Thánh Y Nha-xiô ở Loyola (Y-Nhã)

     

 Thánh Y Nha-xiô ở Loyola (Y-Nhã)            

                                                 sưu tầm

 Vị sáng lập dòng Tên này đang trên đà danh vọng và quyền thế của một sĩ quan trong quân đội Tây Ban Nha thì một trái đạn đại bác đã làm ngài bị thương ở chân. Trong thời kỳ dưỡng bệnh, vì không có sẵn các cuốn tiểu thuyết để giết thời giờ nên ngài đã biết đến cuộc đời Ðức Kitô và hạnh các thánh. Lương tâm ngài bị đánh động, và từ đó khởi đầu một hành trình lâu dài và đau khổ khi trở về với Ðức Kitô.

Vào năm 1522, được thấy Mẹ Thiên Chúa trong một thị kiến, ngài thực hiện cuộc hành hương đến đan viện dòng Biển Ðức ở Monserrat. Ở đây, ngài xưng thú tội lỗi, mặc áo nhặm và đặt thanh gươm trên bàn thờ Ðức Maria thề hứa sẽ trở nên một hiệp sĩ cho Ðức Mẹ.

Trong khoảng thời gian một năm, ngài sống gần Manresa, có khi thì ở với các tu sĩ Ða Minh, có khi thì ở nhà tế bần, nhưng lâu nhất là sống trong một cái hang ở trên đồi để cầu nguyện. Chính trong thời gian hoán cải này ngài bắt đầu một công trình mà sau đó rất nổi tiếng, cuốn Những Thao Luyện Tâm Linh.

Vào năm 1523, ngài rời Manresa đến Rôma và Giêrusalem, là nơi ngài sống nhờ việc khất thực và hăng say hoán cải người Hồi Giáo ở đây. Vì lo sợ cho tính mạng của ngài các tu sĩ Phanxicô khuyên ngài trở về Barcelona. Tin tưởng rằng kiến thức uyên bác sẽ giúp đỡ tha nhân cách thiết thực hơn, ngài dành 11 năm tiếp đó trong việc học ở Alcalá, Salamanca và Balê.

Vào năm 1534, lúc ấy đã 43 tuổi, cùng với sáu người khác (trong đó có Thánh Phanxicô Xaviê) ngài thề sống khó nghèo và khiết tịnh và tất cả cùng đến Ðất Thánh. Các ngài thề quyết rằng nếu không thể ở đây thì sẽ dâng mình cho công việc tông đồ của đức giáo hoàng. Và đó là điều đã xảy ra. Bốn năm sau, Thánh Y Nhã hợp thức hoá tổ chức của ngài. Tu Hội của Ðức Giêsu (Dòng Tên) được Ðức Giáo Hoàng Phaolô III chuẩn nhận và Thánh Y Nhã được bầu làm bề trên đầu tiên.

Trong khi các bạn đồng hành được đức giáo hoàng sai đi truyền giáo thì Thánh Y Nhã vẫn ở Rôma, chăm sóc tổ chức mới của ngài nhưng vẫn dành thời giờ để thành lập các nhà cho cô nhi, cho người tân tòng. Ngài thành lập Trường Roma (sau này là Ðại Học Grêgôriô), với mục đích là trường này sẽ trở nên khuôn mẫu cho các trường của Tu Hội.

Thánh Y Nhã đích thực là một vị thần bí. Ngài tập trung vào đời sống tâm linh dựa trên các nền tảng thiết yếu của Kitô Giáo — Thiên Chúa Ba Ngôi, Ðức Kitô, Bí Tích Thánh Thể. Linh đạo của ngài được tỏ lộ trong châm ngôn của Dòng Tên, ad majorem Dei gloriam — “để Thiên Chúa được vinh danh hơn.” Trong quan niệm của ngài, sự tuân phục là một đức tính nổi bật nhằm đảm bảo cho thành quả và sự năng động của tu hội. Mọi hoạt động phải được hướng dẫn bởi lòng yêu mến Giáo Hội thực sự và tuân phục Ðức Thánh Cha vô điều kiện, vì lý do đó, mọi thành viên của dòng phải khấn lời thề thứ tư, đó là phải đến bất cứ đâu mà đức giáo hoàng đã sai đi để cứu rỗi các linh hồn.

Lời Bàn 

Vào năm 1517, Luther đã niêm yết các đề án của ông lên cửa nhà thờ ở Wittenberg. Mười bảy năm sau, Thánh Y Nhã sáng lập một tu hội góp phần quan trọng trong việc chống lại sự cải cách Tin Lành. Ngài là một kẻ thù bất khả tiêu diệt của Tin Lành. Tuy nhiên, trong lời lẽ của ngài người ta vẫn thấy tiềm ẩn sự đại kết: “Phải rất thận trọng khi đưa ra các chân lý chính truyền để nếu người lạc giáo có mặt ở đó, họ sẽ cảm nhận được lòng bác ái và sự ôn hoà Kitô Giáo. Không được dùng lời lẽ cứng rắn và cũng không được khinh miệt những sai lầm của họ.” Một trong những khuôn mặt vĩ đại của phong trào đại kết hiện nay là Ðức Hồng Y Bea, một linh mục dòng Tên.

Lời Trích 

Thánh Y Nhã đề nghị lời nguyện sau đây cho các hối nhân: “Lạy Chúa, xin hãy chấp nhận mọi đặc quyền, mọi ký ức, mọi hiểu biết và toàn thể ý chí của con. Ngài đã ban cho con tất cả những gì con có, tất cả con người của con, và con xin phó thác chúng cho thánh ý của Ngài, để Ngài tùy ý sử dụng. Con chỉ xin Chúa ban cho con tình yêu và ơn sủng. Ðược như thế, con đã giàu sang đủ và không dám đòi hỏi gì nữa.”     nguồn:http://tinmung.net/CACTHANH/_CacThanh/_Thang07/Inhaxio_Loyola/_List.htm

Không Quyền Lực Nào

                      Không Quyền Lực nào

 Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy

 Hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người

                                                    (Tv 34, 9)

 “Ðức Tin không thể nào bị bóp nghẹt bởi bất cứ quyền lực nào!”. Ðó là lời tuyên bố của tổng thống Hoa Kỳ George Bush trong buôi tiễn biệt Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II (19/9/1987) nhân dịp Ngài viếng thăm Hoa Kỳ. Trong bài diễn văn từ giả Ðức Thánh Cha, phó tổng thống Hoa Kỳ nói rằng Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục làm việc tại Liên Xô sau hơn 60 năm tuyên truyền cho chủ thuyết vô thần.

 Ông George Bush kể lại cho Ðức Thánh Cha như sau: “Trong nghi lễ an táng tổng bí thư Breznev tại Mascơva, một lễ nghi với nhiều lính tráng và hoa tím, nhưng không có Ðức Tin và Lời Chúa, tôi theo dõi bà quả phụ đang tiến đến quan tài để nói lời từ biệt… Kìa, có Chúa làm chứng cho tôi, giữa sự lạnh cóng của một chế độ độc tài, bà Breznev chăm chú nhìn người chồng, rồi cúi nhẹ xuống và làm dấu thánh giá trên ngực của người chết…”.

 Ông Bush cũng kể lại rằng ông đã gặp Mao Trạch Ðông trước khi ông này qua đời. Chủ tịch họ Mao đã tâm sự với ông như sau: “Tôi sắp sửa về Trời, tôi đã nhận được lời mời gọi của Chúa”.

 Ðưa ra hai sự kiện trên đây, ông Bush kết luận: Không có quyền lực nào, không có luật pháp nào có thể quét sạch những gì đã ăn rễ sâu trong lòng người…

 Lời phát biểu trên đây của ông George Bush có lẽ phải làm cho chúng ta phấn khởi. Thiên Chúa vẫn luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta. Chính những nơi mà chúng ta tưởng Ngài đã bị gạt bỏ hoàn toàn, chính những lúc mà chúng ta tưởng như Ngài không có mặt, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động. Bởi vì Thiên Chúa không thể là Thiên Chúa nếu Ngài không yêu thương con người.

 Chúng ta tiếp nhận sự sống từ chính Chúa, như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt trời. Thiếu ánh sáng mặt trời thì không thể có sự sống trên trái đất. Cũng thế, không có Chúa thì không thể có sự sống… Thiên Chúa thông ban sự sống cho chúng ta, bởi vì Ngài yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương tất cả mọi người, ngay cả những kẻ chối bỏ hoặc thù ghét Ngài.

 

Giàu có và hạnh phúc con người

Giàu có và hạnh phúc con người.

                                                                                   tác giả: Phùng văn Phụng

Ðọc bản tin của báo Thanh niên Online ngày thứ ba 29 tháng 11 năm 2005 có tin “Ái nữ của ông Samsung tự tử”

* Bản tin đó như sau: “ Cuối tuần rồi tập đoàn sản xuất chip điện tử lớn nhất thế giới Samsung đã xác nhận Lee Yoon-hyung , con gái út của tập đoàn này đã tự kết liễu đời mình.” Lee 26 tuổi đang học Cao học ngành Quản trị nghệ thuật tại Ðại học New York( Mỹ ) đã tự treo cổ bằng dây điện trong căn hộ của cô ở Manhattan. Cô đang ở tuổi thanh xuân, giàu có, có cổ phần 191 triệu đô la Mỹ ở công ty Samsung vào năm 2003, tính đến ngày nay chắc chắn là phải nhiều hơn. Giàu có như vậy tại sao lại tự tử?

Theo bản tin trên cô tự tử vì đã quá tuyệt vọng sau khi gia đình cô không chấp nhận cho cô kết hôn với bạn trai của cô.

* Khoảng thập niên 1960 cô đào điện ảnh nổi tiếng khắp thế giới Marylin Monroe, rất giàu có, đang trên đà danh vọng cũng tự kết liễu đời mình.

Tại sao có thể xảy ra sự tự tử cho những người giàu có. Họ thiếu cái gì đây?

Cô Lee cô con gái cưng của tập đoàn giàu có Samsung chắc đã được nuông chìu từ nhỏ, thói quen muốn gì được nấy ngày hôm nay không được cha mẹ đồng ý gã cho người bạn trai của cộ và cô đã bỏ lại tất cả tài sản gần 200 triệu đô la Mỹ và bỏ lại cả tuổi xuân mộng mơ. Cô đâu có thiếu thốn gì . Cô sống vương giả như một người có quyền thế lớn. Ở nhà đắc tiền. Ði xe sang trọng. Giàu có như cô thật là hiếm có trong thế giới hiện nay. Cô đi đâu người ta vẫn tưởng cô là nhân vật quan trọng của viên chức nhà nước đương cầm quyền.

Rồi cô bỏ lại tất cả giàu có đó, sang trọng đó, để đi về bên kia thế giới. Tại sao?

Vì cô thiếu tình thương. Cô cảm giác ba cô không yêu thương cô. Thật ra cô chỉ yêu chính mình mà thôi.

Tin Việt báo ngày 30 tháng 05 năm 2006

* Tàu Carnival Legend từ nhóm đảo Virgin thuộc Anh đến Tortola có một hành khách nhảy xuống biển sau khi gây lộn với vợ.

Cũng tin Viêt báo ngày 29 tháng năm 2006 ở Miami Beach.

* Bà Quinou Van Dyk nghe tiếng trẻ con khóc, buớc vào phòng thì thấy chồng bà nhảy ra từ cửa sổ ở tầng thứ 15, bà thấy xác ba cha con ở nơi cách mặt đất hai tầng.

Bác sĩ Edward Van Dyk, 44 tuổi, ném hai con trai 4 tuổi và 8 tuổi hồi sáng thứ bảy vừa qua. Bà Quinou nhận rằng hai vợ chồng có gây cấn từ sáu tháng nay, nhưng không có cải cọ gì trước vụ này. Bác sĩ Edward là trưởng khoa ung thư của bịnh viện Alton Memorial.

Một người đang đi du lịch . Một bác sĩ đang hành nghề. Tất nhiên bác sĩ thì phải thuộc thành phần khá giả, giàu có. Không bác sĩ nào ở Mỹ cũng như người đi du lịch trên tàu Carnival mà được mô tả là người “nghèo rớt mùng tơi được” Họ thuộc thành phần khá giả giàu có, dư ăn, dư mặc không đến nổi túng thiếu .

Như vậy tại sao họ phải hủy diệt sinh mạng của họ khi họ có đời sống sung túc, giàu có, no đủ mà rất nhiều người nghèo chỉ cần được họ phân phát, cho đi một phần sự thừa thải của họ thì mấy ngưòi nghèo cũng sống được một thời gian.

* Bản tin của báo Thanh niên ngày 12 tháng 06 năm 2006 cho biết ngày 10.06, Ông Nguyễn Công Bình( 37 tuổi) Phó Giám đốc chi nhánh tại Sài gòn của Trung Tâm kỷ thuật truyền hình cáp Việt Nam, trụ sở ở số 38 đường Nguyễn an Ninh, phường 14, quận Bình Thạnh đã treo cổ tự tử trong phòng làm việc.

* Trước đây, khoảng tháng 04 năm 1997 tôi có người bạn thân, giáo sư trung học, nghĩa là người trí thức, hiểu biết, có đọc sách báo, nhưng vì chuyện gia đình? Hay vì lý do nào khác? cũng đã tự tử, anh mất khoảng 62, 63 tuổi.

Tôi cứ suy nghĩ vẫn vơ tại sao có những người khá giả, giàu có, trình độ học vấn cao chỉ cần gặp hoàn cảnh khó khăn một chút là quyên sinh, là tự tử trong khi những người mắc bịnh nan y, bịnh phong cùi, chịu tật nguyền, câm điếc, mù loà hay thiếu tay, thiếu chân sinh hoạt rất khó khăn mà họ vẫn sống. Tại sao họ thiếu thốn mọi bề, nghèo khổ, họ chịu nhiều đau đớn về thể xác, chịu nhiều đau khổ về tinh thần sống nhờ vả vào sự bố thí của người khác mà họ vẫn tha thiết sống. Tại sao như vậy?

* * * *

Sau gần 8 năm, tôi được trở về từ trong trại cải tạo, để hội nhập vào xã hội mới để sống còn, tôi đã gặp rất nhiều gian nan từ gia đình, vợ con. Ðang là chủ gia đình, khi đi cải tạo về, tên của mình đứng thứ chót trong hộ khẩu. Muốn có tên trong hộ khẩu thì phải có sự bảo lảnh của bà xã, vợ mình. Bắt đầu lệ thuộc bà xã rồi vậy. Không vốn liếng làm ăn. Bị theo dõi thường xuyên vì còn trong thời gian gọi là “ quản chế ” bà xã quản chế, nhà nước quản chế. Mọi sự tùy thuộc vào bà xã từ chén cơm, tiền cà phê, áo quần chi phí lặt vặt bà xã lo. Trong mấy tháng đầu bị áp lực tứ bề, từ trong gia đình đến ngoài xã hội, đầu óc căng thẳng, nhiều khi muốn được vô trở lại trong tù còn sướng hơn, khỏi phải lo nghĩ gì cả, ngày ngày có hai bửa cơm mặc dầu không được no, nhưng tinh thần còn sung sướng hơn ở ngoài đời nữa..

Tôi có hỏi ông anh: “ Bây giờ khổ quá, khổ đủ mọi thứ chuyện, không tiền bạc, không nghề nghiệp, sống ăn bám, bị xem thường, làm sao bây giờ anh Nhàn ( anh Nhàn lớn hơn tôi 6 tuổi) Anh Nhàn trả lời “ Mình thay đổi tư tưởng, cách suy nghĩ đi. Nghĩ về người khác đi, mình quên mình đi, sẽ đỡ khổ liền.” Tôi đã liên tưởng đến một câu trong kinh thánh “ Mình sinh ra để phục vụ chứ không phải để được phục vụ ”. “ Cũng như con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ….” (Mt 20 câu 28 – Mc10 câu 45)

Tại sao người Việt Nam dầu đau khổ cách mấy cũng cố gắng chịu đựng chứ không có tự tử.

Có người ở tù nhiều năm mà vợ ở nhà vẫn chờ chồng về, dầu phải chịu đựng biết bao cảnh khó khăn. Phải chăng do tình yêu thương thật sự của vợ chồng trong gia đình Việt Nam nên vợ chồng chờ đợi nhau đến nhiều năm như thế.?

Tôi cũng hay suy nghĩ phải chăng người Việt Nam mình thường luôn luôn tin tưởng vào đấng siêu nhiên, vào đấng Tối Cao, vào ông Trời và nhờ niềm tin đó, họ tự nhủ thầm bây giờ có khổ sở thì ngày sau sẽ sung sướng. Cho nên người ta thường nói :

“Trời cao có mắt ”

hay người ta cũng thường tự an ủi chính mình rằng:

“ Tái ông mất ngựa” .

* * *

Ða số người Việt Nam ở trong làng quê đều có bàn Thiên. Trước sân nhà có trồng cây cột trụ trên đó có để bàn vuông chiều dài và chiều ngang độ ba hay bốn tấc có để lư hương nhỏ. Ban đêm, trời vừa tối, bà con thường ra trước nhà thắp nhang xong, lạy bốn hướng cầu nguyện, van vái cùng ông Trời phù hộ cho gia đình mình, thân nhân, con cháu v.v.…

Có lẽ nhờ tin vào ông Trời nên người mình có sức chịu đựng dẽo dai, phi thường. Dầu có gặp sự đau khổ tột cùng, có người thân yêu rủi ro mất mát trong chiến tranh hay nhà cửa, tài sản bị tiêu hủy hết, người mình cũng có thể chịu đựng được.

Qua biến cố 30 tháng 04 1975 rất nhiều người giàu có, nhưng khi bị bắt đi cải tạo, nhà cửa bị tịch thâu trở thành tay trắng, khi chết chỉ được nằm trong cái hòm gỗ tạp, đóng đinh sơ sài rồi vài ba người khiêng đi chôn cất ở bìa rừng, bên bờ suối hay bên sườn núi trong rừng sâu của các tỉnh Lao Cai, Vĩnh Phú, Lạng Sơn, Cao Bằng, Thanh Hóa, Kon Tum v.v. mà thân nhân ở nhà cũng chẳng hề hay biết.

Trong cái khổ sỡ cùng cực đó trong trại cải tạo, ăn bo bo, ăn khoai mì, khoai lang cũng không đủ no, đói khát triền miên từ năm này sang năm nọ, làm lụng khổ sai, cuốc đất, đào kinh, đào ao nuôi cá, lên rừng chặt nứa, chặt cây, gánh phân, gánh nước tưới rau, đập đá v.v.. dưới trời nắng chói chan, mồ hôi đổ ra ướt áo, nhiều khi trong một buổi phải cởi ra vắt nước vài ba lần, con người thay trâu kéo cày để lên luống trồng khoai, trồng bắp, trồng lúa , cực nhọc vô cùng kẻ tám năm, kẻ 13 năm, người 17 năm như thế, có lúc nhiều người không lê nổi đôi chân phải dùng tay nâng bắp chân lên khi bước lên bậc thềm cao hai tấc, có lúc phải chống gậy con số người lên đến quá nửa số anh em trong trại vì bịnh hoạn, suy dinh dưỡng, nhiều thứ bịnh phát sinh nhưng chỉ được uống thuốc “ xuyên tâm liên” mà thôi v.v..

Tại sao họ vẫn sống mà không tự tử?

Dầu khổ cực như vậy họ vẫn nuôi hy vọng có ngày sẽ được trở về dầu biết rằng có thể sẽ vĩnh viễn bị đày, được chỉ định cư trú như những người chống đối ở lại miền Bắc sau năm 1954, được chỉ định sống ớ trong các làng mạc xa xôi ở Lào Cai, Vĩnh Phú hay Sơn La, Lai Châu v.v. cũng giống như trường hợp người dân Liên Sô suốt đời bị đày sống ở Tây Bá Lợi Á lạnh lẽo rồi sẽ chết lần, chết mòn ở đó.

* * *

Tôi có đọc sách của Linh Mục Chu Quang Minh, sáng lập Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia đình, cũng như trong một quyển sách của Nguyễn Hiến Lê có kể lại chuyện hai người tù chung thân cùng ở trong một phòng. Trong những ngày Tết sắp đến, ngày linh thiêng của mọi người đáng lẽ là ngày đoàn tụ, gặp gỡ người thân yêu thì hai người này bị giam chung trong buồng giam.

Người thứ nhất nhìn dưới sàn nhà hôi hám bẩn thỉu dơ dáy, anh buộc miệng than: “Ðời tôi sao khổ thế này ”

Anh thứ hai lại nhìn ra ngoài cửa sổ , từ khung cửa đó anh thấy bầu trời bao la, có vài con chim tung tăng bay lượn, dưới đất có những bông hoa xinh đẹp khoe màu sắc vui tươi, hớn hở, lòng anh bổng thấy vui lây, anh tự nhiên nói: “ Bầu trời bên ngoài đẹp quá.”

Như vậy cùng hoàn cảnh giống nhau nhưng hai người có hai cái nhìn khác nhau . Người thì thấy buồn khổ, người thì thấy vui sướng.

Do tự tâm tình của mình để nhìn sự vật, sướng khổ là do nơi mình. Cho nên thi hào Nguyễn Du có viết để kể tâm sự Thúy Kiều có câu:

“ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.”

Tôi cứ suy nghĩ miên man, người công giáo cấm tự tử ? Tại sao? vì chúng ta được ban ơn đặc biệt, được sinh ra làm con người. Nhân linh ư vạn vật. Con người chính là hình ảnh của Thiên Chúa, là đền thờ của Chúa Thánh thần mình không được hủy diệt bản thân mình. Sự sống và sự chết hoàn toàn do Thiên Chúa quyết định.

* * *

Tôi đã mò mẫm đi tìm con đường cho đời sống tâm linh, con đường nào dẫn tới vui tươi, hạnh phúc.?

Ðọc đến kinh Tám mối phúc thật: ai có lòng khó khăn, ai hiền lành, ai khóc lóc, ai khát khao nhân đức trọn lành, ai thương xót người, ai giữ lòng sạch sẽ, ai làm cho hòa thuận, ai chịu khốn nạn vì đạo ngay tất cả những điều đó mới là phúc thật vì chưng Nước Ðức Chúa Trời là của mình vậy.

Với niềm tin vào Ðấng tối cao, vào Ông Trời, “Trời cao có mắt”, người Việt Nam thường chịu đựng những đau đớn, khó khăn, những nghịch cảnh tưởng chừng như không vượt qua được, nhưng với thời gian người Việt Nam mình vẫn vươn lên từ những nhọc nhằn, đau khổ đó và niềm vui sẽ lại biểu hiển hiện trên khuôn mặt, nụ cười sẽ nở trên đôi môi của họ sau khi họ vượt qua được những thử thách, những đau khổ lầm than tận cùng trong cuộc sống của họ.

14 June 2006

Phùng văn Phụng

Sự thành công nhìn qua lăng kính đẹp

Sự thành công, nhìn qua lăng kính đẹp.(1)

                                                                           tác giả : Phùng văn Phụng

Ðọc bài “ Bản chất của thành công” mà em Hà Minh Ngọc , nữ sinh lớp 10, khối chuyên Trung Học Phổ thông Ðại Học Sư Phạm Hà Nội đã viết như sau:

“Thành công là khi bố và con trai có dũng khí bước vào bếp nấu những món ăn mẹ thích nhân ngày 8-3.

Thành công là hình ảnh một cậu bé dị tật ở chân… đã nuôi ước mơ trở thành cầu thủ bóng đá. Sau bao nổ lực khổ luyện cậu thành cầu thủ dự bị trong một đội bóng nhỏ…

Thành công của cậu học trò nghèo thi đậu Ðại học với vị trí thủ khoa nhưng bên cạnh thành công đó, có thành công khác…là sự chiến thắng của một người cha, gần 20 năm trời đạp xích lô nuôi con ăn học…” v.v….

Sự thành công nào cũng đòi hỏi kiên nhẫn, cố gắng, chịu khó . Ngày còn học lớp 9 năm 1959 (gọi là lớp đệ tứ) tôi có làm bài luận văn với tựa đề là:” Sự thành công không là điều quan trọng, điều quan trọng là sự cố gắng”. Tiếng Pháp ghi là:(Le success n’est pas ce qui importe, ce qui importe c’est L’effort). Câu này hơn 40 năm vẫn còn ăn sâu vào trong trí não tôi để lúc nào cũng nhắc nhở tôi cần phải cố gắng là chính. Tôi đã viết câu này như là câu “ gối đầu giường” để tự nhắc nhở mình.

Tôi có đọc đâu đó trong báo, nói đến sự thành công là:

– Biết chính xác mình muốn gì, có kế hoạch, tin tưởng vào khả năng của mình để làm.
– Biết dùng thời gian cho đúng.
– Luôn bày tỏ sự quan tâm đến người khác. Rất cởi mở và khoan dung với mọi người.
– Luôn luôn có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, trong cộng đồng và cả trong thế giới mà họ đang sống.
– Họ có cái nhìn tươi sáng, lạc quan về cuộc sống.

Em Ngọc, học sinh lớp 10 này còn viết: “ Bạn muốn mình giàu có, muốn mình trở thành tỷ phú như Bill Gates? Vậy thì hãy gấp đồng tiền một cách cẩn thận rồi trao nó cho bà cụ ăn xin bên đường..” Em viết tiếp: “ bạn không chỉ giàu có về vật chất mà còn giàu có về tâm hồn.”

Trong bài nói chuyện ngày 6 tháng 8 năm 2000, trước 20 em học sinh tốt nghiệp trung học với danh dự là Thủ khoa và Á Khoa tại Houston, Hoa Kỳ, Kỹ sư Lê Duy Loan đã định nghĩa về thành công như sau: “ Trở thành người giỏi nhất trong bất cứ việc gì mình làm và cảm thấy hạnh phúc trong công việc mình làm”.

Lê Duy Loan học nhảy ba lớp 7,8 và 11, tốt nghiệp trung học lúc 16 tuổi đứng đầu lớp của 335 học sinh. Năm 1982 khi mới 19 tuổi đã làm nghề kỹ sư ở Texas Instrument (IT) có 18 bằng sáng chế và tốt nghiệp Cao Học Quản Trị Thương mại MBA. Bà là Phó Tổng Giám Ðốc Kỹ Thuật của IT( Năm 2000)

Bà nêu lên bốn yếu tố để đạt đến sự thành công là:

– Ước mơ, ước mơ lúc còn bé cũng như khi đã về già.
– Xác định mục đích của đời mình và sắp sẵn chương trình để thực hiện mục đích đó.
– Siêng năng làm việc, thành công gồm 10% cảm hứng và 90% mồ hôi.
– Làm việc cách khôn ngoan.
– Biết quan tâm đến người khác, giúp đỡ người khác.

Ông Nguyễn Hiến Lê trong lời tựa của cuốn sách “ 40 Gương Thành Công” nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin năm 2000, viết: “ Chỉ cần xác định một mục đích rồi cứ kiên nhẫn, kiên nhẫn, kiên nhẫn nhắm nó mà tiến tới”

Tất cả sự thành công mà Nguyễn Hiến Lê đã có ghi trong cuốn “40 gương thành công” đều là những mẫu gương kiên nhẫn.

Một học sinh lớp 10 đã nhìn thấy một khía cạnh khác của sự thành công là tình yêu thương, lòng nhân ái giữa người đồng loại.

Mẹ Têrêsa đã khám phá rằng ở nước Mỹ người ta rất giàu có về vật chất, không thiếu thốn thứ gì, ăn uống dư thừa, cuộc sống rất nhiều tiện nghi, nhưng họ thường rất nghèo về tình yêu thương nhất là của cha mẹ đối với con cái vì họ bỏ quá nhiều thì giờ để làm việc kiếm tiền, không còn thì giờ dành riêng cho con cái của họ nữa.

Vậy sự thành công tùy cái nhìn của mỗi người.

Chỉ số thông minh IQ (Intelligence) của mỗi người là quan trọng nhưng còn chỉ số xúc cảm EQ (Emotion) của con người còn quan trọng hơn nữa. Người còn biết xúc động trước nỗi đau khổ của người khác, biết yêu thương người khác, cảm thông với sự đau khổ của người đồng loại khi họ gặp khó khăn, đói khát, bịnh nan y như bị bịnh cùi, bịnh Aids, bị tật nguyền, thiếu chân, thiếu tay, bịnh cùi, bịnh đui mù, câm điếc hay khi họ gặp thiên tai, lụt lội, bảo tố. Tình yêu thương, lòng bác ái biết chia xẻ những của cải vật chất của mình có, biết an ủi về tinh thần bằng những lời thăm hỏi, cầu nguyện thì quí giá biết bao nhiêu.

Cho nên chỉ sợ rằng trong thế giới ngày nay, con người đã mất hết cảm xúc yêu thương, mất hết lòng nhân ái, không còn có tâm tư, tình cảm biết rung động trước nỗi khổ, trước nỗi đau của người khác như Nguyễn Trãi đã viết:

“ Thương người như thể thương thân”

Chỉ sợ rằng trong thời đại ngày nay nhiều người cho rằng:

“ Tiền là Tiên là Phật
là sức bật của tuổi trẻ …”

Người ta đặt nặng sự giàu có về vật chất lên trên giá trị tinh thần, trái tim con người đã trở thành chai đá, lòng họ dững dưng trước những thảm cảnh, đau thương của người đồng loại.

Cầu xin cho tôi và các bạn đều có trái tim biết xúc động và biết yêu thương vì Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4,8)   (2)

Ngày 11 tháng 12 năm 2006

(1)Tựa bài này do anh Hồ Công Hưng đặt tên.

(2) Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu. (1Ga 4,8)