QUÁ KHỨ VÀ TƯƠNG LAI CỦA MỘT VỊ THÁNH

QUÁ KHỨ VÀ TƯƠNG LAI CỦA MỘT VỊ THÁNH

(LỄ THÁNH AUGUSTINÔ)

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Mỗi khi mừng kính một vị thánh nào đó, thường chúng ta hay kể về những nhân đức trổi vượt, những chuyện phi thường, công danh hiển hách… nơi các ngài. Tuy nhiên, phụng vụ hôm nay mừng kính một vị thánh có thể nói là “rất khác” với các đấng thánh khác. Ngài là một con người lêu lổng, phóng túng, ăn chơi trác táng, ngang tàng, khó dạy… Đỉnh điểm là việc công khai chống đức tin và Giáo Hội khi theo chủ thuyết Manichê (Nhị Nguyên). Điều đáng nói là con người bất hảo đó đã được ơn trở lại với Chúa và sau này làm thánh lớn trong Giáo Hội. Từng là linh mục, giám mục, và sau được Giáo Hội phong làm giáo phụ rồi tiến sĩ. Sự trở lại của ngài lại không phải là những bài giảng hút hồn của một ai đó, hay là từ sách vở với những triết lý thuyết phục, nhưng lại ngang qua sự tận tụy, hy sinh trong cầu nguyện và nước mắt của một người mẹ nghèo, đơn sơ, giản dị và “rất quê”.

Thánh đó chính là Augustinô, và người cảm hóa chính là thánh Mônica mẹ ngài, mà chúng ta mừng kính hôm qua.

1. Augustinô và những “điển tích” trong tội

Đọc trong cuốn tự thuật của thánh nhân, chúng ta nhận thấy ngài là một con người tội lỗi ngập đầu. Những tội mà Augustinô phạm phải có thể nói rằng nó thuộc nhóm tội “hạng nặng” và rất khó phục hồi.

Thật vậy, ngay từ khi còn nhỏ, Augustinô đã tỏ ra là một người sáng trí, thông minh và đầy triển vọng. Tuy nhiên Augustinô không phải là một con người thuần túy, vì thế, Augustinô cũng còn nổi tiếng “chơi trội” trong vấn đề ham chơi hơn là thích học, hay lừa dối cha mẹ, thầy cô và thường gây hấn, đánh đập bạn bè. Lúc thiếu thời, Augustinô đã có những hành động gian lận trong việc trộm cắp đồ đạc của gia đình để bán đi lấy tiền tiêu xài, phung phí vào những chuyện không tốt.

Khi lớn lên, đến tuổi vị thành niên, Augustinô vẫn tính nào tật đó. Vì thế, càng thêm tuổi, Augustinô lại càng ngang ngược cách quyết liệt hơn.

Thương con và muốn con thành đạt, trở nên người lương thiện và giúp ích cho đời.  Vì thế, cha mẹ Augustinô sẵn lòng cho ngài theo đuổi việc học tới cùng. Augustinô được gửi tới kinh thành Carthage để theo học môn hùng biện. Hy vọng với một môi trường mới, bạn bè mới, thầy cô mới sẽ làm cho Augustinô đổi thay.

Tuy nhiên, đôi lúc sự thật vẫn không diễn ra theo ý của mình. Ngựa quen đường cũ! Không những không trở nên tốt hơn, nhưng Augustinô còn lún sâu và trượt dài trên con đường trác táng bởi nếp sống trụy lạc, sa đoạ nơi đây. Thay vì trở về với Chúa và con đường lương thiện, thì tại đây, Augustinô đã hoàn toàn đánh mất đức tin vào Chúa, không tin Giáo Hội và phỉ báng, bác bỏ các chân lý đức tin của Đạo Thánh.

Điều này được thể hiện rõ nhất khi Augustinô công khi tin và theo chủ thuyết Manichê (Nhị Nguyên). Đây là chủ thuyết lạc giáo chống lại Giáo Hội thời bấy giờ. Không những thế, Augustinô còn hiên ngang xa đà vào con đường dục vọng khi ăn ở và chung chạ với hai người con gái ngoài hôn thú.

Sự ngông cuồng, ngang ngược của Augustinô chứng minh cho thấy, bản chất của ngài là thích tự do, không bị ràng buộc. Thế nên, chúng ta không lạ gì khi ngài quyết định đi sang Milanô nước Ý để tránh sự theo dõi và chăm sóc của người mẹ. Tại đây, ngài tiếp tục đi theo con đường tội lỗi để chạy theo danh vọng, phù hoa và khoái lạc.

Trên đây chính là sự thật về cuộc đời của thánh Augustinô mà chính ngài đã kể lại trong cuốn “Tự Thuật”. Có lẽ nhiều người nghe thấy cuộc đời của một vị thánh lừng danh mà lại có những năm tháng đen tối kinh hoàng trong tội, hẳn đã không chấp nhận và tin nổi tại sao lại có thể trở thành đấng “rất thánh” trong khi còn trẻ thì lại “rất đời”!

Tuy nhiên, điều mà con người tưởng chừng như không thể, thì Thiên Chúa lại hoàn toàn có thể: “Vì không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được”.

2. Augustinô và cuộc đổi đời

Khi nói đến cuộc đổi đời của thánh Augustinô, chúng ta không thể không nhắc đến mẫu gương cầu nguyện và hy sinh của người mẹ là thánh Mônica.

Mẹ ngài là một người đức hạnh, luôn yêu thương, hy sinh và chấp nhận tất cả cho chồng và con để xây dựng hạnh phúc gia đình. Không chỉ dừng lại ở đấy, bà còn thao thức và trăn trở tột cùng khi thấy con mình đang xa dần sự sống đời đời là ơn cứu độ.

Vì không muốn con mình bị trầm luân trong tội và mất hạnh phúc Thiên Đàng, nên bà đã cầu nguyện trong chay tịnh và nước mắt, đồng thời theo con đến tất cả mọi ngóc nghách hầu mong sao cho con mình được ơn trở lại.

Quả thật, Thiên Chúa đã ân thưởng và ban tặng cho bà ân huệ lớn lao: Augustinô được ơn trở lại với Chúa và Giáo Hội. Vào thứ bảy Tuần Thánh năm 387, Augustinô được lãnh Bí tích Thánh Tẩy cùng với con trai là Adéodat và bạn của Ngài là Alipius.

Từ khi trở thành người Công Giáo, Augustinô đã hoàn toàn đổi mới về tư duy, lối sống và chọn lựa:

Nếu trước kia, Augustinô là một con người không có gì để khen, thì nay, nhờ sự trở lại, ngài đã được nhiều thế hệ ca ngợi.

Nếu trước kia Augustinô là người lớn lên trong tội, sống trong tội, vương vấn tội lụy trần ai, thì giờ đây ngài là một con người tốt lành thánh thiện. Ngài yêu mến Thiên Chúa đến say mê, đến nỗi khi cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình, ngài đã thốt lên: “Lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng!”; và “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, linh hồn con luôn khắc khỏai cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa. Song song với việc yêu mến Chúa, ngài còn yêu con người đến mức anh hùng. Vì thế, ngay sau khi mẹ ngài qua đời, ngài trở về Carthage và bán hết tài sản để cho người nghèo.

Nếu trước kia Augustinô là người phản đạo Công Giáo, đi theo tà thuyết, thì giờ đây, ngài trở thành người bảo vệ đức tin Công Giáo trong vai trò là tu sĩ, linh mục, giám mục. Nhất là qua những tác phẩm thế giá về triết học, thần học, chú giải Thánh Kinh…

Đây phải nói là những nguồn tài liệu phong phú và giá trị trong việc hộ giáo, củng cố đức tin và góp phần đào tạo hàng ngũ linh mục sau này.

Cuộc đời tại thế của thánh nhân được khép lại ngày 28 tháng 8 năm 430 tại Hippôn, hưởng thọ 76 tuổi.

Là kitô hữu lúc 33 tuổi, làm linh mục lúc 36 tuổi, được tấn phong giám mục lúc 41 tuổi, cuộc đời của thánh nhân có thể gồm tóm trong một câu: “Một tội nhân trở thành thánh nhân”.

Như vậy, chúng ta thấy: “Thánh nhân nào cũng có quá khứ, tội nhân nào cũng có tương lai”.

Mừng lễ thánh Augustinô hôm nay, chúng ta học được bài học từ sự kiên trì, hy sinh trong nước mắt và cầu nguyện của thánh Mônica. Tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa vì: “Đối với con người thì không thể, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể”.

Chúng ta cũng không bao giờ thất vọng đến độ không dám chạy đến với lòng thương xót của Chúa, để được gội rửa, hầu trở nên trong sạch, để làm lại cuộc đời trong ân sủng của Thiên Chúa. Hãy cậy trông, phó thác và tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa, vì ơn cứu độ của chúng ta nhờ vào hy vọng.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết dâng những hy sinh và lời cầu nguyện cho những người tội lỗi được ơn trở lại. Xin Chúa cũng ban cho chính chúng con được trở về với Chúa từng ngày, để không bị rơi vào thất vọng và mất niềm tin. Amen.

Tác giả: Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

THÁNH NỮ MÔNICA: NGƯỜI MẸ TUYỆT VỚI

THÁNH NỮ MÔNICA: NGƯỜI MẸ TUYỆT VỚI

(LỄ THÁNH MÔNICA)

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Image result for picture of saint monica

Đối với văn hóa của người Á Đông thì vai trò người phụ nữ luôn bị giảm nhẹ. Từ quan niệm trên, người phụ nữ đôi khi bị coi thường. Chính vì vậy, bản thân người phụ nữ cũng trở nên tự ty, co cụm lại trong những công việc như nội chợ, cơm núc…  Nói chung là lo những chuyện lặt vặt trong nhà.

Tuy nhiên, hôm nay, phụng vụ mừng kính một vị thánh nữ là vợ, là mẹ trong gia đình. Ngài được biết đến bằng những chuyện bình thường nhưng đã thi hành cách phi thường. Mang trong mình phận gái:“liễu yếu đào tơ”, nhưng cuộc đời và lối sống ngang qua những hành động, hẳn ngài thật giống một: “đấng nam nhi” hay “bậc anh hùng hảo hán”.

Con người đó là ai? Thưa! Ngài chính là thánh nữ Mônica, mẹ của thánh giám mục Augustinô.

Thật vậy, cuộc đời của ngài đã trở nên tấm gương: anh dũng, can trường, nhân hậu, hiền từ, kiên trì, trung thành trong đời sống thường ngày, nhất là  gương hy sinh và cầu nguyện.

Mừng lễ thánh Mônica, chúng ta cùng nhau tìm hiểu cuộc đời của thánh nhân, để ngang qua đó, như một bài học cho đời sống đức tin của chúng ta.

1. Thân thế cuộc đời thánh Mônica

Gia đình của thánh nữ Mônica không có gì nổi nang trong làng. Cha mẹ ngài là những người bình dân nhưng đạo hạnh, hay thương người. Thánh nữ sinh năm 332, tại làng Sucara bên Phi Châu.

Ngay từ nhỏ, Mônica đã được hấp thụ truyền thống đạo đức, và một nền giáo dục có thể nói là “linh đạo tình yêu”. Những đặc tính như: nhân từ, hiền hậu, thương người là nét đẹp nơi gia đình của thánh nhân mà ngài được thừa hưởng.

Quả thật, tấm lòng quảng đại, yêu thương người nghèo dường như đã thường trực trong tâm hồn cô, khiến cô không thể ngồi yên và no bụng trong khi nhiều người chung quanh mình phải đói khát! Vì thế, mỗi bữa cơm Mônica thường dành ra một phần cho kẻ khó nghèo. Việc chia sẻ cho kẻ nghèo đã làm cho Mônica coi là niềm hạnh phúc của mình vì được diễm phúc đụng chạm, gặp gỡ trực tiếp Thiên Chúa ngang qua những người kém may mắn đó.

Một điểm đáng lưu ý khác nữa là Mônica thường xuyên ẩn mình nơi vắng vẻ để thân mật, cầu nguyện với Chúa lâu giờ.

Tuy nhiên, tưởng chừng một con người đạo hạnh như Mônica, ắt phải được tận hưởng một cuộc sống bình yên, hạnh phúc! Ai ngờ cô lại gặp phải cảnh éo le và truân chuyên quá đỗi!

Năm 22 tuổi, vì vâng lời cha mẹ, Mônica đã kết hôn với Patricius. Chồng cô thuộc dòng dõi quý tộc. Vì thuộc về thành phần giàu sang trong làng, nên ngay từ khi còn nhỏ, chàng Patricius đã được nuông chiều thái quá, dẫn đến tình trạng ngang tàng, hách dịch, nghiện rượu, tính tình nóng nảy và không chung thủy, độc ác và tàn nhẫn…. Ông luôn tỏ vẻ khó chịu mỗi khi thấy vợ làm từ thiện và cầu nguyện.

Hơn nữa, sẵn có lợi thế con nhà giàu, lại hơn tuổi của Mônica quá nhiều, nên Patricius thường xuyên thể hiện vai trò chủ – tôi đối với cô. Mặt khác, cô lại còn phải chịu cảnh hất hủi của mẹ chồng. Điều làm cho cô Mônica buồn nhất, đó là bà lại hùa theo con trai để bênh vực chủ trương không tôn giáo và đời sống phóng khoáng, tự do cho Patricius. Vì những lý do đó, cuộc sống gia đình của Mônica gặp rất nhiều khó khăn, đau khổ.

Thêm vào đó, sau khi sinh được Augustinô, người con trai đầu lòng, bà vui mừng phấn khởi, nhưng chẳng bao lâu, Augustinô buông theo lối sống của cha, nên cũng trở nên lêu lổng, phóng túng…

Nhưng khi gặp những nghịch cảnh ngập đầu, Mônica không hề oán trách, nhưng ngài đã tìm ra những liều thuốc giải độc tốt nhất cho linh hồn mẹ chồng, chồng và các con, đó là sự hy sinh, lời cầu nguyện liên lỷ, cộng thêm những đức tính tuyệt vời như  lòng bác ái, tình yêu thương, tinh thần quả cảm, đức tính khiêm nhường, và vững tin vào Chúa. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi Mônica vẫn một lòng yêu mến, kính trọng chồng và mẹ chồng; lại luôn sống làm gương sáng cho các con; yêu thương giúp đỡ dân làng.

Vì vậy, mưa dầm thấm lâu. Thiên Chúa đã thưởng công Mônica, đó là mẹ chồng và Patricius đã xin Rửa Tội và tin theo Chúa. Còn Augustinô đã chia tay bè rối Manichê (Nhị Nguyên) là một tà thuyết chống lại Giáo Hội và đức tin của Công Giáo mà ông đã dồn toàn tâm toàn trí trong suốt chín năm trường. Sau đó ngài được Rửa Tội. Hai người con còn lại là Navigio và Perpetua cũng xin chịu phép Thanh Tẩy và gia nhập Giáo Hội Chúa. Sau này cả hai đã đi tu dòng.

Niềm vui tột cùng đó đã làm cho Mônica thốt lên với Augustinô trong những giây phút cuối đời: “Con ơi, không gì trên thế gian này làm mẹ vui. Mẹ không biết có gì còn lại cho mẹ làm hoặc tại sao mẹ lại vẫn ở đây, mọi hy vọng trên thế gian này mẹ đã được mãn nguyện”.

Cuối năm 387, khi mẹ con đang chuẩn bị trở về quê hương là Phi Châu, thì Thiên Chúa đã gọi Mônica về với Ngài, hưởng thọ 56 tuổi. Thánh nữ được chôn cất tại Ostite và sau được dời về Rôma vào năm 1430.

2. Gương sáng của thánh nhân

Cuộc đời và gương sáng của thánh nhân cho chúng ta thấy rằng: ngài đã “làm những chuyện bình thường cách phi thường”. Tại sao vậy?

Trước tiên: là chu toàn bổn phận. Chu toàn bổn phận cách trung thành, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác thì quả là anh hùng. Ngài đã hoàn thành sứ mạng Chúa trao trong ơn gọi làm vợ và làm mẹ. Làm vợ, thánh nhân đã hết lòng quý trọng, yêu thương và trung thủy với chồng. Làm mẹ, thánh nhân hết mực yêu thương, hy sinh cho con cái. Tận tụy giáo dưỡng con cái nên người. Khi không được như ý của mình, ngài vẫn không bỏ cuộc. Thánh nhân đã cầu nguyện và hy sinh liên lỷ cho con. Nhờ đó mà ngài đã cải hóa được Augustinô trở về với Chúa và phục vụ Giáo Hội.

Thứ đến: là cảm hóa bằng gương sáng. Khi bị ngược đãi bởi mẹ chồng và chồng, thánh nhân đã nêu cao gương khiêm nhường, yêu thương và tha thứ. Sẵn lòng thông cảm cho tính khí của mẹ và chồng. Yêu thương, phục vụ, khiêm nhường và tha thứ là lựa chọn của thánh nhân trong những lúc khó khăn và gặp chuyện chẳng lành.

Thứ ba: là mẫu gương cầu nguyện và hy sinh. Thánh nhân đã kết hợp với Chúa cách liên lỷ và hoàn toàn phó thác nơi Ngài.

Cuộc đời của ngài với những biến cố vui buồn, thành công hay thất bại đều kết hợp với Chúa. Ngài luôn phó thác mọi sự trong sự an bài của Thiên Chúa.

Thứ tư: là sự kiên trì và trung thành. Kiên trì trong cầu nguyện. Trung thành trong niềm tin, dù nhiều khi phải quặn đau.

Quả thật, cả cuộc đời của thánh nhân đã để lại cho chúng ta gương sáng tuyệt vời nơi những người vợ, người mẹ và cho hết mọi người.

3. Bài học cho chúng ta

Mỗi khi mừng lễ thánh Mônica, chúng ta hãy học nơi ngài những gương sáng để xây dựng hạnh phúc gia đình ngày càng tốt đẹp.

Bài học thứ nhất:

Chu toàn bổn phận hằng ngày trong lòng mến. Làm những việc tầm thường cách phi thường trong sự kết hợp với Chúa và phó thác cho Ngài.

Bài học thứ hai:

Biết dùng gương sáng như công cụ số một để cảm hóa người khác, nhất là người đó lại là người ngang tàng mất nết…

Bài học thứ ba:

Cần xác định thật rõ:“mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Làm mọi việc trong tâm tình tín thác. Đón nhận tất cả, miễn sao điều đó đẹp lòng Chúa và ích lợi cho phần hồn mọi người.

Bài học thứ tư:

Đó là sự kiên trì, trung thành. Đời sống đức tin của chúng ta cần có những nhân đức này. Nếu không kiên trì, chúng ta dễ bỏ cuộc. Không kiên trì khó có thể trung thành.

Lạy Chúa, xin nhận lời thánh nữ Mônica chuyển cầu mà ban cho chúng con, nhất là những người vợ, người mẹ trong các gia đình luôn có đời sống thánh thiện, hiền lành, yêu thương và nhẫn nhục, kiên trì và trung thành, tin tưởng và phó thác nơi Chúa như thánh Mônica khi xưa. Amen.

Tác giả: Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

THÁNH CLARA ĐỒNG TRINH

THÁNH CLARA ĐỒNG TRINH

Thánh Clara sinh năm 1193 tại Assisi miền Umbria, thuộc dòng họ danh giá Offreducciô.  Người ta nói thánh nữ sinh ra với nụ cười trên môi và không bao giờ thấy Ngài khóc. Ngài dành nước mắt để tưới chân Chúa Giêsu chịu đóng đinh.  Khi nghe biết một thanh niên giàu có đã trở nên người nghèo thành Assisi, người thiếu nữ danh giá cảm kích trước mẫu gương của thánh nhân – thánh Phanxicô Assisi.  Trong khi gia đình nhắm cưới gả cho nàng, thì nàng chỉ nhắm đến cuộc sống sám hối khiêm hạ.  Sau khi nghe bài giảng của thánh nhân, Ngài đã đi tới quyết định dâng hiến đời mình cho Chúa.

Khi ấy thánh Clara 18 tuổi.  Vào ngày Lễ Lá, 18 tháng 3 năm 1212, thánh nữ ăn mặc sang trọng tới nhà thờ chính tòa dự lễ.  Theo thói quen, các bà tiến lên nhận lá từ tay Đức Giám mục.  Hôm ấy Clara quá xúc động, khiến chính Đức Giám mục phải rời ghế đưa lá đến cho Ngài.  Chiều về, Ngài đã cùng với một người bạn lén bỏ nhà theo lối cửa hậu rồi theo ánh đuốc tới gặp thánh Phanxicô tại Porsiuncula…  Giai thoại thật cảm động, một cô gái 18 sang trọng đã bỏ tất cả những gì là quen thuộc và an toàn để đi theo Đấng vô hình, còn Phaxicô 30 tuổi không có lấy một xu dính túi đã nhận lấy trách nhiệm về cả tinh thần lẫn vật chất đối với cô.  Giữa đêm xuân trong rừng cây và dưới ánh đuốc của đoàn anh em, Clara buông xõa mái tóc huyền trên bàn thờ cho Phanxicô cắt bỏ.  Hành động hoàn toàn ngoại lệ và không một chút quyền hạn theo giáo luật.  Phanxicô đã lãnh bản ly biệt của Clara đối với thế gian, rồi gởi cô vào một nữ tu viện Beneđictô gần đó.

Biến cố nổ lớn làm cả thành phố xúc động.  Thế gian kết án Clara.  Ông Monaldo, cậu của thánh nữ đến nhà dòng bắt thánh nữ về, nhưng Ngài ôm cứng chân bàn thờ quyết chọn Chúa mà thôi.  Phanxicô dẫn thánh nữ tới một nữ tu, tu viện Bênêdictô khác, cùng với em của mình là Anê.  Sau cùng Phanxicô thiết lập cộng đoàn cho Clara.  Một tu viện tại San Đamianô, nơi đây bà Ortolanta, mẹ của thánh nữ cũng nhập dòng.  Trong một thời gian cộng đoàn độc lập như những người hành khất đầu tiên. Phanxicô viết cho cộng đoàn một bản luật sống vắn gọn, đòi kỷ luật gắt gao và chay tịnh khắc khổ. Năm 1215 Phanxicô đặt Clara làm tu viện trưởng và có lẽ đã trao cho Ngài một bản luật dòng thánh Bênêđictô.

Vào những năm cuối đời thánh Phanxicô, mọi liên hệ với San Đamianô bị gián đoạn.  Câu chuyện hay về bữa ăn tối với Clara không được chính xác lắm.  Nhưng cơn đau cuối cùng Phanxicô đã được Clara cho trú ngụ trong một mái chòi bằng lá cây ở cổng tu viện Đamianô, nơi Phanxicô trước tác bài ca mặt trời.  Ngài ban phép lành cuối cho Clara rồi về Porsiuncula và qua đời tại đó.  Ngài cũng xin anh em đưa xác về Assisi qua ngả San Đamianô.  Thánh Clara và chị em tiếp rước và có dịp chiêm ngưỡng các vết thương ở tay và chân Ngài.

Clara thực hiện đúng lý tưởng của người nghèo thành Assisi.  Đức Innôcentê III đã đích thân ban phép cho Ngài được giữ đức nghèo khó tuyệt đối.  Nhưng Đức Grêgôriô IX nguyên là hồng y Ugôlinô đã muốn cải sửa luật cho phép nhà dòng có đất đai nhà cửa.  Clara cưỡng lại và năm 1228 đã được hưởng đặc ân như sở nguyện.  Ngài đã thưa với Đức Grêgôriô:

– Thưa Đức Cha, xin tha tội cho chúng con, nhưng đừng tha cho con khỏi theo Lời Chúa.

Năm 1247, một lần nữa Đức Innocentê IV kiểm soát lại luật thánh Phanxicô, muốn sống đời khó nghèo tuyệt đối.  Luật này được Đức Innocentê chấp thuận vội vã, hai ngày trước khi thánh nữ qua đời.  Năm 1893 người ta tìm thấy sắc chỉ nguyên thủy trong mộ thánh nữ.

Trong cơn bệnh của Ngài, Đức hồng y Rainalđô, tức là Đức Giáo hoàng Alexandrô sau này, đã đến trao mình Thánh Chúa và khuyên nhủ thánh nữ, thánh nữ trả lời:

– Từ khi nếm thử chén đắng và cuộc tử nạn của Chúa, con thấy không còn gì làm con đau đớn nữa.

Sau khi chúc lành cho các nữ tu đến thăm, Ngài nói với chính mình:

– Hãy an tâm, ngươi đã theo đúng đường, cứ tin tưởng vì Chúa tạo thành đã thánh hiến và không ngừng gìn giữ ngươi, đã yêu ngươi với tình mẹ thương con, ôi lạy Chúa xin chúc tụng Chúa vì đã dựng nên con.

Thánh nữ qua đời ngày 11 tháng 8 năm 1253 và năm 1255 được tôn phong hiển thánh.

Thánh nữ Clara đã vì Chúa mà bất chấp tất cả những khó khăn, những cản ngăn…để được toại nguyện với ơn gọi dâng hiến. Ước gì mỗi chúng ta cũng biết noi gương thánh nữ sống trọn vẹn cho tình yêu Chúa Kitô bằng việc mau mắn đáp lại lời mời gọi của Ngài.

Sưu tầm

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

 

Thánh Inhaxiô Loyola (1491-1556): Nhà Lãnh Đạo Theo Tinh Thần Phúc Âm

Thánh Inhaxiô Loyola (1491-1556): Nhà Lãnh Đạo Theo Tinh Thần Phúc Âm

Dòng tên Việt  Nam

http://dongten.net/wp-noidung/uploads/2014/07/saint-inhaxio-1.jpg

Theo một số nhà chú giải, khi viết về những đức tính mà vị Tổng Quyền phải có, Thánh Inhaxiô phác họa chân dung của chính mình.

Những đức tính mà vị TỔNG QUYỀN DÒNG TÊN phải có: những điều làm nên sự toàn thiện trong tương quan với Thiên Chúa, những điều hoàn thiện các đặc tính tâm hồn, trí tuệ và cách hành xử.

1. Điều ưu tiên phải có là những đức tính siêu nhiên.

“Đức tính thứ nhất, là sự kết hợp mật thiết cao độ với Thiên Chúa”.  “Sống thân mật thâm sâu với Chúa trong cầu nguyện và trong tất cả mọi sinh hoạt”.

Một con người được hướng dẫn và bao bọc bởi ân sủng huyền nhiệm. Tức là được Chúa ban ơn để thi hành sứ mạng Chúa giao phó.

2. Các nhân đức căn bản: bác ái và khiêm tốn. Đức ái là mối dây liên kết, hoà hợp các nhân đức khác:

“Nêu gương về mọi nhân đức cho các tu sĩ trong dòng. Nơi ngài, đặc biệt chói sáng lòng bác ái đối với tha nhân và cách riêng, đối với Dòng, cũng như sự khiêm tốn đích thực làm cho mình được Thiên Chúa yêu thương và mọi người quý chuộng”.

Thánh Augustinô viết: “Ubi humilitas, ibi caritas” (nơi đâu có sự khiêm tốn, nơi đó có bác ái). .

a/ Thoát khỏi những quyến luyến lệch  lạc, bằng cách nhờ ân sủng, biết chế ngự và hãm dẹp diệt chúng; nhờ thế, phán đoán bên trong của lý trí không bị  xáo trộn và bên ngoài luôn biết làm chủ chính mình; cách đặc biệt cẩn trọng, mực thước trong lời nói.

b/ Tuy nhiên, ngài nên học biết hoà hợp sự chính trực và sự nghiêm khắc cần thiết phải có với sự hiền lành dịu dàng. Không bị trệch hướng khỏi điều ngài nghĩ là đẹp lòng Chúa hơn hết, tuy nhiên cũng không thiếu lòng yêu thương thông cảm đối với con cái.

c/ Ngài cũng cần phải có lòng đại lượng và quả cảm, để gánh chịu sự yếu đuối của nhiều người và khởi xướng nhiều công việc lớn lao để phụng sự Thiên Chúa và cương quyết kiên trì khi cần thiết. Không thất đảm trước những chống đối (cả từ phía những người có quyền chức và địa vị), không nao núng bởi những dụ dỗ hoặc đe dọa từ họ, mà đi xa điều lý trí hoặc việc phụng thờ Thiên Chúa đòi hỏi. Ngài phải vượt trên mọi biến cố, không bị giao động trước những điều xảy ra: không vênh vang khi gặp thành công và quỵ ngã khi gặp thất bại. Sẵn sàng chịu chết vì quyền lợi của Dòng, để phụng sự Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa và là Chúa chúng ta.

3. Các đức tính thuộc trí tuệ.

“Có trí khôn minh mẫn và óc phán đoán tuyệt vời. Để có thể đương đầu với những điều trừu tượng cũng như giải quyết những vấn đề thuộc lãnh vực thực hành. Kiến thức thì rất quan trọng để lãnh đạo những người thông thái, nhưng sự khôn ngoan, cẩn trọng (prudence) và kinh nghiệm trong các thực tại thiêng liêng và nội tâm thì cần thiết hơn để có thể biện phân các loại thần và đưa ra những lời khuyên hay phương dược cho những ai đau khổ  và có nhu cầu thiêng liêng.”

“Cũng đặc biệt cần thiết đối với ngài là ân sủng biết phân định, cân nhắc trong những công việc bên ngoài và trong cách giải quyết nhiều công việc khác nhau, cũng như trong việc tiếp xúc với nhiều người khác nhau ở trong và ngoài Dòng.”

4. Luôn canh chừng, thức tỉnh và lưu tâm đến công việc từ đầu cho đến cuối.

“Đức tính thứ tư rất cần thiết cho việc quản trị hữu hiệu, đó là tình trạng tỉnh táo dè chừng và lưu tâm để ý đến công việc khi bắt đầu và nghị lực để đưa công việc cho đến khi hoàn tất và hoàn chỉnh, để không vì xao lãng hay bất lực mà không thể hoàn thành một công việc đã bắt đầu”.

5. Đức tính thuộc hình thể, dóc váng, tình trạng sức khoẻ thể lý.

“Đức tính thứ năm liên quan đến thân xác. Về sức khoẻ, hình dáng, tuổi tác, một đàng cần phải chú ý đến phẩm cách và uy tín (dignity and authority); đàng khác phải xem xét sức khoẻ thể lý như trách nhiệm đòi buộc, để có thể hoàn thành nhiệm vụ cho vinh quang Thiên Chúa, Chúa chúng ta.”

6. Danh thơm tiếng tốt và những điều làm nên uy tín cá nhân.

“Đức tính thứ sáu liên quan đến những yếu tố bên ngoài. Theo đó, những đức tính giúp xây dựng kẻ khác và phụng sự Thiên Chúa thì đáng quý chuộng hơn. Theo sự thường, đó là được kính trọng, danh thơm tiếng tốt, và tất cả điều gì tạo nên uy tín (authority) trước những người ở bên ngoài cũng như ở bên trong Dòng.”

7. Người có công trạng và được nhiều người biết đến.

“Cuối cùng ngài phải là một trong những người nổi bật về tất cả mọi đức hạnh, có công với Dòng và được biết như vậy trong Dòng từ nhiều năm nhất.

Nếu không có những đức tính trên, thì ít nhất không thể thiếu :

“Sự liêm chính lớn lao và tình yêu lớn lao đối với Dòng, phán đoán khách quan, chính xác cùng với kiến thức rộng rãi vững chắc, sâu sắc” (great probity and love for the Society, good judgment accompanied by sound learning).

Kết luận

Theo quan điểm của Thánh Inhaxiô, Linh Thao nhằm huấn luyện những con người được tuyển chọn để trở thành những hiệp sĩ của Chúa Kitô. Phải chăng Linh Thao cũng là nơi đào luyện các lãnh đạo tôn giáo -và cả lãnh đạo dân sự- theo tinh thần Phúc Âm?

(Lm. Antôn Ngô văn Vững, SJ)

THÁNH MARTHA

THÁNH MARTHA

Chúng ta biết chắc về thánh Martha qua 2 giai thoại trong Tin Mừng, khi bà nhiệt thành đón rước Chúa Giêsu (Lc 10, 38-42) hay khi bà tín thác vô giới hạn vào Chúa Giêsu trước cái chết của Lazarô (Ga 11,1-44).  Martha, theo tiếng aramêô, có nghĩa là bà chủ.  Martha, Maria và Lazarô ở làng Bêtania, là những người bạn thân tình của Chúa Giêsu.  Người hay đến trú ngụ ở nhà họ để nghỉ ngơi sau những chuyến hành trình mệt nhọc. Martha đóng vai gia chủ, đã tỏ ra rất hiếu khách và tận tụy. Ngày kia, trong lúc bận rộn với việc phục dịch, bà nói:

– Thưa Thầy, Thầy không màng nghĩ tới sao? em con để cho con một mình phục dịch.  Vậy xin Thầy bảo nó đỡ đần con.

Chúa Giêsu đáp lại:

– Martha, Martha, con lo lắng xôn xao về nhiều chuyện. Cần thì ít thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất rồi và sẽ không bị ai lấy mất.

Như thế Chúa Giêsu đã cho Martha biết rằng đối với Người không có gì quý hơn một tâm hồn biết suy tư cầu nguyện, Martha đã hiểu, bà sẽ để lộ đức tin ấy ra dịp Lazarô từ trần.  Bà nhắc tin cho Chúa Giêsu:

– Thưa thầy, kẻ Thầy thương đang ốm liệt.

Vượt đường xa, Chúa Giêsu đã đến. Nhưng Người cố ý đến chậm, khi Lazarô đã chết.  Đức tin của Martha vẫn không thay đổi.

-Thưa Thầy, nếu thầy có mặt ở đây, em con đã không chết.

Và bà thêm:

– Nhưng ngay lúc này, con biết là bất cứ điều gì Thầy xin với Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ ban cho thầy.

Khi Chúa Giêsu cho biết Người là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Người thì dù chết cũng sẽ sống, rồi Người hỏi:

– Con có tin thế không ?

Martha đã mau mắn tuyên xưng:

-Vâng, thưa Thầy, con tin Thầy là đức Kitô Con Thiên Chúa, đấng phải đến trong thế gian.

Và bà đã không lầm.  Chúa Giêsu đã phục sinh Lazarô.

Tin Mừng không nói rõ các bạn hữu của Thiên Chúa sẽ ra sao.  Chắc chắn Martha có mặt trong số phụ nữ theo Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn và xức dầu thơm xác Người trước khi mai táng.

Có truyền thuyết nói rằng ba chị em làng Bêtania đã bị người Do thái bắt thả trôi trên một con thuyền không buồm không chèo không lái.  Nhưng họ đã trôi dạt và cặp bến Marseille nước Pháp.  Lazarô đã trở thành Giám mục tiên khởi của thành này.  Riêng Martha, ngài đã rao giảng Tin Mừng ở Aix Avignon và Tarascon.  Một huyền thoại còn kể thêm việc thánh nữ tiêu diệt quái vật Tarasque.  Dân chúng khổ cực vì con vật dữ tợn, mồm phun lửa hoành hành.  Thánh nữ đã dùng cây thánh giá áp đảo con vật, rồi trói chặt nó lại.  Quái vật bị hạ sát và bị tiêu diệt, người ta gọi là Tarascon.

Thánh nữ Matta đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng về lòng hiếu khách.  Khi chúng ta chào đón hay phục vụ ai, Đức Chúa Giêsu coi đó như là chúng ta làm cho chính bản thân Người.  Thánh nữ Matta cũng nêu gương sáng về lòng tin tưởng và niềm trông cậy.  Ngài là bạn thân của Đức Chúa Giêsu và ngài biết có thể tin tưởng vào lời Đức Chúa Giêsu đã nói.  Xin thánh nữ Matta cũng giúp chúng ta biết tạo mối tương quan thân thiện với Đức Chúa Giêsu như ngài.

Sưu tầm

__._,_.___

From: suyniemhangngay1 & Anh chị Thụ Mai gởi

 

THÁNH NỮ CATARINA SIÊNA, ĐỒNG TRINH TIẾN SĨ

THÁNH NỮ CATARINA SIÊNA, ĐỒNG TRINH TIẾN SĨ

(1242-1380)

Truyện thánh nữ Catarina Siêna một lần nữa chứng tỏ ơn Chúa đặc biệt kêu gọi mỗi người. Nhưng để theo tiếng Chúa gọi, con người nhiều khi gặp phải những trở lực lớn lao: phải chiến đấu gay go với chính bản thân, với những người thân quyến trong gia đình.

Thánh nữ Catarina sinh ngày 25-3-1342. Ông thân sinh Giacômô Bênincasa là một người thợ nhuộm hiền lành, nết na. Thân mẫu là bà Lapa, con gái một nhà thi sĩ. Bà có một đức tính cương nghị hiếm có của một người phụ nữ. Catarina đã thụ hưởng đức tính cương nghị của mẹ, lòng đạo đức và sự dịu hiền của cha. Kể cả con nuôi và con đẻ, hai ông bà có tất cả 24 người con. Trong số đó, có một người con nuôi tên là Tômasô Fontê sau này làm linh mục dòng Đaminh, là người đã gieo một ảnh hưởng sâu rộng vào tâm hồn Catarina. Một buổi tối kia, Tômasô đọc cho Catarina nghe một truyện hay trong cuốn Sử vàng mà ông đã có dịp đọc. Từ đó, cô bé Catarina ngày càng ôm ấp ý định được đi tu dòng để theo gương bắt chước thánh nữ Êuphôsina.

Năm lên sáu tuổi, cô được thị kiến lần đầu tiên và lúc đó cô như vẳng nghe tiếng Chúa mời gọi. Từ đó, Catarina chỉ mơ màng một ngày kia được vào một cánh rừng thâm u để làm một nhà nữ ẩn sĩ. Thế rồi một ngày kia cô bé ấy bỏ nhà trốn đi tới một cái hang ở chân một hốc đá mà cả nhà không ai hay biết.

Lên 12 tuổi, cái tuổi xuân xanh mơn mởn, Catarina là một thiếu nữ xinh đẹp, Vẻ đẹp đó còn tăng thêm đậm đà, ý vị nhờ ở tư cách đoan trang thùy mị của Catarina, khiến cô đã lọt mắt nhiều chàng trai. Gia đình cũng bắt đầu nghĩ đến chuyện gây dựng cho Catarina. Nhưng tất cả những đám cầu hôn trước sau đều bị Catarina cự tuyệt. Người ta phải nhờ đến sự can thiệp của Tômasô bấy giờ đã là linh mục dòng Đaminh và làm cha giải tội của Catarina. Với người bạn hồi niên thiếu đó, Catarina đã cởi mở tâm hồn và giãi bày cho ngài biết rằng mình đã khấn giữ mình đồng trinh, vì thế sẽ không kết duyên với một người trần nào. Theo lời khuyên của Tômasô, Catarina cắt tóc ngắn và trùm trên đầu một khăn trắng; đó là dấu hiệu một thiếu nữ đã khấn dâng mình cho Thiên Chúa. Bà Lapa biết điều đó lắm, nhưng bà vẫn giả điếc làm ngơ; bà lột khăn choàng của con ra và nói: “Tóc cô sẽ mọc và cô sẽ phải lấy chồng”. Từ đó cả gia đình cũng hùa theo với bà để làm khổ Catarina; cô không còn được một phòng riêng như trước để thi hành những việc mà người ta gọi là những việc “đạo đức rởm”; trái lại cô phải làm việc như một tôi tớ trong nhà và nhiều khi còn bị hành hạ diếc mắng: nhưng Catarina lại cho đó là dấu Chúa thương yêu cách riêng.

Một đêm kia, Catarina chiêm bao thấy thánh Đaminh cho biết chắc chắn rằng cô sẽ được mặc áo dòng ngài. Sáng dậy, trong bữa ăn họp mặt của gia đình, cô tuyên bố cho mọi người biết không ai có thể làm cho cô thay đổi được ý định. Ông Giacômô trước đây đã được trông thấy một chim câu bay liệng trên đầu con gái mình và ông cho đó là dấu hiệu của ý Chúa mà không ai có thể chống cưỡng được. Ông bắt đầu ra mặt bênh con và nói: “Thôi từ nay không ai được làm khổ con gái yêu quí của tôi nữa. Hãy để cho nó được tự do và an vui phụng sự Tình Quân của nó, để cầu nguyện cho chúng ta”. Từ đó người ta cho phép Catarina được chọn lấy một phòng ở căn nhà bếp để làm nơi tĩnh tu. Ở đó, một mình trong vắng lặng, Catarina tha hồ thực hiện những việc hãm mình ép xác như các vị tu rừng xưa.

Bà Lapa trước đây đã vâng lời chồng để cho con gái được tự do, lúc này bà lại lo sợ vì thấy con hãm mình và sống khổ hạnh quá. Lòng thương con của người mẹ một lần nữa lại thúc đẩy bà hành động để ngăn cản đà sốt sắng của con gái. Bà lột áo nhặm và bắt cô phải nằm trên giường đàng hoàng chứ không được nằm ở ghế. Catarina chỉ vâng lời mẹ lúc đó, sáng ra người ta lại thấy cô nằm ngay dưới chân giường. Bà không ưng thuận cho Catarina làm một nữ tu Đaminh chút nào. Vì thế, bà đã vận động với bà bề trên dòng ở Siêna để người ta không nhận Catarina. Đúng như ý bà mong muốn; người ta trả lời cho bà biết rằng ở đây chỉ nhận những quả phụ chứ không thể tiếp nhận một thiếu nữ trạc tuổi như Catarina. Buồn rầu vì thấy ý định của mình không thành công, Catarina ngã bệnh. Ma quỷ thừa dịp đó tấn công hết sức, hy vọng làm cho cô đổi ý định tu dòng. Cuối cùng, cha Batôlômêô Montucci đành chấp thuận cho Catarina được mặc áo dòng ba Đaminh. Nhưng quỷ dữ vẫn chưa chịu lui, chúng còn cố sức gợi lên trong trí óc Catarina những hình ảnh dâm ô nhơ bẩn mà cô phải chiến đấu mãnh liệt, và dùng khí giới là kêu tên cực trọng Chúa Giêsu mới đánh lui được chước cám dỗ. Cũng chính trong dịp đó, Chúa Giêsu đã hiện ra với Catarina dưới hình một người bị đóng đinh mình còn bê bết những vết thương đẫm máu. Thừa dịp đó cô thưa với Chúa: “Lạy Chúa Giêsu nhân từ và dịu hiền, khi tâm hồn con bị dằn vật quấy rối như thế thì Chúa ở đâu? – Cha ở ngay trong tâm hồn con chứ còn ở đâu nữa, vì Cha không hề xa cách người nào, trừ khi người đó bỏ rơi Cha trước. – Lạy Chúa, có lý nào Chúa ở trong tâm hồn con giữa khi con bị cám dỗ với những hình ảnh nhơ bẩn như thế? – Nhưng Cha hỏi con: cơn cám dỗ đó làm cho con vui sướng hay sầu khổ? – Ôi lạy Chúa, con cảm thấy kinh tởm và sầu khổ hết sức! – Tại sao như vậy? Con tin rằng nếu Cha không ở trong tâm hồn con và đóng cửa linh hồn con lúc đó, thì những hình ảnh nhơ bẩn kia có thể lọt vào linh hồn con được không? Cha ở trong tâm hồn con y như khi Cha ở trên cây thánh giá, đau khổ nhưng có pha vui sướng. Thôi được từ nay Cha sẽ sống thân mật với con hơn và sẽ năng thăm viếng con”.

Trong ba năm liền Chúa thường hiện ra thăm viếng người tôi tớ trung tín của Chúa như thế và dạy cô học đọc để có thể hát lời ca tụng Chúa. Từ đó Catarina thích đọc kinh nhật khóa hơn cả, vì nhờ đó cô được tiếp xúc thân mật với các vị thánh. Cô sống thân mật và kết hợp chặt chẽ với Chúa, đến nỗi như đời sống trần gian của cô là chỉ để truyền lan lửa bác ái hằng cháy rực trong tâm hồn cô.

Cô hòa mình trong đời sống thường ngày để giúp đỡ mọi người trong gia đình. Cô dịu dàng, khiêm nhường, vui vẻ với mọi người, và không bao giờ người ta thấy cô to tiếng gắt gỏng với ai. Những người đau yếu nghèo khổ được cô thương yêu săn sóc cách riêng. Người ta thường thấy cứ mỗi bữa ăn cô để dành lại một phần bánh cho người nghèo. Cô hay đến các bệnh viện để săn sóc bệnh nhân. Tại một bệnh viện cùi kia, chính tay cô hầu hạ, rửa và băng bó các vết thương cho một bà lão hầu như bị mọi người bỏ rơi; nhưng trái nghịch thay: bà này là người rất khó tính, bà thường hay gắt gỏng và chửi rủa Catarina. Dầu vậy cô vẫn một lòng nhẫn nhục và tận tâm giúp đỡ bà.

Thực ra có thể nói: chị Catarina đã đem tất cả nhiệt tâm hăng hái trong việc cứu giúp các linh hồn bằng lời cầu nguyện và sự khuyên bảo. Vì thế người ta thường thấy chị hay tới nói truyện ở những nơi công cộng có đông người và đã làm cho nhiều người trở lại. Nhưng rồi cũng có những kẻ manh tâm ghen tương công việc của chị, họ kết tội cho chị là đồ giả hình; cả đến các cha giải tội và các vị bản quyền cũng đã vì hiểu lầm mà cấm chị không được năng rước lễ. Điều đó làm cho chị khổ tâm hơn cả. Nhưng chị Catarina đã biết hy sinh danh dự của mình để chăm lo đến hạnh phúc của tha nhân.

Chị Catarina còn làm một việc đáng chú ý hơn cả là hòa giải được bao nhiêu gia đình từ bao đời đã chia rẽ nhau vì những mối thù truyền kiếp. Danh hiệu “Sứ giả của hoà bình, Thiên thần của hòa giải” mà người đời tặng cho chị quả rất xứng đáng. Đâu đâu người ta cũng ước ao chị đến ở với họ, vì có chị người ta cảm thấy như được nâng đỡ và an ủi nhiều. Tư cách hiền hòa và lời nói dịu dàng của chị đã thức tỉnh được cả những tâm hồn cứng cỏi và ngang ngược nhất. Lần kia người ta cho chị biết sắp xử tử một phạm nhân chính trị, tên là Nicôla Tulđô. Trước giờ chết, tù nhân đó đã tỏ ra bực tức, và phẫn uất đến nỗi như bất chấp cả tôn giáo; anh đã luôn miệng nói những lời lộng ngôn phạm thánh và khinh rẻ nhiều người. Chị Catarina đến thăm anh, và ngọn lửa căm hờn đốt cháy lòng anh đã bị dập tắt để nhường chỗ cho tâm tình nhẫn nhục và tình yêu, khiến anh đã phải ngỏ lời với chị: “Tôi sẽ rất vui vẻ bước lên đoạn đầu đài, nếu như trong lúc ấy chị có mặt ở đó”. Chị Catarina đã thi hành như ý anh xin. Tulđô đã vui vẻ bước lên máy chém và chính lúc anh bị chém đầu, chị Catarina đã được ơn xuất thần và trông thấy linh hồn anh Tulđô nhẹ nhàng như cánh chim bay về nơi vĩnh phúc.

Lo lắng cho phần rỗi cá nhân như thế, chị Catarina chắc phải băn khoăn đến mực nào trước vận mệnh của Giáo hội thời đó. Năm 1372, chị viết một bức thư cho Đức Phêrô Estaing, Đặc sứ Toà thánh tại Ý (các Đức Giáo hoàng thời đó ở Avignon), để giãi bày những nguyện vọng thánh thiện của chị. Và cũng từ đó chị bắt đầu công khai hoạt động nhằm ba mục đích:

* Chấn hưng lòng đạo đức của Giáo hội đã bị sa sút vì những gương xấu của hàng giáo sĩ, như tội buôn thần bán thánh và cuộc đời xa hoa phù phiếm của các ngài.

*Xin chuyển giáo đô về Rôma, nơi từ lâu đã trở nên chốn hiu quạnh và buồn tẻ vì vắng bóng các Giáo hoàng.

* Xin tổ chức Nghĩa binh Thánh giá để chống với quân Hồi giáo. Với ơn Chúa và thiện chí kèm theo nhiều cố gắng và hy sinh, chị đã thực hiện được một phần nào những ước vọng lành thánh trên đây.

Chị đã sống cuộc đời ngắn ngủi chưa đầy 33 năm, nhưng thực ra chị đã làm nhiều việc hữu ích cho Giáo hội và dân tộc Ý. Trong 33 năm đó sự việc siêu nhiên đã phát hiện mỗi lúc trong cuộc đời của chị. Rất nhiều lần Chúa đã hiện ra dạy chị học đọc. Một trong những lần hiện ra Chúa đã phán với chị rằng:

“Con sẽ tưởng nhớ đến Cha thôi, nếu con giữ đúng như thế, thì cha cũng tưởng nghĩ đến con”. Lần khác, bằng một cuộc kết hôn thần bí, Chúa ban lời khuyến khích và nâng đỡ khi chị làm những việc hãm mình quá sức, khi chị lâm bệnh chị không ăn không uống được. Mình thánh Chúa lúc ấy là lương thực  nuôi sống chị. Chị đã phân biệt được Mình Thánh Chúa với bánh thường mà người ta có lần đánh lừa chị. Lần kia chị nằm liệt giường, một linh mục ở Lucques đã cả dám kiệu bánh không truyền phép đến cho chị. Chị nghiêm nét mặt và nói thẳng với linh mục đó: “Cha chẳng lấy làm hổ thẹn vì đã mang đến cho tôi một bánh thường mà giả làm Mình thánh Chúa để ép tôi tôn thờ quấy quá sao?”

Lòng đạo đức thánh thiện của chị Catarina đã lôi cuốn được một số đông người thuộc đủ mọi giai cấp trong xã hội theo làm môn đệ, trong số đó có cả thân mẫu chị là bà Lapa. Trong những năm cuối đời, chị đi đâu người ta cũng theo đó để thu tập và ghi chép những lời của chị. Chị biết dùng con đường khiêm tốn và xả kỷ hầu nâng đỡ lòng mọi người lên cùng Chúa. Tất cả lý thuyết tu đức của chị được gồm tóm trong hai chữ: yêu mến và nhẫn nhục” lý thuyết đó thực ra chỉ là phản ảnh cuộc đời của chị.

Tất cả những môn sinh của chị, giáo dân hay tu sĩ ai nấy đều làm chứng rằng Chị Catarina ăn nói giảo hoạt lạ thường, dầu rằng trước đây chị là người tối tăm và không có học hành chi cả. Được vậy là do chính Chúa đã trực tiếp dạy bảo chị như lời thú nhận sau này. Chị thường đọc cho hai hoặc ba người thư ký viết cùng một lúc về những vấn đề hoàn toàn khác nhau mà chính chị không bị lầm lộn hay tỏ ra bối rối chút nào. Khi đề cập đến cuốn Đối thoại, một tác phẩm chị để lại, Đức Hồng Y Guidini đã viết trong cuốn hồi ký của ngài như sau: “Trong lúc xuất thần, nghĩa là lúc người ta mất hết sử dụng các giác quan, trừ ra cơ quan để phát thanh, thế mà chị đã đọc được cho người ta chép được một quyển sách giá trị và quan trọng không kém gì một quyển sách lễ. Thật cả là một sự lạ; những người không được mục kích chắc khó lòng mà công nhận được; nhưng chính tôi đây đã được mục kích, đã nghe và đã chép, thì đối với tôi không có chi là khó tin”.

Từ khi được Đức Giáo Hoàng Ubanô triệu vời đến Roma để làm cố vấn cho ngài, chị Catarina ở lại đó cho đến khi chết. Chủ nhật Sáu mươi, ngày 29-09-1380, Chúa Giêsu hiện ra với chị lần sau cùng và đặt lên vai chị một con thuyền nhỏ là hình ảnh Giáo hội. Từ đó chị cảm thấy yếu dần.

Trong vòng nửa tháng kể từ ngày đó chị còn trải qua nhiều cơn xuất thần liên tiếp. Nhưng đồng thời chị cũng phải chịu đựng những giây phút hãi hùng kinh sợ, vì quỉ ma tấn công dữ tợn. Ngày 16-02, chị đọc lời di chúc rất cảm động và bày tỏ ước vọng được dâng mạng sống cho Chúa. Dân chúng và các môn đệ đứng quanh giường chị, ai nấy đều ngậm ngùi như muốn khóc, vì biết rằng chị chẳng còn sống được mấy nỗi. Nhưng chị Catarina vẫn bình tĩnh lạ thường, chị dùng lời Chúa trong Phúc âm thánh Gioan mà khuyên bảo các môn đệ: “Anh chị em hãy thương yêu nhau”.

Chủ nhật trước lễ Thăng Thiên, chị ngỏ ý muốn được xưng tội. Sau khi chịu phép xức dầu, hình như chị còn bị ma quỉ tấn công gắt gao trong một tiếng rưỡi đồng hồ. Chị lại đòi xưng tội lần nữa, và ước ao được nhận phép lành của bà thân mẫu. Rồi người ta nghe chị cầu nguyện riêng cho Giáo hội, cho Đức Thánh Cha Ubanô VI. Dứt lời nguyện chị giơ tay làm dấu Thánh giá như để chúc lành cho mọi người hiện diện. Người ta chỉ còn nghe tiếng chị nói qua hơi thở: “Lạy Chúa, con phó linh hồn con trong tay chúa”. Rồi mặt chị bỗng giãi sáng khác thường. Chị từ từ ngã đầu về một bên trút linh hồn. Hôm ấy là ngày 29-4-1380.

Trong khi đó, tại Gênes cha Raymunđô Capu (Raymond de Capoue) đang sửa soạn đi Pise; làm lễ xong cha nghe như có tiếng ai thầm bảo: “Đừng sợ, tôi đang ở trên trời để phù hộ cho cha”. Sau cha được tin chị Catarina đã tắt thở vào giờ đó và cha hiểu chính chị đã nói để khuyến khích cha.

Người ta mặc cho chị áo dòng thánh Đaminh, rồi liệm xác vào một quan tài quý giá, kiệu đến Minerva và để tại nhà nguyện. Năm 1461, Đức Giáo Hoàng Piô II đã phong chị lên bậc hiển thánh. Đức Ubanô lại dịch lễ kính thánh nữ sang ngày 30 tháng 04 năm 1866; Đức Piô IX còn đặt thánh nữ Catarina thành Siêna làm thánh quan thầy thứ hai của thành Rôma.

Thánh Luy Gonzaga – Tuổi trẻ dâng hiến

Thánh Luy Gonzaga – Tuổi trẻ dâng hiến

(lễ nhớ ngày 21.06)

http://dongten.net/noidung/37102


St. Aloysius Gonzaga

Luy Gonzaga sinh ngày 9 tháng 3 năm 1568, là con trưởng của hầu tước xứ Castiglione, miền bắc nước Ý. Danh tiếng gia đình và kỳ vọng của hầu tước đều được đặt cả vào Luy. Lên bốn tuổi, Luy đã bắt đầu cùng bố sống trong quân đội, cậu mặc đồ lính, đeo súng và học hỏi nghiệp binh đao. Ông hầu tước ắt hẳn hài lòng về những gì cậu quý tử đang theo đuổi và hy vọng cậu sẽ làm rạng danh dòng họ Gonzaga hơn nữa. Lên 9 tuổi, Luy và cậu em Rudolpho được gởi đến cung điện của hầu tước Francesco de’Medici ở Firenze để học hỏi những nghi lễ của lối sống vương giả. Cũng ở nơi ấy, Luy nhìn ra mặt trái của lối sống xa hoa và phóng khoáng; nơi mà người ta luôn có những âm mưu và sẵn sàng lừa gạt nhau, họ giải quyết vấn đề bằng dao và thuốc độc. Nhưng ngay trong môi trường nhiều cạm bẫy đe dọa, bàn tay Chúa bắt đầu hướng dẫn Luy theo con đường yêu thương của Ngài.

Mặc dù cuộc sống bên ngoài của Luy mang nhiều vẻ khác nhau, nội tâm của cậu vẫn hướng về điều thiện bằng việc cầu nguyện và thích thú đọc Thánh vịnh. Nhờ vậy, Luy khám phá ra rằng chỉ còn cách rút lui khỏi những cuộc vui và bàn tiệc để tránh phạm tội. Sau thời gian ở Firenze, Luy được gởi tới Mantua sống với những người họ hàng. Tại đây, cậu tình cờ đọc được cuốn Tóm lược Giáo lý của Cha Phêrô Canisiô, trong đó có cả phần suy niệm. Luy liền dùng tập sách này làm đề tài cầu nguyện hàng ngày và cảm nếm những an ủi lớn lao. Cậu ăn chay 3 ngày mỗi tuần, suy niệm cả ban sáng lẫn ban tối, tham dự thánh lễ hành ngày.

aloysius gonzagas

 

Trong một chuyến đi với gia đình đến Tây Ban Nha, Luy gặp một cha giải tội dòng Tên ở Madrid và cậu ngày càng muốn trở thành Giêsu hữu. Ngày 15 tháng 8 năm 1583, đang khi cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ trong nhà thờ, từ nội tâm, Luy cảm thấy mình được Chúa gọi theo bậc sống tu trì và mong ước gia nhập dòng Tên. Ý đã quyết, Luy nguyện theo đuổi đến cùng ơn gọi của mình.

Tin này đến tai vị hầu tước và ngay lập tức ông nổi trận lôi đình khiển trách Luy nặng lời và tìm đủ mọi cách ngăn cản với hy vọng cậu đổi ý. Nhưng tất cả mọi cách ông hầu tước áp dụng chẳng đem lại thay đổi gì bởi Luy một mực xin được từ bỏ tất cả để gia nhập dòng Tên. Ông hầu tước, mặc dù đặt mọi kỳ vọng vào cậu quý tử sẽ là người thừa kế mình trong gia tộc, đành phải để Luy ra đi. Tròng lòng hầu tước chẳng hề muốn điều này, nhưng vì thương con, ông đành chiều ý cậu. Đối với ông, Luy là “kho tàng quý báu nhất trên cõi đời này”.

Tháng 11 năm 1585, Luy nhường lại ngôi thế tử cho em trai và lên đường hướng về nhà Tập thánh Anrê ở Rôma. Cùng đi với anh là cả một đoàn tuỳ tùng: cha tuyên uý của gia đình, viên thái sư, một tu sĩ, những người hầu cận. Trên đường, nhắc đến chuyện nhường ngôi thế tử, một người trong đoàn tuỳ tùng nói với anh: “Chắc công tử Rudolpho vui lắm”, Luy trả lời:“Tôi còn vui hơn”.

Khi vào nhà Tập, Luy tâm niệm rằng: “Tôi là thanh sắt cong, phải vào nhà Dòng để được uốn lại cho thẳng”. Trong thực tế, Luy nhận thấy rằng nếp sống nhà Tập lại ít đòi hỏi hơn những gì cậu tự đặt ra cho mình khi còn ở nhà. Thực vậy, theo sự hướng dẫn của Cha giám tập, Luy không được tiếp tục việc đánh tội như đã quen làm, cậu cũng không được ăn chay thường xuyên như đã thực hành trước đây. Trên hết, Luy từ bỏ chính mình để tuân thủ cách tỉ mỉ tiến trình đào luyện trở thành Giêsu hữu. Luy bắt đầu tập làm những việc nhỏ nhặt trong nhà như rửa chén, lau nhà, quét mạng nhện… những việc mà trước đây anh chưa từng đụng đến. Hết thời gian nhà Tập, Luy tuyên khấn lần đầu ngày 25 tháng 11 năm 1587 và chuyển đến Đại học Rôma để tiếp tục chương trình thần học.

Đầu năm 1591, nước Ý lâm nạn đói kém và dịch bệnh hoành hành. Cùng với các anh em khác, Luy đi quyên góp thực phẩm, quần áo giúp những bệnh nhân. Luy đưa những người bệnh đang hấp hối ngoài đường phố đến bệnh viện, tắm rửa và cho họ ăn, sau đó chuẩn bị cho họ lãnh nhận các bí tích sau cùng. Một lần sau khi trở về từ bệnh viện, Luy nói với Cha linh hướng Roberto Bellarmino rằng: “Con tin rằng mình chẳng sống thêm bao lâu nữa. Con cảm thấy nơi mình một khao khát mãnh liệt để làm việc và phục vụ Chúa nơi các bệnh nhân. Con nghĩ rằng Chúa đã không cho con cơ hội này nếu Ngài không muốn đưa con về với Ngài.”

Những ngày sau đó, nhiều anh em trẻ bị ngã bệnh, Cha bề trên buộc phải yêu cầu các học viên hạn chế tiếp xúc với người bệnh và chỉ cho phép anh em đến giúp ở bệnh viện Đức Mẹ An Ủi, nơi có những người bệnh nhẹ và ít lây. Một hôm, Luy đến bệnh viện, bế một người bệnh và chăm sóc cẩn thận. Về nhà anh ngã bệnh ngay và nằm liệt giường từ ngày 3 tháng 3 năm 1591.

Những ngày sau đó, Luy đón nhận tất cả những khó chịu thể xác với tâm hồn phó thác kiên vững. Qua cầu nguyện, anh được biết mình sẽ được đưa về với Chúa vào ngày cuối của tuần bát nhật kính Mình Thánh Chúa. Thời gian ấy đến, ngày 21 tháng 6 năm 1591, Luy xin được lãnh các bí tích sau cùng. Vào khoảng 11 giờ, Luy, tay nắm chặt tượng thánh giá, mắt nhìn thẳng vào Chúa Giêsu chịu đóng đinh và môi miệng anh cố gắng thốt lên Danh Thánh Giêsu lần cuối cùng. Anh ra đi trong bình an khi chỉ mới 23 tuổi.

Ngài được Đức Phaolô V tuyên phong chân phước vào ngày 19.10.1605 và được Đức Bênêđictô XIII nâng lên hàng hiển thánh vào ngày 31.12.1726. Anh em Dòng Tên kính nhớ ngài vào ngày 21 tháng 6 hàng năm. Ngài được nhiều người chọn làm đấng cầu bầu cho giới trẻ, sinh viên, những người chăm sóc các bệnh nhân. Anh em Dòng Tên chọn ngài làm đấng cầu bầu cho các học viên thần học.

Thánh Luy Gonzaga là một tấm gương cho chúng ta, nhất là các bạn trẻ, về sự quảng đại từ bỏ vinh hoa phú quý để bước theo Đức Giêsu Kitô nghèo khó, chịu sỉ nhục, khiêm hạ và hiến thân phục vụ cho anh chị em mình.

Cầu nguyện: Lạy Cha, xin giúp chúng con biết noi gương thánh Lu-y Gonzaga, người anh em của chúng con đã từ bỏ vinh hoa phú quý để nên người môn đệ Chúa Giê-su hiền lành và khiêm nhường. Xin đừng để chúng con lây nhiễm tinh thần thế tục, nhưng xin dạy chúng con biết tôn vinh Cha trong mọi sự. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.

Vị Thánh Lỗi Lạc- Thánh Tôma-Aquina

Vị Thánh Lỗi Lạc- Thánh Tôma-Aquina

Lm.  Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT

Ngày mai, 28 tháng 1, giáo-hội kính nhớ thánh Tôma Aquinô (Thomas Aquinas), một vị thánh lỗi lạc của giáo-hội trần thế.  Một tu sĩ Đa-Minh đã để lại cho hậu thế Bộ “Tổng Luận Thần-học”.

Thánh Tô-ma A-qui-na sinh năm 1225 tại thành Naples nước Ý Ðại Lợi trong một gia đình phú quí và đạo hạnh.  Ngài được hấp thụ một nền đạo đức sâu sắc, đặt căn bản trên đức tin và giáo lý chân chính của Chúa Giêsu và các tông đồ.  Cha của Tô-ma là lãnh Chúa đảo Aquina.

Tuy danh vọng cao vời, nhưng gia đình cha mẹ của thánh nhân luôn biết kính sợ Chúa và giáo dục con cái theo luật Chúa và Giáo Hội.  Nhờ thế, thánh Tôma Aquina đã sớm tiến tới trong đường nhân đức, có một đức tin sắt đá và một nền học vấn uyên thâm để có thể hiểu và giải đáp được những vấn nạn trong xã hội cũng như những giải đáp cho thời đại đang tiến bộ.

Trong quá trình theo học, Tôma được gửi học ở tu viện Cassino do các Cha Bênêđitô điều khiển.  Một biến cố chính trị đưa đến việc giải tán tu viện sau 9 năm thánh nhân đã theo học với các cha Bênêđitô.  Sau đó, thánh nhân lại tiếp tục học ở Naples, nơi đây thánh nhân có dịp tiếp xúc với các cha dòng Ðaminh, Tôma say mê với lý tưởng sống cho người nghèo và làm việc trí thức để truyền bá cho những người khác chân lý, lý tưởng mà ngài đã ghiền ngẫm, đã suy nghĩ.

Lý tưởng của thánh Ðaminh đã đánh động ngài tới tận căn, nên ngài đã quyết định xin vào dòng thánh Ðaminh vào năm 1244.  Việc này làm phật ý thân mẫu Tôma vì bà luôn luôn muốn Tôma làm tu viện trưởng Cassino.  Thân mẫu của Tôma quyết định bắt Tôma về giam trong gia đình và dùng mọi mưu kế để cho Tôma trở về thế gian.  Mọi mưu chước của mẹ đều bị thất bại.  Sau cùng trong cơn mù quáng tột độ, bà đã dùng một cô gái trắc nết để quyến rũ thánh nhân, vì bà hy vọng Tôma sẽ bị ngã gục.  Nhưng ý Chúa nhiệm mầu, Tôma đã chiến thắng, đuổi cô gái hư ra khỏi nơi ngài ở.

Chúa đã yêu thương ngài, sai thiên thần đến cột giây trinh khiết cho ngài để biểu tỏ sự chiến thắng của ngài, đúng như lời sách đệ nhị luật đã viết:” Chúa ấp ủ và lo dưỡng dục (Tôma), luôn gìn giữ chẳng khác nào con ngươi mắt Chúa” (trích sách Ðệ-nhị-luật 32: 10 ).  Thấy ý chí sắt đá, lòng tin tưởng tuyệt đối vào Chúa của Tôma, thân mẫu ngài đành làm ngơ để ngài trốn về lại tu viện.

Thánh Tôma lúc đó được thụ huấn với thánh Albertô, một học giả uyên bác, nổi tiếng thời đó.  Năm 27 tuổi, thánh Tôma đã trở thành giảng sư đại học trẻ tuổi với một kiến thức sâu rộng tuyệt vời có thể hướng dẫn được giới trí thức đang say mê triết học Hy Lạp ngoại giáo.  Ngài đã viết bộ “Tổng luận thần học” đầy giá trị, để lại cho Giáo Hội và hậu thế.  Ngài nói ngài đã múc tất cả sự khôn ngoan nơi Chúa Giêsu qua suy niệm và cầu nguyện để viết nên “Tổng luận thần học” này.

Ngài qua đời đột ngột lúc mới có 49 tuổi, cái tuổi đang sung sức và việc dậy học đang nổi tiếng vào năm 1274.

Ðức thánh cha Gioan XXII phong ngài lên bậc hiển thánh năm 1328.

Năm 1567, Ðức Giáo hoàng Piô V lại cất nhắc ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh với tước hiệu “Tiến Sĩ Thiên Thần”.

Năm 1880, Ðức thánh cha Lêo XIII đặt ngài làm quan thầy các trường công giáo.

~^~

Lạy Chúa,

Chúa đã làm cho thánh Tôma trở nên một bậc thầy lỗi lạc,

vì đã ban cho ngài lòng tha thiết sống cuộc đời thánh thiện,

và hăng say giảng dạy đạo lý cao siêu.

Xin Chúa thương mở lòng soi trí để chúng con

ngày càng hiểu biết điều ngài dạy,

và ra công bắt chước điều ngài làm.

Amen.

(Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Tôma Aquinô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh ).

Lm.  Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT

From: ThiênKim

Thánh Phaolô, Tông đồ của mọi người

Thánh Phaolô, Tông đồ của mọi người

Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ)

Chúa Cứu Thế


VRNs (25.01.2014) – Sài Gòn – Từ một người hăng say bắt đạo Chúa, thậm chí còn tham gia giết chết Thánh Stêphanô (Phó tế, Tử đạo tiên khởi), đã trở thành người nhiệt thành rao giảng Chúa-Giêsu-bị-đóng-đinh. Có thể nói rằng nếu không nhờ con người mạnh mẽ, thông minh và có ảnh hưởng rộng lớn này, thì niềm tin Kitô giáo có thể vẫn chỉ ở phạm vi nhỏ hẹp tại Do thái.

Từ Giêrusalem đến Damascô, sau 3 năm Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập giá, một thanh niên Do thái ở Tarsus tên Saolê bị ngã ngựa vì một thị kiến ấn tượng. Tiếng Chúa Giêsu gọi: “Saolê! Tại sao anh tìm bắt tôi?”. Bị mù vì thị kiến, thanh niên này phải có người dẫn vào thành phố. Chưa đầy 3 ngày, thanh niên này bình phục và trở nên một thụ tạo mới – một người được tuyển chọn của Thiên Chúa.

Như vậy, nhờ sự thay đổi lớn trong tâm hồn, một trong các nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử Kitô giáo đã trở nên một người có đức tin. Chàng đã bỏ tên Do thái để thay tên Latin là Phaolô. Với tư cách là Tông đồ của dân ngoại, Phaolô được sai đi truyền giáo ở Địa trung hải. Ông chuyển Kitô giáo từ một giáo phái nhỏ Do thái thành một tôn giáo có tầm cỡ thế giới. Khi thuyết giảng và thư từ, Phaolô đã có hệ tư tưởng mà cho đến nay vẫn là nền tảng của việc giáo huấn Kitô giáo.

Ngoài các thư chúng ta có, trong sách Công vụ Tông đồ là nhật ký của bạn bè, thánh Luca – thầy thuốc và tác giả Phúc âm thứ ba. Từ các nguồn đó nổi bật một đời sống có nhiều khủng hoảng, quyết định nhanh chóng, lối thoát nhỏ hẹp, những dịp gặp gỡ, và những bùng nổ rải rác tạo nên câu chuyện phiêu lưu kỳ thú.

Thánh Phaolô sinh khoảng năm 5 tại Tarsus, Tiểu Á, ngày nay là thành phố tĩnh lặng ở Thổ nhĩ kỳ, nhiều người ở đây đã trở nên công dân của Đế quốc Rôma.

Khi còn nhỏ, Saolê học kinh doanh, có thể vì người cha là người buôn vải. Nhưng Saolê lại có tài lãnh đạo. Hơn 10 tuổi, Saolê đến Jerusalem học với thầy Gamaliel. Trong đền thờ chật người, lần đầu Saolê nghe nói đến Đức Kitô rao giảng ở Galilê. Dù chưa hề gặp Chúa Giêsu, “tiếng gọi” kia vẫn làm ông thay đổi. Ông đã bách hại Giáo hội sơ khai bằng cách hành hạ các tín hữu cho đến chết, trói và tống ngục cả đàn ông lẫn phụ nữ. Người đầu tiên bị Phaolô thủ tiêu là thánh Stêphanô, bị ném đá đến chết trước mặt người Pharisiêu. Vô tri bất mộ. Nhưng rồi Phaolô đã nhận là mình được Thiên Chúa thương đặc biệt. Phaolô đã tin tưởng, kiên trì, tự nhận mình yếu đuối, và ơn tha thứ tuôn đổ trên ông. Phaolô cũng đã than phiền về tính vô định của mình: “Điều tôi muốn thì tôi lại không làm, điều tôi không muốn thì tôi lại làm” (Rm 7:19). Nhưng nhiệm vụ lịch sử của Phaolô là định mệnh không chọn một người khá hơn. Là dân biệt phái, Phaolô đã trích Cựu ước khoảng 200 lần trong các thư gởi các Giáo đoàn. Là người Rôma, Phaolô đã đi khắp Đế quốc, nói 3 ngôn ngữ: tiếng Aram, tiếng Do thái và tiếng Hy lạp, đồng thời còn thông thạo tiếng Latin nữa.

Với tài năng như vậy, Phaolô khả dĩ tự biến thành “mọi sự cho mọi người” – Do thái đối với người Do thái, Rôma đối với người Rôma, ngụy biện đối với người ngụy biện, chân chất đối với người chân chất. Trổi vượt, khôn ngoan và hòa đồng, Phaolô còn là người rất nhân bản, dám tin rằng mọi người đều bình đẳng dù sống ở thời kỳ phân biệt giai cấp.

Hành trình tông đồ của thánh Phaolô đã đưa ngài tới những miền đất lạ, rảo bước khắp Tiểu Á, đến đảo Cyprus để “thả lưới”, vượt sang Âu châu để rửa tội cho những người ở Macedonia. Ngài đến đâu cũng gặp thuận lợi và được chấp nhận như một người Do thái. Chỉ khi đến với dân ngoại, thánh Phaolô mới gặp sự tức giận của người Do thái. Các tư tế cho rằng nam giới phải chịu cắt bì mới được cứu độ, vì luật đã ghi như vậy. Nhưng với tư cách một nhà truyền giáo, thánh Phaolô yêu cầu mỗi Kitô hữu phải bỏ luật Môi-sê, nếu không Kitô giáo không bao giờ là tôn giáo của mọi người, mà vẫn chỉ là sự thay đổi của Do thái giáo: Đức tin mới là vấn đề chứ không phải lề luật theo nghĩa hạn hẹp của nó. Từ đó phân chia thành Công giáo và Do thái giáo.

Không hiểu bằng cách nào mà thánh Phaolô “thương lượng” được để có thể đi qua vùng Cilician Gates, nơi có nhiều bọn thảo khấu ẩn nấp trên các vách đá cheo leo và các thác nước hiểm trở như thế. Ngài thường đi bộ, nhiều đêm phải ở lại trong hang động ẩm ướt, gió lộng, tuyết phủ, mưa bão liên tiếp. Chỉ một mục đích duy nhất khiến ngài miệt mài hành trình tông đồ là “tận hiến cuộc đời cho Chúa Giêsu Kitô”.

Ngài vẫn mưu sinh khi có thể, bằng cách làm vải lều – nghề cũ của ngài. Chẳng hạn ở Côrintô, thành phố trù phú của người Hy lạp, ngài làm chung với vợ chồng người Ý. Cơ sở phát triển tốt. Mọi tầng lớp dân chúng đều ghé vào mua hoặc tham quan và trò chuyện. Tính cách và sự duyên dáng của ngài đã gây ấn tượng với khách thập phương: Một cộng đoàn mới.

Nhiều người ngoại giáo gia nhập đạo. Thánh Phaolô khuyên họ đừng nóng giận, xảo trá, nguyền rủa hoặc mỉa mai người khác. Thời gian ngài ở Côrintô khoảng năm 51 (sau công nguyên), cũng là thời điểm ngài viết các thư gởi các giáo đoàn và các sứ đồ. Kho tàng văn chương độc nhất vô nhị này là một phần trong Tân ước ngày nay, được xuất bản cùng với các Phúc âm. Được viết bằng tiếng Hy lạp cho các giáo đoàn sơ khai và các cá nhân, các thư của ngài viết không có ý tạo nên công việc đơn lẻ. Kết hợp với nhau, các thư có cấu trúc chặt chẽ về tư ưởng tôn giáo, làm cho thánh Phaolô trở nên thần học gia đầu tiên của Kitô giáo. Ngài còn là học giả uyên bác, tử tế, lịch thiệp. Những điều ngài viết ra là những trân châu ngọc bảo.

Thư gởi giáo đoàn Rôma là thư dài nhất và là kiệt tác của thánh Phaolô. Các nền tảng như ân sủng, công trạng và ý muốn tự do, bắt đầu bằng khả năng và chính xác, đó là khởi nguồn cho các thần học gia Kitô giáo. Quan niệm chính của thánh Phaolô là Ơn Cứu Độ: Loài người sống trong tội cho đến khi Thiên Chúa sai Con Ngài là Đức Giêsu đến cứu thoát. Nhờ cuộc sống và cái chết trên Thập giá, Đức Giêsu đã cứu độ nhân loại. Mọi người thực hiện Ơn Cứu Độ của chính mình bằng ân sủng và đức tin. Thánh Phaolô ẩn dụ bằng việc cởi bỏ “con người cũ” có thể ám chỉ việc thay đổi tâm tính của ngài sau biến cố ở Damascus. “Con người mới” sống trong Đức Kitô và “cái chết không còn thống trị trên Ngài”. Trước đây cô đơn và bị bỏ rơi, nhưng thánh Phaolô đã tìm thấy nguồn vui nơi chính Đức Kitô và anh em, và hân hoan tuyên bố vào cuối thời gian rằng chúng ta được kết hợp với Chúa trong vinh quang của Ngài, chúng ta sẽ gặp Ngài trực diện.

Nhiệm vụ của thánh Phaolô gọi ngài đến một nơi khác là Giêrusalem, dù ngài định đi Rôma. Ngài đến Palestine với điềm chẳng lành. Sự thù ghét manh nha trong giới lãnh đạo Do thái. Khi thánh Phaolô vào đền thờ, có tiếng gọi giật ngược. Ngài bị kết án tử vì tội đưa dân ngoại vào đền thờ. Họ kéo ngài ra khỏi đền thờ và hành hạ gần chết. Một binh sĩ Rôma kịp xông vào cùng với vài binh sĩ khác giải cứu thánh Phaolô. Rồi sau đó ngài lại bị tống ngục ở Rôma. Nhiều học giả cận đại cho rằng thánh Phaolô bị kết án và được tha bổng. Các tác giả viết sách Kitô giáo cho biết thánh Phaolô đến tận Tây ban nha và Á châu. Đó là thời gian chống Kitô giáo dữ dội. Khoảng năm 60, thánh Phaolô bị bắt lần nữa và bị giải về Rôma. Tương truyền chính vua Nero, người chống Kitô giáo kịch liệt, đã ngồi ghế thẩm phán kết án thánh Phaolô bị xử trảm tại Hang Khuynh Diệp gần Rôma. Người ta nói rằng thủ cấp của thánh Phaolô rơi xuống và nảy lên 3 lần trên đất tạo thành 3 giếng nước. Cách đó khoảng 2 dặm là Đại Thánh đường Thánh Phaolô Ngoại thành được xây dựng chỉ sau khi ngài tử đạo một thời gian ngắn.

Đức Giêsu đã tạo lập một niềm tin mới, chuyển hóa một Saolê thành một Phaolô hiên ngang đem niềm tin đó tới mọi nơi trên thế giới để có một đạo Công giáo như ngày nay.

ERNEST O. HAUSER

Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ)

THÁNH PADRE PIO (1887-1968)

THÁNH PADRE PIO (1887-1968)

Lễ Kính 23-9
Thánh Padre Piô tên thật là Francesco Forgione, thuộc một gia đình nông dân ở Pietrelcina, miền Nam nước Ý. Ðã hai lần, cha của Francesco phải xa nhà, đi làm việc ở Jamaica, Nữu Ước để nuôi gia đình.
Khi được 15 tuổi, Francesco gia nhập dòng Capuchin và lấy tên Piô. Ngài được thụ phong linh mục năm 1910, và bị động viên trong Thế Chiến I. Sau khi bác sĩ thấy ngài bị ho lao, họ đã cho ngài giải ngũ. Vào năm 1917, ngài được bài sai đến làm việc ở tu viện San Giovanni Rotondo, cách thành phố Bari 75 dặm.
Vào ngày 20.9.1918, trong lúc cầu nguyện cảm tạ sau Thánh Lễ, Cha Piô được nhìn thấy Chúa Giêsu. Khi thị kiến ấy chấm dứt, Ngài được in các dấu thánh ở tay, chân và cạnh sườn.
Sau biến cố ấy, cuộc đời ngài phức tạp hơn. Các bác sĩ y khoa, các giới chức của Giáo Hội, và những người tò mò đến xem Cha Piô. Trong năm 1924 và một lần nữa vào năm 1931, vấn đề dấu thánh được đặt ra; Cha Piô không được phép cử hành Thánh Lễ nơi công cộng hay được giải tội. Ngài không than trách về sự cấm cách này, mà sau đó đã được bãi bỏ. Tuy nhiên, sau năm 1924, ngài không còn viết gì thêm nữa. Những tư liệu của ngài về sự thống khổ của Chúa Giêsu đều được viết trước năm 1924.
Sau khi được in dấu thánh, Cha Piô ít khi rời tu viện, nhưng biết bao người đã đến thăm ngài. Mỗi buổi sáng, sau Thánh Lễ 5 giờ đầy nghẹt người, ngài nghe xưng tội cho đến trưa. Ngài dùng thời gian nghỉ trưa để chúc lành cho người đau yếu và tất cả những ai đến gặp ngài. Sau đó ngài lại tiếp tục giải tội. Vào lúc ấy, việc giải tội của ngài thường kéo dài 10 tiếng một ngày; người muốn xưng tội phải lấy số chờ đợi. Nhiều người nói rằng Cha Piô biết rõ các chi tiết cuộc đời của họ, mà chưa bao giờ họ tiết lộ.
Cha Piô nhìn thấy Chúa Giêsu, trong tất cả sự bệnh hoạn và đau khổ. Theo sự đốc thúc của ngài, một bệnh viện xinh xắn được xây trên rặng Gargano gần đó. Ý tưởng xây cất bệnh viện được phát khởi vào năm 1940; một ủy ban gây quỹ được thành lập. Năm 1946, lễ vỡ đất được bắt đầu. Việc xây cất bệnh viện rất khó khăn về kỹ thuật, vì khó kiếm được nước và phương tiện chuyên chở vật liệu xây cất. Sau cùng, “Nhà Chữa Trị Người Ðau Khổ” được hình thành với 350 giường bệnh.
Nhiều người tin rằng họ được chữa lành qua sự can thiệp của Cha Piô. Những ai được dự Thánh Lễ của ngài đều cảm thấy sốt sắng; còn những người tò mò thì rất xúc động. Như Thánh Phanxicô, đôi khi áo dòng của Cha Piô cũng bị người ta cắt xén để làm kỷ niệm.

Một trong những sự đau khổ của Cha Piô, là vài lần những người thiếu đạo đức rêu rao những điều tiên tri mà họ gán cho là của ngài. Ngài không bao giờ nói tiên tri về các biến cố trên thế giới, và không bao giờ cho ý kiến về các vấn đề, mà ngài cảm thấy thuộc về sự quyết định của các giới chức trong Giáo Hội. Ngài từ trần ngày 23.9.1968, và được phong thánh năm 2002.

Lời Bàn
Hơn bất cứ ai khác, có lẽ người Hoa Kỳ ngày nay rất thích những cuốn sách chỉ dẫn, cùng những chương trình truyền thanh, các bài báo có tính cách chỉ bảo. Chúng ta say mê với tiến bộ kỹ thuật, và không ngừng tìm kiếm các lối tắt để tiết kiệm thời giờ và sức lực. Nhưng như Thánh Phanxicô và Cha Piô biết rất rõ, không có con đường nào ngắn hơn khi sống theo Phúc Âm, không có cách nào tránh được những “giáo huấn khó khăn” của Chúa Giêsu (x. Gioan 6:60). Rao giảng về Kitô Giáo mà không có sự hy sinh cá nhân, không có thập giá, thì cũng không khác gì người mãi võ sơn đông quảng cáo bán thuốc trị bá bệnh. Cha Piô coi sự đau khổ của ngài, như đáp ứng với lời kêu gọi sống Phúc Âm.

Lời Trích

“Cuộc đời Kitô hữu không gì khác hơn là cuộc chiến đấu dai dẳng với chính mình; không có sự thăng hoa của linh hồn để đạt đến sự tuyệt hảo mỹ miều, nếu không phải trả giá sự đau khổ” (Lời của Cha Piô).

*******************

Xác thánh Padre Piô năm dấu thánh được trưng bầy cho dân chúng kính viếng

SAN GIOVANNI ROTONDO –

Một trong những vị thánh đương thời, được coi là đã làm nhiều phép lạ nhất, là Padre Pio. Sau 40 năm, hôm qua thi hài thánh nhân lại được trưng bầy cho những người ngưỡng mộ khắp thế giới đến kính viếng tại nơi ngài đã từng sống và cầu nguyện.
Hai mắt nhắm lại, và trên khuôn mặt thoát ra một vẻ thanh thản dịu dàng như đang ngủ. Tuy nhiên, Padre Piô đã qua đời từ năm 1968 hưởng thọ 81 tuổi, và kể từ hôm qua, 24.4.2008, thi hài thánh nhân lại được quàn công khai tại vương cung thánh đường San Giovanni Rotondo (miền Nam nuớc Ý) cho dân chúng kính viếng.



Hôm qua, có tới 15.000 người tham dự thánh lễ do ĐHY Jose Saraiva Martins cử hành, khi thi hài của thánh Piô được đưa ra trưng bầy. Thi hài của thánh Padre Piô được khai quật hôm 03.3.2008 và cho thấy còn trong tình trạng “vừa phải” sau 40 năm chôn cất. Từ ngày đó đến nay, một nhóm chuyên gia gồm các bác sĩ y khoa và chuyên ngành hóa chất, đã làm việc tận tình để tân tạo thi hài thánh nhân hầu có thể giữ và bảo tồn thi hài được lâu dài hơn, trong suốt thời gian 9 tháng trưng bày cho dân chúng đến kính viếng.

Khi còn sinh thời, Padre Piô từng là vị thánh sống của đại chúng người Ý, và là một Thầy Dòng lạ lùng của thế kỷ XX:
• Cha được in năm dấu đanh (Stigmata) tương tự như Chúa Giêsu khi chịu đóng đanh trên thánh giá, nghĩa là ngực, hai bàn tay và hai bàn chân bị đâm thủng qua, và hằng ngày máu từ các vết thương đó chảy nhỉ ra làm ướt đẫm các khăn băng và cả áo quần, khiến ngài vô cùng đau đớn.
• Cha có thể hiện diện một lúc trong nhiều địa điểm khác nhau: Nhiều lần cha vừa có mặt tại Milanô (miền Bắc Ý), vừa có mặt tại Rôma (miền Trung Ý) để cứu vớt những người tự tử, và đồng thời cha lại ngồi giải tội ở Tu Viện của cha tại miền Nam Ý.

Ba vị Giáo Hoàng đã kết án cha là người giả hình đóng kịch. Nhưng năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng cất nhắc cha lên hàng Thánh Nhân.

Nhưng trước khi được đưa trưng bày công khai cho các tín hữu kính viếng, khuôn mặt thánh Padre Piô đã được sửa sang lại bằng chất Silicon như chúng ta thấy trong hình kèm đây, và thi hài thánh nhân cũng đã được xức thuốc. Hiện người ta chỉ nhìn thấy đầu các ngón tay của thánh nhân hơi bị đen. Còn hai chân được mang tất che kín lại.
Cho đến nay, đã có khoảng 800.000 tín hữu từ khắp mọi nơi kéo về kính viếng và cầu nguyện bên thi hài thánh Padre Piô.

Lạy thánh Padre Piô, xin cầu cho chúng con!
LM Gioan Bosco Nguyễn Hữu Thy

Cha Thánh Padre Piô được trưng bày tại Vương Cung Thánh Đường San Giovanni Rôtndo, Miền Nam Nước Ý, để công chúng được tự do đến chiêm bái.




Cha Thánh Padre Pio Tình Nguyện Chịu Đau Khổ Để Cứu Các Linh Hồn

Trích trong Holy Souls, LM Alessio Parente
Kim Hà dịch thuật

Vào ngày 29 tháng 11 năm 1910, cha Padre Pio đã viết cho cha linh hướng của ngài là LM Benedetto để giải thích về những sự đánh phá của ma qủy và ngài muốn được giải thoát khỏi sự thử thách ấy. Nhưng sau đó, cha Pio xin phép cha linh hướng để được trở nên một nạn nhân đền tội cho các người tội lỗi và cho các linh hồn ở luyện ngục. Cha viết như sau:

“Thưa cha linh hướng, con xin phép cha để trình bày một việc. Đôi lúc, con cảm thấy có nhu cầu dâng hiến chính mình con lên Chúa như là một nạn nhân để đền tội cho các người tội lỗi và cho các linh hồn ở luyện ngục. Mong ước này lớn mạnh trong trái tim con, đến nỗi con phải gọi là một nỗi đam mê vô biên. Con đã dâng lên Chúa lời thỉnh nguyện này rất nhiều lần. Con cầu xin Chúa cho con gánh chịu mọi sự trừng phạt mà Chúa đã chuẩn bị dành cho các người tội lỗi và cho các linh hồn ở luyện ngục. Xin Chúa hãy trừng phạt con và cho con chịu đau khổ gấp trăm lần để cho các người tội lỗi được ơn hoán cải, và để cho các linh hồn được sớm lên Thiên Đàng. Nhưng con biết, con phải xin phép cha để trở nên của lễ hy sinh. Con cảm thấy Chúa Giêsu rất muốn con làm điều này. Con chắn chắn rằng cha sẽ không gặp khó khăn khi cho phép con.”
Qua sự dâng hiến vô điều kiện để hứng chịu mọi sự trừng phạt gấp trăm lần, hầu mong các người tội lỗi được ơn hoán cải và các linh hồn được giải thoát khỏi luyện ngục, cha Padre Pio đã trao ban cho chúng ta một chìa khóa để hiểu được mầu nhiệm của tình yêu và đau khổ. Cha Benedetto đã cho phép cha Padre Pio làm việc ấy.
Trong lá thư đề ngày 1 tháng 12 năm 1910, cha Benedetto viết:
“Xin cha hãy dâng hiến những gì cha đã nói, và điều này sẽ được Chúa nhận lời. Xin cha hãy mở rộng đôi tay và thánh giá của cha. Bằng cách dâng hiến sự hy sinh, cha hiệp thông với Chúa Cứu Thế, cha hãy chịu đau khổ và cầu nguyện cho những kẻ ác nhân trên trần gian và cho các linh hồn tội nghiệp, là những người đáng cho chúng ta thương xót vì họ đang nhẫn nại chịu đau khổ mà không kể xiết được.”

Nhân danh sự vâng lời, cha Pio đã trở nên một nạn nhân cho giáo hội chiến đấu và cho giáo hội đau khổ. Sự dâng hiến này có thể giải thích bằng các cơn bịnh bí mật, những thử thách, những cuộc chiến đấu với ma qủy. Nhân loại luôn cần sự tha thứ và giáo hội đau khổ luôn cần sự đền tội. Cha Padre Pio trở nên một nạn nhân, vác thánh giá và bị đóng đinh vào cây thánh giá vô hình như Chúa Giêsu đã bị đóng đinh để cứu rỗi nhân loại, Chúa Giêsu đã xuống ngục tối để giải thoát những ai mong chờ sự cứu độ. Chúa Cứu Thế đã ban cho họ sự tự do và đưa họ lên Trời.

Cha Padre Pio qủa là một linh hồn anh hùng và quảng đại. Ngài luôn nghĩ đến tha nhân, cầu bầu cho họ, dâng hiến chính mình ngài như là một nạn nhân cho người khác được ơn cứu độ, những người trong giáo hội chiến đấu và giáo hội đau khổ. Đau khổ và thương yêu là hai con đường mà cha Padre Pio đã dùng để bắt buộc bản thân mình chịu thống khổ.

Cha nói:
“Tôi cảm thấy mình ngụp lặn trong đại dương mênh mông của Đấng Hằng Yêu Thương. Tôi luôn sống trong tình yêu ấy.”

Kề từ khi cha Padre Pio được phép trở nên một nạn nhân, và từ khi cha tình nguyện dâng hiến bản thân mình thì các linh hồn người chết hiện về với cha nhiều vô số kể. Qua lời kể của cha Padre Pio, chúng ta có thể thấy những cuộc hiện ra này xẩy ra rất nhiều lần, và điều này không làm cho cha Pio sợ hãi hay bực mình.

Chân dung nhà truyền giáo Phanxicô Xavie

Chân dung nhà truyền giáo Phanxicô Xavie

Trầm Thiên Thu

12/3/2013

Thánh Lm Phanxicô Xavie (Francis Xavier), vị Đại Thánh bổn mạng các xứ truyền giáo, trong đó có Việt Nam, được Giáo Hội mừng kính ngày 3-12 hàng năm, và cũng là ngày giỗ của ngài, vì ngài mất ngày 3-12-1552.

Ngài sinh ngày 7-4-1506 tại Xavier, thuộc Vương quốc Navarre (nay là Tây Ban Nha). Tên khai sinh của ngài là Francisco de Jasso y Azpilicueta. Ngài là con út của ông Juan de Jaso, cố vấn riêng của Vua John III (Jean d’Albret, cai trị Navarre) và bà Doña Maria de Azpilcueta y Aznárez. Ngài có bà con với thần học gia và triết gia Martín de Azpilcueta danh tiếng.

Ngài là học trò của Thánh Inhaxiô Loyola (lập Dòng Tên, Society of Jesus -= SJ), đồng sáng lập viên của Dòng Tên, là nhà truyền giáo và là một trong bảy tu sĩ đầu tiên của Dòng Tên tại Montmartre năm 1534. Ngài làm trưởng nhóm truyền giáo tại Á châu. Ngài có công truyền bá và duy trì Công Giáo ở Ấn Độ, kể cả Nhật, Borneo, quần đảo Maluku, và những vùng chưa có dấu chân các nhà truyền giáo. Tại những vùng này, ngài tiên phong và cố gắng học tiếng bản xứ, ngài thành công nhất ở Ấn Độ. Thật lòng ngài muốn tới Việt Nam, nhưng Chúa có kế hoạch khác, nên Việt Nam không được đón tiếp ngài.

Năm 1525, ngài học ĐH Sainte-Barbe ở Paris (Pháp). Năm 1530, ngài nhận bằng thạc sĩ văn chương và dạy triết học Aristotes tại ĐH Beauvais, tương lai rộng mở, danh vọng hứa hẹn. Ngài gặp Inhaxiô Loyola và Pierre Favre tại ĐH Sainte-Barbe. Thánh Inhaxiô đặt vấn đề với ngài: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” (Mt 16:26). Thế là ngài bỏ tất cả để đi tu và làm linh mục, rồi tình nguyện đi truyền giáo.

Thánh Inhaxiô cùng với Thánh Phanxicô Xavie và năm anh em khác thành lập Dòng Tên ngày 15-8-1534 tại một nhà nguyện ở Montmartre, cùng nhau khấn đức nghèo khó, khiết tịnh và vâng lời, đồng thời khấn hoán cải người Hồi giáo ở Trung Đông. Dòng Tên đã được Đức Giáo Hoàng phê chuẩn, khi đó tu sĩ Phanxicô Xavie tới Venice (Ý) để thụ phong linh mục vào ngày 24-6-1537. Đến cuối tháng 10, bảy anh em tới Bologna và cùng làm việc trong một bệnh viện địa phương. Sau đó, Thánh Phanxicô Xavie phục vụ một thời gian ngắn tại Rôma với tư cách thư ký của Thánh Inhaxiô. Sau đó, Thánh Phanxicô Xavie dành phần nhiều cuộc đời để truyền giáo tại Á châu, chủ yếu qua lại bốn nơi là Malacca, Amboina, Ternate (Nhật) và Trung Hoa.

Ngài rời Lisbon ngày 7-4-1541 lúc ngài 35 tuổi, đi cùng hai tu sĩ Dòng Tên khác. Từ tháng 8-1541 tới tháng 3-1542, ngài tới Goa, lúc đó là thủ phủ của Ấn Độ (thuộc địa của Bồ Đào Nha), ngày 6-5-1542, 35 tháng sau khi rời Lisbon. Mùa Xuân năm 1545, Lm Phanxicô Xavie đi Malaca (cũng là thuộc địa của Bồ Đào Nha). Khoảng tháng 1-1546, ngài rời Malacca đi quần đảo Maluku, nơi ngài truyền giáo 1 năm rưỡi cho dân đảo Ambon. Ngay sau lễ Phục Sinh năm 1546, ngài trở lại Malacca.

Tháng 12-1547, tại Malaca, Lm Phanxicô Xavie gặp một người Nhật tên là Anjirō. Chính Anjirō cũng đã nghe nói về Lm Phanxicô Xavie từ năm 1545. Sau khi bị kết tội sát nhân, Anjirō trốn khỏi Nhật. Ông nói hết với Lm Phanxicô Xavie về quá khứ của mình, về văn hóa và văn chương Nhật. Anjiro làm thông dịch cho Lm Phanxicô Xavie để giao tiếp với người Nhật. Và rồi Anjirō trở thành Kitô hữu người Nhật đầu tiên và lấy tên là Paulo de Santa Fe.

Sau khi qua đời, thi hài Thánh Phanxicô Xavie được an táng trên đảo Shangchuan. Tháng 1-1553, người ta khai quật mộ Ngài và thấy thi hài Ngài còn nguyên vẹn. Rồi người ta đưa thi hài Ngài tới Nhà thờ Thánh Phaolô tại đảo Malaca vào ngày 22-3-1553. Ngày 11-12-1553, thi hài Ngài lại được chuyển tới Goa. Hòm thánh tích của Ngài được chuyển tới Nhà thờ Chúa Giêsu Giáng Sinh tại Goa từ ngày 2-12-1637.

Cánh tay phải, đã từng chúc lành và rửa tội cho nhiều người, được Tổng bề trên Claudio Acquaviva tách ra từ năm 1614 để trưng bày cho mọi người kính viếng tại Nhà thờ Il Gesù ở Rôma. Cánh tay trái của ngài được đưa về Macau. Cuối cùng được chuyển tới Nhà thờ Thánh Giuse năm 1978, rồi lại chuyển tới Nhà nguyện Thánh Phanxicô Xavie trên đảo Coloane. Mới đây, thánh tích của ngài được chuyển tới Chủng viện Thánh Giuse và Viện bảo tàng Nghệ thuật Thánh (Sacred Art Museum).

Lm Phanxicô Xavie được ĐGH Phaolô V tôn phong chân phước ngày 25-10-1619, và được ĐGH Grêgôriô XV tôn phong hiển thánh ngày 12-3-1622, cùng với Thánh Inhaxiô Loyola. Cuối cùng, ĐGH Piô XI tôn phong Thánh Phanxicô Xavie làm bổn mạng các xứ truyền giáo (Patron of Catholic Missions).

Thánh Anrê Trần văn Trông

Thánh Anrê Trần văn Trông

November 28 này là ngày lễ kính Thánh Anrê Trần văn Trông. Xin hân hạnh chuyển đến quý vị hạnh tích của ngài. Thánh Anrê Trông còn đuợc phúc có một người mẹ can đảm thánh thiện gây nên biết bao là ấn tượng thật quá cảm động.

Trong phim “Thương Khó Chúa Giêsu” mỗi khi Đức Maria xuất hiện tôi nghe khán giả thút thít nức nở. Trong bài kể chuyện về Thánh Anrê Trông này tôi không cầm được nước mắt lúc thấy nói đến mẹ ngài.

Ôi mầu nhiệm thay các bà Mẹ! Chính Mẹ Maria gợi lòng chúng ta kính mến Chúa nhiều hơn. Cảm tạ ơn Mẹ biết bao!

Thánh Anrê Trần Văn Trông, quân nhân
(1814-1835)

Thánh Anrê Trần Văn Trông sinh năm 1814 trong một gia đình Công Giáo ở Kim Long, Phú Xuân (Huế). Cậu là con trai duy nhất trong nhà. Năm lên 15 tuổi, cha cậu mất sớm, gia đình phải lâm vào cảnh mẹ góa con côi. Vì thương mẹ và không muốn mẹ phải chịu khổ nhiều, nên Anrê Trông đành thu xếp sách đèn, theo chân bà con lối xóm về họ Thợ Ðúc dệt tơ cho hoàng gia. Ảnh hưởng sự giáo dục từ người mẹ hiền, cậu ngay thẳng thật thà, luôn chăm chỉ làm việc và không ưa những chuyện gây gỗ, bất hòa. Mỗi buổi chiều, sau những giờ lao động mệt mỏi, cậu thường vác cần câu đến ngồi bên bờ sông Hương xanh biếc, để được gần gũi với thiên nhiên.

Năm 20 tuổi, Anrê Trông cảm thấy với đồng lương ít ỏi của nghề thợ dệt tơ không đủ nuôi sống gia đình, cậu đành giã từ mẹ lên đường nhập ngũ.
Sau tám tháng phục vụ trong quân đội, tháng 11 năm 1834, triều đình ra lệnh những binh sĩ Công Giáo phải ra trình diện. Không chút e dè, Anrê Trông cùng với 12 đồng đội cùng ở khu Thợ Ðúc đến ra mắt quan. Quan yêu cầu các anh phải tuân lệnh nhà vua bỏ đạo và đạp lên Thánh Giá. Cả 13 chiến sĩ Công Giáo đều cương quyết khước từ. Các quan bèn dùng biện pháp tra tấn dã man… Lần lượt 12 người từ từ bỏ cuộc, chỉ còn một mình Anrê Trông vẫn trung kiên đến cùng. Quân lính trói anh lại khiêng qua Thánh Giá, nhưng anh co chân lên quyết không xúc phạm đến ảnh Chúa. Thế là từ trại lính, anh bị tống qua trại giam. Các quan kết án tử hình, nhưng còn giam hậu, nghĩa là chưa xử tử ngay.

Suốt một năm bị giam trong ngục, Anrê Trông chịu nhiều điều cơ cực khổ sở, nhưng niềm tin của anh qua những thử thách đó càng ngày càng vững mạnh. Anh sốt sắng cầu nguyện và đặc biệt phó thác đời mình cho Ðức Mẹ, xin Chúa vì lời Mẹ Maria chuyển cầu ban cho ơn trung tín đến cùng. Những món quà tiếp tế nhận được, anh chia sẻ cho các bạn tù và lính canh ngục, nên được họ quí mến. Cũng chính nhờ đó, anh có cơ hội đặc biệt để đi xưng tội, rước lễ và thăm mẹ.

Khi biết tin có cha Ngôn đang hoạt động ở Phú Xuân, Anrê Trông liền xin viên cai ngục và cậu được phép về nhà một ngày dưới sự giám sát của một người lính. Nhờ đã dò hỏi rõ nơi ở của vị linh mục, Anrê Trông và người lính chèo thuyền đến bến đò kia vào giữa lúc trưa. Lúc đó, mọi người dân chài đã lên bờ ăn uống nghỉ ngơi. Anh Anrê Trông liền bước qua thuyền của cha Ngôn, đẩy thyền trôi nhẹ ra giữa dòng. Hai người nhỏ to tâm sự và anh quỳ xuống lãnh phép lành tha tội. Xưng tội xong, anh ngỏ ý xin rước lễ, cha Ngôn hẹn anh sáng hôm sau tại Kẻ Văn. Thế rồi anh và người lính tiếp tục chèo thuyền về Kim Long. Hai người lên bờ và ngủ tại nhà mẹ một đêm. Tả sao cho xiết niềm vui của hai mẹ con được tái ngộ trong hoàn cảnh bất ngờ này. Mẹ anh đã hết lời khích lệ động viên anh kiên tâm vì đức tin.

Tảng sáng hôm sau, anh Anrê Trông và người lính gác vội vã chèo thuyền đến điểm hẹn. Gặp lại vị “khách quí” là cha Ngôn, anh liền quỳ xuống lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Cha Ngôn chúc lành: “Ước gì Mình Thánh Chúa Giêsu Kitô sẽ gìn giữ con đến cuộc sống muôn đời”. Anh thưa: “Amen”. Rồi trong niềm hân hoan vì hồng phúc mới lãnh nhận, anh vui vẻ trở về trại giam như lời hứa với viên cai ngục.

Sau một năm giam tù, thấy không hy vọng gì Anrê Trông thay đổi ý kiến, các quan quyết định ngày xử là 28/11/1835. Sáng hôm đó, người chiến sĩ đức tin gặp được người anh họ mình. Anh ta hỏi có muốn ăn gì không? Anrê Trông trả lời: “Em muốn ăn chay để dọn mình tử đạo”, rồi nói tiếp: “Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Ðừng lo gì cho em cả, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện, và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa cho đến chết”. Nhưng thực tế, người anh họ chưa kịp nhắn lại. Bà mẹ của Anrê Trông khi hay tin con bị đem xử, liền vội vã ra đón con ở đầu chợ, nơi con sắp đi qua, gặp con, bà chỉ hỏi một câu vắn tắt: “Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù con có nợ nần ai chăng, nếu có thì cho mẹ hay, mẹ sẽ trả thay con”. Tấm lòng người mẹ là thế đấy. Bà biết rõ con của mình đủ can đảm chịu mọi đau đớn, giờ đây bà chỉ lo cho con về đức công bình.

Khi được con cho biết không vướng mắc gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh thêm lời khích lệ. Ðến nơi xử, sau khi quân lính tháo gông xiềng, người chiến sĩ đức tin liền đón lấy, trao cho người lính cạnh bên và nói: “Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm”. Mẹ anh đứng gần nên nghe rất rõ, nhưng bà chưa lấy kỷ vật đó làm đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa.
Chiêng trống nổi lên, lý hình vung gươm, đầu vị tử đạo 21 tuổi rơi xuống. Bà mẹ của Anrê Trông chứng kiến ngay từ giây phút đầu tại pháp trường, bà thỏa lòng dù rất khổ đau, bước ra đòi viên chỉ huy trao thủ cấp con bà.

Trong hạnh tích thánh Anrê Trông, người quân nhân xứ Huế, Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII ca tụng người mẹ của thánh Anrê Trông đã thể hiện lòng can trường “theo gương Nữ Vương Các Thánh Tử Ðạo”. Như Ðức Maria dưới chân Thánh Giá dâng hiến người Con Yêu Dấu, bà mẹ đó cũng có mặt trong cuộc hành quyết để hiến dâng người con trai duy nhất của mình. Bà đi bên cạnh con, không than khóc không sầu buồn, trái lại còn bình tĩnh vui vẻ khuyên con hãy bền chí đến cùng. Khi đầu Anrê Trông rơi xuống, bà mạnh dạn bước vào pháp trường kêu lớn tiếng trước mặt các quan: “Ðây là con tôi, đứa con mà tôi đã cưu mang dưỡng dục. Giờ này nó vẫn là con tôi, xin các ông trả lại tôi cái đầu của con tôi”. Nói xong, bà mở rộng vạt áo, bọc lấy thủ cấp đẫm máu của người con yêu quí. Bọc trong vạt áo rồi ghì chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lặp đi lặp lại: “Ôi con yêu quí của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ nhé!” rồi bà đem về mai táng trong nhà.

Ngày 27/05/1900, Ðức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn người chiến sĩ anh hùng Anrê Trông lên hàng Chân Phước. Ngài cũng không ngớt lời ca ngợi mẫu gương của bà mẹ hào hùng, đã họa lại gần trọn vẹn hình ảnh Ðức Maria, Nữ Vương Các Thánh Tự Ðạo xưa trên đỉnh Canvê.
Ngày 19 tháng 6 năm 1988, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã phong ngài lên bậc Hiển Thánh.

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi