Thánh Rôsa-Lima (1586 -1617)- Cha Vương

 Thánh Rôsa-Lima (1586 -1617)

Một ngày đầy nhiệt huyết để yêu Chúa và phục vụ tha nhân nhé bạn. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Rôsa-Lima, mừng Bổn Mạng đến những ai chọn Thánh Rôsa làm quan thầy.

Cha Vương

Thứ 3: 23/08/2022

Thánh Rôsa-Lima (1586 -1617) là Nữ Tu Đa-minh người Pê-ru, và là người sáng lập một Đan Viện chiêm niệm đầu tiên tại Pê-ru. Không chỉ là Nữ Bổn Mạng của Mỹ Châu La-tinh, Thánh Nữ còn được đặt làm Bổn Mạng của đất nước Pê-ru, của thủ đô nước này là Li-ma, của Tây Ấn-độ và của Philippine. Ngài sinh vào ngày 20 tháng 04 năm 1586 tại Li-ma, Pê-ru, với tên trong giấy khai sinh là Isabel de Flores. Cha mẹ Ngài là một cặp vợ chồng nghèo túng người Tây-ban-nha, nhưng lúc đó đã di cư sang Pê-ru, Nam Mỹ, và sống ngay tại thủ đô Lima của nước này. Nàng một mực vâng lời cha mẹ, nàng làm tất cả với một nụ cười thật tươi trên môi do bởi tình yêu Chúa Giêsu. Nàng luôn cố gắng để giúp đỡ mọi người. Rôsa rất xinh đẹp. Mẹ nàng muốn con gái mình mặc áo quần đẹp, nhưng Rôsa thưa với Mẹ: “Mẹ à, chỉ có cái đẹp của tâm hồn mới quan trọng”. Một chàng trai trẻ tuổi, giàu có muốn cưới Rôsa, Chàng xin dâng một căn nhà đẹp và nhiều tôi tớ phục vụ cho nàng, nhưng nàng từ chối. Nàng đã yêu chúa với tất cả con tim và chỉ muốn phục vụ Thiên Chúa mà thôi. Khi cha mẹ lâm cảnh nghèo túng, Rôsa đi làm việc mỗi ngày, ban đêm phải may thêm để giúp cha mẹ. Rôsa đến thăm nhà của những người nghèo và mang cho họ thức ăn. Nàng dâng mọi nỗi khó nhọc và làm những công việc tốt lành để cầu xin cho những người tội lỗi quay về với Chúa. Thiên Chúa thường hiện ra với thánh nữ dưới dạng một em bé nhỏ để nói chuyện với nàng là ngài thật hài lòng về những việc làm tử tế của Thánh nữ. Rôsa qua đời khi nàng mới 31 tuổi. Thánh nữ là vị thánh tiên khởi của miền Nam Mỹ châu. (Hạnh Các Thánh, Lm Lovasik SVD)

Sau đây là những câu nói của ngài:

(1) Nếu mọi người biết ơn thánh là gì, họ sẽ muốn được chịu đau khổ, sẽ đón tìm cực khổ, bắt bớ để chiếm hữu cho được, bởi vì ơn thánh là cái giá khôn sánh đáp đền cho lòng nhẫn nại.

(2) Thiếu gánh nặng đau khổ thì không thể đạt đến đỉnh cao ơn thánh. Những tặng ân ơn thánh gia tăng khi các cuộc giao chiến gia tăng.

(3) Khi chúng ta phục vụ người nghèo và người bệnh, là chúng ta phục vụ chính Chúa Giê-su. Chúng ta không được lơ là trong việc giúp đỡ tha nhân, vì chúng ta phục vụ Chúa Giê-su trong anh em. 

(4) Không có đau khổ thì không thể đạt tới đỉnh cao của sự thánh thiện.

(5) Lạy Chúa xin gia tăng đau khổ cho con—cùng với các đau khổ, xin tăng bội Tình yêu cho trái tim con.

 Câu nào đánh động bạn nhất? Tại sao? Theo mình thì câu số 1 đánh động mình nhất bởi vì nhờ ơn thánh mình mới có đủ sinh lực để đương đầu với căn bệnh hiểm nghèo của mình. Có những ngày mình cảm thấy thân xác mình như là một bình sành rất mỏng và dễ bể…

Hôm nay bạn hãy tìm cách bắt chước một nhân đức của thánh nhân, sống đơn sơ và kiên nhẫn hơn nhé.

Lạy Thánh nữ Rosa Lima xin cầu bầu cho con trước ngai tòa Chúa để con biết sống bác ái như thánh nữ mà không đắn đo hơn thiệt.

From: Đỗ Dzũng

Thánh Bê-na-đô (Bernard) ở Clairvaux (1091-1153)-Cha Vương

Thánh Bê-na-đô (Bernard) ở Clairvaux (1091-1153)

Ngày Thứ 7 tràn đầy Tình Yêu của Thiên Chúa nhé. Nếu bạn bước theo chân các Thánh, thế nào bạn cũng sẽ gặp Chúa Kitô và Đức Maria Mẹ Ngài. Hôm nay ngày 20/08, Giáo Hội mừng kính thánh Thánh Bê-na-đô (Bernard) ở Clairvaux, 1091-1153, viện phụ, Tiến Sĩ Hội Thánh. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy, và mời bạn hãy noi gương ngài để đến gần với Chúa và Mẹ hơn.

Cha Vương

Thứ 7: 20/08/2022

Bê-na-đô sinh năm 1090 tại Fontaines-les-Dijon, Burgundy, nước Pháp trong một gia đình quý tộc. Khi 20 tuổi, Bê-na-đô từ giã quê nhà ở Burgundy để gia nhập cộng đồng đan sĩ ở Citeaux. Năm người anh em, hai người chú của ngài và khoảng 30 người bạn theo ngài vào đan viện. Trong vòng bốn năm, một cộng đoàn đang tàn lụi đã phục hồi sinh lực đủ để khai sinh một đan viện mới trong thung lũng Wormwoods gần đó, với Bê-na-đô làm đan viện trưởng. Nhiệt huyết của người thanh niên trẻ tuổi này là một đòi hỏi thật khắt khe, nhưng đối với chính ngài hơn là người khác. Một cơn bệnh nặng đã khiến ngài kiên nhẫn hơn và thông cảm hơn. Không bao lâu, thung lũng này được gọi là Clairvaux, thung lũng ánh sáng. Ngài có tài phân xử và cố vấn. Do đó, càng ngày ngài càng phải xa đan viện để giải quyết các tranh chấp đã có từ lâu trong Giáo Hội. Thánh Bê-na-đô là người đã can thiệp vào một vụ li giáo đang bùng nổ mạnh và đã đứng về phía đức giáo hoàng ở Rôma để chống với phe ngụy giáo hoàng.

Theo truyền tụng, những lời than thở “Ôi khoan thay, nhân thay, diệu thay, Trinh Nữ Maria!” đã được thánh Bê-na-đô ứng khẩu thêm vào cuối câu kinh Chào Kính Nữ Vương. Thánh nhân đã có công phổ biến thánh thi ấy trong các cộng đoàn tu trì và các đền thánh. Năm 1220, dòng Citeaux đã quyết định buộc mọi phần tử trong dòng phải đọc thánh thi ấy hàng ngày. Kinh Hãy Nhớ, một bản kinh Thánh Mẫu rất được yêu chuộng cũng được cho là của thánh Bê-na-đô ở Claiveaux, mặc dù xác quyết này thỉnh thoảng cũng bị phản đối.

Thánh Nhân qua đời ngày 20 tháng 8 năm 1153 tại đan viện Clairvaux. Thánh Bê-na-đô ở Clairvaux được Đức Giáo Hoàng Alexander III tôn phong hiển thánh năm 1170. Đức Giáo Hoàng Pius VIII đã tuyên xưng Thánh Bê-na-đô ở Clairvaux là Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1830. (Tóm tắt từ Nguồn: Người Tín Hữu)

Sau đây là những lời nói của Thánh Bê-na-đô:

(1) Khi Thiên Chúa yêu, thì Người không muốn điều gì khác hơn là được yêu: Thật vậy, Thiên Chúa yêu, thì Người không nhằm điều gì khác ngoài được yêu lại, vì Người biết ai yêu mến Người thì sẽ được hạnh phúc nhờ chính tình yêu đó.

(2) “Đấng chiếm đoạt những con tim” là tước hiệu mà thánh Bê-na-đô đã yêu tặng Mẹ.

(3) Ơn chiêm niệm chỉ được ban cho khát vọng thao thức và nài nẵng. 

(4) Cầu nguyện là thứ rượu làm vui thỏa tâm hồn con người.

(5) Tôi biết các binh lính phải khổ sở rất nhiều và phải chịu đựng trong âm thầm. Giả như mỗi sáng khi thức giấc, họ chịu khó thân thưa với Thiên Chúa lời than thở đơn sơ này: “Lạy Thiên Chúa của con, con ước ao làm và chịu đựng mọi sự trong ngày hôm nay vì yêu mến Chúa.” Họ sẽ tích lũy được nhiều vinh quang muôn đời.

(6) Khi hiểm nguy, khi do dự, khi khó khăn, hãy nghĩ đến Ðức Maria, hãy kêu cầu Ðức Maria. Liên lỉ kêu cầu danh ngài, hễ có đau khổ thì hãy chấp nhận trong lòng vì danh ngài. Có như thế, bạn mới chắc chắn được sự trợ giúp của lời ngài cầu bầu, đừng sao nhãng theo bước chân ngài. Với sự dẫn dắt của ngài, bạn sẽ không bao giờ lạc lối; khi cầu khẩn ngài, bạn sẽ không bao giờ nhát đảm; một khi có ngài trong tâm trí, bạn sẽ không bị lừa dối; khi được ngài nắm tay, bạn sẽ không thể vấp ngã; với sự phù trì của ngài, bạn không còn gì để sợ hãi; nếu theo ngài, bạn sẽ không mệt mỏi; nếu được ngài ưu đãi, bạn sẽ đạt được mục đích.

Câu nào đánh động Bạn nhất? Đối với mình thì câu số 5 đánh động mình nhất.

Thánh Bê-na-đô, cầu cho chúng con.

Thánh Stêphanô (Stephen) vua nước Hungary (975-1038)-Cha Vương

Thánh Stêphanô (Stephen) vua nước Hungary (975-1038).

Tạ ơn Chúa đã ban cho bạn thêm một ngày nữa để yêu thương, để tha thứ và để chia sẻ. Hôm nay Giáo Hội mừng kính thánh Stêphanô (Stephen) vua nước Hungary

(975-1038). Mừng quan thầy đến những ai mang tên Stephen nhé.

Cha Vương

Thứ 3: 16/8/2022

Giáo Hội là của chung mọi người, nhưng sự biểu hiện của Giáo Hội luôn luôn bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa địa phương—có thể tốt hoặc có thể xấu. Không ai được gọi là Kitô Hữu “thuần chủng”; nhưng là Kitô Hữu Việt Nam, Kitô Hữu Hoa Kỳ, Kitô Hữu Mễ Tây Cơ. Sự kiện này rất hiển nhiên trong cuộc đời của Thánh Stêphanô, vị anh hùng dân tộc và quan thầy của nước Hung Gia Lợi.

Sinh trong một gia đình ngoại giáo, ngài được rửa tội khi lên 10 tuổi cùng với người cha, là tù trưởng của sắc tộc Magyar, một bộ lạc chuyên nghề cướp bóc chiếm đóng vùng Danube trong thế kỷ thứ chín. Khi lên nối ngôi cha, Stêphanô đã thay đổi hẳn đường lối cai trị, đưa sắc tộc Magyar theo tinh thần Kitô Giáo và dồn mọi nỗ lực để quảng bá đức tin. Ngài bảo trợ các vị lãnh đạo Giáo Hội, giúp xây dựng các nhà thờ, và là một phần tử ủng hộ quyền lợi của Tòa Thánh.

    Nhưng sự đối xử của ngài đối với người ngoại giáo có phần nào quá cứng rắn. Ngài đưa Kitô Giáo trở thành quốc giáo và trừng phạt nặng nề các thói tục dị đoan phát xuất từ ngoại giáo. Ngài cũng ra lệnh mọi người phải kết hôn, ngoại trừ hàng giáo sĩ, và cấm người Kitô giáo không được lấy người ngoại giáo.

    Stêphanô cũng dẹp tan nhiều cuộc nổi loạn của các phe quý tộc ngoại giáo nổi lên chống với Kitô Giáo. Ðể thừa nhận công trạng của ngài, vào năm 1000, Stêphanô được Ðức Giáo Hoàng Sylvester II xức dầu tấn phong làm vua Hung Gia Lợi và được nhận vương miện cũng như thánh giá từ tay đức giáo hoàng.

    Tuy là vua nhưng đời sống cá nhân của Stêphanô là một bài học thầm lặng cho những người biết đến ngài. Ai ai cũng có thể đến với ngài và mọi người, nhất là người nghèo được ngài đối xử cách công bằng. Ngài dùng tiền của để giúp đỡ người nghèo, nhiều khi ngài ngụy trang để giúp đỡ họ và có lúc tưởng đã thiệt mạng vì hoạt động này.

    Stêphanô làm vua Hung Gia Lợi trong bốn mươi hai năm. Ngài từ trần năm 1038 và được Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô VII phong thánh năm 1083.

LỜI BÀN: Ðể nên thánh cần có lòng yêu thương Thiên Chúa và tha nhân như Ðức Kitô. Ðức ái đôi khi mang một bộ mặt lạnh lùng nghiêm khắc vì mục đích thiện hảo. Ðức Kitô đả kích sự giả dối của người Pharisiêu, nhưng khi từ trần Ngài đã tha thứ cho họ. Thánh Phaolô ra vạ tuyệt thông một người loạn luân ở Côrintô “để hy vọng linh hồn của họ được cứu rỗi.” Một số Kitô Hữu chiến đấu trong các cuộc Thập Tự Chinh với sự hăng say cao quý, dù rằng có nhiều người tham gia với động lực bất chính. Ngày nay, sau các cuộc chiến vô nghĩa, và với sự hiểu biết sâu đậm hơn về các động lực phức tạp của con người, chúng ta dường như không dám dùng đến bất cứ hình thức bạo lực nào. Sự hiểu biết tốt đẹp này vẫn còn tiếp tục mỗi khi người ta tranh luận rằng, một Kitô Hữu thì có nên là người tuyệt đối yêu chuộng hòa bình, hoặc đôi khi sự dữ cần phải được dẹp tan bằng võ lực.

LỜI TRÍCH: “Dù Giáo Hội đã góp phần nhiều trong sự phát triển văn hóa, nhưng kinh nghiệm cho thấy, vì lý do hoàn cảnh, đôi khi thật khó để hòa hợp văn hóa với giáo huấn Kitô Giáo.” “Những khó khăn này không nhất thiết làm tổn thương đến đời sống đức tin, trái lại, còn có thể thúc đẩy lý trí tìm hiểu đức tin một cách chính xác và sâu rộng hơn. Thực vậy, những cuộc nghiên cứu và những phát minh gần đây về khoa học, sử học và triết học đã nêu lên các vấn đề mới có ảnh hưởng đến đời sống và đòi hỏi phải có các nghiên cứu thần học mới” (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay, 62). (Trích Gương Thánh Nhân – ns Người Tín Hữu online)

Thánh Stêphanô, cầu cho chúng con.

From: Đỗ Dzũng

Lễ Thánh Clara, đồng trinh (1194-1253)- Cha Vương

Lễ Thánh Clara, đồng trinh.

Chúc bình an, hôm nay 11/8, Giáo Hội mừng kính Lễ Thánh Clara, đồng trinh. Ngài là bổn mạng của Giáo Xứ mình đó. Xin bạn một lời cầu nguyện cho giáo dân của mình và cho công việc mục vụ trong giáo xứ. Mừng Bổn Mạng đến tất cả mọi người nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 11/08/2022

Thánh Clara (St. Clare of Assisi, 1194-1253) là thiếu nữ xinh đẹp của một gia đình giầu có ở Assisi. Khi mười tám tuổi, ngài được khích động bởi một bài giảng của Thánh Phanxicô Assisi, và cương quyết noi gương các tu sĩ Phanxicô, thề sống khó nghèo, tận hiến cho Thiên Chúa. Gia đình ngài hoảng sợ, dùng sức lực ép buộc ngài phải trở về nhà; nhưng một đêm kia, trong một hành động vừa có tính cách khôn khéo và ý nghĩa, ngài lẻn ra khỏi nhà qua “cánh cửa người chết” (cánh cửa nhỏ để khiêng người chết ra ngoài), và đến với các tu sĩ Phanxicô.

    Trong một nhà nguyện nhỏ bé ở ngoại ô, Thánh Phanxicô đã cắt mái tóc của Clara và trao cho thánh nữ chiếc áo nâu thô kệch làm chiếc áo dòng. Sau đó, thánh nữ sống với các nữ tu dòng Bênêđíctô cho đến khi có thêm sự gia nhập của các phụ nữ khác, trong đó có cả người mẹ goá bụa của ngài và các phụ nữ thuộc gia đình quý tộc ở Florence.

    Cộng đoàn nhỏ bé ấy dần dà được biết đến dưới tên Các Chị Em Hèn Mọn (các tu sĩ Phanxicô là Anh Em Hèn Mọn) hoặc dòng Clara Khó Nghèo. Khi tu hội được thành lập, Thánh Phanxicô đề nghị Clara làm bề trên, nhưng ngài từ chối cho đến khi được hai mươi mốt tuổi. Các nữ tu trong dòng tận tụy trong việc cầu nguyện, chăm sóc bệnh nhân và thi hành việc bác ái cho người nghèo và người bị ruồng bỏ.

    Họ sống theo một quy luật khắc khổ hơn bất cứ tu hội phụ nữ nào khác trong thời ấy, và tuyệt đối khó nghèo, cả về phương diện cá nhân cũng như cộng đoàn. Họ đi chân đất, không có giường, mà nằm trên các khúc gỗ được đan lại và chăn mền là vỏ cây gai dệt thành. Gió mưa tha hồ lọt qua các vết nứt ở mái nhà cũng như vách gỗ. Họ ăn rất ít và không bao giờ ăn thịt. Thực phẩm của họ là tất cả những gì xin được. Bất kể sự khắc khổ của đời sống, những người theo Thánh Clara lại là những thiếu nữ xinh đẹp nhất Assisi và lúc nào họ cũng có niềm vui vì được sống gần Thiên Chúa.

     Thật vậy, Thiên Chúa đã gìn giữ họ khỏi sự nguy hiểm khi bọn lính hung dữ đến tấn công Assisi và dự định bố ráp tu viện này trước hết. Lúc ấy, dù đang đau nặng, Thánh Clara đã gắng gượng quỳ xuống trước cổng, tay nâng Mình Thánh trong mặt nhật và ngài cầu xin, “Lạy Chúa, xin hãy gìn giữ các nữ tu mà con không thể nào bảo vệ nổi.” Sau đó, dường như có tiếng trả lời: “Ta sẽ luôn gìn giữ họ” và đồng thời ngay lúc ấy, quân lính cảm thấy vô cùng sợ hãi và họ chạy tán loạn.

    Thánh Clara làm bề trên tu viện trong bốn mươi năm mà hai mươi chín năm ấy ngài trong tình trạng đau yếu. Nhưng lúc nào ngài cũng vui vẻ vì cho rằng đó là sự phục vụ Thiên Chúa. Nhiều người cho rằng các nữ tu đau yếu là vì quá khắc khổ. Ngài nói, “Họ nói chúng tôi quá nghèo khổ, nhưng một tâm hồn có được Thiên Chúa vĩnh cửu thì có thực sự nghèo không?”

    Thánh Clara từ trần ngày 11 tháng Tám 1253. Chỉ hai năm sau, ngài đã được Ðức Giáo Hoàng Alexander IV tôn phong lên bậc hiển thánh.

    Sau đây là những câu nói của Thánh Clara, mời Bạn đọc và suy niệm để noi gương yêu mến Chúa của ngài:

❦ Các Chị Em Hèn Mọn sống tuyệt đối khó nghèo… Nhiều người cho rằng các nữ tu đau yếu là vì quá khắc khổ. Ngài nói, “Họ nói chúng tôi quá nghèo khổ, nhưng một tâm hồn có được Thiên Chúa vĩnh cửu thì có thực sự nghèo hay không?”

❦ Yêu mến Chúa, phụng sự Chúa; mọi thứ đều ở trong đó.

❦ Yêu mến Người thì sẽ say mê, chiêm ngưỡng thì được thêm sức mạnh. Lòng nhân hậu của Người làm ta no thoả, sự dịu dàng của Người làm ta ngây ngất.

❦ Nỗi ưu phiền là thuốc độc đối với lòng sùng kính. Khi gặp thử thách, chúng ta cũng nên hân hoan hơn vì chúng ta đang được GẦN CHÚA hơn. 

Thánh nữ Clara, cầu cho chúng con.

From: Đỗ Dzũng

Thánh Lô-ren-sô (St. Lawrence)-Cha Vương

Thánh Lô-ren-sô (St. Lawrence)

Mến chào một ngày mới, hôm nay 10/08 Giáo Hội mừng kính Thánh Lô-ren-sô (St. Lawrence) thế kỷ thứ ba, phó Tế tử đạo. Mừng Bổn Mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé. Hãy bảo trọng và cầu nguyện cho nhau.

Cha Vương

Thứ 4: 10/08/2022

Thánh Lôrensô là một trong bảy nô bộc của giáo hội (phó tế) chịu trách nhiệm giúp đỡ người nghèo túng và ngài được giao cho trách nhiệm “quản lý tài sản của giáo hội”. Khi sự cấm đạo dưới thời hoàng đế Valerian bùng nổ, Thánh Giáo Hoàng Sixtus bị kết án tử hình cùng với sáu nô bộc khác. Khi đức giáo hoàng bị điệu ra pháp trường, Lôrensô đi theo khóc lóc nức nở, ngài hỏi, “Cha ơi, cha đi đâu mà không cho nô bộc này theo?” Ðức giáo hoàng trả lời, “Con ơi, ta không bỏ con đâu. Trong ba ngày nữa, con sẽ theo ta.” Nghe thấy thế, Lôrensô thật vui mừng, ngài về phân phát hết tiền của trong kho cho người nghèo, và còn bán cả các phẩm phục đắt tiền để có thêm của cải mà phân phát.

        Quan Tổng Trấn Rôma, một người tham lam, nghĩ rằng Giáo Hội có giấu giếm nhiều của cải. Do đó, ông ra lệnh cho Lôrensô phải đem hết tài sản của Giáo Hội cho ông. Vị thánh trả lời, xin cho ba ngày. Thế là ngài đi khắp thành phố, quy tụ mọi người nghèo khổ, đau yếu được Giáo Hội giúp đỡ. Khi trình diện họ trước mặt quan, ngài nói: “Ðây là tài sản của Giáo Hội!”

        Giận điên người, quan tổng trấn xử phạt Lôrensô phải chết cách thê thảm và chết dần mòn. Vị thánh bị cột trên một vỉ sắt lớn với lửa riu riu để từ từ thiêu đốt da thịt của ngài, nhưng thánh nhân đang bừng cháy với tình yêu Thiên Chúa nên dường như ngài không cảm thấy gì. Thật vậy, Thiên Chúa còn ban cho ngài sức mạnh đến độ có thể đùa bỡn. Ngài nói với quan tòa, “Lật tôi đi chứ. Phía bên này chín rồi!” Và trước khi trút hơi thở cuối cùng, ngài nói, “Bây giờ đã chín hết rồi.” Sau đó ngài cầu xin cho thành phố Rôma được trở lại với Ðức Kitô và cho Ðức Tin Công Giáo được lan tràn khắp thế giới. Và ngài tiến lên lãnh nhận triều thiên tử đạo. (Trích Gương Thánh Nhân – ns Người Tín Hữu online)

        Noi gương quả cảm của Thánh Lô-ren-sô, mời Bạn hãy làm một việc hy sinh để cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các quốc gia trên thế giới, xin Chúa thương soi trí mở lòng để họ biết hành động theo thánh ý Chúa mà tận tình lo cho dân nước được an cư lập nghiệp và vui hưởng tự do. 

Thánh Lô-ren-sô, cầu cho chúng con.

Thánh Đa Minh – Cha Vương

 Thánh Đa Minh sinh năm 1170   

Ngày Thứ 2 bình an và hạnh phúc nhé. Hôm nay 8/8 Giáo Hội mừng kính Thánh Đa Minh, chúc mừng Bổn Mạng đến các nam nữ tu sĩ, linh mục Dòng Đa Minh và những ai nhận thánh Đa Minh làm quan thầy. Chúc mừng! Chúc mừng!

Cha Vương

Thứ 2: 8/8/2022

Thánh Đa Minh sinh năm 1170 tại Caleruega, thuộc dòng tộc Guzman, nên được gọi là Đa Minh Guzman. Guzman là một dòng tộc vị vọng tại Tây ban nha vào thời trung cổ. Thân phụ ngài là ông Felix, một kiếm sĩ “tuyệt vời và dịu dàng.” Bà cố là Joanna d’Aza, xuất thân từ gia đình cao quý. Bà cố đạo đức và được đức giáo hoàng Leo XII tuyên phong chân phước. Bên cạnh Đa Minh, bà cố còn có một người con nữa cũng là chân phước dòng Đa Minh: Mannes. Thực là gia đình đạo hạnh: một thánh, hai chân phước. Theo thánh Jordan Saxony, vị ký lục về cuộc đời Đa Minh kể lại, thì khi đang mang thai, bà cố mơ thấy mình cho chào đời một con chó ngậm bó đuốc đang cháy sáng và mang lửa đến khắp thế giới. Rồi trong ngày thánh nhân rửa tội, mẹ đỡ đầu trông thấy trên trán chú bé một ngôi sao sáng, chiếu tỏa chung quanh. Do đó tại sao ngày nay khi tạc tượng thánh Đa Minh, người ta cũng tạc luôn tượng con chó đang ngậm đuốc sáng nằm dưới chân, còn trên trán ngài thì có ngôi sao sáng. Dù được cưng chiều, thánh Đa Minh sớm sống đời khổ hạnh. Đến tuổi đi học, Đa Minh được gởi tới thụ giáo với ông cậu là linh mục ở Gumiel. Năm 14 tuổi, Ngài theo học tại đại chủng viện ở Palencia và đã tiến triển rất nhanh về hiểu biết lẫn nhân đức. Nạn đói lan tràn nước Tây Ban Nha, một người bạn đến thăm Đa Minh không thấy đồ dùng lẫn những pho sách quí đâu nữa. Ngài đã bán để giúp người nghèo khó rồi. Gương sáng này đã lôi kéo được nhiều sinh viên lẫn các giáo sư bắt chước. Ngài là đấng sáng lập Dòng Anh Em Giảng Thuyết (Ordo Praedicatorum”, viết tắt: O.P.) về sau người ta thường gọi là Dòng Đa Minh. Vào năm 1206 thánh nhân lập hội dòng nữ Đa Minh đầu tiên tại Prouille, nước Pháp. Ngài chọn đường lối rao giảng Tin Mừng bằng cách lấy khó nghèo và cầu nguyện làm gương sáng thu hút mọi người. Cuộc đời của thánh Đa Minh được giáo hội ca tụng là ngài chỉ “nói với Chúa, về Chúa và trong Chúa.” Đem Chúa đến cho tha nhân, và nhờ sức mạnh của lời cầu nguyện, người dẫn đưa tha nhân về với Chúa. Chân phước Jordano ghi rằng: Cha thường cầu nguyện suốt đêm, Chúa đã ban cho cha ơn đặc biệt cầu nguyện cho các tội nhân, cho người nghèo và người sầu khổ. Cha cảm thông với những đau cổ của họ tận đáy lòng, và biểu hiện ra bên ngoài bằng những dòng nước mắt. Có khi giữa đêm thanh vắng. Ngài lớn tiếng kêu nài: Chúa ơi! Rồi đây các tội nhân sẽ ra sao? Một hôm Thánh Nhân rảo qua khắp nẻo trên đường giảng dạy, một thanh niên ngây ngất hỏi Ngài đã học cách nào, Ngài nói: Hỡi con trong sách đức ái đó, sách này hơn mọi sách dạy bảo tất cả. (Nguồn: Hạnh Các Thánh)

Hôm nay mời Bạn hãy bắt chước Thánh Đa Minh, bằng chính đời sống cầu nguyện của mình, “đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Máccô 16:15), và qua việc cầu nguyện dẫn đưa tha nhân về với Chúa.

From: Do Dzung

Thánh Phêrô Giu-li-a-nô Ema (Peter Julian Eymard)-Cha Vương

Thánh Phêrô Giu-li-a-nô Ema (Peter Julian Eymard)

Chúc Bạn một ngày bình an thật gần gũi với Chúa trong công việc hằng ngày nhé. Hôm nay Giáo Hội mừng lễ kính Thánh Phêrô Giu-li-a-nô Ema, đấng sáng lập hội chị em Thánh Thể và dòng Bí Tích Thánh Thể của các linh mục. Hãy tạ ơn Chúa đã nuôi dưỡng ta bằng Bánh Hằng Sống. 

Cha Vương

Thứ 3: 02/08/2022

Cuộc đời của Thánh Phêrô Giu-li-a-nô Ema (Peter Julian Eymard) nhắc nhở việc chúng ta làm ở đời này, hành hương trong thế giới này là khẩn thiết xin Bánh Hằng Sống: Bí Tích Thánh Thể. Phêrô sinh tại nước Pháp năm 1811 được thụ phong linh mục và sau 5 năm dùng thư từ, hình ảnh và mọi phương tiện truyền thông để truyền giáo, cha nhập dòng Marist Father, rồi làm giám đốc tiểu chủng viện và sau đó cha thuộc về địa phận Lyons. Năm 1856 cha dã lời khấn của dòng Marist và cha tổ chức phong trào linh mục tận hiến cho Bí Tích Thánh Thể họ đã say mê suốt đời để tôn thờ và tận hiến cho Thánh Thể. Cha Phêrô cũng thành lập hội chị em Thánh Thể và Bí Tích Thánh Thể của các linh mục nhằm liên kết trong cùng một tình anh em nhờ phép Thánh Thể.  Bằng ngòi bút và đặc biệt là nhờ gương sáng của mình cha Phêrô đã khám phá tìm tòi làm nên lễ Hy tế và tạ ơn cho chúng ta. Thiên chúa được mọi người biết hiểu hơn và yêu chúa nhiều hơn, công việc của cha Phêrô chứng tỏ rằng sự hiện diện của Bí Tích Thánh Thể trong đời sống chúng ta là một ngưỡng vọng kết hợp chúng ta với cha trên trời thành một. (Hạnh Các Thánh, Father Lovasik, SVD)

Mời Bạn suy niệm những lời Cha Phêrô nói để xét lại vai trò của mình đối với Bí Tích Thánh Thể:

(1) “Hỡi các Kitô hữu, hãy biết rằng Thánh Lễ là hành động thánh thiện nhất trong đạo chúng ta.  Không có gì vinh danh Chúa hơn, và hữu ích cho linh hồn hơn là sốt sắng tham dự Thánh Lễ, càng nhiều càng tốt.”  -(Thánh Phêrô Julian Eymard)

(2) “Cho đến khi nào chúng ta chưa có được một tình yêu thiết tha dành cho Đức Ki-tô trong Phép Thánh Thể thì chúng ta sẽ chẳng làm được việc gì trọn vẹn.” – (Thánh Phêrô Julian Eymard)

(3) “Chúa đã đeo bám tôi một thời gian lâu dài… nhưng tôi lại cứ quyến luyến với cái hão huyền để tránh né vực thẳm tình yêu Chúa Giêsu đã dành cho tôi.”- (Thánh Phêrô Julian Eymard)

(4) Thánh Phêrô Julian Eymard tin chắc rằng người ta càng gần Đức Mẹ thì càng được kéo đến gần Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể.

Câu nào đánh động Bạn nhất, tại sao? Đối với mình thì câu số 3…

Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con cách sống tôn thờ, xin dạy chúng con noi gương Mẹ tìm kiếm các mầu nhiệm và các ân sủng nơi Thánh Thể, sống Phúc   Âm, và đọc Phúc   Âm nơi cuộc đời của Chúa Giêsu Thánh Thể. Lạy Đức Mẹ Thánh Thể, xin hãy nhớ Mẹ là Mẹ của những người tôn thờ Thánh Thể. (Lời nguyện ngắn của Thánh Phêrô Eymard)

From: Đ Dzũng

Thánh Anphonsô, Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (1696-1787) – Cha Vương

 Thánh Anphonsô, Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (1696-1787) – Cha Vương

Chúc bình an đến Bạn và gia đình. Hôm nay 01/8 Giáo hội mừng kính Thánh Anphonsô, Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (1696-1787). Mừng Bổn Mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé. Xin một lời kinh cầu nguyện cho Lh Cha Phê-rô Thăng phó xứ Các Thánh Tử Vì Đạo mới qua đời hôm qua. Xin đa tạ. 

Cha Vương

Thứ 2: 01/08/222

Alphonso sinh ngày 27 tháng 9 năm 1696 tại Marianelli gần Naples, nước Ý Đại Lợi trong một gia đình quý phái đạo đức. Vào năm 16 tuổi, ngài lấy bằng tiến sĩ giáo luật và dân luật của Đại Học Naples, nhưng sau đó đã bỏ nghề luật sư để hoạt động tông đồ. Ngài được thụ phong linh mục năm 29 tuổi và dồn mọi nỗ lực trong việc tổ chức tuần đại phúc ở các giáo xứ, cũng như nghe xưng tội và thành lập các đoàn thể Kitô Giáo.

Ngài sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế (The Congregation of the Most Holy Redeemer “Liguorians; Redemptorists”) tại Scala, nước Ý năm 1732. Đó là một tổ chức của các linh mục và tu sĩ sống chung với nhau, tận tụy theo gương Đức Kitô và hoạt động chính yếu là tổ chức tuần đại phúc cho nông dân ở thôn quê. Như một điềm báo cho điều sẽ xảy ra sau này, sau một thời gian hoạt động, những người đồng hành với ngài ngay từ khi thành lập đã từ bỏ tu hội và chỉ còn lại có một thầy trợ sĩ. Nhưng tu hội cố gắng sống còn và được chính thức chấp nhận vào 17 năm sau, dù khó khăn vẫn chưa hết.

Sự canh tân mục vụ lớn lao của cha Anphong là cách giảng thuyết và giải tội – ngài thay thế kiểu hùng biện khoa trương, thùng rỗng kêu to, bằng sự giản dị dễ hiểu, và thay thế sự khắc nghiệt của thuyết Jansen bằng sự nhân từ. Tài viết văn nổi tiếng của ngài phần nào đã làm lu mờ công lao khó nhọc mà ngài đã ngang dọc vùng Naples trong 26 năm trường để tổ chức tuần đại phúc. Ngài được Đức Giáo Hoàng Clement XIII bổ nhiệm làm Giám Mục Giáo Phận Thánh Agata dei Gotti năm 1762. Ngay sau khi nhậm chức, ngài đã cải tổ toàn diện giáo phận.

Hạnh tích kể rằng một trong các linh mục của dòng có cuộc sống rất trần tục, và cưỡng lại mọi biện pháp nhằm thay đổi lối sống ấy. Vị linh mục được Đức Cha Anphong mời đến, và ngay ở lối vào phòng của ngài, thánh nhân cho đặt một tượng thánh giá thật lớn. Khi vị linh mục do dự không dám bước qua, Đức Cha Anphong ôn tồn nói, “Hãy bước vào đi, và nhớ đạp lên thánh giá. Đây không phải lần đầu tiên mà cha đạp Chúa dưới chân mình.”

Thánh Anphong nổi tiếng về nền tảng thần học luân lý, nhưng ngài cũng sáng tác nhiều trong lãnh vực tâm linh và thần học tín lý. Văn bản Các Vinh Danh của Đức Maria là một trong những công trình vĩ đại về chủ đề này, và cuốn Viếng Thánh Thể được tái bản đến 40 lần trong đời ngài, đã ảnh hưởng nhiều đến sự sùng kính Thánh Thể trong Giáo Hội.

Trong cuộc đời ngài, thánh nhân phải tranh đấu để giải thoát nền thần học luân lý khỏi sự khắc khe của chủ thuyết Jansen. Thần học luân lý của ngài, đã được tái bản 60 lần trong thế kỷ sau khi ngài từ trần, chú trọng đến các vấn đề thực tiễn và cụ thể của các cha xứ và cha giải tội. Nếu có thói vụ luật và giảm thiểu hóa luật lệ xen vào thần học luân lý, chắc chắn nó không thuộc về mô hình thần học tiết độ và nhân từ của ngài.

Vào năm 71 tuổi, ngài bị đau thấp khớp khủng khiếp. Ngài đau khổ trong 18 tháng sau cùng với “sự tăm tối” vì sự do dự, sợ hãi, bị cám dỗ đủ mọi khía cạnh đức tin và mọi đức tính. Ngài qua đời ngày 01 tháng 8 năm 1787 tại Nocera de’ Pagani, Salerno.

Đức Giáo Hoàng Pius VI công nhận các nhân đức anh hùng của Đấng Đáng Kính Alphongsus năm 1796. Đức Giáo Hoàng Pius VII tôn phong Chân Phước cho ngài ngày 15 tháng 9 năm 1816 và Đức Giáo Hoàng Gregory XVI đã nâng ngài lên bậc hiển thánh ngày 26 tháng 5 năm 1839. 

Đức Giáo Hoàng Pius IX đã tuyên xưng thánh Alphonsus Liguori là Tiến Sĩ Hội Thánh ngày 07 tháng 7 năm 1871. Vào năm 1950, Thánh Anphong được Đức Piô XII tuyên xưng là quan thầy của các thần học gia luân lý. (Nguồn: Mạng Nhóm Tinh Thần)

Sau đây là những câu nói của Thánh nhân, mời Bạn suy niệm và tự hỏi ngài đang muốn nhắn nhủ Bạn điều gì nhé:

(1) Ai cầu nguyện, thì được cứu rỗi.

(2) Lạy Mẹ Maria, xin hãy nhận con, như của riêng Mẹ, và cho Mẹ, xin hãy chăm lo phần rỗi của con.

(3) Bất cứ sự bất an nào, cho dù có lý do tốt cách mấy, cũng không thể phát xuất từ Thiên Chúa.

(4) Khi một tư tưởng xấu xa hiện lên trong tâm trí, chúng ta phải cố gắng lập tức hướng tư tưởng về Thiên Chúa hoặc một đều trung lập nào đó. Nhưng qui luật trước tiên là phải lập tức kêu cầu thánh danh Chúa Giêsu và Mẹ Maria và tiếp tục kêu cầu cho đến khi cơn cám dỗ chấm dứt.

(5) Người không bỏ cầu nguyện thì chẳng thể kéo dài thói quen xúc phạm đến Thiên Chúa.

(6) Người nào tin tưởng vào bản thân sẽ hư mất. Người nào tin tưởng vào Thiên Chúa sẽ làm được mọi sự.

(7) Hôm nay Chúa mời bạn làm điều tốt; hãy làm ngay hôm nay. Ngày mai bạn có thể không có thời gian, hoặc Chúa có thể không còn kêu gọi bạn làm điều đó nữa.

(8) Chắc chắn trong tất cả mọi việc đạo đức đứng đầu, sau các Bí tích, là việc thờ lậy Mình Thánh Chúa. Nó rất được Thiên Chúa ưa thích và hữu ích cho chúng ta nhất… Ôi, dịu ngọt biết bao nhiêu, khi ở trước bàn thờ với đức tin… và dâng lên Chúa các nhu cầu riêng như một người bạn làm với một người bạn, với tất cả sự tín cẩn. 

Câu nào đánh động Bạn nhất? Đối với mình câu 4

From: Đỗ Dzũng

Thánh Inhaxiô (I Nhã) Loyola Đấng sáng lập dòng Tên-Cha Vương

Thánh Inhaxiô (I Nhã) Loyola Đấng sáng lập dòng Tên.

Chúc bình an, hôm nay giáo hội mừng kính Thánh Inhaxiô (I Nhã) Loyola Đấng sáng lập dòng Tên. Mừng lễ quan thầy đến những ai nhận Thánh Inhaxiô làm bổn mạng nhé. 

Cha Vương

CN: 31/7/2022

TIN MỪNG: Phải, đối với con người ấy, trọn cuộc đời chỉ là đau khổ, bao công khó chỉ đem lại ưu phiền! Ngay cả ban đêm, nó cũng không được yên lòng yên trí. Điều ấy cũng chỉ là phù vân! (Gv 2:23)

SUY NIỆM: Nếu bạn nhìn vào Sách Giảng Viên dưới một lăng kính tiêu cực thì cuộc đời chỉ là một quyển sách chứa đựng những khoảnh khắc bất mãn và thất vọng. Nhưng nếu bạn nhìn nó dưới góc độ tích cực thì những lời trên đây là một chân lý. Dù bạn là ai, một vị tổng thống hay quân nhân, giàu có hay nghèo hèn, khi giờ điểm đã tới thì tất cả chỉ là hai chữ “phù vân”. Không có gì trong cuộc đời là bền vững, là vĩnh cửu. Tất cả đều tàn phai theo thời gian. Tiền tài, danh vọng và sắc đẹp rồi cũng sẽ có một ngày vuột ra khỏi tầm tay của. Chính cả Vua Salomon đã hiểu ý nghĩa cuộc đời là phù vân này, nên ông đã thốt lên rằng: “Phù vân rất mực phù vân, khó nhọc vất vả thế rồi phải trao lại cho kẻ không vất vả hưởng”.

Khi ta nằm xuống…

Những gì ta xài… đã mất.

Những gì ta để lại… người khác xài.

Ta chỉ đem theo được… những gì ta đã cho.

Khi bạn cho đi thì bạn sẽ lãnh nhận. Nếu bạn muốn nhận nhiều thì bạn hãy cho nhiều đi. Nhạc Sĩ Duy Nhạc đã diễn tả được chân lý “cho đi” này trong bài hát, “Cho Đi Là Lãnh Nhận”: Cho đi một chút mến thương / Nhận về đại dương thắm tình / Cho đi một giọt sương đêm / Nhận về êm đềm cơn mưa. Cho đi một ánh nắng mai  / Nhận về ngày mai tươi nắng / Cho đi một nhịp khởi đầu / Nhận về đẹp mầu tương lai…

Tương lai của bạn không thuộc về thế gian này. (x. Ga 18:36) Nếu bạn muốn có một tương lại và đời sống vĩnh cửu hãy tìm kiếm Thiên Chúa qua đời sống dấn thân, hy sinh và phục vụ, tật dụng những tài năng và khả năng thời gian và tiền bạn Chúa ban để để “cho đi”. Thánh Gioan Phao-lô II nói: “Không ai giàu đến độ không có gì cần phải nhận. Không ai nghèo đến mức không có cái gì để cho”. Nếu không có tiền bạc, ít nhất bạn cũng có thể chia sẻ cho anh chị em nụ cười, sự quan tâm, lời khích lệ và sự cảm thông. Tất cả những điều này, được thực hiện đúng lúc, đúng nơi và với tâm tình trân trọng quý mến, sẽ có giá trị tuyệt vời đó.

LẮNG NGHE: Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.” (Lc 12:20-21)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, con chỉ xin Chúa ban cho con một tấm lòng quảng đại hôm nay thôi. 

THỰC HÀNH: Bạn đang tích trữ cho mình những gì vậy? Của cải thế gian hay tìm kiếm nước Thiên Đàng? Làm một việc thiện hôm nay nhé.

From: Đỗ Dzũng

Thánh Mácta – Cha Vương

Thánh Mácta  

Reng reng! Thức dậy đi chứ, chúc bạn một ngày đầy nhiệt huyết trong tinh thần phục vụ Chúa và tha nhân. Mừng quan thầy Mácta (Martha) đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 29/7/2022

“Ðức Giêsu yêu quý Mácta, Maria và Lagiarô.” Câu nói độc đáo này trong Phúc Âm của Thánh Gioan cho chúng ta biết về sự tương giao đặc biệt giữa Ðức Giêsu và Mácta, người em Maria, và người anh Lagiarô của ngài.

    Hiển nhiên, Ðức Giêsu là người khách thường xuyên đến nhà Mácta ở Bêtania, một ngôi làng nhỏ bé cách Giêrusalem chừng hai dặm. Chúng ta thấy ba lần đến thăm của Ðức Giêsu được nhắc đến trong Phúc Âm Luca 10:38-42, Gioan 11:1-53, và Gioan 12:1-9.

    Nhiều người dễ nhận ra Mácta qua câu chuyện của Thánh Luca. Khi ấy, Mácta chào đón Ðức Giêsu và các môn đệ vào nhà của mình, và ngay sau đó Mácta chuẩn bị cơm nước. Sự hiếu khách là điều rất quan trọng trong vùng Trung Ðông và Mácta là điển hình. Thử tưởng tượng xem ngài bực mình biết chừng nào khi cô em Maria không chịu lo giúp chị tiếp khách mà cứ ngồi nghe Ðức Giêsu. Thay vì nói với cô em, Mácta xin Ðức Giêsu can thiệp. Câu trả lời ôn tồn của Ðức Giêsu giúp chúng ta biết Người rất quý mến Mácta. Ðức Giêsu thấy Mácta lo lắng nhiều quá khiến cô không còn thực sự biết đến Người. Ðức Giêsu nhắc cho Mácta biết, chỉ có một điều thực sự quan trọng là lắng nghe Người. Và đó là điều Maria đã làm. Nơi Mácta, chúng ta nhận ra chính chúng ta – thường lo lắng và bị sao nhãng bởi những gì của thế gian và quên dành thời giờ cho Ðức Giêsu. Tuy nhiên, thật an ủi khi thấy rằng Ðức Giêsu cũng yêu quý Mácta như Maria.

    Lần thăm viếng thứ hai cho thấy Mácta đã thấm nhuần bài học trước. Khi ngài đang than khóc về cái chết của anh mình và nhà đang đầy khách đến chia buồn thì ngài nghe biết Ðức Giêsu đang có mặt ở trong vùng. Ngay lập tức, ngài bỏ những người khách ấy cũng như gạt đi mọi thương tiếc để chạy đến với Ðức Giêsu.

    Cuộc đối thoại của Mácta với Ðức Giêsu chứng tỏ đức tin và sự can đảm của ngài. Trong cuộc đối thoại, Mácta khẳng định rõ ràng là ngài tin vào quyền năng của Ðức Giêsu, tin vào sự phục sinh, và nhất là tin Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa. Và sau đó Ðức Giêsu đã cho Lagiarô sống lại từ cõi chết.

     Hình ảnh sau cùng của Mácta trong Phúc Âm đã nói lên toàn thể con người của ngài. Lúc ấy, Ðức Giêsu trở lại Bêtania để ăn uống với các bạn thân của Người. Trong căn nhà ấy có ba người đặc biệt. Lagiarô là người mà ai cũng biết khi được sống lại. Còn Maria là người gây nên cuộc tranh luận trong bữa tiệc khi cô dùng dầu thơm đắt tiền mà xức lên chân Ðức Giêsu. Về phần Mácta, chúng ta chỉ được nghe một câu rất đơn giản: “Mácta lo hầu hạ.” Ngài không nổi bật, ngài không thi hành những việc có tính cách phô trương, ngài không được hưởng phép lạ kỳ diệu. Ngài chỉ hầu hạ Ðức Giêsu.

    Có truyền thuyết nói rằng ba chị em làng Bêtania đã bị người Do thái bắt thả trôi trên một con thuyền không buồm không chèo không lái. Nhưng họ đã trôi dạt và cặp bến Marseille nước Pháp. Ladarô đã trở thành Giám mục tiên khởi Chúa thành này. Riêng Martha, Ngài đã rao giảng Tin Mừng ở Aix Avignon và Tarascon. 

Thánh Mácta được đặt làm quan thầy của các người hầu hạ và đầu bếp.

(Nguồn: Trích Gương Thánh Nhân – ns Người Tín Hữu online)

From: Đỗ Dzũng

Thánh Giacôbê (James) Tông Đồ – Cha Vương

Thánh Giacôbê (James) Tông Đồ

Chúc ngày đầu tuần zui zẻ, phẻ mạnh, và an lành trong Chúa và Mẹ nhé. Hôm nay 25/07 Giáo Hội mừng kính Thánh Giacôbê (James) Tông Đồ. Mừng quan thầy đến những ai chọn Thánh Giacôbê làm quan thầy hay có tên là James nhé.

Cha Vương

Thu 2: 25/07/2022

Thánh Giacôbê [Cả] là anh của Thánh Gioan Thánh Sử. Cả hai được Ðức Giêsu mời gọi khi họ đang trên thuyền đánh cá, làm việc với người cha ở biển Galilê. Trước đó, Ðức Giêsu đã gọi một đôi anh em khác cũng từ một hoàn cảnh tương tự, đó là Phêrô và Anrê. “Ði xa hơn một chút, Người thấy ông Giacôbê, con ông Zêbêđê, và người em là ông Gioan. Hai ông đang vá lưới ở trong thuyền. Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Zêbêđê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người” (Máccô 1:19-20).

Thánh Giacôbê là một trong ba người được ưu tiên chứng kiến Chúa Hiển Dung, được thấy con gái ông Giairút sống lại và có mặt trong giờ thống khổ của Ðức Giêsu trong vườn Giệtsimani.

Có hai biến cố trong Phúc âm diễn tả tính khí của thánh nhân và người em. Thánh Mátthêu kể rằng mẹ của hai ông đến để xin cho họ được chỗ ngồi vinh dự trong vương quốc (một bên phải, một bên trái Ðức Giêsu). “Ðức Giê-su bảo: ‘Các người không biết các người xin gì. Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?’ Họ đáp: ‘Thưa được’ (Mt 20:22). Sau đó Ðức Giêsu bảo, quả thật họ sẽ uống chén và chia sẻ sự thanh tẩy của Người trong sự đau khổ và cái chết, nhưng việc ngồi bên phải hay bên trái thì không phải là quyền của Ðức Giêsu – chỗ đó “được dành cho những người đã được Cha Thầy chuẩn bị” (Mt 20:23b).

Các tông đồ khác phẫn nộ khi thấy tham vọng của Giacôbê và Gioan. Sau đó Ðức Giêsu dạy họ bài học về sự khiêm tốn phục vụ: Mục đích của quyền bính là để phục vụ. Họ không được áp đặt ý muốn của mình trên người khác, hay sai bảo người khác. Ðây là vị thế của chính Ðức Giêsu. Ngài là tôi tớ của tất cả; sự phục vụ được giao phó cho Ngài là tuyệt đối hy sinh tính mạng mình.

Trong một trường hợp khác, Giacôbê và Gioan chứng minh rằng biệt hiệu mà Ðức Giêsu đặt cho họ – “con của sấm sét”- thì rất thích hợp với họ. Người Samaritanô không đón tiếp Ðức Giêsu vì Người đang trên đường đến Giêrusalem. “Thấy thế, hai môn đệ là ông Giacôbê và ông Gioan nói rằng: ‘Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?’ Nhưng Ðức Giê-su quay lại quở mắng các ông…” (Luca 9:54-55).

Hiển nhiên Thánh Giacôbê là vị tông đồ đầu tiên chịu tử đạo. “Vào thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay ngược đãi một số người trong Hội Thánh. Vua cho chém đầu ông Giacôbê, anh ông Gioan, và khi thấy việc đó làm vừa lòng người Do-thái, nhà vua lại cho bắt cả ông Phê-rô nữa” (CVTÐ 12:1-3a).

Chúng ta đừng nhầm lẫn Thánh Giacôbê với Thánh Giacôbê con Alphê, Thánh Giacôbê hậu “anh em họ” của Đức Giêsu và sau này là Giám Mục Jerusalem cũng là tác giả Thư Thánh Giacôbê. (Nguồn: Nhóm Tinh Thần, Hạnh Thánh)

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã ban cho thánh Giacôbê vinh dự là tông đồ đầu tiên đã chết để làm chứng cho Tin Mừng. Xin cho Hội Thánh tìm được sức mạnh nhờ gương tử đạo của thánh nhân, và nhờ Người cầu thay nguyện giúp, Hội Thánh được luôn nâng đỡ phù trì (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Giacô-bê tông đồ).

From: Do Dzung

 Thánh Nữ Bridget nước Thụy Điển – Cha Vương

 Thánh Nữ Bridget nước Thụy Điển

Chúc bình an đến Bạn và gia đình, hôm nay 23/07 Giáo Hội mừng kính Thánh Nữ Bridget nước Thụy Điển (1303?-1373), mừng Bổn Mạnh đến những ai chọn thánh nữ làm quan thầy nhé. 

Cha Vương

Thánh Nữ Bridget nước Thụy Điển—từ lúc bảy tuổi trở đi, Thánh Bridget đã được thị kiến Ðức Kitô trên thánh giá. Các thị kiến ấy làm nền tảng cho đời sống của thánh nữ — luôn luôn chú trọng đến đức ái hơn là trông đợi các ơn huệ thiêng liêng.

     Thánh Bridget là một người trong hoàng gia Thụy Ðiển, được thừa hưởng sự đạo đức của cha mẹ, ngay từ nhỏ ngài đã yêu quý sự thống khổ của Ðức Kitô. Khi mười bốn tuổi, vâng lời cha, ngài kết hôn với vua Thụy Ðiển là Magnus II và có tám người con (người con thứ là Thánh Catarina ở Thụy Ðiển). Sau khi nhà vua từ trần ngài sống một cuộc đời rất khổ hạnh.

     Trong thời gian hôn nhân, Thánh Bridget cố gắng ảnh hưởng tốt đến vua Magnus. Dù chưa hoàn toàn thay đổi, nhà vua cũng đã ban cho ngài đất đai và cơ sở để thiết lập một đan viện cho nam giới và nữ giới. Tổ chức này sau đó phát triển thành một tu hội, được gọi là Tu Hội Thánh Bridget the Order of the Most Holy Savior (Bridgettines) và được Đức Giáo Hoàng Urban V chuẩn nhận năm 1370 hiện vẫn còn.

     Vào Năm Thánh 1350, Thánh Bridget bất chấp bệnh dịch đang lan tràn khắp  Âu Châu, ngài thực hiện cuộc hành hương đến Rôma. Ngài không bao giờ trở về Thụy Ðiển và những năm ở Rôma thật không sung sướng chút nào vì bị chủ nợ săn đuổi và bị chống đối bởi sự thối nát trong Giáo Hội thời bấy giờ.

     Chuyến hành hương sau cùng của ngài đến Ðất Thánh thì bị hỏng vì đắm tầu và cái chết của người con trai. Ngài qua đời ngày 23 tháng 7 năm 1373 tại Rome, nước Ý. Ngài được chôn cất tại tu viện Vadstena, Thụy Điển. Thánh nữ Bridget được Đức Giáo Hoàng Bonifacius IX tôn phong hiển thánh ngày 07 tháng 10 năm 1391 và đặt là quan thầy của Thụy Điển.

Lời Bàn: Các thị kiến của Thánh Bridget, thay vì cô lập ngài khỏi các sinh hoạt của thế gian, đã đưa ngài can dự vào nhiều vấn đề đương thời, dù đó là chính sách của hoàng gia hay của giáo triều Avignon. Ngài không thấy sự mâu thuẫn giữa các cảm nghiệm thần bí và các sinh hoạt trần tục, và cuộc đời ngài chứng minh rằng SỰ THÁNH THIỆN CÓ THỂ THỰC HIỆN ĐƯỢC GIỮA NƠI THƯƠNG TRƯỜNG.

Sau đây mời bạn suy niệm những câu nói của Thánh Bridget:

❦ Nếu Thiên Chúa chịu đựng những trận đòn và sự hành hạ, thì ta nhiều khi phải chịu đựng những lời nói và những sự nghịch lý. 

❦ “Tội lỗi của một người cho dù có nặng nề đến đâu đi nữa, nhưng nếu họ trở về với Mẹ với trọn con tim và quyết tâm sửa cải thực sự thì Mẹ lập tức sẵn lòng tiếp nhận họ, Mẹ sẽ không kể bao nhiêu tội lỗi họ  đã phạm trước, nhưng chỉ nhìn đến thiện chí và việc họ trở về mà thôi. Người ta xưng tụng Mẹ là Hiền Mẫu nhân lành, và thực sự lòng từ nhân của Con Mẹ đã làm cho Mẹ hết sức nhân lành; và chỉ có những ai có thể mà lại không chịu đến với lòng nhân lành mới thực sự là kẻ khốn nạn.” (Lời Mẹ phán với thánh nữ Bridget nước Thụy Điển)

From: Đỗ Dzũng