THÁNH PHANXICÔ ASSISI, SỨ GIẢ HÒA BÌNH

THÁNH PHANXICÔ ASSISI, SỨ GIẢ HÒA BÌNH

Ngày 04-10 hàng năm, Giáo Hội kính nhớ một vị thánh được nhắc nhớ, yêu mến và tôn kính nhiều nhất, đó là Thánh Phanxicô Assisi, vị sứ giả hoà bình.  Cuộc sống của ngài thật đơn sơ thanh thoát, sống hòa bình, thực thi hòa giải, đã trở thành lý tưởng cho con người của mọi thời đại.

1. Thánh Phanxicô chọn nếp sống nghèo khó

Phanxicô chào đời vào khoảng cuối năm 1182, tại thành Assisi phía bắc Rôma.  Cha của ngài là ông Phêrô Bênađônê, một thương gia chuyên nghề bán len dạ.  Mẹ là bà Pica, một phụ nữ hiền đức.  Cậu Phanxicô rất hào hoa, lại được gia đình giàu có nuông chiều, nên mặc sức ăn chơi phung phí.  Mộng công danh thôi thúc, Phanxicô theo bá tước Gauthie de Brienneur đi chinh phục vùng Apulia, gần thành Assisi.  Nhưng ý Chúa nhiệm mầu đã khiến Phanxicô đau nặng và bắt buộc phải trở về quê hương.  Lần này, tuy vẫn ăn chơi như trước, nhưng Phanxicô cảm thấy những thú vui xưa kia dần dần mất hết ý nghĩa.  Thế rồi Phanxicô đi tìm lý tưởng cao đẹp hơn.  Một hôm, lúc đang cầu nguyện trong nguyện đường Đamianô nhỏ bé, Phanxicô nghe tiếng Chúa phán ra từ cây Thánh Giá: “Phanxicô, con hãy đi sửa lại ngôi đền thờ của ta đang đổ nát!”  Phanxicô hiểu câu nói này cách nông cạn, nên tình nguyện đi xin từng viên đá đem về sửa lại các Nhà thờ cạnh Assisi.  Trong hai năm, ngài đi hành khất, sống ẩn dật và sửa sang ba nhà thờ đổ nát trong miền Assisi: nhà thờ Thánh Đamianô, nhà thờ Thánh Phêrô và nhà thờ Đức Bà Porziuncula.  Phanxicô chưa hiểu rằng, ngôi đền thờ mà Chúa muốn nói chính là Hội Thánh.

Ngày 24-2-1208, đang dự lễ, Phanxicô nghe được đoạn Phúc Âm: “Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng… Các con đừng mang theo tiền bạc, bao gậy…” (Mt 10, 10).   Phanxicô nhận ra tiếng gọi của Chúa, nên quyết tâm triệt để sống khó nghèo và theo Chúa trên con đường Thập Giá (Mt 19, 21 ; Lc 9, 1-6 ; Mt 16, 24).   Phanxicô công khai từ bỏ cha ruột của mình để thuộc trọn về Chúa.  Ngài từ bỏ những cuộc vui chơi tiệc tùng với bạn bè để đi giúp những người phung cùi, những kẻ vô gia cư và những người bị xã hội khai trừ.  Với tình yêu sự khó nghèo, Phanxicô yêu những người nghèo, những bệnh nhân.  Ngài nhìn thấy Chúa Giêsu ở nơi họ.  Ngài chỉ muốn giống Chúa Giêsu cách trọn vẹn trong khó nghèo, trong tình yêu, trong sự giảng dạy và trong đau khổ.

Lối sống của ngài thu hút trước tiên hai anh bạn đồng hương: anh Bernađô Cantavalê giàu có và anh Phêrô Catanê, nhà giáo luật.  Tiếp đó có 9 anh khác nhập đoàn.  Họ trở thành 12 “người đền tội” và lữ hành, không nhà cửa hoặc nơi cư trú cố định.  Lúc đầu Phanxicô soạn một ít quy luật sống và đã được Đức Giáo Hoàng Innôxentê III chấp thuận bằng miệng; cuối cùng, ngài viết ra bản Luật Dòng Anh em Hèn mọn và đã được Đức Giáo Hoàng Hônôriô III phê chuẩn năm 1223 bằng sắc dụ.

Phanxicô bị giằng co giữa một đời sống tận hiến cho sự cầu nguyện và một đời sống tích cực rao giảng Tin Mừng.  Và ngài đã quyết định theo đuổi đường lối sau, nhưng luôn luôn trở về sự tĩnh mịch bất cứ khi nào có cơ hội.  Ngài muốn đến truyền giáo ở Syria và Phi Châu, nhưng trong cả hai trường hợp ngài đều bị đắm tàu và đau nặng.  Ngài cũng cố gắng hoán cải các vua Hồi Giáo ở Ai Cập trong lần Thập Tự Chinh thứ năm.

Trong những năm cuối cùng của cuộc đời ngắn ngủi (ngài từ trần khi 44 tuổi) ngài gần như mù và đau nặng.  Hai năm trước khi chết, ngài được in năm dấu thánh, là những vết thương của Ðức Kitô ở tay chân và cạnh sườn của ngài. Trong giờ phút cuối cùng, ngài lập đi lập lại phần phụ thêm của Bài Ca Anh Mặt Trời, “Ôi lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì người Chị Tử Thần.”  Ngài hát Thánh Vịnh 141, và khi đã đến giờ lìa đời, ngài xin cha bề trên cho ngài cởi quần áo ra để nằm chết trần truồng trên mặt đất, giống như Ðức Giêsu Kitô.  Ngài qua đời vào tối ngày 3-10-1226.  Đức Giáo Hoàng Grêgôriô IX đã phong ngài lên bậc hiển thánh vào ngày 16-7-1228.

2. Thánh Phanxicô được nhận Năm Dấu Thánh

“Sáng tinh sương ngày 14 tháng 9 năm 1224, tức là ngày lễ Suy tôn Thánh giá, trên đỉnh Alverna đã xảy ra một phép lạ tân kỳ.  Lúc mặt trời gần dãi lên nền trời những tia sáng vàng tươi, Phanxicô quì tựa lưng vào một tảng đá, hướng về phương đông, mắt tuôn đôi hàng lệ, ngài than thở: “Lạy Chúa, trước lúc qua khỏi đời này, con chỉ xin Chúa ban cho con hai ơn: một là, xin Chúa cho tâm hồn cũng như thể xác con cảm thông hết nỗi đau đến thê thảm Chúa chịu trong giờ tử nạn; hai là, xưa kia khi Chúa tử nạn, Chúa yêu loài người tội lỗi chúng con đến độ nào, thì xin cho lòng con cũng được yêu Chúa đến độ ấy.”  Bỗng vụt như làn chớp, một thiên thần Chí ái tự trời bay xuống.  Sáu cánh chói loà.  Hai cánh phủ đầu, hai cánh dương bay và hai cánh khép che toàn thân.  Thiên thần hiện xuống đứng trên phiến đá, rõ hình một người chịu đóng đinh vào thánh giá.  Thiên thần ấy chính là Chúa Giêsu tử nạn, mặc hình người hiện đến với Phanxicô.  Ngài nhìn Phanxicô, đôi mắt như thiết tha, như thiêu cháy cả tâm hồn rồi vụt biến.  Phanxicô quỵ xuống, ngất đi.  Khi bừng tỉnh dậy, ngài thấy tay chân đã bị đinh đóng thâu qua.  Đầu đinh tròn và đen nổi rõ giữa lòng bàn tay và trên mặt bàn chân.  Đinh đóng thâu qua tay chân, mũi đinh quắp lại trên lưng bàn tay và giữa gan bàn chân.  Ngực bên phải, cạnh trái tim, dấu một lưỡi đòng đâm qua còn nguyên nét, máu chảy rìn rịt thấm ướt đến tận lớp áo ngoài.”

Phép lạ Năm Dấu là lời đáp trả ân cần của Chúa cho bao nỗi khao khát và bao nỗ lực của Phanxicô để được nên giống với Người trong cuộc thương khó.

Nhìn lên huy hiệu và khẩu hiệu của Dòng Anh Em Hèn Mọn, người ta có thể biết phần nào nền linh đạo Phan sinh.  Khẩu hiệu đó là: Caritas (Tình yêu) và huy hiệu là một thập giá với hai cánh tay bắc chéo nhau, một của Chúa Kitô và một của Thánh Phanxicô sau ngày lãnh Năm Dấu.  Nghèo khó, khiêm hạ, phục vụ vô điều kiện, yêu mến cách riêng những người nghèo khổ bé mọn … là hậu quả tất nhiên của việc thường xuyên chiêm ngưỡng thánh giá và lòng yêu mến Chúa Giêsu chịu đóng đinh. (Lm Nguyễn Hồng Giáo. ofm)

3. Phanxicô, sứ giả hoà bình

Khi thánh Phanxicô cư ngụ tại Agodio, có một con chó sói hung dữ đã xuất hiện, quấy nhiễu và gieo rắc tai họa cho mọi người.  Mỗi lần đi ra ngoài, ai ai cũng phải trang bị khí giới sẳn sàng giao chiến với con thú dữ, có người sợ đến nỗi không dám ra khỏi nhà.  Thấy vậy, ngày nọ thánh nhân quyết định đến chạm chán với con thú dữ, Ngài làm dấu thánh giá, đặt tất cả tin tưởng vào Chúa, rồi tiến thẳng đến trước mặt con vật.  Vừa thấy thánh nhân, con vật nhe răng và chuẩn bị tấn công, nhưng thánh nhân không lùi bước.  Ngài tiến lại gần, làm dấu thánh giá và gọi nó lại.  Ngài nói với nó như trò chuyện với một con người: Này anh sói, anh lại đây, nhân danh Chúa Kitô tôi truyền cho anh đừng hãm hại ai nữa.”

Như một phép lạ, con chó sói hung dữ ngoan ngoãn khép miệng lại và quấn quýt bên thánh nhân, thánh nhân lại tiếp tục bài giảng: “Này anh sói, anh đã gây ra không biết bao thiệt hại cho vùng này, anh giết hại những tạo vật của Chúa mà không có phép Ngài, anh không những sát hại súc vật mà còn giết hại cả loài người là hình ảnh của Thiên Chúa nữa, anh đáng bị trừng phạt vì tội giết người, ai cũng ca thán kêu ca vì anh.  Nhưng tôi, tôi muốn giảng hoà giữa anh và họ để anh không còn hãm hại ai nữa.”

Thánh nhân vừa nói xong những lời đó thì con sói vặn mình ra chiều sám hối và chấp nhận đề nghị của Ngài, thánh nhân nói tiếp:  “Này anh sói, hẳn anh thích được làm hoà với mọi người.  Tôi hứa rằng: bao lâu anh còn sống anh sẽ không bị đói khát nữa, anh có hứa với tôi là sẽ không hãm hại bất cứ người và vật nào nữa không?  Con vật cúi đầu như đoan hứa, thánh nhân đặt tay trên nó và đại diện cho thị dân Agodio long trọng cam kết những lời Ngài vừa hứa với con chó sói.”

Con chó sói đã được sống 2 năm tại Agodio, ngày ngày ra vào bất cứ nhà nào như chính nhà của nó, nó không làm hại ai mà cũng chẳng ai hãm hại nó, sau 2 năm, con vật qua đời giữa tiếng thương khóc của dân Agodio.

Giai thoại về con chó sói Agodio và bài ca vạn vật của thánh Phanxicô chứng minh ngài là hiện thân của hoà bình, là sứ giả của bất bạo động.  Ngài giao hòa với vạn vật, với thiên nhiên, với chim trời, với núi rừng, với không khí, với nước non.  Chỉ với một tâm hồn thanh thản và hài hoà với thiên nhiên với con người như thế mới có thể xây dựng hoà bình.  Thánh Phanxicô chính là vị sứ giả hoà bình.

Tình huynh đệ của Phanxicô không dừng lại nơi loài người, nhưng còn nới rộng ra tới mọi tạo vật, sống động cũng như vô tri vô giác trong vũ trụ.  Ngài không coi tạo vật là xấu xa, nguy hiểm phải đề phòng.  Ngài cũng không có thái độ chủ nhân ông, nhìn tạo vật chỉ là đối tượng cho mình khai thác tùy thích.  Nhưng ngài thiết lập một mối quan hệ thân ái, hài hòa với mọi vật.  Ngài đã sáng tác “Bài ca vạn vật” để ca ngợi mọi công trình tạo dựng của Thiên Chúa: mặt trời, mặt trăng, tinh tú, gió, nước, lửa, trái đất với ngàn hoa, cây cỏ và trái trăng.  Ngài gọi tạo vật là anh, chị: anh Cá, anh Chim, chị Trăng, chị Nước… không chỉ theo nghĩa thi phú, mà theo một cảm nghiệm sâu xa rằng tất cả đều là công trình của Cha trên trời và mang dấu ấn của tình thương.

Phanxicô muốn người ta quí chuộng thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên; ngài dạy các môn đệ mình khi đốn cây sử dụng theo nhu cầu, thì đừng chặt tận gốc, để cây còn có thể đâm chồi mới.  Con người thời đại chúng ta có thể học biết bao nhiêu điều nơi thái độ của thánh nhân.  Chắc chắn Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nghĩ như thế khi ban Tông Thư ngày 29-9-1979 công bố thánh Phanxicô là bổn mạng các nhà môi sinh học.  Suốt cuộc đời, Thánh Phanxicô luôn quan niệm sống là sống với, sống chung chan hòa với con người và muôn tạo vật.

Lạy Chúa, nhờ lời cầu bầu của thánh Phanxicô, xin cho chúng con biết yêu chuộng hoà bình, hòa bình với mọi người và nhất là với những người đối nghịch với chúng con. Xin cho lời kinh Hoà Bình mà thánh Phanxicô để lại được thấm vào tim, vào phổi, vào khối óc của chúng con biến chúng con thành người sứ giả hoà bình của Chúa. Amen.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

 

HÌNH ẢNH MẸ TÊRÊXA ĐỐI VỚI TÔI

HÌNH ẢNH MẸ TÊRÊXA ĐỐI VỚI TÔI

Cố GS Trần Duy Nhiên


“Một suy nghĩ hướng đến tha nhân.  Cách thức mà chúng ta thinh lặng, lắng nghe, tha thứ, nói năng và hành động.  Đấy là những giọt dầu chân chính giúp cho ngọn đèn chúng ta cháy mãi suốt cuộc đời mình.” Mẹ Têrêxa.

Ngày 5 tháng 9 năm 1997, một vĩ nhân đã ra đi….. Vâng, Mẹ Têrêxa thành Calcutta đúng là vĩ nhân của thế kỷ XX nếu ta nhớ lại rằng Mẹ đã nhận được Giải Nobel Hoà Bình năm 1979, và ngày qua đời Mẹ được một vinh dự mà chưa một vĩ nhân nào có được: ba nước trên thế giới chịu quốc tang, đó là Ấn Độ, Anbani và Hoa Kỳ.

Mẹ có dịp qua Việt nam hai lần, năm 1994 và năm 1995, và hai lần đó, tôi được may mắn tiếp kiến mỗi lần gần một giờ.  Lạ lùng thay, hình ảnh Mẹ để lại trong tôi không có gì là của một vĩ nhân cả, mà của một người khiêm nhường đến độ quên đi bản thân mình.  Tôi không còn nhớ Mẹ đã nói gì với tôi, nhưng Mẹ để lại hai hình ảnh vẫn còn theo tôi cho đến ngày hôm nay.

Điểm đầu tiên gây ấn tượng là cảm thức về Thiên Chúa nơi Mẹ.  Khi đến Việt nam, Mẹ tạm trú trên lầu 3, tại 38 Tú Xương.  Người ta dành một phòng cho Mẹ và một phòng cho ba nữ tu theo Mẹ (trong số đó có vị Bề Trên tổng quyền hiện nay là Sr Nirmala Joshi).  Thế nhưng Mẹ đã biến phòng của mình thành nhà nguyện với sự hiện diện của Mình Thánh Chúa, rồi cùng chia sẻ với ba chị em phòng còn lại.  Mẹ đã hẹn anh chị Soi và tôi đến gặp Mẹ lúc 11 giờ trưa.

Đúng hẹn, chúng tôi lên lầu 3.  Vì không có chỗ tiếp khách, Sr. Nirmala mời chúng tôi ngồi ở hành lang và Mẹ ra tiếp chúng tôi tại đấy.  Sau nụ cười chào đáp, Mẹ chỉ ngay vào nhà nguyện và bảo: “Chúa kìa”, với một thái độ tự nhiên giống như một bà mẹ bảo con mình chào ông ngoại khi đi đâu về.  Mẹ vào quì trước Thánh Thể với chúng tôi một vài phút trước khi bắt đầu câu chuyện.  Và cuối buổi nói chuyện, Mẹ cũng chỉ vào nhà nguyện bảo chúng tôi chào Chúa trước khi ra về.  Thái độ mẹ đơn sơ như thể Chúa luôn có mặt bằng xương bằng thịt ở bên Mẹ.  Cái cảm thức về Chúa nơi Mẹ rõ rệt đến độ tôi có cảm giác rằng nó hùng biện hơn bất cứ bài giảng nào của bất cứ ai nói về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể.

Điểm thứ hai gây ấn tượng là cách nói chuyện của Mẹ.  Mẹ không nói chuyện với ba người, mà nói với từng người một.  Mẹ cúi mình xuống và nhìn lên với cái nhìn thật trân trọng, cứ như là Mẹ muốn tiếp thu một bài học nào đó từ người đối thoại mà quên mất mình là ai.  Nói chuyện với Mẹ mà trong đầu tôi cứ lờn vờn hình ảnh của Chúa Giêsu quì xuống rửa chân cho môn đệ mình.  Qua thái độ lắng nghe và ánh mắt, Mẹ đã cho người đối thoại thấy rằng mình vô cùng giá trị…  Có những cái nhìn đè bẹp người người đối thoại và làm cho họ trở nên nhỏ bé và đầy mặc cảm; có những cái nhìn làm cho người đối diện lớn lên và tự hào về giá trị của mình: Mẹ Têrêxa là người có cái nhìn thứ hai đó.

Mẹ Têrêxa thành Calcutta! Một danh xưng đem tự hào về cho Giáo Hội, cho các quốc gia của Mẹ, cho toàn thể nhân loại.  Thế nhưng qua hai lần gặp gỡ, tôi không bị choáng ngộp vì một vĩ nhân, mà chỉ đọc được nơi Mẹ một Kitô hữu điển hình: một người “đã hóa mình ra không” trước mặt Thiên Chúa và trước mặt anh chị em nhân loại, dù cho người ấy có thấp hèn đến đâu.
Ngày 19 tháng 10 năm 2003, Mẹ được nâng lên hàng chân phước.  Mẹ là người được phong chân phước nhanh nhất trong lịch sử giáo hội: vỏn vẹn 6 năm sau ngày qua đời.  Tuy nhiên, Giáo Hội chỉ chính thức hóa một điều mà mọi người gặp Mẹ đã công nhận từ lâu:  Mẹ quả là hình ảnh sống động của Chúa Kitô trên thế gian này.

Giờ này Mẹ đã về bên Chúa, tôi bỗng nghĩ đến 4690 nữ tu Thừa Sai Bác Ái đang tiếp tục sống đời sống ,”Kitô hữu mẫu mực” của Mẹ tại 710 nhà trong 132 nước trên thế giới.  Bất giác tôi nhớ lại lời Mẹ dặn: “Con hãy cảm tạ Chúa cùng với Mẹ, vì Việt Nam là nước thứ 100 mà các Thừa Sai Bác Ái hoạt động và nhà tại Việt Nam là nhà thứ 500 của họ”.  Tôi không biết sau 2 năm hiện diện tại Việt Nam, các Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái của Mẹ Têrêxa có được gia hạn giấy phép hoạt động hay không.  Nếu không được thì kể cũng xót xa cho Giáo Hội tại Việt Nam đấy.  Nhưng dù các con của Mẹ có hoạt động công khai hay âm thầm, thì Mẹ vẫn còn sống mãi trong họ để tiếp tục khẳng định cho mọi người mà họ gặp gỡ: Chúa đang sống cạnh bạn và Ngài tôn trọng bạn với trọn vẹn trái tim yêu thương của Ngài.

Để kết thúc những cảm nhận này, tôi ghi lại đây một chuyện nhỏ.  Khi trao đổi danh thiếp với nhau, Mẹ cho biết rằng mình không bao giờ có danh thiếp.

Sr. Nirmala trình cho Mẹ ‘danh thiếp’ sau đây với những lời vàng ngọc của Mẹ.  Mẹ cầm bút viết lời chúc phúc, rồi trao cho tôi như một kỷ vật:

(1) Ghi chú: Trên “danh thiếp” có hàng chữ viết tay God Bless you (Xin Chúa chúc lành cho con) và chữ ký của Mẹ.  Tác giả cũng đã dịch những hàng chữ trên ra tiếng Việt như sau:

The fruit of SILENCE is Prayer
The fruit of PRAYER is Faith
The fruit of FAITH is Love
The fruit of LOVE is Service
The fruit of SERVICE is Peace.
( Hoa quả của THINH LẶNG là Cầu Nguyện
Hoa quả của CẦU NGUYỆN là Ðức Tin
Hoa quả của ÐỨC TIN là Tình Yêu
Hoa quả của TÌNH YÊU là Phục Vụ
Hoa quả của PHỤC VỤ là Bình An )

(Kỷ niệm 6 năm ngày Mẹ Têrêxa Calcutta về thiên quốc)

Trần Duy Nhiên

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Thánh Luy Thứ Chín (St. Louis IX)

Thánh Luy Thứ Chín (St. Louis IX)

(1214 – 1270)

VỊ VUA THÁNH THIỆN, BỔN MẠNG DÒNG PHAN-SINH-TẠI-THẾ

Các thánh là những con người đã biết tín thác nơi Chúa, đã biết trông cậy ở nơi Chúa thật nhiều, nên các ngài nhận được nhiều.

Thánh Luy IX, Vua nước Pháp cũng không nằm ngoài thông lệ ấy.  Thánh nhân sinh năm 1214 tại Poissy, nước Pháp.  Cha Ngài là Vua Luy VIII.  Mẹ ngài là Hoàng Hậu Blanche de Castille.  Nhờ sống trong một gia đình đạo đức, cho dù cha mẹ của ngài là Vua, là Hoàng Hậu nước Pháp nên dù sống trong cảnh giầu sang, phú quý và có quyền hành nhưng chính đời sống của mẹ ngài đã gây ấn tượng lớn lao trong đời sống của Luy.  Mẹ ngài đã uốn nắn, dậy bảo Luy bằng đời sống thánh thiện của bà.  Thánh nhân đã được mẹ gieo vào tâm hồn những mầm mống đạo đức, thánh thiện suốt cả đời niên thiếu.  Đến lúc trưởng thành, vào đời, thánh nhân luôn luôn nhắc đi nhắc lại lời mẹ nhắn nhủ, bảo ban : “Mẹ thà thấy con chết trước mặt mẹ, còn hơn thấy con của mẹ phạm tội trọng”.

Thánh nhân lên ngôi Vua kế vị cha lúc mới 12 tuổi đời.  Năm 19 tuổi, thánh nhân kết hôn với Marguerite, con gái quận công miền Provence.  Hai ông bà sinh hạ cả thảy 11 người con.  Với cương vị Vua lãnh đạo, trị vì nước Pháp, Luy luôn tỏ ra công chính, liêm khiết, ngay thẳng, hết mực thương dân chúng, đặt quyền lợi của Tổ Quốc và Giáo Hội lên trên những lợi ích cá nhân và danh vọng riêng tư.  Thánh nhân dù là Vua nhưng đời sống lại không khác gì một thầy Dòng khổ tu : sáng tham dự Thánh Lễ, đọc kinh nguyện, xưng tội và đánh tội mỗi tuần.  Đời sống của Vua Luy thật sự là một đời sống tín thác, trông cậy và yêu mến Chúa.  Ngài tuyên khấn theo lối sống Dòng Phan-sinh-tại-thế và tuân giữ luật khó nghèo, yêu mến Chúa và tha nhân.  Để thể hiện lòng yêu mến ấy, thánh nhân đã thật sự sống Lời Chúa trong Tin Mừng thánh Matthêu 25:31-46.  Ngài đã tìm dịp để giúp đỡ những kẻ nghèo, thăm viếng và nâng đỡ những người đau yếu tật nguyền.  Ngưỡng vọng của ngài là ở trên trời chứ không ở dưới thế.

Thánh nhân đã lập Đạo Binh Thánh Giá đi chiến đấu với quân phá đạo ở Giêrusalem.

Ngài đã xây một đền thờ sau khi chinh chiến trở về để tôn kính mão gai Chúa Giêsu do Vua Constantin trao lại cho ngài.  Năm 1270, thánh nhân còn thiết lập một Đạo Binh Thánh Giá mới để chống lại quân Hồi Giáo đang hung hăng tàn sát đạo.  Tuy nhiên một cơn dịch nặng nề đã khiến Đạo Binh của ngài tan rã và thánh Luy đã lâm trọng bệnh, trở về nhà Cha vào ngày 25 tháng 8 năm 1270.

Chúa mời gọi mọi người nên thánh.  Đường nên thánh không chỉ dành riêng cho giới tu sĩ được đặc tuyển, nhưng con đường nên thánh là của mọi người.  Từ thứ dân đến Vua Chúa thế trần đều được Chúa mời gọi sống thánh thiện và trở nên thánh.

“Lạy Thánh Luy,

xin cầu bầu cùng Chúa cho chúng con

để chúng con hiểu rằng dù bất cứ sống ở vai trò nào,

con người vẫn được mời gọi nên thánh.

Amen.”

Sưu Tầm

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

QUÁ KHỨ VÀ TƯƠNG LAI CỦA MỘT VỊ THÁNH

QUÁ KHỨ VÀ TƯƠNG LAI CỦA MỘT VỊ THÁNH

(LỄ THÁNH AUGUSTINÔ)

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Mỗi khi mừng kính một vị thánh nào đó, thường chúng ta hay kể về những nhân đức trổi vượt, những chuyện phi thường, công danh hiển hách… nơi các ngài. Tuy nhiên, phụng vụ hôm nay mừng kính một vị thánh có thể nói là “rất khác” với các đấng thánh khác. Ngài là một con người lêu lổng, phóng túng, ăn chơi trác táng, ngang tàng, khó dạy… Đỉnh điểm là việc công khai chống đức tin và Giáo Hội khi theo chủ thuyết Manichê (Nhị Nguyên). Điều đáng nói là con người bất hảo đó đã được ơn trở lại với Chúa và sau này làm thánh lớn trong Giáo Hội. Từng là linh mục, giám mục, và sau được Giáo Hội phong làm giáo phụ rồi tiến sĩ. Sự trở lại của ngài lại không phải là những bài giảng hút hồn của một ai đó, hay là từ sách vở với những triết lý thuyết phục, nhưng lại ngang qua sự tận tụy, hy sinh trong cầu nguyện và nước mắt của một người mẹ nghèo, đơn sơ, giản dị và “rất quê”.

Thánh đó chính là Augustinô, và người cảm hóa chính là thánh Mônica mẹ ngài, mà chúng ta mừng kính hôm qua.

1. Augustinô và những “điển tích” trong tội

Đọc trong cuốn tự thuật của thánh nhân, chúng ta nhận thấy ngài là một con người tội lỗi ngập đầu. Những tội mà Augustinô phạm phải có thể nói rằng nó thuộc nhóm tội “hạng nặng” và rất khó phục hồi.

Thật vậy, ngay từ khi còn nhỏ, Augustinô đã tỏ ra là một người sáng trí, thông minh và đầy triển vọng. Tuy nhiên Augustinô không phải là một con người thuần túy, vì thế, Augustinô cũng còn nổi tiếng “chơi trội” trong vấn đề ham chơi hơn là thích học, hay lừa dối cha mẹ, thầy cô và thường gây hấn, đánh đập bạn bè. Lúc thiếu thời, Augustinô đã có những hành động gian lận trong việc trộm cắp đồ đạc của gia đình để bán đi lấy tiền tiêu xài, phung phí vào những chuyện không tốt.

Khi lớn lên, đến tuổi vị thành niên, Augustinô vẫn tính nào tật đó. Vì thế, càng thêm tuổi, Augustinô lại càng ngang ngược cách quyết liệt hơn.

Thương con và muốn con thành đạt, trở nên người lương thiện và giúp ích cho đời.  Vì thế, cha mẹ Augustinô sẵn lòng cho ngài theo đuổi việc học tới cùng. Augustinô được gửi tới kinh thành Carthage để theo học môn hùng biện. Hy vọng với một môi trường mới, bạn bè mới, thầy cô mới sẽ làm cho Augustinô đổi thay.

Tuy nhiên, đôi lúc sự thật vẫn không diễn ra theo ý của mình. Ngựa quen đường cũ! Không những không trở nên tốt hơn, nhưng Augustinô còn lún sâu và trượt dài trên con đường trác táng bởi nếp sống trụy lạc, sa đoạ nơi đây. Thay vì trở về với Chúa và con đường lương thiện, thì tại đây, Augustinô đã hoàn toàn đánh mất đức tin vào Chúa, không tin Giáo Hội và phỉ báng, bác bỏ các chân lý đức tin của Đạo Thánh.

Điều này được thể hiện rõ nhất khi Augustinô công khi tin và theo chủ thuyết Manichê (Nhị Nguyên). Đây là chủ thuyết lạc giáo chống lại Giáo Hội thời bấy giờ. Không những thế, Augustinô còn hiên ngang xa đà vào con đường dục vọng khi ăn ở và chung chạ với hai người con gái ngoài hôn thú.

Sự ngông cuồng, ngang ngược của Augustinô chứng minh cho thấy, bản chất của ngài là thích tự do, không bị ràng buộc. Thế nên, chúng ta không lạ gì khi ngài quyết định đi sang Milanô nước Ý để tránh sự theo dõi và chăm sóc của người mẹ. Tại đây, ngài tiếp tục đi theo con đường tội lỗi để chạy theo danh vọng, phù hoa và khoái lạc.

Trên đây chính là sự thật về cuộc đời của thánh Augustinô mà chính ngài đã kể lại trong cuốn “Tự Thuật”. Có lẽ nhiều người nghe thấy cuộc đời của một vị thánh lừng danh mà lại có những năm tháng đen tối kinh hoàng trong tội, hẳn đã không chấp nhận và tin nổi tại sao lại có thể trở thành đấng “rất thánh” trong khi còn trẻ thì lại “rất đời”!

Tuy nhiên, điều mà con người tưởng chừng như không thể, thì Thiên Chúa lại hoàn toàn có thể: “Vì không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được”.

2. Augustinô và cuộc đổi đời

Khi nói đến cuộc đổi đời của thánh Augustinô, chúng ta không thể không nhắc đến mẫu gương cầu nguyện và hy sinh của người mẹ là thánh Mônica.

Mẹ ngài là một người đức hạnh, luôn yêu thương, hy sinh và chấp nhận tất cả cho chồng và con để xây dựng hạnh phúc gia đình. Không chỉ dừng lại ở đấy, bà còn thao thức và trăn trở tột cùng khi thấy con mình đang xa dần sự sống đời đời là ơn cứu độ.

Vì không muốn con mình bị trầm luân trong tội và mất hạnh phúc Thiên Đàng, nên bà đã cầu nguyện trong chay tịnh và nước mắt, đồng thời theo con đến tất cả mọi ngóc nghách hầu mong sao cho con mình được ơn trở lại.

Quả thật, Thiên Chúa đã ân thưởng và ban tặng cho bà ân huệ lớn lao: Augustinô được ơn trở lại với Chúa và Giáo Hội. Vào thứ bảy Tuần Thánh năm 387, Augustinô được lãnh Bí tích Thánh Tẩy cùng với con trai là Adéodat và bạn của Ngài là Alipius.

Từ khi trở thành người Công Giáo, Augustinô đã hoàn toàn đổi mới về tư duy, lối sống và chọn lựa:

Nếu trước kia, Augustinô là một con người không có gì để khen, thì nay, nhờ sự trở lại, ngài đã được nhiều thế hệ ca ngợi.

Nếu trước kia Augustinô là người lớn lên trong tội, sống trong tội, vương vấn tội lụy trần ai, thì giờ đây ngài là một con người tốt lành thánh thiện. Ngài yêu mến Thiên Chúa đến say mê, đến nỗi khi cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình, ngài đã thốt lên: “Lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng!”; và “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, linh hồn con luôn khắc khỏai cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa. Song song với việc yêu mến Chúa, ngài còn yêu con người đến mức anh hùng. Vì thế, ngay sau khi mẹ ngài qua đời, ngài trở về Carthage và bán hết tài sản để cho người nghèo.

Nếu trước kia Augustinô là người phản đạo Công Giáo, đi theo tà thuyết, thì giờ đây, ngài trở thành người bảo vệ đức tin Công Giáo trong vai trò là tu sĩ, linh mục, giám mục. Nhất là qua những tác phẩm thế giá về triết học, thần học, chú giải Thánh Kinh…

Đây phải nói là những nguồn tài liệu phong phú và giá trị trong việc hộ giáo, củng cố đức tin và góp phần đào tạo hàng ngũ linh mục sau này.

Cuộc đời tại thế của thánh nhân được khép lại ngày 28 tháng 8 năm 430 tại Hippôn, hưởng thọ 76 tuổi.

Là kitô hữu lúc 33 tuổi, làm linh mục lúc 36 tuổi, được tấn phong giám mục lúc 41 tuổi, cuộc đời của thánh nhân có thể gồm tóm trong một câu: “Một tội nhân trở thành thánh nhân”.

Như vậy, chúng ta thấy: “Thánh nhân nào cũng có quá khứ, tội nhân nào cũng có tương lai”.

Mừng lễ thánh Augustinô hôm nay, chúng ta học được bài học từ sự kiên trì, hy sinh trong nước mắt và cầu nguyện của thánh Mônica. Tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa vì: “Đối với con người thì không thể, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể”.

Chúng ta cũng không bao giờ thất vọng đến độ không dám chạy đến với lòng thương xót của Chúa, để được gội rửa, hầu trở nên trong sạch, để làm lại cuộc đời trong ân sủng của Thiên Chúa. Hãy cậy trông, phó thác và tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa, vì ơn cứu độ của chúng ta nhờ vào hy vọng.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết dâng những hy sinh và lời cầu nguyện cho những người tội lỗi được ơn trở lại. Xin Chúa cũng ban cho chính chúng con được trở về với Chúa từng ngày, để không bị rơi vào thất vọng và mất niềm tin. Amen.

Tác giả: Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

THÁNH NỮ MÔNICA: NGƯỜI MẸ TUYỆT VỚI

THÁNH NỮ MÔNICA: NGƯỜI MẸ TUYỆT VỚI

(LỄ THÁNH MÔNICA)

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Image result for picture of saint monica

Đối với văn hóa của người Á Đông thì vai trò người phụ nữ luôn bị giảm nhẹ. Từ quan niệm trên, người phụ nữ đôi khi bị coi thường. Chính vì vậy, bản thân người phụ nữ cũng trở nên tự ty, co cụm lại trong những công việc như nội chợ, cơm núc…  Nói chung là lo những chuyện lặt vặt trong nhà.

Tuy nhiên, hôm nay, phụng vụ mừng kính một vị thánh nữ là vợ, là mẹ trong gia đình. Ngài được biết đến bằng những chuyện bình thường nhưng đã thi hành cách phi thường. Mang trong mình phận gái:“liễu yếu đào tơ”, nhưng cuộc đời và lối sống ngang qua những hành động, hẳn ngài thật giống một: “đấng nam nhi” hay “bậc anh hùng hảo hán”.

Con người đó là ai? Thưa! Ngài chính là thánh nữ Mônica, mẹ của thánh giám mục Augustinô.

Thật vậy, cuộc đời của ngài đã trở nên tấm gương: anh dũng, can trường, nhân hậu, hiền từ, kiên trì, trung thành trong đời sống thường ngày, nhất là  gương hy sinh và cầu nguyện.

Mừng lễ thánh Mônica, chúng ta cùng nhau tìm hiểu cuộc đời của thánh nhân, để ngang qua đó, như một bài học cho đời sống đức tin của chúng ta.

1. Thân thế cuộc đời thánh Mônica

Gia đình của thánh nữ Mônica không có gì nổi nang trong làng. Cha mẹ ngài là những người bình dân nhưng đạo hạnh, hay thương người. Thánh nữ sinh năm 332, tại làng Sucara bên Phi Châu.

Ngay từ nhỏ, Mônica đã được hấp thụ truyền thống đạo đức, và một nền giáo dục có thể nói là “linh đạo tình yêu”. Những đặc tính như: nhân từ, hiền hậu, thương người là nét đẹp nơi gia đình của thánh nhân mà ngài được thừa hưởng.

Quả thật, tấm lòng quảng đại, yêu thương người nghèo dường như đã thường trực trong tâm hồn cô, khiến cô không thể ngồi yên và no bụng trong khi nhiều người chung quanh mình phải đói khát! Vì thế, mỗi bữa cơm Mônica thường dành ra một phần cho kẻ khó nghèo. Việc chia sẻ cho kẻ nghèo đã làm cho Mônica coi là niềm hạnh phúc của mình vì được diễm phúc đụng chạm, gặp gỡ trực tiếp Thiên Chúa ngang qua những người kém may mắn đó.

Một điểm đáng lưu ý khác nữa là Mônica thường xuyên ẩn mình nơi vắng vẻ để thân mật, cầu nguyện với Chúa lâu giờ.

Tuy nhiên, tưởng chừng một con người đạo hạnh như Mônica, ắt phải được tận hưởng một cuộc sống bình yên, hạnh phúc! Ai ngờ cô lại gặp phải cảnh éo le và truân chuyên quá đỗi!

Năm 22 tuổi, vì vâng lời cha mẹ, Mônica đã kết hôn với Patricius. Chồng cô thuộc dòng dõi quý tộc. Vì thuộc về thành phần giàu sang trong làng, nên ngay từ khi còn nhỏ, chàng Patricius đã được nuông chiều thái quá, dẫn đến tình trạng ngang tàng, hách dịch, nghiện rượu, tính tình nóng nảy và không chung thủy, độc ác và tàn nhẫn…. Ông luôn tỏ vẻ khó chịu mỗi khi thấy vợ làm từ thiện và cầu nguyện.

Hơn nữa, sẵn có lợi thế con nhà giàu, lại hơn tuổi của Mônica quá nhiều, nên Patricius thường xuyên thể hiện vai trò chủ – tôi đối với cô. Mặt khác, cô lại còn phải chịu cảnh hất hủi của mẹ chồng. Điều làm cho cô Mônica buồn nhất, đó là bà lại hùa theo con trai để bênh vực chủ trương không tôn giáo và đời sống phóng khoáng, tự do cho Patricius. Vì những lý do đó, cuộc sống gia đình của Mônica gặp rất nhiều khó khăn, đau khổ.

Thêm vào đó, sau khi sinh được Augustinô, người con trai đầu lòng, bà vui mừng phấn khởi, nhưng chẳng bao lâu, Augustinô buông theo lối sống của cha, nên cũng trở nên lêu lổng, phóng túng…

Nhưng khi gặp những nghịch cảnh ngập đầu, Mônica không hề oán trách, nhưng ngài đã tìm ra những liều thuốc giải độc tốt nhất cho linh hồn mẹ chồng, chồng và các con, đó là sự hy sinh, lời cầu nguyện liên lỷ, cộng thêm những đức tính tuyệt vời như  lòng bác ái, tình yêu thương, tinh thần quả cảm, đức tính khiêm nhường, và vững tin vào Chúa. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi Mônica vẫn một lòng yêu mến, kính trọng chồng và mẹ chồng; lại luôn sống làm gương sáng cho các con; yêu thương giúp đỡ dân làng.

Vì vậy, mưa dầm thấm lâu. Thiên Chúa đã thưởng công Mônica, đó là mẹ chồng và Patricius đã xin Rửa Tội và tin theo Chúa. Còn Augustinô đã chia tay bè rối Manichê (Nhị Nguyên) là một tà thuyết chống lại Giáo Hội và đức tin của Công Giáo mà ông đã dồn toàn tâm toàn trí trong suốt chín năm trường. Sau đó ngài được Rửa Tội. Hai người con còn lại là Navigio và Perpetua cũng xin chịu phép Thanh Tẩy và gia nhập Giáo Hội Chúa. Sau này cả hai đã đi tu dòng.

Niềm vui tột cùng đó đã làm cho Mônica thốt lên với Augustinô trong những giây phút cuối đời: “Con ơi, không gì trên thế gian này làm mẹ vui. Mẹ không biết có gì còn lại cho mẹ làm hoặc tại sao mẹ lại vẫn ở đây, mọi hy vọng trên thế gian này mẹ đã được mãn nguyện”.

Cuối năm 387, khi mẹ con đang chuẩn bị trở về quê hương là Phi Châu, thì Thiên Chúa đã gọi Mônica về với Ngài, hưởng thọ 56 tuổi. Thánh nữ được chôn cất tại Ostite và sau được dời về Rôma vào năm 1430.

2. Gương sáng của thánh nhân

Cuộc đời và gương sáng của thánh nhân cho chúng ta thấy rằng: ngài đã “làm những chuyện bình thường cách phi thường”. Tại sao vậy?

Trước tiên: là chu toàn bổn phận. Chu toàn bổn phận cách trung thành, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác thì quả là anh hùng. Ngài đã hoàn thành sứ mạng Chúa trao trong ơn gọi làm vợ và làm mẹ. Làm vợ, thánh nhân đã hết lòng quý trọng, yêu thương và trung thủy với chồng. Làm mẹ, thánh nhân hết mực yêu thương, hy sinh cho con cái. Tận tụy giáo dưỡng con cái nên người. Khi không được như ý của mình, ngài vẫn không bỏ cuộc. Thánh nhân đã cầu nguyện và hy sinh liên lỷ cho con. Nhờ đó mà ngài đã cải hóa được Augustinô trở về với Chúa và phục vụ Giáo Hội.

Thứ đến: là cảm hóa bằng gương sáng. Khi bị ngược đãi bởi mẹ chồng và chồng, thánh nhân đã nêu cao gương khiêm nhường, yêu thương và tha thứ. Sẵn lòng thông cảm cho tính khí của mẹ và chồng. Yêu thương, phục vụ, khiêm nhường và tha thứ là lựa chọn của thánh nhân trong những lúc khó khăn và gặp chuyện chẳng lành.

Thứ ba: là mẫu gương cầu nguyện và hy sinh. Thánh nhân đã kết hợp với Chúa cách liên lỷ và hoàn toàn phó thác nơi Ngài.

Cuộc đời của ngài với những biến cố vui buồn, thành công hay thất bại đều kết hợp với Chúa. Ngài luôn phó thác mọi sự trong sự an bài của Thiên Chúa.

Thứ tư: là sự kiên trì và trung thành. Kiên trì trong cầu nguyện. Trung thành trong niềm tin, dù nhiều khi phải quặn đau.

Quả thật, cả cuộc đời của thánh nhân đã để lại cho chúng ta gương sáng tuyệt vời nơi những người vợ, người mẹ và cho hết mọi người.

3. Bài học cho chúng ta

Mỗi khi mừng lễ thánh Mônica, chúng ta hãy học nơi ngài những gương sáng để xây dựng hạnh phúc gia đình ngày càng tốt đẹp.

Bài học thứ nhất:

Chu toàn bổn phận hằng ngày trong lòng mến. Làm những việc tầm thường cách phi thường trong sự kết hợp với Chúa và phó thác cho Ngài.

Bài học thứ hai:

Biết dùng gương sáng như công cụ số một để cảm hóa người khác, nhất là người đó lại là người ngang tàng mất nết…

Bài học thứ ba:

Cần xác định thật rõ:“mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Làm mọi việc trong tâm tình tín thác. Đón nhận tất cả, miễn sao điều đó đẹp lòng Chúa và ích lợi cho phần hồn mọi người.

Bài học thứ tư:

Đó là sự kiên trì, trung thành. Đời sống đức tin của chúng ta cần có những nhân đức này. Nếu không kiên trì, chúng ta dễ bỏ cuộc. Không kiên trì khó có thể trung thành.

Lạy Chúa, xin nhận lời thánh nữ Mônica chuyển cầu mà ban cho chúng con, nhất là những người vợ, người mẹ trong các gia đình luôn có đời sống thánh thiện, hiền lành, yêu thương và nhẫn nhục, kiên trì và trung thành, tin tưởng và phó thác nơi Chúa như thánh Mônica khi xưa. Amen.

Tác giả: Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

THÁNH CLARA ĐỒNG TRINH

THÁNH CLARA ĐỒNG TRINH

Thánh Clara sinh năm 1193 tại Assisi miền Umbria, thuộc dòng họ danh giá Offreducciô.  Người ta nói thánh nữ sinh ra với nụ cười trên môi và không bao giờ thấy Ngài khóc. Ngài dành nước mắt để tưới chân Chúa Giêsu chịu đóng đinh.  Khi nghe biết một thanh niên giàu có đã trở nên người nghèo thành Assisi, người thiếu nữ danh giá cảm kích trước mẫu gương của thánh nhân – thánh Phanxicô Assisi.  Trong khi gia đình nhắm cưới gả cho nàng, thì nàng chỉ nhắm đến cuộc sống sám hối khiêm hạ.  Sau khi nghe bài giảng của thánh nhân, Ngài đã đi tới quyết định dâng hiến đời mình cho Chúa.

Khi ấy thánh Clara 18 tuổi.  Vào ngày Lễ Lá, 18 tháng 3 năm 1212, thánh nữ ăn mặc sang trọng tới nhà thờ chính tòa dự lễ.  Theo thói quen, các bà tiến lên nhận lá từ tay Đức Giám mục.  Hôm ấy Clara quá xúc động, khiến chính Đức Giám mục phải rời ghế đưa lá đến cho Ngài.  Chiều về, Ngài đã cùng với một người bạn lén bỏ nhà theo lối cửa hậu rồi theo ánh đuốc tới gặp thánh Phanxicô tại Porsiuncula…  Giai thoại thật cảm động, một cô gái 18 sang trọng đã bỏ tất cả những gì là quen thuộc và an toàn để đi theo Đấng vô hình, còn Phaxicô 30 tuổi không có lấy một xu dính túi đã nhận lấy trách nhiệm về cả tinh thần lẫn vật chất đối với cô.  Giữa đêm xuân trong rừng cây và dưới ánh đuốc của đoàn anh em, Clara buông xõa mái tóc huyền trên bàn thờ cho Phanxicô cắt bỏ.  Hành động hoàn toàn ngoại lệ và không một chút quyền hạn theo giáo luật.  Phanxicô đã lãnh bản ly biệt của Clara đối với thế gian, rồi gởi cô vào một nữ tu viện Beneđictô gần đó.

Biến cố nổ lớn làm cả thành phố xúc động.  Thế gian kết án Clara.  Ông Monaldo, cậu của thánh nữ đến nhà dòng bắt thánh nữ về, nhưng Ngài ôm cứng chân bàn thờ quyết chọn Chúa mà thôi.  Phanxicô dẫn thánh nữ tới một nữ tu, tu viện Bênêdictô khác, cùng với em của mình là Anê.  Sau cùng Phanxicô thiết lập cộng đoàn cho Clara.  Một tu viện tại San Đamianô, nơi đây bà Ortolanta, mẹ của thánh nữ cũng nhập dòng.  Trong một thời gian cộng đoàn độc lập như những người hành khất đầu tiên. Phanxicô viết cho cộng đoàn một bản luật sống vắn gọn, đòi kỷ luật gắt gao và chay tịnh khắc khổ. Năm 1215 Phanxicô đặt Clara làm tu viện trưởng và có lẽ đã trao cho Ngài một bản luật dòng thánh Bênêđictô.

Vào những năm cuối đời thánh Phanxicô, mọi liên hệ với San Đamianô bị gián đoạn.  Câu chuyện hay về bữa ăn tối với Clara không được chính xác lắm.  Nhưng cơn đau cuối cùng Phanxicô đã được Clara cho trú ngụ trong một mái chòi bằng lá cây ở cổng tu viện Đamianô, nơi Phanxicô trước tác bài ca mặt trời.  Ngài ban phép lành cuối cho Clara rồi về Porsiuncula và qua đời tại đó.  Ngài cũng xin anh em đưa xác về Assisi qua ngả San Đamianô.  Thánh Clara và chị em tiếp rước và có dịp chiêm ngưỡng các vết thương ở tay và chân Ngài.

Clara thực hiện đúng lý tưởng của người nghèo thành Assisi.  Đức Innôcentê III đã đích thân ban phép cho Ngài được giữ đức nghèo khó tuyệt đối.  Nhưng Đức Grêgôriô IX nguyên là hồng y Ugôlinô đã muốn cải sửa luật cho phép nhà dòng có đất đai nhà cửa.  Clara cưỡng lại và năm 1228 đã được hưởng đặc ân như sở nguyện.  Ngài đã thưa với Đức Grêgôriô:

– Thưa Đức Cha, xin tha tội cho chúng con, nhưng đừng tha cho con khỏi theo Lời Chúa.

Năm 1247, một lần nữa Đức Innocentê IV kiểm soát lại luật thánh Phanxicô, muốn sống đời khó nghèo tuyệt đối.  Luật này được Đức Innocentê chấp thuận vội vã, hai ngày trước khi thánh nữ qua đời.  Năm 1893 người ta tìm thấy sắc chỉ nguyên thủy trong mộ thánh nữ.

Trong cơn bệnh của Ngài, Đức hồng y Rainalđô, tức là Đức Giáo hoàng Alexandrô sau này, đã đến trao mình Thánh Chúa và khuyên nhủ thánh nữ, thánh nữ trả lời:

– Từ khi nếm thử chén đắng và cuộc tử nạn của Chúa, con thấy không còn gì làm con đau đớn nữa.

Sau khi chúc lành cho các nữ tu đến thăm, Ngài nói với chính mình:

– Hãy an tâm, ngươi đã theo đúng đường, cứ tin tưởng vì Chúa tạo thành đã thánh hiến và không ngừng gìn giữ ngươi, đã yêu ngươi với tình mẹ thương con, ôi lạy Chúa xin chúc tụng Chúa vì đã dựng nên con.

Thánh nữ qua đời ngày 11 tháng 8 năm 1253 và năm 1255 được tôn phong hiển thánh.

Thánh nữ Clara đã vì Chúa mà bất chấp tất cả những khó khăn, những cản ngăn…để được toại nguyện với ơn gọi dâng hiến. Ước gì mỗi chúng ta cũng biết noi gương thánh nữ sống trọn vẹn cho tình yêu Chúa Kitô bằng việc mau mắn đáp lại lời mời gọi của Ngài.

Sưu tầm

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

 

Thánh Inhaxiô Loyola (1491-1556): Nhà Lãnh Đạo Theo Tinh Thần Phúc Âm

Thánh Inhaxiô Loyola (1491-1556): Nhà Lãnh Đạo Theo Tinh Thần Phúc Âm

Dòng tên Việt  Nam

http://dongten.net/wp-noidung/uploads/2014/07/saint-inhaxio-1.jpg

Theo một số nhà chú giải, khi viết về những đức tính mà vị Tổng Quyền phải có, Thánh Inhaxiô phác họa chân dung của chính mình.

Những đức tính mà vị TỔNG QUYỀN DÒNG TÊN phải có: những điều làm nên sự toàn thiện trong tương quan với Thiên Chúa, những điều hoàn thiện các đặc tính tâm hồn, trí tuệ và cách hành xử.

1. Điều ưu tiên phải có là những đức tính siêu nhiên.

“Đức tính thứ nhất, là sự kết hợp mật thiết cao độ với Thiên Chúa”.  “Sống thân mật thâm sâu với Chúa trong cầu nguyện và trong tất cả mọi sinh hoạt”.

Một con người được hướng dẫn và bao bọc bởi ân sủng huyền nhiệm. Tức là được Chúa ban ơn để thi hành sứ mạng Chúa giao phó.

2. Các nhân đức căn bản: bác ái và khiêm tốn. Đức ái là mối dây liên kết, hoà hợp các nhân đức khác:

“Nêu gương về mọi nhân đức cho các tu sĩ trong dòng. Nơi ngài, đặc biệt chói sáng lòng bác ái đối với tha nhân và cách riêng, đối với Dòng, cũng như sự khiêm tốn đích thực làm cho mình được Thiên Chúa yêu thương và mọi người quý chuộng”.

Thánh Augustinô viết: “Ubi humilitas, ibi caritas” (nơi đâu có sự khiêm tốn, nơi đó có bác ái). .

a/ Thoát khỏi những quyến luyến lệch  lạc, bằng cách nhờ ân sủng, biết chế ngự và hãm dẹp diệt chúng; nhờ thế, phán đoán bên trong của lý trí không bị  xáo trộn và bên ngoài luôn biết làm chủ chính mình; cách đặc biệt cẩn trọng, mực thước trong lời nói.

b/ Tuy nhiên, ngài nên học biết hoà hợp sự chính trực và sự nghiêm khắc cần thiết phải có với sự hiền lành dịu dàng. Không bị trệch hướng khỏi điều ngài nghĩ là đẹp lòng Chúa hơn hết, tuy nhiên cũng không thiếu lòng yêu thương thông cảm đối với con cái.

c/ Ngài cũng cần phải có lòng đại lượng và quả cảm, để gánh chịu sự yếu đuối của nhiều người và khởi xướng nhiều công việc lớn lao để phụng sự Thiên Chúa và cương quyết kiên trì khi cần thiết. Không thất đảm trước những chống đối (cả từ phía những người có quyền chức và địa vị), không nao núng bởi những dụ dỗ hoặc đe dọa từ họ, mà đi xa điều lý trí hoặc việc phụng thờ Thiên Chúa đòi hỏi. Ngài phải vượt trên mọi biến cố, không bị giao động trước những điều xảy ra: không vênh vang khi gặp thành công và quỵ ngã khi gặp thất bại. Sẵn sàng chịu chết vì quyền lợi của Dòng, để phụng sự Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa và là Chúa chúng ta.

3. Các đức tính thuộc trí tuệ.

“Có trí khôn minh mẫn và óc phán đoán tuyệt vời. Để có thể đương đầu với những điều trừu tượng cũng như giải quyết những vấn đề thuộc lãnh vực thực hành. Kiến thức thì rất quan trọng để lãnh đạo những người thông thái, nhưng sự khôn ngoan, cẩn trọng (prudence) và kinh nghiệm trong các thực tại thiêng liêng và nội tâm thì cần thiết hơn để có thể biện phân các loại thần và đưa ra những lời khuyên hay phương dược cho những ai đau khổ  và có nhu cầu thiêng liêng.”

“Cũng đặc biệt cần thiết đối với ngài là ân sủng biết phân định, cân nhắc trong những công việc bên ngoài và trong cách giải quyết nhiều công việc khác nhau, cũng như trong việc tiếp xúc với nhiều người khác nhau ở trong và ngoài Dòng.”

4. Luôn canh chừng, thức tỉnh và lưu tâm đến công việc từ đầu cho đến cuối.

“Đức tính thứ tư rất cần thiết cho việc quản trị hữu hiệu, đó là tình trạng tỉnh táo dè chừng và lưu tâm để ý đến công việc khi bắt đầu và nghị lực để đưa công việc cho đến khi hoàn tất và hoàn chỉnh, để không vì xao lãng hay bất lực mà không thể hoàn thành một công việc đã bắt đầu”.

5. Đức tính thuộc hình thể, dóc váng, tình trạng sức khoẻ thể lý.

“Đức tính thứ năm liên quan đến thân xác. Về sức khoẻ, hình dáng, tuổi tác, một đàng cần phải chú ý đến phẩm cách và uy tín (dignity and authority); đàng khác phải xem xét sức khoẻ thể lý như trách nhiệm đòi buộc, để có thể hoàn thành nhiệm vụ cho vinh quang Thiên Chúa, Chúa chúng ta.”

6. Danh thơm tiếng tốt và những điều làm nên uy tín cá nhân.

“Đức tính thứ sáu liên quan đến những yếu tố bên ngoài. Theo đó, những đức tính giúp xây dựng kẻ khác và phụng sự Thiên Chúa thì đáng quý chuộng hơn. Theo sự thường, đó là được kính trọng, danh thơm tiếng tốt, và tất cả điều gì tạo nên uy tín (authority) trước những người ở bên ngoài cũng như ở bên trong Dòng.”

7. Người có công trạng và được nhiều người biết đến.

“Cuối cùng ngài phải là một trong những người nổi bật về tất cả mọi đức hạnh, có công với Dòng và được biết như vậy trong Dòng từ nhiều năm nhất.

Nếu không có những đức tính trên, thì ít nhất không thể thiếu :

“Sự liêm chính lớn lao và tình yêu lớn lao đối với Dòng, phán đoán khách quan, chính xác cùng với kiến thức rộng rãi vững chắc, sâu sắc” (great probity and love for the Society, good judgment accompanied by sound learning).

Kết luận

Theo quan điểm của Thánh Inhaxiô, Linh Thao nhằm huấn luyện những con người được tuyển chọn để trở thành những hiệp sĩ của Chúa Kitô. Phải chăng Linh Thao cũng là nơi đào luyện các lãnh đạo tôn giáo -và cả lãnh đạo dân sự- theo tinh thần Phúc Âm?

(Lm. Antôn Ngô văn Vững, SJ)

THÁNH MARTHA

THÁNH MARTHA

Chúng ta biết chắc về thánh Martha qua 2 giai thoại trong Tin Mừng, khi bà nhiệt thành đón rước Chúa Giêsu (Lc 10, 38-42) hay khi bà tín thác vô giới hạn vào Chúa Giêsu trước cái chết của Lazarô (Ga 11,1-44).  Martha, theo tiếng aramêô, có nghĩa là bà chủ.  Martha, Maria và Lazarô ở làng Bêtania, là những người bạn thân tình của Chúa Giêsu.  Người hay đến trú ngụ ở nhà họ để nghỉ ngơi sau những chuyến hành trình mệt nhọc. Martha đóng vai gia chủ, đã tỏ ra rất hiếu khách và tận tụy. Ngày kia, trong lúc bận rộn với việc phục dịch, bà nói:

– Thưa Thầy, Thầy không màng nghĩ tới sao? em con để cho con một mình phục dịch.  Vậy xin Thầy bảo nó đỡ đần con.

Chúa Giêsu đáp lại:

– Martha, Martha, con lo lắng xôn xao về nhiều chuyện. Cần thì ít thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất rồi và sẽ không bị ai lấy mất.

Như thế Chúa Giêsu đã cho Martha biết rằng đối với Người không có gì quý hơn một tâm hồn biết suy tư cầu nguyện, Martha đã hiểu, bà sẽ để lộ đức tin ấy ra dịp Lazarô từ trần.  Bà nhắc tin cho Chúa Giêsu:

– Thưa thầy, kẻ Thầy thương đang ốm liệt.

Vượt đường xa, Chúa Giêsu đã đến. Nhưng Người cố ý đến chậm, khi Lazarô đã chết.  Đức tin của Martha vẫn không thay đổi.

-Thưa Thầy, nếu thầy có mặt ở đây, em con đã không chết.

Và bà thêm:

– Nhưng ngay lúc này, con biết là bất cứ điều gì Thầy xin với Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ ban cho thầy.

Khi Chúa Giêsu cho biết Người là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Người thì dù chết cũng sẽ sống, rồi Người hỏi:

– Con có tin thế không ?

Martha đã mau mắn tuyên xưng:

-Vâng, thưa Thầy, con tin Thầy là đức Kitô Con Thiên Chúa, đấng phải đến trong thế gian.

Và bà đã không lầm.  Chúa Giêsu đã phục sinh Lazarô.

Tin Mừng không nói rõ các bạn hữu của Thiên Chúa sẽ ra sao.  Chắc chắn Martha có mặt trong số phụ nữ theo Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn và xức dầu thơm xác Người trước khi mai táng.

Có truyền thuyết nói rằng ba chị em làng Bêtania đã bị người Do thái bắt thả trôi trên một con thuyền không buồm không chèo không lái.  Nhưng họ đã trôi dạt và cặp bến Marseille nước Pháp.  Lazarô đã trở thành Giám mục tiên khởi của thành này.  Riêng Martha, ngài đã rao giảng Tin Mừng ở Aix Avignon và Tarascon.  Một huyền thoại còn kể thêm việc thánh nữ tiêu diệt quái vật Tarasque.  Dân chúng khổ cực vì con vật dữ tợn, mồm phun lửa hoành hành.  Thánh nữ đã dùng cây thánh giá áp đảo con vật, rồi trói chặt nó lại.  Quái vật bị hạ sát và bị tiêu diệt, người ta gọi là Tarascon.

Thánh nữ Matta đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng về lòng hiếu khách.  Khi chúng ta chào đón hay phục vụ ai, Đức Chúa Giêsu coi đó như là chúng ta làm cho chính bản thân Người.  Thánh nữ Matta cũng nêu gương sáng về lòng tin tưởng và niềm trông cậy.  Ngài là bạn thân của Đức Chúa Giêsu và ngài biết có thể tin tưởng vào lời Đức Chúa Giêsu đã nói.  Xin thánh nữ Matta cũng giúp chúng ta biết tạo mối tương quan thân thiện với Đức Chúa Giêsu như ngài.

Sưu tầm

__._,_.___

From: suyniemhangngay1 & Anh chị Thụ Mai gởi

 

THÁNH NỮ CATARINA SIÊNA, ĐỒNG TRINH TIẾN SĨ

THÁNH NỮ CATARINA SIÊNA, ĐỒNG TRINH TIẾN SĨ

(1242-1380)

Truyện thánh nữ Catarina Siêna một lần nữa chứng tỏ ơn Chúa đặc biệt kêu gọi mỗi người. Nhưng để theo tiếng Chúa gọi, con người nhiều khi gặp phải những trở lực lớn lao: phải chiến đấu gay go với chính bản thân, với những người thân quyến trong gia đình.

Thánh nữ Catarina sinh ngày 25-3-1342. Ông thân sinh Giacômô Bênincasa là một người thợ nhuộm hiền lành, nết na. Thân mẫu là bà Lapa, con gái một nhà thi sĩ. Bà có một đức tính cương nghị hiếm có của một người phụ nữ. Catarina đã thụ hưởng đức tính cương nghị của mẹ, lòng đạo đức và sự dịu hiền của cha. Kể cả con nuôi và con đẻ, hai ông bà có tất cả 24 người con. Trong số đó, có một người con nuôi tên là Tômasô Fontê sau này làm linh mục dòng Đaminh, là người đã gieo một ảnh hưởng sâu rộng vào tâm hồn Catarina. Một buổi tối kia, Tômasô đọc cho Catarina nghe một truyện hay trong cuốn Sử vàng mà ông đã có dịp đọc. Từ đó, cô bé Catarina ngày càng ôm ấp ý định được đi tu dòng để theo gương bắt chước thánh nữ Êuphôsina.

Năm lên sáu tuổi, cô được thị kiến lần đầu tiên và lúc đó cô như vẳng nghe tiếng Chúa mời gọi. Từ đó, Catarina chỉ mơ màng một ngày kia được vào một cánh rừng thâm u để làm một nhà nữ ẩn sĩ. Thế rồi một ngày kia cô bé ấy bỏ nhà trốn đi tới một cái hang ở chân một hốc đá mà cả nhà không ai hay biết.

Lên 12 tuổi, cái tuổi xuân xanh mơn mởn, Catarina là một thiếu nữ xinh đẹp, Vẻ đẹp đó còn tăng thêm đậm đà, ý vị nhờ ở tư cách đoan trang thùy mị của Catarina, khiến cô đã lọt mắt nhiều chàng trai. Gia đình cũng bắt đầu nghĩ đến chuyện gây dựng cho Catarina. Nhưng tất cả những đám cầu hôn trước sau đều bị Catarina cự tuyệt. Người ta phải nhờ đến sự can thiệp của Tômasô bấy giờ đã là linh mục dòng Đaminh và làm cha giải tội của Catarina. Với người bạn hồi niên thiếu đó, Catarina đã cởi mở tâm hồn và giãi bày cho ngài biết rằng mình đã khấn giữ mình đồng trinh, vì thế sẽ không kết duyên với một người trần nào. Theo lời khuyên của Tômasô, Catarina cắt tóc ngắn và trùm trên đầu một khăn trắng; đó là dấu hiệu một thiếu nữ đã khấn dâng mình cho Thiên Chúa. Bà Lapa biết điều đó lắm, nhưng bà vẫn giả điếc làm ngơ; bà lột khăn choàng của con ra và nói: “Tóc cô sẽ mọc và cô sẽ phải lấy chồng”. Từ đó cả gia đình cũng hùa theo với bà để làm khổ Catarina; cô không còn được một phòng riêng như trước để thi hành những việc mà người ta gọi là những việc “đạo đức rởm”; trái lại cô phải làm việc như một tôi tớ trong nhà và nhiều khi còn bị hành hạ diếc mắng: nhưng Catarina lại cho đó là dấu Chúa thương yêu cách riêng.

Một đêm kia, Catarina chiêm bao thấy thánh Đaminh cho biết chắc chắn rằng cô sẽ được mặc áo dòng ngài. Sáng dậy, trong bữa ăn họp mặt của gia đình, cô tuyên bố cho mọi người biết không ai có thể làm cho cô thay đổi được ý định. Ông Giacômô trước đây đã được trông thấy một chim câu bay liệng trên đầu con gái mình và ông cho đó là dấu hiệu của ý Chúa mà không ai có thể chống cưỡng được. Ông bắt đầu ra mặt bênh con và nói: “Thôi từ nay không ai được làm khổ con gái yêu quí của tôi nữa. Hãy để cho nó được tự do và an vui phụng sự Tình Quân của nó, để cầu nguyện cho chúng ta”. Từ đó người ta cho phép Catarina được chọn lấy một phòng ở căn nhà bếp để làm nơi tĩnh tu. Ở đó, một mình trong vắng lặng, Catarina tha hồ thực hiện những việc hãm mình ép xác như các vị tu rừng xưa.

Bà Lapa trước đây đã vâng lời chồng để cho con gái được tự do, lúc này bà lại lo sợ vì thấy con hãm mình và sống khổ hạnh quá. Lòng thương con của người mẹ một lần nữa lại thúc đẩy bà hành động để ngăn cản đà sốt sắng của con gái. Bà lột áo nhặm và bắt cô phải nằm trên giường đàng hoàng chứ không được nằm ở ghế. Catarina chỉ vâng lời mẹ lúc đó, sáng ra người ta lại thấy cô nằm ngay dưới chân giường. Bà không ưng thuận cho Catarina làm một nữ tu Đaminh chút nào. Vì thế, bà đã vận động với bà bề trên dòng ở Siêna để người ta không nhận Catarina. Đúng như ý bà mong muốn; người ta trả lời cho bà biết rằng ở đây chỉ nhận những quả phụ chứ không thể tiếp nhận một thiếu nữ trạc tuổi như Catarina. Buồn rầu vì thấy ý định của mình không thành công, Catarina ngã bệnh. Ma quỷ thừa dịp đó tấn công hết sức, hy vọng làm cho cô đổi ý định tu dòng. Cuối cùng, cha Batôlômêô Montucci đành chấp thuận cho Catarina được mặc áo dòng ba Đaminh. Nhưng quỷ dữ vẫn chưa chịu lui, chúng còn cố sức gợi lên trong trí óc Catarina những hình ảnh dâm ô nhơ bẩn mà cô phải chiến đấu mãnh liệt, và dùng khí giới là kêu tên cực trọng Chúa Giêsu mới đánh lui được chước cám dỗ. Cũng chính trong dịp đó, Chúa Giêsu đã hiện ra với Catarina dưới hình một người bị đóng đinh mình còn bê bết những vết thương đẫm máu. Thừa dịp đó cô thưa với Chúa: “Lạy Chúa Giêsu nhân từ và dịu hiền, khi tâm hồn con bị dằn vật quấy rối như thế thì Chúa ở đâu? – Cha ở ngay trong tâm hồn con chứ còn ở đâu nữa, vì Cha không hề xa cách người nào, trừ khi người đó bỏ rơi Cha trước. – Lạy Chúa, có lý nào Chúa ở trong tâm hồn con giữa khi con bị cám dỗ với những hình ảnh nhơ bẩn như thế? – Nhưng Cha hỏi con: cơn cám dỗ đó làm cho con vui sướng hay sầu khổ? – Ôi lạy Chúa, con cảm thấy kinh tởm và sầu khổ hết sức! – Tại sao như vậy? Con tin rằng nếu Cha không ở trong tâm hồn con và đóng cửa linh hồn con lúc đó, thì những hình ảnh nhơ bẩn kia có thể lọt vào linh hồn con được không? Cha ở trong tâm hồn con y như khi Cha ở trên cây thánh giá, đau khổ nhưng có pha vui sướng. Thôi được từ nay Cha sẽ sống thân mật với con hơn và sẽ năng thăm viếng con”.

Trong ba năm liền Chúa thường hiện ra thăm viếng người tôi tớ trung tín của Chúa như thế và dạy cô học đọc để có thể hát lời ca tụng Chúa. Từ đó Catarina thích đọc kinh nhật khóa hơn cả, vì nhờ đó cô được tiếp xúc thân mật với các vị thánh. Cô sống thân mật và kết hợp chặt chẽ với Chúa, đến nỗi như đời sống trần gian của cô là chỉ để truyền lan lửa bác ái hằng cháy rực trong tâm hồn cô.

Cô hòa mình trong đời sống thường ngày để giúp đỡ mọi người trong gia đình. Cô dịu dàng, khiêm nhường, vui vẻ với mọi người, và không bao giờ người ta thấy cô to tiếng gắt gỏng với ai. Những người đau yếu nghèo khổ được cô thương yêu săn sóc cách riêng. Người ta thường thấy cứ mỗi bữa ăn cô để dành lại một phần bánh cho người nghèo. Cô hay đến các bệnh viện để săn sóc bệnh nhân. Tại một bệnh viện cùi kia, chính tay cô hầu hạ, rửa và băng bó các vết thương cho một bà lão hầu như bị mọi người bỏ rơi; nhưng trái nghịch thay: bà này là người rất khó tính, bà thường hay gắt gỏng và chửi rủa Catarina. Dầu vậy cô vẫn một lòng nhẫn nhục và tận tâm giúp đỡ bà.

Thực ra có thể nói: chị Catarina đã đem tất cả nhiệt tâm hăng hái trong việc cứu giúp các linh hồn bằng lời cầu nguyện và sự khuyên bảo. Vì thế người ta thường thấy chị hay tới nói truyện ở những nơi công cộng có đông người và đã làm cho nhiều người trở lại. Nhưng rồi cũng có những kẻ manh tâm ghen tương công việc của chị, họ kết tội cho chị là đồ giả hình; cả đến các cha giải tội và các vị bản quyền cũng đã vì hiểu lầm mà cấm chị không được năng rước lễ. Điều đó làm cho chị khổ tâm hơn cả. Nhưng chị Catarina đã biết hy sinh danh dự của mình để chăm lo đến hạnh phúc của tha nhân.

Chị Catarina còn làm một việc đáng chú ý hơn cả là hòa giải được bao nhiêu gia đình từ bao đời đã chia rẽ nhau vì những mối thù truyền kiếp. Danh hiệu “Sứ giả của hoà bình, Thiên thần của hòa giải” mà người đời tặng cho chị quả rất xứng đáng. Đâu đâu người ta cũng ước ao chị đến ở với họ, vì có chị người ta cảm thấy như được nâng đỡ và an ủi nhiều. Tư cách hiền hòa và lời nói dịu dàng của chị đã thức tỉnh được cả những tâm hồn cứng cỏi và ngang ngược nhất. Lần kia người ta cho chị biết sắp xử tử một phạm nhân chính trị, tên là Nicôla Tulđô. Trước giờ chết, tù nhân đó đã tỏ ra bực tức, và phẫn uất đến nỗi như bất chấp cả tôn giáo; anh đã luôn miệng nói những lời lộng ngôn phạm thánh và khinh rẻ nhiều người. Chị Catarina đến thăm anh, và ngọn lửa căm hờn đốt cháy lòng anh đã bị dập tắt để nhường chỗ cho tâm tình nhẫn nhục và tình yêu, khiến anh đã phải ngỏ lời với chị: “Tôi sẽ rất vui vẻ bước lên đoạn đầu đài, nếu như trong lúc ấy chị có mặt ở đó”. Chị Catarina đã thi hành như ý anh xin. Tulđô đã vui vẻ bước lên máy chém và chính lúc anh bị chém đầu, chị Catarina đã được ơn xuất thần và trông thấy linh hồn anh Tulđô nhẹ nhàng như cánh chim bay về nơi vĩnh phúc.

Lo lắng cho phần rỗi cá nhân như thế, chị Catarina chắc phải băn khoăn đến mực nào trước vận mệnh của Giáo hội thời đó. Năm 1372, chị viết một bức thư cho Đức Phêrô Estaing, Đặc sứ Toà thánh tại Ý (các Đức Giáo hoàng thời đó ở Avignon), để giãi bày những nguyện vọng thánh thiện của chị. Và cũng từ đó chị bắt đầu công khai hoạt động nhằm ba mục đích:

* Chấn hưng lòng đạo đức của Giáo hội đã bị sa sút vì những gương xấu của hàng giáo sĩ, như tội buôn thần bán thánh và cuộc đời xa hoa phù phiếm của các ngài.

*Xin chuyển giáo đô về Rôma, nơi từ lâu đã trở nên chốn hiu quạnh và buồn tẻ vì vắng bóng các Giáo hoàng.

* Xin tổ chức Nghĩa binh Thánh giá để chống với quân Hồi giáo. Với ơn Chúa và thiện chí kèm theo nhiều cố gắng và hy sinh, chị đã thực hiện được một phần nào những ước vọng lành thánh trên đây.

Chị đã sống cuộc đời ngắn ngủi chưa đầy 33 năm, nhưng thực ra chị đã làm nhiều việc hữu ích cho Giáo hội và dân tộc Ý. Trong 33 năm đó sự việc siêu nhiên đã phát hiện mỗi lúc trong cuộc đời của chị. Rất nhiều lần Chúa đã hiện ra dạy chị học đọc. Một trong những lần hiện ra Chúa đã phán với chị rằng:

“Con sẽ tưởng nhớ đến Cha thôi, nếu con giữ đúng như thế, thì cha cũng tưởng nghĩ đến con”. Lần khác, bằng một cuộc kết hôn thần bí, Chúa ban lời khuyến khích và nâng đỡ khi chị làm những việc hãm mình quá sức, khi chị lâm bệnh chị không ăn không uống được. Mình thánh Chúa lúc ấy là lương thực  nuôi sống chị. Chị đã phân biệt được Mình Thánh Chúa với bánh thường mà người ta có lần đánh lừa chị. Lần kia chị nằm liệt giường, một linh mục ở Lucques đã cả dám kiệu bánh không truyền phép đến cho chị. Chị nghiêm nét mặt và nói thẳng với linh mục đó: “Cha chẳng lấy làm hổ thẹn vì đã mang đến cho tôi một bánh thường mà giả làm Mình thánh Chúa để ép tôi tôn thờ quấy quá sao?”

Lòng đạo đức thánh thiện của chị Catarina đã lôi cuốn được một số đông người thuộc đủ mọi giai cấp trong xã hội theo làm môn đệ, trong số đó có cả thân mẫu chị là bà Lapa. Trong những năm cuối đời, chị đi đâu người ta cũng theo đó để thu tập và ghi chép những lời của chị. Chị biết dùng con đường khiêm tốn và xả kỷ hầu nâng đỡ lòng mọi người lên cùng Chúa. Tất cả lý thuyết tu đức của chị được gồm tóm trong hai chữ: yêu mến và nhẫn nhục” lý thuyết đó thực ra chỉ là phản ảnh cuộc đời của chị.

Tất cả những môn sinh của chị, giáo dân hay tu sĩ ai nấy đều làm chứng rằng Chị Catarina ăn nói giảo hoạt lạ thường, dầu rằng trước đây chị là người tối tăm và không có học hành chi cả. Được vậy là do chính Chúa đã trực tiếp dạy bảo chị như lời thú nhận sau này. Chị thường đọc cho hai hoặc ba người thư ký viết cùng một lúc về những vấn đề hoàn toàn khác nhau mà chính chị không bị lầm lộn hay tỏ ra bối rối chút nào. Khi đề cập đến cuốn Đối thoại, một tác phẩm chị để lại, Đức Hồng Y Guidini đã viết trong cuốn hồi ký của ngài như sau: “Trong lúc xuất thần, nghĩa là lúc người ta mất hết sử dụng các giác quan, trừ ra cơ quan để phát thanh, thế mà chị đã đọc được cho người ta chép được một quyển sách giá trị và quan trọng không kém gì một quyển sách lễ. Thật cả là một sự lạ; những người không được mục kích chắc khó lòng mà công nhận được; nhưng chính tôi đây đã được mục kích, đã nghe và đã chép, thì đối với tôi không có chi là khó tin”.

Từ khi được Đức Giáo Hoàng Ubanô triệu vời đến Roma để làm cố vấn cho ngài, chị Catarina ở lại đó cho đến khi chết. Chủ nhật Sáu mươi, ngày 29-09-1380, Chúa Giêsu hiện ra với chị lần sau cùng và đặt lên vai chị một con thuyền nhỏ là hình ảnh Giáo hội. Từ đó chị cảm thấy yếu dần.

Trong vòng nửa tháng kể từ ngày đó chị còn trải qua nhiều cơn xuất thần liên tiếp. Nhưng đồng thời chị cũng phải chịu đựng những giây phút hãi hùng kinh sợ, vì quỉ ma tấn công dữ tợn. Ngày 16-02, chị đọc lời di chúc rất cảm động và bày tỏ ước vọng được dâng mạng sống cho Chúa. Dân chúng và các môn đệ đứng quanh giường chị, ai nấy đều ngậm ngùi như muốn khóc, vì biết rằng chị chẳng còn sống được mấy nỗi. Nhưng chị Catarina vẫn bình tĩnh lạ thường, chị dùng lời Chúa trong Phúc âm thánh Gioan mà khuyên bảo các môn đệ: “Anh chị em hãy thương yêu nhau”.

Chủ nhật trước lễ Thăng Thiên, chị ngỏ ý muốn được xưng tội. Sau khi chịu phép xức dầu, hình như chị còn bị ma quỉ tấn công gắt gao trong một tiếng rưỡi đồng hồ. Chị lại đòi xưng tội lần nữa, và ước ao được nhận phép lành của bà thân mẫu. Rồi người ta nghe chị cầu nguyện riêng cho Giáo hội, cho Đức Thánh Cha Ubanô VI. Dứt lời nguyện chị giơ tay làm dấu Thánh giá như để chúc lành cho mọi người hiện diện. Người ta chỉ còn nghe tiếng chị nói qua hơi thở: “Lạy Chúa, con phó linh hồn con trong tay chúa”. Rồi mặt chị bỗng giãi sáng khác thường. Chị từ từ ngã đầu về một bên trút linh hồn. Hôm ấy là ngày 29-4-1380.

Trong khi đó, tại Gênes cha Raymunđô Capu (Raymond de Capoue) đang sửa soạn đi Pise; làm lễ xong cha nghe như có tiếng ai thầm bảo: “Đừng sợ, tôi đang ở trên trời để phù hộ cho cha”. Sau cha được tin chị Catarina đã tắt thở vào giờ đó và cha hiểu chính chị đã nói để khuyến khích cha.

Người ta mặc cho chị áo dòng thánh Đaminh, rồi liệm xác vào một quan tài quý giá, kiệu đến Minerva và để tại nhà nguyện. Năm 1461, Đức Giáo Hoàng Piô II đã phong chị lên bậc hiển thánh. Đức Ubanô lại dịch lễ kính thánh nữ sang ngày 30 tháng 04 năm 1866; Đức Piô IX còn đặt thánh nữ Catarina thành Siêna làm thánh quan thầy thứ hai của thành Rôma.

Thánh Luy Gonzaga – Tuổi trẻ dâng hiến

Thánh Luy Gonzaga – Tuổi trẻ dâng hiến

(lễ nhớ ngày 21.06)

http://dongten.net/noidung/37102


St. Aloysius Gonzaga

Luy Gonzaga sinh ngày 9 tháng 3 năm 1568, là con trưởng của hầu tước xứ Castiglione, miền bắc nước Ý. Danh tiếng gia đình và kỳ vọng của hầu tước đều được đặt cả vào Luy. Lên bốn tuổi, Luy đã bắt đầu cùng bố sống trong quân đội, cậu mặc đồ lính, đeo súng và học hỏi nghiệp binh đao. Ông hầu tước ắt hẳn hài lòng về những gì cậu quý tử đang theo đuổi và hy vọng cậu sẽ làm rạng danh dòng họ Gonzaga hơn nữa. Lên 9 tuổi, Luy và cậu em Rudolpho được gởi đến cung điện của hầu tước Francesco de’Medici ở Firenze để học hỏi những nghi lễ của lối sống vương giả. Cũng ở nơi ấy, Luy nhìn ra mặt trái của lối sống xa hoa và phóng khoáng; nơi mà người ta luôn có những âm mưu và sẵn sàng lừa gạt nhau, họ giải quyết vấn đề bằng dao và thuốc độc. Nhưng ngay trong môi trường nhiều cạm bẫy đe dọa, bàn tay Chúa bắt đầu hướng dẫn Luy theo con đường yêu thương của Ngài.

Mặc dù cuộc sống bên ngoài của Luy mang nhiều vẻ khác nhau, nội tâm của cậu vẫn hướng về điều thiện bằng việc cầu nguyện và thích thú đọc Thánh vịnh. Nhờ vậy, Luy khám phá ra rằng chỉ còn cách rút lui khỏi những cuộc vui và bàn tiệc để tránh phạm tội. Sau thời gian ở Firenze, Luy được gởi tới Mantua sống với những người họ hàng. Tại đây, cậu tình cờ đọc được cuốn Tóm lược Giáo lý của Cha Phêrô Canisiô, trong đó có cả phần suy niệm. Luy liền dùng tập sách này làm đề tài cầu nguyện hàng ngày và cảm nếm những an ủi lớn lao. Cậu ăn chay 3 ngày mỗi tuần, suy niệm cả ban sáng lẫn ban tối, tham dự thánh lễ hành ngày.

aloysius gonzagas

 

Trong một chuyến đi với gia đình đến Tây Ban Nha, Luy gặp một cha giải tội dòng Tên ở Madrid và cậu ngày càng muốn trở thành Giêsu hữu. Ngày 15 tháng 8 năm 1583, đang khi cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ trong nhà thờ, từ nội tâm, Luy cảm thấy mình được Chúa gọi theo bậc sống tu trì và mong ước gia nhập dòng Tên. Ý đã quyết, Luy nguyện theo đuổi đến cùng ơn gọi của mình.

Tin này đến tai vị hầu tước và ngay lập tức ông nổi trận lôi đình khiển trách Luy nặng lời và tìm đủ mọi cách ngăn cản với hy vọng cậu đổi ý. Nhưng tất cả mọi cách ông hầu tước áp dụng chẳng đem lại thay đổi gì bởi Luy một mực xin được từ bỏ tất cả để gia nhập dòng Tên. Ông hầu tước, mặc dù đặt mọi kỳ vọng vào cậu quý tử sẽ là người thừa kế mình trong gia tộc, đành phải để Luy ra đi. Tròng lòng hầu tước chẳng hề muốn điều này, nhưng vì thương con, ông đành chiều ý cậu. Đối với ông, Luy là “kho tàng quý báu nhất trên cõi đời này”.

Tháng 11 năm 1585, Luy nhường lại ngôi thế tử cho em trai và lên đường hướng về nhà Tập thánh Anrê ở Rôma. Cùng đi với anh là cả một đoàn tuỳ tùng: cha tuyên uý của gia đình, viên thái sư, một tu sĩ, những người hầu cận. Trên đường, nhắc đến chuyện nhường ngôi thế tử, một người trong đoàn tuỳ tùng nói với anh: “Chắc công tử Rudolpho vui lắm”, Luy trả lời:“Tôi còn vui hơn”.

Khi vào nhà Tập, Luy tâm niệm rằng: “Tôi là thanh sắt cong, phải vào nhà Dòng để được uốn lại cho thẳng”. Trong thực tế, Luy nhận thấy rằng nếp sống nhà Tập lại ít đòi hỏi hơn những gì cậu tự đặt ra cho mình khi còn ở nhà. Thực vậy, theo sự hướng dẫn của Cha giám tập, Luy không được tiếp tục việc đánh tội như đã quen làm, cậu cũng không được ăn chay thường xuyên như đã thực hành trước đây. Trên hết, Luy từ bỏ chính mình để tuân thủ cách tỉ mỉ tiến trình đào luyện trở thành Giêsu hữu. Luy bắt đầu tập làm những việc nhỏ nhặt trong nhà như rửa chén, lau nhà, quét mạng nhện… những việc mà trước đây anh chưa từng đụng đến. Hết thời gian nhà Tập, Luy tuyên khấn lần đầu ngày 25 tháng 11 năm 1587 và chuyển đến Đại học Rôma để tiếp tục chương trình thần học.

Đầu năm 1591, nước Ý lâm nạn đói kém và dịch bệnh hoành hành. Cùng với các anh em khác, Luy đi quyên góp thực phẩm, quần áo giúp những bệnh nhân. Luy đưa những người bệnh đang hấp hối ngoài đường phố đến bệnh viện, tắm rửa và cho họ ăn, sau đó chuẩn bị cho họ lãnh nhận các bí tích sau cùng. Một lần sau khi trở về từ bệnh viện, Luy nói với Cha linh hướng Roberto Bellarmino rằng: “Con tin rằng mình chẳng sống thêm bao lâu nữa. Con cảm thấy nơi mình một khao khát mãnh liệt để làm việc và phục vụ Chúa nơi các bệnh nhân. Con nghĩ rằng Chúa đã không cho con cơ hội này nếu Ngài không muốn đưa con về với Ngài.”

Những ngày sau đó, nhiều anh em trẻ bị ngã bệnh, Cha bề trên buộc phải yêu cầu các học viên hạn chế tiếp xúc với người bệnh và chỉ cho phép anh em đến giúp ở bệnh viện Đức Mẹ An Ủi, nơi có những người bệnh nhẹ và ít lây. Một hôm, Luy đến bệnh viện, bế một người bệnh và chăm sóc cẩn thận. Về nhà anh ngã bệnh ngay và nằm liệt giường từ ngày 3 tháng 3 năm 1591.

Những ngày sau đó, Luy đón nhận tất cả những khó chịu thể xác với tâm hồn phó thác kiên vững. Qua cầu nguyện, anh được biết mình sẽ được đưa về với Chúa vào ngày cuối của tuần bát nhật kính Mình Thánh Chúa. Thời gian ấy đến, ngày 21 tháng 6 năm 1591, Luy xin được lãnh các bí tích sau cùng. Vào khoảng 11 giờ, Luy, tay nắm chặt tượng thánh giá, mắt nhìn thẳng vào Chúa Giêsu chịu đóng đinh và môi miệng anh cố gắng thốt lên Danh Thánh Giêsu lần cuối cùng. Anh ra đi trong bình an khi chỉ mới 23 tuổi.

Ngài được Đức Phaolô V tuyên phong chân phước vào ngày 19.10.1605 và được Đức Bênêđictô XIII nâng lên hàng hiển thánh vào ngày 31.12.1726. Anh em Dòng Tên kính nhớ ngài vào ngày 21 tháng 6 hàng năm. Ngài được nhiều người chọn làm đấng cầu bầu cho giới trẻ, sinh viên, những người chăm sóc các bệnh nhân. Anh em Dòng Tên chọn ngài làm đấng cầu bầu cho các học viên thần học.

Thánh Luy Gonzaga là một tấm gương cho chúng ta, nhất là các bạn trẻ, về sự quảng đại từ bỏ vinh hoa phú quý để bước theo Đức Giêsu Kitô nghèo khó, chịu sỉ nhục, khiêm hạ và hiến thân phục vụ cho anh chị em mình.

Cầu nguyện: Lạy Cha, xin giúp chúng con biết noi gương thánh Lu-y Gonzaga, người anh em của chúng con đã từ bỏ vinh hoa phú quý để nên người môn đệ Chúa Giê-su hiền lành và khiêm nhường. Xin đừng để chúng con lây nhiễm tinh thần thế tục, nhưng xin dạy chúng con biết tôn vinh Cha trong mọi sự. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.

Vị Thánh Lỗi Lạc- Thánh Tôma-Aquina

Vị Thánh Lỗi Lạc- Thánh Tôma-Aquina

Lm.  Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT

Ngày mai, 28 tháng 1, giáo-hội kính nhớ thánh Tôma Aquinô (Thomas Aquinas), một vị thánh lỗi lạc của giáo-hội trần thế.  Một tu sĩ Đa-Minh đã để lại cho hậu thế Bộ “Tổng Luận Thần-học”.

Thánh Tô-ma A-qui-na sinh năm 1225 tại thành Naples nước Ý Ðại Lợi trong một gia đình phú quí và đạo hạnh.  Ngài được hấp thụ một nền đạo đức sâu sắc, đặt căn bản trên đức tin và giáo lý chân chính của Chúa Giêsu và các tông đồ.  Cha của Tô-ma là lãnh Chúa đảo Aquina.

Tuy danh vọng cao vời, nhưng gia đình cha mẹ của thánh nhân luôn biết kính sợ Chúa và giáo dục con cái theo luật Chúa và Giáo Hội.  Nhờ thế, thánh Tôma Aquina đã sớm tiến tới trong đường nhân đức, có một đức tin sắt đá và một nền học vấn uyên thâm để có thể hiểu và giải đáp được những vấn nạn trong xã hội cũng như những giải đáp cho thời đại đang tiến bộ.

Trong quá trình theo học, Tôma được gửi học ở tu viện Cassino do các Cha Bênêđitô điều khiển.  Một biến cố chính trị đưa đến việc giải tán tu viện sau 9 năm thánh nhân đã theo học với các cha Bênêđitô.  Sau đó, thánh nhân lại tiếp tục học ở Naples, nơi đây thánh nhân có dịp tiếp xúc với các cha dòng Ðaminh, Tôma say mê với lý tưởng sống cho người nghèo và làm việc trí thức để truyền bá cho những người khác chân lý, lý tưởng mà ngài đã ghiền ngẫm, đã suy nghĩ.

Lý tưởng của thánh Ðaminh đã đánh động ngài tới tận căn, nên ngài đã quyết định xin vào dòng thánh Ðaminh vào năm 1244.  Việc này làm phật ý thân mẫu Tôma vì bà luôn luôn muốn Tôma làm tu viện trưởng Cassino.  Thân mẫu của Tôma quyết định bắt Tôma về giam trong gia đình và dùng mọi mưu kế để cho Tôma trở về thế gian.  Mọi mưu chước của mẹ đều bị thất bại.  Sau cùng trong cơn mù quáng tột độ, bà đã dùng một cô gái trắc nết để quyến rũ thánh nhân, vì bà hy vọng Tôma sẽ bị ngã gục.  Nhưng ý Chúa nhiệm mầu, Tôma đã chiến thắng, đuổi cô gái hư ra khỏi nơi ngài ở.

Chúa đã yêu thương ngài, sai thiên thần đến cột giây trinh khiết cho ngài để biểu tỏ sự chiến thắng của ngài, đúng như lời sách đệ nhị luật đã viết:” Chúa ấp ủ và lo dưỡng dục (Tôma), luôn gìn giữ chẳng khác nào con ngươi mắt Chúa” (trích sách Ðệ-nhị-luật 32: 10 ).  Thấy ý chí sắt đá, lòng tin tưởng tuyệt đối vào Chúa của Tôma, thân mẫu ngài đành làm ngơ để ngài trốn về lại tu viện.

Thánh Tôma lúc đó được thụ huấn với thánh Albertô, một học giả uyên bác, nổi tiếng thời đó.  Năm 27 tuổi, thánh Tôma đã trở thành giảng sư đại học trẻ tuổi với một kiến thức sâu rộng tuyệt vời có thể hướng dẫn được giới trí thức đang say mê triết học Hy Lạp ngoại giáo.  Ngài đã viết bộ “Tổng luận thần học” đầy giá trị, để lại cho Giáo Hội và hậu thế.  Ngài nói ngài đã múc tất cả sự khôn ngoan nơi Chúa Giêsu qua suy niệm và cầu nguyện để viết nên “Tổng luận thần học” này.

Ngài qua đời đột ngột lúc mới có 49 tuổi, cái tuổi đang sung sức và việc dậy học đang nổi tiếng vào năm 1274.

Ðức thánh cha Gioan XXII phong ngài lên bậc hiển thánh năm 1328.

Năm 1567, Ðức Giáo hoàng Piô V lại cất nhắc ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh với tước hiệu “Tiến Sĩ Thiên Thần”.

Năm 1880, Ðức thánh cha Lêo XIII đặt ngài làm quan thầy các trường công giáo.

~^~

Lạy Chúa,

Chúa đã làm cho thánh Tôma trở nên một bậc thầy lỗi lạc,

vì đã ban cho ngài lòng tha thiết sống cuộc đời thánh thiện,

và hăng say giảng dạy đạo lý cao siêu.

Xin Chúa thương mở lòng soi trí để chúng con

ngày càng hiểu biết điều ngài dạy,

và ra công bắt chước điều ngài làm.

Amen.

(Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Tôma Aquinô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh ).

Lm.  Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT

From: ThiênKim

Thánh Phaolô, Tông đồ của mọi người

Thánh Phaolô, Tông đồ của mọi người

Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ)

Chúa Cứu Thế


VRNs (25.01.2014) – Sài Gòn – Từ một người hăng say bắt đạo Chúa, thậm chí còn tham gia giết chết Thánh Stêphanô (Phó tế, Tử đạo tiên khởi), đã trở thành người nhiệt thành rao giảng Chúa-Giêsu-bị-đóng-đinh. Có thể nói rằng nếu không nhờ con người mạnh mẽ, thông minh và có ảnh hưởng rộng lớn này, thì niềm tin Kitô giáo có thể vẫn chỉ ở phạm vi nhỏ hẹp tại Do thái.

Từ Giêrusalem đến Damascô, sau 3 năm Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập giá, một thanh niên Do thái ở Tarsus tên Saolê bị ngã ngựa vì một thị kiến ấn tượng. Tiếng Chúa Giêsu gọi: “Saolê! Tại sao anh tìm bắt tôi?”. Bị mù vì thị kiến, thanh niên này phải có người dẫn vào thành phố. Chưa đầy 3 ngày, thanh niên này bình phục và trở nên một thụ tạo mới – một người được tuyển chọn của Thiên Chúa.

Như vậy, nhờ sự thay đổi lớn trong tâm hồn, một trong các nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử Kitô giáo đã trở nên một người có đức tin. Chàng đã bỏ tên Do thái để thay tên Latin là Phaolô. Với tư cách là Tông đồ của dân ngoại, Phaolô được sai đi truyền giáo ở Địa trung hải. Ông chuyển Kitô giáo từ một giáo phái nhỏ Do thái thành một tôn giáo có tầm cỡ thế giới. Khi thuyết giảng và thư từ, Phaolô đã có hệ tư tưởng mà cho đến nay vẫn là nền tảng của việc giáo huấn Kitô giáo.

Ngoài các thư chúng ta có, trong sách Công vụ Tông đồ là nhật ký của bạn bè, thánh Luca – thầy thuốc và tác giả Phúc âm thứ ba. Từ các nguồn đó nổi bật một đời sống có nhiều khủng hoảng, quyết định nhanh chóng, lối thoát nhỏ hẹp, những dịp gặp gỡ, và những bùng nổ rải rác tạo nên câu chuyện phiêu lưu kỳ thú.

Thánh Phaolô sinh khoảng năm 5 tại Tarsus, Tiểu Á, ngày nay là thành phố tĩnh lặng ở Thổ nhĩ kỳ, nhiều người ở đây đã trở nên công dân của Đế quốc Rôma.

Khi còn nhỏ, Saolê học kinh doanh, có thể vì người cha là người buôn vải. Nhưng Saolê lại có tài lãnh đạo. Hơn 10 tuổi, Saolê đến Jerusalem học với thầy Gamaliel. Trong đền thờ chật người, lần đầu Saolê nghe nói đến Đức Kitô rao giảng ở Galilê. Dù chưa hề gặp Chúa Giêsu, “tiếng gọi” kia vẫn làm ông thay đổi. Ông đã bách hại Giáo hội sơ khai bằng cách hành hạ các tín hữu cho đến chết, trói và tống ngục cả đàn ông lẫn phụ nữ. Người đầu tiên bị Phaolô thủ tiêu là thánh Stêphanô, bị ném đá đến chết trước mặt người Pharisiêu. Vô tri bất mộ. Nhưng rồi Phaolô đã nhận là mình được Thiên Chúa thương đặc biệt. Phaolô đã tin tưởng, kiên trì, tự nhận mình yếu đuối, và ơn tha thứ tuôn đổ trên ông. Phaolô cũng đã than phiền về tính vô định của mình: “Điều tôi muốn thì tôi lại không làm, điều tôi không muốn thì tôi lại làm” (Rm 7:19). Nhưng nhiệm vụ lịch sử của Phaolô là định mệnh không chọn một người khá hơn. Là dân biệt phái, Phaolô đã trích Cựu ước khoảng 200 lần trong các thư gởi các Giáo đoàn. Là người Rôma, Phaolô đã đi khắp Đế quốc, nói 3 ngôn ngữ: tiếng Aram, tiếng Do thái và tiếng Hy lạp, đồng thời còn thông thạo tiếng Latin nữa.

Với tài năng như vậy, Phaolô khả dĩ tự biến thành “mọi sự cho mọi người” – Do thái đối với người Do thái, Rôma đối với người Rôma, ngụy biện đối với người ngụy biện, chân chất đối với người chân chất. Trổi vượt, khôn ngoan và hòa đồng, Phaolô còn là người rất nhân bản, dám tin rằng mọi người đều bình đẳng dù sống ở thời kỳ phân biệt giai cấp.

Hành trình tông đồ của thánh Phaolô đã đưa ngài tới những miền đất lạ, rảo bước khắp Tiểu Á, đến đảo Cyprus để “thả lưới”, vượt sang Âu châu để rửa tội cho những người ở Macedonia. Ngài đến đâu cũng gặp thuận lợi và được chấp nhận như một người Do thái. Chỉ khi đến với dân ngoại, thánh Phaolô mới gặp sự tức giận của người Do thái. Các tư tế cho rằng nam giới phải chịu cắt bì mới được cứu độ, vì luật đã ghi như vậy. Nhưng với tư cách một nhà truyền giáo, thánh Phaolô yêu cầu mỗi Kitô hữu phải bỏ luật Môi-sê, nếu không Kitô giáo không bao giờ là tôn giáo của mọi người, mà vẫn chỉ là sự thay đổi của Do thái giáo: Đức tin mới là vấn đề chứ không phải lề luật theo nghĩa hạn hẹp của nó. Từ đó phân chia thành Công giáo và Do thái giáo.

Không hiểu bằng cách nào mà thánh Phaolô “thương lượng” được để có thể đi qua vùng Cilician Gates, nơi có nhiều bọn thảo khấu ẩn nấp trên các vách đá cheo leo và các thác nước hiểm trở như thế. Ngài thường đi bộ, nhiều đêm phải ở lại trong hang động ẩm ướt, gió lộng, tuyết phủ, mưa bão liên tiếp. Chỉ một mục đích duy nhất khiến ngài miệt mài hành trình tông đồ là “tận hiến cuộc đời cho Chúa Giêsu Kitô”.

Ngài vẫn mưu sinh khi có thể, bằng cách làm vải lều – nghề cũ của ngài. Chẳng hạn ở Côrintô, thành phố trù phú của người Hy lạp, ngài làm chung với vợ chồng người Ý. Cơ sở phát triển tốt. Mọi tầng lớp dân chúng đều ghé vào mua hoặc tham quan và trò chuyện. Tính cách và sự duyên dáng của ngài đã gây ấn tượng với khách thập phương: Một cộng đoàn mới.

Nhiều người ngoại giáo gia nhập đạo. Thánh Phaolô khuyên họ đừng nóng giận, xảo trá, nguyền rủa hoặc mỉa mai người khác. Thời gian ngài ở Côrintô khoảng năm 51 (sau công nguyên), cũng là thời điểm ngài viết các thư gởi các giáo đoàn và các sứ đồ. Kho tàng văn chương độc nhất vô nhị này là một phần trong Tân ước ngày nay, được xuất bản cùng với các Phúc âm. Được viết bằng tiếng Hy lạp cho các giáo đoàn sơ khai và các cá nhân, các thư của ngài viết không có ý tạo nên công việc đơn lẻ. Kết hợp với nhau, các thư có cấu trúc chặt chẽ về tư ưởng tôn giáo, làm cho thánh Phaolô trở nên thần học gia đầu tiên của Kitô giáo. Ngài còn là học giả uyên bác, tử tế, lịch thiệp. Những điều ngài viết ra là những trân châu ngọc bảo.

Thư gởi giáo đoàn Rôma là thư dài nhất và là kiệt tác của thánh Phaolô. Các nền tảng như ân sủng, công trạng và ý muốn tự do, bắt đầu bằng khả năng và chính xác, đó là khởi nguồn cho các thần học gia Kitô giáo. Quan niệm chính của thánh Phaolô là Ơn Cứu Độ: Loài người sống trong tội cho đến khi Thiên Chúa sai Con Ngài là Đức Giêsu đến cứu thoát. Nhờ cuộc sống và cái chết trên Thập giá, Đức Giêsu đã cứu độ nhân loại. Mọi người thực hiện Ơn Cứu Độ của chính mình bằng ân sủng và đức tin. Thánh Phaolô ẩn dụ bằng việc cởi bỏ “con người cũ” có thể ám chỉ việc thay đổi tâm tính của ngài sau biến cố ở Damascus. “Con người mới” sống trong Đức Kitô và “cái chết không còn thống trị trên Ngài”. Trước đây cô đơn và bị bỏ rơi, nhưng thánh Phaolô đã tìm thấy nguồn vui nơi chính Đức Kitô và anh em, và hân hoan tuyên bố vào cuối thời gian rằng chúng ta được kết hợp với Chúa trong vinh quang của Ngài, chúng ta sẽ gặp Ngài trực diện.

Nhiệm vụ của thánh Phaolô gọi ngài đến một nơi khác là Giêrusalem, dù ngài định đi Rôma. Ngài đến Palestine với điềm chẳng lành. Sự thù ghét manh nha trong giới lãnh đạo Do thái. Khi thánh Phaolô vào đền thờ, có tiếng gọi giật ngược. Ngài bị kết án tử vì tội đưa dân ngoại vào đền thờ. Họ kéo ngài ra khỏi đền thờ và hành hạ gần chết. Một binh sĩ Rôma kịp xông vào cùng với vài binh sĩ khác giải cứu thánh Phaolô. Rồi sau đó ngài lại bị tống ngục ở Rôma. Nhiều học giả cận đại cho rằng thánh Phaolô bị kết án và được tha bổng. Các tác giả viết sách Kitô giáo cho biết thánh Phaolô đến tận Tây ban nha và Á châu. Đó là thời gian chống Kitô giáo dữ dội. Khoảng năm 60, thánh Phaolô bị bắt lần nữa và bị giải về Rôma. Tương truyền chính vua Nero, người chống Kitô giáo kịch liệt, đã ngồi ghế thẩm phán kết án thánh Phaolô bị xử trảm tại Hang Khuynh Diệp gần Rôma. Người ta nói rằng thủ cấp của thánh Phaolô rơi xuống và nảy lên 3 lần trên đất tạo thành 3 giếng nước. Cách đó khoảng 2 dặm là Đại Thánh đường Thánh Phaolô Ngoại thành được xây dựng chỉ sau khi ngài tử đạo một thời gian ngắn.

Đức Giêsu đã tạo lập một niềm tin mới, chuyển hóa một Saolê thành một Phaolô hiên ngang đem niềm tin đó tới mọi nơi trên thế giới để có một đạo Công giáo như ngày nay.

ERNEST O. HAUSER

Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ)