HAI VỊ THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ RẤT QUAN TRỌNG TRONG GIÁO HỘI

HAI VỊ THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ RẤT QUAN TRỌNG TRONG GIÁO HỘI

Tuyết Mai

Nói về thánh Phêrô thì tất cả chúng ta ai cũng phải biết đến vị tông đồ rất trung thành và có tánh rất trung trực thẳng thắn được Thầy Giêsu yêu quý rất mực nhưng cũng đã yếu đuối mà chối Thầy của mình đến những 3 lần trước khi gà gáy.

Thánh Phêrô cũng là vị thánh được Chúa Giêsu tuyển chọn để làm đầu Hội Thánh và Chúa phán cùng ngài rằng: “Phêrô có nghĩa là đá, trên đá này Ta xây Giáo Hội của Ta và sẽ không có quyền lực nào trên thế gian có thể phá hủy cho được” (Chúa ám chỉ Satan và bè lũ của chúng).

==

Khi chúng ta nhắc đến thánh Phêrô thì hầu như không một ai mà không biết đến ngài với rất nhiều câu chuyện công giáo viết về một thánh Phêrô giữ cửa Thiên Đàng. Rằng ngài có tiếng giữ cửa rất nghiêm ngặt và rất là cẩn thận ấy vậy mà Đức Mẹ Maria hiền mẫu của chúng ta cũng có cách nào đó giúp cho biết bao nhiêu linh hồn con Mẹ vào qua được cửa, thế mới tài tình làm sao.

Nhưng rồi chuyện gì làm mãi thì cũng bị lộ tẩy và nếu để ý thì sẽ thấy biết – Có điều sau rất nhiều lần biết được thì ngài cũng cứ vẫn bị ngây ngất với hương thơm nhân đức ngọt ngào diệu vợi của Mẹ Maria và trăm lần như một thì ngài cũng vẫn luôn bị say đắm mà chiêm ngắm khi Đức Mẹ đi qua; ngài như bị thôi miên trước sự kiều diễm khả ái của Mẹ đã làm cho Phêrô không còn biết trời trăng gì nữa — cho đến khi Mẹ đã đi khuất mắt của ngài thì ông mới tỉnh lại.

***

Còn khi nói đến một thánh Phaolô trở lại thì hầu hết người Công Giáo chúng ta đều biết ngài trước đây. Là người luôn hăng say, năng nổ đi bắt bớ người có đạo. Nhốt tù họ, đánh đập và hành hung họ cách hung bạo chỉ vì họ theo thờ Thiên Chúa. Vì xưa kia ông nào biết Thiên Chúa là ai và đã hành xử theo cách hung tợn mà người của ông đã dạy ông làm như thế. Có nghĩa ông đã bị ảnh hưởng cách sai lạc và đi theo trào lưu.

==

Xem việc làm của ông là đúng, là anh hùng; có ích lợi, có chính nghĩa và được có tiếng đối với cấp trên – nhất là vào cái tuổi năng động của ông lúc bấy giờ? Nhưng Thiên Chúa Người hẳn đã có chương trình vĩ đại, to lớn hơn dành sẵn cho ông mà Chúa phải cần đến chính tấm lòng nhiệt huyết và tánh năng động của ông để Chúa trao phó một công trình quan trọng vào đúng người, đúng thời điểm và đúng việc Chúa cần. Cùng để chứng minh cho mọi người thấy rằng quyền năng của Thiên Chúa có thể thay đổi con người từ xấu thành tốt, cách dễ dàng.

**

Thánh Phaolô sau khi đã phủ phục quyền năng Thiên Chúa qua một cú Chúa cho ông bị ngã ngựa khá đau và bị mù 2 con mắt trong thời gian ngắn để Chúa tìm sai người đến bảo ông phải làm gì sau đó.

Và rồi sau này thì công tác của ông được Chúa sai đi đến với người dân ngoại để dạy dỗ họ giáo lý của Chúa cho họ và giúp họ được Rửa Tội theo đạo. Cho đến ngày hôm nay thì trên thế giới cũng đã có rất nhiều Phaolo đi truyền giáo giống ngài như thế từ vùng xa cho đến vùng sâu. Từ trên núi cao cho đến đồng bằng và cả người sống trên sông ngòi.

==

Sau khi được trở lại thì ngài làm việc cho Chúa cách rất đắc lực, hăng say không ngừng nghỉ và ngài đã đi khắp mọi nơi có thể để Rao Giảng cho người dân ngoại biết về một Thiên Chúa rất yêu thương con người. Về một Thiên Chúa mang lại cho nhân loại thật nhiều niềm vui, hy vọng và một Nước Trời dành ban cho tất cả những ai TIN vào Người và ngài đã làm tròn trọng trách ấy cho đến ngày cuối đời của ngài.

**

Giáo hội Công Giáo hằng năm nhắc nhở hết thảy chúng ta đến hai vị thánh nổi trội này là vì cả hai cũng là con người như chúng ta bằng xương bằng thịt, cũng phạm tội. Người thì dám chối Chúa; người thì dám hành hung người của Chúa là những tội không hề nhẹ. Nhưng đối với Thiên Chúa toàn năng thì không điều gì mà Người không thể làm được, ngay cả khi chúng ta là người vô thần chưa biết Người là ai?

==

Vâng, ngay cả khi chúng ta là những người Kitô hữu, phạm tội như ăn cơm bữa. Hay như Phêrô, một tông đồ luôn ở sát bên Chúa, cùng đồng bàn và ngủ với Chúa; được Chúa yêu quý nhưng lại không dám nhận Chúa trước mặt mọi người vì sợ rằng mình sẽ bị bắt nhốt, bỏ tù và bị đánh đập vì ưa chuộng cái thân xác yếu đuối đầy tội lỗi và hay chết này, thưa có phải?

**

Nhưng không sao cả bởi Thiên Chúa Đấng thông suốt và biết hết mọi sự trong ngoài của chúng ta. Người biết tất cả sự yếu đuối và tội lỗi ngập lụt của chúng ta từ trong tư tưởng cho đến việc làm. Chỉ mong rằng những gì chúng ta cần làm thì có ích cho nhiều người và cho linh hồn sống đời của hết thảy chúng ta.

==

Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta có được can đảm để dám sống cho lý tưởng, cho thế hệ tương lai tươi đẹp, cho người nghèo khổ và cho người thấp cổ bé miệng. Vâng, ngay cả chịu đựng cái chết vì dám làm chứng nhân cho Chúa. Amen.

**

Y tá con của Chúa,

Tuyết Mai

29 tháng 6, 2021

CHÂN PHƯỚC GIÁM MỤC MYKOLAY CHARNETSKYI, C.Ss.R. (1884-1959)

 May be a black-and-white image of 1 person, beard and eyeglasses

Hôm nay (28/6), Dòng Chúa Cứu Thế mừng kính Chân phước Giám mục Mykolay Charnetskyi và các bạn tử đạo dưới chế độ Cộng sản Xô Viết.

CHÂN PHƯỚC GIÁM MỤC MYKOLAY CHARNETSKYI, C.Ss.R.

(1884-1959)

Mykolay Charnetskyi sinh ngày 14 tháng 12 năm 1884 trong một gia đình nông dân đông con và ngoan đạo ở làng Semakivka, tây Ukraina. Nhà có 9 anh em, Mykolay là con cả. Ngài bắt đầu đi học ở làng Tovmach rồi vào trường thánh Ni-cô-la ở Stanislaviv (bây giờ là Ivano-Frankivsk).

Từ khi còn là một thiếu niên, Charnetskyi đã nhận thấy ơn gọi làm linh mục và ngài ngỏ ý muốn bước theo. Năm 1903, Đức Giám mục Hryhoriy Khomyshyn gởi ngài đi học ở Rô-ma. Trong một lần về thăm ngắn ngủi Ukraine, ngày 2 tháng 10 năm 1909, Đức cha Hryhoriy Khomyshyn phong chức linh mục cho ngài. Cha Mykolay trở lại Rô-ma tiếp tục học và nhận học vị tiến sĩ thần học.

Mùa thu năm 1910, cha Charnetskyi làm giáo sư triết và thần học tín lý tại chủng viện Stanislavis. Ngài cũng là cha linh hướng của Đại chủng viện này. Tuy nhiên, sâu trong tâm tư, cha Mykolay mong ước sống đời tu sĩ. Vì thế, vào tháng 10 năm 1919, ngài vào nhà tập Dòng Chúa Cứu Thế ở Zboiska, gần Lviv. Năm sau, ngày 16 tháng 10, ngài tuyên khấn.

Năm 1926, đầy nhiệt huyết hoạt động cho sự hiệp nhất giữa các tín hữu Ki-tô và giúp những người bị bỏ rơi trở về với Công giáo, các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế tỉnh Lviv lập một trung tâm truyền giáo tại Kovel trong vùng Volhyn. Vị thừa sai hăng hái Charnetskyi được gởi đến đó. Hầu như ngay lập tức ngài được dân chúng địa phương hết lòng kính trọng, ngay cả các giáo sĩ Chính thống. Một nhà thờ và một tu viện đã được xây dựng tại Kovel. Cha Mykolay đã làm hết sức mình để bảo tồn sự tinh túy của nghi thức phụng vụ Đông phương. Năm 1931, quan tâm tới công việc đầy hy sinh của cha Charnetskyi, Đức giáo hoàng Pi-ô XI trao cho ngài chức Giám mục tông tòa Lebed và là Đại diện tông tòa tại Giáo hội Công giáo Ukraina miền Volhyn và Pidliashsha. Những miền này trở thành nơi hoạt động của Charnetskyi, trước tiên trong tư cách là một nhà truyền giáo, sau như một giám mục, trong gần 14 năm.

Là Giám mục Dòng Chúa Cứu Thế đầu tiên tại Ukraina, ngài kinh nghiệm sự ngược đãi ngay từ lúc bắt đầu công việc. Trong thời gian quân đội Xô-viết chiếm đóng miền tây Ukraina, năm 1939, Dòng Chúa Cứu thế bị áp lực phải rời miền Volhyn, giám mục Charnetskyi chuyển về Lviv, tới ở tại tu viện Dòng Chúa Cứu Thế đường Zyblykevycha (nay là đường Ivana Franka).

Sau khi phục hồi lại Học viện thần học Lviv vào năm 1941, giám mục Mykolay Charnetskyi tham gia giảng dạy triết lý, tâm lý và thần học luân lý. Sự điềm tĩnh đặt nền tảng trên lòng tin chắc chắn không lay chuyển, tinh thần vâng phục và cầu nguyện của ngài khiến các sinh viên có lý mà cho rằng cha giáo của họ là một ông thánh. Đối với họ, giám mục Mykolay Charnetskyi vừa là một người đạo hạnh, vừa là một tu sĩ gương mẫu.

Năm 1944, quân Xô-viết tiến vào Galicia lần thứ hai. Đây là mốc khởi đầu đường thương khó của giám mục Charnetskyi. Ngài bị bắt ngày 11 tháng 4 năm 1945, bị mật vụ Xô-viết bắt giam tại đường Lonskoho. Ở đó, ngài chịu nhiều đau đớn: nửa đêm bị kêu dậy hỏi cung, bị đánh đập và tra tấn tàn nhẫn. Sau đó, Giám mục Charnetskyi được chuyển về Kiev, trải qua một năm đau khổ cho đến khi trường hợp của ngài được mang ra xét xử. Ngài bị kết án 10 năm tù giam về tội làm tay sai cho Vatican, chịu tù đày cùng với Đức Tổng giám mục Yosyf Slipyi, ban đầu thì ở thị trấn Mariinsk vùng Kemeroc, Siberia, sau đó tại một số nhà tù khác cũng thuộc vùng đó.

Theo những nguồn tin đáng tin cậy, trong thời gian tù đày từ khi bị bắt ở Lviv tháng 4 năm 1945 cho đến khi được phóng thích vào năm 1956, giám mục Charnetskyi đã phải trải qua tất cả là 600 giờ thẩm vấn và tra tấn, chuyển qua đến 30 nhà giam và trại tù khác nhau. Dù phải chịu nhiều đau khổ như thế, ngài vẫn luôn luôn tìm lời an ủi các bạn tù, nâng đỡ họ về mặt đạo đức và biết tên tất cả. Chẳng có gì lạ khi hầu như tù nhân nào cũng biết giám mục Charnetskyi, ngài như nguồn an ủi duy nhất của họ.

Giám mục Mykolay Charnetskyi trải qua những năm tù cuối cùng trong bệnh xá trại tù ở Mordovia. Năm 1956, sức khỏe ngài suy sụp đến độ các bác sĩ cho rằng không còn hy vọng gì sống sót. Các tù nhân qua đời được mặc một cái áo dài đặc biệt để chôn, và người ta đã may xong cho ngài. Thấy một giám mục đã đến hồi tuyệt vọng, và có thể cũng muốn tránh tiếng đã gây ra cái chết cho một giám mục, ban quản trị nhà tù quyết định phóng thích và gởi ngài về Lviv. Sau khi trở về Lviv vào năm 1956 cùng với bệnh viêm gan và một số bệnh tật khác, ngài phải nhập viện ngay. Ai cũng cho rằng ngài chẳng còn sống được bao lâu nữa. Nhưng Chúa có kế hoạch khác, Người quyết định kéo dài đời của một con người mà sự trung thành và việc làm đã được Giáo hội Ukraina lượng giá và cần đến. Chẳng bao lâu, vị giám mục lại hồi phục và chuyển về căn hộ số 7 đường Vechirnia cùng với thầy trợ sĩ Klymentyi. Ở đó, ngài tiếp tục kiên nhẫn làm việc tông đồ và cầu nguyện. Hầu như ngài đọc sách và cầu nguyện cả ngày. Những người đến thăm ngài trong thời gian này làm chứng rằng họ thường thấy ngài ở trong tình trạng xuất thần. Tại Lviv, Giám mục Charnetskyi vẫn trung thành với sứ mạng mục tử nhân lành: ngài nâng đỡ tinh thần anh em, chuẩn bị cho các tiến chức linh mục và phong chức cho hơn mười thầy.

Đáng tiếc là sự bình phục lạ lùng của ngài không kéo dài được lâu. Ngày 2 tháng 4 năm 1959, ngài đón nhận cái chết lành thánh. Lời cuối cùng của ngài là kêu xin sự nâng đỡ của Mẹ Hằng Cứu Giúp. Lễ an táng được cử hành vào ngày 4 tháng 4 năm 1959. Điếu văn lưu giữ tại văn khố tỉnh Yorkton (Canada) kết thúc như sau: “Chúng tôi nghĩ rằng sẽ đến ngày ngài được phong hiển thánh, vì ngài quả thật là một vị giám mục thánh thiện.”

Ai biết đến Giám mục Mykolay Charnetskyi cũng đều nhất trí xác nhận sự thánh thiện của ngài. Cũng không có gì ngạc nhiên khi thấy ngay sau khi ngài chết, nhiều người đã bắt đầu cầu nguyện với ngài. Có người đã nhận ra dấu chỉ đây là một vị thánh có khả năng cầu bầu cùng Thiên Chúa khi cầu nguyện nơi mộ Giám mục Charnetskyi tại nghĩa trang Lychakiv. Nhiều ơn huệ khác nhau đã được Thiên Chúa ban cho những người đến viếng mộ xin ngài nguyện giúp. Một phụ nữ có cánh tay sắp bị cưa được chữa lành hoàn toàn nhờ lấy đất lấy nơi mộ xoa vào tay. Từ đó, người ta bắt đầu lấy đất nơi mộ ngài để chữa đủ thứ bệnh tật.

Quan tâm đến những lời chứng về đời sống thánh thiện của Giám mục Mykolay Charnetskyi, cách riêng về sự kiên trì chịu đựng, lòng can đảm và sự trung thành với Hội thánh Chúa Ki-tô trong thời gian bị bắt bớ, việc xin phong Chân phúc cho ngài được bắt đầu vào năm 1960. Ngày 2 tháng 3 năm 2001, tiến trình hoàn tất ở cấp độ địa phương và được đệ trình lên Tòa thánh. Ngày 6 tháng 4 năm 2001, Ủy ban thần học xác nhận Giám mục Charnetskyi tử vì đạo. Ngày 23 tháng 4, Hội đồng các Hồng y chấp nhận. Và ngày 24 tháng 4 năm 2001, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II phong Chân phước cho vị giám mục trung thành với niềm tin Ki-tô giáo.

=Truyền Thông Thái Hà=

CHỨNG NHÂN CỦA CÕI VĨNH HẰNG

CHỨNG NHÂN CỦA CÕI VĨNH HẰNG

 Đức Cha JB. Bùi Tuần

Khi nhìn thánh Gioan Baotixita, tôi thấy vẻ bề ngoài của Ngài không có gì hấp dẫn cả.  Y phục thì khó nghèo.  Ăn uống khổ cực.  Cách sống khắc khổ.  Chỗ ở thô sơ.  Lúc ở rừng rú, lúc thì sa mạc, nay đây mai đó.

Thế mà, con người như vậy lại được Phúc Âm gọi là đấng dọn đường cho Chúa, là đấng làm phép rửa cho Đức Kitô, là đấng giới thiệu Chúa Cứu thế, là đấng trọng hơn mọi người nam trên thế gian này.

Điều đó chứng tỏ những vẻ đẹp bề ngoài chưa hẳn là thước đo giá trị con người.  Thước đo giá trị con người chính là cái đẹp bên trong, cái đẹp nội tâm, cái đẹp phản ánh những chân thiện mỹ vĩnh hằng.

Riêng đối với tôi, thánh Gioan Baotixita lôi cuốn tôi do mấy điểm sau đây của Ngài.

Điểm thu hút thứ nhất là nếp sống tu thân.  Việc tu thân của Ngài không phải chỉ là từ bỏ đời sống sung túc, dễ chịu để chọn cuộc đời nghèo khó, khắc khổ.  Nhưng nhất là ở chỗ Ngài rất khiêm nhường.  Ngài ví mình như tiếng kêu trong sa mạc.  Ngài coi mình chỉ là kẻ dọn đường cho Chúa.  Ngài nhận mình hèn mọn thấp kém, đến nỗi không đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu thế.  Ngài mong muốn bước xuống thực thấp, thực sâu để Đấng Cứu thế được nổi lên thực cao, sao cho mọi người biết đến mà tôn kính tôn thờ.

Nếp sống tu thân của thánh Gioan Baotixita rất xa lạ với lối tu thân nơi một lớp người tôn giáo thời đó và thời nay.  Họ tu thân mà vẫn lo tìm thăng tiến địa vị, hưởng thụ quyền lợi, lạm dụng chức tước.

Khi phong hoá bị suy đồi, tôn giáo bị tha hoá, nhân tố có sức cải cách sẽ phải là người tu thân đích thực ở trình độ cao.  Thánh Gioan Baotixita được đào tạo suốt mấy chục năm tu thân trong sa mạc.  Với nét tu thân dày dạn đó, Ngài vào đời với đầy ơn Chúa Thánh Thần và một uy tín rất lớn.  Chính nét tu thân đầy uy tín đó đã lôi cuốn những người thiện chí, để họ sẵn sàng nghe lời Ngài giảng.  Đề tài giảng của Ngài là rất đơn sơ nhưng rất căn bản.  Đó cũng chính là một sức thu hút rất mạnh.

Vì thế, đối với tôi,

Điểm thu hút thứ hai là đề tài giảng của Ngài.

Đề tài giảng của Gioan Baotixita được tóm lại trong một lời thôi.  “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 3,2).  Có sám hối, thì mới tránh được cơn thịnh nộ của Chúa (Mt 3,7).  Có sám hối thì công việc ta làm mới sinh được kết quả tốt (Mt 3,8).  Sám hối là một cách rửa tâm hồn cho sạch, để nên người tốt, để nên con Chúa, và để đón nhận Nước Trời đang tới.  Nước Trời chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại.

Khi thấy Chúa Giêsu đang tiến lại về phía mình, thánh Gioan Baotixita nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xoá tội trần gian…  Tôi đã thấy Thánh Thần từ trời xuống ngự trên Ngài…  Ngài là Đấng mà Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,29-34).

Một điều đáng chú ý, là khi Đức Kitô đã xuất hiện công khai, thì thánh Gioan Baotixita tìm cách lui vào bóng tối.  Ngài muốn dồn hết danh dự cho Đấng Cứu thế.  Ngài như muốn mọi người quên Ngài đi, để tập trung vào một Đức Giêsu Kitô thôi.

Tôi thấy sám hối và tập trung vào Đức Kitô là đề tài giảng rất cần thiết, để cải cách tôn giáo thời đó.  Thời nay thiết tưởng cũng rất cần đề tài như vậy.  Nhất là khi lương tâm nhiều người đang mất dần ý thức về tội, và khi Công giáo nhiều nơi đang đặt trọng tâm vào quá nhiều thứ cứu độ, còn chính Đức Kitô, Đấng cứu độ duy nhất, thì bị lu mờ.  Các thứ trung gian thi nhau che khuất Ngài.  Sự kiện đáng buồn đó là một tiếng báo động.  Chúng ta nên thức tỉnh trở về với gương thánh Gioan Baotixita.

Điểm thu hút sau cùng nơi thánh Gioan Baotixita là sự vững vàng phó thác trong những thử thách.

Thánh Gioan Baotixita đã gặp nhiều thử thách nặng nề, nhất là về mặt đức tin.  Phúc Âm thánh Matthêu kể rằng: “Khi Gioan đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt 11,2-3).  Chi tiết trên đây cho ta thấy: Có thể Gioan Baotixita bị cám dỗ về con người của Đức Kitô cũng như về sứ mạng của chính Gioan.  Sứ mạng của mình là giới thiệu Đấng Cứu thế.  Mình đã giới thiệu Đấng đó.  Nhưng Đấng đó có thực sự là Đấng Cứu thế không đây?  Cơn cám dỗ như vậy có thể xảy ra cho Gioan.  Trong cảnh tù cô đơn, cơn cám dỗ đó làm Gioan ray rứt, đắng cay.  Nếu mình sai, thì mình sẽ bị coi như giả dối và vô dụng.

Nhưng Gioan đã vững vàng phó thác vào Chúa.  Phó thác bằng cách sai môn đệ đến hỏi Đức Kitô.  Phó thác bằng cách chấp nhận câu trả lời của Đức Kitô.  Phó thác bằng cách vui lòng chết trong tù, mà không xin Đức Kitô làm phép lạ cứu Ngài ra khỏi cảnh bất công đó, để tiếp tục ra đi dọn đường phục vụ Đấng Cứu thế.  Ngài dâng mình làm của lễ cho chính tình yêu.

Với ba nét thu hút trên đây, thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của cõi vĩnh hằng.  Ngài nhìn về phía trước.  Ngài sống cho phía trước.  Phía trước có cõi đời đời.  Trong cõi đời đời đó có Thiên Chúa hằng sống đang chờ đợi các con cái Người.  Con cái Người sẽ đến được với Người nhờ tu thân, nhờ sám hối, nhờ tin cậy Đức Kitô, nhờ vững vàng vượt qua thử thách.  Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy là chứng nhân như thánh Gioan Baotixita, tại Việt Nam này, ở địa phương này, trong hoàn cảnh hiện nay.  Chúng ta rất yếu đuối, nhưng chính trong sự yếu đuối đầy khiêm nhường và tin cậy, Chúa sẽ tỏ sức mạnh của Người.

Xin thánh Gioan Baotixita cầu bầu cho chúng ta.

Đức Cha JB. Bùi Tuần

From: Langthangchieutim

HENRI NOUWEN, MỘT VỊ THÁNH CỦA THỜI ĐẠI CHÚNG TA

HENRI NOUWEN, MỘT VỊ THÁNH CỦA THỜI ĐẠI CHÚNG TA

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Thời nay, làm thánh không thôi thì không đủ, chúng ta phải có sự thánh thiện mà thời điểm hiện tại đòi hỏi.

Triết gia Simone Weil đã viết câu đó, và bà đúng.  Chúng ta cần những vị thánh mà thời điểm hiện tại đòi hỏi và tôi muốn đề xuất một người mà tôi tin rằng phù hợp với mô tả này, đó là linh mục Henri Nouwen, ngòi bút thiêng liêng nổi tiếng đã qua đời năm 1996.  Sự thánh thiện của ngài là gì và tại sao nó đặc biệt thích ứng vời thời hiện tại?

Henri Nouwen được cho là ngòi bút thiêng liêng có sức ảnh hưởng nhất thế hệ chúng ta.  Tuy nhiên, linh đạo của ngài không phát xuất từ lòng sốt mến dễ dàng hay đức tin chưa qua thử thách.  Như tác giả Michael Higgins viết trong quyển tiểu sử Nouwen, ngài là “một thiên tài sinh ra từ thống khổ.”  Nouwen là vị thánh bị lo âu dày vò, một vị thánh lý tưởng cho một thời đại chìm trong lo âu.

Ngài là con người lo âu, đau đớn, phức tạp với một cá tính quá đỗi nhạy cảm.  Ngài có xu hướng ám ảnh trong các mối quan hệ thân thiết, có khi thể hiện những nhu cầu ấu trĩ như trẻ con và dù đã có được biết bao tình yêu thương, được đón nhận và thành công, nhưng ngài luôn mãi bị ám ảnh với ý thức, mình không được yêu thương thật sự và không có nơi nào là mái ấm cho mình.  Ngài còn nuôi dưỡng một vết thương trong lòng mà ngài không bao giờ giải thích cho người khác cũng như không hòa giải với chính mình.  Với biết bao chuyện như thế, ngài lại còn có tính khí của một nghệ sĩ, vừa là một ơn vừa là gánh nặng, và như nhiều nghệ sĩ khác, ngài phải đấu tranh để giữ sự bình thường, thiết thực và cân bằng khi sáng tạo, tận hưởng sự tỉnh táo thực tế và không vượt ra khỏi lời khấn khiết tịnh.  Vì thế, ngài có thể lên sân khấu, tỏa một sức sống mãnh liệt, rồi bước xuống sân khấu và vài phút sau đã bật khóc và xin người khác an ủi mình.  Về tính dục, dù đã có lời khấn độc thân khiết tịnh và vẫn giữ trọn lời khấn, nhưng có những lúc ngài yêu đến ám ảnh một ai đó, đến nỗi ngài chỉ có thể giữ trọn lời khấn và sự tỉnh táo bằng cách tìm đến bác sĩ chuyên khoa.

Đây không phải là những điều mà bạn thường đọc thấy nơi cuộc đời các thánh, ít ra là những thánh đã được chính thức phong thánh và được xem là gương mẫu của thánh thiện, nhưng thật ra, nó chính là chất liệu của sự thánh thiện.  Triết gia Soren Kierkegaard, người mà linh mục Nouwen ái mộ, đã định nghĩa một vị thánh như sau: thánh là người chỉ muốn một điều.  Đó là một việc không dễ dàng gì.  Không phải vì chúng ta khó mong muốn điều đúng đắn, nhưng vì chúng ta còn muốn nhiều điều khác nữa.  Thánh Tôma Aquinô đã xác nhận, mọi lựa chọn là một sự từ bỏ.  Nói thế là nói ngắn gọn.  Mọi lựa chọn là một loạt những từ bỏ, và chính vì thế mà lựa chọn và thánh thiện đều là việc khó khăn.

Trong nhật ký của mình, linh mục Nouwen mô tả sự đấu tranh của mình như thế này.  Tôi muốn làm một vị thánh vĩ đại, nhưng tôi còn muốn trải nghiệm mọi cảm giác mà những người tội lỗi cảm nghiệm.  Tôi muốn rút lui vào thinh lặng của cầu nguyện, nhưng tôi không muốn bỏ lỡ bất kỳ điều gì trên đời.  Tôi muốn chôn mình trong vô danh sống giữa người nghèo, nhưng tôi cũng muốn viết sách, muốn người ta biết đến, muốn đi đây đó, gặp mọi người và làm những việc thú vị.  Đó là những điều mà ngài đã phải đấu tranh, cũng như chúng ta vậy, nhưng cuối cùng, ngài đã tìm được cách để chỉ muốn một điều.

Ngài làm bằng cách nào, làm sao bất chấp tất cả mọi chuyện này, ngài đã trở nên một vị thánh?  Ngài làm được nhờ sự chân thật khiêm hạ không bao giờ chối bỏ những đấu tranh vật lộn của mình.  Ngài làm được như thế nhờ ngài chấp nhận sự phức tạp của mình, bằng cách quỳ gối trong những lời cầu nguyện bất lực, khi sức của ngài không đủ, và bằng cách để người nghèo yêu mến mình.  Và ngài làm như thế bằng cách chia sẻ những vết thương của mình với mọi người, bằng cách tìm sự giúp đỡ của chuyên gia khi suy sụp, bằng cách học lấy từ mọi nỗi đau, ám ảnh và đau lòng, rằng, đến tận cùng, trái tim chúng ta mạnh hơn những vết thương và vì thế chúng ta có thể giữ được những cam kết và cuối cùng có được bình an trong phức tạp, cám dỗ và đấu tranh.

Chắc chắn các vị thánh thời xưa đã có những đấu tranh của riêng họ khi cố gắng chỉ muốn một điều, cố gắng dẫn truyền sinh lực bất kham của họ và phó mình trong tay Thiên Chúa.  Tuy nhiên, những câu chuyện chúng ta nghe về cuộc sống các ngài lại có khuynh hướng làm nổi bật những nhân đức hơn là đấu tranh.  Ví dụ Mẹ Têrêxa cũng là vị thánh của thời đại chúng ta, là vị thánh đã tạo nhiều cảm hứng tích cực.  Với nhiều người chúng ta, cuộc đời và nhân đức của Mẹ dường như quá xa vời với những đấu tranh rối ren và trần tục của chúng ta, đến nỗi chúng ta xem Mẹ như một vị thánh để ngưỡng mộ chứ không phải để noi gương.  Dĩ nhiên như thế là không đúng.  Mẹ cũng có những đấu tranh, và là đấu tranh cực lớn. N hưng khi kể lại chuyện đời của Mẹ, những đấu tranh đó lại không thường được nêu bật.

Câu chuyện của linh mục Henri Nouwen và các tác phẩm của ngài, lại nêu bật những đấu tranh, chứ không chỉ nhân đức và sự khôn ngoan của ngài.  Biết được sự trần tục trong những đấu tranh của ngài, có thể gây nên ấn tượng rằng nơi ngài có ít điều đáng ngưỡng mộ hơn Mẹ Têrêxa.  Có lẽ thế. Nhưng, nơi cha Nouwen, chúng ta thấy một người mà chúng ta dễ noi gương hơn.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

TÔNG THƯ PATRIS CORDE CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

Con chép lại dưới đây Tông Thư  về Thánh Giuse,

nếu đọc rồi, mong đọc l ại, và Thánh Giuse Thần Thế Phù Hộ chúng ta thêm. Con bỏ hầu hết các chú thích khi đọc lại.

Trọng kính,

lmpcqminh,sj.

TÔNG THƯ

PATRIS CORDE

CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

NHÂN KỶ NIỆM 150 NĂM
TÔN VINH THÁNH GIUSE
LÀ BỔN MẠNG HỘI THÁNH

VỚI TRÁI TIM CỦA NGƯỜI CHA: đó là cách mà Thánh Giuse yêu thương Chúa Giêsu, Đấng mà cả bốn sách Phúc âm đều gọi là “con của ông Giuse”.[1]

Matthêô và Luca, hai Thánh sử nói nhiều nhất về thánh Giuse, lại kể rất ít, nhưng cũng đủ để chúng ta thấy được ngài là người cha như thế nào và Chúa quan phòng đã giao phó cho ngài sứ mệnh gì.

Chúng ta biết rằng thánh Giuse là một người thợ mộc đơn sơ (x. Mt 13,55), đã đính hôn với Đức Maria (x. Mt 1,18; Lc 1,27). Ngài là “người công chính” (Mt 1,19), luôn sẵn sàng thi hành thánh ý Thiên Chúa như đã được mạc khải trong Lề Luật (x. Lc 2,22.27.39) và trong bốn giấc mơ (x. Mt 1,20; 2: 13.19.22). Sau chuyến hành trình dài và mệt nhọc từ Nadarét đi Bêlem, ngài được chứng kiến Đấng Mêsia sinh ra trong chuồng bò, vì “không có chỗ cho họ” trong quán trọ (x. Lc 2,7). Ngài đã chứng kiến các mục đồng (x. Lc 2,8-20) và các đạo sĩ (x. Mt 2, 1-12) đến thờ lạy Chúa, họ là những người đại diện cho dân Israel và các dân ngoại.

Thánh Giuse đã can đảm trở thành người cha của Chúa Giêsu theo lề luật, Đấng mà ngài đã đặt cho cái tên được mặc khải qua sứ thần báo trước: “Ông hãy đặt tên cho Người là Giêsu, vì Người sẽ cứu dân Người khỏi tội” (Mt 1,21). Như chúng ta biết, đối với các dân tộc cổ đại, đặt tên cho một người hoặc một sự vật, như Ađam đã làm trong trình thuật ở Sách Sáng thế (x. 2,19-20), là để thiết lập một mối tương quan.

Bốn mươi ngày sau khi Chúa Giêsu sinh ra, Thánh Giuse và Mẹ Maria đã dâng con mình cho Chúa trong Đền thờ, và ngạc nhiên lắng nghe lời tiên tri của ông Simeon về Chúa Giêsu và Mẹ Người (x. Lc 2,22-35). Để bảo vệ Chúa Giêsu thoát khỏi tay Hêrôđê, Thánh Giuse đã sang Ai Cập sống như một người ngoại kiều (x. Mt 2,13-18). Sau khi trở về quê hương, ngài sống ẩn dật ở ngôi làng Nadarét nhỏ bé và ít người biết đến thuộc xứ Galilê, cách xa Bêlem, là ngôi làng của tổ tiên ngài, và cách xa cả Giêrusalem và Đền thờ. Người ta nói về Nadarét rằng “Không có ngôn sứ nào xuất thân từ đây” (x. Ga 7,52) và quả thật, “Ở Nadarét nào có chi hay!” (x. Ga 1,46). Trong cuộc hành hương lên Giêrusalem, Thánh Giuse và Mẹ Maria đã lạc mất Chúa Giêsu khi ấy mười hai tuổi, họ lo lắng đi tìm và gặp thấy Người trong Đền thờ, đang trao đổi với các tiến sĩ Luật (x. Lc 2,41 -50).

Sau Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, không có vị thánh nào được nhắc đến thường xuyên trong huấn quyền của Giáo hoàng hơn Thánh Giuse, bạn trăm năm của Mẹ. Các vị tiền nhiệm của tôi đã suy tư về sứ điệp trong thông tin giới hạn được các sách Phúc Âm ghi lại để đánh giá đầy đủ hơn vai trò trung tâm của Thánh Giuse trong lịch sử cứu độ. Chân phước Piô IX đã tôn vinh Thánh Giuse là “Bổn mạng Hội Thánh”,[2] Đấng đáng kính Piô XII gọi ngài là “Bổn mạng của người lao động”[3] và Thánh Gioan Phaolô II tuyên xưng ngài là “Đấng bảo vệ Chúa Cứu Thế”.[4] Thánh Giuse được mọi người kêu cầu là “Bổn mạng kẻ mong sinh thì”.[5]

Giờ đây, một trăm năm mươi năm sau khi Chân phước Piô IX công bố Thánh Giuse là Bổn mạng Hội Thánh (ngày 8 tháng 12 năm 1870), tôi muốn chia sẻ một vài suy tư cá nhân về dung mạo phi thường này, thật gần gũi với kinh nghiệm của con người chúng ta. Vì, như Chúa Giêsu đã nói, “lòng đầy miệng mới nói ra” (Mt 12,34). Mong muốn ấy của tôi càng thêm mãnh liệt trong những tháng đại dịch này, khi chúng ta cảm nghiệm, giữa cuộc khủng hoảng, rằng “cuộc sống của chúng ta được đan dệt với nhau và được nâng đỡ nhờ những con người bình thường – những người thường bị quên lãng, – họ không xuất hiện trên báo chí, hay trong những chương trình truyền hình mới nhất, nhưng ngay trong những ngày này, chắc chắn họ đang làm nên những biến cố quan trọng của lịch sử chúng ta. Các bác sĩ, y tá, các chủ cửa hiệu và nhân viên siêu thị, nhân viên vệ sinh, người chăm sóc người già và bệnh nhân, công nhân vận chuyển, những người cung cấp các dịch vụ thiết yếu và an ninh công cộng, các tình nguyện viên, các linh mục, nam nữ tu sĩ, và rất nhiều người khác. Họ hiểu rằng không ai được cứu một mình… Có biết bao người hằng ngày vẫn kiên nhẫn gieo niềm hy vọng, lo sao để không gieo rắc hoảng loạn nhưng gieo vãi tinh thần đồng trách nhiệm. Có biết bao người cha, người mẹ, ông bà, thầy cô, chỉ cho con cái chúng ta – qua những cách thức nhỏ bé hằng ngày – cách thức đón nhận và đương đầu với khủng hoảng, bằng cách điều chỉnh các thói quen, ngước mắt lên cao và khích lệ cầu nguyện. Có biết bao người cầu nguyện, dâng những hy sinh và chuyển cầu cho thiện ích của tất cả mọi người”.[6] Mỗi người chúng ta đều có thể khám phá rằng Thánh Giuse –  một người chẳng được để ý – vẫn hiện diện hằng ngày cách âm thầm kín đáo, để cầu thay nguyện giúp, trợ giúp và hướng dẫn chúng ta khi gặp khó khăn. Thánh Giuse nhắc nhở chúng ta rằng những ai ẩn mình hay sống trong bóng tối có thể đóng một vai trò không thể sánh được trong lịch sử cứu độ. Tất cả những người ấy đều đáng được nhìn nhận và biết ơn.

  1. Một người cha yêu thương

Sự vĩ đại của Thánh Giuse ở chỗ ngài là bạn trăm năm của Đức Maria và là cha của Chúa Giêsu. Như thế, theo lời Thánh Gioan Kim khẩu, Thánh Giuse đã tự đặt mình “phục vụ toàn bộ kế hoạch cứu rỗi”.[7]

Thánh Phaolô VI đã chỉ ra rằng Thánh Giuse đã thể hiện một cách cụ thể vai trò làm cha của mình “bằng cách biến cuộc đời mình trở thành của lễ hy sinh phục vụ mầu nhiệm nhập thể cùng với sứ vụ cứu thế. Thánh Giuse dùng quyền hạn hợp pháp của mình đối với Thánh Gia để cống hiến hết mình cho các ngài trong cuộc sống và công việc của mình. Ngài đã biến ơn gọi sống tình yêu gia đình của phàm nhân thành sự dâng hiến siêu phàm chính mình, trái tim và tất cả khả năng của mình, một tình yêu được dành để phục vụ Đấng Mêsia đang lớn lên trong mái ấm của ngài”.[8]

Vì vai trò của ngài trong lịch sử cứu độ, Thánh Giuse luôn được các Kitô hữu tôn kính là cha. Điều này được thể hiện qua vô số nhà thờ dâng kính ngài trên khắp thế giới, nhiều học viện tôn giáo, hội đoàn và các nhóm giáo hội lấy cảm hứng từ linh đạo của Thánh Giuse và mang tên ngài, cùng với nhiều cách bày tỏ lòng đạo đức truyền thống cũng tôn vinh ngài. Vô số các thánh nam nữ đã rất sùng kính ngài. Trong số đó có Thánh Têrêsa Avila, đã chọn Thánh Giuse làm đấng bênh vực và cầu thay cho mình, đã thường xuyên đến với ngài và bất cứ ơn nào xin với Thánh Giuse đều được toại nguyện. Được khích lệ bởi kinh nghiệm của chính mình, Thánh Têrêsa còn thuyết phục những người khác cũng vun trồng lòng sùng kính đối với Thánh Giuse.[9]

Sách kinh nào cũng có những kinh cầu nguyện với Thánh Giuse. Có những kinh đặc biệt cầu cùng Thánh Giuse vào các ngày thứ Tư và nhất là trong tháng Ba, theo truyền thống được dành để kính Thánh Giuse.[10]

Lòng tín thác của mọi người vào Thánh Giuse được thể hiện trong câu “Hãy đến cùng Giuse”, gợi lại nạn đói ở Ai Cập, khi người Ai Cập xin Pharaô cho họ bánh ăn. Ông trả lời: “Hãy đến cùng Giuse; và hãy làm những gì ông ấy bảo” (St 41,55). Pharaô muốn nói đến Giuse, con của Giacob, là người đã bị anh em mình bán làm nô lệ do lòng ghen tị (x. St 37,11-28) và là người – theo lời Kinh thánh – sau đó trở thành phó vương Ai Cập (x. St 41,41-44).

Thánh Giuse thuộc dòng dõi vua Đavít (x. Mt 1, 16-20), là cội rễ mà từ đó Chúa Giêsu sẽ sinh ra theo lời hứa đã được tiên tri Nathan báo cho Đavít (x. 2 Sm 7), và là bạn trăm năm của Đức Maria thành Nadarét, như thế Thánh Giuse tượng trưng cho mối liên hệ giữa Cựu ước và Tân ước.

  1. Một người cha dịu dàng và yêu thương

Thánh Giuse đã chứng kiến Chúa Giêsu lớn lên từng ngày “về khôn ngoan, vóc dạng và ân sủng, trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta” (Lc 2,52). Như Thiên Chúa đã làm với Israel, Thánh Giuse cũng đã làm với Chúa Giêsu: “ngài dạy bước đi, cầm lấy tay; đối xử như một người cha nâng đứa trẻ lên tận má mình, cúi xuống và cho ăn” (x. Hs 11,3-4).

Nơi Thánh Giuse, Chúa Giêsu đã nhìn thấy tình yêu dịu dàng của Thiên Chúa: “Như người cha yêu thương con cái mình, Chúa xót thương những ai kính sợ Người” (Tv 103, 13).

Trong hội đường, khi cầu nguyện bằng Thánh vịnh, chắc chắn Thánh Giuse đã nghe đi nghe lại nhiều lần rằng Thiên Chúa của Israel là Thiên Chúa chạnh lòng thương,[11] là Đấng nhân hậu với tất cả mọi người, Đấng “nhân từ hơn tất cả những gì Ngài đã làm”. (Tv 145,9).

Lịch sử cứu độ được hoàn thành “trong hy vọng dù không còn hy vọng” (Rm 4,18), qua những yếu đuối của chúng ta. Chúng ta thường nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ hoạt động qua những mặt tốt của chúng ta, nhưng hầu hết các kế hoạch của Ngài đều được thực hiện qua các yếu đuối của chúng ta và bất chấp sự yếu đuối ấy. Vì vậy, Thánh Phaolô mới nói: “Để cho tôi khỏi tự cao tự đại, thân xác tôi như bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến để hành hạ tôi, để cho tôi khỏi huênh hoang. Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi điều này, rằng nó sẽ rời bỏ tôi, nhưng Người bảo tôi: ‘Ơn Ta đủ cho con, vì quyền năng của Ta được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối’” (2 Cr 12,7-9).

Vì đây là một phần của toàn bộ kế hoạch cứu độ, chúng ta phải học cách nhìn vào những yếu đuối của mình với lòng thương xót dịu dàng.[12]

Kẻ Ác khiến chúng ta thấy được và lên án sự yếu đuối của chúng ta, trong khi Thánh Thần đưa nó ra ánh sáng bằng tình yêu dịu dàng. Sự dịu dàng là cách tốt nhất để chạm vào sự yếu đuối bên trong chúng ta. Chỉ tay và phán xét người khác thường là dấu hiệu của việc không thể chấp nhận sự yếu đuối, sự mong manh của bản thân chúng ta. Chỉ có tình yêu dịu dàng mới cứu chúng ta thoát khỏi cạm bẫy của kẻ tố cáo (x. Kh 12,10). Đó là lý do tại sao việc gặp gỡ lòng thương xót của Thiên Chúa, đặc biệt là trong bí tích Hòa giải, nơi chúng ta cảm nghiệm được sự thật và lòng dịu dàng của Ngài là điều rất quan trọng. Nghịch lý thay, Kẻ Ác cũng có thể nói sự thật với chúng ta, nhưng hắn làm vậy chỉ để lên án chúng ta. Chúng ta biết rằng sự thật của Thiên Chúa không lên án, nhưng đón nhận, ôm lấy chúng ta, nâng đỡ và tha thứ cho chúng ta. Sự thật ấy luôn được bày tỏ cho chúng ta như người cha nhân hậu trong dụ ngôn của Chúa Giêsu (x. Lc 15,11-32). Sự thật ấy đến gặp chúng ta, phục hồi phẩm giá của chúng ta, nâng chúng ta dậy và vui mừng vì chúng ta, vì như người cha đã nói: “Con trai ta đã chết và nay sống lại; nó đã mất và nay được tìm thấy” (câu 24).

Ý Chúa, lịch sử và kế hoạch của Ngài vẫn hoạt động, ngay cả qua nỗi sợ hãi của Thánh Giuse. Vì thế, Thánh Giuse dạy chúng ta rằng đức tin vào Thiên Chúa cũng là tin rằng Ngài có thể hành động cả khi chúng ta sợ hãi, mỏng manh và yếu đuối. Ngài cũng dạy chúng ta rằng giữa những thử thách của cuộc đời, chúng ta đừng bao giờ sợ để Chúa dẫn lối cho chúng ta. Đôi khi, chúng ta muốn kiểm soát mọi sự, nhưng Thiên Chúa luôn nhìn thấy bức tranh toàn cảnh hơn.

  1. Một người cha vâng phục

Như đã thực hiện nơi Đức Maria, Thiên Chúa cũng mạc khải kế hoạch cứu độ của Ngài cho Thánh Giuse. Thiên Chúa đã làm như vậy bằng cách dùng những giấc mơ, mà trong Kinh thánh và trong tất cả các dân tộc cổ đại, được coi là một cách để cho biết ý muốn của Ngài.[13]

Thánh Giuse vô cùng bối rối trước việc mang thai lạ lùng của Đức Maria. Ngài không muốn “công khai tố giác bà”,[14] nên đã quyết định “lặng lẽ rời bỏ bà” (Mt 1,19).

Trong giấc mơ đầu tiên, một sứ thần giúp ngài giải quyết tình huống khó xử nghiêm trọng: “Đừng ngại nhận Maria làm vợ, vì đứa trẻ được thụ thai trong lòng bà là do Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh một con trai, và ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì Người sẽ cứu dân Người khỏi tội” (Mt 1,20-21). Thánh Giuse đáp lại ngay: “Khi Giuse vừa thức giấc, ông đã làm theo lời sứ thần Chúa truyền” (Mt 1,24). Thái độ vâng phục đã giúp Thánh Giuse vượt qua khó khăn và cứu được Đức Maria.

Trong giấc mơ thứ hai, sứ thần bảo Thánh Giuse: “Hãy trỗi dậy, đem Hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập, và cứ ở đó cho đến khi ta nói lại; vì Hêrôđê sắp lùng bắt Hài nhi để giết đi” (Mt 2,13). Thánh Giuse đã không ngần ngại vâng lời, bất kể khó khăn gian khổ: “Ngài trỗi dậy trong đêm, đưa Hài nhi và mẹ Người đi Ai Cập, và ở đó cho đến khi Hêrôđê qua đời” (Mt 2,14-15).

Ở Ai Cập, Thánh Giuse kiên nhẫn chờ sứ thần báo tin có thể trở về nhà an toàn. Trong giấc mơ thứ ba, sứ thần cho ngài biết những kẻ tìm giết Hài nhi đã chết và truyền cho ngài trỗi dậy, đem Hài nhi và mẹ Người trở về đất Israel (x. Mt 2,19-20). Một lần nữa, Thánh Giuse lại mau mắn vâng lời. “Ông trỗi dậy, đưa Hài nhi và mẹ trở về đất Israel” (Mt 2,21).

Trên đường trở về, “khi Giuse nghe tin Archelaô lên làm vua xứ Giuđê thay cho cha mình là Hêrôđê, thì ông sợ không dám về đó. Được cảnh báo trong giấc mơ” – đây là lần thứ tư – “ông lui về miền Galilê. Ở đó, ngài lập cư tại một thành gọi là Nadarét” (Mt 2,22-23).

Còn thánh sử Luca cho chúng ta biết rằng Thánh Giuse đã trải qua cuộc hành trình dài và vất vả từ Nadarét đến Bêlem để ghi tên vào sổ bộ nơi nguyên quán của gia đình mình trong cuộc điều tra dân số của Hoàng đế Cêsarê Augustô. Chúa Giêsu đã được sinh ra trong hoàn cảnh đó (x. Lc 2,7) và được ghi vào sổ bộ của Đế quốc Rôma, giống như mọi đứa trẻ khác. Thánh Luca đặc biệt quan tâm kể lại việc cha mẹ của Chúa Giêsu đã tuân giữ tất cả các quy định của Luật: nghi thức cắt bì cho Chúa Giêsu, nghi thức thanh tẩy cho Đức Maria sau khi sinh con, nghi thức dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa (x. 2,21-24).[15]

Trong mọi hoàn cảnh, Thánh Giuse đều nói lời “fiat” của chính mình, cũng như khi Đức Maria được sứ thần truyền tin và như Chúa Giêsu trong Vườn Cây Dầu.

Trong vai trò là chủ gia đình, thánh Giuse đã dạy Chúa Giêsu vâng lời cha mẹ (x. Lc 2,51), theo lệnh truyền của Chúa (x. Xh 20,12).

Trong những năm sống ẩn dật ở Nadarét, Chúa Giêsu đã học ở trường học của thánh Giuse để làm theo ý của Chúa Cha. Ý của Chúa Cha là lương thực hằng ngày của Người (x. Ga 4,34). Ngay cả khi gặp khó khăn nhất, trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu cũng đã chọn làm theo ý muốn của Đức Chúa Cha hơn là ý muốn của mình,[16] trở nên “vâng lời cho đến chết, thậm chí chết trên thập tự giá” (Pl 2,8). Vì thế, tác giả Thư gửi người Do Thái kết luận rằng Chúa Giêsu “đã học biết vâng phục qua những gì Người phải chịu” (5,8).

Tất cả những điều này cho thấy rõ rằng “Thánh Giuse đã được Thiên Chúa kêu gọi để trực tiếp phục vụ con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu qua việc thực thi chức vụ làm cha” và như thế, “khi thời gian viên mãn, ngài đã cộng tác vào mầu nhiệm cứu độ cao cả và thực sự là một thừa tác viên của ơn cứu độ”.[17]

  1. Một người cha chấp nhận

Thánh Giuse đã chấp nhận Đức Maria một cách vô điều kiện. Ngài tin vào lời sứ thần đã nói. “Sự cao thượng của tâm hồn Thánh Giuse là ở chỗ những gì ngài học được từ lề luật thì ngài đã sống theo tình bác ái. Ngày nay, trong thế giới của chúng ta, nơi mà bạo lực tinh thần, ngôn từ và thân xác đối với phụ nữ đã quá rõ ràng, thì Thánh Giuse trở thành hình ảnh của một người đàn ông biết tôn trọng và tinh tế. Mặc dù không hiểu rõ mọi chuyện, nhưng ngài vẫn quyết định bảo vệ danh thơm tiếng tốt, phẩm giá và cuộc sống của Mẹ Maria. Khi ngài còn do dự không biết nên làm gì, Thiên Chúa đã soi sáng để giúp ngài quyết định”.[18]

Trong cuộc sống, vẫn có những điều xảy ra mà chúng ta không hiểu được ý nghĩa. Phản ứng đầu tiên của chúng ta thường là thất vọng và nổi loạn. Thánh Giuse đã gạt bỏ ý riêng của mình để chấp nhận các sự kiện xảy đến và, dù các sự kiện ấy xem ra gây hoang mang, ngài vẫn đón nhận, nhận trách nhiệm và biến chúng thành một phần lịch sử của chính mình. Nếu chúng ta không hòa hợp với lịch sử của chính mình, chúng ta sẽ không thể đi tiếp, vì chúng ta sẽ luôn là con tin cho những kỳ vọng và những thất vọng theo sau.

Con đường thiêng liêng mà Thánh Giuse vạch ra cho chúng ta không phải là con đường giải thích, mà là con đường chấp nhận. Chỉ khi nào biết chấp nhận và giao hoà như thế, chúng ta mới có thể bắt đầu nhìn thấy một lịch sử bao quát hơn, một ý nghĩa sâu sắc hơn. Dường như chúng ta nghe vọng lại câu trả lời thật sâu sắc của ông Gióp với người vợ, bà đã xúi giục ông phản kháng vì những điều ác mà ông phải gánh chịu: “Chúng ta nhận được điều tốt từ tay Thiên Chúa, sao chúng ta lại không nhận điều bất hạnh?” (G 2,10).

Chắc chắn Thánh Giuse không cam chịu một cách thụ động, nhưng chủ động một cách can đảm và vững vàng. Trong cuộc sống của chúng ta, việc chấp nhận và đón nhận có thể là một biểu hiện của ơn Sức Mạnh của Chúa Thánh Thần. Chỉ có Chúa mới có thể ban cho chúng ta sức mạnh cần thiết để chấp nhận cuộc sống như nó vốn thế, với tất cả những mâu thuẫn, nản lòng và thất vọng của nó.

Chúa Giêsu đến ở giữa chúng ta, đó là một ơn của Chúa Cha, giúp mỗi người chúng ta có thể hòa hợp với lịch sử cụ thể của đời mình, cả khi chúng ta không hiểu được hoàn toàn.

Cũng như Chúa đã nói với Thánh Giuse: “Hỡi Con vua Đavít, đừng sợ!” (Mt 1,20), dường như Ngài cũng nói với chúng ta: “Đừng sợ!” Chúng ta cần gạt bỏ mọi tức giận và thất vọng để đón nhận mọi thứ như chúng vốn thế, cả khi chúng không diễn ra như chúng ta mong muốn. Không phải là đành chịu mà đầy hy vọng và can đảm. Như thế, chúng ta sẽ mở ra với một ý nghĩa sâu sắc hơn. Cuộc sống của chúng ta sẽ được tái sinh một cách kỳ diệu nếu chúng ta can đảm sống theo Phúc Âm. Sẽ chẳng có vấn đề gì nếu mọi thứ dường như đã tồi tệ hoặc có điều gì không sửa chữa được nữa. Chúa có thể làm cho hoa mọc lên từ đá. Ngay cả khi lòng chúng ta kết án chúng ta, “Thiên Chúa lớn hơn lòng chúng ta, và Ngài biết mọi sự” (1 Ga 3,20).

Ở đây, một lần nữa, chúng ta gặp lại chủ nghĩa hiện thực Kitô giáo vốn không phủ nhận những gì hiện hữu. Thực tại, trong tính phức tạp bí ẩn và không thể giải thích của nó, có một ý nghĩa hiện sinh, với tất cả ánh sáng và bóng tối của nó. Thế nên Tông đồ Phaolô mới nói: “Chúng ta biết rằng Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28). Thánh Augustinô nói thêm, “ngay cả cái được gọi là sự dữ (etiam illud quod malum dicitur)”.[19] Theo góc nhìn rộng hơn này, đức tin mang lại ý nghĩa cho mọi biến cố, dù vui hay buồn.

Chúng ta cũng đừng bao giờ nghĩ rằng tin có nghĩa là tìm ra các giải pháp dễ dàng và an ủi. Đức tin mà Chúa Kitô đã dạy chúng ta là những gì chúng ta thấy nơi Thánh Giuse. Ngài không tìm kiếm những lối tắt, mà mở rộng đôi mắt để đối mặt với thực tế và nhận trách nhiệm cá nhân về điều ấy.

Thái độ của Thánh Giuse khuyến khích chúng ta chấp nhận và đón nhận người khác như họ vốn có, không có ngoại lệ, và quan tâm đặc biệt đến những người yếu đuối, vì Thiên Chúa chọn những gì yếu đuối (x. 1 Cr 1,27). Thiên Chúa là “Cha kẻ mồ côi và là Đấng che chở những người góa bụa” (Tv 68,6), Ngài truyền cho chúng ta phải yêu thương người xa lạ ở giữa chúng ta.[20] Tôi thích nghĩ rằng chính từ Thánh Giuse, Chúa Giêsu đã có cảm hứng để kể câu chuyện dụ ngôn người con hoang đàng và người cha nhân hậu (x. Lc 15,11-32).

  1. Một người cha có lòng can đảm đầy sáng tạo

Nếu giai đoạn đầu tiên của mọi chữa lành nội tâm thực sự là chấp nhận lịch sử cá nhân của chúng ta và chấp nhận cả những gì trong cuộc sống mà chúng ta đã không chọn lấy, thì nay chúng ta phải thêm một yếu tố quan trọng khác: lòng can đảm đầy sáng tạo. Lòng can đảm này thể hiện đặc biệt trong cách chúng ta đối phó với những khó khăn. Đối mặt với khó khăn, chúng ta có thể đầu hàng và bỏ cuộc hay nhập cuộc cách nào đó. Đôi khi, khó khăn làm bật ra những nguồn lực mà chúng ta thậm chí không nghĩ rằng mình đang có.

Khi đọc các bài tường thuật thời thơ ấu của Chúa Giêsu, có lẽ chúng ta thường thắc mắc tại sao Thiên Chúa không hành động một cách trực tiếp và rõ ràng hơn. Nhưng Thiên Chúa lại hành động qua các biến cố và qua con người. Thánh Giuse là người được Chúa chọn để hướng dẫn giai đoạn khởi đầu của lịch sử cứu chuộc. Ngài là “dấu lạ” thực sự mà Chúa dùng để cứu hài nhi Giêsu và mẹ của Người. Thiên Chúa đã hành động qua thái độ tin tưởng vào lòng can đảm đầy sáng tạo của Thánh Giuse. Khi đến Bêlem và không tìm được chỗ cho Đức Maria sinh con, Thánh Giuse đã chuẩn bị một cái chuồng bò và làm hết sức có thể để biến nó thành ngôi nhà chào đón Con Thiên Chúa đến thế gian (x. Lc 2, 6-7). Trước nguy cơ sắp xảy ra là Hêrôđê muốn giết Hài nhi Giêsu, một lần nữa trong giấc mơ, thánh Giuse đã được báo mộng để bảo vệ Hài nhi, và nửa đêm thức dậy chuẩn bị trốn sang Ai Cập (x. Mt 2,13-14 ).

Khi đọc lướt qua những câu chuyện này có thể chúng ta thường có cảm tưởng rằng thế giới được phó mặc cho những kẻ mạnh và kẻ có quyền, nhưng “tin mừng” của Phúc âm là ở chỗ cho thấy rằng, bất chấp thói kiêu ngạo và bạo lực của các quyền lực thế gian, Chúa luôn tìm ra cách thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài. Cuộc sống của chúng ta vậy, đôi khi xem ra bị phó mặc trong tay kẻ có quyền, nhưng Tin Mừng cho chúng ta thấy điều gì mới là đáng giá. Thiên Chúa luôn tìm ra cách để cứu chúng ta, miễn là chúng ta thể hiện lòng can đảm đầy sáng tạo như người thợ mộc thành Nadarét, người có thể biến vấn đề thành khả năng bằng cách luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa.

Nếu có lúc dường như Chúa không giúp chúng ta, thì chắc chắn không có nghĩa là chúng ta bị bỏ rơi, mà là chúng ta đang được Chúa tin tưởng để tự mình lên kế hoạch, sáng tạo và tìm ra giải pháp.

Lòng can đảm đầy sáng tạo đó đã được những người bạn của người bại liệt thể hiện, họ đã dỡ mái nhà hạ anh xuống để đưa anh đến với Chúa Giêsu (x. Lc 5, 17-26). Khó khăn đã không ngăn cản được sự mạnh dạn và kiên trì của những người bạn đó. Họ tin chắc rằng Chúa Giêsu có thể chữa lành cho anh, và bởi “không tìm được cách nào để đưa anh ta vào vì đám đông dân chúng, họ đã trèo lên mái nhà và thả anh xuống cùng với chiếc giường vào giữa đám đông đang ở trước mặt Chúa Giêsu. Nhìn thấy đức tin của họ, Chúa Giêsu nói: “Này bạn, tội lỗi của bạn đã được tha’” (câu 19-20). Chúa Giêsu nhìn nhận đức tin sáng tạo mà nhờ đó họ đã tìm cách đưa người bạn đau yếu đến với Ngài.

Phúc Âm không cho chúng ta biết Đức Maria, Thánh Giuse và Hài nhi ở lại Ai Cập bao lâu. Tuy nhiên, chắc chắn các ngài cần phải có cái ăn, có một mái nhà và có việc làm. Chẳng cần phải tưởng tượng nhiều cũng thấy được những chi tiết đó. Thánh Gia đã phải đối mặt với những vấn đề cụ thể như mọi gia đình khác, giống như rất nhiều anh chị em di dân của chúng ta, là những người ngày nay cũng phải liều mạng để thoát khỏi bất hạnh và đói khát. Về khía cạnh này, tôi coi Thánh Giuse là Đấng bảo trợ đặc biệt của tất cả những ai buộc phải rời bỏ quê hương vì chiến tranh, hận thù, đàn áp và nghèo đói.

Ở cuối mỗi câu chuyện mà thánh Giuse là nhân vật chính, Phúc Âm kể lại rằng ngài trỗi dậy, ẵm lấy Hài nhi và cùng với Mẹ Người làm như Thiên Chúa đã truyền (x. Mt 1,24; 2,14.21). Thật vậy, Chúa Giêsu và Đức Maria Mẹ Người là kho tàng đức tin quý giá nhất của chúng ta.[21]

Trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa,  Chúa Con không tách rời khỏi Đức Maria Mẹ của Người, Đấng đã “tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hợp nhất với Con cho đến tận bên chân Thập giá”.[22]

Chúng ta cần luôn xét xem, liệu chúng ta có đang bảo vệ Chúa Giêsu và Mẹ Maria hay không, vì các Ngài cũng được trao phó cho trách nhiệm của chúng ta một cách mầu nhiệm, để chăm sóc và giữ gìn. Con của Đấng Toàn Năng đã đến trần gian của chúng ta trong tình trạng thật yếu đuối mỏng giòn. Ngài cần được Thánh Giuse che chở, bảo vệ, chăm sóc và nuôi nấng. Thiên Chúa đã tin cậy Thánh Giuse, cả Đức Maria cũng thế, Mẹ là người đã thấy nơi Thánh Giuse một người không chỉ cứu mạng mình mà còn luôn chăm lo cho mình và con của mình nữa. Theo nghĩa này, Thánh Giuse không khác gì Đấng Bảo vệ Hội Thánh, vì Hội Thánh là sự tiếp nối Nhiệm Thể Chúa Kitô trong lịch sử, cũng như tư cách làm mẹ của Đức Maria được phản ánh trong tư cách Mẹ của Hội Thánh.[23] Khi tiếp tục bảo vệ Hội Thánh, Thánh Giuse tiếp tục bảo vệ Hài nhi và mẹ Người, và cả chúng ta nữa, khi yêu mến Giáo hội, là chúng ta tiếp tục yêu Hài nhi Giêsu và mẹ Người.

Hài nhi ấy là Đấng sẽ nói: “Điều ngươi đã làm cho một trong những người nhỏ bé nhất trong gia đình của Ta đây, là làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Vì vậy, tất cả những ai nghèo khổ, thiếu thốn, đau khổ hay đang hấp hối, tất cả những ai là người xa lạ, tù nhân hay bệnh nhân đều là “hài nhi” mà Thánh Giuse tiếp tục bảo vệ. Bởi thế, Thánh Giuse được kêu cầu như Đấng che chở cho người bất hạnh, người túng thiếu, lưu đày, đau khổ, nghèo đói và hấp hối. Và Hội Thánh không thể không bày tỏ tình yêu thương đặc biệt đối với những người anh chị em hèn mọn nhất của chúng ta, vì Chúa Giêsu đã bày tỏ mối quan tâm đặc biệt đến họ và đồng hoá với họ. Từ nơi Thánh Giuse, chúng ta cũng phải học cách chăm sóc và trách nhiệm ấy. Chúng ta phải học cách yêu thương Hài nhi và mẹ Người, yêu mến các bí tích và đức bác ái, yêu mến Giáo hội và người nghèo. Mỗi thực tại ấy luôn là Hài nhi và mẹ Người.

  1. Một người cha làm việc

Một khía cạnh của Thánh Giuse đã được nhấn mạnh từ khi Đức giáo hoàng Lêô XIII ban hành Thông điệp xã hội đầu tiên, Rerum Novarum, là mối quan hệ của ngài với công việc. Thánh Giuse là một người thợ mộc làm việc lương thiện để nuôi sống gia đình. Nơi Thánh Giuse, Chúa Giêsu đã học được giá trị, phẩm giá và niềm vui của việc ăn miếng bánh là thành quả lao động của chính mình.

Trong thời đại của chúng ta, khi việc làm một lần nữa trở thành một vấn đề xã hội cấp bách, và tình trạng thất nghiệp đôi khi lên đến mức kỷ lục ngay cả ở các quốc gia đã được hưởng một mức độ thịnh vượng nhất định trong nhiều thập kỷ, thì cần ý thức lại để biết quý trọng việc làm đem lại phẩm giá mà Thánh Giuse là vị bổn mạng mẫu mực.

Việc làm là một phương tiện để tham dự vào công trình cứu chuộc, một cơ hội để làm cho Nước Trời mau đến, để phát triển tài năng và khả năng của chúng ta, và để phục vụ xã hội và tình hiệp thông huynh đệ. Nó trở thành cơ hội để hoàn thiện không chỉ bản thân mình, mà cả tế bào căn bản của xã hội là gia đình. Một gia đình không có việc làm đặc biệt dễ gặp khó khăn, căng thẳng, rạn nứt và thậm chí tan vỡ. Làm sao chúng ta có thể nói về phẩm giá con người mà lại không hành động để bảo đảm cho ai cũng có thể kiếm được một cuộc sống tử tế?

Những người đang làm việc, dù làm việc gì, đều đang hợp tác với chính Thiên Chúa, và theo một cách nào đó trở thành những người sáng tạo thế giới xung quanh chúng ta. Cuộc khủng hoảng của thời đại chúng ta – về kinh tế, xã hội, văn hóa và tinh thần – có thể là lời kêu gọi tất cả chúng ta khám phá lại giá trị, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc làm để mang lại một sự “bình thường” mới mà không ai bị loại ra. Việc làm của Thánh Giuse nhắc nhở chúng ta rằng chính Thiên Chúa, khi làm người, đã không khinh thường công việc. Tình trạng mất việc làm vốn ảnh hưởng đến rất nhiều anh chị em của chúng ta và đã gia tăng do hậu quả của đại dịch Covid-19, cần được coi như một lời kêu gọi xét lại các ưu tiên của chúng ta. Chúng ta hãy cầu xin Thánh Giuse Thợ giúp chúng ta tìm ra những cách thể hiện niềm tin vững vàng rằng không một người trẻ nào, không một người nào, không một gia đình nào không có việc làm!

  1. Một người cha trong bóng tối

Nhà văn Ba Lan Jan Dobraczyński, trong tác phẩm “Hình bóng của Chúa Cha”,[24] đã kể câu chuyện về cuộc đời của Thánh Giuse theo hình thức tiểu thuyết. Ông dùng hình ảnh gợi liên tưởng của một cái bóng để nói về Thánh Giuse. Trong mối tương quan với Chúa Giêsu, Thánh Giuse là hình bóng trần gian của Cha trên trời: Ngài trông nom và bảo vệ Chúa Giêsu, không bao giờ để Chúa Giêsu đi một mình. Chúng ta có thể nghĩ đến những lời của Môsê nói với Israel: “Trong sa mạc … ngươi đã thấy Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi bồng bế ngươi như người ta bồng bế con mình, trên mọi nẻo đường các ngươi đi” (Đnl 1,31). Tương tự như vậy, Thánh Giuse đã đóng vai trò một người cha trong suốt cuộc đời của ngài.[25]

Chúng ta không sinh ra là cha, nhưng trở thành người cha. Một người không trở thành cha đơn giản chỉ vì sinh ra một đứa con, nhưng vì đảm nhận trách nhiệm chăm sóc đứa con ấy. Bất cứ khi nào một người nhận trách nhiệm về cuộc sống của một người khác, thì một cách nào đó, họ trở thành cha của người ấy.

Trẻ em ngày nay dường như mồ côi cha. Giáo hội cũng cần có những người cha. Lời thánh Phaolô nói với các tín hữu Côrintô vẫn còn hợp thời: “Dù anh em có vô số người hướng dẫn trong Đức Kitô, nhưng anh em không có nhiều người cha đâu!” (1 Cr 4,15). Mỗi linh mục hay giám mục đều có thể nói thêm, cùng với vị Tông đồ rằng: “Tôi đã trở thành cha của anh em trong Chúa Giêsu Kitô nhờ Phúc âm” (ibid.). Thánh Phaolô cũng nói tương tự như vậy với các tín hữu Galata: “Hỡi các con bé nhỏ của tôi, mà tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa cho đến khi Đức Kitô được thành hình nơi anh em!” (4,19).

Làm cha có nghĩa là đưa con cái đến với cuộc sống và với thực tế. Không giữ chúng lại, không bảo bọc chúng quá đáng hay sở hữu chúng, mà là giúp cho chúng có khả năng tự quyết định, tận hưởng tự do và khám phá những khả năng mới. Có lẽ vì thế mà ngoài danh hiệu cha, truyền thống còn gọi Thánh Giuse là Đấng “cực thanh cực tịnh”. Tước hiệu đó không đơn thuần là một dấu chỉ của lòng yêu mến, mà còn là tóm lược một thái độ đối lập với tính chiếm hữu. Thanh khiết là sự tự do thoát khỏi thái độ chiếm hữu trong mọi lĩnh vực đời sống của mình. Chỉ khi nào tình yêu thanh khiết, đó mới là tình yêu thực sự. Một tình yêu chiếm hữu cuối cùng sẽ trở nên nguy hiểm: nó giam hãm, bóp nghẹt và gây đau khổ. Chính Thiên Chúa đã yêu nhân loại bằng một tình yêu thanh khiết; Ngài để chúng ta được tự do, thậm chí phạm tội và chống lại Ngài. Luận lý của tình yêu luôn là luận lý của tự do, và Thánh Giuse biết cách yêu thương với thái độ tự do phi thường. Ngài không bao giờ biến mình thành trung tâm của mọi sự. Ngài không nghĩ về mình, mà luôn nghĩ về cuộc đời của Mẹ Maria và Chúa Giêsu.

Thánh Giuse tìm được hạnh phúc không phải ở sự hy sinh bản thân mà là ở sự tự hiến. Nơi ngài, chúng ta không bao giờ thấy nỗi thất vọng mà chỉ thấy niềm tin tưởng. Sự thinh lặng kiên nhẫn của ngài dẫn tới những thể hiện cụ thể của lòng tin tưởng. Thế giới của chúng ta ngày nay cần những người cha. Nó không chấp nhận những bạo chúa, những kẻ hà hiếp người khác như một phương tiện để bù đắp cho nhu cầu của chính họ. Nó từ chối những người nhầm lẫn quyền hành với độc đoán, phục vụ với tùng phục, thảo luận với áp bức, bác ái với trợ giúp, sức mạnh với hủy diệt. Mọi ơn gọi đích thực đều được sinh ra từ việc tự hiến, là hoa trái của sự hy sinh chín chắn. Chức linh mục và đời sống thánh hiến cũng đòi hỏi phải có sự chín chắn như vậy. Dù ơn gọi của chúng ta là gì, kết hôn, độc thân hay sống trinh khiết, việc cho đi chính mình sẽ không thành toàn nếu nó chỉ dừng lại ở sự hy sinh; nếu thế, thay vì trở thành một dấu chỉ của vẻ đẹp và niềm vui của tình yêu, việc cho đi chính mình sẽ có nguy cơ trở thành biểu hiện của bất hạnh, buồn bã và thất vọng.

Khi người cha từ bỏ cám dỗ sống cuộc sống của con cái mình, những khung cảnh mới mẻ và bất ngờ sẽ mở ra. Mỗi đứa con đều mang trong mình một mầu nhiệm độc đáo chỉ có thể được tỏ lộ nhờ sự giúp đỡ của người cha biết tôn trọng quyền tự do của đứa con ấy. Một người cha sẽ nhận ra mình là một người cha và một nhà giáo dục nhất vào lúc mình trở thành “vô dụng”, khi thấy con mình trở nên độc lập và có thể bước đi trên con đường của cuộc đời mà không cần ai đi kèm. Khi người cha ấy trở nên giống như Thánh Giuse, luôn biết rằng con mình không phải là của riêng mình mà chỉ được giao phó cho mình chăm sóc mà thôi. Cuối cùng, đây là điều mà Chúa Giêsu muốn chúng ta hiểu khi Người nói: “Các con đừng gọi ai ở dưới đất là cha, vì các con chỉ có một người Cha ở trên trời” (Mt 23, 9).

Mỗi khi thi hành thiên chức làm cha, chúng ta phải luôn nhớ rằng thiên chức ấy không liên quan gì đến sự chiếm hữu, mà là một “dấu chỉ” hướng đến một tình phụ tử lớn hơn. Một cách nào đó, tất cả chúng ta đều giống như Thánh Giuse: là cái bóng của Cha trên trời, Đấng “làm cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ cũng như người lành, và làm mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương” (Mt 5,45). Và là cái bóng bước theo Con của Ngài.

*  *  *

Thiên Chúa nói với Thánh Giuse: “Hãy trỗi dậy, đem Hài nhi và mẹ Người trốn đi” (Mt 2,13).

Mục đích của Tông thư này là làm cho chúng ta thêm lòng yêu mến Thánh cả, khuyến khích cầu xin ngài chuyển cầu cho chúng ta và noi gương các nhân đức và lòng nhiệt thành của ngài.

Thật vậy, sứ mệnh cụ thể của các thánh không chỉ là chuyển ban phép lạ và ơn thánh(*), nhưng là chuyển cầu cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa, như Ápraham[26] và Môsê[27], và như Chúa Giêsu, “Đấng trung gian duy nhất” (1 Tm 2,5), là “Đấng bảo trợ” cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (1 Ga 2,1) và là Đấng “hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 7,25; x. Rm 8,34).

Các thánh giúp tất cả các tín hữu “phấn đấu nên thánh và theo đuổi sự trọn lành của bậc sống mình”.[28] Cuộc sống của các ngài là bằng chứng cụ thể cho thấy có thể sống Phúc Âm.

Chúa Giêsu đã nói: “Hãy học cùng tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Cuộc đời của các thánh cũng là những tấm gương để noi theo. Thánh Phaolô nói rõ điều này: “Anh em hãy bắt chước tôi!” (1 Cr 4,16).[29] Bằng sự thinh lặng hùng hồn, Thánh Giuse cũng nói như vậy.

Trước tấm gương của biết bao vị thánh nam và nữ, Thánh Augustinô đã tự hỏi: “Điều các ngài đã làm được, mi không làm được sao?” Và thế là ngài đã dứt khoát hoán cải và thốt lên: “Con đã yêu Chúa quá muộn màng, ôi Vẻ Đẹp vẫn cổ xưa mà luôn tươi mới!”[30]

Vậy chúng ta hãy cầu xin với Thánh Giuse ban cho chúng ta ơn của các ơn: đó là ơn hoán cải.

Giờ đây chúng ta hãy cầu nguyện với ngài:

Kính chào Đấng Gìn giữ Đấng Cứu Thế,
Bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria.
Chúa đã trao Con Một của Chúa cho ngài;
Mẹ Maria đã tin tưởng vào ngài;
Chúa Kitô đã lớn lên thành người cùng với ngài.

Lạy Thánh Giuse diễm phúc,
xin cũng hãy tỏ ra ngài là cha của chúng con
và hướng dẫn chúng con đi trên đường đời.
Xin giúp chúng con đón nhận ân sủng, lòng thương xót và lòng can đảm,(*)
và xin bảo vệ chúng con khỏi mọi sự dữ. Amen.

Ban hành ở Rôma, tại Đền Thờ Latêranô,

ngày 8 tháng 12, Đại lễ kính Đức Trinh Nữ Maria Vô nhiễm Nguyên tội, năm 2020,

năm thứ tám triều Giáo hoàng của tôi.

PHANXICÔ

Bản dịch chính thức của Hội đồng Giám mục Việt Nam
WHĐ (10.12.2020)

[10] Mỗi ngày, trong hơn bốn mươi năm, sau Kinh Sáng, tôi đều đọc một kinh cầu nguyện với Thánh Giuse trích trong quyển Sách kinh của Pháp vào thế kỷ mười chín của Dòng Nữ tu Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Kinh này nói lên lòng yêu mến và tin tưởng, và thậm chí còn đặt ra một thách đố cho Thánh Giuse nữa: “Lạy Thánh tổ phụ Giuse vinh hiển, là Đấng có quyền năng biến điều không thể thành có thể, xin đến cứu giúp con trong những lúc đau khổ và khó khăn này. Xin bảo vệ con trước những tình thế ngặt nghèo và rắc rối mà con phó thác cho cha đây, hầu có một kết thúc tốt đẹp. Lạy cha yêu dấu của con, con đặt trọn niềm tin tưởng nơi cha. Xin đừng để người ta nói rằng con đã cầu xin cha luống công vô ích, và vì cha có thể làm mọi sự với Chúa Giêsu và Mẹ Maria, xin cha cho con thấy rằng lòng nhân hậu của cha cũng vĩ đại như quyền năng của cha. Amen.

000***000

Xin cầu cho con nữa,

Hết lòng Biết Ơn,

  1. phêrô chu quang minh, s.j.

Về Mohandas Karamchand Gandhi

Thưa Bà Con,

YourStory kỳ nầy nói về Mohandas Karamchand Gandhi. Ông bị Godse bắn ba phát đạn vào người và ngã gục tại New Delhi ngày 30/1/1948.

Gandhi được thế giới biết đến qua những điều gì?

  • Ông được cả thế giới tôn sùng vì triết lý bất bạo động, Mohandas Karamchand Gandhi được nhiều người theo gọi Ông là Mahatma, hay “Người có tâm hồn lớn” – “The great-souled one”. Ông bắt đầu hoạt động với tư cách là một người nhập cư Ấn Độ ở Nam Phi vào đầu những năm 1900, và trong những năm sau Thế chiến thứ nhất, ông trở thành nhân vật hàng đầu trong công cuộc tranh đấu cho quyền làm người.
  • Gandhi đã thực hiện tuyệt thực tất cả 18 lần trong phong trào tự do của Ấn Độ. Lần nhịn ăn lâu nhất của Ông kéo dài 21 ngày. Nhịn ăn là một vũ khí được Gandhi xử dụng như một phần triết lý của ông về Ahinsa – Bất bạo động – hay Satyagraha.
  • Lý do chính khiến mọi người lấy cảm hứng từ Gandhi là triết lý bất bạo động. Ông đã xử dụng bất bạo động để giải phóng Ấn Độ khỏi người Anh. Cách ăn mặc của Ông ấy cho chúng ta thấy rằng Ông không muốn xử dụng các sản phẩm nước ngoài. Ông luôn dặn mọi người là tự làm việc của chính mình mà không lệ thuộc vào người khác (muốn ám chỉ người Anh).
  • Nhà tranh đấu cho Nhân quyền. Trong khi lãnh đạo các chiến dịch trên toàn quốc nhằm xóa đói giảm nghèo, mở rộng quyền của phụ nữ, xây dựng sự hòa hợp tôn giáo và sắc tộc, và xóa bỏ những bất công của chế độ đẳng cấp (caste system), Gandhi đã áp dụng tối đa các nguyên tắc bất bạo động bất tuân dân sự (the principles of nonviolent civil disobedience), và đã đóng vai trò then chốt trong việc giải phóng Ấn Độ khỏi sự thống trị của nước ngoài.

Mahatma Gandhi là một nhà lãnh đạo có uy tín và đã truyền cảm hứng cho dân Ấn chỉ vì Ông đã trao quyền cho tất cả người Ấn Độ trong công cuộc vận động “tuần hành muối” để làm hỏng hệ thống kinh tế Anh qua cung cách hướng dẫn cho người Ấn hiểu và học cách phản kháng thông qua bất tuân dân sự bất bạo động.

Mahatma Gandhi là một trong những nhà lãnh đạo lớn trong phong trào giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân. Ông là cha đẻ của một quốc gia và lãnh đạo phong trào dân quyền Ấn Độ nhằm giải phóng Ấn Độ khỏi sự thống trị của Anh.

Tại sao Gandhi là một anh hùng hay hơn nữa là một ÔngThánh?

  • Mahatma Gandhi đã chiến đấu cho độc lập ở Ấn Độ và không bao giờ bỏ cuộc. Khi chính phủ Anh cố gắng cai trị Ấn Độ bằng bạo lực, Gandhi đã xử dụng phản kháng bất bạo động để tổ chức và phản đối sự đối xử bất công đối với người dân Ấn Độ. Và sự phản kháng bất bạo động của ông đã giúp chấm dứt sự cai trị của Anh ở Ấn Độ và đã ảnh hưởng đến các phong trào bất tuân dân sự hiện đại trên toàn cầu. Ông được vinh dự có tên gọi rộng rãi là Mahatma, có nghĩa là “một linh hồn lớn” hoặc một vị thánh – “great soul or saint” trong tiếng Phạn – Sanskrit. Ông đã giúp Ấn Độ đạt được độc lập thông qua triết lý bất hợp tác bất bạo động.

Cuối cùng, trong nỗ lực chấm dứt xung đột tôn giáo ở Ấn Độ, ông đã nhịn ăn và đến thăm các khu vực gặp khó khăn. Trong khi Ông cùng với người dân Ấn trong một buổi nhịn đói ở New Delhi ngày 30/1/1948, thình lình tên Nathuram Godse, một người theo đạo Hindu cực đoan lấy lý do phản đối sự khoan dung của Gandhi đối với người Hồi giáo, đã bắn chết Ông.

Người góp nhặt cát đá …

  Thánh Gioan Neumann (1811 – 1860)

5 Tháng Giêng

  Thánh Gioan Neumann (1811 – 1860)

 Thánh Gioan Neumann sinh trưởng ở Bohemia. Vào năm 1835, ngài trông đợi để được thụ phong linh mục nhưng đức giám mục sở tại quyết định không phong chức thêm. Thật khó để ngày nay chúng ta tưởng tượng rằng Bohemia dư thừa linh mục, nhưng thực sự là như vậy. Gioan viết thư cho các giám mục khắp Âu Châu, nhưng câu trả lời ở đâu đâu cũng giống nhau. Tin rằng mình có ơn thiên triệu nhưng mọi cơ hội dẫn đến sứ vụ ấy dường như đều đóng kín.

Không nản chí, và nhờ biết tiếng Anh khi làm việc trong xưởng thợ của người Anh, ngài viết thư cho các giám mục ở Mỹ Châu. Sau cùng, vị giám mục ở Nữu Ước đồng ý truyền chức linh mục cho ngài. Ðể theo tiếng Chúa gọi, ngài phải từ giã quê nhà vĩnh viễn và vượt đại dương ngàn trùng để đến một vùng đất thật mới mẻ và xa lạ.

    Ở Nữu Ước, Cha Gioan là một trong 36 linh mục trông coi 200,000 người Công Giáo. Giáo xứ của ngài ở phía tây Nữu Ước, kéo dài từ Hồ Ontario đến Pennsylvania. Nhà thờ của ngài không có tháp chuông nhưng điều đó không quan trọng, vì hầu như lúc nào Cha Gioan cũng di chuyển, từ làng này sang làng khác, lúc thì lên núi để thăm bệnh nhân, lúc thì trong quán trọ hoặc gác xếp để giảng dạy, và cử hành Thánh Lễ ngay trên bàn ăn.

 Vì sự nặng nhọc của công việc và vì sự đơn độc của giáo xứ, Cha Gioan khao khát có một cộng đoàn, và đã ngài gia nhập dòng Chúa Cứu Thế, là một tu hội chuyên giúp người nghèo và những người bị bỏ rơi.

    Vào năm 1852, Cha Gioan được bổ nhiệm làm giám mục Philadelphia. Việc đầu tiên khi làm giám mục là ngài tổ chức trường Công Giáo trong giáo phận. Là một nhà tiên phong trong việc giáo dục, ngài nâng số trường Công Giáo từ con số đơn vị lên đến 100 trường.

    Ðức Giám Mục Gioan không bao giờ lãng quên dân chúng — đó là điều làm giới trưởng giả ở Philadelphia khó chịu. Trong một chuyến thăm viếng giáo xứ ở thôn quê, cha xứ thấy ngài ngồi trên chiếc xe bò chở phân hôi hám. Ngất ngưởng ngồi trên mảnh ván bắc ngang trên xe, Ðức Gioan khôi hài, “Có bao giờ cha thấy đoàn tùy tùng của một giám mục như vậy chưa!”

    Khả năng biết tiếng ngoại quốc đã đưa ngài đến Hoa Kỳ thì nay lại giúp Ðức Gioan học tiếng Tây Ban Nha, Pháp, Ý, và Ðức để nghe giải tội bằng sáu thứ tiếng. Khi phong trào di dân người Ái Nhĩ Lan bắt đầu, ngài lại học tiếng Gaelic và sành sõi đến nỗi một bà Ái Nhĩ Lan cũng phải lầm, “Thật tuyệt chừng nào khi chúng ta có được vị giám mục là người đồng hương!”

    Trong chuyến công tác mục vụ sang nước Ðức, đến nơi ngài ướt đẫm dưới cơn mưa tầm tã. Khi gia chủ đề nghị ngài thay đôi giầy sũng nước, ngài trả lời, “Tôi chỉ có cách đổi giầy từ chân trái sang chân phải thôi. Chứ có một đôi giầy thì làm gì được.”

    Ðức Gioan từ trần ngày 5-1-1860 khi mới 48 tuổi. Ngài nổi tiếng về sự thánh thiện và sở học cũng như các trước tác tôn giáo và bài giảng, do đó ngài được phong chân phước ngày 13-10-1963, và ngày 19-6-1977 ngài được phong thánh.

    Lời Bàn

    Thánh Neumann coi trọng lời Chúa là “Hãy đi rao giảng cho muôn dân.” Từ Ðức Kitô, ngài nhận được các huấn lệnh và cũng nhờ Ðức Kitô mà ngài có thể thi hành sứ mệnh ấy. Vì Ðức Kitô không chỉ trao cho chúng ta sứ mệnh mà còn cung cấp phương tiện để hoàn thành. Ơn sủng mà Thiên Chúa ban cho Thánh Gioan Neumann là biệt tài tổ chức của ngài để qua đó ngài loan truyền Tin Mừng.

    Giáo Hội ngày nay rất cần đến sự hy sinh của mọi người trong công cuộc rao giảng Tin Mừng. Những trở ngại và những bất tiện thì có thật và tốn kém. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết chạy đến Ðức Kitô, Ngài sẽ cung cấp cho chúng ta những khả năng cần thiết để đáp ứng với các nhu cầu ngày nay. Thần Khí Ðức Kitô tiếp tục hoạt động qua các trung gian là sự quảng đại của Kitô Hữu.

    Lời Trích

    “Vì mọi người thuộc bất cứ chủng tộc nào, điều kiện nào và thế hệ nào đều có phẩm giá của một con người, nên họ có quyền được giáo dục tùy theo số phận của họ và thích hợp với khả năng bẩm sinh, với phái tính, với văn hóa và di sản của tổ tiên họ để lại. Ðồng thời, việc giáo dục này phải dẫn đến tình huynh đệ với các dân tộc khác, để sự bình an và sự hợp nhất đích thực có thể thực hiện được ở trần gian. Vì sự giáo dục đích thực nhắm đến việc đào tạo con người đối với lợi ích của xã hội mà trong đó họ là một phần tử, và họ phải chia sẻ trách nhiệm của phần tử ấy như một người trưởng thành” (Tuyên Ngôn Về Giáo Dục Kitô Giáo, 1).

       Trích từ Nguoitinhuu

From: NguyenNThu

Thánh Elizabeth Ann Seton

Thánh Elizabeth Ann Seton

Chúc ngày thứ 2 đầu tuần thật an lành nhé! 

Cha Vương

Thứ 2: 04/01/2021

Hôm nay Giáo Hội mừng kính, Thánh Elizabeth Ann Seton (1774 – 1821), Mẹ Seton là một trong những rường cột của Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ. Ngài sáng lập tu hội đầu tiên dành cho phụ nữ Hoa Kỳ, Dòng Nữ Tu Bác Ái, mở trường học đầu tiên trong giáo xứ Hoa Kỳ và thiết lập cô nhi viện đầu tiên ở Hoa Kỳ. Tất cả những điều trên ngài thực hiện trong vòng 46 năm đồng thời vừa nuôi dưỡng năm người con.

          Elizabeth Ann Bayley Seton quả thực là người của thế hệ Cách Mạng Hoa Kỳ, ngài sinh ngày 28 tháng Tám 1774, chỉ hai năm trước khi có bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập. Bởi dòng dõi và hôn nhân, ngài có liên hệ đến các thế hệ đầu tiên sống ở Nữu Ước và vui hưởng kết quả của một xã hội tiến bộ. Ðược nuôi nấng trong một gia đình nề nếp Anh Giáo, ngài biết được giá trị của sự cầu nguyện, Kinh Thánh và sự kiểm điểm lương tâm hàng đêm trước khi đi ngủ. Cha của ngài, Bác Sĩ Richard Bayley, không đóng góp nhiều cho nhà thờ nhưng ông là người rất nhân đạo, đã dạy được cho cô con gái bài học yêu thương và phục vụ tha nhân.

          Sự chết sớm của người mẹ năm 1777 và của bà vú nuôi năm 1778 đã đem lại cho Elizabeth một cảm nhận về sự tạm bợ của trần gian và thúc giục ngài hướng về vĩnh cửu. Thay vì ủ rũ và chán chường, ngài đối diện với các biến cố mà ngài coi là sự “hủy hoại khủng khiếp” với một hy vọng đầy phấn khởi.

          Vào năm 19 tuổi, Elizabeth là hoa khôi của Nữu Ước và kết hôn với một thương gia đẹp trai, giầu có là ông William Magee Seton. Họ được năm người con trước khi doanh nghiệp lụn bại và ông chết vì bệnh lao. Vào năm 30 tuổi, bà Elizabeth đã là một goá phụ, không một đồng xu và phải nuôi nấng năm đứa con.

          Trong khi sống ở Ý, bà được chứng kiến phong trào Tông Ðồ Giáo Dân qua gia đình của những người bạn. Ba điểm căn bản sau đã đưa bà trở về đạo Công Giáo: tin tưởng sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, sùng kính Ðức Mẹ và tin rằng Giáo Hội Công Giáo là một giáo hội tông truyền do Ðức Kitô thành lập. Nhiều người trong chính gia đình bà cũng như bạn hữu đã tẩy chay bà khi trở lại Công Giáo vào tháng Ba 1805.

          Ðể nuôi con, bà mở trường học ở Baltimore. Ngay từ ban đầu, nhóm giáo chức của bà đã theo khuôn khổ của một tu hội, mà sau đó được chính thức thành lập vào năm 1809.

          Hàng ngàn lá thư của Mẹ Seton để lại cho thấy sự phát triển đời sống tâm linh của ngài, từ những việc tốt lành bình thường cho đến sự thánh thiện cách anh hùng. Ngài chịu đau khổ vì những thử thách như đau ốm, hiểu lầm, cái chết của những người thân yêu (chồng và hai con gái), cũng như sự lo lắng đến đứa con trai hoang đàng. Ngài từ trần ngày 4 tháng Giêng 1821, và vào ngày 17-3-1963, Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã tuyên xưng ngài là vị chân phước đầu tiên người Hoa Kỳ. Ngài được phong thánh ngày 24-9-1975. Sau đây là những câu nói của ngài:

*

Tôi thiết nghĩ mục đích trước nhất trong công việc hàng ngày của chúng ta là thi hành thánh ý Thiên Chúa; thứ đến, thi hành điều ấy trong phương cách mà Ngài muốn; và thứ ba, thi hành điều ấy vì đó là ý Chúa.

*

Niềm hy vọng của tôi là biến những khó khăn trong đời thành niềm an ủi cho người khác.

*

Đau khổ là những bậc thang để lên thiên đàng.

*

Sống giản dị là cách đơn giản để sống.

Câu nào đánh động bạn nhất?

From: Anh Đỗ Dzũng gởi

Thánh Gioan Thánh Giá, Linh mục, Tiến sĩ

Thánh Gioan Thánh Giá, Linh mục, Tiến sĩ

Chúc bạn ngày Thứ 2 đầu tuần bình an và cảm nhận được sự ấm áp của Chúa đang ôm ấp bạn nhé.

Cha Vương

Hôm nay 14/12, Giáo hội mừng kính thánh Gioan Thánh Giá, Linh mục, Tiến sĩ. Thánh Gioan Thánh Giá sinh tại Tây Ban Nha năm 1542. Ngài thừa hưởng tinh thần nghèo khó và hy sinh từ cha mẹ. Cha ngài đã từ bỏ địa vị quí tộc cao sang, tiện nghi và giàu có dể kết hôn với cô gái nghèo con của một người thợ dệt vải. Khi cha ngài qua đời mẹ ngài đã sống vất vả nghèo đói, quên mình để làm tất mọi công việc thấp kém hèn mọn để nuôi con. Thánh Gioan đã noi gương cha mẹ mình dấn thân vào một cuộc tình ái bao la rộng lớn hơn: yêu mến Thiên Chúa và tha nhân.

Ðã có những lần Gioan phải nhịn đói vì thiếu ăn. Mới 14 tuổi Gioan đã phải đi làm lao công trong bệnh viện, nhìn thấy cảnh đau đớn khốn khổ của bệnh nhân nên Gioan nhận biết niềm vui và hạnh phúc thật không phải ở cuộc đời này mà chỉ có nơi Thiên Chúa.

Tuy vậy Gioan cũng cố gắng học hành và năm 21 tuổi, Gioan gia nhập Dòng Carmel, và đến năm 1567 thì dược lãnh nhận chức linh mục. Ðây là khúc quanh lớn lao trong cuộc đời, chính khi được gặp gỡ thánh Têrêxa Avila trong lúc Bà đang điều khiển Dòng nữ Carmel. Bà yêu cầu thánh Gioan giúp Bà cải tổ lại Nhà Dòng. Thánh Gioan đồng ý là nhà Dòng phải trở lại đời sống cầu nguyện và chiêm niệm. Nhưng có nhiều thầy tu không muốn cải tổ vì phải sống kỷ luật và khắc khổ nên đã đem thánh Gioan giam tù. Ngài bị nhốt vào một buồng giam chật hẹp và mỗi tuần bị các thầy tu khác vào đánh tội ba lần. Trong căn buồng chập hẹp lạnh lẽo tối tăm, thánh Gioan đã tìm thấy niềm tin yêu Thiên Chúa thiêu đốt và bừng cháy trong tâm hồn. Trên đời này thánh Gioan không còn gì nữa chỉ còn có một mình Chúa mà thôi. Trong hòan cảnh bi đát này, Chúa đã mang lại cho Thánh Gioan một niềm vui vô tận.

Sau 9 tháng bị giam giữ, thánh Gioan trốn ra dược lúc đêm tối mang theo tập thơ thần bí mà ngài đã viết trong buồng giam. Thánh Gioan đến ẩn náu trong một phòng thuốc của một tu viện và đem những bài thơ ra đọc cho các nữ tu nghe. Các bà yêu mến các bài thơ nên xin Thánh Gioan chia sẻ và hướng dẫn chiêm niệm trên con đường thánh thiện tu trì. Ðời sống nghèo khó và chịu đựng bất công đã hướng dẫn thánh Gioan đến lòng thương xót bí nhiệm và thánh Gioan tìm được chân lý là “đau khổ khốn khó là thử thách để được gần Chúa hơn và đem Tình yêu đến chỗ nào vắng bóng Tình Yêu thì Tình Yêu sẽ trở nên phong phú và viên mãn.”…

Thánh Gioan Thánh Giá là một nhà linh đạo thần bí, chịu đựng đau khổ hành hạ không phải do kẻ thù mà do chính anh em đồng đạo mình; nhưng chính nhờ vậy mà ngài đã có một cái nhìn thật sâu xa và huyền bí về Tình Yêu của Thiên Chúa. (Nguồn: Dân Chúa)

Sau đây là những câu danh ngôn của ngài mời bạn đọc và hình dung ra như ngài đang nói vời bạn điều gì đó…:

❦ Tin bằng nào được bằng đó.

❦ Linh hồn người say yêu Thiên Chúa lúc nào cũng đắm đuối trong hoan lạc, lúc nào cũng mừng lễ và lúc nào cũng hứng khởi hát ca.

❦ Trong tinh thần siêu thoát, linh hồn tìm được sự tĩnh lặng và thành thơi vì không còn ham hố sự gì. Nó không mỏi mệt vì tự cao, cũng không chán chường vì ngã lòng, bởi vì nó đứng ở tâm điểm sự khiêm nhượng.

❦ Mỗi khi có điều gì bất mãn hoặc khó chịu xảy đến anh em hãy nhớ lại Chúa Kitô đã chịu đóng đinh và hãy nín lặng.

❦ Ma quỷ sợ hãi linh hồn nào kết hiệp với Thiên Chúa bởi vì linh hồn ấy chính là nơi Thiên Chúa ngự.

❦ Lúc cuối đời, chúng ta sẽ bị phán xét về đức ái.

❦ Thập giá dẫn đến sự cứu chuộc, đau khổ dẫn đến sự ngất ngây, tăm tối dẫn đến sự sáng, khi từ bỏ là lúc làm sở hữu, hy sinh bản thân để kết hợp với Thiên Chúa.

Câu nào đánh động bạn nhất vậy?

Thánh Gioan Thánh Giá, cầu cho chúng con.

KHOA HỌC LÀM SÁNG TỎ CÁC BÍ MẬT CỦA ĐỨC BÀ GUADALUPE

Một bài khác về Đức Mẹ Guadalupe cũng rất đáng đọc. Kính mời bà con.

KHOA HỌC LÀM SÁNG TỎ CÁC BÍ MẬT

CỦA ĐỨC BÀ GUADALUPE

Philip Callahan

Hôm đẹp trời lạnh lẽo 12-12-1531 ấy, Juan Diego -một trong những người cải đạo sớm nhất ở Mêhicô- không thể mơ có một ngày trong tương lai xa xôi, ông lại được bất tử hóa và được đặt trên bàn thờ của Giáo Hội hoàn vũ.

Juan Diego đang trên đường tới nhà thờ sáng sớm hôm đó thì lại nghe tiếng nói ngọt ngào của Bà Đẹp vốn đã hiện hình trước mắt ông tại chân Đồi Tepeyac ở ngoại ô Thành phố Mêhicô hai hôm trước.

Bà Đẹp đã lặp lại ước muốn của mình là có một teocali (nhà nguyện) được xây nơi Bà đã hiện ra. Juan Diego nói với Bà rằng Đức Giám mục Juan Zumarraga đòi bằng chứng về tính xác thực của yêu cầu này. Đức Bà đã chấp thuận. Theo hướng dẫn của Người, Juan Diego đã hái một bó hoa hồng Castilian rồi chính Người xếp trên tilma của ông (áo choàng, ct: một loại poncho hai vạt trước và sau). Ông sẽ phải đưa bó hoa hồng đó cho ĐGM. Vâng, những đóa hồng Castilian lạ lùng nở vào mùa Đông!

Juan Diego vội vàng đến gặp ĐGM. Và khi ông trải áo choàng của mình ra thì lạ chưa, ĐGM và mọi người có mặt đều hết sức kinh ngạc khi thấy không những nhiều đóa hồng thơm ngát rơi xuống từ áo choàng của ông mà còn cả một bức ảnh (cao 143 cm) của một phụ nữ trẻ đẹp với nước da hơi sẫm.

Đó là câu chuyện hay về việc làm sao hình ảnh Đức Bà Guadalupe đã xuất hiện. Hình Mẹ được bao quanh bằng những tia sáng mặt trời và dưới chân Đức Trinh Nữ có một vầng trăng lưỡi liềm và một thiên thần nâng Người lên. Đức Bà mặc một áo choàng màu xanh dương lẫn xanh lục với những ngôi sao vàng, và bên trong là một áo dài hồng thêu những nụ hoa viền vàng. Một đai lưng màu tía sẫm thắt quanh eo Đức Trinh Nữ theo kiểu các thai phụ Aztec vẫn thường mang.

Đức Mẹ yêu cầu Juan Diego gọi Người là coatloxopeuh mà trong tiếng Nahuatl, ngôn ngữ Aztec châu Mỹ, có nghĩa là “người đạp dẹp con rắn”. Trên phương diện lịch sử, đó là một phần văn hóa Aztec đương thời, vốn hàng năm dâng ít nhất 20.000 đàn ông, đàn bà và trẻ em cho các thần của họ như tế vật. Nhờ Đức Bà Guadalupe hiện ra với Juan Diego, hàng triệu người đã trở lại Kitô giáo, như thế là đạp dẹp con rắn của việc thờ ngẫu tượng.

Áo choàng của Juan Diego được làm bằng sợi thô, cứng, một thứ vải hoàn toàn không thích hợp để vẽ. Cuộc nghiên cứu và nhiều thử nghiệm khoa học đã được thực hiện trên áo choàng đó từ năm 1666 bởi các họa sĩ, bác sĩ và khoa học gia. Những phát hiện của họ cho thấy như sau: các đặc điểm lạ lùng của hình ảnh vượt quá mọi hiểu biết khoa học; hình ảnh xem ra đã không được vẽ bởi bàn tay con người; các màu sắc xuất hiện như “tích hợp” vào thớ vải; và chất màu được sử dụng không có nguồn gốc từ động vật hay khoáng vật. Hơn nữa, áo choàng, được làm bằng sợi đặc biệt đó, là tấm khăn duy nhất cùng loại còn tồn tại sau 476 năm [ct: 2007, thời điểm tác giả viết bài này].

Renzo Allegri, trong bài viết trên báo Messenger of Saint Anthony (Sứ giả của Thánh Antôn), cho biết rằng hiện tượng đã đánh thức sự tò mò khoa học đối với hình ảnh Đức Bà Guadalupe, liên quan đến cái đã được khám phá trong đồng tử đôi mắt Đức Mẹ. Năm 1929, Alfonso Gonzales, một nhiếp ảnh gia của Vương cung Thánh đường Guadalupe, sau khi nghiên cứu âm bản (phim) của hình ảnh, đã tìm ra cái có vẻ là hình ảnh rõ nét của một người nam có râu phản chiếu ở mắt bên phải.

Hơn 20 năm sau, một nhiếp ảnh gia khác của Vương cung Thánh đường, Carlos Chavez, đã tuyên bố rằng ông thấy một hình người trong mắt bên trái cũng như mắt bên phải của Đức Bà Guadalupe. Từ năm 1956 tới 1958, Rafael Torija Lavoigner đã thực hiện 5 cuộc nghiên cứu sử dụng các thấu kính phóng đại và kính soi đáy mắt (ophthalmoscopes), ông xác nhận có nhiều hình người trong đôi mắt của Đức Trinh Nữ.

Các hiện tượng như thế trở nên giật gân hơn nữa khi đôi mắt Đức Bà được nghiên cứu có sử dụng kỹ thuật tinh vi hơn nối kết với các máy vi tính.

Năm 1979, Tiến sĩ Jose Aste Tousman, một kỹ sư xuất sắc chuyên về vi tính ở Hoa Kỳ, đã đến Mêhicô. Ông là một trong những nhà nghiên cứu có khả năng nhất về đôi mắt Đức Bà Guadalupe. Allegri viết rằng công trình TS Tousman thực hiện trong 23 năm thật đáng kinh ngạc; ông đã sử dụng thiết bị cập nhật hay tinh vi nhất, giống các loại mà NASA vẫn dùng để giải mã các bức ảnh do vệ tinh chụp trong không gian. TS Tousman đã phóng to hình ảnh đôi mắt Đức Bà Guadalupe tới 2.500 lần, sử dụng 25.000 màu được chiếu sáng cho mỗi mm vuông.

Sau khi lọc và xử lý hình ảnh kỹ thuật số, TS Tousman khám phá ra một toàn cảnh được bắt hay được chụp trong đôi mắt Đức Bà Guadalupe. Trong toàn cảnh, có khoảng 11 người. Có một người Mêhicô bản địa ngồi xếp hai chân và tóc dài tết thành đuôi ngựa. Kế ông là một cụ già, hói đầu, râu trắng, mũi thẳng, lông mày rậm và một giọt nước mắt chảy dài xuống má phải. Nhân vật này được xác định là ĐGM Juan Zumarraga. Bên trái ngài là tay phiên dịch của ngài, Juan Gonzales. Có bóng dáng một ông già để râu và ria, với một cái mũi to kiểu Rôma, xương gò má lồi lên, đôi mắt chìm sâu và đôi môi nửa khép nửa mở – rõ ràng là một thổ dân châu Mỹ – đang mở áo choàng của mình khi quay mặt về phía ông già đầu hói. Rõ ràng là Juan Diego, kẻ đem những đóa hồng trong áo choàng mình tới cho ĐGM. Cũng có nhiều kẻ không xác định được gồm một người cha, một người mẹ, hai ông bà già và 3 đứa trẻ.

Cảnh tượng được khám phá trong đôi mắt phóng đại của hình ảnh kỹ thuật số cho thấy rằng trong giây phút đầy xúc động ấy, khi Juan Diego trải áo choàng cho Đức Giám mục và khi tất cả những ai đang hiện diện trong căn phòng thấy hình ảnh Đức Bà được vẽ lên đó, thì Mẹ Thiên Chúa thực sự có mặt: như những caméra tinh vi nhất, đôi mắt của Người đã chụp cảnh tượng và đã bảo tồn nó cho các thế hệ tương lai. Cũng kỳ lạ ở chỗ: ý thức những giới hạn của khoa học và kỹ thuật thời đó, Đức Mẹ biết rằng điều này sẽ chỉ được khám phá vài trăm năm sau, khi các thiết bị tinh vi nhất được con người phát minh chế tạo.

Sứ điệp của Đức Bà Guadalupe có thể là gì qua các phát hiện ấy của khoa học? TS Aste Tousman đã đi đến những suy nghĩ như vậy. Sự hiện diện của những kẻ không xác định có thể là một sự nhấn mạnh đến tầm quan trọng của gia đình và các giá trị gia đình. Vì hai người đàn ông da trắng và những thổ dân châu Mỹ được tìm thấy trong cảnh tượng, sự hiện diện của những chủng tộc pha trộn có thể là một cảnh báo chống kỳ thị chủng tộc và là một lời kêu gọi tình huynh đệ giữa con người. Việc khám phá cảnh tượng nhờ thiết bị hiện đại có thể là một lời mời gọi dùng kỹ thuật để loan truyền lời Chúa Kitô.

Juan Diego đã được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong thánh tại Mêhicô. Thổ dân châu Mỹ khiêm nhường, đơn sơ này có thể đã không hình dung rằng Bà Đẹp Guadalupe mà ông đã nói chuyện với ở đồi Tepayac còn có nhiều bí mật khác được tiết lộ, được dành riêng cho các thế hệ tương lai. Trong trí óc đơn giản của mình, ông đã không thể nhận thức điều ấy. Chỉ cần nói rằng ông đã vâng lời và yêu mến Đức Mẹ, Đức Mẹ cũng đã yêu mến ông vì tâm hồn đơn sơ và trong sạch của ông.

Xem ra lạ lùng đối với một khoa học gia khi nói lên điều ấy, nhưng với tôi là kẻ cảm thấy liên hệ, bức ảnh gốc thật kỳ diệu. Nghiên cứu hình ảnh này là kinh nghiệm cảm động nhất của đời tôi. Tiếp cận với nó, tôi có cùng cảm giác lạ lùng như những ai đã nghiên cứu Khăn liệm thành Turin (Italia). Tôi tin vào những cách giải thích lô-gích tới một điểm nào đó. Nhưng không có cách giải thích lô-gích cho cuộc sống. Bạn có thể bẻ sự sống thành các nguyên tử, nhưng cái gì đến sau đó? Ngay cả nhà bác học Einstein cũng chân nhận có Thiên Chúa mà!

(*) Giáo sư Philip Callahan là khoa học gia xuất chúng, ĐH Florida năm 1979.

Trích Francis Johnston, Sự kỳ diệu của Guadalupe.

Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi dịch từ nguyên bản Anh ngữ

Nguồn: http://www.all-about-the-virgin-mary.com/our-lady-of…

Mừng kính Thánh Am-rô-xi-ô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh

Mừng kính Thánh Am-rô-xi-ô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh

Xin Chúa sẽ che chở và ban nhiều ơn lành xuống cho bạn hôm nay và cả tuần sắp tới. Hãy gạt bỏ quá khứ, chào đón mỗi ngày với niềm vui và hy vọng. Sống hồn nhiên vui vẻ với những nụ cười thật to. Tuần mới thật vui nhé!

Cha Vương

Hôm nay 07/12, Giáo hội mừng kính Thánh Am-rô-xi-ô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh, mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy.

Thánh Am-rô-xi-ô chào đời ở Trê-vê-rô quãng năm 340 trong một gia đình người Rô-ma. Thánh nhân theo học ở Rô-ma và bắt đầu sự nghiệp hiển hách ở Xiếc-mi-ô. Năm 374, lúc đang ở Mi-la-nô, thánh nhân bất ngờ được bầu làm giám mục và được tấn phong ngày 7 tháng 12. Người trung thành thi hành bổn phận, nổi bật về lòng bác ái đối với mọi người. Đối với các tín hữu, người vừa là mục tử, vừa là tôn sư. Người đã can đảm bênh vực các quyền của Hội Thánh, người vừa viết lách, vừa hoạt động để bênh vực giáo lý đức tin chân thật, chống lại những người theo phái A-ri-ô. Người qua đời thứ Bảy Tuần Thánh, ngày 4 tháng 4 năm 397. Sau đây là những câu danh ngôn của ngài mời bạn đọc và hình dung ra như ngài đang nói vời bạn điều gì đó…:

❦ Chúng ta tránh né con mắt người đời, nhưng chúng ta lại phạm tội ngay trước mắt Thiên Chúa.

❦ Chính đức tin là tác nhân giải thoát, nhờ máu thánh Chúa Kitô.

❦ Hỡi những người giàu có, anh em muốn mở rộng tính tham lam của mình đến tận đâu? Anh em định làm những người duy nhất cư ngụ trên trái đất này sao? Vậy tại sao anh em lại xua đuổi những người cùng chia phần thiên nhiên và tự nhận nó là của riêng anh em? Trái đất này được tạo dựng cho mọi người, giàu cũng như nghèo, chung cho tất cả. Tại sao những người giàu có như anh em lại tự nhận nó làm độc quyền của mình?

❦ Nếu bạn có hai cái áo trong tủ, một cái là của bạn còn cái kia là của người nghèo không có áo mặc.

❦ Nhẫn nại chịu đựng là sự trọn lành của đức ái.

❦ Lòng nhân ái thật tốt lành vì làm cho người ta nên hoàn thiện, noi theo Chúa Cha là Đấng hoàn thiện. Không gì làm cho linh hồn người tín hữu nên khả ái cho bằng lòng nhân ái.

❦ Đối với người lành thánh, chết là một mối lợi. Người ngu dại sợ chết như điều dữ dằn kinh hãi nhất, còn người khôn ngoan mong mỏi cái chết như sự nghỉ ngơi sau bao nhiêu lao nhọc và chấm dứt những bệnh tật.

❦ Phúc cho ai dứt bỏ được thói tham lam là cội rễ của các tính mê…. Của cải thừa mứa trên thế gian này có ích gì, chúng không giúp được chúng ta sinh cũng chẳng cản được chúng ta tử? Chúng ta sinh vào thế gian này trần trụi, và chúng ta chết đi mà chẳng mang theo được một xu nào, chúng ta bị chôn táng mà không đem theo được sản nghiệp của mình.

❦ Không ai có thể tự chữa lành cho bản thân bằng cách đả thương người khác.

❦ Chúng ta đã yêu thương họ khi họ còn sống, vậy chúng ta cũng đừng lãng quên họ cho đến ngày chúng ta dẫn đưa họ – bằng lời cầu nguyện của chúng ta – vào đến nhà Chúa.

❦ Đời sống của Đức Maria là bài học cho tất cả mọi người… Bạn hãy đặt trước mắt bạn cuộc đời thánh khiết của Đức Trinh Nữ, Đấng đã phản chiếu, như một tấm gương, vẻ lộng lẫy, sự thánh khiết, và sức mạnh nhân đức.

Câu nào đánh động bạn nhất? Tại sao?

Lạy Thánh Am-rô-xi-ô, cầu cho chúng con.

Thánh Phanxicô Xavie

 Thánh Phanxicô Xavie

Hôm nay 3/12 Giáo Hội mừng kính Thánh Phanxicô Xavie Linh mục dòng Tên truyền giáo Tây ban nha (1506-1552). Ngài được mệnh danh là Phaolô thế kỷ XVI. Mừng quan thầy đến những ai chọn thánh nhân làm quan thầy nhé.

Cha Vương

1- Gia đình, quê quán: Phanxicô Xavier sinh ngày 7 tháng Tư năm 1506, tại Tây Ban Nha trong một gia đình quý tộc trong lãnh địa dòng Navarre . Cậu là em út của 6 anh chị lớn. Cha cậu là Juan de Jasso, cố vấn vua John III dòng Navarre. Khi Xavier lên 9 thì cha cậu chết. Lên 19 tuổi, Xavier đi học tại đại học Paris. Cậu lãnh Cử nhân văn chương. Tại đây anh chung phòng với Ignatiô Loyola . Ban đầu Phanxicô không thích Ignatiô, nhưng chính Ignatio nhận ra tài năng của Phanxicô: đó là con người nhiều tham vọng, có thể thành giáo sư giỏi, lãnh đạo tốt. Ignatio thay đổi cuộc đời Phanxicô khi nhắc lại lời Chúa Giêsu :” Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì?” (Mt 16, 26). Trong một thời gian lâu, chàng chiến đấu với tư tưởng: chọn danh vọng thú vui ở đời, hay chọn hi sinh. Cuối cùng (năm 1540) nhóm 7 người liên kết lập Tu hội Chúa Giêsu (Society of Jesus, viết tắt là S.J) để phục vụ giáo hội. Phanxicô thụ phong linh mục năm 1537, khi anh được 31 tuổi.

2- Làm linh mục và đi truyền giáo tại Ấn, Nhật: Ignatiô làm bề trên Tu hội, ông cử 2 người đi truyền giáo bên Ấn độ. Một trong hai đã ngã bệnh nặng, Phanxicô được cử đi thay. Trong 5 tháng vượt biển, Phanxicô luôn say sóng nằm mê man. Năm 1542, tại thành Goa nước Ấn, Phanxicô học tiếng để có thể dạy họ về giáo lý Chúa Kitô. Ngài dạy trẻ em trước rồi đến người nghèo, người bệnh, người bận rộn công việc, người trong tù. Ông sống với người nghèo, chia sẻ đồ ăn, lều ở như họ. Ngài chinh phục được cả ngàn người trở lại đạo Chúa. Ông viết thư cho bề trên Ignatiô:

”Từ khi đến đây, tôi chẳng ngừng nghỉ lúc nào. Tôi rảo khắp các làng, rửa tội cho nhiều trẻ em…Khi tôi đến các làng ấy, trẻ em không để cho tôi đọc kinh nguyện, ăn uống, nghỉ ngơi, nếu tôi chưa dạy cho chúng một kinh cầu nguyện. Vì thế tôi hiểu tại sao nước trời lại là của những người giống như chúng”.

Một lần kia Phanxicô Xavier rửa tội cho một em nhỏ gần chết, con của một người Ấn Độ nghèo nàn. Khi em nhỏ chết, thánh nhân liền bật khóc trong nỗi hân hoan với lời tạ ơn Chúa. Lấy làm lạ, người ta hỏi tại sao khi thân nhân em bé đau đớn khóc than thì ngài lại khóc vì vui quá như vậy. Thánh nhân đáp:

– Nay tôi đã được đền đáp đủ cho mọi cuộc hành trình gian khổ từ ngày tôi đến xứ này tới giờ. Tôi đã gởi về trời thêm một con trẻ để tôn vinh Chúa!

Năm 1548, Phanxicô vượt biển qua nước Nhật. Người Nhật giúp ngài làm nhà thờ, ngài dạy đạo và Rửa tội nhiều người trong đám họ.

Chúng ta biết được nhiều điều về người Nhật, nhờ những thư ngài viết về cho bề trên Ignatiô và anh em dòng. Ngài bận rộn, cô đơn, khó khăn. Trên tất cả, Phanxicô vui trong niềm vui tinh thần. Ngài thích cầu với Chúa lời này:” Xin ban cho con các linh hồn”.

3- Chết ở bờ biển nước Tàu: Mộng của ngài là tới Trung hoa, nước lớn nhất, để rao giảng Tin mừng. Sau những năm vất vả ở Nhật. Năm 1552, trên đường qua Trung hoa, ngài bị bệnh, thuỷ thủ cho ngài lên hòn đảo gần đấy để ngài có thể thấy được Trung hoa. Một người đánh cá gặp thấy ngài nằm gần chết trên bờ biển, đem ngài về lều.

Ngày 3 tháng 12 năm 1552, Phanxicô qua đời vì bệnh sốt rét lúc 46 tuổi. Ngài được chôn nơi đất lạ quê người, nhưng rồi Chúa thưởng công lớn cho ngài. Phanxicô Xavier được ĐTC Gregoriô 15 nâng lên hiển thánh ngày 12 tháng 3 năm 1622, cùng lúc với Bề trên Ignatio Loyola. Giáo hội coi thánh Xavier như Bổn mạng các xứ truyền giáo. Nhiều quốc gia và trường học do các linh mục Dòng Tên điều khiển kính thánh Phanxicô như Bổn mạng của mình. (Nguồn: Dân Chúa)

Cha Barreto viết về Thánh Phanxicô Xaviê như sau: “Chân bước đi trên đất, miệng nói chuyện trên trời… hình như lúc nào cũng mỉm cười, nhưng lại cầm trí và thanh thoát đến nỗi có thể nói không bao giờ ngài cười.”

Nhờ lời chuyển cầu của Thánh Phanxicô Xaviê, xin cho miệng con luôn nói những chuyện trên trời. Amen.

Mời bạn suy niệm những câu danh ngôn của ngài nhé:

❦ Càng là bạn tốt của nhau chừng nào, anh em càng nói thẳng với nhau chừng nấy… (Thánh Phanxicô Xavier)

❦ Tất cả đau khổ phiền muộn là nguồn vui sướng cho tôi. (Thánh Phanxicô Xavier)

❦ Nếu bạn đang gặp nguy hiểm, nếu trái tim bạn đang bối rối, chạy đến Mẹ Maria! (Thánh Phanxicô Xavier)

Câu nào đánh động bạn nhất? Tại sao?

Pin on thánh Phanxicô Xavier