuyện trò, như những người bạn thân thiết lâu ngày. Đủ thứ chuyện trời đất mưa nắng. Nhưng nhắc nhở nhiều nhất là chuyện quê nhà ngày xưa, những êm đềm hạnh phúc trong quá khứ, và những gian nan cay cực đã qua trong xã hội mới, những hiểm nguy khi đi tìm tự do.

Sáu Nạc nói với tôi rằng quê anh ở Rạch Giá. Trước năm 1975, anh mơ ước hòa bình bằng mọi giá. Quốc gia hay cọng sản anh không cần, chỉ cần được sống yên bình, không còn chiến tranh, chết chóc. Anh đã né tránh tham gia vào cuộc tương tàn bằng cách trốn đi lính. Trốn chui nhủi như một con thú. Khi nào cũng sợ bị bắt. Hòa bình đến, mừng như cất được gánh nặng ngàn cân. Nhưng nỗi vui mừng tắt ngay và nhận ra, thà có chiến tranh mãi mãi, để còn chút không khí tự do, còn hơn là thứ hòa bình khủng khiếp lạ kỳ nầy. Anh vượt biển với hai đứa em, một trai một gái. Hai đứa đã bỏ mạng trên biển, chỉ còn mình anh đến được bến bờ tự do. Anh được tu viện bảo trợ đến đây. Cho một căn phòng để ở, cơm nước có các Bà Chị nữ tu nấu nướng cho toàn viện. Áo quần cũng được các chị giặt giúp. Công việc hàng ngày của anh là ngồi trên xe cắt cỏ, cắt từ đầu nầy đến đầu kia khu vườn của tu viện rộng mênh mông nầy . Khi cắt đến cuối vườn, thì đầu kia cỏ cũng đã mọc vừa cao, quay trở lại cắt nữa. Cứ thế mà ngồi trên xe suốt cả mùa xuân mùa hạ. Đến mùa thu thì vừa cắt cỏ vừa thổi và hốt lá vàng, liên tục từ sáng cho đến chiều. Mùa tuyết đổ, thì suốt ngày ngồi trên xe xúc tuyết, ủi sạch tuyết cho xe lưu thông trong khuôn viên tu viện. Trong tu viện, ai cũng làm việc, không việc nầy thì việc kia, chẳng ai ngồi không. Nhà thờ rất công bằng và tử tế, trả lương cho anh theo số giờ làm việc. Bởi vậy nên anh hăng hái hơn và thấy vui hơn trong khi làm. Ở đây rất tự do, muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm, không ai bó buộc. Miễn sao công việc hoàn tất thôi. Mỗi thứ bảy, chủ nhật anh chạy xe về Chicago chơi, thăm viếng bạn bè, vào khu phố Tàu ăn uống, mua các thức cần dùng, rồi lang thang trong các phố Tàu để có cảm giác như gần gũi với quê nhà hơn. Anh thấy được yên ổn sống trong tu viện nầy là quá hạnh phúc, quá sung sướng. Anh nghĩ rằng, ngày xưa, ông Ngô Đình Diệm khi qua Mỹ lánh nạn, sách viết rằng, ông cũng được sống trong một tu viện, có lẽ cái tu viện đó tương tự như tu viện nầy. Và có lẽ, ông cũng được nhà thờ cho công việc làm để có chút tiền tiêu và quên ngày tháng buồn bã nơi đất khách quê người. Trong thành phố La Salle nầy, chỉ có anh Sáu Nạc là người Việt Nam thôi. Gia đình Việt Nam ở gần anh nhất, là anh chị Trương, ở một thành phố phía Bắc, cách nhau chừng bốn mươi dặm. Anh Trương trước là quan tòa, ngồi xử án thiên hạ. Sau năm 1975 thì đi tù. Nhờ có thân nhân làm lớn trong ngành công an, móc nối với chỉ huy trưởng trại cải tạo, đút lót tiền bạc, được về sớm hơn bạn bè. Anh đóng tiền đi vượt biên bán chính thức theo người Tàu. Anh Trương trắng trẻo như một thư sinh. Anh cho biết đang làm nghề hái nấm cho một nông trại trong tỉnh. Nấm trồng trong nhà lồng lớn, có giàn kệ cao, nhiều lớp chồng lên nhau. Suốt ngày anh đứng chàng hảng, đạp chân lên hai cái giàn kế cận, lùa tay vào bên trong nhặt nấm. Theo anh, thì công việc cũng nhẹ nhàng. Ai chăm có thể làm một ngày mười hai tiếng, và nếu muốn, thì làm luôn cả thứ bảy, chủ nhật. Vợ chồng anh đều làm cho nông trại trồng nấm nầy. Đứa con được xe trường đưa rước tận nhà mỗi ngày. Anh cho rằng, đây là thiên đường tìm thấy, không cần đi tìm đâu xa xôi. Tiền lương tiêu không hết, đời sống an bình hạnh phúc. Căn nhà ba phòng, có vườn rộng mênh mông, thuê rất rẻ. Chị Trương thả gà, trồng hoa quả, rau ráng trong mùa nắng ấm. Mùa đông thì họ rút vào phòng, đốt lò sưởi, xem truyền hình, nghe nhạc. Mỗi tháng, họ lái xe về Chicago một lần mua các thức ăn khô Á Đông. Tôi gợi ý cho anh Trương tìm cách ghi danh vào các đại học, kiếm một nghề chuyên môn, để đời sống khá hơn. Anh Trương cười và nói với giọng vui vẻ:

“Mình đi tìm tự do. Có được tự do là quý rồi. Lại được thêm ấm no hạnh phúc nữa. Đòi hỏi thêm làm gì. Tôi đang có sự an bình, thanh thản, sung sướng. Bỏ cái đang có, đi tìm cái chưa có, e thêm khổ thân mà thôi. Trong trại nấm nầy, tôi thấy công việc dễ dàng, tốt đẹp, thế mà rất nhiều người đến đây, làm vài tuần, vài tháng, rồi bỏ đi, uổng quá. Họ không thấy được cái hạnh phúc của đời sống an bình, thì đi đâu họ cũng không tìm được cả.”

Tôi ngần ngại nói thêm:

“Ở đây cô quạnh. Anh chị không thấy buồn? Vả lại, anh chị lại có trình độ sẵn, đi học cũng mau””

Anh Trương cười ha hả:

“Học! Chính vì cái học mà bị đi tù ba năm. Khi tôi đi tù, thì bố tôi thường than rằng, nếu tôi chịu ở nhà làm ruộng như mấy ông anh, đừng đi học, thì đâu đến nỗi tù tội cho khổ cái thân. Còn cô quạnh, thì cũng có chút chút. Nhưng tôi nhớ khi còn ở trong nước, tôi và bạn bè thường mơ ước được ra sống ngoài hoang đảo, để khỏi bị phiền nhiễu, lo âu trong chế độ mới. Bây giờ, ở đây, một xứ văn minh, có thành phố, có con người, thì cái cô quạnh nầy có đáng gì.””

Nói xong, anh Trương quay qua hỏi một ông đứng bên cạnh:

“Tôi nghĩ như thế có đúng không anh Dương?”

“Đúng hoàn toàn. Ở đâu tìm được an bình hạnh phúc, thì nơi đó là thiên đàng hạ giới.”

Anh Dương trả lời, y hệt giọng điệu anh Trương. Anh Dương chừng trên dưới bốn mươi tuổi. Khi ở Việt Nam, anh hành nghề bác sĩ, vợ anh là dược sĩ. Hai vợ chồng đang làm công nhân cho một chợ tạp hóa Mỹ. Ngày ngày sắp xếp rau cải, trái cây lên quầy, phun tưới nước, dọn dẹp bên trong, bên ngoài. Anh chị có hai đứa con đang học trung học. Nhiều bạn bè rủ anh chị về California để học thi, trở lại nghề cũ, nhưng anh cảm thấy tạm bằng lòng với đời sống hiện tại, và tìm được an bình trong đời sống đơn giản nơi đây, không muốn đi đâu cả. Vả lại, anh chị không muốn làm xáo trộn việc học hành của con cái. Anh cũng từng đi tù. Cũng từng trở lại nghề cũ, nhưng chán ngấy với những gò bó, ép buộc. Anh đã bỏ nghề, theo vợ chạy ngược xuôi chợ trời buôn bán thuốc tây, áo quần cũ, đồng hồ, máy móc. Vắt giò lén lút chạy quanh chợ trời, mà anh thấy vui và thoải mái hơn là đến nhà thương nghe chỉ thị, học tập, đường lối, chính sách. Anh đi vượt biển không tốn tiền, vì được mời làm bác sĩ cho chuyến tàu hơn hai trăm người, trên tàu có những gia đình giàu có, họ cần bác sĩ để phòng khi bất trắc. Nhưng ra biển, anh say sóng nằm dài. Cả thuyền cũng không ai chăm sóc được ai. Gia đình anh được một họ đạo bảo trợ về thành phố nhỏ hiu quạnh nầy. Anh có ý định, viết một tập hồi ký, gọi là lịch sử dân gian. Anh sẽ không viết về những trận đánh, những hiệp ước, những chính quyền. Mà chỉ viết lại trung thực về đời sống trong dân gian của một giai đoạn khổ đau trong lịch sử. Viết với sự bình tĩnh, khách quan, không để tình cảm thương ghét, căm giận xen vào sự kiện. Anh sợ người đời sau quên, con cháu quên, rồi lại dẫm lên vết xe đổ cũ. Anh sợ những bóp méo lịch sử làm sai lạc sự thực, đời sau không ai còn biết đến những điều kỳ lạ đã xẩy ra trong xã hội của thời đại qua. Và nếu không ai viết, thì đời sau làm sao còn có những tài liệu để truy tìm sự thực.

Trong đám đồng hương, người rầu rĩ ít nói nhất là ông Nguyên. Vợ và bảy đứa con nhỏ của ông đã chết trên biển. Ông cười mà cái miệng méo xệch như đang khóc, và tiếng cười nghẹn trong cổ họng càng giống tiếng khóc hơn. Ông may mắn sống trong thành phố có đến ba gia đình Việt Nam. Thỉnh thoảng họ ghé thăm nhau cũng đỡ buồn. Có người nói, ông đang dự tính dời nhà về vùng Hoa Thịnh Đốn, nhưng nghe nói mãi mà chưa thấy ông ra đi. Thỉnh thoảng, ông được chị Hòa cho mượn mấy tờ báo Việt Nam đọc, ông quý và trân trọng giữ gìn cẩn thận. Chị Hòa tốt nghiệp kỹ sư hóa học, qua Mỹ từ hồi 1975, được hãng Du Pont thuê, và đang làm việc cho một nhà máy biến chế hóa học trong vùng. Chị là một trong ba gia đình Việt Nam của thành phố mà ông Dương đang ở. Bố mẹ chị thỉnh thoảng gởi sách báo Việt nam cho chị đọc, như một món ăn tinh thần. Chị thường than, là nếu làm việc mãi nơi đây, thì làm sao mà có chồng được. Tuổi tác chị cũng đã trên dưới ba mươi rồi.

Đúng mười một giờ, cụ Trần, người lớn tuổi và chững chạc nhất, dâng hương lên bàn thờ tổ quốc. Cụ thắp hương và vái ba lạy về hướng Tây Nam, nơi mà cụ nghĩ là quê hương Việt Nam nằm về phía đó. Anh Sáu Nạc bắt nhịp, cùng tất cả đồng hương hát quốc ca Việt Nam. Lần đầu tiên nghe lại bản quốc ca sau nhiều năm dài, trái tim tôi nhói lại, lòng xúc cảm dạt dào. Nhiều người không cầm được lòng, để nước mắt chảy xuống hai dòng tràn trề trên má. Nhiều bà thút thít khóc, vừa khóc vừa hát. Khi hát xong, bà cụ anh Hy hỏi nho nhỏ:

“Sao không ca cải lương cho vui, mà ca cái bài gì lạ hoắc, làm nhiều người buồn khóc?”

“Đây là bài quốc ca” Vợ anh Hy nói nhỏ.

Bà cụ nói lại với giọng miền Nam run run:

“Uất ca! Uất chết được đi chớ. Đang sống yên lành, họ từ ngoài Bắc vô, cấm đủ điều, cấm buôn bán, cấm làm ăn, ngăn sông cấm chợ, xô người ta ra biển, bỏ cả mồ mã cha ông mà chạy. Phải rồi, hát ‘uất ca’ là đúng”

Sau bản quốc ca, là một phút mặc niệm cho những đồng bào đã bỏ mình trên biển khơi khi đi tìm tự do. Vừa nghe xong, thì ông Nguyên, người có vợ con chết biển, úp hai tay vào mặt và chạy mau ra khỏi hội trường. Anh Sáu Nạc vội vã đuổi theo ông Nguyên.

Sau nghi thức, mọi người nhập tiệc. Tôi hơi ngượng khi nghe có bà nào đó nói:

“Bánh chưng ngon tuyệt. Ai nấu bánh chưng đây? Ngồi canh lửa nấu bánh ngày tết thiệt là vui. Ở đây mình mất cái thú đó rồi””

“Bánh nầy hơi cứng. Hay là vì trời lạnh làm bánh khô, ăn như ăn cơm nếp.”

Vợ tôi nói:

“Bánh nầy do ông xã em nấu đó. Ông nấu một..”

Tôi vội vã đá vào chân vợ tôi dưới gầm bàn, và nói mau, nho nhỏ:

“Thôi, em đừng nói thật làm bà con mất vui. Cứ để họ thưởng thức cái hương vị bánh chưng của họ trong quá khứ. Bật mí ra làm chi.”

Mấy người mang tô nhựa đến nồi phở đứng chờ thành hàng dài. Chị chủ nhân nồi phở hớn hở trụng lại bánh phở, múc nước lèo, gắp thịt thái sẵn, bỏ hành ngò, mùi phở thơm tho bốc lên trong cái hội trường đóng kín.

“Ngon không thua gì phở Pasteur. Cho em thêm cái hành trần đi. Trời lạnh, ăn phở nóng là lên thấu thiên đàng.”

Mấy người khác, đưa tô cho chị người Huế múc bún bò. Trên mặt nồi bún bò, nước ớt màu đỏ lòm đọng váng. Một anh nói:

“Bún bò có cả giò heo nữa, thiệt là đúng điệu. Chị cho thật nhiều nước cay vào. Không cay, thì bún bò mất đi một phần ngon. Bún bò mà không cay, thì cũng như đàn bà con gái không trang điểm nhan sắc. Vừa ăn vừa khóc cũng không sao.”

Dù cho bánh phở và bún được biến chế từ các loại mì dẹp và mì sợi của Ý, thứ mà người Mỹ gọi là pasta và spaghetti, nhưng mọi người đều tận tình thưởng thức, hết lời khen các chị nấu ngon, có tài xoay xở trong hoàn cảnh khó khăn.

Lúc quá trưa, thì có hai xe của các gia đình Mỹ bảo trợ đến chung vui. Trời bão tuyết, mà họ cũng lặn lội đến ủng hộ tinh thần, mới thấy tấm lòng tử tế của họ. Hai ông bà Mỹ già trên dưới sáu mươi, và hai vợ chồng trẻ khác.

Tôi hỏi chị Hoa:

“Bà bảo trợ của chị phải không? Thật là quý hóa. Bà tên gì để tôi ra chào?”

Chị Hoa đỏ mặt nói lí nhí:

“Tên kỳ lắm, khó nghe, nói ra mắc cở cái miệng. Bà A-Địch đó (Adith). Lần đầu tiên nghe tên bà, em cười đến đau cả ruột.”

Tôi cười và nhớ đến câu “Ăn thịch dịch, ngứa đích, địch thơm mùi mích” của mấy ông bạn ngày xưa hay trêu ghẹo nhau.

Hai cặp vợ chồng người Mỹ bảo trợ, được bà con tiếp đãi ân cần. Họ là đại diện cho những ân nhân, cho nhà thờ, đã mở rộng vòng tay nhân ái, vòng tay tình thương, tiếp đón những con người trôi sông lạc chợ, gạt nước mắt lìa bỏ quê hương ra đi đến phương trời vô định, tương lai vô định. Các ông bà bảo trợ ăn thử từng món, món nào cũng khen ngon, cũng hít hà rối rít. Không biết họ có khen thiệt tình, hay chỉ khen vì tội nghiệp cho cái đám người tị nạn nhếch nhác lôi thôi ngơ ngáo đó. Khi ăn một miếng bánh da lợn, bà Mỹ già hỏi :

“Bánh gì đây?”

Vì vốn liếng Anh ngữ còn loạng quạng, một anh trả lời bằng cách dịch từng chữ của bánh da lợn ra tiếng Anh:

“Pig skin cake” (Bánh da heo)

Bà Mỹ già quát lên:

 “Cái gì ? Da heo ?”

“Đúng!”

Bà Mỹ già như nghẹn trong họng với miếng bánh đang ăn. Bà ngậm miệng lại, với vẻ mặt bối rối, như muốn nhổ ra, mà vì lịch sự không dám nhổ ngay. Bà Mỹ trẻ thì rùn hai vai lại, há miệng thè lưỡi ra sợ hãi. Hai ông chồng thì cười hóm hỉnh. Sau đó mấy ông bà Mỹ được mời ăn món phở, mỗi người một tô nhỏ. Các ông bà khen ngon, và hỏi cách nấu phở ra làm sao. Tội nghiệp chị Hương, mệt phờ, đổ mồ hôi hột, dùng tay chân, và cái vốn Anh ngữ đơn sơ của chị để dạy mấy bà Mỹ nấu phở. Có lẽ hai bà Mỹ không hiểu chị muốn nói gì, nhưng cũng gật đầu vui vẻ như sẽ nấu được phở ngay. Chị người Huế ngồi bên nồi bún bò thấy phở được khen rối rít, chị kêu tôi mời mấy ông bà Mỹ ăn bún bò. Tôi chào và kéo mấy ông bà qua nồi bún bò, nói:

“Món nầy cũng ngon đặc biệt, phát xuất từ cố đô Huế của chúng tôi, nơi vua chúa ngự trị mấy trăm năm.”

Chị nấu bún bò vui cười, sung sướng, tôi dặn chị cho ít ít nước cay mà thôi. Chị nói rằng, trời lạnh mà ăn bún bò giò heo nầy, thì phải nhớ một đời. Chị lựa mấy cái giò heo vừa dài, vừa lớn bỏ vào từng tô. Tôi đưa ra mời, mấy ông bà Mỹ vui cười, mỗi người cầm một tô. Chưa ăn thì bà Mỹ trẻ chỉ vào cái chân giò, có lông lún phún hỏi:

“Cái gì đây?”

Tôi chưa kịp đáp, thì anh Sáu Nạc đã nói lớn, dịch chữ móng giò heo ra là pig leg nail. Hai bà Mỹ trợn tròn mắt cùng thét lên:

“ Móng chân heo ?”

“Vâng, ngon lắm, ăn đi.”

“Không không, chúng tôi no lắm rồi, không ăn thêm được đâu.”

Ông Mỹ già lịch sự đáp.

Cả bốn người Mỹ đều đặt những tô bún bò xuống bàn. Mặt mày họ lộ vẻ khiếp đảm. Sau đó, họ không dám ăn thêm một món nào nữa. Chị nấu bún bò người Huế ngơ ngác mở to mắt hỏi tôi. Tôi giải thích cho chị rằng, có lẽ họ chưa quen ăn móng giò heo nên sợ. Chị chíp miệng, tiếc mấy người khách kia chưa kịp nếm thử bún bò mà đã từ chối không ăn.

Mấy chị tụ họp kể chuyện xưa bên nhà, những kỷ niệm vui, những ngày Tết, những loại cây trái, bánh mứt. Rồi kể đến một thời khó khăn trong xã hội mới, những cay cực phải chịu, những gian nan khi liều thân ra biển. Một chị rưng rưng nước mắt khóc, nói rằng không biết giờ nầy cha mẹ bên Việt Nam đang làm gì. Nước mắt của chị như làm mồi cho những chị khác. Mấy chị cũng méo miệng khóc thút thít, rồi khóc to thành tiếng, nhiều chị khác không cầm được lòng, khóc theo. Tiếng khóc vang như có đám ma. Mấy người đàn ông cũng đỏ hoe con mắt. Anh Sáu Nạc run run nói: “Lạ chưa? Việc chi mà khóc! Có tự do, có cơm áo hạnh phúc rồi, sao còn khóc?”. Nói mạnh thế, nhưng tròng mắt anh cũng nhạt nhòa ướt. Anh lấy khăn giấy lau mắt, và cắn môi lại cho khỏi khóc thành tiếng.

Mấy ông bà Mỹ bảo trợ, ngạc nhiên băn khoăn hỏi tôi có chuyện gì xẩy ra? Tôi đáp gọn: “Họ khóc vì thương nhớ quê hương”.

Bà A-Địch nói nhỏ: “Hình như các người trăm cay ngàn đắng mới trốn thoát ra khỏi quê hương. Sao còn thương nhớ mà khóc lóc đến thế?” Tôi muốn trả lời với bà rằng, bà không là người mất quê hương, làm sao hiểu được tấm lòng chúng tôi, nhưng tôi sợ mất lòng không dám nói ra.

Tràm Cà Mau

1982


 

ĐẤNG Ở GIỮA – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ!”.

Mỗi khi phải trả lời cho ai đó xúc phạm mình, Lincoln thường viết một lúc hai lá thư. Lá thứ nhất với những lời lẽ nặng nề được viết xuống như trút giận; sau đó, ông xé vụn và viết lá thứ hai. Thư này từ tốn, tế nhị và kín đáo. Người ta hỏi tại sao ông có thể làm được như vậy? Tổng thống trả lời, “Có một Đấng ở giữa chúng tôi!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay cũng nói đến một ‘Đấng ở giữa’ những người nhân danh Chúa Giêsu; một Đấng đang nâng đỡ, bảo toàn, để họ có thể cùng nhau cầu nguyện, hát khen, “Xin chúc tụng Thiên Chúa. Người là Đấng bảo toàn mạng sống con!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Môsê – “tôi trung”, “người bạn”, “được nghĩa” với Chúa – về với tiên tổ, “Ông được mai táng trong thung lũng ở miền đất Môáp. Cho đến ngày nay, không ai biết mộ ông ở đâu!” – bài đọc một. Không thành vấn đề Môsê có vào Đất Hứa hay không, mộ của ông mất hay còn; điều quan trọng vẫn là một ‘Đấng ở giữa’ ông và con cái Israel. “Sự vĩ đại không nằm ở chỗ ta kết thúc ở đâu, mà ở chỗ ‘ai’ vẫn bước đi nhờ ta!” – Howard Schultz. Môsê không vào đích nhưng dẫn Israel đến sát bờ Đất Hứa.

Tin Mừng cho thấy điều tương tự, “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ!”. Đây là một lời hứa ‘táo bạo’, đầy cảm hứng! Lời này tiết lộ Chúa Giêsu muốn chúng ta cầu nguyện với người khác, với Hội Thánh; và “người khác” tuyệt vời nhất chính là Ngài. Qua đó, Hội Thánh hiệp nhất lời cầu của mình với lời cầu vĩnh cửu, duy nhất của chính Chúa Kitô. Điều này được thực hành rõ nét nhất trong phụng vụ thánh mà chóp đỉnh là Hy Tế Tạ Ơn. “Thánh Lễ là khoảnh khắc Trời ôm đất và Chúa ôm lấy từng người!” – Fulton J. Sheen.

Như vậy, bất cứ khi nào chúng ta nên một với nhau – dù không ở bên nhau – để cầu nguyện, Chúa Kitô vẫn ở giữa chúng ta. Kỳ diệu thay, Ngài không ở đó cách thụ động nhưng luôn tích cực, biến đổi và mang lại sức sống. Chúng ta không được phép đánh giá thấp các cuộc tụ họp này, cũng không đánh giá thấp sức mạnh biến đổi của ân sủng, bất kể các buổi cầu nguyện đó ‘nhỏ’ đến mức nào! “Không có buổi cầu nguyện nào, Thánh Lễ nào nhỏ đến mức không lay động cõi trời!” – Fulton Sheen.

Anh Chị em,

“Có Thầy ở đấy, giữa họ!”. Mỗi khi cầu nguyện, chúng ta cùng nhau, cùng Chúa Kitô, cùng Hội Thánh dâng lên Cha Trên Trời lời ca khen và cầu cho mọi nhu cầu xác hồn cho thế giới, cho Hội Thánh và cho mình. Ý nghĩa biết bao khi cùng nhau cất cao Kinh Lạy Cha – ‘ma trận’ của mọi lời cầu – trong Thánh Lễ hoặc trong những buổi ‘hẹn hò’ để cầu nguyện trực tuyến với những người khác trên thế giới. “Trong mỗi Thánh Lễ, trung tâm không phải là chúng ta, mà là Đấng đang ở giữa chúng ta!” – Bênêđictô XVI. Tuyệt vời! Tất cả đều mang một giá trị nhất định như chính Ngài – ‘Đấng ở giữa’ – đã hứa!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, trong mỗi Thánh Lễ, cho con không bao giờ quen với sự thật: Chúa đang ở đây, giữa chúng con hầu con biết run sợ – một sự run sợ thánh thiện!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

*************************************************

Lời Chúa Thứ Tư Tuần XIX Thường Niên, Năm Lẻ

Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 18,15-20

15 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em. 16 Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. 17 Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.

18 “Thầy bảo thật anh em : dưới đất, anh em ràng buộc những điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy ; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.

19 “Thầy còn bảo thật anh em : nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. 20 Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.”


 

Người can đảm là người thế nào?- Cha Vương

Ngày Thứ 3 tràn đầy nhiệt huyết trong mọi công việc nhé.

Cha Vương

Thứ 3: 12/8/2025  t2-24

GIÁO LÝ: Người can đảm là người thế nào? Là người khi nhận ra điều tốt, thì luôn mạnh dạn bảo vệ, dù tới cuối cùng họ có phải hy sinh tính mạng mình. (YouCat, số 303)

SUY NIỆM: Bạn đang sống trong xã hội vàng thau lẫn lộn, ngôn sứ giả đội lốt chiên (Mt 7:15). Nhân đức can đảm là nhân đức mà bạn cần hơn bao giờ hết! Ngay trong lúc khó khăn nó đảm bảo cho bạn kiên trì và quyết tâm trong việc tìm kiếm sự thiện. Nó giúp bạn chống lại những cám dỗ và vượt qua những trở ngại, nỗi sợ hãi, những sự bắt bớ. Nó cũng cho phép bạn giáo dục những đam mê của mình và do đó tỏ ra như là nhân đức chiến đấu nhất trong các nhân đức. Nó cho phép bạn không chỉ chiến đấu và đánh bại những kẻ thù bên trong vốn làm bạn tê liệt – sợ hãi, lo lắng và lỗi lầm – mà còn chiến đấu chống lại những kẻ thù bên ngoài là những thử thách trong cuộc sống và những bách hại đủ loại. Nó còn cho phép bạn phản ứng mạnh mẽ trước sự dữ trên thế giới, giống như các ngôn sứ và các thánh đã làm…

❦  Người can đảm, dù may hay rủi cũng coi như tay phải và tay trái, họ dùng cả 2. (Thánh nữ Catarina Siena)

LẮNG NGHE: Hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăn đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ. (2 Tim 4:2) 

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn can đảm để con chiến đấu với những khó khăn và thử thách hằng ngày một cách vững tin. 

THỰC HÀNH: Cậy nhờ vào ân sủng của Chúa qua việc ăn chay, cầu nguyện và tham gia tích cực tham dự vào các bí tích. 

From: Do Dzung

*****************************

ĐƯỜNG THẬP GIÁ..Bài thánh ca chạm đến lòng người nghe…

https://www.youtube.com/watch?v=pR6gi47gHIA

5 cách ăn cơm trắng an toàn cho người tiền tiểu đường

Dược Sĩ Lan

Chỉ cần áp dụng cách ăn cơm “thông minh” dưới đây, cô bác vẫn có thể thưởng thức món cơm quen thuộc mà vẫn kiểm soát được đường huyết hiệu quả!

Vì sao cơm trắng dễ làm tăng đường huyết?

– Cơm trắng chứa nhiều tinh bột tinh chế, ít chất xơ.

– Khi ăn, tinh bột nhanh chóng chuyển thành glucose và hấp thu vào máu, gây đỉnh đường huyết cao đột ngột – điều rất nguy hiểm cho người bị tiền tiểu đường hoặc tiểu đường.

– Gạo lứt tốt hơn vì giàu chất xơ, nhưng nếu bạn vẫn muốn ăn cơm trắng, hãy áp dụng các mẹo dưới đây.

 5 cách ăn cơm trắng an toàn cho người tiền tiểu đường

Ưu tiên cơm nấu kiểu truyền thống, tránh cơm chiên/rang

– Cơm chiên, cơm rang thường thêm nhiều dầu mỡ (đặc biệt là chất béo xấu), lại khiến tinh bột dễ hấp thu hơn → tăng đường huyết nhanh hơn.

– Giải pháp: Hãy ăn cơm nấu bằng nồi cơm điện/hấp truyền thống. Muốn cơm thơm hơn, có thể thêm vài lá dứa khi nấu.

Ăn cơm để nguội – Tăng tinh bột kháng

– Tinh bột kháng là dạng tinh bột khó tiêu hóa, làm chậm hấp thu đường vào máu.

– Cách làm:

+ Nấu cơm xong, để nguội rồi bảo quản tủ lạnh 12–24 giờ, sau đó hâm lại khi ăn.

+ Hoặc để nguội tự nhiên 15–30 phút trước khi ăn cũng giúp tăng tinh bột kháng phần nào.

Lưu ý: Để tránh nhiễm khuẩn, nên chia nhỏ cơm, bảo quản lạnh đúng cách và hâm nóng kỹ trước khi ăn.

  Ăn cơm KÈM đủ rau, đạm và chất béo tốt

– Đừng ăn cơm trắng “đơn độc”!

– Nguyên tắc vàng:

+ Rau xanh (luộc, hấp, salad…) chiếm 1/2 đĩa.

+ Đạm lành mạnh: cá, thịt nạc, trứng, đậu hũ… chiếm 1/4 đĩa.

+ Tinh bột (cơm): chỉ chiếm 1/4 đĩa còn lại.

+ Thêm chất béo tốt: dầu oliu, quả bơ, các loại hạt…

– Chất xơ + đạm + béo tốt làm chậm tiêu hóa tinh bột → đường huyết sau ăn ổn định hơn.

Ăn đúng thứ tự – Rau → Đạm → Cơm

– Ăn rau trước, sau đó ăn đạm, cuối cùng mới đến cơm.

– Cách này giúp tạo “lớp lót” chất xơ và đạm, làm giảm tốc độ hấp thu glucose vào máu, giúp kiểm soát đường huyết tốt hơn.

  Vận động nhẹ sau bữa ăn

– Sau khi ăn cơm, không nên ngồi hay nằm ngay.

– Đi bộ nhẹ nhàng 15–20 phút hoặc làm việc nhà đơn giản (rửa bát, quét nhà) giúp cơ bắp sử dụng glucose, giảm mức đường huyết sau ăn.

Lời khuyên cho người tiền tiểu đường

– Không cần kiêng tuyệt đối cơm trắng, nhưng kiểm soát lượng ăn (1 chén nhỏ/bữa ~100–150g).

– Luôn kết hợp rau – đạm – cơm, tránh ăn cơm trắng đơn độc.

– Theo dõi đường huyết sau ăn 2 giờ để biết cơ thể phản ứng thế nào và điều chỉnh lượng cơm phù hợp.

– Duy trì lối sống lành mạnh: tập thể dục đều đặn, ngủ đủ giấc, giảm cân nếu thừa cân để ngăn ngừa tiến triển từ tiền tiểu đường sang tiểu đường type 2.

From: haiphuoc47 & NguyenNThu

‘Giấc Mơ Mỹ’: Ký ức của một thời đã qua

Ba’o Nguoi-Viet

August 10, 2025

Trúc Phương/Người Việt

“Giấc Mơ Mỹ,” hình ảnh về một cuộc sống ổn định với công việc tốt, một gia đình hạnh phúc và ngôi nhà của riêng mình, từ lâu là biểu tượng của hy vọng và cơ hội tại Mỹ. Giấc mơ này đang trở nên xa vời đối với hàng triệu người Mỹ, đặc biệt thế hệ trẻ.

Làm chủ một căn nhà của riêng mình là một phần “Giấc Mơ Mỹ” ngày càng xa tầm tay với thế hệ trẻ. (Hình minh họa: Joe Raedle/Getty Images)

Thị trường lao động: Một bức tranh hai mặt

Thị trường lao động Mỹ hiện cho thấy hai thực tại trái ngược: Những người đang có việc làm gần như không chắc chắn lắm trong việc giữ được vị trí của mình, trong khi những người đang tìm việc lại đối mặt với khó khăn chưa từng có.

Tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp, nhưng điều đó không có nghĩa cơ hội việc làm đang rộng mở.

Theo dữ liệu gần đây, số lượng tuyển dụng mới đã giảm đáng kể, và những người thất nghiệp phải mất nhiều thời gian hơn để tìm được công việc mới, lâu nhất kể từ trước đại dịch COVID-19.

Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI) đang góp phần làm trầm trọng thêm xu hướng này. Các nhà tuyển dụng đang thử nghiệm sử dụng AI để tối ưu hóa năng suất của lực lượng lao động hiện tại, thay vì mở rộng tuyển dụng.

Theo Courtenay Brown từ Axios, điều này khiến các cơ hội việc làm mới trở nên hạn chế, đặc biệt đối với những người trẻ đang tìm cách bước chân vào thị trường lao động. Cụ thể, Tháng Sáu, 2025, báo cáo việc làm cho thấy nền kinh tế Mỹ đã tạo thêm 147,000 việc làm, vượt kỳ vọng. Tuy nhiên, 85% số việc làm mới đến từ hai lĩnh vực: Giáo dục và y tế. Các ngành khác, bao gồm dịch vụ chuyên nghiệp và kinh doanh, nơi tập trung nhiều công việc văn phòng, hầu như không có sự thay đổi.

Thế hệ trẻ, đặc biệt những người mới tốt nghiệp đại học, đang chịu ảnh hưởng nặng nề. Tỷ lệ thất nghiệp của nhóm này tăng vọt, cao hơn đáng kể so với các nhóm lao động khác. Theo báo cáo từ Viện HarrisX và Quỹ Gia Đình Schultz, 46% thanh niên từ 16 đến 24 tuổi cảm thấy không chắc chắn hoặc không được chuẩn bị cho các công việc của tương lai. Sự thiếu hụt các vị trí khởi đầu khiến nhiều người trẻ rơi vào tình trạng bấp bênh, không biết làm thế nào để bắt đầu sự nghiệp của mình.

Hơn nữa, hệ thống giáo dục và tư vấn nghề nghiệp dường như không theo kịp sự thay đổi nhanh chóng của thị trường lao động. Cha mẹ, giáo viên và các nhà tư vấn thường đưa ra lời khuyên dựa trên kinh nghiệm cá nhân từ một thời kỳ khác, khi thị trường lao động còn năng động hơn. Trong khi đó, 77% nhà tuyển dụng yêu cầu ít nhất một năm kinh nghiệm cho các vị trí khởi đầu, nhưng chỉ 38% trong số họ cung cấp cơ hội thực tập. Điều này tạo ra một vòng luẩn quẩn: Người trẻ cần kinh nghiệm để được tuyển dụng, nhưng lại không có cơ hội để tích lũy kinh nghiệm.

Nếu xu hướng hiện tại tiếp tục, với ít việc làm mới và thời gian thất nghiệp kéo dài, tỷ lệ thất nghiệp có thể tăng nhanh chóng nếu xảy ra một đợt sa thải lớn. Chủ Tịch Cục Dự Trữ Liên Bang Jerome Powell gọi đây là một “vấn đề đáng lo ngại,” nhấn mạnh rằng thị trường lao động hiện tại “không có nhiều sa thải nhưng cũng chẳng có nhiều việc làm mới.”

Hôn nhân: Sự lơ là một giá trị truyền thống

Bên cạnh thị trường lao động, một xu hướng khác đang làm thay đổi Giấc mơ Mỹ là sự suy giảm của hôn nhân. 50 năm qua, tỷ lệ kết hôn ở Mỹ đã giảm gần 60%, đánh dấu một sự thay đổi lớn so với chuẩn mực xã hội của các thế hệ trước. Không chỉ hôn nhân, mà cả việc sống chung và thậm chí hẹn hò ở tuổi teen cũng giảm mạnh, cho thấy một sự chuyển đổi sâu sắc trong cách người Mỹ xây dựng các mối quan hệ.

Trong quá khứ, hôn nhân được xem là một cột mốc thiết yếu trong hành trình trưởng thành. Tuy nhiên, ngày nay, hôn nhân đang trở thành “bước cuối cùng” trong hành trình trưởng thành, và thậm chí là một lựa chọn không bắt buộc. Nhiều người trẻ trì hoãn kết hôn để tập trung vào việc hoàn thành học vấn, xây dựng sự nghiệp và trả nợ.

Theo Susan Brown, đồng giám đốc Trung Tâm Quốc Gia về Nghiên Cứu Gia Đình và Hôn Nhân (National Center for Family & Marriage Research), số phụ nữ kết hôn lần đầu ở độ tuổi từ 40 đến 59 đã tăng 75% kể từ năm 1990. Điều này cho thấy hôn nhân không còn là ưu tiên hàng đầu của nhiều người. Thay vào đó, các sự kiện từng gắn liền với hôn nhân – như sống chung hoặc sinh con – ngày càng diễn ra bên ngoài khuôn khổ hôn nhân.

Dù tỉ lệ kết hôn giảm, hôn nhân vẫn giữ được giá trị trong xã hội Mỹ. Một nghiên cứu của Đại Học Michigan cho thấy 71% học sinh trung học vào năm 2020 vẫn mong muốn kết hôn, chỉ giảm nhẹ so với con số 74% vào năm 1976. Tuy nhiên, cách người Mỹ nhìn nhận về hôn nhân đã thay đổi. Nó không còn là một bước đi bắt buộc ngay sau khi trưởng thành, mà là một lựa chọn được cân nhắc kỹ lưỡng, thường sau khi các mục tiêu khác như học vấn và sự nghiệp đã đạt được.

Sự suy giảm áp lực xã hội cũng đóng một vai trò quan trọng. Các lợi ích pháp lý và tài chính của hôn nhân, như ưu đãi thuế, vẫn tồn tại nhưng không còn đủ mạnh để thúc đẩy mọi người kết hôn. Đồng thời, các chuẩn mực xã hội từng thúc đẩy hôn nhân đã mờ nhạt, khiến nhiều người cảm thấy tự do hơn trong việc lựa chọn lối sống độc thân hoặc sống chung mà không cần hôn nhân.

Sự suy giảm của hôn nhân không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân mà còn có tác động sâu rộng đến xã hội. Các nghiên cứu cho thấy những người kết hôn có xu hướng hài lòng hơn với cuộc sống, và hôn nhân thường đi đôi với sự ổn định tài chính. Những người đã kết hôn có khả năng cao hơn trong việc giữ được việc làm và sở hữu nhà. Do đó, khi tỷ lệ kết hôn giảm, đặc biệt ở các thế hệ trẻ, điều này có thể làm trầm trọng thêm sự bất bình đẳng kinh tế và xã hội.

Thị trường nhà ở: Giấc mơ xa vời

Thị trường nhà ở Mỹ hiện nay là một câu chuyện của hai thực tại: Giá nhà tăng vọt ở một số khu vực, nhưng giảm ở những nơi khác, trong khi doanh số bán nhà chạm mức thấp nhất trong một thế hệ. Năm 2025 được dự đoán là một trong những năm tồi tệ nhất về doanh số bán nhà trong 30 năm qua, với nguồn cung ứng nhà ở thấp ở mức kỷ lục và giá cả ở nhiều khu vực đạt mức cao chưa từng có.

Theo dữ liệu từ Zillow, giá nhà trung bình trên toàn quốc tăng 0.2% từ Tháng Sáu, 2024 đến Tháng Sáu, 2025. Tuy nhiên, sự tăng trưởng này không đồng đều. Ở các khu vực Trung Tây và Đông Bắc, giá nhà tiếp tục tăng, với mức tăng 4% ở khu vực đô thị New York, 3% ở Chicago và 2% ở Minneapolis. Những khu vực này đối mặt với tình trạng thiếu hụt nhà ở nghiêm trọng, do hạn chế về quy hoạch đô thị và không gian xây dựng.

Ngược lại, ở miền Nam và miền Tây, đặc biệt các tiểu bang như Texas và Florida, giá nhà đang giảm. Khu vực đô thị Austin ghi nhận mức giảm 6%, Tampa giảm gần 6%, và Jacksonville giảm 3%. Những khu vực này từng là điểm nóng cho xây dựng nhà mới những năm gần đây, nhưng giờ đây, nguồn cung dư thừa và các yếu tố như chi phí bảo hiểm cao và rủi ro khí hậu đang khiến giá nhà sụt giảm.

Chen Zhao, trưởng bộ phận nghiên cứu kinh tế tại Redfin, cho biết: “Ở những nơi như Florida và Texas, người dân đang mệt mỏi với các cơn bão.” Nhiều người đang bán nhà để tránh các rủi ro này.

Để chặn lại một cánh cổng đang khép dần

Để “Giấc Mơ Mỹ” không trở thành ký ức của một thời đã qua, cần có những thay đổi mang tính hệ thống. Như Dave Lawler viết trên Axios (“The American Dream’s closing gate,” ngày 3 Tháng Tám), thị trường lao động cần được “tan băng” thông qua các chính sách khuyến khích tuyển dụng và đào tạo, đặc biệt cho những người mới. Các nhà tuyển dụng cần giảm bớt các rào cản như yêu cầu kinh nghiệm không cần thiết và tăng cơ hội thực tập để giúp thế hệ trẻ tích lũy kỹ năng.

Trong thị trường nhà ở, việc tăng nguồn cung nhà ở giá rẻ và điều chỉnh lãi suất thế chấp có thể giúp giấc mơ sở hữu nhà trở nên khả thi hơn. Các chính sách quy hoạch đô thị cần được cải thiện để khuyến khích xây dựng nhà ở tại những khu vực khan hiếm, đồng thời giảm thiểu rủi ro khí hậu để ổn định thị trường.

Cuối cùng, xã hội Mỹ cần chấp nhận rằng “Giấc Mơ Mỹ” không nhất thiết phải xoay quanh các cột mốc truyền thống như hôn nhân hay sở hữu nhà. Một định nghĩa mới về giấc mơ này – tập trung vào sự linh hoạt, tự do cá nhân và cơ hội bình đẳng – có thể giúp nó tiếp tục là nguồn cảm hứng cho các thế hệ tương lai. [kn]


 

Khi Biết Mình Sắp Chết – Dr. Richard

Kimtrong Lam

Khi Biết Mình Sắp Chết

Dr. Richard – 40 tuổi, bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ, triệu phú – đã chia sẻ về cuộc đời mình trước sinh viên năm nhất tại Trường Đại học Y vào ngày 19.01.2012.

“Chào buổi sáng.

Giọng tôi hơi yếu, mong mọi người thông cảm.

Tôi là Richard – một bác sĩ.

Hôm nay tôi chỉ muốn chia sẻ một chút về cuộc đời mình.

Tôi rất biết ơn thầy cô đã mời tôi đến đây, vì ngoài các bài học về nha khoa mà các bạn đang học, tôi nghĩ có một số điều khác đáng để lắng nghe.

Từ nhỏ tôi đã là một “sản phẩm hoàn hảo” của xã hội hiện đại – đúng chuẩn thành công.

Sinh ra trong cảnh nghèo, nhưng tôi lớn lên trong môi trường truyền thông, nơi người ta định nghĩa hạnh phúc là sự thành công, mà thành công thì lại đồng nghĩa với tiền bạc.

Tôi đã mang trong mình một khát vọng ganh đua rất lớn.

Tôi không chỉ là học sinh xuất sắc, mà còn muốn là người giỏi nhất trong mọi lĩnh vực.

Tôi phải đoạt giải, phải mặc đồng phục đẹp, phải có huy chương – càng nhiều, càng tốt.

Tôi học Y, và tất nhiên, tôi theo ngành “đắt giá” – phẫu thuật thẩm mỹ.

Tôi được cấp học bổng sang Singapore, nghiên cứu về điều trị mắt bằng laser.

Rồi tôi thấy cơ hội thực sự là ở ngành làm đẹp – nên tôi bỏ dở chuyên khoa và mở phòng khám thẩm mỹ riêng.

Và tôi thành công rực rỡ.

Tôi kiếm hàng triệu USD trong một năm.

Phòng khám phát đạt đến mức phải thuê thêm 4 bác sĩ.

Tôi mở thêm chi nhánh ở Indonesia – phục vụ tầng lớp thượng lưu.

Thời gian rảnh?

Tôi tham gia CLB xe thể thao.

Chạy xe đua xuyên biên giới sang Malaysia bằng chiếc SUV độ hàng trăm nghìn đô.

Tôi mua Ferrari F430 màu bạc – bạn tôi là chủ ngân hàng thì đi bản màu đỏ.

Tôi bắt đầu sưu tầm bất động sản.

Tôi sống giữa tiền bạc, danh tiếng và sắc đẹp.

Bạn gái tôi từng là hoa hậu hoàn vũ.

Tôi ăn ở những nhà hàng có đầu bếp Michelin.

Tôi nghĩ mình đang đứng trên đỉnh của thế giới.

Cho đến một ngày…

Khoảng tháng 3 năm ngoái, tôi bắt đầu đau lưng.

Tôi nghĩ chắc tại ngồi nhiều. Tôi đến bệnh viện nơi bạn tôi làm việc để chụp MRI.

Bạn tôi nói thẳng: “Có dấu hiệu ung thư di căn ở xương sống.”

Tôi sững sờ. Tôi không thể tin nổi.

Hôm trước còn chạy bộ được cơ mà!?

Hôm sau tôi đi chụp PET scan – kết luận:

Ung thư phổi giai đoạn cuối (Stage IV).

Di căn lên não, gan, thận và cột sống.

Tôi – người tưởng chừng như có tất cả –

Lúc đó – mới biết mình chẳng còn gì.

Tôi nhìn phim CT và thấy hàng ngàn nốt nhỏ li ti phủ đầy phổi – gọi là miliary tumor.

Bác sĩ bảo – ngay cả dùng hóa trị thì tôi cũng chỉ còn 3–4 tháng.

Tôi suy sụp.

Tôi nghĩ mình có nhà, có xe, có danh tiếng, có mọi thứ…

Nhưng không thứ gì cứu được tôi.

Tôi từng nghĩ tiền sẽ mua được hạnh phúc.

Giờ đây, tôi hiểu rằng những chiếc Ferrari, nhà lầu hay danh tiếng – không thể nào khiến tôi mỉm cười nổi nữa.

10 tháng qua – những giây phút hạnh phúc thật sự của tôi – không phải là khi lái siêu xe, không phải khi ký hợp đồng triệu đô. Mà là khi tôi được bạn bè, người thân ôm tôi khóc, ngồi bên tôi cười, nghe tôi chia sẻ, và im lặng cùng tôi vượt qua đau đớn.

Tôi từng nghĩ mình đang “khoe” thành quả.

Nhưng bây giờ tôi biết – tôi chỉ đang phô bày bản ngã và lòng kiêu hãnh.

Tôi từng làm việc ở khoa ung thư khi còn thực tập.

Tôi gặp bệnh nhân đau đớn, thở oxy từng nhịp.

Nhưng với tôi lúc ấy – đó chỉ là “công việc”.

Tôi không thực sự cảm nhận được nỗi đau của họ.

Giờ đây – khi chính tôi phải hóa trị, khi tôi phải đối mặt với cái chết – tôi mới thực sự hiểu thế nào là “bệnh nhân”.

Nếu có ai hỏi tôi:

“Nếu được sống lại, anh có thay đổi điều gì không?”

Tôi sẽ nói: Có.

Tôi sẽ quan tâm hơn, biết lắng nghe hơn.

Tôi sẽ không đánh giá người khác bằng đồng tiền.

Tôi sẽ làm bác sĩ – đúng nghĩa – để chữa bệnh và xoa dịu nỗi đau.

Tôi có 2 điều muốn nhắn gửi:

Thành công và giàu có không sai. Nhưng nếu để những điều đó định nghĩa con người bạn, bạn sẽ không thể chịu nổi khi đánh mất chúng.

Đừng quên lý do bạn trở thành bác sĩ.

Bệnh nhân không phải là “nguồn thu”.

Đừng kê đơn vì lợi nhuận.

Hãy đối xử với họ như con người – với trái tim biết đồng cảm.

Tôi đang hóa trị lần thứ 5.

Nó rất kinh khủng. Tôi không muốn bất kỳ ai phải trải qua những gì tôi đang phải trải qua.

Tôi không ăn uống được.

Nhưng tôi vẫn đến thăm các bệnh nhân ung thư khác, vì tôi hiểu được họ.

Dù đã quá muộn – tôi vẫn muốn làm gì đó có ý nghĩa.

Các bạn có cả một tương lai tươi sáng.

Tôi chỉ muốn các bạn nhớ:

Bệnh nhân là con người thật, đang thật sự đau đớn.

Không phải chỉ người nghèo mới đau khổ – người giàu có khi còn khổ hơn.

Một chút thấu cảm của bạn – có thể là ánh sáng trong địa ngục của họ.

Tôi sắp chết – nhưng tôi cảm thấy… tôi vừa mới bắt đầu sống.

Những người quan tâm đến tôi lúc này – mới chính là những người tôi trân quý.

Nếu tôi có thể sống lại – tôi sẽ sống khác.

Trong một cuốn sách có câu:

“Tất cả chúng ta đều biết mình sẽ chết. Nhưng chẳng ai thực sự tin điều đó. Nếu tin, chúng ta đã sống khác đi rồi.

Đừng sống như tôi đã từng.

Hãy sống như tôi đang sống – dù chỉ còn vài tháng để sống.

Xin cảm ơn vì đã lắng nghe.

Nếu có ai muốn hỏi, tôi sẵn sàng chia sẻ thêm.

– Bác sĩ Richard qua đời ngày 18.10.2012

Nguồn Myanmar


 

Đá thử sắt – Đoàn Xuân Thu

Kimtrong Lam

Đoàn Xuân Thu

10 tháng 8, 2025

Tại Promontory Summit, Utah, nơi chiếc đinh vàng cuối cùng được long trọng đóng xuống đường ray vào năm 1869, đánh dấu sự hoàn tất của tuyến đường sắt xuyên lục địa Hoa Kỳ – một cậu bé người Hoa đứng trơ trọi giữa gió núi lạnh căm.

Mới chín tuổi, Lương Phú đã mồ côi cha. Ông bị đống gỗ đè chết khi công trình chỉ còn vài tuần lễ là hoàn tất. Công ty không dựng bia mộ, không nhắc tên, chỉ để lại một tấm chi phiếu cuối cùng và một cái xẻng.

Chiếc đinh vàng (golden spike) là một đinh đường sắt bằng vàng ròng, được dùng trong buổi lễ long trọng để đánh dấu việc hai tuyến đường sắt lớn của nước Mỹ – Union Pacific từ phía Đông và Central Pacific từ phía Tây – chính thức nối liền nhau. Sự kiện này không chỉ là một dấu mốc giao thông, mà còn là biểu tượng cho sự thống nhất của nước Mỹ sau nội chiến.

Nhưng trong khi người ta mừng lễ, tiệc tùng, chụp ảnh, thì xác một người thợ gốc Quảng Đông lại bị quên lãng ngoài rìa công trường.

Trong túi áo rách tả tơi của cậu bé có một hòn đá nhỏ – một mặt trơn nhẵn, mặt kia bằng phẳng như đầu búa. Đó là viên đá mà cha cậu từng dùng để thử sắt.

Ngày xưa, người thợ rèn lành nghề không có máy móc hiện đại. Họ có viên đá – thường là loại đá mịn, rắn chắc, dùng để gõ vào thỏi sắt. Nghe tiếng “cang” hay “bụp,” họ biết miếng sắt ấy tốt hay giòn, có đáng để rèn thành dao, cày, hay rựa.

Đá thử sắt – một thao tác đơn giản nhưng đầy kinh nghiệm. Và sâu xa hơn, nó là ẩn dụ của cuộc đời: sắt có qua thử lửa, thử đá, mới thành dụng cụ hữu ích.

Người cũng vậy – có qua gian khổ, mới biết mình là loại sắt gì?

Lương Phú là sắt non, mà cuộc đời lại chẳng cho thằng bé thời gian tôi luyện. Bị bỏ lại giữa đất khách, không thân nhân, không nói được tiếng Anh, cậu sống qua ngày bằng nước tuyết đun cơm và đinh cong nhặt được dọc đường ray. Cậu ngủ trong lều cháy rụi, và mỗi đêm lại áp viên đá lên má – như thể hơi ấm của cha vẫn còn vương lại.

Một chiều, một người da đen (tự do) tên Ezra – cũng là công nhân đường sắt – thấy cậu run rẩy dưới gầm toa xe.

“Người nhà con đâu rồi, nhóc?”

Cậu bé chẳng biết nói gì, chỉ chìa ra viên đá. Ezra mang cậu về, nấu cho ăn món thịt hầm, rồi đặt cho biệt danh: “Li’l Hammer.” (Cái Búa Nhỏ.)

Câu chuyện của Lương Phú là một lát cắt của lịch sử di dân – nhưng phía sau nó là một câu hỏi lớn: Tại sao người Hoa, đặc biệt là dân Quảng Đông, lại bỏ quê nhà đi làm phu đến tận xứ người?

Câu trả lời nằm ở chữ “bất công”, chứ không đơn giản là nghèo đói.

Vào giữa thế kỷ XIX, vùng Quảng Đông và Phúc Kiến rơi vào tình trạng khủng hoảng: bão lụt, đói kém, cướp bóc, loạn lạc. Nhưng đau lòng nhất là cảnh dân nghèo bị tầng tầng lớp lớp quan lại, hào lý, và triều đình nhà Thanh bóc lột đến tận xương tủy. Thuế đất, thuế muối, thuế thân, thuế… đi chùa – đủ cả. Sống không nổi, họ đành bán thân làm phu, đi theo các đoàn tàu vượt đại dương để làm thuê, gánh đá, đào đường, mở mỏ. Họ được gọi là “khách” – khách trú, khách công, và nhiều người chết vô danh, không giấy tờ, không mộ phần.’

Cha của Lương Phú là một người như thế. Ông mang theo viên đá búa như người Việt mang theo ảnh Phật, áo bà ba hay gói muối, một chút quê hương trong lòng bàn tay.

Sau này, khi đã lớn, Lương Phú làm thợ rèn ở Nevada rồi mở luôn xưởng đúc riêng. Mỗi món dụng cụ đều do chính tay cậu rèn.

Trong văn phòng, vật duy nhất được trưng bày trên lớp nhung đỏ không phải là huy chương hay bằng cấp, mà là viên đá thử sắt năm xưa.

Khi được hỏi, ông chỉ cười: “Nó không xây đường sắt. Nhưng nó nói tôi biết mình có thể hoàn thành một điều gì đó.”

Ông không nói nhiều, nhưng ai cũng hiểu – viên đá ấy không chỉ thử sắt, viên đá đó là khắc nghiệt của cuộc đời từng thử cả một cậu bé mồ côi trong bão tuyết. Và cậu bé ấy đã không vỡ vụn.

Người Việt sau 1975: Phép thử cay nghiệt khác

Hơn một trăm năm sau, một cuộc ly tán khác diễn ra. Nhưng lần này là tại Việt Nam – sau biến cố 30 tháng Tư 1975, khi chế độ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, hàng triệu người bị CS đẩy ra khỏi dòng đời. Có người vào trại cải tạo không bản án. Có người bị đánh tư sản, bị tịch thu nhà cửa, mất quyền học hành, mất cả tên tuổi. Không còn chỗ để sống như một con người tử tế, họ buộc phải vượt biên – bằng ghe, thuyền, đi xuyên rừng rậm, trại tị nạn, bất kể sống chết.

Họ không mang theo viên đá búa, nhưng mang theo những “phép thử” của riêng mình: hình cha trong trại cải tạo, chiếc áo dài mẹ cất kỹ, gói muối hột gói trong vải dầu, hay một quyển Kinh Thánh quấn nylon. Họ bước vào thử thách bằng đôi tay trắng – và cũng như Lương Phú, họ đã rèn mình nên thép.

Người Việt đi làm nail, phụ bếp, rửa chén, làm vườn, làm hãng… nhưng rồi dựng nên cộng đồng từ Foorscray bên Úc đến Orange County bên Mỹ. Con cái họ trở thành kỹ sư, bác sĩ, dân biểu. Trên đường đời nghiệt ngã, họ đã qua được phép thử – họ cứng như sắt thật.

Sắt tốt không sợ lửa – người kiên cường không ngại thử thách. Câu chuyện của viên đá búa, nếu chỉ đọc lướt qua, chỉ là một chi tiết nhỏ. Nhưng nếu ngẫm kỹ, đó là chìa khóa mở ra cả một thế giới của những con người bị đời vùi dập nhưng không chịu gãy.

Cha của Lương Phú đã dùng đá thử sắt, như thể đang hỏi thỏi sắt: “Mi có chịu nổi không?” Cuộc đời sau này hỏi lại chính cậu bé ấy: “Còn mi, con người nhỏ bé kia – mi có chịu nổi không?”

Người Hoa Quảng Đông xưa kia, cũng như người Việt lưu vong sau 1975, đều là những “thỏi sắt” bị thế cuộc đem ra thử. Có người rạn, có người gãy, nhưng có người – nhưng Lương Phú – đã cứng hơn sắt, sáng hơn dao.

Họ không cần ai nhớ ơn. Chỉ cần thế gian đừng quên họ đã từng tồn tại, từng bị thử thách, và từng đứng vững.

(Melbourne)


 

VÁC VỀ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Người ấy vui mừng vì con chiên đó!”.

“Tình yêu không hỏi tại sao ai đó lạc đường, nó chỉ hỏi làm sao để đưa họ về!” – Max Lucado.

Kính thưa Anh Chị em,

Sẽ khá bất ngờ khi Tin Mừng hôm nay không nói nhiều về việc con chiên lạc đường; nhưng nói về mong mỏi của người mục tử những chỉ muốn giành lại nó để ‘vác về!’.

Thật dễ dàng để đi lạc! Khi một linh hồn lạc khỏi Thiên Chúa, nó cảm thấy trơ trọi và trống vắng; đó là thực tế của thân phận con người. Có bao linh hồn đang lang thang lạc lối, hoang mang cần được đem về. Có rất nhiều lý do dẫn đến sự lầm lạc; đó có thể là những cám dỗ của đam mê xác thịt, tiền bạc; cám dỗ của sự kiêu ngạo, giận dữ, ích kỷ và mê muội. Rõ ràng, “Những lạc lối nguy hiểm nhất không xảy ra trên bản đồ, mà xảy ra trong tâm hồn!” – Henri Nouwen.

Một trong những trở ngại lớn nhất để một linh hồn biết hối cải tội lỗi và quay trở về với Thiên Chúa là sự kiêu ngạo! Thật khó để thừa nhận tội lỗi mình; khó để thừa nhận chúng ta đã lạc đường; khó để thừa nhận những sai lỗi đã làm; và cũng thật khó để hướng về Chúa, nhận ra lòng thương xót và sự trắc ẩn của trái tim Ngài. “Kiêu ngạo biến trái tim thành pháo đài, nhưng cũng biến nó thành nhà tù!” – C.S. Lewis.

Thực tế là tội lỗi thật đáng sỉ nhục, và đối mặt với sỉ nhục là điều khó khăn nhất. Thế nhưng, sỉ nhục luôn mang tính thanh luyện, vì nếu bạn sẵn sàng chấp nhận sự sỉ nhục khi thú nhận tội lỗi mình, thì vô số tự do đang chờ đón bạn. Tự do đặc biệt khi bạn cho phép Thiên Chúa vui mừng ‘vác về’ cả thân xác và linh hồn. “Sự sỉ nhục là lửa thử, đốt cháy cái tôi để cái thật được lộ ra!” – Henri Nouwen.

Tin Mừng hôm nay đặc biệt dành cho những hối nhân. Nó trình bày hình ảnh một Thiên Chúa có sức mời gọi đặc biệt; đó là một Thiên Chúa Mục Tử ra đi tìm chiên. “Khi Thiên Chúa tìm bạn, không phải là để phơi bày vết thương của bạn, mà để băng bó nó!” – Brennan Manning. Phải nhận ra rằng, vì Thiên Chúa tìm kiếm chúng ta, đến với chúng ta, nên chúng ta đừng bao giờ để cho mình phải xấu hổ. Ngài không lên án con chiên đang tổn thương; thay vào đó, Ngài vui mừng xốc lên linh hồn nó và ‘vác về’.

Anh Chị em,

“Người ấy vui mừng vì con chiên đó!”. Hãy suy ngẫm về hình ảnh thánh thiện và nhân ái của Mục Tử Nhân Lành Giêsu đang miệt mài tìm kiếm bạn. Hãy nhìn thấy ước muốn yêu thương của Ngài để vượt qua bạn, đoàn tụ với bạn, tha thứ cho bạn và âu yếm vác bạn về. Hãy để cho nỗi sợ phán xét tiêu tán nhưng hạ mình để nhìn nhận tội lỗi. Hãy thừa nhận bạn không có khả năng tự mình vượt qua nó. Nếu bạn làm được như vậy, tấm lòng Mục Tử của Ngài sẽ vui mừng biết mấy khi Ngài nâng bạn lên và mang bạn đến sự tự do. “Niềm vui lớn nhất của tình yêu là khi tìm lại được điều nó từng mất!” – Paulo Coelho.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin vác con về trên đôi vai tình yêu không mỏi của Chúa, và dạy con biết vác người khác về cùng Ngài như chính con đã được ‘vác về!’”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

************************************************************

Lời Chúa Thứ Ba Tuần XIX Thường Niên, Năm Lẻ

Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 18,1-5.10.12-14

1 Khi ấy, các môn đệ lại gần hỏi Đức Giê-su rằng: “Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời ?” 2 Đức Giê-su liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông 3 và nói: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.

4 “Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời.

5 “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy.

10 “Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này ; quả thật, Thầy nói cho anh em biết : các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.

12 “Anh em nghĩ sao ? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao ? 13 Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc. 14 Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.”


 

DẤU ẤN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Hãy ra biển thả câu!”.

Năm 1884, một sinh viên qua đời; sau đám tang, cha mẹ anh quyết định làm một điều gì đó để có một dấu ấn về anh. Họ đến gặp Eliot, hiệu trưởng Harvard. Eliot hời hợt, “Có lẽ hai người nghĩ đến một học bổng?”; “Một thứ gì đó quan trọng hơn!”. Eliot không buồn nghe. Họ rời đi, đến một trường khác và xây một ‘đài tưởng niệm’ trị giá 26 triệu đô – Đại học Stanford Junior. Ngày nay, nó được biết nhiều hơn với cái tên Stanford!

Kính thưa Anh Chị em,

Eliot đã đánh mất một cơ hội lớn, một ‘dấu ấn’ của hai con người quảng đại muốn ghi lại! ‘Dấu ấn’ cũng là một trong những chủ đề của Lời Chúa hôm nay. Phêrô vâng lời Thầy “ra biển thả câu”, một ‘dấu ấn nhỏ’ chuyên chở một ‘thông điệp lớn!’.

Biết rằng, sau lần tiên báo thứ nhất về cuộc khổ nạn của mình, các môn đệ xao xuyến, Chúa Giêsu đã cho họ chứng kiến cuộc biến hình trên núi – một ký ức lớn. Hôm nay,  Ngài lại tiên báo về những ngày đen tối sắp tới, Ngài muốn Phêrô có thêm một ký ức khác – dĩ nhiên, nhỏ hơn – ra biển thả câu, lấy đồng tiền trong miệng con cá đầu tiên câu được để nộp thuế cho Thầy và trò; và đã xảy ra như vậy! Vậy mà đây là một trải nghiệm sẽ biến đổi Phêrô tận căn! “Những trải nghiệm bé nhỏ với Thiên Chúa có thể trở thành mỏ neo cho cả đời!” – Elisabeth Elliot.

Có vô vàn cách để Chúa Giêsu có một đồng tiền, nhưng Ngài muốn Phêrô lui về nghề cũ để bắt cá trong một trạng thái rối bời chưa từng có; để từ đó, ông có thêm một ký ức về Thầy. Chính sự kỳ diệu của ‘dấu ấn’ nhỏ này sẽ biến đổi Phêrô hoàn toàn vốn sẽ ‘trang bị’ tinh thần cho cuộc khổ nạn không tránh khỏi của Thầy và trò. Ân sủng của phép lạ cá nhân này sẽ giúp Phêrô vượt qua tất cả. Rồi đây, Phêrô sẽ quả quyết, “Chúng tôi đã được chứng kiến nhãn tiền sự uy nghi của Ngài!”. “Ân sủng thường ẩn mình trong những chi tiết tưởng chừng vụn vặt!” – Brennan Manning.

Môsê cũng gợi lại cho dân những ‘dấu ấn’ kỳ diệu của Thiên Chúa, “Đấng đã làm cho anh em những điều lớn lao và khủng khiếp mà chính mắt anh em đã thấy đó!” – bài đọc một. Ông kêu gọi dân hãy phụng sự, yêu mến Ngài, đừng lãng quên những việc Ngài làm; để từ đó, có thể ca khen, “Giêrusalem hỡi, nào tôn vinh Chúa!” – Thánh Vịnh đáp ca. “Người mất khả năng nhớ ơn sẽ mất cả niềm vui ca ngợi!” – A.W. Tozer.

Anh Chị em,

“Hãy ra biển thả câu!”. Phêrô đã vâng lời làm theo, một công việc xem ra quá nhỏ; ấy thế, qua đó, ông đã có một xác tín lớn – tin tưởng tuyệt đối vào Thầy. Phêrô không đánh mất cơ hội nên đọc được ‘thông điệp lớn’ từ một ‘dấu ấn nhỏ’. “Cơ hội đến như những hạt giống; chỉ ai cúi xuống nhặt mới thấy chúng lớn lên thành cây!” – Henri Nouwen. Trong cuộc sống, bao lần chúng ta bỏ lỡ cơ hội vốn cũng có thể ghi đậm một ký ức vốn có thể thay đổi lối nhìn và cách sống của mình. Với con mắt đức tin, chúng ta sẽ đọc ra những hành động nhỏ bé của Thiên Chúa luôn chuyên chở những thông điệp lớn!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, mở mắt con trước những phép lạ bé nhỏ, nơi Ngài gieo hạt đổi thay đời con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)  

*************************************************************

Lời Chúa Thứ Hai Tuần XIX Thường Niên, Năm Lẻ

Họ sẽ giết chết Người, và Người sẽ trỗi dậy. Con cái được miễn đóng sưu nộp thuế.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 17,22-27

22 Khi ấy, Đức Giê-su và các môn đệ tụ họp ở miền Ga-li-lê, Người nói với các ông : “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, 23 họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ trỗi dậy.” Các môn đệ buồn phiền lắm.

24 Khi thầy trò tới Ca-phác-na-um, thì những người thu thuế cho đền thờ đến hỏi ông Phê-rô : “Thầy các ông không nộp thuế sao ?” 25 Ông đáp : “Có chứ !” Ông về tới nhà, Đức Giê-su hỏi đón ông : “Anh Si-môn, anh nghĩ sao ? Vua chúa trần gian bắt ai đóng sưu nộp thuế ? Con cái mình hay người ngoài ?” 26 Ông Phê-rô đáp : “Thưa, người ngoài.” Đức Giê-su liền bảo : “Vậy thì con cái được miễn. 27 Nhưng để khỏi làm cớ cho họ sa ngã, anh hãy ra biển thả câu ; con cá nào câu được trước hết, thì bắt lấy, mở miệng nó ra : anh sẽ thấy một đồng tiền bốn quan ; anh lấy đồng tiền ấy, nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của anh.”