TỪ BÀN TAY TRẮNG

TỪ BÀN TAY TRẮNG

Ngày Phê rô đổi đời là ngày ông đang gặp thất bại.  Chúa can thiệp vào đời ông, ông có chút thành công.  Rồi Chúa lại bảo ông bỏ lại thành công đó cho đời, để nghe theo lời gọi mới.  Phêrô phân vân, “đâu là thành công thật?”

Cuộc đời Phêrô  xoay quanh con thuyền, sóng nước.  Nước có lúc bình yên, biển có ngày sóng gió.  Đời ông cũng nổi trôi như sóng nước.  Có ngày cá vào đầy lưới, ông vui.  Ngày cá đi vắng, ông buồn.  Ông không nắm chắc liệu cá có bơi qua thuyền mỗi ngày như mọi ngày?  Sống trong cái bấp bênh của may rủi là thân phận con người.  Ông có thể tính toán giỏi, nhưng ông không đọc được hết tâm tư của sóng nước.  Ông cũng chẳng hiểu những chuyến đi thầm lặng của loài cá.  Ông sống chờ thời.

Rồi một ngày, ông lên bờ với bàn tay trắng.  Ông buồn vì thất bại.  Nhưng buồn hơn là thấy đồng nghiệp của mình đang thành công, mà mình thì thất bại.  Phúc Âm kể, những người chài lưới khác đang đi rửa lưới.  Có cá vào nhiều nên mới đi rửa lưới.  Còn lưới Phêrô sạch, không cần rửa!  Ông ngồi nhìn con thuyền trống rỗng, nghĩ đến ngày mai bấp bênh.  Ông ngồi ngậm nghĩ, giá mà tối hôm qua ông thả lưới ở một vùng nước khác, có lẽ sẽ không đến nỗi tệ như hôm nay.  Giá như ông theo đám đông để thả lưới, thì có lẽ cũng kiếm được mớ cá như bao nhiêu người khác.  Bao nhiêu tâm trạng “giá mà” vẫn thường quanh quẩn trong tư tưởng mỗi khi thất bại.

Nếu nhìn chung quanh ai cũng đều thất bại, thì có lẽ Phê rô không buồn nhiều.  Còn tất cả thành công, mà mình thất bại thì buồn lắm.  Mặc cảm cá nhân thường ngăn cản những nụ cười tươi.  Chung quanh ông, có nhiều ánh mắt vui của thành công.  Còn trong ánh mắt Phêrô có ánh nhìn xa xăm.

Tôi gặp trong dòng đời nhiều ánh mắt như Phêrô, và tôi yêu mến họ.   Những ánh mắt buồn vì thất bại trong tình yêu, trong hôn nhân, và trong nghề nghiệp.  Ngay cả trong Giáo Hội, những người thất bại ít có tiếng nói, họ đứng bên lề của đời sống phục vụ.  Thinh lặng, kiên nhẫn, và đợi chờ.  Lối đi nào cũng có những khúc quanh của nó.   Lắm khi những khúc quanh cuộc đời khiến người ta ngại tìm một lối đi mới.

Câu chuyện vui của một Cha xứ kể làm tôi nhớ mãi.  Một buổi sáng Chúa Nhật, bà mẹ đến gọi con trai.

–        Steven, dậy đi lễ.

Steven nghe tiếng gọi, nhưng anh phản ứng.

–  Không, con không muốn đi.  Đi lễ một mình buồn.  Hơn nữa, chẳng mấy ai ở nhà thờ ưa con.   Rồi anh kéo mền phủ kín đầu.  Người mẹ kiên nhẫn nhưng dứt khoát.

–  Có ba lí do con phải đi lễ hôm nay.  Thứ nhất, hôm nay là Chúa Nhật, lễ buộc. Thứ hai, con đã ngoài bốn mươi tuổi rồi.  Và thứ ba, vì con la Cha Xứ.  Dậy nhanh lên con, sắp trễ rồi !

Thất bại làm con người tê liệt, không muốn vươn xa hơn.  Phêrô cũng ngại ngần như thế.  Ông nhìn con nước trong veo nhưng lòng đầy nghi nan, tương lai ảm đạm.  Bất lực.  Ông ngồi chờ thời.  Rồi ánh bình minh lên cao, có bước chân người tìm đến.  Chúa nhìn thuyền Phêrô trống trải, còn ánh mắt ông thì vẫn xa xăm.

Có tiếng nói bên tai, “Cho tôi mượn chiếc thuyền.”  Lời đề nghị thân tình làm ông ngạc nhiên.  Lâu nay có ai mượn thuyền của ông bao giờ.  Phúc Âm kể:

Một hôm, đám đông chen lấn nhau đến sát bên Người để nghe lời Thiên Chúa, mà Người thì đang đứng bên bờ hồ Ghennêxarét.  Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới.  Ðức Giêsu xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simôn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút.  Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông.  Giảng xong, Người bảo ông Simôn: Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”.  Ông Simôn đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả.  Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”.  Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới.  Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp.  Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.  Thấy vậy, ông Simôn Phêrô sấp mặt dưới chân Ðức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”  Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simôn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc.  Cả hai người con ông Dêbêđê, là Giacôbê và Gioan, bạn chài với ông Simôn, cũng kinh ngạc như vậy.  Bấy giờ Ðức Giêsu bảo ông Simôn: “Ðừng sợ, từ nay anh sẽ bắt người như bắt cá.  Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.”

Mượn thuyền là để đưa thuyền ra khơi.  Chúa mượn thuyền Phê rô, Chúa mượn thuyền đời tôi.  Những con thuyền cũng có lần ngại ngùng xuống nước.  Rồi một lời đề nghị thả lưới trái quy luật, khó chấp nhận, bởi vì không ai có hy vọng lưới cá ban ngày, nhất là khi nắng đã lên.  Cá chỉ xuất hiện nhiều trong đêm.  Nắng càng lên cao, cá càng lặn sâu.  Thả lưới ban đêm mà vẫn trắng tay, nay lại còn có lời yêu cầu thả lưới ban ngày!  Sóng nghi nan trỗi dậy trong lòng.  Phép lạ hiếm xảy ra trong cuộc đời chài lưới nhiều kinh nghiệm.  Càng thấy mình có kinh nghiệm, càng khó tin lời người khác chỉ bảo.

Rồi từ bàn tay trắng xen lẫn nghi nan, có phép lạ xảy đến.  Phép lạ thứ nhất là lòng Phêrô thay đổi.  Chưa bắt được cá, nhưng lòng biết lắng nghe là đã mở lối cho nhiệm mầu.  Ông để Chúa vào thuyền đời mình.  Con thuyền lâu nay ông tự lèo lái, chẳng cần ai.  Nay ông  thất bại, ông bắt đầu hoài nghi cả chính mình.  Cái hay của Phêrô là nhẹ nhàng chấp nhận, “Thôi Chúa cứ dùng, chứ con nản chí lắm rồi.”  Sẵn lòng để Chúa dùng con thuyền đời mình, là bắt đầu đón nhận nhiều sự lạ.  Chuyện lạ của mẻ cá được bắt đầu từ một thái độ mở lòng, dù nó xen lẫn chút nghi nan.

Cái đẹp của niềm tin là nó được đan quyện trong những giây phút hoài nghi.  Tin mà không có chút hoài nghi có thể là một niềm tin tinh tuyền, nhưng cũng có khi nó lại là một niềm tin non trẻ, chưa trải nghiệm sóng gió.  Tin mà xen lẫn cả nghi nan, mới thấy rõ Ơn Trời nhiệm mầu.  Chúa biết Phêrô hoài nghi, nhưng vẫn can thiệp để biến hoài nghi trở thành niềm tin tưởng.  Vì thế, cảm thông cho những giây phút chán nản trong đời của một ai đó là bắt đầu dìu nhau bước vào ánh sáng của niềm tin.

Thay Đổi Giá Trị Sống

Phêrô choáng ngợp trước thành công vật chất quá lớn.  Chúa của ông lúc này vẫn là Chúa của ban ơn, Chúa của vật chất, và Chúa của nguồn thành công.  Ông vui vì được làm bạn với Chúa, người cho ông quyền lợi, cho ông lợi nhuận.  Ông vui vì từ nay ông không còn sợ kinh nghiệm trắng tay.  Rồi ông sẽ lên bờ rao giảng cho đồng nghiệp, “Hãy theo Chúa đi, rồi sẽ trúng lớn!”  Giá trị cuộc sống của Phêrô cho đến lúc này vẫn chỉ là cá.

Chúa cho Phêrô cá, nhiều lắm, nhưng lại yêu cầu ông từ bỏ nó.  Phêrô ngỡ ngàng, “sao Chúa cho con, rồi lại bảo con từ bỏ?”  Đây là bài học sâu thăm thẳm trong hành trình gọi mời. “Sao Chúa cho con thành công rồi Chúa bảo con bỏ nó đi?”  Rồi sâu trong ký ức, Phêrô lại nghe tiếng nói lúc Chúa mượn thuyền.  Lần lắng nghe trước đã làm nên điều kỳ diệu, nên ông muốn tiếp tục lắng nghe.  Chúa mách bảo với ông, “cá nhiều thì vẫn là cá. Cá không làm cho anh trở thành người.  Bám mãi với cá, đời anh sẽ thoang thoảng với mùi tanh của cá.  Nếu anh muốn làm người, hãy đi theo Đấng đã nhập thể làm người.”

Theo Đấng đã nhập thể làm người là bắt đầu thay đổi giá trị sống: là để Chúa đi vào con thuyền đời mình hơn là tự lèo lái, là khám phá thành công vật chất, địa vị, nghề nghiệp, công danh, quyền lực, ngay cả địa vị trong tôn giáo, chỉ là phương tiện để hướng đến giá trị vĩnh cửu hơn là bám víu vào đó như là cứu cánh, rồi để bước chân lên bờ tìm đến những mảnh đời bị lãng quên.  Có khi những mảnh đời bị lãng quên đó có mặt ngay trong chính gia đình, trong giáo hội, hay lang bạt giữa chợ đời mênh mông

Trong một thoáng giây choáng ngợp, Phêrô chợt hiểu, thành công thật không phải là kết quả, nhưng là hành trình đáp trả lời mời gọi để đi tìm kiếm con người.  Ông bỏ lại phía sau những gì đã đón nhận: con thuyền, mẻ cá, chiếc lưới, chút thành công vội vàng, và cả biển khơi cả cuộc đời gắn bó để theo Đấng đã làm người và mong sao cho mỗi người được trở thành người hơn.

Lạy Chúa, xin cho con hiểu rằng, thất bại lớn nhất không phải là những lần thua cuộc trong chợ đời, nhưng là những lần không đáp trả lời mời gọi từ trên cao, và nhất là khi không sống đúng với cái hình ảnh mà Thiên Chúa muốn con trở thành.  Hôm nay, khi ánh bình minh lên cao, con cũng thấy bước chân của Ngài đi ngang qua con thuyền đời con, con thuyền cũng nhiều lần thất bại trắng tay.  Xin cho con hiểu, mỗi một lần thất bại, là mỗi lần con cần tập khám phá ý nghĩa của thất bại trong ánh sáng của Phúc Âm.  Mỗi một lần thành công, cũng xin cho con hiểu rằng, thành công là quà tặng.  Giữ mãi quà tặng cho riêng mình mà không sinh lợi cho nước Chúa, thì thành công ấy chỉ giống như mẻ cá của Phêrô, có rồi mất theo dòng sông cuộc đời.

Nguyễn Thảo Nam

http://tinvahyvong.blogspot.com/

From: langthangchieutim & Anh chị Thụ Mai gởi

 

Lễ Độc lập : Miến Điện ân xá hơn 13.000 tù nhân

Lễ Độc lập : Miến Điện ân xá hơn 13.000 tù nhân

Tù nhân rời trại giam Insein : Các nguồn tin độc lập chưa xác định được số lượng tù chính trị được ân xá.- Reuters

Tù nhân rời trại giam Insein : Các nguồn tin độc lập chưa xác định được số lượng tù chính trị được ân xá.- Reuters

Trọng Nghĩa

RFI

Nhật báo Anh ngữ New Light of Myanmar, cơ quan ngôn luận chính thức của chính quyền Miến Điện, vào hôm qua, 06/01/2014 cho biết : Tổng thống Thein Sein hôm 02/01/2014 vừa qua đã ký một lệnh ân xá mới liên quan đến 13.274 tù nhân.

Quyết định đại ân xá trên đây được ban hành một hôm trước ngày Miến Điện kỷ niệm 66 năm ngày giành được độc lập vào năm 1948. Tuy nhiên, chưa biết là có bao nhiều tù chính trị được trả tự do nhân đợt ân xá mới đó.

Theo ghi nhận của hãng tin Anh Reuters, thông tin do nhật báo chính thức Miến Điện đưa ra chưa thể được kiểm chứng bằng các nguồn độc lập, nhất là không xác định được số lượng tù nhân lương tâm được hưởng lệnh ân xá.

Vào tuần trước, Hiệp hội Hỗ trợ Tù nhân Chính trị Miến Điện, một tổ chức có đại diện trong ủy ban do chính quyền thiết lập để xét duyệt các trường hợp tù nhân chính trị, đã cho biết là khoảng 230 tù nhân trong diện này có thể được trả tự do trong khuôn khổ lệnh ân xá mới.

Trong thời gian qua, mà gần đây nhất là vào những ngày cuối năm 2013, đã có hàng trăm tù nhân vì chính kiến tại Miến Điện được rời khỏi nhà tù. Trả tự do cho toàn bộ các tù chính trị là một trong những cam kết của Tổng thống Miến Điện Thein Sein với cộng đồng quốc tế, mà cụ thể là nhân chuyến công du đầu tiên của ông đến Anh Quốc vào tháng 7 năm 2013.

Các quyết định thả tù nhân chính trị, cùng với một loạt các biện pháp cải tổ khác do chính quyền Thein Sein thực hiện trong thời gian hơn hai năm gần đây, đã thúc đẩy Hoa Kỳ và Liên Hiệp Châu Âu đình chỉ hầu hết các biện pháp trừng phạt áp đặt trên chính quyền Miến Điện đồng thời tăng cường các chương trình trợ giúp.

Một trong những dấu hiệu mới nhất cho thấy sự thay đổi quan điểm – theo chiều hướng tích cực – của phương Tây đối với Miến Điện là sự kiện Hoa Kỳ đã nhiều lần gọi đất nước này bằng tên chính thức Myanmar, thay vì tên thông dụng tiếng Anh là Burma như trước đây.

Ví dụ điển hình là sự kiện hôm 03/01 vừa qua, trong một tuyên bố chúc mừng ngày độc lập của Miến Điện, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã hai lần dùng tên Myanmar mà không hề đề cập đến tên Burma.

Trước đó, vào tháng 12/2012, nhân chuyến công du chớp nhoáng Miến Điện, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã không ngần ngại sự dụng song song cả hai tên gọi Myanmar và Burma.

 

Thăm Làng Homeless và Người Bất Hạnh Không Nhà Gốc Việt

Thăm Làng Homeless và Người Bất Hạnh Không Nhà Gốc Việt

Tác giả : Lê Bình

http://www.vietbao.com/D_1-2_2-74_4-218721_15-2/

Ở giữa những hàng cây trụi lá, hoặc bên cạnh một giòng suối có nước lững lờ trôi có những chiếc lều màu xanh da trời sáng rực lên, hoặc trên chiếc cầu bắt ngang con suối có người thiếu nữ đang ngồi giặt áo… Thật hữu tình, rất thơ mộng và thậm chí như cảnh thiên đàng, như vườn lộc uyển… Khi nhìn vào những tấm hình chụp từ xa; nhưng, đến gần, đến thật gần thì đó là những chiếc lều vải sắp rách nát, là những tấm bạt ny-long chùm lên những tấm cát-tông xiêu vẹo…Đó là những mái nhà, là “mái ấm” của hàng trăm gia đình đang sống giữa lòng thành phố trong ngày Giáng Sinh 2013. Họ là Những Kẻ Không Nhà.

Con suối mang tên Coyote Creek bắt nguồn từ Gilroy hay Morgan Hill, hoặc từ xa hơn nữa đâu đó trong rặng Santa Cruz Mountain bạt ngàn thông xanh vi vút. Con suối đó đi ngang qua thành phố San Jose để nhập chung vào với giòng Guadaluppe River. Chỗ “giáp nước” đó nằm dọc xa lộ 280 South có con đường Story Rd. chạy theo hướng Đông Tây, và ở đó có khu rừng cây um tùm rậm rạp. Khi lái xe ngang qua đường Story, nơi ngã ba Senter Rd. một bên là sở thú Happy Hallow Zoo, và một bên là ngôi làng.

Theo chân đoàn ủy lạo của CĐVN Bắc California đến thăm những người bất hạnh lâm vào cảnh không nhà. Đoàn Ủy Lạo đến địa điểm vào lúc 11:00am ngày thứ Ba 24/12/2013, có 4 chiếc xe bán thức ăn trưa, Lunch Catering Truck, và nhiều chiếc bàn dài với những bọc quần áo cũ. Tham dự trong công tác từ thiện, phát quần áo, chăn, mền còn có Phật tử Chùa Đại Nhật Như Lai. Trước đó lúc 10:00am, đã có nhiều người đến chuẩn bị địa điểm, sắp xếp bàn ghế, và chuẩn bị thức ăn. Anh Hào Thái, Ủy Viên CĐVN Bắc California, Nhiệm Kỳ 5, đã bảo trợ cho công tác nầy. Anh Hào Thái là chủ một chiếc xe lunch Porkys SJ kêu gọi thêm 3 xe khác cùng cộng tác với anh để cung cấp bữa ăn trưa cho người không nhà vào dịp lễ Giáng sinh. Trong phái đoàn ủy lạo có Ông Nguyễn Ngọc Tiên, Ông Nguyễn Hữu Nhân, Ông Nguyễn Thiếu Nhẫn, Ông Võ Văn Sĩ, Ông Trần Mai, Ông Nguyễn Bữu và nhiều anh chị em làm thiện nguyện.

Khu đất trống nhộn nhịp như một ngày hội chợ, người sa cơ lỡ bước đã đến để dùng bữa ăn trưa, nhận quần áo. Thức ăn có cơm trắng, thịt nướng, rau trộn và trái cây, nước uống, v.v… Những người không nhà vui vẻ chuyện trò và tỏ lòng cảm ơn cộng đồng Việt Nam. Anh Hào Thái cho biết: “Việc làm nầy nhằm chia xẻ một chút khó khăn khi họ gặp cảnh khổ.”

Hình ảnh thăm làng homeless, nơi có nhiều người gốc Việt.

Đi một vòng xuống khu rừng cây hai bên bò suối. Dòng suối có nước chảy róc rách, cây khô trụi lá, những căn lều bạt đủ màu sắc giăng kín khu rừng. Trong đó có nhiều người độc thân, người có gia đình, đàn ông, thanh niên, phụ nữa và em bé. Cuộc sống có khó khăn và bất tiện. Không nước, không điện, không nhà, không có cả những phương tiện tối thiểu để nấu ăn. Những căn lều tạm bợ cất lên dưới những tàng cây bằng vật liệu kiếm được từ những đống rác, hoặc xin từ nhà thờ. Có rất nhiều chiếc xe đi chợ (cart) bỏ lăng lóc chung quanh, và những đống bao ny-long, vật liệu phế thải, v.v… Những người sống nơi đây kiếm tiền bằng cách đi xin, hoặc lượm rác, bao bị, võ chai….bán cho các công ty thu mua phế liệu tái chế biến (recycle).

Cuộc sống tuy có khó khăn nhưng họ vẫn cố tạo cho đời sống những tiện nghi tối thiểu, và cố gắng sống một đời sống bình thường. Ngày lễ đến, cũng có cây thông Giáng Sinh, có hang đá, có giây kim tuyến trang hoàng trên các cành cây. Đều khó khăn nhất nơi đây là nước uống, nước tắm giặt, và việc chăm lo sức khoẻ. Có người cho biết tắm giặc ở nơi vòi nước công cộng, hoăc trong mùa mưa dùng nước dưới suối. Cuộc sống tuy cam go khổ cực, nhưng họ vẫn có những tôn trọng sự riêng tư; không phải tất cả xuống đây đều xô bồ hổn độn. Cũng có những nơi “màn che trướng phủ” có những riêng tư và không muốn ai xâm phạm. Không phải tất cả đều đến nhận thức ăn ủy lạo trong ngày lễ; họ cũng có lòng tự trọng, và không muốn tiếp xúc với người lạ.

Có khoảng trên dưới 200 người sống trong khu rừng nầy, trong số đó có khoảng 10 người Việt Nam. Ông John, mới đến cư trú nơi nầy khoảng vài tháng, ông đến từ San Diego. Ông nói “Tôi lưu lạc đến đây không bạn bè không người thân” Hỏi lý do đưa ông đến nơi nầy, ông trả lời bằng nụ cười buồn. Anh Richard, anh Sam đến đây được vài tháng, chỉ chiếc lều nói “Gia tài của tôi là 8 chiếc mền. Đủ ấm rồi.” Họ không muốn đề cập đến lý do đưa đầy họ vào cảnh khốn cùng.

Hình ảnh thăm làng homeless, nơi có nhiều người gốc Việt.

Người Việt Nam chiếm riêng một góc rừng, dưới chiếc cầu sắt. Nơi đây hơi ẩm thấp và thiếu ánh nắng. Khi tôi đến, anh Nguyễn Phúc Ân đang phơi những chiếc mền, và trang trí gốc cây nơi anh chọn làm “nhà” bằng những cành cây kết nối với nhau thành chiếc cổng hình vòng cung. Phúc Ân cho biết: “Cháu ở Mỹ được 26 năm. Đến Hoa Kỳ với bà nội lúc 8 tuổi.” Ân noí thêm “Ở đây là khổ rồi. Nhưng mà phải chịu vậy thôi. Mỗi con người có một số phận khác nhau.” Em tâm sự có gia đình ở VN, có mồ mả ông bà cũng muốn về thăm một lần nhưng chưa được. Anh Nguyễn Văn Bê, trên 30 tuổi, chưa có gia đình sống trong “làng” vài năm nay, không có việc làm. Anh ít nói. Với Nguyễn Phúc Ân thì cởi mở hơn. Ân tâm tình “Đừng nghĩ rằng tất cả những người sống dưới suối là hút xách, bậy bạ đâu. Cũng có một ít thôi..” em chỉ một căn lều trên triền dốc “Đó là thằng quậy nhất ở đây. Nó hút, nó say, nó làm bậy… nhưng số đó không nhiều. Mình ở đây phải lo giữ gìn. Có ai muốn xuống đây đâu. Cháu nói là mỗi người có mỗi cảnh đời khác nhau…” Ân cho biết Ân sẽ rời nơi đây sớm nếu có cơ hội. Em đã khóc khi tâm tình. Và dường như em có điều chi đó khó giải bày. Thân thể Ân hơi ốm, cao, có xâm hình chi đó trên ngực phía trái. Ân nói tiếng Việt tiếng Anh lẫn lộn và rất rõ ràng mạch lạc. Qua câu chuyện, có thể cho thấy em có chút bất mãn đời sống, em nói nhiều, nhưng em có niềm tin vào đấng thiêng liêng.

Cũng trong khu rừng nầy, con người muốn vươn lên để thoát ra khỏi “cơn bĩ cực”. Trên chiếc vĩ sắt bắt ngang dòng suối, có một cô gái bận chiếc áo đầm trắng, lịch sự đang ngồi rửa mặt và trang điểm, có thể cô ta có một cái hẹn trong đêm Noel chăng? Không biết cô ta đang nghĩ gì, nhưng qua cách phục sức, và cách chăm sóc sắc đẹp, có thể trong lòng cô cũng có ước mơ rất bình thường như những con người khác. Một tình yêu, một cuộc sống tươi đẹp…?

Ở Hoa Kỳ có hàng triệu con người vô gia cư. Có hàng triệu cảnh đời khác nhau. Và có bao nhiêu người là có bấy nhiêu lý do để đưa họ đến cảnh khốn cùng. Dù sung sướng, hay đau khổ. Con người là một tạo vật của Thượng Đế. Ngày hôm nay, cách đây hơn 2,000 năm Chuá Giáng Sinh làm người là muốn chuộc tội cho thiên hạ. Cầu xin Giáng Sinh nay nay sẽ có ít người chịu cảnh khổ.

https://groups.google.com/forum/#!msg/soc.culture.vietnamese/h99WS73wIEw/mCh5onZJ6-oJ

THÁNH PADRE PIO (1887-1968)

THÁNH PADRE PIO (1887-1968)

Lễ Kính 23-9
Thánh Padre Piô tên thật là Francesco Forgione, thuộc một gia đình nông dân ở Pietrelcina, miền Nam nước Ý. Ðã hai lần, cha của Francesco phải xa nhà, đi làm việc ở Jamaica, Nữu Ước để nuôi gia đình.
Khi được 15 tuổi, Francesco gia nhập dòng Capuchin và lấy tên Piô. Ngài được thụ phong linh mục năm 1910, và bị động viên trong Thế Chiến I. Sau khi bác sĩ thấy ngài bị ho lao, họ đã cho ngài giải ngũ. Vào năm 1917, ngài được bài sai đến làm việc ở tu viện San Giovanni Rotondo, cách thành phố Bari 75 dặm.
Vào ngày 20.9.1918, trong lúc cầu nguyện cảm tạ sau Thánh Lễ, Cha Piô được nhìn thấy Chúa Giêsu. Khi thị kiến ấy chấm dứt, Ngài được in các dấu thánh ở tay, chân và cạnh sườn.
Sau biến cố ấy, cuộc đời ngài phức tạp hơn. Các bác sĩ y khoa, các giới chức của Giáo Hội, và những người tò mò đến xem Cha Piô. Trong năm 1924 và một lần nữa vào năm 1931, vấn đề dấu thánh được đặt ra; Cha Piô không được phép cử hành Thánh Lễ nơi công cộng hay được giải tội. Ngài không than trách về sự cấm cách này, mà sau đó đã được bãi bỏ. Tuy nhiên, sau năm 1924, ngài không còn viết gì thêm nữa. Những tư liệu của ngài về sự thống khổ của Chúa Giêsu đều được viết trước năm 1924.
Sau khi được in dấu thánh, Cha Piô ít khi rời tu viện, nhưng biết bao người đã đến thăm ngài. Mỗi buổi sáng, sau Thánh Lễ 5 giờ đầy nghẹt người, ngài nghe xưng tội cho đến trưa. Ngài dùng thời gian nghỉ trưa để chúc lành cho người đau yếu và tất cả những ai đến gặp ngài. Sau đó ngài lại tiếp tục giải tội. Vào lúc ấy, việc giải tội của ngài thường kéo dài 10 tiếng một ngày; người muốn xưng tội phải lấy số chờ đợi. Nhiều người nói rằng Cha Piô biết rõ các chi tiết cuộc đời của họ, mà chưa bao giờ họ tiết lộ.
Cha Piô nhìn thấy Chúa Giêsu, trong tất cả sự bệnh hoạn và đau khổ. Theo sự đốc thúc của ngài, một bệnh viện xinh xắn được xây trên rặng Gargano gần đó. Ý tưởng xây cất bệnh viện được phát khởi vào năm 1940; một ủy ban gây quỹ được thành lập. Năm 1946, lễ vỡ đất được bắt đầu. Việc xây cất bệnh viện rất khó khăn về kỹ thuật, vì khó kiếm được nước và phương tiện chuyên chở vật liệu xây cất. Sau cùng, “Nhà Chữa Trị Người Ðau Khổ” được hình thành với 350 giường bệnh.
Nhiều người tin rằng họ được chữa lành qua sự can thiệp của Cha Piô. Những ai được dự Thánh Lễ của ngài đều cảm thấy sốt sắng; còn những người tò mò thì rất xúc động. Như Thánh Phanxicô, đôi khi áo dòng của Cha Piô cũng bị người ta cắt xén để làm kỷ niệm.

Một trong những sự đau khổ của Cha Piô, là vài lần những người thiếu đạo đức rêu rao những điều tiên tri mà họ gán cho là của ngài. Ngài không bao giờ nói tiên tri về các biến cố trên thế giới, và không bao giờ cho ý kiến về các vấn đề, mà ngài cảm thấy thuộc về sự quyết định của các giới chức trong Giáo Hội. Ngài từ trần ngày 23.9.1968, và được phong thánh năm 2002.

Lời Bàn
Hơn bất cứ ai khác, có lẽ người Hoa Kỳ ngày nay rất thích những cuốn sách chỉ dẫn, cùng những chương trình truyền thanh, các bài báo có tính cách chỉ bảo. Chúng ta say mê với tiến bộ kỹ thuật, và không ngừng tìm kiếm các lối tắt để tiết kiệm thời giờ và sức lực. Nhưng như Thánh Phanxicô và Cha Piô biết rất rõ, không có con đường nào ngắn hơn khi sống theo Phúc Âm, không có cách nào tránh được những “giáo huấn khó khăn” của Chúa Giêsu (x. Gioan 6:60). Rao giảng về Kitô Giáo mà không có sự hy sinh cá nhân, không có thập giá, thì cũng không khác gì người mãi võ sơn đông quảng cáo bán thuốc trị bá bệnh. Cha Piô coi sự đau khổ của ngài, như đáp ứng với lời kêu gọi sống Phúc Âm.

Lời Trích

“Cuộc đời Kitô hữu không gì khác hơn là cuộc chiến đấu dai dẳng với chính mình; không có sự thăng hoa của linh hồn để đạt đến sự tuyệt hảo mỹ miều, nếu không phải trả giá sự đau khổ” (Lời của Cha Piô).

*******************

Xác thánh Padre Piô năm dấu thánh được trưng bầy cho dân chúng kính viếng

SAN GIOVANNI ROTONDO –

Một trong những vị thánh đương thời, được coi là đã làm nhiều phép lạ nhất, là Padre Pio. Sau 40 năm, hôm qua thi hài thánh nhân lại được trưng bầy cho những người ngưỡng mộ khắp thế giới đến kính viếng tại nơi ngài đã từng sống và cầu nguyện.
Hai mắt nhắm lại, và trên khuôn mặt thoát ra một vẻ thanh thản dịu dàng như đang ngủ. Tuy nhiên, Padre Piô đã qua đời từ năm 1968 hưởng thọ 81 tuổi, và kể từ hôm qua, 24.4.2008, thi hài thánh nhân lại được quàn công khai tại vương cung thánh đường San Giovanni Rotondo (miền Nam nuớc Ý) cho dân chúng kính viếng.



Hôm qua, có tới 15.000 người tham dự thánh lễ do ĐHY Jose Saraiva Martins cử hành, khi thi hài của thánh Piô được đưa ra trưng bầy. Thi hài của thánh Padre Piô được khai quật hôm 03.3.2008 và cho thấy còn trong tình trạng “vừa phải” sau 40 năm chôn cất. Từ ngày đó đến nay, một nhóm chuyên gia gồm các bác sĩ y khoa và chuyên ngành hóa chất, đã làm việc tận tình để tân tạo thi hài thánh nhân hầu có thể giữ và bảo tồn thi hài được lâu dài hơn, trong suốt thời gian 9 tháng trưng bày cho dân chúng đến kính viếng.

Khi còn sinh thời, Padre Piô từng là vị thánh sống của đại chúng người Ý, và là một Thầy Dòng lạ lùng của thế kỷ XX:
• Cha được in năm dấu đanh (Stigmata) tương tự như Chúa Giêsu khi chịu đóng đanh trên thánh giá, nghĩa là ngực, hai bàn tay và hai bàn chân bị đâm thủng qua, và hằng ngày máu từ các vết thương đó chảy nhỉ ra làm ướt đẫm các khăn băng và cả áo quần, khiến ngài vô cùng đau đớn.
• Cha có thể hiện diện một lúc trong nhiều địa điểm khác nhau: Nhiều lần cha vừa có mặt tại Milanô (miền Bắc Ý), vừa có mặt tại Rôma (miền Trung Ý) để cứu vớt những người tự tử, và đồng thời cha lại ngồi giải tội ở Tu Viện của cha tại miền Nam Ý.

Ba vị Giáo Hoàng đã kết án cha là người giả hình đóng kịch. Nhưng năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng cất nhắc cha lên hàng Thánh Nhân.

Nhưng trước khi được đưa trưng bày công khai cho các tín hữu kính viếng, khuôn mặt thánh Padre Piô đã được sửa sang lại bằng chất Silicon như chúng ta thấy trong hình kèm đây, và thi hài thánh nhân cũng đã được xức thuốc. Hiện người ta chỉ nhìn thấy đầu các ngón tay của thánh nhân hơi bị đen. Còn hai chân được mang tất che kín lại.
Cho đến nay, đã có khoảng 800.000 tín hữu từ khắp mọi nơi kéo về kính viếng và cầu nguyện bên thi hài thánh Padre Piô.

Lạy thánh Padre Piô, xin cầu cho chúng con!
LM Gioan Bosco Nguyễn Hữu Thy

Cha Thánh Padre Piô được trưng bày tại Vương Cung Thánh Đường San Giovanni Rôtndo, Miền Nam Nước Ý, để công chúng được tự do đến chiêm bái.




Cha Thánh Padre Pio Tình Nguyện Chịu Đau Khổ Để Cứu Các Linh Hồn

Trích trong Holy Souls, LM Alessio Parente
Kim Hà dịch thuật

Vào ngày 29 tháng 11 năm 1910, cha Padre Pio đã viết cho cha linh hướng của ngài là LM Benedetto để giải thích về những sự đánh phá của ma qủy và ngài muốn được giải thoát khỏi sự thử thách ấy. Nhưng sau đó, cha Pio xin phép cha linh hướng để được trở nên một nạn nhân đền tội cho các người tội lỗi và cho các linh hồn ở luyện ngục. Cha viết như sau:

“Thưa cha linh hướng, con xin phép cha để trình bày một việc. Đôi lúc, con cảm thấy có nhu cầu dâng hiến chính mình con lên Chúa như là một nạn nhân để đền tội cho các người tội lỗi và cho các linh hồn ở luyện ngục. Mong ước này lớn mạnh trong trái tim con, đến nỗi con phải gọi là một nỗi đam mê vô biên. Con đã dâng lên Chúa lời thỉnh nguyện này rất nhiều lần. Con cầu xin Chúa cho con gánh chịu mọi sự trừng phạt mà Chúa đã chuẩn bị dành cho các người tội lỗi và cho các linh hồn ở luyện ngục. Xin Chúa hãy trừng phạt con và cho con chịu đau khổ gấp trăm lần để cho các người tội lỗi được ơn hoán cải, và để cho các linh hồn được sớm lên Thiên Đàng. Nhưng con biết, con phải xin phép cha để trở nên của lễ hy sinh. Con cảm thấy Chúa Giêsu rất muốn con làm điều này. Con chắn chắn rằng cha sẽ không gặp khó khăn khi cho phép con.”
Qua sự dâng hiến vô điều kiện để hứng chịu mọi sự trừng phạt gấp trăm lần, hầu mong các người tội lỗi được ơn hoán cải và các linh hồn được giải thoát khỏi luyện ngục, cha Padre Pio đã trao ban cho chúng ta một chìa khóa để hiểu được mầu nhiệm của tình yêu và đau khổ. Cha Benedetto đã cho phép cha Padre Pio làm việc ấy.
Trong lá thư đề ngày 1 tháng 12 năm 1910, cha Benedetto viết:
“Xin cha hãy dâng hiến những gì cha đã nói, và điều này sẽ được Chúa nhận lời. Xin cha hãy mở rộng đôi tay và thánh giá của cha. Bằng cách dâng hiến sự hy sinh, cha hiệp thông với Chúa Cứu Thế, cha hãy chịu đau khổ và cầu nguyện cho những kẻ ác nhân trên trần gian và cho các linh hồn tội nghiệp, là những người đáng cho chúng ta thương xót vì họ đang nhẫn nại chịu đau khổ mà không kể xiết được.”

Nhân danh sự vâng lời, cha Pio đã trở nên một nạn nhân cho giáo hội chiến đấu và cho giáo hội đau khổ. Sự dâng hiến này có thể giải thích bằng các cơn bịnh bí mật, những thử thách, những cuộc chiến đấu với ma qủy. Nhân loại luôn cần sự tha thứ và giáo hội đau khổ luôn cần sự đền tội. Cha Padre Pio trở nên một nạn nhân, vác thánh giá và bị đóng đinh vào cây thánh giá vô hình như Chúa Giêsu đã bị đóng đinh để cứu rỗi nhân loại, Chúa Giêsu đã xuống ngục tối để giải thoát những ai mong chờ sự cứu độ. Chúa Cứu Thế đã ban cho họ sự tự do và đưa họ lên Trời.

Cha Padre Pio qủa là một linh hồn anh hùng và quảng đại. Ngài luôn nghĩ đến tha nhân, cầu bầu cho họ, dâng hiến chính mình ngài như là một nạn nhân cho người khác được ơn cứu độ, những người trong giáo hội chiến đấu và giáo hội đau khổ. Đau khổ và thương yêu là hai con đường mà cha Padre Pio đã dùng để bắt buộc bản thân mình chịu thống khổ.

Cha nói:
“Tôi cảm thấy mình ngụp lặn trong đại dương mênh mông của Đấng Hằng Yêu Thương. Tôi luôn sống trong tình yêu ấy.”

Kề từ khi cha Padre Pio được phép trở nên một nạn nhân, và từ khi cha tình nguyện dâng hiến bản thân mình thì các linh hồn người chết hiện về với cha nhiều vô số kể. Qua lời kể của cha Padre Pio, chúng ta có thể thấy những cuộc hiện ra này xẩy ra rất nhiều lần, và điều này không làm cho cha Pio sợ hãi hay bực mình.

Sự hấp dẫn vượt bực của ĐGH Phanxicô tại Vatican

Sự hấp dẫn vượt bực của ĐGH Phanxicô tại Vatican

Nguyễn Long Thao

1/2/2014

VATICAN 02/01/14.- Tin của Reuters cho biết trong vòng 9 tháng qua, tính từ tháng 3 năm 2013 đến cuối tháng 12 năm 2013, số khách tham dự các nghi lễ với Đức Giáo Hoàng Phanxicô tại tòa thánh Vatican đã vượt quá con số 6.6 triệu người. Trong khi đó, suốt năm 2012 chỉ có 2.2 triệu người đến tham dự các nghi lễ của Đức Giáo Hoàng danh dự Bêneđictô XVI.

Vatican cho biết số liệu 6.6 triệu trên đây dựa theo số vé đã phát ra cho khách hành hương trong các dịp có sự hiện diện của ĐGH như các thánh lễ trọng, các buổi triều yết chung và riêng. Đồng thời cũng dựa theo con số ước tính số người tham dự các buổi triều yết hàng tuần của ĐGH dành cho công chúng tại quảng trường thánh Phêrô. Trong các buổi triều yết hàng tuần, khách hành hương không cần vé mời tham dự.

Các con số trên đây không bao gồm số người tham dự các nghi lễ ĐGH cử hành tại Assisi, Lampedusa ở Ý. Riêng tại bờ biển Copacabana ở Rio de Janeiro vào ngày 28 tháng 7 năm 2013 đã có hơn 3 triệu người tham dự ngày cuối cùng của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới.

Theo ký giả của thông tấn xã Reuters, sở dĩ đông đảo người đến Vatican để được nghe và diện kiến ĐGH Phanxicô là vì ngài có phong cách cởi mở, đơn sơ, thân thiện, khó nghèo và đặc biệt chủ trương của Ngài là cải cách Giáo Hội để Giáo Hội gần gũi với người nghèo và ít lên án.

Tưởng cũng nên nói thêm, vào các ngày Chúa Nhật, thường có trên 100,000 người đến quảng trường Thánh Phêrô để đọc kinh truyền tin với ĐGH. Do vậy cảnh sát Ý đã phải đóng cửa đại lộ dẫn đến Vatican để có thể chứa hết số khách hành hương.

Riêng tại Hoa Kỳ, chúng tôi ghi nhận trong những tháng gần đây, không ngày nào trên các cơ quan truyền hình, báo chí là không có bản tin liên quan đến ĐGH Phanxicô, đến nỗi tạp chí Esquire, chuyên viết chuyện những người lừng danh trong giới điện ảnh nghệ thuật đã bình bầu ĐGH Phanxicô là người đàn ông mặc quần áo đẹp nhất trong năm.(Pope Francis Is Best Dressed Man Of 2013, Says Esquire Magazine)

Lãnh sự quán Trung Quốc ở San Francisco bị phóng hỏa

Lãnh sự quán Trung Quốc ở San Francisco bị phóng hỏa

Cổng vào lãnh sự quán Trung Quốc tại San Francisco bị thiệt hại nặng -  Reuters /Stephen Lam

Cổng vào lãnh sự quán Trung Quốc tại San Francisco bị thiệt hại nặng – Reuters /Stephen Lam

Thụy My

RFI

Buổi tối đầu năm Dương lịch, lãnh sự quán Trung Quốc ở San Francisco đã bị đốt cháy gây thiệt hại nghiêm trọng. Một phát ngôn viên của tòa lãnh sự hôm qua 02/01/2013 đã kêu gọi chính quyền Mỹ bảo vệ các nhân viên ngoại giao Trung Quốc.

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ bày tỏ “quan ngại sâu sắc” và hứa hẹn sẽ tìm kiếm và đưa thủ phạm ra trước pháp luật. Tại Bắc Kinh, hôm nay 03/01/2014, tờ Global Times đã chỉ trích “tình trạng mất an ninh”, cho rằng Mỹ không thể chối bỏ trách nhiệm.

Thông cáo của lãnh sự quán Trung Quốc cho biết, một người nào đó đã quăng “hai xô xăng vào cổng tòa lãnh sự và châm lửa” vào lúc 21 giờ 25 địa phương (5 giờ 25 GMT) đúng vào tối thứ Tư 01/01/2014, gây ra các “thiệt hại nghiêm trọng”. Cảnh sát, lính cứu hỏa thành phố và bộ phận an ninh ngoại giao đã can thiệp ngay lập tức. Hiện nay tòa lãnh sự đã đóng cửa, nhưng vẫn có vài nhân viên làm việc.

Trước khi phóng hỏa, thủ phạm đã đậu chiếc xe vận tải nhẹ trước lãnh sự quán. Người ta vẫn chưa biết được người này là nam hay nữ, và động cơ là gì. Cảnh sát Mỹ đang tiến hành điều tra.

Tại Washington, trợ lý phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Marie Harf tuyên bố: “Chúng tôi rất quan tâm đến vụ này, bộ phận an ninh ngoại giao đang làm việc với cơ quan FBI và chính quyền địa phương để điều tra và bắt giữ các thủ phạm. Các viên chức Bộ Ngoại giao đã liên hệ với các đồng nhiệm Trung Quốc nhằm thông tin và hỗ trợ họ”. Bà nói tiếp an ninh của các nhà ngoại giao nước ngoài là “quan trọng và là trọng tâm chú ý của chúng tôi”.

Phát ngôn viên lãnh sự quán Trung Quốc lên án “một hành động hèn mạt”, là một “đe dọa cho an ninh của nhân viên lãnh sự quán và dân cư xung quanh. Chúng tôi kêu gọi chính quyền Mỹ sử dụng mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ đúng mức nhân viên và trụ sở lãnh sự quán Trung Quốc, và đưa ra thủ phạm ra tòa càng sớm càng tốt”.

Tờ báo San Francisco Chronicle cho biết, tòa lãnh sự này đã từng bị đốt cháy tháng 3/2008 : nhiều người đã đổ chất gây cháy vào cổng tòa nhà rồi phóng hỏa. Sự kiện trên xảy ra trong lúc nhiều tiếng nói đang cất lên tại San Francisco tố cáo tình trạng đàn áp nhân quyền ở Trung Quốc, vào thời điểm đuốc Thế vận Bắc Kinh 2008 được rước đến thành phố Mỹ.

Hôm nay 03/01/2014, tờ Global Times có khuynh hướng cực đoan và quan hệ chặt chẽ với đảng Cộng sản Trung Quốc tố cáo “tình trạng mất an ninh”, kêu gọi “có những bản án nghiêm khắc” và cho rằng “các thế lực bài Hoa” đã “chứng tỏ ngày càng táo tợn hơn”. Global Times khẳng định: “Vì những sự kiện này cứ tái diễn, chính quyền Mỹ khó thể chối bỏ mọi trách nhiệm của mình”.

 

NHÂN LOẠI MỚI

NHÂN LOẠI MỚI

Tác giả: TGM. Jos Ngô Quang Kiệt

Lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa

Ds 6, 22-27; Gal 4, 4-7; Lc 2, 16-21

Tám ngày sau khi sinh, Chúa Giêsu được dâng vào đền thờ, chịu phép cắt bì và được đặt tên theo luật Do thái. Đối với người Do thái, tên là người. Vì thế việc đặt tên có ý nghĩa quan trọng. Giêsu có nghĩa là Thiên-Chúa-cứu. Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Con người không thể sinh ra Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa tự nguyện làm con loài người. Nhờ đó Đức Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Sinh ra Chúa Giêsu, Đức Mẹ sinh ra một nhân loại mới để cứu nhân loại cũ do bà Evà sinh ra, đã hư hỏng vì tội lỗi.

Đức Mẹ sinh ra nhân loại mới. Bà Evà sinh ra nhân loại cũ. Nhân loại cũ được sinh ra từ đất thấp. Thiên Chúa muốn nâng con người lên trời cao. Nhưng đất thấp lôi kéo con người chìm xuống. Vì thế con người đã từ địa vị con cái  rơi xuống thân phận nô lệ. Trái lại, Đức Mẹ sinh ra một nhân loại mới. Nhân loại mới sinh xuống từ trời cao. Chúa Giêsu là Adam mới, từ trời hạ mình xuống để nâng con người lên. Giải thoát khỏi tình trạng nô lệ. Phục hồi địa vị làm con Thiên Chúa.

Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu do lời chúc phúc. Bà Evà sinh con do lời chúc dữ. Sau khi hai ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã tuyên án cho bà Evà: “Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con” (St 3, 16). Trái lại, Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu do lời chúc phúc như lời thiên sứ: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng”. Và bà thánh Êlizabeth nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1, 42).

Đức Mẹ sinh con bởi phép Chúa Thánh Thần. Bà Evà sinh con do xác thịt. Như lời Thiên Chúa nói: “Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi” (St 1, 16). Trái lại, Đức Mẹ sinh con bởi phép Chúa Thánh Thần. Như lời thiên thần truyền: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà. .. vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1, 35). Nếu nhân loại cũ được sinh ra theo xác thịt thì nhân loại mới được sinh ra “không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa” (Ga 1,13).

Đức Mẹ quảng đại sinh ra người con quên mình. Bà Evà ích kỷ sinh ra Ca-in là đứa con ham hố. Vì muốn chiếm vị trí trung tâm, nó đã đẩy em là Abel ra vùng ngoại vi. Loại trừ em. Giết chết em. Trái lại, Đức Mẹ quảng đại sinh ra một người con quên mình. Chúa Giêsu là người anh cả, từ bỏ vị trí trung tâm, đi ra vùng ngoại biên nghèo khổ. Người tự hiến mạng sống, để đưa chúng ta là đàn em trở lại vị trí trung tâm, trong cung lòng Thiên Chúa.

Đức Mẹ mở lòng đón nhận sinh ra một thế giới huynh đệ. Bà Evà đóng kín vào bản thân, sinh ra những đứa con chia rẽ bất hòa. Tháp Babel khiến cộng đồng nhân loại tan rã. Trái lại, Đức Mẹ mở lòng đón nhận, nên đã sinh ra Chúa Giêsu là nhân loại mới sống chan hòa tình huynh đệ. Đón tiếp mục đồng là những người nghèo khổ. Đón tiếp ba vua là những người xa lạ. Để tất cả trở thành anh em một nhà.

Đức Mẹ vâng phục sinh người con hiếu thảo. Bà Evà phản loạn sinh ra những đứa con bất hiếu, chối bỏ Thiên Chúa là Cha. Trái lại, Đức Mẹ vâng phục nên đã sinh Chúa Giêsu là người con hiếu thảo. Nhờ  luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Chúa Giêsu qui tụ  người muôn nước sống hài hòa dưới mái nhà Cha chung trên trời. Và nhờ đó ta được hưởng hạnh phúc với Chúa như lời thư Galát: “Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cùng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa”.

Ngày đầu năm ta mong ước những điều mới mẻ. Nhưng thế giới chỉ đổi mới khi có những con người mới. Điều quan trọng là bản thân ta đổi mới. Chính vì thế Giáo hội cầu bình an và đặt năm mới trong bàn tay Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.

Như xưa Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu, khởi đầu nhân loại mới, nay xin Mẹ cũng sinh lại chúng ta. Để chúng ta trở nên con người mới. Vượt thoát những tầm thường ti tiện của đất thấp, để được sinh lại thanh thoát từ trời cao. Thoát khỏi lời chúc dữ để được sinh lại tràn đầy ân sủng do lời chúc phúc. Thoát khỏi ràng buộc của xác thịt nặng nề để được sinh lại trong Thần Khí tự do.

Con người mới theo khuôn mẫu Chúa Kitô sẽ biết quảng đại cho đi. Biết ra đi đến những miền ngoại biên, gặp gỡ những anh em bị loại trừ, đưa con người trở về vị trí trung tâm. Con người mới sẽ biết mở lòng đón nhận mọi anh em dù khác biệt. Xây dựng thế giới thành một gia đình thân thương, biến thế giới thành một mái nhà chung bình an hạnh phúc. Mọi người trở thành anh em con cùng một Cha trên trời.

Như thế nhân loại được đặt trong bàn tay Thiên Chúa. Và thế giới được chúc phúc như lời Chúa hứa trong sách Dân số: “Chúc như thế là đặt con cái Israel dưới quyền bảo trợ của Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng”. Đó chính là nhân loại mới. Đó chính là trời mới đất mới. Đó chính là niềm bình an hạnh phúc ta mơ ước.

Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, Chúa sinh xuống trần để mở ra kỷ nguyên mới. Xin cho con biết sinh lại thành con người mới. Để góp phần xây dựng thế giới an bình hạnh phúc trong tình huynh đệ chân thành. Amen.

Tác giả: TGM. Jos Ngô Quang Kiệt

Chấn động tinh thần có liên hệ với bệnh Alzheimer

Chấn động tinh thần có liên hệ với bệnh Alzheimer

27.12.2013

Một cuộc khảo cứu cho thấy một chấn động xảy ra trong quá khứ, có ít nhất sự mất đi ý thức trong khoảnh khắc, có thể làm gia tăng nguy cơ bị bệnh Alzheimer bằng cách đóng góp vào việc tích tụ các mảng trong não bộ, có liên quan tới bệnh Alzheimer.

Các nhà khảo cứu tại Bệnh viện Mayo ở Rochester, Minesota đã thực hiện các cuộc kiểm tra não bộ của 448 người không có vấn đề về suy nghĩ hay ký ức và 141 cá nhân với những khó khăn nhẹ về nhận thức. Tất cả những người tham gia cuộc khảo cứu đều ở tuổi 70 hay già hơn.

Mỗi nhóm được hỏi có bao giờ bị thương tổn não bộ liên quan tới tình trạng mất ý thức tạm thời hoặc ký ức hay không.

Não của bệnh nhân bị Alzheimer (trái) so với não của người không mắc Alzheimer

Não của bệnh nhân bị Alzheimer (trái) so với não của người không mắc Alzheimer

17 phần trăm các tham dự viên nhận thức bình thường nói rằng họ có bị thương tổn não bộ và 18 phần trăm những người có khó khăn về ký ức và suy nghĩ cho biết là có bị chấn động hay chấn thương ở đầu.

Cuộc khảo cứu này tìm thấy không có khác biệt trong việc đo lường hình ảnh não bộ trong số những cá nhân nhận thức lành mạnh, dù họ có thương tổn não bộ hay không.

Tuy nhiên, với những người có suy yếu nhẹ về nhận thức và có bị chấn động não bộ trong quá khứ, cuộc kiểm tra phát hiện 18 phần trăm cao hơn về những mảng thoái hóa dạng tinh bột. Những chất lắng protein đó trong não bộ là dấu hiệu của bệnh Alzheimer.

Trưởng nhóm khảo cứu Michelle Mielke gọi những phát hiện này là có ý nghĩa và gợi ý rằng có thể có mối liên hệ giữa những chấn động và bệnh Alzheimer.

Một bài viết về những phát hiện này được đăng trong tạp chí Neurology.

Khách hàng của Ngân hàng Nhà nước lại trở thành dân oan

Khách hàng của Ngân hàng Nhà nước lại trở thành dân oan

Hoà Ái, phóng viên RFA
2014-01-02

nh-nn-ptnt-305.jpg

Khách hàng đến Ngân hàng NN và PTNT VN-Chi nhánh Tân Lập tại TP. Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk trả tiền thì ngân hàng không trả sổ đỏ báo là đang bị thất lạc.

Screen capture

Nghe bài này

Ngày càng có nhiều dân oan lên tiếng họ là nạn nhân của các ngân hàng ở VN. Hôm nay, Hòa Ái có bài tìm hiểu nguyên nhân vì sao qua trường hợp điển hình của 8 gia đình và doanh nghiệp ở TP. Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk bị đẩy tới tình trạng “vườn không nhà trống” khi họ là khách hàng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) Việt Nam-Chi nhánh Tân Lập trong phần sau.

Ngân hàng làm mất sổ đỏ thế chấp của khách hàng?

Vụ việc xảy ra ở Ngân hàng NN&PTNT VN-Chi nhánh Tân Lập tại TP. Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk khi 8 khách hàng gồm gia đình và doanh nghiệp thế chấp Giấy Chứng nhận Quyền sử dụng Đất (gọi tắt là sổ đỏ) để vay tín dụng trong thời gian cuối năm 2009 đầu năm 2010. Thế nhưng khi đến thời điểm đáo hạn hợp đồng, 8 khách hàng đến trả tiền vay thì Ngân hàng từ chối không thu vì các sổ đỏ thế chấp của họ đã bị thất lạc do nhân viên của ngân hàng mang ra ngoài cầm cố để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 8 khách hàng không nhận được bất kỳ chứng từ hay biên nhận nào của ngân hàng khi từ chối không thu tiền trả cho các hợp đồng vay tín dụng. Sự việc tiếp diễn với các thông báo nộp tiền gốc và lãi lũy kế của ngân hàng đối với 8 khách khách hàng này.

” Khi đến thời điểm đáo hạn hợp đồng, 8 khách hàng đến trả tiền vay thì Ngân hàng từ chối không thu vì các sổ đỏ thế chấp của họ đã bị thất lạc do nhân viên của ngân hàng mang ra ngoài cầm cố để lừa đảo chiếm đoạt tài sản…”

Vụ việc không chỉ dừng lại ở mức đôi co giữa khách hàng và ngân hàng. Trong thời gian tranh chấp kéo dài cho đến nay, Ngân hàng NN VN-Chi nhánh Đăk Lăk gửi cho cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh Đăk Lăk về việc “Giám định hồ sơ vay vốn tại Ngân hàng Chi nhánh Tân Lập” quyết định khách hàng không phải trả tiền lãi do ngân hàng Chi nhánh Tân Lập vi phạm hợp đồng. Và cũng trong thời gian này, 8 khách hàng tiến hành chuyển nhượng nhà và đất cho người khác nhưng cuối cùng nhiều người trong số họ bán hết tài sản của gia đình, thậm chí phải đi vay ngoài với lãi suất cao để bồi thường tiền phạt cọc do quá hạn thực hiện hợp đồng chuyển nhượng vì không có sổ đỏ.

Doanh nghiệp Tư nhân Thương mại Vận tải Hoàng Anh, 1 trong 8 khách hàng làm đơn khởi kiện Ngân hàng NN&PTNT VN-Chi nhánh Tân Lập. Phiên tòa ngày 25/9/2013 kết thúc với quyết định tuyên bác đơn khởi kiện của doanh nghiệp Hoàng Anh và phải đóng 36 triệu đồng tiền án phí trong khi thực tế doanh nghiệp này bị thiệt hại số tiền gần 2 tỷ đồng do ngân hàng vi phạm hợp đồng. Lý giải cho kết quả phiên tòa, luật sư Nguyễn Thanh Lương, thuộc Đoàn luật sư Bến Tre cho biết:

“Trong vấn đề này thì ngân hàng có lỗi. Hai là không trả sổ được cho họ thì người dân lấy cớ đó mà không nộp tiền đáo hạn. Đúng ra thì phải có sự can thiệp của cơ quan quản lý cấp trên của ngân hàng hoặc của chính quyền địa phương. Vì không thấy sự can thiệp nào nên người dân phản ứng theo bản năng là không nộp tiền. Nếu việc không nộp tiền khi đáo hạn thì dẫn đến người dân cũng có lỗi. Dù ngân hàng có lỗi thì đó là lỗi về hành chánh, về mặt quản lý văn bản giấy tờ. Còn người dân thì sẽ có lỗi về vi phạm hợp đồng, trách nhiệm dân sự. Trong trường hợp này theo quan điểm của tôi là phải đề cao trách nhiệm can thiệp của cơ quan lãnh đạo, hoặc ngân hàng cấp trên hoặc của chính quyền ủy ban nhân dân tỉnh cùng cấp phải can thiệp vào việc này”.

“Trong vấn đề này thì ngân hàng có lỗi. Hai là không trả sổ được cho họ thì người dân lấy cớ đó mà không nộp tiền đáo hạn. Đúng ra thì phải có sự can thiệp của cơ quan quản lý cấp trên của ngân hàng hoặc của chính quyền địa phương. Vì không thấy sự can thiệp nào nên người dân phản ứng theo bản năng là không nộp tiền

LS Nguyễn Thanh Lương”

“Con kiến mà kiện củ khoai”

Trao đổi với đài RFA, luật sư Nguyễn Văn Hậu, Phó Chủ tịch Hội luật gia TP.HCM, chia sẻ theo quy định của pháp luật thì khách hàng nên nộp tiền, thậm chí nộp cả số tiền gốc và lãi cho ngân hàng thì khi đó mới thắng được khi đi khởi kiện.

Trụ sở Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Đắk Lắk - Đắk Nông

Trụ sở Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Đắk Lắk – Đắk Nông. noichinh.vn

Trong video người dân gửi về đài cho thấy sau khi thua kiện, 3 khách hàng đến Ngân hàng NN&PTNT VN-Chi nhánh Tân Lập vào ngày 27/9/13 để trả tiền và đòi lại sổ đỏ nhưng nhân viên của ngân hàng đều lánh mặt. Khách hàng bực tức lớn tiếng ngay tại ngân hàng

“Đây tiền đầy đủ đây. Bảo thu vào nhưng lại bảo không có sổ”.

“Biểu nhân viên tiền lãi là tính hết mà sổ lại không chịu đưa ra. Không đưa ra thì phải có cách giải quyết nhanh lẹ cho người ta chứ đã chờ đợi 4 năm trời rồi”.

“Người ta đã mất tiền, mất nhà rồi mà lại bảo cứ nộp tiền vào”.

Và ông Nam, Giám đốc mới của Ngân hàng lúng túng khi phải đối diện với sự tức giận của 3 vị khách hàng:

“Người đó là gì của ông, có phải là cán bộ của ông không?

” Theo lý thuyết thì tròn nhưng thực tế thiệt hại của người dân thì không thể nào bù đắp được, không thể nào đánh đổi được, để thống kê được hết. Nói cho cùng thì người dân cuối cùng cũng là người bị thiệt hại. Đó là điều bất công. Đó cũng là điều mà pháp luật cần phải điều chỉnh

Luật sư Nguyễn Thanh Lương”

-Thì việc đó là…’ấy’ nhưng em là người mới vừa tiếp nhận…Em đã xem và xin xử lý đây”.

Theo quy định của luật pháp thì khách hàng cứ nộp tiền rồi cầm biên nhận để làm bằng chứng khởi kiện ngân hàng nhưng với những số tiền quá lớn thì không khách hàng nào có thể làm theo quy định này. Họ không có lòng tin vào những thiệt hại của mình sẽ được bù đắp vì “con kiến mà kiện củ khoai” thì chỉ thiệt thân. Luật sư Nguyễn Thanh Lương nêu lên ý kiến của ông:

Theo lý thuyết thì tròn nhưng thực tế thiệt hại của người dân thì không thể nào bù đắp được, không thể nào đánh đổi được, để thống kê được hết. Nói cho cùng thì người dân cuối cùng cũng là người bị thiệt hại. Đó là điều bất công. Đó cũng là điều mà pháp luật cần phải điều chỉnh để đảm bảo kịp thời cho người dân được công bằng. Đối với ngân hàng phải chịu trách nhiệm về việc mất sổ khiến người dân không khai thác được. Ngân hàng có thể liên thông với chính quyền địa phương để cấp sổ lại, gọi là cấp phó bản. Vấn đề là trách nhiệm của ban quản lý Nhà nước, phải tạo điều kiện cho ngân hàng hợp tác với nhau để cấp sổ khác cho người dân. Điều này thuộc trách nhiệm của chính quyền địa phương”.

Trong nhiều năm trở lại đây, ngày càng có nhiều giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng do các hợp đồng giao dịch ngày càng thuận tiện và dễ dàng hơn. Chẳng hạn như một người cần tiền chữa bệnh thì có thể đến ngân hàng thế chấp sổ đỏ để vay tín dụng với mức lãi suất tương đối. Tuy nhiên khi tới đáo hạn mà không trả được thì bị tính toán lũy tiến cả số tiền vay gốc và lãi. Theo số liệu trên giấy tờ thì ngân hàng tính nợ, tính lãi khách hàng rất dễ dàng còn người dân là khách hàng chứng minh những thiệt hại thì lại rất khó khăn một khi ngân hàng vi phạm hợp đồng như trường hợp của 8 gia đình và doanh nghiệp ở Đăk lăk.

Theo đề nghị của Luật sư Nguyễn Thanh Lương thì việc cấp lại phó bản sổ đỏ qua sự kếp hợp giữa ngân hàng và cơ quan có thẩm quyền ở địa phương không phải là việc quá khó khăn. Bao giờ đề nghị này sẽ được Nhà nước xem xét thì không mấy ai đoán được nhưng 8 gia đình và doanh nghiệp ở Đăk Lăk đang sống trong tình trạng có nhà mà như không sẽ trở thành “dân oan” trong một ngày gần nhất là điều trước mắt.