Cảm Nghiệm Sống

Tu Tại Gia

“Thứ nhất thời tu tại gia
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu… dòng” (2)
(Mượn ý  Ca dao)

Có ba người cùng tôn giáo, một là nhà truyền giáo, một là tài xế lái xe đò và
một nông dân có vợ và 10 con. Ba người đều thâm niên 40 năm chức nghiệp, đã qua
đời trùng hợp cùng giờ, cùng một ngày và cùng được lên trình diện Chúa để xin
vào thiên đàng. Ba người cùng tới cửa một lúc nên Thánh Phê-rô mới nói: Các anh
đều đến cùng một lúc, hãy tự nhường nhịn nhau, vậy anh nào muốn vào trước?
Nhà Truyền Giáo nói:
“Hai anh dành cho tôi vào trước được không?” Bác tài và anh nông dân
kính nể vị lãnh đạo tinh thần, chẳc hẳn người có nhiều công lao, nên đồng thanh
cất tiếng cùng một lúc: chúng tôi xin nhường ngài vào trước.
Nhà truyền giáo rất lấy làm hãnh diện thấy mình được nhường, cúi đầu chào thánh Phê-rô và chững chạc tiến vào cửa Thiên Cung quỳ trước Thiên Nhan tâu:
– Tấu lạy Chúa, con là nhà truyền giáo làm việc thay thế các Tông Đồ, suốt 40 năm chuyên lo rao giảng Lời Chúa nhân từ cho giáo dân, xin cho con được vào Thiên Đàng trước.
Chúa ngắm Nhà Truyền Giáo một cách rất trừu mến, xuất khẩu thành thơ, Ngài
phán:
  1. Bốn mươi năm dạy dỗ Lời Cha
Con giảng giáo dân ngủ gật gà
Đâu hiểu Phúc Âm mà áp dụng
Ra ngoài tạm nghỉ, đợi chờ ta.
Nhà truyền giáo lủi thủi lui ra, bác tài xế nói với anh nông dân: “Chú nhường cho tớ vào trước nhé vì tớ thường   chở chú đi đây… đó đó.” Anh nông dân gật đầu
chấp nhận vào sau chót.
1) Tu dòng không dễ bị cám dỗ – vì một trong những điều hứa là sống đời khó nghèo
. . . người nghèo đến ngay giữa chợ không người chào hỏi “bần nhân đáo thị
vô nhân vấn
” nên ai thèm cám dỗ. . .(đây chỉ là quan niệm cá nhân của kẻ
viết bài này thôi.)
Bác tài nhanh nhảu cũng cúi đầu chào thánh Phê-rô, rồi tiến vào cửa Thiên Cung quỳ xuống, ngẩng mặt lên chiêm ngưỡng Chúa và tâu:
– Tấu lạy Chúa: Con làm tài xế lái xe đò, suốt 40 năm con phục vụ đồng bào,
chuyên chở vợ đi thăm chồng, con đi thăm cha, đem tình thương yêu đến với mọi
người. Thỉnh xin Chúa cho con được vào Thiên Đàng sớm.
Chúa nhìn anh tài xế, Ngài mỉm cười: Ừ, kể ra con cũng có nhiều công to đáng được thưởng, tuy nhiên con tạm ra ngoài nghỉ, chờ Cha xem kỹ lại một số hồ sơ vừa trình lên thưa con, kiện tụng vì bị thương dập mũi, trầy trán. . . gì đó mà Cha chưa kịp xem hết; cũng xuất khẩu thành thơ, Ngài phán:
  1. Xe đò chuyên chở khách đi xa
Thăm viếng chồng, cha cũng tuyệt mà
Đáng thưởng Thiên Đàng nhờ lái giỏi!
Mỗi lần con thắng . . . chúng kêu Ta!”
Bác tài xế cũng chưa được vào, phải lui ra và ngồi chờ.
Đến lượt anh nông dân, anh rụt rè sợ sệt vì nghĩ bụng hai người có công lớn như vậy mà chưa được vào. Còn mình chỉ có cày sâu cuốc bẫm trồng trọt để nuôi vợ, nuôi con, đâu có công lao gì…làm sao vào nổi Thiên Đàng, nên rất hồi hộp lo âu..! Anh trịnh trọng cúi đầu chào thánh Phê-rô và nhỏ nhẹ thưa; bẩm ngài, con được phép và chưa? Thánh Phê-rô gật đầu và  nói:
– Con hãy vào trình diện Chúa đi.
Anh nông dân rụt rè tiến vào, còn cách cửa thiên cung cả trăm bộ anh đã qùy xuống và di chuyển bằng hai đầu gối, gần đến cửa anh cúi rạp đầu khúm núm tâu:
– Bẩm lạy Cha nhân từ: Con là một nông dân dốt nát, nghèo hèn, bốn mươi năm chỉ biết, cày sâu cuốc bẫm, trồng trọt để nuôi vợ và 10 đứa con, bữa tối còn phải phụ bà xã rửa chén, cuối tuần còn phải lau nhà nữa. Xin Cha rộng lòng thương cho con được nương náu dưới mái nhà yêu mến của Cha là sung sướng lắm rồi. Con xin tình nguyện làm bất cứ việc gì con cũng xin vâng theo…!
– Chúa nhìn anh nông dân trừu mến Ngài phán: Con quả thực có công lớn, vì:
– Làm chồng chiều vợ tuyệt vời thay
Nhịn nhục khôn ngoan đáng bậc thày!
Chỉ bốn mươi năm con chịu… nổi
Thiên Đàng, Cha thưởng bước vô ngay.
Qua câu chuyện dí dỏm trên, cho phép ta suy luận. Bất cứ ở trong địa vị nào dù quan trọng hay không quan trọng, mỗi người chúng ta đều là một Tông Đồ của Thiên Chúa. Sự khiêm tốn hoàn thành sứ vụ của mình, không phân biệt dù lớn hay nhỏ đều có là giá trị, chứ không phải giá trị ở chức vụ. “. . . sau khi đã làm tất cả những
gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.(
Lc 17,10)
Chúng ta có yêu thương nhau, chúng ta mới biết nhường nhịn nhau. Vì có “khôn ngoan” mới biết nhịn nhục. Vì sự nhịn nhục và tha thứ sẽ làm cho tình yêu được bền vững, gia đình hòa thuận, mà gia đình chính là nền tảng của xã hội; là một giáo xứ nhỏ trong những giáo xứ của Giáo Hội. Quả thực xứng đáng là bậc
thày vậy!
Cảm  Tác
Thiên Đàng, nhà của Chúa Trời
Là nơi quê thật tuyệt vời, Ngài ban
Cho ai trách nhiệm chu toàn
Yêu thương chân lý, khôn ngoan thực hành.
Bần cùng hay bậc trâm anh
Tề gia khéo léo, mới rành trị dân.
Trần gian Thiên Ý vâng tuân
Đời đời hạnh phúc hồng ân chan hòa.
Ngày về Thiên Quốc hoan ca
Thiên Thần mở cửa, Chúa Cha chúc lành.
Hoài Việt Nguyễn Vĩnh Tường
1-Trích trong Thiên Nga Thoát Nam của tác giả.
– dongcong.net
Anh chị Thụ & Mai gởi

Một bác sĩ Phật giáo trở thành Linh mục suốt đời phục vụ bệnh nhân phong

Một bác sĩ Phật giáo trở thành Linh mục suốt đời phục vụ bệnh nhân phong

Đỗ Tân Hưng

1/25/2013

nguồn:Vietcatholic.net

Linh mục Augustinô Nguyễn Viết Chung nguyên là một bác sĩ Phật giáo, chuyên môn về Da Liễu. Khi lên 18 tuổi, nhân đọc một bài báo nói về cái chết của Ðức
Cha Jean Cassaigne tại trại phong Di-Linh, cậu Chung cảm thấy cuộc sống đó quá
tốt đẹp và vô tình Ðức Cha Jean Cassaigne đã trở thành thần tượng của cậu. Khi
nhắc lại đoạn đời đó, cha Chung cho biết là ngài được rao giảng Tin Mừng bằng
đời sống, chứ không phải bằng lời nói. Từ đó cậu Chung có ý nguyện học làm bác
sĩ để phục vụ bệnh nhân phong như Ðức Cha Jean Cassaigne.

Khi bắt đầu học năm thứ nhất y khoa, nhân dịp tham dự Thánh lễ khai khóa của
linh mục giáo sư bác sĩ Lischenberg, cậu Chung nhận thấy con người khoa học
uyên bác của giáo sư Lischenberg đã biến thành một linh mục khả kính, trang
nghiêm siêu thoát, chìm đắm trong cõi phúc lạc thần thiêng. Ơn gọi làm linh mục
của cha Chung đã chớm nở từ đó.

Khi bác sĩ Chung phục vụ tại trại phong Bến Sắn, Dì Hai Loan thuộc Tu Hội Nữ Tử
Bác Ái là Phó Giám Ðốc. Dì là người đã phục vụ ở đây gần 17 năm, bất ngờ ngã
bệnh ung thư và mất đi sau mấy tháng. Khi Dì hấp hối, bác sĩ Chung đang sửa
soạn để đi với bác sĩ Quang, bác sĩ Bích Vân lên trại phong Di-Linh khám mắt
cho bệnh nhân. Vì xe chưa tới, bác sĩ Chung tiếc nuối những giây phút cuối cùng
còn lại với Dì Hai Loan nên đã trở lại giường bệnh của Dì. Lúc đó Dì Hai Loan
mở mắt ra, nhìn bác sĩ và đôi môi mấp máy như muốn nói điều gì. Dì Mười hiểu
được, liền nói: “Chung, Dì Hai Loan nói, tại sao chưa đi?”

Khi kể lại kỷ niệm nầy cho tôi, cha Chung đã dùng những ngón tay phải chỉ vào
cánh tay trái và cho biết lúc đó cha cảm thấy bị rởn da gà lên. Sau đó, bác sĩ
Chung về dự tang lễ của Dì Hai Loan và đã quyết định theo đạo. Một năm sau nữa
bác sĩ đã vào tu ở Tu Hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn và đã nhận lãnh Thánh chức
linh mục hơn một năm nay.

Ba vị đã tác động mạnh mẽ trên Ơn Gọi của cha Chung là giám mục Jean Cassaigne,
linh mục Lischenberg và Dì Hai Loan. Cả ba cùng có một mẫu số chung – như lời
cha Chung – đó là họ đã rao giảng Tin Mừng cho cha bằng cuộc sống chứ không
phải bằng lời nói!

Nguyện ước của cha Chung là được phục vụ bệnh nhân phong và bịnh nhân Aids rồi
cuối cùng ngã bệnh giữa những bệnh nhân mà cha yêu thương phục vụ, đúng như lời
Chúa Kitô đã phán dạy: “Không có Tình Yêu nào cao trọng cho bằng hy sinh mạng
sống mình vì kẻ mình yêu!”

NHỮNG TRỞ NGẠI VỀ PHÍA GIA ÐÌNH

Ðáp câu hỏi của tôi là trên con đường theo Chúa, có những trở ngại lớn lao nào
về phía gia đình không? Cha cho biết gia đình của cha là một gia đình nghèo.
Ðời sống gia đình thường xảy ra cảnh “cơm không lành, canh không ngọt”. Ðiều đó
đã ảnh hưởng cha từ thuở thiếu thời nên cha đã có ý định đi tu vì nhận thấy đời
sống gia đình không mang lại hạnh phúc.

Khi làm bác sĩ, trong hai năm đầu cha đã hành nghề để có thể trả nợ cho gia
đình. Trong những năm kế tiếp, cha đã giúp đỡ những người em ăn học và hiện có
một em trai là bác sĩ chuyên môn về phổi. Người em nầy đã thay thế cha phụng
dưỡng hai cụ thân sinh.

Khi còn là tu sĩ, chưa được thụ phong linh mục, một ngày kia được tin cụ thân
sinh bệnh, cha đi xe đạp về thăm. Vừa vào nhà, cụ thân sinh liền quở trách cha
là một người “không biết nhục”. Theo lời cụ, các bạn bè của cha đều đi xe hơi,
xây nhà lầu hai ba tầng cho bố mẹ ở. Còn cha, cha lại đạp chiếc xe đạp cọc cạch
về thăm nhà!

Trước đây khi cha ngõ ý với cụ bà là muốn đi tu thì cụ bà rất vui, vì tưởng cha
tu theo Phật giáo. Nhưng khi biết cha sẽ tu theo Công giáo thì cụ bà giữ im
lặng.

Sau khi được thụ phong linh mục vài ba hôm, cha về thăm gia đình. Mới bước vào
nhà, cụ bà cất tiếng nói: “Mẹ có điều nầy muốn nói với con.” Cha vội kéo ghế
mời cụ bà ngồi rồi nói: “Thưa Mẹ, xin Mẹ cứ nói, con xin nghe.” Bấy giờ cụ bà
đáp: “Mẹ muốn nói với con điều nầy là đạo Mẹ, Mẹ giữ, đạo con, con giữ.” Cha
liền thưa: “Xin Mẹ cứ giữ đạo của Mẹ. Con không bao giờ dám có ý nghĩ là sẽ
khuyên bảo Mẹ theo đạo của con.”

NHỮNG THỬ THÁCH TRÊN HÀNH TRÌNH TU TRÌ

Ðáp câu hỏi của tôi là trong thời gian đi tu cũng như làm linh mục, có lúc nào
cha cảm thấy những thử thách quá lớn và nảy sinh ý định muốn bỏ cuộc? Cha đăm
chiêu nhìn tôi một phút rồi chậm rãi trả lời: “Thật ra ở giai đoạn nào trong
đời sống tu trì cũng đều có những cám dỗ riêng: từ nhà tập đến khấn tạm rồi
khấn trọn đời và làm linh mục. Nhưng nếu tu sĩ biết tuân giữ ba lời khấn là
vâng lời, khiết tịnh và khó nghèo, đọc kinh Nhật Tụng, suy gẫm Phúc Âm thì sẽ
vượt qua những cơn cám dỗ.”

Cha Chung còn chia sẻ với tôi đôi điều có tính cách riêng tư nhưng có phần nào
ray rứt tâm can. Trong giờ phút cảm động đó, tôi đã đưa tâm hồn lên với Chúa,
cầu nguyện cho cha Chung và cho tất cả các linh mục cũng như nam nữ tu sĩ, đã
trải qua những giây phút cô đơn trong cuộc đời tu trì, bằng lời kinh “Phút Cô
Ðơn”, của Ludovic Giraud, (sách LKÐNTNK, trang 49-50):

“Lạy Chúa,

Con dâng lên Chúa những giờ phút cô đơn

Ðôi lần đến với con trong cuộc đời.

Con dâng lên Chúa

Lúc con phải làm việc một mình:

Trong sự tẻ nhạt của bổn phận nặng nề

Mà không có lấy một sự khích lệ đỡ nâng

Trong cộng đoàn.

Con dâng lên Chúa

Những lúc cô đơn,

Mò mẫm đi tìm trong hoài nghi,

Khi không còn biết con đường

Mình đang theo đuổi sẽ dẫn đến đâu

Và trên đó bóng đêm bao trùm.

Con dâng lên Chúa

Những giờ phút con phải

Ðau khổ âm thầm một mình,

Dù đang ở giữa những kẻ mà con phải

Bày tỏ Chúa cho họ và bị vô ơn hất hủi,

Do thờ ơ và thiếu cảm thông.

Con dâng lên Chúa

Những giây phút con phải yêu một mình

Giây phút thật nặng nề

Khi trái tim con khắc khoải,

Ði tìm sự tương giao

Mà không gặp thấy trong lòng người khác.

Và trong lòng những người con ưa thích

Tìm thấy một sự no thỏa mà không nếm cảm được.

Con dâng lên Chúa

Những giờ phút con phải đau khổ một mình,

Những giây phút Giếtsêmani của bản thân con.

Và chính trong những lúc ấy,

Lạy Chúa, con ước ao được nên giống Chúa.

Cũng như Chúa,

Con ước muốn và cầu xin

Cho chén khổ nầy ra khỏi con,

Nhưng xin Chúa cho con sức mạnh

Ðể chế ngự mình

Mà vâng theo Thánh ý Cha,

Ðấng Chúa yêu ngàn đời,

Cả khi Ngài chấp nhận thấy con đau khổ.

Lạy Chúa,

Xin đừng theo ý con

Nhưng cho ý Cha được thể hiện Amen.”

I. THÁP TÙNG CHA CHUNG: TRUNG TÂM MAI-HÒA

Cao điểm của những ngày về thăm Việt-Nam là việc tôi tháp tùng linh mục
Augustinô Nguyễn Viết Chung đi thăm viếng Trung Tâm Mai-Hòa. Cha Chung hiện là một trong ba bác sĩ phục vụ tại Trung Tâm đó do các Nữ Tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn
đảm trách. Mỗi thứ hai hằng tuần, cha Chung đều lên Mai-Hòa suốt ngày để dâng
Thánh Lễ và khám bệnh. Hai bác sĩ thiện nguyện khác sẽ khám bịnh cho bịnh nhân
vào ngày thứ tư và thứ bảy.

Hôm đó tôi rời Saigon đi xe honda “ôm” với cha Chung lúc 7 giờ 30 sáng để trực
chỉ Củ Chi, với đoạn đường dài trên 45 cây số. Lần đầu tiên tôi đi honda với
nón an toàn nặng trĩu trên đầu. Khi honda vừa chạy độ 5 phút, trời mưa lâm râm,
cha Chung đưa tôi mặc bộ quần áo mưa, trông chẳng khác nào hai phi hành gia bất
đắc dĩ. Nhưng xe chạy được mười lăm phút, trời tạnh mưa. Một ít lâu sau trời
bắt đầu nắng, nhưng cha Chung không hề dừng lại để cởi áo mưa. Sau khi rời
đường quốc lộ, xe còn chạy trên mười cây số nữa mới tới Trung Tâm Mai Hòa.

Hôm đó tôi mặc áo dài tay, quần tây dài, mang giày, để tỏ lòng kính trọng của
tôi đối với những chi thể đau khổ của Ðức Kitô. Thường ngày tôi chỉ mặc áo cụt
tay, quần đùi, đi dép để ứng phó với cái nóng bức của trời Saigon.

SƠ LƯỢC VỀ TRUNG TÂM MAI-HÒA

Ðây là Trung Tâm săn sóc bệnh nhân Aids ở giai đoạn cuối, không nơi nương tựa.
Ðây là một cơ sở Công giáo đầu tiên được chính thức thành lập để chăm sóc bịnh
nhân Aids tại Việt-Nam. Trung Tâm không nhận bệnh nhân đến trực tiếp mà chỉ
nhận bệnh nhân chuyển đến từ khoa nhiễm E thuộc Trung Tâm Bệnh Nhiệt Ðới, Trung Tâm Lao Phạm Ngọc Thạch và bệnh viện miễn phí An-Bình. Hiện Trung Tâm Mai-Hòa do nữ tu Nguyễn Kim Thoa (Dì Tuệ Linh) đảm trách.

Ðịa chỉ của Trung Tâm Mai-Hòa:

Ấp Lô 6, Xã An Nhơn Tây, Huyện Củ Chi, TPHCM.

Ðiện thoại: (848) 8 926 135

Ðịa chỉ email: aidsmaihoa@yahoo.com.vn

NHỮNG EM BÉ MỒ CÔI MẮC BỆNH AIDS

Khi tới nơi, cha Chung và tôi cởi nón an toàn và bộ quần áo mưa ra. Mồ hôi tôi
ướt đẫm như tắm. Nghe tiếng xe honda của cha Chung, mấy em bé năm sáu tuổi chạy
ra mừng rỡ la lớn: “Cha ơi! Cha!” chẳng khác nào cảnh tượng mẹ đi chợ về. Ban
đầu tôi cứ tưởng đó là những em còn khỏe mạnh mà cha mẹ đã qua đời vì bệnh liệt
kháng, không được ai chăm nuôi. Sau đó cha Chung cho biết tất cả các em đều mắc
bệnh, và mồ côi cha mẹ, ngoại trừ một em bé gái 4 tuổi còn mẹ.

Cách đây mấy tháng, mẹ của em nầy đã mang em lại để trước cổng chùa, với một
miếng giấy ghi mấy chữ vắn tắt: “xin nhà chùa nuôi giúp”. Ngoài ra mẹ em có cho
biết tên em và em được bốn tuổi. Vị sư trụ trì đã mang em vào chùa nuôi. Sau đó
em bị Viêm Phổi, đi khám nghiệm mới biết em nhiễm HIV, đã trở thành bịnh Aids.
Nhìn thân thể ốm yếu và nét mặt kém vui của em, tôi đoán biết em đang bị cơn
bẹạnh hoành hành và đang trên đà tiến tới giai đoạn hiểm nguy.

Cảm tưởng đầu tiên của tôi là Trung Tâm Mai-Hòa ngày nay đã được nhiều ân nhân
giúp đỡ, nhất là một số tòa đại sứ ngoại quốc nên nhà cửa khang trang hơn, chứ
không còn gây ấn tượng rùng rợn như khi xem cuốn video một năm trước đây.

THAM DỰ THÁNH LỄ VỚI NƯỚC MẮT CHAN HÒA

Ðây là Thánh lễ cảm động nhất mà tôi đã tham dự từ trước tới nay. Thánh Lễ được
cử hành đơn giản trong một căn nhà thủy tạ hình bát giác, bên dưới là một giòng
nước đục ngầu ứ đọng, không buồn chảy, chẳng khác gì giòng đời với chuỗi ngày
dài lê thê của những bệnh nhân ở đây.

Nghe những tiếng thưa đáp của các bệnh nhân trong Thánh lễ nhất là của các em
bé tôi không thể cầm được nước mắt. Suốt buổi lễ, nước mắt tôi chan hòa, khi
thấy các em vẫn hồn nhiên đọc kinh, hát xướng như thường, không chút ý thức về
số phận đen tối đang đè nặng trên các em. Những lưỡi hái của tử thần đang treo
lủng lẳng trên đầu các em và sẵn sàng rơi xuống để gặt hái các em trong một
ngày rất gần đây mà các em không chút hay biết.

Tôi nhớ lại sau đó, cha Chung đã vào thăm các em trong căn nhà dành riêng cho
các em. Các em đã xúm lại ôm chân cha, níu kéo cha và quyến luyến không muốn
rời khỏi cha. Có em đã được cha ẳm lên, vuốt ve một cách trìu mến. Tôi cũng nhớ
lại lúc xế trưa, các em đã vui đùa cười giỡn trong sân với chị nữ tu phụ trách.
Khi thấy các em vui đùa, tâm trạng của tôi lúc bấy giờ cũng giống như cha Ðông
trước kia: thấy các em cười nhưng tôi lại khóc.

MỘT BỮA ĂN ÐẠM BẠC

Hôm tôi lên Trung Tâm Mai-Hòa, tôi gặp bốn dì Nữ Tử Bác Ái phục vụ những bệnh
nhân liệt kháng ở giai đoạn chót. Dì Tuệ Linh là giám đốc, một Dì trước đây đã
phục vụ ở trại phong Di-Linh hơn hai mươi lăm năm, hiện làm y tá, một Dì săn
sóc các em bé và một Dì nấu ăn.

Hôm đó tôi thấy thức ăn gồm rau muống luộc, canh khổ qua nhồi thịt và đồ tráng
miệng là một miếng dưa hấu đỏ. Thức ăn nầy được dùng chung cho các nữ tu và
bệnh nhân. Các bệnh nhân chia làm ba nhóm ăn cơm chung với nhau, đó là nhóm các
trẻ em, những người bị lao phổi và những người nhiễm các bịnh khác.

Sau khi chia sẻ với tôi nhiều điều, cha Chung đã dẫn tôi sang phòng ăn Trung
Tâm và dùng bữa ăn trưa. Tôi khâm phục tài nấu nướng của chị nữ tu phụ trách
nhà bếp. Những món ăn rất ngon và đậm đà, hợp khẩu vị. Khi ăn trưa xong, đã hơn
hai giờ rưỡi chiều và cha Chung đã mất buổi nghỉ trưa.

Sau mấy tiếng đồng hồ được cha Chung chia sẻ tâm tình, tôi cầu xin Chúa cho tôi
được học hỏi đôi điều qua gương sống chứng nhân của cha, của các linh mục và
nam nữ tu sĩ khác, bằng bài thơ “Xin Cho Con Sức Mạnh” của R. Tagore do Ðỗ
Khánh Hoan dịch (Sách LKÐNTNK, trang 39):

“Lạy Thiên Chúa,

Ðây lời con cầu nguyện:

Xin tận diệt, tận diệt trong tim con

Mọi biển lận tầm thường.

Xin cho con sức mạnh thản nhiên

Ðể gánh chịu mọi buồn vui.

Xin cho con sức mạnh hiên ngang

Ðể đem tình yêu gánh vác việc đời.

Xin cho con sức mạnh ngoan cường

Ðể chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,

Hay cúi đầu khuất phục

Trước ngạo mạn, quyền uy.

Xin cho con sức mạnh dẻo dai

Ðể nâng tâm hồn vươn lên

Khỏi ti tiện hằng ngày.

Và cho con sức mạnh tràn trề

Ðể dâng mình theo ý Ngài luôn.”

II. TRUNG TÂM THIÊN PHƯỚC:

CƠ SỞ NUÔI DƯỠNG TRẺ EM KHUYẾT TẬT

Sau đó cha Chung dẫn tôi sang Cơ Sở Nuôi Trẻ Khuyết Tật Thiên Phước ở bên cạnh.
Cơ Sở nầy do một cộng đoàn nữ tu khác đảm trách.

Trong khi cha Chung lên lầu dâng Thánh lễ cho các nữ tu, tôi ngồi ở dưới lầu,
nơi có vài chục em dưới năm tuổi, nằm, ngồi hay bò hoặc đong đưa trong các
chiếc ghế xích đu. Có em bò lại gần tôi, lấy tay sờ vào chân tôi, rồi nhoẻn
miệng cười. Trông các em thật dễ thương và tội nghiệp. Khi nhìn các em, lòng
tôi se thắt!

Qua việc thăm viếng hai cơ sở nầy ố Trung Tâm Mai-Hòa và Trung Tâm Thiên Phước
ố tôi cầu xin Chúa cho tôi được mở mắt ra để thấy Chúa trong mọi cảnh huống của
cuộc đời:

“Lạy Chúa Giêsu,

Xin cho con thấy Chúa thật lớn lao,

Ðể đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.

Xin cho con thấy Chúa thật bao la,

Ðể cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.

Xin cho con thấy Chúa thật thẳm sâu,

Ðể con đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất.

Lạy Chúa Giêsu,

Xin làm cho con thật mạnh mẽ,

Ðể không nỗi thất vọng nào

Còn chạm được tới con.

Xin làm cho con thật đầy ắp,

Ðể ngay cả một ước muốn nhỏ,

Cũng không còn có chỗ trong con.

Xin làm cho con thật lặng lẽ,

Ðể con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi

Xin Chúa ngự trong con thật sống động,

Ðể không phải là con,

Mà chính Ngài đang sống.

(“Xin Cho Con Thấy” trích từ Rabbouni đăng trong sách LKÐNTNK trang 93)

NHỮNG NẮM TRO TÀN

Sau đó cha Chung và tôi trở lại Trung Tâm Mai Hòa. Trong một giờ đồng hồ, cha
Chung hoàn tất những hồ sơ bệnh lý, còn tôi đi dạo quanh vườn. Những bông hoa
cỏ dại mọc đó đây ở Trung Tâm Mai-Hòa gợi lên cho tôi sự hoang dại của kiếp
sống, cũng như số kiếp của những bệnh nhân ở đó.

“Lời Kinh Của Người Ðau Khổ” (Paradoxes Of Prayers) trong sách LKÐNTNK (trang
70-71) đã gói ghém trọn vẹn tâm tình của tôi trong giờ phút suy tư đó:

“Lạy Chúa,

Con cầu xin ơn mạnh mẽ

Ðể thành đạt trong cuộc đời,

Chúa lại làm cho con ra yếu ớt

Ðể biết vâng lời khiêm hạ.

Con cầu xin có sức khỏe

Ðể mong thực hiện những công trình lớn lao,

Chúa lại cho con chịu tàn tật

Ðể chỉ làm những việc nhỏ tốt lành.

Con cầu xin được giàu sang

Ðể sống sung sướng thoải mái,

Chúa lại cho con nghèo nàn

Ðể học biết thế nào là khôn ngoan.

Con cầu xin được có uy quyền

Ðể mọi người phải kính nể ca ngợi,

Chúa lại cho con sự thấp hèn

Ðể con biết con cần Chúa.

Con xin gì cũng chẳng được theo ý muốn.

Nhưng những điều con đáng phải mơ ước,

Mà con không hề biết thốt lên lời cầu xin,

Thì Chúa lại đã ban cho con

Thật dư đầy từ lâu.

Lạy Chúa,

Hóa ra, con lại là người hơn hết trên đời nầy,

Bởi con đã nhận được ơn Chúa vô vàn”

Trong lúc chờ đợi cha Chung, tôi ngồi đắm mình trong suy tư như thế trên một
ghế đá được một ngôi chùa trao tặng, trong cả chục chiếc ghế như thế được nhiều
ân nhân khác trao tặng Trung Tâm.

Sau khi hoàn tất hồ sơ bệnh lý, cha Chung dẫn tôi đi thăm nhà quàng của Trung
Tâm, mà phía ngoài một bức tường được dựng lên, có ngăn nhiều ô nhỏ để giữ tro
tàn những bệnh nhân đã vĩnh viễn ra đi, nhưng không có thân nhân thừa nhận.
Những tro tàn đó được chứa đựng trong những cái quách nhỏ với một tấm hình gắn
lên bên ngoài.

Trong số gần trăm cái quách đó, tôi để ý đến mấy em rất trẻ, khoảng đôi mươi,
trai cũng như gái, mới từ giã cuộc đời gần đây thôi. Trông hình các em rất
xinh! Lòng tôi quặng đau. Nếu không vì tai họa của Aids thì đời các em đẹp biết
bao!

Trong khi tôi đang miên man nghĩ ngợi, bỗng nhìn xuống đám cỏ xanh trên mặt
đất, phô bày đó đây mấy bông “hoa mười giờ”. Câu hát kết thúc bài ca Hoa Mười
Giờ “đời con gái chỉ đẹp lúc ban đầu!” khiến tâm hồn tôi càng thêm não nuột tê
tái. “Lúc ban đầu” của các em quá vắn vỏi và đầy đau thương! Ðúng là “Nửa chừng
xuân thoắt gãy cành thiên hương.” (Ðoạn Trường Tân Thanh).

Cha Chung chỉ vào hình một cô gái khoảng ba mươi tuổi. Cha cho biết là chị được
chồng chuộc ra khỏi một động mãi dâm ở Kampuchia. Nhưng về sau chị bị Aids và
đồng thời cũng phát hiện ra ông chồng bị lây luôn. Những thảm cảnh như thế nầy
không bút mực nào có thể diễn tả được.

TRÊN ÐƯỜNG VỀ

Trong khi cha Chung và tôi sửa soạn ra về thì một em bệnh nặng đang hấp hối. Ba
của em và bà nội vào thăm viếng em lần cuối. Lâu lâu vì không thể chịu đựng
được cảnh đau lòng nầy, người cha ra ngoài, đứng nhìn trời mây mà ứa nước mắt.

Lúc đó cha Chung đi ngang qua và buột miệng nói với tôi là trong tình huống
nầy, cha cũng không thể làm gì hơn được. Câu nói của cha Chung cho tôi thấy sự
bất lực của con người khi phải đối diện với tử thần. Xét về một phương diện nào
đó, cái chết trong trường hợp nầy là con đường giải thoát duy nhất cho những người
chẳng may mắc phải tai họa nầy.

Sau khi chạy honda ra khỏi Củ Chi để vào xa lộ trở về Saigon, cha Chung quay
lại hỏi tôi có buồn ngủ không. Thật tình tôi không buồn ngủ mà chỉ lo cho cha
Chung đã mất giấc nghỉ ban trưa và bây giờ phải cố thức tỉnh để lái honda trên
45 cây số nữa.

LỜI NGUYỆN CỦA CHỊ VÉRONIQUE

Lúc bấy giờ nền trời âm u, mây đen vần vũ, nhưng may mắn là không đổ mưa. Nhìn
những đám ruộng “nửa vàng nửa xanh” hai bên vệ đường, tôi liên tưởng đến cảnh
chết chóc đang xảy ra tại Trung Tâm Mai-Hòa. Chỉ trong tuần lễ trước đây, hung
thần Aids đã cướp đi bảy sinh mạng và trong tuần nầy cũng phải một hai mạng
người nữa.

Khi tâm tư tôi bị dằn vặt về những ưu tư liên quan đến những cái chết quá đau
thương cũng như đoạn chót cuộc đời đầy đau khổ của những bệnh nhân ở Trung Tâm
Mai Hòa, tôi bỗng đưa tâm hồn lên để quyện lòng mình với chị Véronique qua “LỜI
NGUYỆN” của chị được ghi lại trên tạp chí Prier, xuất bản năm 1979 (sách
LKÐNTNK, trang 13-16):

Chị Véronique là một người Pháp, tính đến năm 1979, được 58 tuổi, với 55 năm bị
mắc bệnh phong Hansen, 20 năm bị mù lòa, nhưng chị vẫn làm việc trong một xí
nghiệp sản xuất đồ dùng của người bệnh Hansen tại nước Cameroun, châu Phi.

“Lạy Chúa,

Chúa đã đến và đã xin con tất cả,

Và con, con cũng đã hiến dâng cho Chúa tất cả.

Xưa kia, con ưa thích đọc sách,

Và Chúa đã muốn mượn đôi mắt của con.

Ngày trước, con thích chạy nhảy trong những khu rừng thưa,

Và Chúa đã mượn đôi chân của con.

Mỗi độ xuân về,

Con tung tăng hái lượm những cánh hoa tuơi,

Và Chúa lại xin con đôi tay.

Bởi con là một phụ nữ,

Con ưa nhìn suối tóc óng ả của con,

Thế mà giờ đây,

Ðầu con hầu như chẳng còn sợi tóc nào,

Cũng chẳng còn đâu,

Những ngón tay hồng xinh xắn nữa,

Chỉ còn lại một vài que củi khô queo nham nhúa.

Chúa ơi, Chúa hãy nhìn xem:

Cái thân thể diễm kiều của con đã bị hủy hoại đến độ nào.

Thế nhưng, con không hề muốn nổi loạn,

Con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn.

Vâng, lạy Chúa,

Muôn đời con sẽ xin thưa hai chữ tạ ơn,

Bởi vì, nếu đêm nay,

Chúa truyền cho con phải ra đi vĩnh biệt cõi thế,

Con cũng sẽ chẳng tiếc hận gì.

Ðời con đã được quá ư đầy tràn diệu kỳ tột độ:

Ðó là con đã được sống

Ðắm mình trong Tình Yêu,

Ðã được Chúa lấp đầy

Chan chứa bằng Tình Yêu,

Vượt quá cả những gì tim con hằng mong ước.

Ôi lạy Chúa là Cha của con.

Cha đã đối xử quá tốt với bé gái Véronique của Cha.

Và chiều nay, ôi Tình Yêu của con,

Con xin dâng lời nguyện thiết tha,

Cho tất cả mọi người phong cùi trên mặt đất,

Xin Cha thương một cách đặc biệt,

Cả đến những người bị bệnh “cùi tâm hồn”

Ðang đè bẹp hủy hoại,

Con yêu thương đặc biệt những con người bất hạnh ấy.

Và chiều nay, trong âm thầm,

Con xin tận hiến đời con cho họ,

Bởi vì họ cũng là những người anh chị em con.

Ôi lạy Cha, Tình yêu của con,

Con xin dâng Cha

Căn bệnh phong cùi thân xác của con,

Ðể cho những người thân yêu kia

Ðừng bao giờ biết đến nữa,

Cái đắng cay, cái lạnh lẽo kinh hồn

Của căn bệnh “cùi tâm hồn”.

Con là bé gái thân thương của Cha,

Cha ơi, hãy nắm lấy bàn tay

Ðã tàn phế của con để dẫn con đi,

Như người mẹ hiền

Dắt tay đứa con gái cưng của mình.

Cha hãy ôm con vào lòng,

Như người cha ấp ủ đứa con cưng

Trong vòng tay của mình.

Cha hãy nhận chìm con sâu xuống tận đáy trái tim Cha,

Cho con được ở đấy

Cùng với mọi người thân yêu của con,

Bây giờ và cho đến mãi muôn đời Amen

GHI CHÚ: Những tên sách viết tắt:

– LKÐNTNK: “Lời Kinh Ðẹp Nhất Thiên Niên Kỷ”

– TTTVLÐT: “Tiếng Thì Thầm Và Lời Ðáp Trả” của Eileen, Nguyễn Thị Chung dịch.

Cháy vũ trường ở Brazil, ít nhất 245 người thiệt mạng

Cháy vũ trường ở Brazil, ít nhất 245 người thiệt mạng

Nhân viên cứu hỏa cố gắng dập tắt đám cháy tại vũ trường ở Santa Maria, 550 Km từ Porto Alegre, miền nam Brazil, ngày 27/1/2013.
Nhà chức trách Brazil cho hay có ít nhất 245 người chết và 200 người bị thương sau khi một đám cháy bốc lên tại một khiêu vũ trường ở thành phố miền nam Santa Maria.
Nhà chức trách nói rằng ngọn lửa bắt đầu lúc 2 giờ sáng Chủ nhật khi khiêu vũ
trường Kiss vẫn còn đông, nguyên do chưa rõ, mặc dù ban nhạc có sử dụng kỹ
thuật phát ra lửa khi có nhạc kích động.
Nhiều người chết vì ngạt thở, không chen chân chạy ra ngoài được vì mọi người
hốt hoảng xô đẩy nhau để thoát thân.
Nhà chức trách tin rằng số người chết sẽ cao hơn vì họ vẫn còn kiểm tra các tử
thi.
Tổng thống Dilma Rousseff phải cắt ngắn chuyến đi tại Chilê để trở về Brazil
khi nhận được tin cháy.
Lãnh đạo thành phố Santa Maria nói trên trang Twitter của mình rằng sẽ sử dụng
mọi biện pháp cần thiết để cứu giúp các nạn nhân.
Santa Maria có 200.000 dân và là một thành phố của trường đại học, nằm ở phía
nam Brazil, sát với Argentina và Uruguay

Nhạc sỹ Phạm Duy qua đời

Nhạc sỹ Phạm Duy qua đời

Chủ nhật, 27 tháng 1, 2013

nguồn: BBC

Nhạc sỹ Phạm Duy trong một buổi ca nhạc

Nhạc sỹ Phạm Duy được cho như một trong những người đã kiến tạo nên nền tân nhạc Việt Nam

Người nhạc sỹ lớn của nền tân nhạc Việt Nam, Phạm Duy, vừa qua đời tại TP Hồ Chí Minh ở tuổi 93, các nguồn thân thiết với gia đình ông cho biết.

Nhà thơ Đỗ Trung Quân cho BBC hay ông được tin nhạc sỹ qua đời vào buổi trưa Chủ nhật 27/1. Có nguồn tin nói ông ra đi trong bệnh viện.

Nhạc sỹ Phạm Duy có tiền sử bệnh tim và từng qua hai lần giải phẫu tim.

Ông Đỗ Trung Quân không giấu nổi nghẹn ngào: “Tôi thực sự rất xúc động khi nghe tin ông [Phạm Duy] qua đời”.

“Ông là một trong những nhạc sỹ đã tạo nên diện mạo nền âm nhạc Việt Nam.”

Các tác phẩm âm nhạc của Phạm Duy đã kết hợp được những nét của âm nhạc cổ truyền, dân ca, với các trào lưu phong cách hiện đại.

Ông từng nói trong một cuộc phỏng vấn với BBC: “Tôi nghĩ rằng tôi là người Việt Nam, nếu tôi muốn được gọi là một nhạc sỹ Việt Nam, thì tôi phải làm nhạc dân ca. Đó là chuyện rất giản dị”.

“Tôi phải khởi sự sáng tác của tôi bằng những bản nhạc mang tinh thần Việt Nam và với chất liệu của Việt Nam nữa.”

Mới tháng trước, con trai lớn của nhạc sỹ Phạm Duy, ca sỹ Duy Quang, cũng qua đời tại Mỹ.

Vợ của ông là ca sỹ Thái Hằng, bà qua đời năm 1999.

Tài năng lớn

Nhạc sỹ Phạm Duy sinh ngày 5/10/1921. Tên thật của ông là Phạm Duy Cẩn.

Không chỉ là tác giả của một khối lượng đồ sộ các sáng tác, ông còn là nhà nghiên cứu âm nhạc lớn, với công trình khảo cứu về âm nhạc có giá trị.

Phạm Duy bắt đầu con đường âm nhạc trong vai trò ca sỹ. Ông từng tham gia kháng chiến chống Pháp, nhưng sau di cư vào Nam.

 

Sau sự kiện 30/4/1975, khi ông vượt biên sang Hoa Kỳ. Các ca khúc của ông bị cấm ở trong nước một thời gian dài.

Việc ông trở về Việt Nam định cư năm 2005 đã gây ra nhiều tranh cãi.

Kể từ đó, một số ca khúc của ông mới bắt đầu được phép phổ biến ở Việt Nam. Tuy nhiên cho tới nay, mới khoảng 1/10 số bài hát của ông được biểu diễn ở trong nước.

Trong cuộc trao đổi với BBC, nhạc sỹ kỳ cựu thừa nhận ông từng có giai đoạn sáng tác tuyên truyền trong các giai đoạn chiến tranh, nhưng cho rằng ông chỉ làm như vậy vì yêu nước.

“Lẽ tất nhiên bổn phận của chúng tôi là thế. Bổn phận của người nhạc sỹ khi đi theo kháng chiến, thì phải dùng cái đàn của mình để xưng tụng cuộc kháng chiến.”

“Ngoài những bản nhạc về tình ái, hay về những chuyện khác, thì những bản nhạc có tính chất gọi là tuyên truyền đó thực ra cũng là những bản nhạc yêu nước thôi. Đừng nói là tuyên truyền hay không tuyên truyền.”

Nhạc sỹ cho rằng âm nhạc của ông đa dạng và luôn biến đổi vì thân phận và tâm trạng của ông luôn “vui buồn” và “trôi nổi” theo vận nước.

Ông Cha Và Ổ Chứa Nô Lệ Tình Dục

Ông Cha Và Ổ Chứa Nô Lệ Tình Dục

(01/04/2013)

Vietbao.com

Tác giả : Nguyễn Kim Dục

Tác giả sinh năm 1938, cựu sĩ quan an ninh quân đội, sang Mỹ
theo diện H.O. vào năm 1990, hiện đã về hưu và an cư tại Westminster. Ông tham
dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2008 và đã góp nhiều bài viết giá trị. Bài mới sau
đây mang tựa đề “Tu thành Linh Mục nhưng không thích làm “cha”
thiên hạ.” Công việc ông Cha này chọn là cải trang đi vào các động mãi
dâm, những ổ chứa, ổ buôn người, giúp giải cứu những nạn nhân bị buộc làm nô lệ
lệ tình dục.

Một hôm vợ tôi đi đâu về liệng ra 2 vé đi tham dự buổi tiệc gây quỹ tổ chức tại
nhà hàng Paracell. Tôi hỏi:

– Ai đứng ra gây quỹ?

– Một ông Cha.

– Cha nào?

– Em không biết tên.

– Hay nhỉ?

– Em chỉ biết có một Cha đứng ra tổ chức để gây quỹ cho tổ chức cứu giúp những
nạn nhân bán vào các động làm nô lệ tình dục ở các nước Đông Nam Á.

Vợ chồng chúng tôi thấy ai dù Thầy hay Cha đứng ra tổ chức đều rất sốt sắng
tham dự.

Hôm đó vào ngày cuối tuần, chúng tôi đến đúng giờ mà sao thiên hạ tham dự đông
thế, tìm mãi mới có chỗ đậu xe. Buổi tiệc hôm nay không thấy quảng cáo trên
đài, trên báo mà sao thiên hạ bảo nhau đi đông thế. Chúng tôi vào trong thì các
bàn đã đông đủ mọi người chờ giờ khai mạc.

Chả thấy ai giới thiệu tự nhiên nhìn thấy ông Cha xuất hiện trên sân khấu cầm
micro tự giới thiệu linh mục Nguyễn-Bá-Thông, vợ tôi khèo vai tôi nói cha này
đấy làm tôi cũng phì cười. Cha còn trẻ khoảng 36, 37 tuổi là cùng. Cha xưng
“Con” với mọi người tham dự một cách tự nhiên.

Cha cho biết hôm nay tổ chức của Cha với Website onebodyvillage.com phối hợp
với Hopetoday.com tổ chức bữa tiệc gây quỹ để giúp cho những người con gái và
trẻ em bị bán vào các động mãi dâm ở vùng Đông Nam Á. Tổ chức này đã âm thầm
hoạt động từ năm 1998 và đã cứu được biết bao nhiêu người kể cả trẻ em từ các
động mãi dâm không phải cứu họ ra rồi để mặc họ muốn sống làm sao thì sống mà
lập ra những làng nhỏ để họ sống, trong đó dạy học, huấn nghệ hầu có một nghề
tự nuôi sống bản thân để sau này không quay về con đường cũ. Tổ chức đã thành
lập nhiều làng ở Singapore, Campuchia và ở Việt Nam. Những nạn nhân được cứu ra
thường mắc những bệnh xã hội được các bác sĩ ở bên Hoa Kỳ về bên ấy chữa bệnh
như bác sĩ Nguyễn Thanh Tâm mà họ âm thầm đóng góp cả công và của. Thật đáng
quí thay. Công việc của họ không bao giờ thấy họ lên đài tuyên bố này nọ.

Cha nói đưa ra những dẫn chứng lôi cuốn người nghe, mọi người chăm chú nghe cha
nói quên cả ăn, cuối cùng Cha nói thôi bây giờ con xin mời quý ông bà, cô bác
ăn đi đã chứ con chiếu những thước phim hay slide những cảnh con đã chứng kiến
thì quý vô bác ăn mất ngon. Cha liền báo nhà hàng đem đồ ăn ra. Đồ ăn đem lên
hết món này đến món khác ăn mệt nghỉ, tôi thấy nhà hàng cho ăn hậu hĩnh quá
liền ghé tai vợ tôi nói nhỏ “Mình mua có $25 một vé mà cho ăn như vầy thì
hết mẹ nó rồi còn đâu mà đóng góp gây quỹ.” Vợ tôi nói: “Anh đi kiếm
một cái bao thơ mình bỏ tiền vào đấy, ngoài phong bì đề dấu tên rồi đưa cho ban
tổ chức.” Tôi hỏi “Bao nhiêu?”  Vợ tôi dơ một ngón tay. Tôi
biết tôi phải làm gì rồi.

Trong lúc mọi người ăn tiệc có ca sĩ Tâm Đoan lên hát giúp vui 2 bài với sự
điều hành của cô Christine Sa sôi động, làm cho thực khách vui theo ngoài ra
cũng có một số thực khách lên giúp vui nữa,  đó là những người có tấm lòng
đáng quí.

Sau khi ăn xong, Cha lại lên bục nói cha nói chứ không giảng giáo lý, Cha nói
những trường hợp mà cha đã trải qua trong các ổ mãi dâm cha phải thay tên đổi
họ để trà trộn trong nơi chốn đó có khi giả làm người ngoại quốc như người
Singapore để nghe những người gái VN nói chuyện với nhau vì đâu họ ra nông nỗi
này. Phải vào tận hang ổ mới tìm ra đầu mối để đưa những tên đầu sỏ ra tòa.
Công việc của Cha làm rất là nguy hiểm mất mạng như chơi nhưng Cha có niềm tin
có ơn trên cứu giúp nên đã vượt qua mọi khó khăn nguy hiểm.

Sau đó Cha đã cho chiếu những thước phim chiếu những cảnh những em bé 5, 6 tuổi
bị bán vào các ổ mãi dâm bị hành xác như thế nào. 5, 6 tuổi biết cái gì? Để làm
vật vui chơi cho những kẻ bịnh hoạn. Nhìn những cảnh ấy không ai cầm được nước
mắt! Mọi người theo dõi trên màn ảnh cảnh tượng xảy ra như trong phim do một
đạo diễn tài ba dàn dựng không ngờ ngoài đời lại có những cảnh xót xa, đau đớn,
đốn mạt cùng cực như thế. Cả hội trường mấy trăm người im phăng phắc không một
tiếng động nhưng thỉnh thoảng cũng có tiếng nấc của một vài người không cầm
được lòng. Mặc dầu, buổi tiệc đã tàn từ lâu nhưng không ai muốn bỏ ra về trên
bục Cha vẫn nói, nói những điều mà Cha đã trải qua trong các động, phải cải
trang nhiều cách để không bị lộ một nhà tu đi trụy lạc nhưng cũng không tránh
khỏi những trận đòn thừa sống thiếu chết của những đường dây buôn bán người vì
chúng cho rằng người này không phải tay chơi thứ thiệt mà vào để lấy tin tức.

Sau đó có bác sĩ Thanh Tâm lên trình bày công tác y tế ở các làng mà tổ chức đã
thành lập ở Việt Nam, Campuchia, Lào và Singapore. Họ đã đến các trại chữa bệnh
cho các nạn nhân đã được cứu thoát ra từ các động, xây dựng họ có cuộc sống
lành mạnh để không trở về con đường cũ. Bác sĩ Thanh Tâm là chủ tịch  Hội
Đồng Quản Trị mà cha Thông là một trong chín thành viên.

Nói chung buổi tiệc gây quỹ rất thành công đã trình bày cho mọi người tham dự
biết được việc làm của tổ chức mà lâu nay ít ai được biết.

Buổi tiệc gây quỹ chỉ chấm dứt khi nhà hàng cho biết đến giờ đóng cửa, mọi
người ra về với tâm hồn nặng trĩu, thương cảm những nỗi bất hạnh của những
người con gái bị bán vào những đường dây làm nô lệ tình dục. Mình may mắn được
sống ở Mỹ có cuộc sống bình yên quá, đâu có biết các nơi trên thế giới còn có
những cảnh đáng thương như vừa rồi đã được cha Nguyễn Bá Thông cho biết chính
Cha suốt mười mấy năm nay đã lăn lộn vào sanh ra tử để cứu vớt những người lâm
vào hoàn cảnh bi đát. Cha, hay quá! Tôi tự nhủ bữa nào phải “phỏng
vấn” Cha mới được. Nói phỏng vấn cho oai chứ mình có phải nhà báo, nhà
truyền thông đâu mà đi phỏng vấn! Nhưng mà nhất định phải gặp Cha, nghe cha trò
truyện thêm.

Mấy ngày sau, tôi vào website và tìm ra được số phone của Cha Thông là số phone
này (706) 825-3032 nhưng liêc lạc mấy lần không được phúc đáp, chỉ nghe lời
nhắn là để lại tên và số phone sẽ gọi lại sau. Đợi mãi cũng không thấy Cha gọi
lại, cũng hơi thất vọng rồi cũng quên đi. Bẵng đi một thời gian hơi lâu vào một
ngày đẹp trời Cha gọi lại, ôi thật là sung sướng nỗi vui đến không sao kể xiết.
Cha cho biết mới ở Campuchia về. À, thì ra lúc mình gọi Cha ở nước ngoài làm
sao trả lời được.

– Thưa Cha, Cha đừng xin con với con tội chết.

– Chú là hàng Cha, hàng Chú con nhỏ tuổi phải xưng con mới phải phép.

– Thưa Cha con có đi tham dự buổi tiệc gây quỹ của cha ở nhà hàng Paracell, con
thấy việc làm của Cha con thích quá, con muốn viết một bài báo về Cha, Cha có
đồng ý không?

– Công việc của con cũng chưa được phổ biến lắm, nếu chú viết thì con cảm ơn
lắm.

– Thế bây giờ Cha có rảnh không, con muốn biết đôi điều về Cha.

– Rảnh, chú cứ hỏi.

– Trước hết Cha cho con biết một ít về thân thế của Cha.

– Bố là Sĩ Quan QLVNCH huấn luyện nhảy dù, cấp bậc Trung Tá. Mẹ nữ quân nhân.
Khi Sài Gòn mất vào tay Cộng sản thì bố mẹ đi vào tù trong lúc mẹ con mang thai
con mới một tháng. Ở tù được 8 tháng gần đến ngày sinh, thấy mẹ con ốm yếu,
kiệt sức sắp chết thì họ cho ra về để sanh. Bố con có nhắn ra nếu con gái thì
đặt tên là… và con trai đặt tên là Nguyễn Bá Thông nên bây giờ tên con là
Nguyễn Bá Thông dù đã vào quốc tịch Mỹ nhưng không đổi tên.

– Lúc sanh Cha ra chắc mẹ Cha gặp khó khăn lắm phải không?

– Dạ thưa đúng, sau này con được biết là mẹ con ở trong tù thiếu ăn nên kiệt
sức tưởng là chết ở trong trại nên Cộng sản phải cho mẹ ra ngoài nếu có chết
thì cũng đỡ mang tiếng. Mẹ con sanh con ra èo uột khó nuôi tưởng chết vì thiếu
sữa mẹ con phải ăn bobo thay sữa nên tướng con nhỏ thó không giống như cha con
tướng to lớn.

– Vâng con đã thấy Cha ở trên sân khấu, tướng nhỏ con, mặt búng ra sữa, dáng
thư sinh mà đã khoác áo Cha. Rồi sau đó thế nào, thưa Cha?

– Mẹ con con sống lây lất nay chỗ này, mai chỗ kia. Ba con đi tù sau mười mấy
năm mới được ra, sau đó có chương trình HO gia đình con đã được đi Mỹ. Vào Mỹ
05/02/93 HO15 và đến Chicago Illinois lúc đó con được 16 tuổi, học trung học.
Sau đại học 2 năm người bạn gái khuyên con đi tu, con nghe theo ghi tên vào
trường dòng đến ngày 5/6/2004 con được thụ phong linh mục và làm Phó Sứ cho 3
Giáo Sư các con chiên đoàn là người Mỹ. Con là người Á Châu đầu tiên và duy
nhất địa phận Savannah ở Georgia. Hiện giờ người bạn Mỹ hồi xưa khuyên con đi
tu đã ra bác sĩ sống gần bố mẹ con và săn sóc 2 cụ.

– Thưa Cha, Cha đã học ra Linh Mục sao không làm Mục Vụ mà lại tìm con đường
gai gốc mà đi?

– Ở VN con có thời gian sống trong nghèo đói nên con thông cảm nỗi bất hạnh của
những người cùng cảnh ngộ. Sang đến Mỹ khi thời gian học trung học con đến cùng
bạn bè vào ngày thứ 6 mỗi tuần nấu ăn cho người vô gia cư. Từ năm 1999, con
cùng các bạn đồng chí hướng về Campuchia sống với trẻ bụi đời mới phát hiện ra
có những tổ chức buôn bán trẻ em để làm nô lệ tình dục. Từ đó con bàn với anh
em làm sao cứu giúp những người đó ra khỏi các động. Cũng năm đó thay vì con đã
học y khoa một năm rồi con xin vào học trường dòng để con có rộng thì giờ theo
đuổi mục đích của con.

– Tổ chức của Cha đã cứu giúp được bao nhiêu người giải thoát ra từ các động?

– Ngày hôm nay có 583 em, cộng thêm 128 em trước đó nữa, số này chia ra làm mô
hình gia đình cứ từ 7 đến 12 em làm một nhóm rồi có bác sĩ đến chữa bệnh cho họ
và dạy cho họ một nghề thích nghi với năng khiếu của họ sau này ra khỏi trại có
1 nghề nuôi thân, không tìm đi vào đường cũ nữa. Tổ chức của con không có cứu
giúp họ ra rồi bỏ mặc họ sống ra sao thì ra mà còn giúp họ tìm một cuộc sống
mới. Các mô hình này rải đều khắp các nước Đông Nam Á không cứ ở VN.

– Việc cha ra vào VN, chính quyền sở tại có gây khó dễ cho Cha trong việc đi
đứng?

– Họ có nói thẳng với Cha vào VN không được làm chính trị, chỉ làm công tác
nhân đạo thôi.

– Cha làm công việc này có nguy hiểm không?

– Cá nhân bị các chính phủ bắt 14 lần và bị đánh thừa sống bán chết, có lần đổ
máu tai và một lần gẫy xương sườn bên trái. Đến năm 2008, tổ chức của con mới
ra công khai và có budget 150 ngàn của tư nhân. Tổ chức có mấy trăm anh em chỉ
mình con ra mặt vì nghĩ họ còn có gia đình, còn con không vướng bận gì nên con
chấp nhận mọi hiểm nguy.

– Động cơ nào thúc đẩy cha vào con đường này?

– Cũng do bốn câu thơ của cụ Phan Bội Châu

– Cha có thể cho biết bốn câu thơ như thế nào?

– “Sống tưởng công danh không tưởng nước

Sống lo phú quí chẳng lo đời

Sống mà như thế đừng nên sống

Sống tủi làm chi đứng chật trời.”

(Bốn câu thơ trên Cha đọc chỉ một lần tôi ghi vội không biết có đúng không, nếu
sai xin bỏ qua cho)

– Thưa Cha, gia đình có mỗi một người con mà Cha đi tu các cụ có phản đối
không?

– Không những không phản đối mà còn khuyến khích nữa.

– Ngoài ra có ai phản đối cha không?

– Có hôm nọ trên đài phát thanh ở Houston phỏng vấn con về tổ chức của con, sau
đó đài có cho thính giả gọi vào thì có một người gọi vào chửi con, nói xin lỗi
chú :”Đ.M Cha không đi giảng mà làm chuyện ruồi bu.” Con bị gọi 2 lần
bị chửi.

– Tội nghiệp Cha quá. Xin ơn trên phò trợ Cha. Con cảm ơn Cha nhiều đã dành ít
thì giờ cho con.

– Chào chú khi nào cần chú cứ gọi cho con.

– Kính Cha.

Nguyễn Kim Dục

Nguồn: Việt Báo

 

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Đời sống tu trì (21)

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Đời sống tu trì (21)

Đăng bởi lúc 2:15 Sáng 27

nguồn: Chuacuuthe.com

VRNs (27.01.2013) – Sàigòn

Đời sống tu trì

Ngày 21 tháng này, Giáo hội sẽ mừng lễ Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh: Giáo hội tưởng niệm và nêu cao gương mẫu cuộc đời tận hiến của Trinh nữ Maria cho Thiên Chúa. Từ giây phút đầu tiên cho đến hơi thở cuối cùng của đời Người, Đức Mẹ luôn luôn thuộc trọn về Chúa, sống cho Thiên Chúa và việc làm của Người đều hướng về Chúa. Người đón nhận tất cả nỗi thống khổ, thử thách, để sáng danh Chúa trên trời. Người đã hiến dâng dạ trinh khiết trong con đường khó nghèo và vâng phục để phụng sự Thiên Chúa và nhân loại. Lòng tin, lòng cậy và lòng mến chiếu rạng trong cả
cuộc đời Người.

Mẹ Maria đã để lại tấm gương tận hiến cho tất cả những ai dâng mình cho Chúa trong đời sống tu trì. Vì thế, nhân dịp lễ Mẹ về, chúng tôi muốn dành Nguyệt san tháng này, để nêu lên một vài khía cạnh của đời sống tu trì, ngõ hầu gây một mối thông cảm giữa anh chị em sống ngoài đời và những người sống trong tu viện.

Nói đến vấn đề tu trì,con người thế kỷ 20 chúng ta vẫn còn nhiều quan niệm lỗi thời. Có kẻ giàu trí tưởng tượng cho rằng tu viện là nơi nương nấu của những tâm hồn tan vỡ: Đi tu là tìm cái u tịch của chốn thánh để thoa dịu các vết thương lòng khi ai có ý
muốn đi tu, họ liền nghĩ đến một khối tình nào đã đổ vỡ.

Có người cho rằng đi tu chỉ vì số phận hẩm hiu, hết tương lai, bị đời từ chối. Họ tưởng rằng đau khổ thất bại là một yếu tố cần thiết của một ơn kêu gọi tu Dòng và chỉ cần đời đóng cửa là tu viện sẽ mở cửa.

Vẫn biết đôi khi nhờ thất bại con người sẽ mở mắt nhìn thấy những giá trị siêu nhiên và Thiên Chúa đại lượng sẽ lãnh nhận tất cả những gì người ta dâng với lòng thành, kể cả một cuộc đời tàn phế, nhưng nếu đi tu chỉ vì tàn phế, chắc rằng họ sẽ không ở lâu
trong tu viện.

Cũng không thiếu người nghĩ rằng đi tu là một lối thoát nợ đời, cũng êm đẹp: Ở đời, nhiều lo âu về tinh thần cũng như vật chất. Đã có gia đình, phải lo cho gia đình, phải thức khuya dậy sớm, phải đổ mồ hôi trán để nuôi vợ con. Còn người đi tu, chỉ một
thân một mình cơm áo mặc đã có nhà dòng lo, thoát khỏi mọi bận rộn, sống một
cuộc đời nhàn hạ, tâm hồn được bình an thoải mái.

Tất cả những quan niệm trên đều sai lạc: Đi tu không phải vì tâm hồn đã quá đau khổ, quá chán đời không thiết gì với cuộc sống, muốn chôn mình vào nơi thanh vắng để dễ than vắn thở dài. Đi tu cũng không phải vì số phận quá hẩm hiu, bị đời từ chối, không
làm ăn nên nỗi, phải nhờ chốn tu viện an thân lúc về già. Đi tu cũng không vì
hèn nhát, chỉ vì thoát nợ đời, khỏi bận rộn âu lo, khỏi phải chiến đấu.

Vậy thế nào là tu? Tu tức là sống cuộc đời tận hiến cho Chúa, bằng ba lời khấn khó nghèo, trinh khiết và vâng lời, để hoàn toàn tin yêu và phụng sự Chúa. Trên phương diện ba lời khấn khó nghèo, tinh khiết và vâng lời sẽ phân biệt đời sống tu trì với đời
sống ngoài đời. Trên phương diện nội tâm, đời sống tu trì cốt ở chỗ tận hiến
cho Chúa. Thiên Chúa là một bản vị mời gọi người ta đi đến chỗ sống thân mật
với một tình yêu độc nhất vô nhị là Người. trước tiếng gọi tha thiết, thầm kín,
huyền diệu của Thiên Chúa, con người đại độ trút bỏ lòng ham muốn của cải,
khoái lạc và tự do để bước vào con đường tu của ba lời khấn. Tiếng mời gọi ấy,
trong hết mọi chặng đường tu hành về sau, lại còn vang lên mãi, thúc giục từ bỏ
mỗi ngày một thêm, biến đời sống mình làm một của lễ cho Chúa.

Nhưng người tu sĩ chưa phải là thánh. Họ cũng còn là người với những tính xấu của họ, với những yếu đuối, những trượt ngã trên con đường tu thân. Bao lâu họ còn là người bấy lâu họ còn bị tiền tài danh vọng, khoái lạc, tự do tấn công họ. Và trong cuộc chiến đấu gay go ấy, người tu sĩ có lúc thắng có lúc bại. nhưng với ơn Chúa, họ chiến đấu mãi và mong một ngày kia cởi bỏ hẳn con người cũ, con người tội lỗi để luôn mặc
lấy con người mới là chính Chúa Giêsu. Lúc ấy con người và Thiên Chúa sẽ hợp
nhất hoàn toàn trong tình yêu bất diệt, cùng đích của đời sống tu trì.

Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp

Số 174-11/1963

EVA, CAIN, SA-UN THỜI HIỆN ĐẠI!

EVA, CAIN, SA-UN THỜI HIỆN ĐẠI!
Mở lại những trang đầu của sách Sáng Thế, người ta đọc và thấy những trang sách ghi lại tình cảm hết sức tốt đẹp giữa Thiên Chúa và con người.  Cứ chiều chiều, Thiên Chúa đến và đi dạo với hai ông bà trong vườn địa đàng.  Trong cuộc đi dạo ấy, ắt hẳn Thiên Chúa như người tình đến thỏ
thẻ, thủ thỉ với hai ông bà và hai ông bà cũng thỏ thẻ tâm sự với Chúa.
“Mối tình đầu” trong sách Sáng Thế Ký thật nên thơ.
“Mối tình đầu” đang triển nở một cách tốt đẹp bỗng dưng con rắn dữ xuất hiện.  Nó đã gieo
những lời ngon ngọt rằng khi ăn “trái ấy” vào thì ông bà sẽ bằng Thiên
Chúa.  Nhưng Khi ăn vào rồi thì sự thật lại khác.  Sự thật chính là
sự tan vỡ của mối tình đầu lãng mạn mà Thiên Chúa dành cho con người.  Eva
muốn bằng Thiên Chúa, muốn đẩy Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình nên bóp nghẹt
sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa bằng hành động hái trái cấm.
Tưởng chừng kinh nghiệm của hai ông bà nguyên tổ sẽ là kinh nghiệm quý báu cho con cháu.  Nhưng
không, trường hợp hai đứa con đầu lòng của ông bà đã đi theo vết xe cũ của cha
mẹ.  Không đơn giản như hai ông bà mà Cain đã cam tâm giết em mình là
Aben.  Cain và Aben là hai anh em ruột thịt hằng ngày vẫn yêu mến, hoà
thuận với nhau.  Thế rồi, sau khi thu hoạch hoa màu lợi tức, hai anh em
cùng nhau dâng của lễ đầu mùa lên Thiên Chúa.  Thiên Chúa nhận lễ vật của
Aben mà từ khước lễ vật của Cain.  Thế là từ đó, trong Cain phát sinh lòng
ghen tỵ.  Lòng ghen tị lớn dần lấn át cả tình anh em ruột thịt khiến Cain
dụ em ra đồng và xông vào đánh chết em mình.  Chính lòng ghen tị trong tâm
hồn Cain là nguyên nhân chính xui khiến anh giết chết Aben.
Một trường hợp tương tự khác là vua Sa-un và Đavít.
Thời ấy, Gô-li-át, một kiện tướng của quân Philitinh, một người khổng lồ có sức mạnh vô địch, khiêu chiến với quân Ít-ra-en.  Trong hàng ngũ quân Ít- ra-en, không ai dám đương đầu với tên khổng lồ ấy.  May thay, Đa-vít xuất hiện kịp thời.  Cậu dùng ná bắn lủng trán Gô-li-át, rồi
dùng chính gươm của y mà chặt đầu y.  Quân Ít-ra-en thừa thắng xông lên
như nước vỡ bờ, đánh tan quân địch không còn manh giáp.  Sau đó, phụ nữ từ
các thành Ít-ra-en tuôn ra các ngã đường chào mừng vua Sa-un chiến thắng và ca
tụng Đa-vít như vị anh hùng kiệt xuất: “Vua Sa-un giết được một ngàn, còn
Đa-vít giết được hàng vạn” (I Sm 18, 6-8).  Lời ca tụng đó làm cho
lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Sa-un.  Nhà vua tìm mọi cách tiêu diệt
Đa-vít và cuối cùng đem quân truy lùng tận những hang núi sâu, mưu toan tiêu
diệt vị anh hùng tài năng và dũng cảm này.
Eva, Cain, Sa-un vẫn vịn vào cái lý cái lẽ ác tâm sẵn có trong lòng mình để hại người công
chính.   Eva, Cain, Sa-un chỉ đăm đăm vào cái tôi của mình, vào lợi danh của mình mà quên đi tình Chúa – tình người.
Những bài học về Eva, Cain, Sa-un lẽ ra là bài học quý báu cho con người, nhưng ngày nay vẫn nổi lên quá nhiều khuôn mặt của Eva, Cain và Sa-un.  Điều đáng tiếc là dẫu cho có nhiều tiếng kêu ai oán về hành động giết người, nhưng ngày nay vẫn có quá nhiều khuôn mặt Eva, Cain và Sa-un thời hiện đại.  Eva, Cain và Sa-un vẫn cứ giả điếc làm ngơ để mặc cho sự dữ tiếp diễn để thoả mãn dục vọng
đen tối của mình.
Giả như Thiên Chúa xa lạ để Eva hành xử như thế thì cũng chẳng có gì để bàn nhưng Thiên Chúa
đã yêu thương hai ông bà hết mực.
Giả như Cain và Eben là người dưng nước lã để Cain giết Aben thì nhẹ tôi nhưng đàng này lại là
anh em cùng cha cùng mẹ.  Cain và Aben đã hơn một lần ăn chung, uống
chung, ngủ chung và thậm chí bú chung dòng sữa mẹ nhưng Cain đã quên đi mối
tình ruột thịt ấy.
Sa-un và Đavit cũng vậy.  Cả hai như là người một nhà vì sau khi thắng trận Sa-un đã gả
con gái lớn của vua cho Đavit.  Như một nhà, ấy vậy mà Sa-un đã ra tay sát hại Đavit.
Đứng trước sự ác, sự dữ lan tràn mặt đất như thế này chắc có lẽ không còn con đường nào khác
là con đường lặng thinh và cầu nguyện.  Tiếng kêu ai oán về tình Chúa – tình người, về lòng nhân hình như cứ như vô vọng trước những con người như Eva, Cain và Sa-un thời hiện đại.
Có thể ngày hôm nay người ta thiếu đời sống cầu nguyện, thiếu đời sống kết hợp mật thiết với
Chúa nên sự ác và sự dữ hoành hành một cách khốc liệt như thế này!  Cố lên
và cố lên!  Thêm một lời cầu nguyện cho Eva, cho Cain và cho Sa-un thời
hiện đại.  Biết đâu Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi lòng của những Eva, Cain
và Sa-un thời hiện đại.
Thanh Tâm

TÔN GIÁO NÀO TỐT NHẤT?

TÔN GIÁO NÀO TỐT NHẤT?

Trần Tiến sưu tầm

1/26/2013

Nguồn: Vietcatholic.net

Đây là một mẩu đối-thoại ngắn với Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma, nhà Thần-học người
Brazil, Leonardo Boff kể lại:

Tại một cuộc hội-thảo bàn tròn về “Tôn-giáo và tự-do” có Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma và tôi cùng tham-dự. Lúc tạm nghỉ, tôi hỏi ngài vừa tinh-nghịch vừa tò-mò “Thưa ngài, tôn-giáo nào tốt nhất? ”

Tôi nghĩ ngài sẽ nói: “Phật-giáo Tây-tạng” hoặc “Các tôn-giáo phương Đông, lâu
đời hơn Ki-tô giáo nhiều”.

Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma trầm-ngâm giây lát, mỉm cười và nhìn vào mắt tôi… Điều này
làm tôi ngạc-nhiên vì tôi biết đây là một câu hỏi ranh mãnh.

Ngài trả lời:

“Tôn-giáo tốt nhất là tôn-giáo đưa anh đến gần Đấng tối-cao nhất. Là
tôn-giáo biến anh thành con người tốt hơn”.

Để giấu sự bối-rối của tôi trước 1 câu trả-lời đầy khôn-ngoan như thế, tôi hỏi:
Cái gì làm tôi tốt hơn? ”

Ngài trả lời:

“Tất cả những gì làm anh

Biết thương-cảm hơn

Biết theo lẽ-phải hơn

Biết từ-bỏ hơn

Biết dịu-dàng hơn

Biết nhân-hậu hơn

Có trách-nhiệm hơn

Có đạo-đức hơn”.

“Tôn-giáo nào biến anh thành như-vậy là tôn-giáo tốt nhất”.

Tôi thinh-lặng giây lát, lòng đầy thán-phục, ngay cả bây giờ, khi nghĩ đến câu
trả-lời đầy khôn-ngoan và khó phản-bác, Ngài tiếp:

“Anh bạn tôi ơi!

Tôi không quan-tâm đến tôn-giáo của anh hoặc anh có ngoan-đạo hay không. Điều
thật-sự quan-trọng đối với tôi là cách cư-xử của anh đối-với người đồng-đẳng,
gia-đình, công-việc, cộng-đồng và đối-với thế-giới.

Hãy nhớ rằng vũ-trụ dội lại hành-động và tư-tưởng của chúng ta. Quy-luật của
hành-động (Action) và phản-ứng (Reaction) không chỉ dành riêng cho vật-lý. Nó
cũng được áp-dụng cho tương-quan con người.

Nếu tôi ở hiền, thì tôi gặp lành.

Nếu tôi gieo gió, thì tôi gặt bão.

Những gì ông bà nói với chúng ta là sự-thật thuần-túy. Chúng ta luôn nhận được
những gì chúng ta làm cho người khác. Hạnh-phúc không phải là vấn đề số-mệnh.
Đó là vấn-đề lựa-chọn.”

Cuối cùng ngài nói:

“Hãy suy-tư cẩn-thận vì Tư-tưởng sẽ biến-thành Lời-nói,

Hãy ăn-nói cẩn-thận vì Lời-nói sẽ biến-thành Hành-động,

Hãy hành-xử cẩn-thận vì Hành-động sẽ biến-thành Thói-quen,

Hãy chú-trọng Thói-quen vì chúng hình-thành Nhân-cách,

Hãy chú-trọng Nhân-cách vì nó hình-thành Số-mệnh,

Và Số-mệnh của anh sẽ là Cuộc-đời của anh.

… và …

“Không có Tôn-Giáo nào cao-trọng hơn Sự-Thật.”

Bên Thắng/Bên Thua & Những Bức Tường Lòng

Bên Thắng/Bên Thua & Những Bức Tường Lòng

01/24/2013                                       nguồn: RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Người Nga có câu ngạn ngữ là nếu thiếu chó chăn, loài cừu không trở nên bầy đàn được. Cái khó của những cộng đồng người Việt hải ngoại là họ có dư loại chó này. Ðã thế, phần lớn, đều là … chó dại!

Khi còn bị phân chia bởi bức tường Bá Linh, dân Ðức hay kể câu chuyện hài này:

Có một con chó chui tường từ Ðông sang Tây. Thấy khách lạ nên lũ chó bên Tây Ðức xúm xít và tíu tít hỏi thăm:

– Bên ấy có hội bảo vệ súc vật không?

– Có chứ.

– Có bác sĩ thú y không?

– Có luôn.

– Có thẩm mỹ viện và nghĩa trang dành riêng cho chó không?

– Có tuốt.

– Thế thì việc gì đằng ấy phải vất vả chui tường sang đây?

– Tại vì ở bển bị cấm được cho …sủa!

Tháng 9 năm 1989, bức tường Bá Linh bị đập đổ. Ðông Ðức được giải phóng. Từ đây, người dân được quyền ăn nói tự do, và chó có quyền… được sủa.

Sự thống nhất nước Ðức về thể chế, cũng như về nhân tâm, tuy không phải là một tiến trình toàn hảo nhưng có thể được coi như là ổn thỏa – ngoại trừ đối với một số người. Họ là những di dân đến từ Việt Nam, theo như tường thuật của Alisa Roth:

“Người Việt vẫn đang là nhóm Á Châu lớn nhất tại thành phố Bá Linh. Những nguời được mệnh danh là Người Việt miền Tây là những người miền nam Việt Nam, hầu hết là thuyền nhân mà trong những năm tiếp theo chiến thắng 1975 của cộng sản, họ đã đổ đến những vùng bây giờ là Tây Ðức.”

“Còn nguời Việt miền Ðông là những nguời đến Ðông Ðức vào thập niên 1960 và 1970 cùng với các công nhân xuất khẩu từ những quốc gia cộng sản đang phát triển tới làm việc trong các nhà máy…”

“… Cái cộng đồng nhỏ bé này hãy còn duy trì sự chia cắt với hai thế giới, hai phương trời cách biệt. Những ý thức hệ – từng xé nát nước Ðức và nước Việt Nam ra làm đôi – hiện vẫn còn luân lưu mạnh mẽ tại nơi đây…”

Nó “mạnh mẽ” tới độ khiến một người dân bản xứ phải thốt lên rằng:”Bức tường Bá Linh nằm trong đầu óc của người Việt miền Ðông với người Việt miền Tây còn cao hơn cả bức tường của người dân Ðức đối với người dân Ðức.” (“Berlin’s Divide
Lingers For Vietnamese Expatriates Capital’s East – West Gap Reflects Cold War
Past,” San Jose Mercury News, 12 Jul. 2002:A1/ Việt Mercury 12 Jul. 2002:
1 + 69. Trans. Nguyễn Bá Trạc”).

Nói như thế, nghe đã phũ phàng nhưng  (vẫn) chưa …hết ý! Trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn của Nguyễn Gia Kiểng – ấn bản 2001, Paris, nơi trang 70 – tác giả còn trích dẫn nhận xét của một người ngoại quốc khác về dân Việt, như thế này đây: “Ils ne s’aiment pas” (Chúng nó không ưa nhau đâu).

Cha nội Parisien nào đó nói bậy bạ vậy mà …trúng phóc. Những phương tiện truyền thông và giao thông của thời hiện đại quả có làm cho trái đất nhỏ lại, và khiến cho loài người gần gũi với nhau hơn. Nhưng riêng với với dân Việt thì không. Nhất định là không.

Người ngoài có vẻ “hơi” ngạc nhiên về thái độ “rất kém thân thiện” của dân Việt đối với nhau, trên bước đường lưu lạc. Họ sẽ ngạc nhiên chết (mẹ) luôn nếu biết rằng những “bức tường ô nhục” tương tự hiển hiện khắp chốn, kể cả ở Việt Nam,
chứ chả riêng chi ở Berlin.

Dù đất nước đã “thống nhất” hơn một phần tư thế kỷ, dân chúng giữa hai miền Nam/Bắc Việt Nam (rõ ràng)  vẫn chưa gần nhau mấy. Đôi lúc, họ ăn ở cư xử với nhau cứ y như những kẻ phải sống trong một cuộc hôn nhân … cưỡng bách.

Theo “truyền thống,” người Việt hay chia phe và họ thường nhìn nhau qua những “lỗ châu mai” từ những “pháo đài” của … phe mình. Họ hay gọi nhau là “tụi
này” hay “tụi nọ” (tụi Công Giáo, tụi Phật Giáo, tụi Nam Kỳ, tụi Bắc Kỳ, tụi Trung Kỳ …). Gần đây, có thêm một “tụi mới” nữa – tụi thuộc … phe thắng cuộc!

Và đó mới chỉ là những chuyện nhỏ, ở miền xuôi. Ở miền ngược, miền núi, hay còn gọi là miền cao, miền sơn cước (hoặc cao nguyên) thì còn nhiều chuyện … kỳ cục dữ nữa. Nơi đây, một phần dân tộc Việt vẫn chưa được nhìn nhận là người thường hay người Thượng. Họ bị coi là … “tụi mọi” và bị chính đồng bào mình (toa rập với cường quyền) cướp đoạt hết đất đai canh tác.

Nghèo đói quá hoá “sảng” chăng? Khổ cực quá, cùng quẫn quá, bị chèn ép quá nên đâm ra gấu ó, cấu xé lẫn nhau chăng? Không hẳn đã thế đâu.

Tại nước Ðức, ngay giữa một thành phố tự do và phú túc, “bức tường Bá Linh nằm trong đầu óc của người Việt miền Ðông với người Việt miền Tây (vẫn) còn cao hơn bức tường của người dân Ðức  đối với người dân Ðức” mà. Hơn nữa, như đã thưa, những bức tường lòng (ô nhục) tương tự hiển hiện ở khắp nơi chứ đâu có riêng chi ở Berlin.

Nơi đâu có người Việt quần tụ là tức khắc nẩy sinh những chuyện  đố kỵ, chia cách, phân hoá, và đánh phá lẫn nhau túi bụi. Mỗi cộng đồng vẫn thường cần đến hơn một ban đại diện (dù tất cả những ban đại diện “dường như” không đại diện được cho bất cứ ai và cũng không mấy ai – thực sự- cần người đại diện)

Tương tự, mỗi hội đoàn đều có tới hai hay ba ông (bà) chủ tịch, dù cả hội đoàn đều không mấy ai biết rõ là họ hội họp lại với nhau để làm gì. Mọi tổ chức (không chóng thì chầy) nếu không vỡ tan tành thì cũng bể thành vài mảnh!

Người Nga có câu ngạn ngữ là nếu thiếu chó chăn, loài cừu không trở nên bầy đàn được. Cái khó của những cộng đồng người Việt hải ngoại là họ có dư loại chó này. Ðã thế, phần lớn, đều là … chó dại!

“Sự kiện vô vàn phi lý, cực độ vô nghĩa, và bất lợi không lường này, đang diễn tiến kết thành hiện tượng phân hoá hỗn loạn, phân liệt khắc nghiệt, chia rẽ trầm trọng giữa những cá nhân, nhóm cá nhân, cộng đồng người Việt ” (Phan Nhật Nam, “Lời Khẩn Thiết Nhằm Chấm Dứt Hiện Tượng Phân Hoá”).Cũng theo tác giả bài báo vừa dẫn thì Cục Tình Báo Hải Ngoại, trực thuộc Ban Tổ Chức Trung Ương Ðảng Cộng Sản Hà Nội, là nguyên nhân gây ra những hiện tượng phân hoá tiêu cực kể trên.

Những nhân viên của Cục Tình Báo Hải Ngoại e không tài ba đến thế. Chợ chiều rồi. Chúng nó (nếu có) cũng chỉ lo đánh quả mà thôi và chuẩn bị để chạy thôi.

Thủ phạm không đến từ bên ngoài. Chúng phục sẵn trong “thâm tâm” của tất cả chúng ta.

Khi còn nhỏ, tôi nhớ là đã đọc ở đâu đó – qua lời kể của Schopenhauer – một câu chuyện ngụ ngôn mà nội dung (đaị khái) như sau:

Có một mùa Ðông lạnh đến độ muốn tồn tại muôn loài đều phải xích lại thật gần nhau để truyền cho nhau hơi ấm. Chỉ riêng có loài nhím vì lông quá nhiều, quá nhọn và không cách nào thu lại được nên đành … chờ chết!

Dân Việt đang trải qua một mùa Ðông khắc nghiệt. Nếu chúng ta không vượt qua được những bức tường lòng hiện hữu, không xếp lại được những lông nhọn tua tủa tự mỗi người, và mọi phe nhóm đều nhất định “tử thủ” trong pháo đài của riêng mình thì (e) khó mà qua khỏi đuợc cơn quốc nạn này. Vấn đề không phải là mùa Ðông sẽ kéo dài vô tận mà vì đất nước (cũng như lòng người) sẽ bầm dập, te tua, tan nát, và tanh bành – sau đó.

Trở về cát bụi 2

Ta Cứ Tưởng Trần Gian Là Cõi Thật

Thế Cho Nên Tất Bật Đến Bây Giờ !

Ta Cứ Ngỡ Xuống Trần Chơi Một Chốc

Nào Ngờ Đâu Ở Mãi Đến Hôm Nay !

 

Trở về cát bụi 2

 

Bạn thân ơi! Có bao giờ bạn nghĩ

Cuộc đời này chỉ tạm bợ mà thôi

Anh và tôi giàu sang hay nghèo khổ

Khi trở về cát bụi cũng trắng tay

Cuộc đời ta phù du như cát bụi

Sống hôm nay và đâu biết ngày mai

Dù đời ta có dài hay ngắn ngủi

Rồi cũng về với cát bụi mà thôi

Thì người ơi! Xin đừng ganh đừng ghét

Đừng hận thù tranh chấp với một ai

Hãy vui sống với tháng ngày ta có

Giữ cho nhau những giây phút tươi vui

Khi ra đi cũng không còn nuối tiếc

Vì đời ta đã sống trọn kiếp người

Với tất cả tấm lòng thành thương mến

Đến mọi người xa lạ cũng như quen

Ta là cát ta sẽ về với bụi

Trả trần gian những cay đắng muộn phiền

Hồn ta sẽ về nơi cao xanh ấy

Không còn buồn lo lắng chốn trần ai.

Nguyễn thi Lan gởi

 

25 Mùa Xuân… sống đời tận hiến với người bệnh phong

 
 
25 Mùa Xuân… sống đời tận hiến với người bệnh phong

Triều Dương
 
1/25/2013
 
Nguồn: Vietcatholic.net
 
Bỏ sau lưng cái tấp nập của Hà  Nội, tôi về thăm Bệnh viện Phong và Da liễu Bắc Ninh hay người ta vẫn quen  gọi là trại phong Quả Cảm vào một buổi chiều đông khi những cơn gió lạnh từ  phía Bắc vẫn dồn dập kéo nhau bay về. Không mặc chiếc áo của nữ tu mà thay vào  đó là chiếc áo blouse, cô Nguyễn Thị Xuân tiếp chúng tôi trong căn phòng  khách rộng chừng mười hai mét vuông bằng những câu chuyện nghe như truyện cổ  tích.

Xem hình ảnh

1. Nữ tu đến từ “hành tinh lạ”

Nằm cách trung tâm thành phố Bắc Ninh chừng 5km, Bệnh viện Phong và Da liễu  Bắc Ninh có diện tích khoảng 2ha tọa lạc trên mấy ngọn đồi thuộc xã Hòa Long  (Yên Phong, Bắc Ninh). Có cảm giác không gian ở đây như đặc sánh lại khi bước  chân vào khu nhà an dưỡng của các bệnh nhân. Vẻ u tịch càng tăng lên, vài dãy  nhà cấp bốn nằm lọt thỏm giữa những bóng cây xanh lá dù đang độ giữa đông .  Ngôi nhà thờ đổ nát trên đỉnh đồi giống như số phận của những bệnh nhân phong  nơi đây với chứng tích đau thương nhưng niềm tin vẫn luôn rực sáng.

Trại phong Quả Cảm (sau này được đổi tên thành Bệnh viện Phong và Da liễu Bắc  Ninh) được một linh mục ở tòa giám mục Bắc Ninh thành lập năm 1913, nhưng từ  năm 1954 đến nay nhà nước đã trưng thu và quản lý. Hiện nay, trại phong Quả  Cảm có hơn 100 thành viên, đa số họ là bệnh nhân đã khỏi bệnh nhưng vẫn còn  mang di chứng bệnh phong và con em của các bệnh nhân. Qua mấy chục năm trời  tồn tại, nơi đây là mái nhà chung cho những số phận không lành lặn.

Những người dân trong ngôi làng lạ này cho biết, kể từ năm 1954 khi nhà nước
quản lý thì gần như không có người lui đến đây thăm nom những người bệnh
ngoại trừ một vài y tá được cử đến. Trong thời gian chiến tranh, những người
có số phận không may ở nơi đây rơi vào cảnh cô độc. Cái bệnh cái tật không
đau đớn, không sợ hãi bằng nỗi cô độc. Họ như bị cách ly khỏi thế giới bên
ngoài, tự lao động để nuôi sống bản thân và chiến đấu với bệnh tật. Trại
phong Quả Cảm trở thành một nơi “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Dường như cả thế giới đã quên lãng những số phận bất hạnh đang âm thầm chịu đựng cả nỗi  đau thể xác và tinh thần.

Thế nhưng niềm vui đã trở lại khi năm 1988, tòa giám mục Bắc Ninh đã gửi cô
Nguyễn Thị Xuân một nữ tu thuộc tu hội Đức Mẹ Hiệp Nhất đến sống và phục vụ  các bệnh nhân. Ông Tâm – trưởng trại phong bồi hồi kể lại: “ngày đầu khi sơ  Xuân đến đây, mọi người trong này ngạc nhiên lắm, cứ tưởng cô là người đến từ  “hành tinh lạ” nào đó. Mấy chục năm không có ai quan tâm nay tự nhiên lại có  người bình thường đến ở cùng, sống ùng, ăn cùng, làm cùng ai mà không bất  ngờ, không vui sao được.

Kể từ đó đến nay thấm thoát đã hơn 20 năm trôi qua, mái tóc xanh ngày nào của  cô Xuân mà có người vẫn gọi là sơ Xuân đã điểm bạc. Nhưng với tình yêu
thương, bác ái, người nữ tu đến từ “hành tinh lạ” vẫn đang miệt mài, nỗ lực
để giúp cho những con người không được lành lặn về thể xác được lành lặn về
tinh thần.

2. Nữ tu khoác áo blouse

Sinh năm 1957 trong một gia đình Công giáo đạo đức thuộc giáo xứ Xuân Hòa ( xã Đại Xuân, huyện Quế Võ – Bắc Ninh) Nguyễn Thị Xuân đã thừa hướng một tài  sản Đức tin quý giá và tình yêu thương con người. Là chị cả của một gia đình  có 5 chị em, cha mẹ lại mất sớm nên Xuân phải nghỉ học đi làm chắt chiu từng  đồng để nuôi dạy các em. Ban ngày đi làm đồng cho hợp tác, tối về Xuân lại  tất bật ngồi đan lát kiếm thêm thu nhập.

Khi đương thời thiếu nữ có bao người theo đuổi nhưng Xuân không lấy chồng mà  quyết tâm theo con đường tận hiến. Đây là một bước ngoặt cực kỳ quan trọng và  chứa đầy mạo hiểm của cô Xuân bởi sự quản lý gắt gao về tôn giáo nên những ngày đó muốn đi tu cũng không phải là dễ. Trước những khó khăn thời cuộc, Đức  cố Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đình Tùng đã thành lập Tu Hội Hiệp Nhất Bắc Ninh  trong âm thầm nhằm quy tụ những chị em muốn sống tận hiến ngay giữa đời  thường. Xuân đã tìm hiểu và xin ra nhập vào Tu Hội đồng thời vào làm cô nuôi  dạy trẻ của một trường mầm non trong xã với tinh thần “làm tông đồ ở ngay  giữa đời”.

Trong thời gian này, cô Xuân đọc được một cuốn sách viết về một linh mục người  Pháp đã tự nguyện lên Di Linh (Lâm Đồng) chăm sóc những người dân tộc bị bệnh phong. Gấp cuốn sách lại, ở Xuân lại mở ra bao nhiêu suy tư trăn trở: “Cha ấy là người nước ngoài mà còn có tấm lòng với người Việt, còn mình
đã làm được gì cho những người có chung dòng máu chưa?”.

Năm 1987, sau khi đi thăm người bệnh tại Trại phong Di Linh, Lâm Đồng, tận
mắt chứng kiến cuộc sống của những người bị căn bệnh quái ác hành hạ khổ sở, tàn phế, đến mức nhiều người thân trong gia đình còn phải lánh xa. Ấy vậy mà  có nhiều chị nhà tu tự nguyện đến đây chăm sóc cho họ còn hơn cả người thân  trong gia đình khiến cô Xuân không khỏi xúc động.

Trở về nhà mang theo bao nỗi băn khoăn, cô Xuân đã nhiều lần đắn đo suy nghĩ. Năm 1988, cô tự nguyện xin Bề trên đến phục vụ trong trại phong. Ban đầu khi vừa nghe đề nghị của cô, Bề trên phải hỏi đi hỏi lại một cách chắc chắn. Rời xa công việc nuôi dậy trẻ, cô Xuân đến với trại phong. Những ngày đầu đến đây cô không khỏi ngỡ ngàng trước cuộc sống của những mảnh đời kém may mắn. Vượt qua những mặc cảm, cô Xuân đã sống cùng, ăn cùng và làm cùng họ. Cô chia sẻ những đắng cay ngọt bùi, những vui buồn trong cuộc sống với mọi người trong cả làng phong nhất là những người có chung đức tin với cô.

Cô Xuân xúc động kể lại: “Những ngày đầu đến đây khó khăn lắm, có nhiều người coi mình như người từ hành tinh lạ lạc đến. Dần dần họ cũng quen với sự có mặt của mình, và tất cả đã hòa nhập thành một gia đình. Cũng chẳng biết tự
khi nào mình đã coi đây là ngôi nhà thứ hai.”

Ở trại phong này vừa phải chăm sóc cho những số phận không may vừa phải giữ trọn vẹn đời sống tu trì quả là việc không dễ, nhưng đối với cô Xuân chăm sóc những người trong ngôi làng đặc biệt này cũng chính là động lực giúp cô sống trọn đời tận hiến. Ở đây người ta ít khi thấy cô Xuân mặc áo của một nữ tu. Có lẽ, chỉ khi nào đi cầu nguyện, cô Xuân mới mặc nó. Điều đó không phải do cô đã quên mình là một nữ tu mà chính chiếc áo nữ tu đã hóa thân vào chiếc áo blue mà cô vẫn đang mặc thường ngày.

2. Nữ tu trở thành “kỹ sư” sản xuất tay chân giả

…Một năm sau ngày tự nguyện đến đây, cô Xuân được gửi đi học tại Trại phong Quy Hòa (Quy Nhơn, Bình Định). Khi trở lại Bắc Ninh, công việc chủ yếu của cô là cấp phát thuốc cho các bệnh nhân. Nhận thấy đây là một công việc tốt nhưng chưa trực tiếp giúp đỡ được nhiều cho các bệnh nhân nên cô Xuân đã xin được trở lại vị trí hộ lý trước đây.

Lúc ấy, chuyện đi lại, sinh hoạt bình thường đối với bệnh nhân phong trở
thành một ước mơ xa xỉ. Con vi khuẩn Hansen tàn ác ăn mòn từ ngón tay, ngón chân cho đến bàn tay, bàn chân, ăn sang cả khủy tay, cẳng chân… Khổ nhất là những người bị vi khuẩn ăn đến đầu gối. Có người bị vi khuẩn ăn mất một chân, có người mất cả hai.

Không chịu khuất phục số phận, “cái khó ắt ló cái khôn” những bệnh nhân cụt
chân mày mò và nghĩ ra cách gò miếng tôn thành hình trụ, rồi độn lớp giẻ lên
trên, lắp vào chân để di chuyển. Tuy có nhúc nhắc đi lại được, song người
bệnh đau đớn vô cùng, chỗ tiếp xúc giữa chân với ống tôn sắc nhọn cứ loét
dần, máu rỉ ra thấm đầy vào rẻ.

Chứng kiến trực tiếp nỗi đau của bệnh nhân phong, cô Xuân không cầm nổi nước mắt. Dù gắn bó với bệnh nhân chưa lâu, song cô Xuân đã coi họ như những người thân trong gia đình mình. Họ đau cô cũng đau chẳng kém. Đêm đêm không ngủ được cô lại ngồi cầu nguyện xin Chúa soi sáng giúp cô có thể làm được việc gì đó để giảm bớt nỗi đau cho họ. Qua sự giới thiệu của bề trên về một trại phong trong Nam, người ta có thể tự sản xuất được dụng cụ sinh hoạt cho người bệnh rất tốt. Thế là năm 1992, cô Xuân lẽo đẽo một thân, một mình lên đường đi học nghề làm tay chân giả cho bệnh nhân phong.

Học hành xong xuôi, cô Xuân lại cơm đùm cơm nắm trở ra Bắc. Một nhà xưởng nho nhỏ được mở ngay trong Trại phong để cô Xuân hiện thực hóa mong ước của mình. Cô bảo, để uốn được một thanh nhôm vừa với chân người bệnh thì phải dồn tất cả tâm huyết vào đó, coi làm cho người cũng như làm cho mình. Lúc đầu, cô cũng phải nếm trải nhiều thất bại. Chân giả làm xong tới lúc thử thì không vừa chân người bệnh. Vậy là bao công sức lại đổ xuống sông, xuống biển; không nản chí cô Xuân tiếp tục mày mò suy ngẫm, cải tiến cách làm. Quả thực, thành công không bao giờ từ chỗi những người nhiệt tâm, tận lực.

Bao năm trôi qua, cô Xuân đã miệt mài làm việc không kể ngày đêm, mưa nắng vì lòng mến Chúa yêu người. Cô chia sẻ: “bất cứ khi nào ý tưởng vụt lóe lên trong đầu, thì tôi phải chạy lên xưởng thực hành ngay, không thì sợ lúc sau
quên mất”. Chính đời sống tận hiến phục vụ của cô Xuân giữa trại phong
Quả Cảm đã thành một nhân chứng Đức tin sống động cho Tin mừng Phục Sinh và có nhiều người đã xin theo Chúa.

Thời gian thấm thoát hơn 20 năm đã trôi qua, cô Xuân đã nỗ lực làm việc không phải vì những đồng lương nhỏ bé mà vì tình yêu vĩ đại dành cho những số phận không may mắn. Bởi thế mà giờ dù đã ở tuổi nghỉ hưu nhưng nữ tu Nguyễn Thị Xuân vẫn tình nguyện ở lại phục vụ bệnh nhân phong và tiếp tục đảm nhận công việc sản xuất tay giả, chân giả, các dụng cụ sinh hoạt… cho hơn 100 bệnh nhân phong ở đây. Các bệnh nhân đã dành tặng cho cô danh hiệu “người có bàn tay vàng”

Cũng qua tay “bà mối” Xuân nhiều gia đình đã hình thành và tràn ngập hạnh
phúc tại nơi từng được mệnh danh là “miền đất chết” này. Dẫu còn
gặp vô vàn khó khăn, sóng gió, song Quả Cảm đang trở thành một đại gia đình
đầm ấm. Đó cũng là niềm vui, niềm hạnh phúc của nữ tu kiêm “kỹ sư”
Nguyễn Thị Xuân.

Con đường tận hiến của cô Xuân thật đáng khâm phục. Cô vẫn làm việc âm thầm lặng lẽ với niềm tin yêu mãnh liệt. Chính sự hy sinh miệt mài ấy đã trở nên Men, nên Muối cho đời và bừng sáng niềm hy vọng nơi những người có số phận không lành lặn. Như cái tên của mình, người nữ tu ấy đã đem đến Quả Cảm 25 mùa Xuân ấm nồng với những chồi non xanh ngát để băng qua những mùa đông lạnh lẽo tưởng như có lúc ngủ vùi trong quên lãng.

Bắc Ninh, ngày 12 tháng 01 năm 2013

 

‘Ba năm trong nhà xác vì khiếu kiện’

‘Ba năm trong nhà xác vì khiếu kiện’

thứ bảy, 26 tháng 1, 2013

nguồn: BBC

Bà Trần Khánh Hà cương quyết đi kiện vì chồng

Bà Trần Khánh Hà cương quyết đi kiện vì chồng

Một phụ nữ Trung Quốc, đi khiếu kiện vì chính quyền hành hạ chồng bà ở một trại lao động, đã bị giam suốt ba năm trong một nhà xác bỏ hoang, theo truyền thông Trung Quốc.

Bà Trần Khánh Hà đã phải sống trong trại cải tạo 18 tháng, nhưng không khuất phục và sau đó chính quyền đã đưa bà vào nhà xác.

Tin tức về vụ này ở tỉnh Hắc Long Giang khiến các mạng xã hội tranh cãi và phẫn uất.

Bà Trần được nói là ở trong tình trạng sức khỏe kém.

Theo các phóng viên, có thể vụ việc sẽ được xem lại sau khi một ủy ban điều tra cấp thành phố được thành lập để xem xét vụ việc.

Mấy tuần qua, có tin đồn chính quyền Trung Quốc có thể cải cách hệ thống lao động cải tạo.

Đau khổ của bà Trần bắt đầu năm 2003 khi chồng bà bị giam vì định phá vỡ cách ly trong trận dịch Sars, theo tờ Global Times.

Sau khi được tự do, sức khỏe của ông, cả thể chất và tâm thần, xuống tới mức mà bà Trần quyết định phải lên thủ đô để khiếu kiện.

Việc này đã khiến bà bị tống vào trại cải tạo 18 tháng.

Sau khi thụ án, bà lại bị giữ trong nhà xác vì vẫn muốn tiếp tục đi kiện.

Có tin nói nay bà được tiếp xúc hạn chế với thân nhân.

Theo báo Global Times, chồng bà được nhập viện để chữa bệnh tâm thần.