Những nàng Phong lan hoang lạ

Những nàng Phong lan hoang lạ

Họ lan (Orchidaceae) là một họ thực  vật có hoa, thuộc bộ Măng tây (Asparagales). Lan là một trong những họ lớn nhất của thực vật và có mặt hầu như khắp nơi trên hành tinh này. Có loài sống dưới mặt đất và chỉ nở hoa trên mặt đất, có loài sống ở những vùng núi cao, rừng sâu. Lan có thể sống ở các vùng có khí hậu nhiệt đới đến các vùng tuyết phủ giá băng. Lan chủ yếu sống trên thân cây và thường được gọi là Phong lan. Một số loài sống ở mặt đất (Địa lan) và trên các vách đá (Thạch lan).

Anh Nguyễn v. Thập gởi

TÂN XUÂN CHÚC LÀNH

TÂN XUÂN CHÚC LÀNH

 

“Chúa là sức mạnh, là khiên mộc


chở che tôi, lòng tôi đặt tin tưởng nơi Ngài.”

(Thánh Vịnh 28:7)

 

Tân Xuân nguyện Chúa chúc lành


Thánh ân huyền nhiệm Ngài dành cho ta


Tình Trời bát ngát bao la


Phàm hèn đất bụi tụng ca tháng ngày


Mong sao luôn được vơi đầy


Sống vui bác ái lời Thầy dẫn đưa


Cuộc đời sáng nắng chiều mưa

Vô thường cõi tạm dây dưa thêm phiền


Dâng Cha chí ái nhân hiền


Mừng Năm Quý Tỵ khắp miền Quê Hương


Đoàn chiên yên hưởng náu nương


Tri ân Thượng Đế thơm hương Vĩnh Hằng!

 

* Nguyễn Sông Núi

(Tv Thánh Gioan Neumann, Dallas, TX, Feb. 6, 2013)


——————————————————–

CHÚC LÀNH

 

Cám ơn Bn đã đc thư

Mong luôn hnh phúc tâm tư vơi đy

Sng theo giáo hun ca Thy

Ri ta s được tháng ngày bình an

Tình Ngài bát ngát cha chan

Phàm hèn cm t mênh mang tâm hn!

*Joseph Nguyễn Thanh Sơn, DCCT

(Tv Thánh Gioan Neumann, Dallas, TX, Feb. 6, 2013)

 

Bạn đặc biệt và là duy nhất!

Bạn đặc biệt và là duy nhất!

haimuoido

Một diễn giả nổi tiếng bắt đầu cuộc nói chuyện bằng một tờ 20 đô la trên tay.

Trong khán phòng lúc này có hơn 200 người khách, ông giơ tờ tiền lên và hỏi:

“Ai muốn có tờ 20 đô la này?”

Những cánh tay lần lượt giơ lên.

Người diễn giả nói tiếp:

“Tôi sẽ đưa tờ tiền này cho một trong số các vị, nhưng trước tiên, tôi muốn làm một việc”.

Ông liền vò nát tờ tiền, rồi lại hỏi:

“Ai vẫn muốn nó nào?”, vẫn có những cánh tay đồng ý. Ông hỏi tiếp: “Vậy thì, nếu như tôi làm thế này…”, diễn giả quăng tờ tiền xuống đất rồi dùng chân mình giẫm và nghiền nó.

Sau đó, ông nhặt lên, lúc này tờ tiền đã trở nên nhàu nát và dơ bẩn.

Ông lại hỏi: “Bây giờ, ai vẫn muốn nó?”, vẫn có những cánh tay giơ lên.

Ông nói:

Các bạn thân mến, vừa rồi các bạn đã có được một bài học rất giá trị. Những hành động tôi đã làm với tờ tiền đều không quan trọng, bạn vẫn muốn có nó vì nó không hề giảm giá trị, nó vẫn có trị giá 20 đô la.”

Tất cả những gì tôi muốn các bạn biết là trên cuộc đời này, có không ít lần chúng ta bị chà đạp, bị coi thường, bị cho là những hạt cát nhỏ bé.

Lúc đó, ta cảm thấy mình thật vô dụng, nhưng đừng bận tâm đến những điều đã và sẽ xảy ra với bạn bởi trong bất cứ hoàn cảnh nào, không bao giờ bạn mất đi những giá trị đích thực của con người mình. “Giàu hay nghèo, sang hay hèn, nhàu nát hay phẳng phiu thì bạn vẫn luôn ‘có giá’ với những người thân yêu. Giá trị cuộc sống
không phải ở cái ta đã làm, những gì ta biết, mà là ở việc chúng ta là ai. Và
xin đừng bao giờ quên một điều:

Bạn đặc biệt và là duy nhất!

H.A (Dịch từ Inspirationpeak)

Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ Năm Thường niên

Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ Năm
Thường niên Năm C 10-02-2013

Trần Ngọc Mười Hai

nguồn:Vietcatholic.net

 

2/7/2013

“Em thường hay ước mơ”

“Mơ người yêu lý tưởng.

Với vẻ hào hoa lắm nét kiêu hùng,

điểm chút phong sương.”

(Y Vân – Tình Yêu Lý Tưởng)

(Mt 23: 11)

Ước mơ của bần đạo, hồi đó, rất lý tưởng. Lý tưởng, không chỉ vì Tình Yêu Thiên
Chúa rất trừu tượng, mà còn là tình yêu hiện rõ nơi mọi người. Chí ít, là người
ít tiền, ít của, ít cả tham vọng nữa. Tham vọng, mà làm gì khi các nhân vật mà
người Hoa bên Trung Quốc vẫn cứ ước và cứ mơ chỉ là Lưu Bang, Tần Thuỷ Hoàng,
Mao Trạch đông, vv… nay đi vào chốn quên lãng, rất chê bai.

Nhớ về “Tình Yêu Lý Tưởng” có ước và mơ, bần đạo lại nhớ về chuyến “tư du”
Trung Quốc đầu niên lịch 2013 có khá nhiều điều buồn/vui lẫn lộn. Điều vui buồn
đáng nhớ hôm ấy, là khi bần đạo được hai hướng dẫn viên du lịch trẻ một tên
Khương và một tên là Alison Wong dám nói lên điều mình nhận xét về nhân vật nổi
tiếng tàn bạo là Tần Thuỷ Hoàng và cả Mao Trạch Đông, khi xưa đốt sách giết
người có học. Anh Khương nói: “Về với lịch sử Trung Quốc, theo tôi bạo chúa họ
Tần là người đầu tiên từng đốt sách, hạ bệ và diệt trừ giới trí thức. Ngàn năm
sau, lại cũng có một đấng hậu duệ khác cũng rơi vào dấu mòn vết cũ, như tội
ác… Người đó là ‘Mao sếnh sáng’, tức Mao Trạch Đông. Ông này là vị đồ tể cuối
cùng của lịch sử của người Hán.”

Là ‘sếnh sáng’, đồng nghĩa với đấng chóp bu lịch sử mà nhất cử nhất động vị ấy
vẫn được người đời biết đến. Được biết đến, là biết về “tình lý tưởng” đeo mang
ý tưởng hơi khác người như một ước mơ cũng rất khác, như lời người nghệ sĩ sau
đây:

“Em thường hay ước mơ.

Mơ người yêu lý tưởng.

Với vẻ hào hoa lắm nét kiêu hùng

điểm chút phong sương.

Đây là chàng chiến binh,

Hay là chàng phi công hay là chàng thủy thủ..”

(Y Vân- bđd)

Nhân vật nào dù “lắm nét kiêu hùng” của bạo chúa, rồi ra cũng có ngày tan tành
tâm trí lẫn tâm tư và sẽ chìm lắng trong hôn hoàng, trời mây. Thế nhưng, nói
thế đâu có nghĩa bảo rằng vị nào vị nấy cứ tung hoành bạo tàn như hai đấng
‘chóp bu’ nọ của Trung Quốc/nước Tàu đều quẫn bức giới có học đâu. Nơi nhà Đạo
cũng thế, thủ lãnh nhà Đạo mình chẳng bao giờ tung hoành lập thành tích bất
ưng, nhưng vẫn được nhiều người nhớ và ước mơ, được như thế. Ước mơ, một lý
tưởng hoặc ước vọng tưởng là mơ, lại được đấng bậc chuyên chăm nhà Đạo biến
thành chuyện để kể, rất hôm nay. Truyện, do đấng bậc hôm nay kể lại chính là
đan viện phụ nọ ở Bỉ, cũng có ước và có mơ về một lý tưởng; nhưng “nửa đường
đứt…bóng’ rất như sau:

‘Nhất định. Nhất định rồi!

Tôi không thể trở thành đương kim Giáo Hoàng được nữa rồi! Bởi các đấng bậc của
tôi, nay lại bầu vị khác thay vì tôi. Thế nên, nay tôi xin bộc bạch dự
kiến/chương trình mà lâu nay tôi hoạch định để mọi người còn biết mà cảm thông.

Giả như tôi được bầu làm đấng bậc cao cả đến là thế, hẳn là đương nhiên tôi đã
trở thành vị giám quản giáo phận La Mã rất đương nhiệm, thôi! Và khi ấy, tôi sẽ
yêu cầu Hồng y giáo chủ Ratzinger, lên án các triết thuyết ngộ đạo này khác và
cáo buộc bất cứ lập trường/tư tưởng này khác của người đạo rối. Nhất thứ là
những vị cứ giả tảng/làm ngơ muốn biến vai trò của vị ‘giám quản giáo phận
Roma” thành đấng chủ quản toàn cầu hoặc trở thành vị chánh-trương/chánh-quản
toàn thế giới.

Và lúc đó, có lẽ tôi cũng gỡ bỏ mọi chất kích tác mọi ước vọng khỏi niềm mơ ước
của Cộng Đồng Vatican 2 chỉ muốn thiết lập một tập đoàn giám mục rất đoàn kết.
Và rồi, vào năm đầu triều đại giáo hoàng, tôi sẽ triệu tập một thượng-hội-đồng
giám mục gồm toàn các vị chủ quản giáo hội toàn cầu, quyết đề ra chương trình
hành động khả dĩ khiến mọi giám quản tham dự thượng hội đồng này được coi như
‘phụ mẫu chi dân’, rất trong Đạo.

Để chuẩn bị cho một thượng-hội-đồng giống như thế, có lẽ tôi sẽ phát tán toàn
bộ thư luân-lưu đến hội đồng giám mục các nơi trên thế giới; và nói với các
đấng một câu như: “chư huynh đừng sợ!’ Tôi sẽ khuyến khích các ngài nhận lãnh
trách nhiệm mới, để rồi còn truyền bá cho toàn hội-đồng, hầu các vị mới am
tường về nhu cầu của mọi người, nam cũng như nữ đang sống đạo ở giáo phận; cả
người Công giáo cũng như người ngoại Đạo. Và khi đó, có lẽ tôi sẽ yêu cầu Hồng
Y Ratzinger hoàn tất một số tài liệu mới về nền tảng thần học cho tập-đoàn giám
mục khắp nơi. Có thể, tôi cũng sẽ kêu mời các giám mục đia phương nhận lãnh
trọng trách mục vụ của các ngài, mà chẳng sợ gì đội ngũ ‘đức ông‘ vẫn có thói
quen điều hành cơ quan/sở bộ khác nhau, ở giáo triều.

Sau đó, có lẽ tôi cũng sẽ yêu cầu bãi bỏ các chuyến công du của chính tôi và
các vị giáo chủ kế-tục tôi, ta sẽ không còn xuất dương ra khỏi giáo phận La Mã,
cho đỡ tốn. Và, tôi sẽ thiết lập một thế hệ mới mẻ bao gồm mọi thành phần
giáo-dân có khả-năng truy cập mạng của giáo triều La Mã mình. Bằng vào tiền
tiết kiệm/dành dụm, thay vì xuất dương du ngoạn nước ngoài như thế, sẽ giúp tôi
thiết lập một dự án cho phép tất cả mọi công dân trên địa cầu này được tự do
vào mạng này cách dễ dàng, trước nhất ưu tiên cho người nghèo hoặc ít tiền.

Và, tôi sẽ chuẩn bị dư luận để cuối cùng lại cũng cho phép nữ-giới được tấn
phong làm linh mục đã chọn kỹ từ các vị nữ-lưu khôn ngoan, khéo léo, lành
thánh. Đương nhiên, tài liệu này sẽ khởi lên như một bản văn chính thức của
tông-toà trong đó ghi đôi câu như sau: “Hội thánh La Mã lúc nào cũng tin tưởng
và đặt nặng vào giáo huấn như thế.’

Còn nữa, tôi sẽ mời gọi hết thảy các thánh bộ trong giáo triều hãy cải-hối
chính mình thành cơ-quan chức-năng thực tế, chỉ phục vụ giáo hội và các cơ sở
tôn giáo địa phương thôi. Tôi sẽ cố gắng tin tưởng các hội-dòng chiêm-nghiệm
chuyên sống khắc kỷ và các tu hội này khác vẫn cứ tồn tại sau nhiều thế kỷ gặp
khủng hoảng. Đồng thời, tôi cam kết với họ rằng: các ngài sẽ không bị khuyến dụ
hoặc kêu mời làm thành-viên trong tổ chức Công-Trình Của Chúa (tức Opus Dei);
đồng thời nhắc nhở các ngài rằng: nhiều thế kỷ qua, các ngài vẫn thật sự là
‘chiến hữu’ Đức Kitô. Và, tôi cũng tự mình xem xét các phong trào mới – hoặc để
giải thoát/hiệp thông hoặc làm tân tòng của Chúa- nhưng vẫn tôn trọng quyền tự
trị và sức sống của hội thánh địa phương.

Bên cạnh các cơ sở tôn giáo mang tính cổ truyền, là cơ quan có mục tiêu chính
như tái sáng chế ra thứ nước nóng đang cần. Tôi cũng sẽ yêu cầu giáo triều La
Mã -trước khi tự biến cải chính mình – sẽ đồng thuận để trở thành hình-thái mới
khả dĩ phối-kết giáo hội, hầu đáp ứng những gì được coi như hơi thở của Thần
Khí cho nhiều thập niên mà không cần đến chỗ đứng trong giáo luật. Là, gia-đình
linh-đạo gồm cả nam lẫn nữ, có gia đình hoặc độc thân, giáo dân hay linh mục,
sống năng-động hay chỉ chiêm-nghiệm, nhất nhất đều kết hiệp quanh thị-kiến
linh-đạo cũng rất chung qua hiệp-thông phục-vụ Thiên Chúa, thế giới và Nước
Trời.

Tôi sẽ tiến đến giải-pháp đình chỉ việc phong chân phước và hiển thánh cho đến
khi tất cả tín-hữu tốt-lành hôm nay được biết đến cả danh tánh, sử hạnh và giáo
huấn của các bậc hiển thánh trong quá trình 25 năm qua. Tôi sẽ đề ra một luật
trừ cho vị nào được toàn thể dân Chúa coi là vẫn muốn phong làm thánh nhưng lại
bị thánh-bộ “phong thánh” quên tên như trường Đức Giám mục Oscar Romêrô chẳng
hạn.

Tôi sẽ hít vào buồng phổi lớp tro tàn của phong trào Linh thánh dấy lên ở Châu
Mỹ La-tinh vào năm tháng quẫn bách dưới chế-độ hà-khắc của đám quân-binh
độc-tài kiểu Pi-nô-chê để rồi tặng ban sự sống mới cho các phong trào bị xoá
tên vì sợ bị ảnh hưởng từ chủ-nghĩa xã-hội đích thực. Tôi sẽ tổ chức các buổi
hội-nghị chuyên đề thảo-luận và trình-bày cho thấy nền thần-học giải-phóng cũng
đem đến cho hội thánh hiện-tại các thần-học-gia sâu sắc của Châu Âu thời Công
đồng Vatican 2 nay tuyệt chủng; vì nền thần học này đang ngày càng thoái hoá,
suy sụp.

Tôi sẽ đề nghị các thần-học-gia nhà mình hãy sáng-tạo hơn nữa trong điều
nghiên, hầu dẫn-giải sứ-điệp Tin Mừng thành thứ gì đó cho mọi người cả nam lẫn
nữ đều có thể hiểu được, để rồi họ sẽ có vai trò không chỉ bó mình trong việc
bình giải văn bản của các Tổ phụ, thôi. Tôi sẽ khuyến khích các vị ấy biết
chỉnh-sửa lẫn nhau và biến đổi giáo-triều hầu bảo vệ niềm tin đi vào cơ sở
chuyên chăm nghiên cứu thần học.

Tôi cũng nói thêm một lần nữa, cho giới trẻ biết tương lai của Hội thánh và yêu
cầu họ giới hạn chuyện đi đây đó trong các năm sắp tới, dành tiền tiết kiệm cho
việc dựng-xây nơi-ăn-chốn-ở cho các vị cao niên –có khi cũng là ông bà của họ
tại nước họ đang sống. Tôi vẫn biết Đại Hội Giới Trẻ ở Cologne bị lỗ nặng về
tài chánh và bãi bỏ các Đại hội như thế bằng cách bán cơ sở/cao ốc hiện được dùng
làm văn phòng ở Vatican.

Tôi chỉ muốn bán các cơ sở ở Vatican đi, trừ Vương Cung Thánh Đường Phêrô thôi,
rồi sau đó, mua một căn hộ nho nhỏ để sống tại quận lỵ dân dã ở Rôma, và khi
muốn đi đây đó tới các ty/sở, tôi sử dụng xe chuyên-tu dành cho Giáo Hoàng,
thôi.

Và rồi, tôi quyết tâm sẽ về hưu sớm. Nhưng ở tuổi 75, xem ra tôi vẫn còn trẻ vì
tôi cũng sắp đi vào tuổi đó rồi. Tôi sẽ bớt việc của các hồng y xuống thành
những việc mang tính danh dự thôi, và sẽ tổ chức bầu cử Giáo Hoàng kế tục cho
dân La Mã, vì đó là giáo phận ngài chăm sóc.

Đấy! Quí vị thấy đấy. Họ có cho tôi cơ hội nào đâu dù chỉ một cơ hội duy nhất
để biến chương trình này thành hiện thực.” (xem Lm Armand Veilleux Trappist –
Abbot of Scourmont, Belgium- If I had been elected Pope…)

Là đấng bậc viện-phụ mà chỉ ước và mơ mỗi như thế, cũng không thành. Nghĩ cho
cùng, làm sao thành sự được khi đó chỉ là những mơ cùng ước. Ước mơ/mơ ước
thành sự ở thơ văn/âm nhạc, mà thôi. Bởi thế nên, người nghệ sĩ của ta vẫn hát
câu thơ khá mơ và ước như sau:

‘Tuổi mộng mơ,

tuổi mộng mơ ước mơ tiên.”

(Phạm Duy- Tuổi mười ba)

Tuổi mộng mơ, chưa chắc là tuổi của những mơ và ước. Ước và mơ, thật ra cũng
chẳng cần đợi tuổi tác hoặc năm tháng/ngày giờ, mới đạt được. Mơ và ước, hầu
như ai cũng có cơ hội và có quyền hạn để thực hiện. Tuy nhiên, cứ sự thường thì
người đời chỉ mơ và ước khi mình còn trẻ, tức thời gian còn dài để có thể đợi
mong nó thành hiện thực. Trường hợp đấng bậc trên, kể cũng lạ và hiếm có. Thế
nên, đức thày mình vẫn cứ mơ và cứ ước lại không nghĩ rằng những ước mơ của
ngài sẽ được thực hiện, cũng chóng thôi.

Tuy nhiên, người đời tuy biết thế nhưng vẫn ước và mơ. Mơ ước, nhưng không là
mơ mộng. Và, chắc chắn không là mộng ảo, mộng tưởng hoặc mộng mỵ. Mộng gì thì
mộng, tưởng gì thì tưởng hẳn cũng không là mộng ước của vua cha như truyện kể,
ở bên dưới.

Truyện rằng,

Vị vua tài đức nọ giàu đức hạnh, nhưng không có hoàng tử nối ngôi. Vua ta bèn
nghĩ tới việc chiêu mộ những người trẻ tài đức để có thể kế vị ông sau khi ông
qua đời.

Một ngày kia, vua cho mời tất cả các trẻ em từ 5 đến 12 tuổi vào hoàng cung. Vị
vua giải thích cho các em ý định của ông là muốn tìm người tài đức để thay ông
cai quản đất nước. Ông trao cho mỗi em một hạt giống và dặn các em rằng sau ba
năm, các em hãy mang mỗi cây mà mình sẽ trồng đến trình diện tại cung điện. Sau
khi nhận hạt giống, mỗi em đều nhiệt tình trồng hạt giống của mình và ngày đêm
chăm sóc chúng với hy vọng là cây của mình sẽ lớn nhanh và có thể sinh hoa kết
quả. Một số em nghĩ rằng, mình phải gây sự chú ý của nhà vua bằng cách làm cho
cây của mình thật lớn và có hoa quả.

Ðúng ngày đã hẹn, cả nước nhộn nhịp tiến vào cung điện để xem thử cây nào là
cây đẹp nhất, có nhiều trái nhất, và để xem ai sẽ là vị vua tương lai cho đất
nước. Quả đúng như dự tính, mỗi em đều mang đến cây mà mình đã trồng với nhiều
màu hoa hương sắc. Người ta cũng thấy có những cây đã kết trái thật xum xuê.
Nhà vua đi đến từng địa điểm để hỏi thăm các em, cách thức các em trồng cây. Sự
hồi hộp và im lặng của đám đông càng tăng lên khi nhà vua tiến đến những cây
tươi trái tốt; nơi mà nhiều người nghĩ rằng một trong số các em này sẽ được
chọn là hoàng tử.

Thế nhưng, nhà vua vẫn tiếp tục đi qua và bỗng dưng ông dừng lại trước một cậu
bé. Trên tay cậu bé là một chậu đất không cây. Thấy nhà vua đứng lại bên mình,
cậu biểu lộ sự thất bại bằng dòng nước mắt chảy dài trên má. Nhà vua hỏi,
“Tại sao con khóc?” Cậu bé thưa, “Con đã gieo hạt giống vào chậu
đất này, con đã bón phân cho nó, con đã tưới nước cho nó hằng ngày, con đã che
nắng cho nó và con đã làm nhiều cách để chăm sóc hạt giống của con, nhưng cuối
cùng không có cây nào.” Càng nói, cậu bé càng khóc lớn tiếng.

Nhà vua ôm cậu vào lòng và ra lệnh cho quân lính mời cậu lên chỗ cao danh dự.
Giờ đây, trước sự sửng sốt của bao nhiêu người, và kể cả cậu bé, nhà vua bắt
đầu lên tiếng. “Hôm nay, bệ hạ đã tìm được người mà bệ hạ mong đợi từ lâu.
Cậu bé đây đã chân thật khi nhận sự thất bại của mình. Và thực đúng là như vậy.
Vì tất cả hạt giống ta trao cho các con cách đây ba năm, chúng đã bị luộc chín
cả rồi.”

Nhà vua quay qua cậu bé và nói. “Con đã biết trung thành và trung tín
trong việc nhỏ; con đã không bị ngai vàng và danh lợi mê hoặc; con đã cần mẫn
chu toàn công việc của con với hết khả năng của mình. Ðó là điều ta mong
muốn.” Nhà vua nói tiếp, “Trên tay con là chiếc chậu đất không cây,
nhưng chính trong trái tim con, con đã gieo hạt giống sự thật vào lòng mọi
người hôm nay.”

Thật ra thì, vua cha mơ ước như thế, có thể là chuyện thực tế ở đời, cũng rất
thật. Khổ một điều, là: sự việc ở đời thường vẫn không như vua cha mơ ước. Thế
nên, thi ca/âm nhạc lại vẫn thấy có những câu ca rất mộng và rất mơ, như sau:

“Em ước mơ em là,

em được là tiên nữ

Ban phép tiên cho hoa

biết nói cả tiếng người

Ban phép tiên cho người

chắp cánh bay giữa trời.

Thật đẹp thay! Thật đẹp thay! Giấc mơ tiên!

Thật đẹp thay! Thật đẹp thay! Giấc mơ tiên!”

(Phạm Duy – Tuổi Mười Ba)

Ước và mơ của nghệ sĩ và của đan-viện-phụ nọ ở Scourmont, nước Bỉ vẫn là chuyện
thực tế, nhưng hơi mơ. Mơ và ước, cả những mệnh lệnh của Chúa sẽ thành hiện
thực, như Kinh sách nói:

“Các ngươi cũng chớ gọi mình

là lãnh đạo.

Vì lãnh đạo của các ngươi

chỉ có một: Đức Kitô.

Kẻ lớn hơn trong các ngươi

sẽ là tôi tớ của các ngươi.”

(Mt 23: 11)

Phải chăng mơ và ước đó, là của mọi người trong Đạo. Như Đạo Chúa vẫn dạy?

Mơ gì thì mơ. Ước gì thì ước, hãy cứ ước và mơ những chuyện nho nhỏ, nhè nhẹ
như truyện kể để suy nghĩ, rất như sau:

“Nhà nghèo, chạy vay mãi mới được xuất hợp tác lao động, Thanh coi đó như cách
duy nhất để giúp đỡ gia đình. Nhưng ảo mộng chóng tan. Xứ người chẳng phải là
thiên đường. Thanh chỉ còn biết làm quần quật và dành dụm từng đồng.

Để nhà khỏi buồn, trong thư Thanh tô vẽ về một cuộc sống chỉ có trong mơ. Ngày
về, mọi người mừng rỡ nhận quà, Thanh lại tiếp tục nói về cuộc sống trong mơ.

Đêm. Chỉ có Mẹ. Hết nắn tay, nắn chân Thanh rồi Mẹ lại sụt sùi. Thanh nghẹn
ngào khi nghe Mẹ nói:

-Dối Mẹ làm gì! Giơ xương thế kia thì làm sao mà sung sướng được hở con!” (x.
Kangtakhoa, Lòng Mẹ)

Trong mọi mơ ước, nhiều người vẫn cứ sống trong mơ mà chẳng giấu được ai hết,
chí ít là mẹ hiền. Vì, mẹ hiền hiểu biết lòng dạ của con cái, cũng rất nhiều.
Hệt như thế, nếu dân con nhà Đạo chạy đến hỏi han Mẹ hiền Hội thánh xem nay Mẹ
có mơ hay ước gì không? Phải chăng, Mẹ đang có nỗi mơ và ước về con cái và cho
các con của mình được hạnh phúc, hơn khi trước?

Hỏi, tức đã trả lời rồi, dù không rõ.

Trần Ngọc Mười Hai

Cũng ít khi hỏi người, hỏi mình

về những ước mơ

rất như thế.

Suy niệm Lời Ngài đọc trong tuần thứ Năm mùa thường niên năm C 10.02.2013

“Gót nhỏ lên thuyền một kiếp xưa,”

“Em về trăng mọc bến chân như.”

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Lk 5: 1-11

Gót nhỏ lên thuyền, gót của em. Người em dân dã, vẫn cứ về. Em về trăng mọc,
bến chân anh. Người anh mộc mạc, xưa theo Chúa.

Trình thuật thánh Luca, nay ghi về chuyến lên thuyền để đánh bắt rất nhiều cá.
Cá ở đây, gồm truyện kể về quà tặng Chúa ban, không chỉ cho mỗi dân con được
chọn, mà cả con dân ngoài Đạo, cũng vẫn được. Trước nhất, là về Galilê, và sự
thể đánh bắt, vào thời đó.

Biển hồ Galilê, là hồ nhân tạo duy nhất ở Israel. Hồ này dài đến 55 cây số,
chạy vòng quanh bến bãi, ở nơi đây. Hồ này sâu từ 25m đến 45m, nhưng mực nước
lại thấp hơn mặt nước biển đến 200m. Hồ nhân tạo, nhưng đây là chốn lý tưởng để
đánh bắt đủ mọi loại cá. Với dân chài, thì Biển hồ Galilê là nơi tốt nhất để
bắt cá. Với khảo cổ, lại có khám phá tuyệt vời từng phát hiện một thuyền đánh
cá dài rộng cỡ 8m x 2.20m x 1.35m bộ, với niên đại có từ năm 40 trước Công
nguyên. Thuyền này được gọi là “Con Thuyền Của Chúa”, vì là đặc trưng tiêu biểu
thời Chúa sống.

Dân chài đây, có nhóm chuyên đánh bắt các loại cá có chất lượng để cung cấp
khắp nơi, cả người Ai Cập cũng là khách hàng thường xuyên mua về đem hun khói
thành đặc sẳn rất tuyệt vời. Các khai quật cho thấy thuyền đánh cá ở đây được
trang bị khá tốt để có thể đánh bắt suốt cả đêm. Sản phẩm đánh được lại đã tạo
nguồn lợi tức cho một số công ty chuyên ngành trong thời gian dài, chuyên
nghiệp.

Dân chài ở đây, có người còn có nghề tay trái không chỉ đánh cá đóng thuyền
thôi, nhưng còn kinh doanh và tránh thuế. Dân chài người Bét-sai-đa sống ở
Ca-pha-na-um quen tránh né đám thu thuế; nên, nghề cá là nghề ít bận tâm về
luật thuế nhất. Nói chung, dân chài ở đây biết nhiều thứ, chứ không chỉ sơ sơ
mỗi cá tôm.

Thế nên, cử toạ đầu tiên tìm đến Chúa để nghe Ngài giảng giải, lại là dân chài
Biển hồ Galilê. Chúa hoạt động công khai, Ngài cũng di chuyển loanh quanh các
vùng: Bét-sai-đa, Ca-pha-na-um, Ghê-nê-sa-rét, Mag-đa-la, hoặc Ghê-ra-sa cùng
các vùng chài lưới và thôn làng ở Biển hồ. Chúa giảng rao vùng cận duyên gồm
các làng chài trong đó có cả Tyrô và Siđôn nữa. Hôm ấy, bên vệ đường cạnh hồ
Galilê, Chúa gặp ông Phêrô (cùng nhạc mẫu) và các bạn chài là: An-rê, Giacôbê
và Gioan (có bà Zêbêđê) và cả anh Lêvi thu thuế, nhất nhất đều đến từ
Ca-Pha-Na-Um, ở quanh đó.

Chúa vẫn thường có thói quen di chuyển trên hồ bằng thuyền bè. Chính ở nơi này,
Ngài chỉ cho các thánh biết đánh bắt thật nhiều cá, như phép lạ. Và cũng ở
triền hồ, Ngài còn phân phát cho cả ngàn người được no nê, ăn thoả chí. Tin
Mừng thánh Luca (đoạn 24) cũng cho thấy Chúa đã trở lại hồ này ngay sau ngày
Ngài Phục sinh quang vinh.

Vấn đề hỏi là: làm sao thánh Luca lại biết rõ điều ấy. Bởi, ai cũng đều biết
thánh Luca đâu thuộc thành phần dân chài và cũng chẳng là tay thu thuế. Thế
nên, nguồn văn của trình thuật hôm nay, có lẽ đã được rút từ Tin Mừng thánh
Matthêu đoạn 4 câu 18. Đoạn này, thánh Matthêu ám chỉ một Xuất hành mới cốt để
tái lập Vương quyền của Đavít.

Thánh Luca không chỉ nhấn mạnh sự kiện Chúa gọi mời dân chài làm tông đồ, nhưng
nhấn mạnh lên câu Chúa nói với Phêrô, rằng: “Từ nay ngươi sẽ là kẻ chài lưới
người.” Có thể là, thánh Luca không có ý đó, nhưng thánh Mátthêu lại trích dẫn
lời ngôn sứ Giêrêmia đoạn 16 câu 16 và Êdêkiel đoạn 47 câu 9, trong đó Chúa
nói: “Này Ta sai ngư phủ đến, một số đông và họ sẽ vung lưới bắt chúng.” Tất cả
điều đó, chỉ muốn nói rằng: Chúa đến như thể cuộc đánh bắt rất nhiều cá chứ
không phải chỉ mỗi thứ cá, là người Do thái mà thôi.

Ở đây, thánh Luca lại nói lên lập trường của riêng thánh-nhân về ơn cứu độ Chúa
rộng ban, không chỉ gửi đến với dân được chọn là Do thái mà thôi, nhưng còn mở
ra với hết mọi người, mọi sắc tộc, giòng giống. Và cũng thế, các tông đồ của
Chúa được gửi đến với mọi người có giòng giống sắc tộc, rất khác nhau. Ngài sẽ
không phân biệt một ai để rồi đem tất về với Vương quốc của Ngài, cũng là vùng
đất có biển có hồ, mầu mỡ rất nhiều cá.

Truyện kể ở trình thuật thánh Luca hôm nay cũng rất đẹp, trong đó tác giả cho
thấy kết quả của công việc hợp tác giữa hai chiếc thuyền đánh cá mỏng manh đến
suýt chìm vì nặng chĩu những cá. Một trong thuyền đó, có Simôn Phêrô đã thành
công đánh bắt được rất nhiều cá. Một lần nữa, ở đây thánh Luca cũng không nhiều
kinh nghiệm về sông nước với đánh bắt. Nhưng tác giả đã để Chúa yêu cầu thánh
Phêrô chèo đò vào bờ, rồi theo Ngài.

Nhiều năm qua, có học giả người Do thái là Abraham Joshua Heschel đã nói về vai
trò của ngôn sứ ở Israel. Theo ông, ngôn sứ là người hiểu được những “xúc cảm”
của Thiên Chúa. Qua cụm từ “xúc cảm”, ông muốn nói: Thiên Chúa không xa với với
con người chúng ta, theo nghĩa khoảng cách thần linh, thánh thiêng; nhưng Ngài
là Đấng rất cần gần gũi với những khổ đau/sầu buồn, như con người. Ngài cũng có
cảm xúc như con người. Giữa Ngài và con người, luôn có sự tuỳ thuộc hỗ tương,
tức là: Chúa cần ra khỏi tính thánh thiêng để đến với chúng ta. Và chúng ta
cũng thế, cần ra khỏi hoàn cảnh của mình để ra đi mà đến với Chúa. Để sống với
những cảm xúc của chính Chúa.

Ý tưởng của diễn giả Heschel đem đến cho ta một mô hình mẫu mực để hiểu được tư
tưởng của thánh Luca viết ở đây. Thánh Luca tuy không là ngôn sứ, giống như
thế. Chúa của thánh sử cũng không là Thiên Chúa của tác giả Heschel. Nhưng theo
thánh Luca, thì Chúa cũng có cảm xúc muốn san sẻ sự vui mừng với chúng ta. Ngài
đã đi vào cuộc sống phàm trần theo cung cách cũng trần tục để niềm vui của Ngài
lấp đầy hết mọi người. Trong mọi người. Và niềm vui của ta cũng có kết quả
tương tự, đối cới Chúa.

Thật ra thì, cụm từ “xúc cảm” ở đây cũng không đúng nghĩa cho lắm khi ta diễn
tả điều mà thánh Luca muốn nói. Nhưng điều mà thánh sử Luca muốn nói chính là
niềm vui chung vẫn có giữa Đức Giêsu và các thánh tông đồ, rất thuyền chài. Đó
là niềm vui rất lớn không biên giới nhưng đã hoàn toàn rộng mở. Niềm vui ấy,
nay phát tán đi vào với thế giới gồm đầy khổ đau, âu sầu. Vui, là rung động với
những cảm xúc hân hoan của con người để đi vào tận tâm can con người vẫn thường
gặp nhiều klhổ đau/sầu buồn vào mọi lúc. Niềm vui ấy, như thể đàn cá tung tăng
nhẩy xổ vào lưới bắt của các vị tông đồ/thuyền chài. Đàn cá xem ra thích nhảy
vào lưới như thế. Và các tông đồ/thuyền chài cũng mỉm cười vui thích khi thấy
đàn cá cứ làm thế.

Và thánh Luca vẫn ghi lại những truyện kể ở trình thuật có Đức Giêsu mỗi lần
đến với ai, là người đó cũng sẽ vui mừng, nhảy chồm lên vì sung sướng. Và lòng
thương xót của Chúa lớn lao gồm đủ những cảm-xúc và niềm vui to lớn còn là kết
quả của sự việc nhảy ra khỏi làn da, thớ thịt mà Chúa từng làm và từng sống với
ta như thế. Đức Giêsu cũng đã làm như Chúa đã làm như thế với mọi người. Như thế,
thì Ngài đích thật là Người Con của Thiên Chúa.

Điều này dấy lên một vấn đề hỏi rằng: làm sao chủ đề “ơn cứu độ” lại có thể trở
nên chuyện chính yếu đối với tác giả Luca, là thế? Đôi khi, đó còn là trọng tâm
Tin Mừng của thánh-nhân nữa. Chuyện này kể cũng thực, nhưng không phải là tiên
quyết. Ít ra, tác giả cũng không đến nỗi ưu tư nhiều như thế. Ơn cứu độ, là cụm
từ ta dùng để chỉ về trạng huống ta trải nghiệm Niềm vui chung có Chúa đã từng
đảo ngược mọi chuyện tiêu cực thành cơ hội để ta suy tư về ân huệ trọng yếu
này.

Những điều kể trên, đôi khi làm người đọc lại nghĩ về truyện ông Noê ở Cựu Ước.
Truyện kể vẫn cứ kể về điều là những sinh vật được cứu sống, chỉ mỗi vài cặp
thú vật trên thuyền mà thôi. Cứ tin là như thế. Như thế, tức như thể không phải
tất cả mọi thú vật đều có mặt ở đó, hết. Thế thì, các thú khác và người khác
thì sao? Có được cứu rỗi không? Về cá heo và chúng bạn vẫn tung tăng bơi lội và
cười đùa vui vẻ ngoài con thuyền cách vô tội vạ thì sao? Chúng không được cứu
sao?

Nếu thế, cũng không phải là ý của tác giả, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Bởi Thiên
Chúa là Đấng thực sự rất Vui và rất đại độ. Có lúc Ngài cũng tung tăng vui vẻ,
ngoài con thuyền đấy chứ? Dù thuyền đó là thuyền đánh cá của Phêrô hay thuyền
cứu độ của Noê, cũng đều thế. Cả tác giả Luca cũng thế. Cũng đâu bao giờ có
được ý tưởng buồn cười về cuộc sống được cứu rỗi và về Thiên Chúa đến như thế.

Thế nên, đọc trình thuật thánh Luca, người đọc hẳn đôi lúc cũng nghĩ như nhà
thơ bên dưới:

“Gót nhỏ lên thuyền một kiếp xưa,

Em về trăng mọc bến chân như.

Người Em hơi thở say mùi huệ,

Mây trắng vương buồn mắt thái sơ.”

(Đinh Hùng – Trái Tim Hồng Ngọc)

Trái tim của Chúa, cũng “Hồng Ngọc”, tức: cũng mầu hồng và bằng ngọc, luôn
tưởng nhớ hết dân gian mọi người, dù là dân chài thợ mộc, Ngài vẫn mời theo
Ngài giảng rao ơn cứu độ thân thương, rất hồng ngọc. Để dân gian mọi người sẽ
trở thành ngọc hồng, ngọc bích vẫn cứ thương.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh –

Mai Tá lược dịch

Biến đá cuội thành tác phẩm độc đáo

Biến đá cuội thành tác phẩm độc đáo

(Dân trí) – Đá cuội ở sông suối không phải là thứ xa lạ đối với hầu hết mọi người. Tuy nhiên, khi xem những viên đá cuội đã được nữ họa sĩ Ernestina Gallina “thổi hồn”, chắc chắn người xem không khỏi thán phục.

Biến đá cuội thành tác phẩm độc đáo

Họa sĩ Ernestina Gallina đến từ Cenestino, nước Ý từ khi còn là một đứa trẻ đã biết
cách biến những vật tầm thường thành những vật độc đáo lạ mắt. Lúc nhỏ, bà
Gallina rất đam mê lĩnh vực hội họa, thiết kế. Tuy nhiên, do gia đình Gallina
không ủng hộ sự lựa chọn này của bà cho nên bà không có cơ hội để phát triển kỹ
năng của mình cũng như đăng ký tham gia học tập tại bất kỳ trường nghệ thuật
chính thống. Bà chỉ thể hiện tài năng nghệ thuật của mình như là một thú vui
giải trí.

 

Biến đá cuội thành tác phẩm độc đáo

Năm 1987, bà cùng với gia đình chuyển đến thành phố Nairobi, ở Kenya để sinh sống. Tại đây sự nghiệp hội họa của bà được thăng hoa. Gallina kể lại, vào một hôm tại
thư viện, vô tình bà đã vấp phải một cuốn sách được trưng bày trên những bức
tranh đá. Từ hôm đó bà bắt đầu suy nghĩ về cách biến những viên đá cuội bình
thường ở sông suối thành những tác phẩm nghệ thuật. Đây chính là điểm mấu chốt
giúp bà kết hợp và phát huy được niềm đam mê nghệ thuật cùng với tình yêu thiên
nhiên đất trời. Kể từ đó, bà đến với nghệ thuật vẽ tranh trên đá như một điều
tất yếu và không bao giờ ngừng lại được.

Sau 3 năm làm quen với công việc vẽ tranh trên đá, bà Ernestina Gallina đã có thể dạy lại những bí quyết vẽ tranh trên đá cho nhiều học viên, đến năm 2003 bà đã thành lập câu lạc bộ vẽ trên đá đầu tiên tại Ý.

Chiêm ngưỡng một số tác phẩm của bà Ernestina Gallina:An TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn Tử

Thằng Khùng – Phùng Quán

Thằng Khùng -Phùng Quán
(Cha chính Nguyễn văn Vinh – Giáo-phận  Hà nội ]
Thằng Khùng (viết lại theo lời kể của nhà thơ Nguyễn Tuân)
“… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình
không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính
trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ
cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng
anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều,
do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào
hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể
ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ,
như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng,
tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.
Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh
ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười.
Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo
lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ
ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt
chú ý, cứ muốn làm quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình
với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính.
Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều
thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta
viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.
Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn
tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi
“thằng khùng” (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với
bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh
ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người
chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người
mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.
Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai
nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người
chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của
người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp
sơ sài.
Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho
người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm
gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên
trán người tù chết, và bật khóc.
Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác
người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người
tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:
– Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?
Anh ta chấp tay khúm núm thưa:
– Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc
tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm
hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây
là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.
Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu
thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng
úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta
run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc…
Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả.
Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, “đầu
chày, đít thớt, mặt bù loong” cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau
đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ
ngợi rất nhiều
về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối
từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?…
Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho
dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như
than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải
một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác
ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình
phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng
bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước,
hỏi mà đầu không quay lại:
– Anh Tuân này – không rõ anh ta biết tên mình lúc nào – sống ở đây
anh thèm cái gì nhất?
– Thèm được đọc sách – mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ
anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết
viết cũng nên.
– Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? – anh ta hỏi.
– Voltaire! – một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với
anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang
ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn
như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu
mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất
chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn
trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và Trừng
phạt”.
Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:
– Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?
Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một
người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên
tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt
nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.
Mình trả lời anh ta:
– Tôi thích nhất là Candide.
– Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?
Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:
– Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.
Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm
chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình
trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép
lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta
đang đọc thiên truyện Candide
nguyên bản được chép lên mặt sông…
Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ
lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống:
“Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!”.
– Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! – anh nói.
Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:
– Anh là ai vậy?
Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả
lời:
– Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa .
Rồi anh ta tiếp:
– Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…
Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn – ngu ngơ, đần
độn như thường ngày.
Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau
mình mới biết.
Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn
được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn…
– những người tù nói, giọng buồn.
Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.
Giám thị hỏi:
– Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?
Mình nói:
– Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.
Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong
gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai
hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…
Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt,
chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười.
Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè
luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:
– Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…
Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ
rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn
như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên
than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN .
Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.
Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa
ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.
Giám thị hỏi:
– Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo,
tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.
Mình nói:
– Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu
một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.
Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…
Phùng Quán
________
Ghi Chú:
(*) THẰNG KHÙNG trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan
NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn Hà Nội.  Bài viết của Phùng
Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài.
Xin mời đọc thêm (bài kèm theo dưới đây) tiểu sử của Cha Vinh để chúng ta biết
thêm nhiều chi tiết về cuộc đời Ngài; và cũng để hiểu thêm gương phụng sự Chúa
của Ngài…. Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH, Cha chính Hà Nội, (1912 – 1971).
Tấm gương can trường.
Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH*
Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại làng Ngọc
Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Cậu Vinh, một thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh
về âm nhạc, ca hát. Cậu biết kính trên, nhường dưới, trong xứ đạo, ai cũng quý
yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó là Cố Hương, một cha người Pháp tên là Dépaulis
giới thiệu cậu lên học tại trường Puginier Hà Nội. Năm 1928, cậu học Tiểu Chủng
viện Hoàng Nguyên, Phú Xuyên, Hà Tây.
Năm 1930, thầy Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935, thầy vào Đại
Chủng viện St Sulpice, Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ phong linh mục ở
Limoges .
Chiến tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp và tiếp tục học tập.
Ngài học Văn Khoa – Triết tại Đại Học Sorbone, học sáng tác và hòa âm tại Nhạc
viện Quốc Gia. Ngài phải vừa học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ thương của ngài
đã làm cho nhiều người Pháp tưởng lầm ngài là phụ nữ nên cứ chào: “Bonjour
Madame!”
Nhưng ẩn trong cái dáng vóc nhỏ bé đó là một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng
là tính cương trực, dưới nụ cười là ý chí sắt son.
Sau khi tốt nghiệp cử nhân Văn Triết ở Sorbone, ngài gia nhập dòng khổ tu Biển
Đức tại Đan Viện Sainte Marie.
Sau 17 năm du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng Giáo Hội
Công Giáo Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize –
Thịnh, Bề trên Giáo phận đã bổ nhiệm ngài làm cha xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài
xin Bề trên lập dòng Biển Đức ở Việt Nam, nhưng không thành.
Cha Vinh, dù tu học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc lập, không nệ
Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn Hà Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai
tướng De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu căng đòi đặt ghế
của ông trên cung thánh và bắt chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam
xuống dưới lòng nhà thờ. Vì lòng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh
cương quyết không chịu.
Tướng De Lattre rất tức giận, gọi cha Vinh tới, đập bàn quát tháo, đe
dọa. Cha Vinh cũng đập bàn, lớn tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ, nhưng Thủ
Tướng ngại khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng thẳng, Đức Cha
Khuê đã chuyển cha Vinh làm giáo sư của Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh
văn, Pháp văn, âm nhạc, triết học; ngài khiêm tốn vâng lời. Ngài cũng giảng dạy
Văn Triết ở trường Chu Văn An.
Năm 1954, Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân đưa chủng sinh
đi Nam, nhưng cả hai đều xin ở lại sống chết với giáo phận Hà Nội, dù biết hoàn
cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm ngài làm Cha Chính, kiêm
Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.
Ngài tổ chức lớp học giáo lý cho các giới, có những linh mục trẻ thông minh,
đạo đức cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân
Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ chức thành nhóm nhỏ tại phòng khách Tòa Giám
Mục, về sau, con số người tham dự tăng dần, lớp học được chuyển tới nhà préau,
và ngồi ra cả ngoài sân. Lớp học hiệu quả rất lớn, những tín hữu khô khan trở
thành đạo đức nhiệt
thành, ảnh hưởng lan tới cả giới sinh viên và giáo sư đại học, nhiều
người gia nhập đạo. Sau chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động vì lý do an ninh.
Khi cha Vinh đang làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ ra chỉ thị phải treo ảnh
lãnh tụ thay vào ảnh Thánh Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên đọc chỉ thị cũng
không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường bị đóng cửa.
Thời bấy giờ, Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo sư, nên đã đề nghị Đức Cha Khuê
cử cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ngài. Một hôm, Chu
Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng dáng chiếc áo chùng
thâm linh mục, ông nói với đoàn tháp tùng:
“Đến giờ này mà còn có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?” Ít lâu sau trường
Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.
Biết tài năng và kiến thức âm nhạc của ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội
tìm cha Vinh tham khảo ý kiến và nhờ xem lại những bản nhạc, bài ca họ mới
viết.
Cha Vinh, một trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam, và là một
nhạc sĩ toàn tài. Ngài chơi vĩ cầm và dương cầm thật tuyệt, chính ngài là người
Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm ở Hà Nội.
Ngài có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại được học tập chu đáo nên
đã sáng tác và để lại nhiều nhạc phẩm thánh ca tuyệt vời. Cha Vinh
trình bày bản hợp tấu “ Ở Dưới Vực Sâu ” nhân cuộc đón tiếp phái đoàn Việt Nam
do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.
Ngài cộng tác với Hùng Lân sáng tác “Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-Vít.” Sáng tác nhiều
nhạc phẩm lớn: “Mở Đường Phúc Thật,” “Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi,” “Ôi GiaVi,”
“Lạy Mừng Thánh Tử Đạo.” Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8 , Ca vịnh 16, Ca vịnh
23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 và nhiều bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh
Tâm Giêsu. Ngài còn viết những bài
ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc bài “Bước Tới Đèo Ngang” của Bà
Huyện Thanh Quan.
Hằng tuần ngài đến dạy nhạc, xướng âm và tập hát bên chủng viện Gioan.
Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát, lôi cuốn. Ngài tổ chức và chỉ
huy dàn đồng ca trong nhiều cuộc lễ và rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh
Thể từ Hàm Long về Nhà Thờ Lớn Hà Nội.
Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước và thế giới thấy là ở Việt
Nam đạo Công giáo vẫn được tự do hành đạo và tổ chức được những lễ nghi long
trọng, tưng bừng. Dịp Lễ Noel, chính quyền tự động cho người đến chăng dây, kết
đèn quanh Nhà Thờ Lớn, sau lễ họ vào đòi nhà xứ Hà Nội phải thanh toán một số
tiền chi phí lớn về vật liệu và tiền công.
Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số người
của Nhà nước ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển vật liệu, tự động bắc thang, chăng
dây treo bóng điện màu trang trí ở mặt tiền và trên hai tháp Nhà Thờ Lớn. Cha
xứ thời đó là cha Trịnh Văn Căn bảo vệ chủ quyền Giáo Hội trong khuôn viên cơ
sở tôn giáo, không đồng ý, nhưng họ cứ làm. Để phản đối, cha Căn liền cho kéo
chuông nhà thờ cấp báo, giáo dân kéo đến quảng trường nhà thờ rất đông ủng hộ
cha xứ, hai bên to tiếng.
Cha Căn gọi Cha Vinh ra can thiệp, sau một hồi tranh luận không kết
quả, cha Vinh kéo những người của Nhà nước đang leo thang chăng đèn xuống, rồi
chính ngài leo lên thang, hai tay đưa cao trước mặt, hai bàn tay nắm lại, hai
cườm tay đặt lên nhau, làm dấu hiệu còng tay số 8, và nói lớn:
“Tự do thế này à!”
Vụ giằng co lộn xộn kéo dài suốt buổi sáng, công cuộc trang trí không thành.
Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét
xử. Tòa án Hà Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Chính xứ Nhà Thờ Lớn, người chịu
trách nhiệm tổ chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo.
Cha Chính Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ tập
hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ,
gây chia rẽ trong nhân dân” (!).
Sau phiên tòa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau bị chuyển đi
nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng là trại “Cổng Trời”, nơi
dành riêng cho các tù nhân tử tội.
Khi cha Vinh mới đến trại Yên Bái, ngài còn được ở chung với các tù nhân khác,
nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội, vì thế
ngài bị kỷ luật, phải biệt giam, bị cùm chân trong xà lim tối. Mấy
tháng sau được ra, ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ hỏi:
“Tại sao bị cùm, bị kỷ luật, được ra, anh tiếp tục phạm quy?”
Ngài đáp:
“Cấm là việc của các ông, giải tội là việc của tôi, còn sống ngày nào, tôi phải
làm bổn phận mình!”
Ở tù đói rét là đương nhiên, lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi bữa một
bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải già nấu muối, khi chia cơm phải cân đong
từng chút một… Một lần cha Vinh nhận được gói bưu kiện do cha Cương, quản lý
Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có ít thức ăn, lương khô và vài đồ dùng cá
nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công giáo lẫn lương dân, ăn
chung, dùng chung. Anh em tù hình sự thân thương gọi ngài là “Bố.”
Ngay trong nhà tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có lần một tổ
trưởng đánh đập tù nhân, ngài lên tiếng bênh vực, liền bị người tổ trưởng này
xông đến giang tay đánh, ngài đưa tay gạt, anh ta ngã khụy. Từ đó trong trại có
tiếng đồn cha Vinh giỏi võ, mọi người phải nể vì.
Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ
muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế
Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội
ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông
Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.
Vì không khuất phục được ngài, nên bản án từ 18 tháng tù giam, không qua
một thủ tục pháp lý án lệnh nào, đã biến thành 12 năm tù kiên giam, xà lim,
biệt giam và án tử.
Năm 1971, khi ngài từ trần không ai được biết, một năm sau, chính
quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và cha Cương quản lý Nhà Chung: “Ông Vinh đã
chết. Không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh!”
Suốt đời mình, trong mọi tình huống cha Chính Vinh làm tròn trách vụ của mình. Ngài
đã mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho đức tin, khi thuận tiện cũng như
khó khăn. Vượt mọi thử thách gian khó, không chịu khuất phục trước cường quyền,
luôn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo
Hội.
Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh
mục Công Giáo Việt Nam can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.
TGP Hà Nội – 2013
BBT (Theo HĐGMVN)
From: Đỗ Tân Hưng

 

Nguyễn Kim Bằng gởi

 

 

TỪ NAY ANH SẼ LÀ KẺ LƯỚI NGƯỜI

TỪ NAY ANH SẼ LÀ KẺ LƯỚI NGƯỜI

http://www.google.com.vn/url?sa=i&rct=j&q=luca+4,30&source=images&cd=&cad=rja&docid=dH7VzgVml2UysM&tbnid=7ZdbQwBxxZ5yOM:&ved=0CAUQjRw&url=http://menchuayeunguoi.com/index.php?option=com_content&view=article&id=5495:cn-4-tn-c-c-giesu-tht-bi-ti-nadaret&catid=135:suy-nim-suy-t-chia-s&Itemid=365&ei=_nQTUfSiPOiaiAey1YFo&bvm=bv.42080656,d.aGc&psig=AFQjCNEgznsugNf60S_oHCJ5uI1raj84Fg&ust=1360315988424091

Chẳng ai ngờ cuộc đời Simon có thể chuyển hướng. Ông đã có nghề nghiệp ổn định và đã lập gia đình. Thế giới của ông là hồ Ghênêxarét, là những con cá quẫy đuôi trong lưới, là gia đình cần phải chăm nom săn sóc.

Ông yêu vợ con, ông yêu biển cả. Chúa đã đặt ông vui sống trong thế giới ấy, nên chỉ có Ngài mới có thể kéo ông ra, và bất ngờ đưa ông vào một thế giới mới, một đại dương bao la hơn nhiều, một gia đình rộng lớn hơn vạn bội. Chỉ Chúa mới có thể làm trái tim ông say mê một Ai khác, yêu một Ai đó hơn những người ông đã từng yêu.

Đức Giêsu đã đến với Simon thật tự nhiên. Ngài chọn thuyền của ông làm nơi giảng dạy. Sau đó Ngài mời ông thả lưới bắt cá, Simon có nhiều lý do để khước từ. Ông có thể dùng kinh nghiệm của mình để nhận thấy tốt hơn nên chờ dịp khác, hay nại lý do mệt mỏi, sau một đêm ra khơi. Nhưng Simon đã vâng lời, chỉ vì tin Lời Thầy Giêsu, Lời đầy quyền uy, Lời trừ được quỷ (Lc 4,30). Lời mạnh mẽ đã chữa cho mẹ ông khỏi
bệnh (4,39).

Mẻ cá lạ lùng, mẻ cá chỉ có trong mơ. Mẻ cá làm Simon run rẩy nhận ra mình tội lỗi, và nhận ra Đấng ở gần bên. Mẻ cá bất ngờ mở đường cho một lời mời gọi mới: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ thành kẻ bắt người.”

Simon lại có nhiều lý do hơn để từ chối. Chuyện gia đình bề bộn, tương lai bấp bênh. Kẻ quen bắt cá đâu có khả năng bắt người. Kẻ tội lỗi đâu xứng với sứ mạng. Nhưng một lần nữa, Simon dám tin vào Lời Chúa, để cho Chúa tự do lôi kéo mình.

Ông đã bỏ lại bao điều ông yêu mến. Khi bỏ lại hai thuyền đầy cá, ông tin rằng những mẻ cá mới đang đợi ông. Và Simon cứ lớn dần lên sau mỗi bước của lòng tin.

Tin đòi vượt trên lối suy luận thông thường, vượt trên kinh nghiệm, vượt trên mệt mỏi của xác thân.

Tin đòi tôi ra khơi buông lưới thêm một lần nữa.

Tin đòi tôi bỏ lại tất cả để theo Chúa. Bỏ tất cả là đặt tất cả dưới Chúa và sử dụng tất cả trong Ngài.

Chúa vẫn gọi tôi ra khỏi lối mòn quen thuộc, khỏi những điều tưởng như không thể thay đổi. Tôi có sẵn sàng lên đường theo Ngài không?

***

Lạy Chúa, chúng con  không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.

Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.

Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.

Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.

Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.

Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.

Trích từ “Manna”

nguồn: ngocnga Và Anh chị Thụ & Mai gởi

Dân Trung Quốc dùng internet chống tham nhũng

Dân Trung Quốc dùng internet chống tham nhũng

Trong năm ngoái, có ít nhất 24 vụ án tham nhũng lớn được phanh phui trên mạng internet trước khi nhà chức trách điều tra và xử lý

William Ide

07.02.2013

nguồn: VOA

BẮC KINH — Nhà báo tự do Chu Thụy Phong ở Trung Quốc đã thu
hút sự chú ý của quốc tế hồi cuối năm ngoái khi ông dùng internet để phổ biến
đoạn phim quay cảnh dâm ô của một quan chức chính quyền địa phương với cô nhân
tình tại khách sạn. Vụ phanh phui này đã khiến chính quyền phải có hành động.
Theo tường thuật của thông tín viên William Ide của đài VOA ở Bắc Kinh, trong
năm ngoái đã có ít nhất 24 vụ án tham nhũng lớn được phanh phui trên mạng
internet trước khi nhà chức trách điều tra và xử lý.

Ông Chu Thụy Phong có lẽ chỉ được trang bị với một cuốn sổ tay, internet và
DVD, nhưng ông đã làm cho một số quan chức lo sợ đến mất ăn mất ngủ. Ông cho
biết ông định phổ biến thêm những đoạn băng video gây xấu hổ như đoạn băng quay
cảnh dâm ô của ông Lôi Chấn Phú, một cựu quan chức của chính quyền thành phố
Trùng Khánh.

Những hoạt động tranh đấu của ông Chu đã thu hút những sự chú ý ngoài ý muốn.
Hồi cuối tháng trước, một nhóm người hung hãn, gồm có hai nhân viên cảnh sát và
các quan chức khác của chính quyền Trùng Khánh, đã tới gõ cửa nhà ông và đòi
ông ra ngoài nói chuyện. Ông Chu đã từ chối, và thay vào đó, ông gọi điện thoại
cho các nhà báo và gởi đi những tin nhắn khẩn cấp trên internet.

Ông Chu còn phổ biến trên Weibo, một trang mạng xã hội ở Trung Quốc tương tự
như Twitter, những hình ảnh video thu được từ một máy thu hình gắn ở cửa nhà
ông.

Ông Chu nói rằng tuy nạn tham nhũng lan tràn ở Trung Quốc nhưng chỉ có những vụ
tai tiếng tính dục mới được xử lý một cách nhanh chóng. Ông nói thêm rằng nhờ
có tự do báo chí trên internet mà người dân biết được những gì đang xảy ra và
nhờ vậy mà những thành phần tham ô không dám lộng hành.

Không phải chỉ có những nhà báo tự do bạo gan mới là những người tập trung chú
ý vào vấn đề tham nhũng. Khi ông Chu phổ biến đoạn phim sex của ông Lôi, phim
này đã được truyền thông nhà nước đăng lại. Tuần trước, Tân Hoa Xã của nhà nước
Trung Quốc đã phỏng vấn ông Chu về vụ đối đầu với nhân viên cảnh sát và về việc
những nhân viên đó đòi ông phải giao nộp những cuộn phim còn lại.

​​Ông Tập Cận Bình, đương kim Tổng bí thư Đảng Cộng Sản và là người sắp lên giữ chức Chủ tịch nước, đã cam kết đưa các quan chức tham ô ra trước ánh sáng công lý và thay đổi hình ảnh của đảng trong tâm trí người dân.

Nhưng ông Chu nói rằng sẽ không có được những thay đổi thật sự nếu các quan
chức không phải chịu trách nhiệm đối với công chúng.

Ông Zhu nói rằng mọi quan chức tham ô đều có ô dù là những người cấp trên của
họ. Ông cho rằng các quan chức Trung Quốc bao che cho nhau và cách duy nhất để
giải quyết vấn đề là chính quyền phải tôn trọng quyền tự do báo chí và tự do
diễn đạt và để cho người dân được quyền bầu cử, ứng cử đối với các chức vụ
trong chính phủ.

Khi lên làm Tổng bí thư hồi tháng 11 năm ngoái, ông Tập Cận Bình đã cam kết sẽ
làm nhiều hơn nữa để lắng nghe ý kiến của người dân và bảo vệ các quyền của họ.
Tuy nhiên, ông không hề nói tới việc nới lỏng sự cai trị độc đảng của Đảng Cộng
Sản Trung Quốc.

Ông Hà Gia Hồng, một nhà luật học của Đại học Nhân dân Trung Quốc, nói rằng
Trung Quốc không hề thiếu luật lệ chống tham nhũng.

Chúng tôi có hiến pháp, chúng tôi có nhiều luật lệ, chúng tôi có nhiều qui
định, nhưng những thứ này không có hiệu quả cho lắm trong thực tế. Quí vị có
thể thấy điều này qua những luật lệ hàng ngày, như luật giao thông. Không có
mấy ai tuân thủ những luật lệ này và những luật lệ quan trọng hơn như các qui
định hành chánh và ngay cả hiến pháp. Đối với vấn đề pháp trị ở Trung Quốc,
chúng tôi cần phải chú trọng tới việc chấp hành luật pháp và các nhà lãnh đạo
phải làm gương cho việc này.

Trong lúc chờ đợi các nhà lãnh đạo làm như vậy, Trung Quốc có thể sẽ phải tiếp
tục nhờ tới các cá nhân, như ông Chu Thụy Phong, internet và các phương tiện
truyền thông xã hội để thúc đẩy chính quyền hành động.

 

ĐI TÌM THÚ VUI ĐIỀN VIÊN !

ĐI TÌM THÚ VUI ĐIỀN VIÊN !

Tràm Cà Mau

Vợ chồng tôi đến Mỹ gần chẵn mười năm. Những lo lắng ban đầu vì sinh kế đã tạm quên. Cũng đã thực hiện được “cái mộng của người Mỹ” là mua được căn nhà khá khang trang. Thêm vào đó, tiền tiết kiệm trong ngân hàng khá dồi dào. Cũng nhờ công sức hai vợ chồng, làm ngày làm đêm, làm không quản ngại khó khăn, không ngại thứ bảy, chủ nhật, đêm khuya, cứ có việc là có làm, có tiền là có chúng tôi. Chúng tôi chưa biết chê làm việc phụ trội bao giờ. Một hôm chủ nhật rảnh rang, thức dậy muộn, còn nằm trên giường, hai vợ chồng nằm gác chân nói chuyện tầm phào. Vợ tôi hỏi:

“Anh có nhớ câu: ‘Một mai một cuôc, một cần câu” của ông Nguyễn Bỉnh Khiêm hay của ông Nguyễn Khuyến? Câu nầy tác giả muôn nói gì anh nhớ không?”

Được một người nguyên là giáo sư Việt văn các lớp thi Tú Tài hỏi về văn chương, tôi cũng khoái chí, làm bộ hiểu biết, trả lời:

“Ông Nguyễn Khuyến hay Nguyễn Bỉnh Khiêm, không cần phải nhớ ai là tác giả làm chi cho mệt, cứ nhớ là ông Nguyễn thôi cũng đủ rồi. Câu thơ ca ngợi cái thú thanh nhàn khi sống nơi thôn dã.”

Vợ tôi nói tiếp:

“Ngày xưa, anh thường nói với em về giấc mơ khi đất nước hết chiến tranh. Chúng mình sẽ về quê, mua mấy mẫu ruông vườn, và vui thú điền viên. Sống đời thanh thản hạnh phúc. Anh còn nhớ không?”

“Ừ, thì nhớ chứ. Giấc mơ ấp ủ suốt một thời niên thiếu mà. Tiếc thay, sau khi hết mùa chinh chiến, thì đến mùa tù tội. Mà không tù tội, thì cũng không thể nào vui thú điền viên được trong cái xã hội vô cùng kỳ lạ, vô cùng gò ép con người đó. Nghĩ cũng tiếc.”

Vợ tôi nắm chặt tay tôi, nói với giọng tha thiết:

… Bây giờ mình muốn vui thú điền viên cũng đâu có muộn. Cái mộng anh ấp ủ ngày xưa có thể trở thành sự thực dễ dàng. Hay là mình bán nhà, mua một nông trại, lấy hết tiền tiết kiệm ra đầu tư vào chăn nuôi, trồng trọt. Nuôi các thứ gà vịt thả trong vườn, bán cho đồng hương Việt nam mình, trồng các thứ rau ráng mà người Mỹ không sản xuất như rau muống, bí bầu, bạc hà, tần ô, rau răm, rau thơm vân vân, chiếm luôn độc quyền cung cấp cho thị trường. Và gởi máy bay chuyển hàng lên miền đông bắc, tây bắc nước Mỹ mà bán. Không chừng mau phát đạt, mà lại nhàn nhã, có cơ sở vững chắc cho con cái sau nầy tiếp nối.”

Nghe thì khoái, nhưng tôi thở dài:

“Em nghĩ cũng hay lắm. Nhưng anh tiếc công việc đang làm hiện tại. Lương bỗng cũng khá. Công việc làm đã quen. Mình trở thành chuyên viên rồi. Bỏ đi cũng uổng. Vã lại, công việc em đang làm cũng khá bền vững. Bỏ cái bền vững, đi tìm cái bấp bênh, anh cũng hơi ngại.”

Vợ tôi cũng thở dài, tiếng thở dài dài hơn và não nề hơn:

“Công ty em đang làm, cũng chuẩn bị dọn qua một xứ Nam Mỹ, có nhân công rẻ hơn, để cứu vản tình trạng thua lỗ từ mấy năm nay. Em chưa nói với anh, vì ngại anh lo.”

Tôi hỏi vợ:

“Ai bày cho em cái kế hoạch lui về làm nông trại, vui thú điền viên nầy? Em đã nghĩ kỹ chưa, và có chương trình kế hoạch gì trong đầu chưa?”

Vợ tôi trả tời tự nhiên:

“Không ai bày cả. Cách đây mấy tháng, một đêm mất ngủ, em bật truyền hình lên . Xem một phim kể về đời sống ở nông trại thời xưa. Sao mà thanh bình hạnh phúc như trong mộng. Đời sống dễ thương quá. Và những lần đi chợ Á Đông, em thấy họ bán rau muống, rau màu Việt Nam đắt như vàng. Bán khoai mì đắt như sâm nhung. Em nghĩ mình có một nông trại sản xuất ra các thứ hiếm hoi nầy mà cung cấp cho các chợ, thì có thể hốt tiền thiên hạ như hốt lá. Anh xem, những lần tiệc tùng họp bạn, mà có thịt gà tươi “chạy bộ”, ai ăn cũng khen rối rít, xít xoa. Đó là chưa kể mình nuôi vịt bán cho thiên hạ làm tiết canh. Mình cứ đánh đúng vào thị hiếu của họ, thì mặc sức mà hái ra tiền. Chỉ một thời gian ngắn thôi, là hai vợ chồng mình thanh nhàn sung sướng, thong thả, và khi đó thì có thể khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên, chứ không làm việc túi bụi như bây giờ“.

Nghe vợ vẽ vời hay quá, cái lãng mạn đã ngủ yên trong tôi bỗng dưng thức giấc xao xuyến. Thanh nhàn, sung  ướng, ai mà không ưa, họa là khờ. Và lại còn khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên, chao ôi, đẹp quá chừng. Dù khoái tai với cái mông tưởng của vợ, tôi cũng thử vợ tôi thêm:

“Em cũng biết, nhà anh suốt mấy đời chưa hề làm nông, chưa ai cầm đến cái cuốc, cái cày. Ông nội anh là nhà nho thất chí, suốt một đời mang áo dài the, cắp cái dù đi lang thang nhà bạn bè bàn chuyện cần vương hưng quốc, ba anh thì là nhà giáo, anh suốt đời cầm bút làm việc trong văn phòng, có biết chi về canh nông, về chăn nuôi, mà dấn thân vào đó.”

Vợ tôi hăng hái thuyết phục thêm:

“Anh cũng đã từng bị đi tù cải tạo, học tập lao động mấy năm, cũng đã cuốc đất trồng khoai, cũng có chút kinh nghiệm phần nào rồi chứ. Việc nào rồi cũng quen đi. Anh xem, ngày mới qua Mỹ, mình đâu có biết việc gì, mà rồi việc gì khó khăn đến đâu, cũng làm được cả. Đi qua biển với ngàn hiểm nguy như thế, còn làm được, thì việc gì mà không làm được?”

“Nầy, sao cái luận điệu của em hao hao giống luân điệu của những kẽ tự xưng là nhân dân anh hùng, họ thường bảo rằng vượt Trường Sơn đánh Mỹ còn được, thì việc gì mà không làm được. Anh nói thêm cho em rõ, học tập lao động trong trại tù, là học được cái trây lười, cái làm cho có. Và nếu lao động như thế để kiếm ăn, thì đói cho vẫu mỏ ra.”

Cứ thế, vợ tôi nhẹ nhàng
thuyết phục tôi về một cuộc đời vui thú điền viên, về cái hạnh phúc đơn sơ
trong thanh nhàn, cái an bình trong tâm tưởng, được làm chủ lấy mình, không tùy
thuộc vào công ăn việc làm của người khác, không lo kinh tế nay lên mai xuống,
bấp bênh sụt trồi.

Thấy vợ tha thiết với nông
trại, mà những vẽ vời của nàng cũng đẹp thật, tôi cũng muốn làm vui lòng vợ một
lần. Vợ tôi đã khổ, đã chịu nhiều cay đắng trong đời khi chồng đi tù, khi chồng
tù về, và đã theo tôi đi qua bao đoạn đường chông gai khó khăn của cuộc đời. Mơ
ước của vợ tôi về cuộc sống nông trại, cũng rất chính đáng. Tôi bằng lòng bán
nhà, mua đất làm ăn.

Chưa bán được nhà, mà chúng
tôi đã được mấy ông hành nghề địa ốc lôi chạy. Chạy đôn chạy đáo theo mấy ông
từ vùng nầy, qua vùng kia, để xem đất, để xem các bảng tính toán lỗ lời do các
ông đưa ra. Hình như cuộc đất nào cũng tốt, cũng đem lại một tỉ suất lời cao.
Cuối cùng, chúng tôi cũng mua được một sở đất năm mẫu, cách thành phố Dalas bảy mươi dặm về hướng bắc. Lái xe chừng hơn một giờ thì đến thấu.

Năm mẫu đất nằm giữa đồng
không mông quạnh, gió thổi vun vút, mùa hè bụi lốc xoáy mù. Chủ đất và người
hành nghề địa ốc dẫn tôi đi, lội cỏ lút đầu gối để chỉ các cột mốc ranh giới.
Tôi và vợ đi theo, mà thở hồng hộc, vấp té mấy lần.

Học theo các chủ nông trại
đi trước, chúng tôi mua một căn nhà tiền chế có ba phòng ngủ, hai phòng tắm và
thuê xe kéo về đặt trên thửa đất. Căn nhà trông bên ngoài cũng rất mỹ thuật,
đẹp đẻ. Phòng ốc bên trong xếp đặt rất hợp lý và sáng sủa. Ngồi trong nhà,
không có cảm giác chi là căn nhà tiền chế. Vợ tôi khen, căn nhà nầy còn mới, và
rộng không thua chi căn nhà cũ của chúng tôi. Nhìn cái xe của hãng sản xuất nhà
tiền chế kéo cái nhà về đặt trên sở đất mà ngán. Cái nhà dài lòng thòng, và
rộng bề ngang, kéo đi choán hết bề rộng mặt đường. Hãng phải xin giấy phép đặc
biệt để kéo đi. Cái nhà về đến trước đường cái, chiếc xe từ từ nhích vào nơi
chúng tôi muốn đặt căn nhà, mới chạy được một đoạn ngắn, thì bánh xe lún xuống
đất bùn nhão nhẹt và quay tít. Lui không được mà tiến cũng không xong, tiếng
máy xe gầm lên từng hồi như con thú bị thương. Thì ra vì trời mưa suốt tuần
trước, làm đất mềm và nhão, không đủ sức cho bánh xe cán lên. Ông tài xế râu
ria xồm xoàm và ăn mặc áo da, giống như mấy tay găng tơ trong phim xi nê nhảy
xuống xe và chữi thề om xòm, làm như chính tôi là thủ phạm làm xe ông mắc lầy.
Tôi lãng ra nơi khác, không muốn thấy cái thái độ thiếu lịch sự của gã. Ông đòi
mượn ván gỗ để chêm bánh xe, tôi làm sao có được, y chạy lui chạy tới như gà
mắc đẻ, rồi hét lớn;

“Tại sao không cho biết đất còn mềm, bây giờ làm sao mà lui ra đây?”

“Tôi làm sao mà biết được đất cứng hay mềm mà nói? Đâu phải là chuyện của tôi?”

“Thế thì cái nhà nầy của ai đây? Không phải của anh chắc?”

Ông tài xế lên xe, dùng điện
thoại kêu về công ty và ngồi chờ. Chừng hơn một giờ sau, có chiếc xe khác tới
phụ, lôi chiếc xe bị lún bùn ra. Cái nhà bị đẩy giật tới, giật lui, lúc lắc.
Cuối cùng, cái nhà được tạm thời hạ xuống bên đường lề đường, và lấn ra, choán
gần hết mặt lộ. Cái nhà nằm khơi khơi trên con đường trông rất chướng mắt. Ông
tài xế bảo tôi:

“Cứ để tạm đó, chờ khi nào đất khô rồi kéo vào.”

Tôi vô cùng bối rối. Cái nhà choán mặt đường, xe cộ ngược chiều đi qua không thấy nhau, và phải nhường cho nhau đi qua trong một phần nhỏ hẹp của lòng đường còn lại. Mà chẳng có bảng hiệu, bảng thông báo trước để xe chuẩn bị mà tránh nhau.

“Thế thì bao giờ cái nhà mới được đem vào bên trong” Tôi lo ngại hỏi anh tài xế.

“Không biết. Chờ”

“Để ngoài đường như thế nầy rất nguy hiểm cho người lái xe. Lỡ họ tông hư nhà thì làm sao”

“Anh không phải lo” Ông tài xế trả lời tôi như nói với đứa con nít…

Không biết làm gì hơn, tôi
cùng vợ lái xe về, mà trong lòng không yên. Hôm sau, chúng tôi đến lại cuộc
đất, thì thấy cảnh sát đã gài giấy phạt, và hăm phạt tăng nhiều lần nếu còn để
cái nhà choán đường lưu thông. Tôi đem giấy phạt về công ty bán nhà và than phiền
với hãng. Ông chủ hãng nầy không tiếp tôi, mà giao cho người khác giải quyết.
Anh chàng nầy nói năng rất từ tốn, bảo là hãng sẽ giải quyết ngay, đừng lo. Thế
nhưng cả tuần sau, cái nhà mới được đưa đúng vào vị trí mong muốn. Tôi tưởng
đặt nhà là ở được. Nhưng không. Đi tiêu đi tiểu và nước thải đổ vào đâu? Không
lẽ lấy cuốc đào chút đất trong vườn, sau khi đi tiêu, lấp lại như ở nhà quê
sao? Thế là phải chạy đi mua cái hầm tiêu tự hoại. Mua thì dễ, mà giấy phép đặt
hầm cầu, thì có những chi tiết kỹ thuật bắt buộc phải cung cấp cho văn phòng
quận. Lại mất thêm tiên cho công ty kỹ thuật lập hồ sơ. Cái nhà tiền chế bị
dịch lui dịch tới nhiều lân, làm gảy các ống nhựa bắt sẵn bên trong, cho nên
khi nối đường nước vào, thì nước chảy tung tóe. Ướt hết từ trong ra ngoài. Tôi
đứng nhìn mà ngao ngán. Phải chờ thêm mấy ngày để chờ thợ ống nước đến sửa
chửa.

Khi tôi đến công ty điện,
công ty nước để xin nối điện, nối nước vào nhà, tôi mới giật mình thấy cái bảng
ước tính chi phí bắt điện, bắt nước. Nhà tôi xa đường dây điện chính, phải
trồng thêm nhiều trụ điện khác, mới chạy được đường dây vào. Tôi phải chịu phí
tổn đó. Không ai nói trước cho tôi điều nầy. Dù chi phí cao đến mấy, tôi cũng
phải cắn răng mà ký tên vào tờ giao kèo, thỏa thuận. Không lẻ phải mua máy điện
riêng, lôi thôi chịu chi nỗi. Đã đâm lao thì phải theo lao, chứ làm sao bây
giờ. Đường nước, thì tôi may mắn hơn, nước đã đến cách cuộc đất chúng tôi không
xa lắm, nhưng cũng phải chi tiêu khá nhiều để chuyển nước từ ống chính vào.
Công ty nước đào đất, chuyển ống đến đồng hồ mà thôi, sau đồng hồ nước là mình
phải tự lo lấy. Thợ ống nước tính tiền ngọt lắm, đào xới, lắp ráp, sửa chửa,
chút chút là đòi bạc trăm, bạc ngàn, mình không có dụng cụ, và không có kinh
nghiệm, nên cứ cắn răng mà trả, có kêu ca cũng vô ích. Tôi đứng quan sát các
anh thợ, để học lóm nghề, thì ra cũng dễ dàng như chơi. Chịu khó mua một ít
dụng cụ, thì cũng có thể tự làm được. Nhờ học lóm, mà sau nầy, tôi tự chạy
đường nước tưới cây trong vườn.

Bốn góc nhà, tôi bắt thêm
bốn vòi nước, để dễ câu ra vườn. Đất mùa mưa nhão nhẹt, không chạy xe vào nhà
được, tôi kêu xe đổ sạn trắng, làm thành một vòng cung ngay trước nhà. Cái đỉnh
vòng cung là cửa vào nhà, hai chân vòng cung nối ra đường. Phải đặt ống cống
cho nước trong mương bên lề đường thông thương. Khi xe vào vườn, chỉ cần chạy
một chiều, vào bằng một cửa, ra bằng cửa khác. Vợ tôi ví cái đường vòng cung
nầy với sân tòa Bạch Ốc, cũng sang trọng và đẹp không kém.

Vợ tôi sung sướng ngâm nga :

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ.

Người khôn người tìm chốn lao xao”.

Ngâm đi ngâm lại mãi. Vợ tôi
bàn rằng, làm thêm một cái bệ gỗ bên cạnh nhà, che song gỗ bên trên, mùa hè ban
đêm cả gia đình ra ngồi ngắm trăng, uống trà ăn kẹo ngọt, để nhớ miền quê Việt
Nam. Cũng để xem ông thi sĩ miền Bắc nước ta, bốc thơm đàn anh Trung Quốc rằng
“Trăng nước Mỹ không đẹp bằng trăng Trung Quốc” có đúng không. Nghe đã lỗ tai,
tôi mua gỗ về hì hục, cưa đóng cả tuần mới xong. Tốn tiền, mà sau nầy vì công
việc nông trại tối mắt, tắt mày, chưa bao giờ có thì giờ rảnh ra ngồi ngắm
trăng uống trà, chỉ có những khi mệt vã mồ hôi, ngồi bệt lên sàn nghỉ một chốc
mà thôi.

Bây giờ thì phải làm hàng
rào bao quanh khu vườn lại. Tôi mua cọc sắt, và lưới làm hàng rào. Loại cọc mà
bên Việt nam mình kêu là cọc sắt ấp chiến lược, và loại lưới gọi là lưới B40.
Nhìn vào bảng ước tính giá mua cọc và lưới mà mặt vợ tôi nhăn lại như ăn dấm
chua. Cũng mất mười mấy ngàn đồng. Không thể chịu đựng nỗi chi phí nầy, tôi
quyết định chỉ rào khu chăn nuôi thôi, còn khu trông trọt thì cứ để trống. Ai
mà chạy xe ra đến đây để ăn cắp hoa màu cuả mình. Nước Mỹ chớ đâu phải châu Phi mà lo. Hãng bán cọc sắt và lưới đổ cho tôi một đống lớn trong vườn. Mình phải
tự làm hàng rào lấy, chứ thuê thì tiền đâu mà chịu nỗi. Tôi mua búa tạ và thang
xếp, làm thành cái dàn. Con gái tôi mới mười bốn tuổi, giúp bố giử cây cọc, tôi
leo lên, dùng búa giáng xuống. Sức dộng của búa rung cây cọc sắt, làm tay con
tôi đau buốt và buông cọc ra mà kêu thét lên. Tôi phải làm một nùi vải, chêm
vào tay cho nó cầm. Cứ đóng vài ba búa, là thấy cọc có chiều nghiêng nghiêng,
không đứng thẳng được. Tôi phải leo xuống, dùng dây dọi điều chỉnh rất khó
khăn. Vợ tôi dứng nhìn và nói:

“Đóng cọc theo lối nầy, thì không chừng tốn cả năm trường mới xong được.”

Hai bàn tay tôi đỏ và sưng
lên. Con gái tôi cũng nhăn nhó mặt mày vì cái trò chơi không mấy hứng thú nầy,
và phải đứng ngoài nắng gió cả buổi. Để việc rào dậu chóng hoàn tất, tôi phải
tính đến chuyện thuê người làm phụ. Tôi bàn với vợ, thuê một anh người Mễ. Vợ
tôi ngại sẽ bị lôi thôi với pháp luật, vì thuê người nhập cảnh bất hợp pháp.
Tôi bảo rằng, tôi không ra ứng cử dân biểu, nghị sĩ, thì sợ gì, có ai mất công
mà tố cáo tôi thuê người nhập cảnh bât hợp pháp.

Sáng hôm sau, tôi lái xe về
phía Nam nông trại, đi mất chừng hơn nửa giờ, đến gần khu có cây xăng, nơi đây
các thanh niên người Nam Mỹ thường hay tụ tập, đứng lóng ngóng chờ người đến
thuê đi làm. Xe tôi vừa đậu lại, thì có hơn hai chục thanh niên vây kín, lao
nhao đòi đi làm. Có vài anh còn nhãy lên thùng xe ngồi đó. Không ai biết tiếng
Anh, mà tôi thì mù tịt tiếng Mễ. Họ biết tôi cần người làm, tôi biết họ cần
việc làm, nhưng không ai nói cho ai hiểu là phải làm việc gì.

Tôi nhãy xuống xe, đứng cong
lưng, hai tay đưa lên đưa xuống, ra dấu đóng cọc. Họ à à gật đầu và cười, nói
“Ô kê, ô kê”. Tôi ra dấu, đưa một ngón tay lên, bảo là chỉ cần một người thôi,
thế mà bốn năm người nhảy lên thùng sau xe ngồi, và chục người khác bu theo
nhao nhao, nói gì tôi không hiểu. Tôi chán quá, la lên và khoát tay và lắc đầu,
có ý bão họ là không thuê ai nửa cả, đòng thời ra dấu cho mấy người ngồi trên
xe tôi đi xuống. Phải lâu lắm, tôi mới rời được đám người nầy. Khó quá, mình
không biết nói, mà họ cũng không hiểu mình, và cứ đeo theo đòi đi làm. Tôi lái
xe đi, giả vờ như không thấy những người Mễ hai bên đường đang ra dấu, hỏi tôi
có thuê họ hay không. Dừng xe lại là họ nhào đến, không đi được.

Tôi đang phân vân, chưa biết
phải làm thế nào, thì thấy có một anh Mễ to lớn, mập mạp, đang đi một mình trên
đường, tôi chạy xe chậm lại, và hất đầu làm dấu như hỏi anh ta có muốn đi làm
viêc hay không. Anh vui vẻ gật đầu, tôi mở cửa cho anh lên xe, thì thấy có
nhièu người khác chạy gấp về phía tôi, và la lên, có người níu xe. Tôi phải xua
tay, và rồ máy chạy thẳng. Đến một góc đường xa, tôi dừng xe lại. Hỏi anh Mễ
muốn tôi trả bao nhiêu một ngày. Hai bên không hiểu nhau, anh Mễ cứ đực mặt ra,
như người điếc. Tự nhiên tôi cảm thương anh Mễ , vì anh làm tôi nhớ tới thời
mới tới Mỹ, ai nói gì cũng không hiểu và chỉ cười. Tôi lấy giấy ra, ghi số tiền
tôi muốn trả cho anh ngày hôm nay, cao hơn lương lao động tối thiểu chừng mười
lăm phần trăm. Anh Mễ lắc đầu, ghi số tiền gấp đôi. Tôi ra dấu cho anh xuống
xe. Anh lấy giấy ghi số tiền thấp hơn. Tôi lắc đầu. Cuối cùng, anh bằng lòng
làm việc với số tiền công tôi ghi ban đầu.

Đi bốc người, vừa đi vừa về
mất hơn hai giờ, rồi buổi chiều phải mang trả anh ta tại chỗ cũ nữa. Nhưng
không thể làm việc một mình được.

Tôi dẫn anh Mễ vào, dắt đi
quanh vườn, ra dấu cho anh biết là tôi sẽ đóng cọc hàng rào quanh khu nầy. Hai người
nói chuyện với nhau bằng tay, ra dấu, và tôi nói tiếng Anh, anh ấy nói tiếng
Mễ. Tôi cầm cọc sắt cho anh Mễ đóng. Tôi nghĩ là với cái tướng dáng to lớn vạm
vở đó, anh chỉ đóng ba búa cho mỗi cọc, là đi tuốt xuông đất sâu. Nhưng không
ngờ, anh Mễ dáng búa lên, và gõ nhẹ xuống cây cọc, như sợ cây cọc đau, cứ từ từ
chầm chậm búa xuống, thong thả nhàn nhã và nhẹ nhàng. Đóng mãi mới xong được
một cây cọc. Vợ tôi đứng nhìn. Khi đóng qua cây cọc thứ hai, thì vợ tôi hỏi:

“Anh ơi, ông Mễ múa thể dục
Tài Chi hay sao mà yểu điệu và khoan thai thế. Đóng cọc theo lối nầy, thì biết
đến thuỡ nào mới xong được?”

Tôi cũng nóng ruột với cái
dáng điệu khoan thai của anh Mễ, kêu anh xuống thang, và bảo anh cầm cây cọc
cho tôi đóng. Anh cầm cây cọc chắc lắm, tôi cứ đóng xuống là thẳng đứng. Ừ thì
ít ra cũng xữ dụng được cái sở trường của anh nầy. Tôi tự an ủi là dùng người
như dùng gỗ, dùng cái ưu điểm của anh ấy thôi. Chưa lao động quen, mồ hôi cứ vã
ra như tắm, và tôi uống nước liên tục. Cứ nữa tiếng, là tôi nghỉ ngơi một chốc.
Vợ tôi phàn nàn rằng, thuê người để họ làm, chứ đâu phải thuê người về vịn cây
cọc. Sau nầy tôi mới được các bạn bè cho biết, họ làm theo đồng tiền được trả,
khi cho là ít tiền, thì họ làm ít. Tiền nào của đó, và môt lý do nữa, là họ làm
chậm, thì hy vọng công việc làm được nhiều ngày hơn.

Buổi chiều, trả tiền cho anh
Mễ, anh kỳ kèo đòi thêm, cứ đưa tay ra mãi. Bực quá, tôi cho thêm năm đồng, anh
vẫn chìa tay ra, tôi lắc đầu cương quyết không là không. Vợ tôi thấy tôi cho
thêm tiền, tiếc của la lối :

“Không làm được gì mà anh
còn cho thêm tiền ư?”

Vợ tôi kéo tôi ra nói nhỏ:

“Em nghĩ anh Mễ nầy không
được lương thiện lắm. Cứ nhìn trộm em hoài., làm em sợ. Chắc mình phải mua
súng, để tự vệ. Chứ nơi đồng không mông quạnh nầy, có chuyện gì xẫy ra chẵng
biết làm sao.”

Tôi cảm thấy lo, nói cho vợ
yên lòng:

“Ừ, để rồi tính sau. Dễ mà,
xứ nầy mua bao nhiêu súng cũng được, bất cứ loại súng nào.”

Tôi ra dấu cho anh Mễ lên
xe, để tôi chở trả anh về nơi cũ. Khi đến gần nơi xuống xe, anh nói: “Mà nha
na, mà nha na” (manãna: ngày mai), có ý muốn ngày mai làm việc nữa. Tôi chỉ
hiểu tiếng ngày mai thôi. Lắc đầu, tôi nói “Nô mà nha na.”

Chẳng thể không thuê người
phụ đóng cọc được, hôm sau tôi lái xe về nơi cũ. Khi đi ngang chỗ các anh Mễ,
tôi gia tăng vận tốc chút xíu, thế mà cũng có những cánh tay đưa ra ngoắt tôi.
Lòng tôi lại chợt chùng xuống, và thương những người lìa bỏ quê hương đi kiếm
ăn. Tôi nghĩ đến thân phận mình may mắn hơn, được vào Mỹ hợp pháp, được đi làm
và cũng có cơ hội đồng đều như người Mỹ sinh trưởng tại đây. Tôi liếc mắt tìm
những anh Mễ đứng đơn dộc, và chạy xe chậm lại kềm sát một người đang đi ngược
chiều. Tôi hất đầu làm dấu, anh Mễ gật đầu. Tôi mừng vì anh nầy biết lỏm bỏm
tiếng Anh. Tôi đưa giá, anh bằng lòng ngay. Anh nầy cao, gầy, rắn chắc, tên là
Pedro.

Rút kinh nghiệm ngày hôm
qua, tôi không nói trước là phải làm bao nhiêu hàng rào để họ khỏi tính chuyện
câu giờ. Tôi giữ cọc sắt cho Pedro đóng xuống. Anh đóng ào ào, mỗi nhát búa tạ
của anh làm cây sắt đâm sâu xuống đất, sâu gấp hai lần mỗi nhát búa của tôi.
Tôi bằng lòng lắm. Vợ tôi đem nước cam và thức ăn, cùng trái cây ra đãi trong
khi chúng tôi nghỉ xả hơi. Ngày hôm đó, chúng tôi đóng được gần ba lần ngày hôm
trước. Vợ tôi vui ra mặt và nói với tôi:

“Sao anh không đề nghị cho
Pedro làm khoán , có lẻ mình đỡ mệt, mà đi lo việc khác.”

Tôi cố gắng lắm mới nói cho
Pedro hiểu. Anh bằng lòng làm, và cho một cái giá thấp mà tôi không ngờ được.
Tôi chở Pedro về, và hẹn hôm sau trở lại đón lúc bảy giờ sáng. Hôm sau Pedro
đem theo một người bạn, hai anh thay phiên nhau đóng cọc, và làm mãi cho đến
khi trời tối mịt mới nghỉ. Tôi đãi hai anh nầy cơm nước, bánh trái rất hậu. Vợ
tôi nói “Ngày xưa Tào Tháo đải Quan Công e cũng chỉ đến thế mà thôi.” Chỉ mấy
ngày, Pedro và bạn anh đã hoàn tất cái hàng rào. Họ còn nhổ lên và đóng lại
những cái cọc xiên xẹo, những cái tôi đã đóng lúc đầu.

Hôm hoàn tất hàng rào, tôi
làm tiệc đãi Pedro, thịt nướng ăn với rau, có mấy chục lon bia trợ lực. Trả
tiền, và tính lại thì tiết kiệm được rất nhiều tiền công, nếu thuê hãng chuyên
môn rào, thì tiền nhân công đắt gấp ba lần.

Xong cái hàng rào, tôi mua
hai trăm con vịt xiêm, ba trăm con gà, thả vào vườn. Cho chúng mặc sức mà đi
lại, chạy nhãy và phá phách khu cỏ chưa trồng trọt. Vịt thì ban đêm nó chui vào
gầm nhà tiền chế mà ngủ, tránh sương tránh gió. Cứ đầu hôm, chúng kêu om sòm.
Có khi nữa đêm giật mình vì tiếng vịt kêu. Con tôi cho rằng có lẽ vịt nó nằm mơ
và la hoảng. Tôi nghĩ là vịt nó núp dưới sàn nhà rất tiện lợi, đở tốn tiền làm
chuồng. Nhưng chỉ mới mấy ngày, vợ tôi la các con, hỏi có đứa nào đạp phân gà
vịt và mang vào, làm dính thảm nhà hay không, sao có mùi hôi mãi. Tôi giật
mình, thì ra vịt nó phóng uế đầy ngập dưới gầm nhà. Thế là tôi phải lái xe đi
mua vật liệu, về hì hục đóng chuồng. Đóng một mình thì không được, phải có thợ
phụ. Vợ tôi giúp, và con gái đi học về cũng ra phụ. Tôi phải dùng vòi nước, bò
vào gầm rất thấp của căn nhà mà rửa cho sạch phân. Vừa chật, vừa hôi, vừa khó
chịu, tôi nghĩ mình dại quá, không nghĩ ra sớm cái chuyện vịt phóng uế . Thôi
thì phải trả nợ cái tội thiếu nghĩ xa.

Tôi định rào lưới che hầm
sàn nhà, thì có nhân viên của thành phố đến, cho tôi biết rằng, theo luật thành
phố, thì cái nhà phải mặc quần, nghĩa là che kín phần dưới chân lại, không có
quyền ở truồng, vì mùa đông sợ lạnh bụng. Thế là phải đi đặt hàng, mua vật liệu
để che kín cái chân nhà lại. Tôi cũng mất cả tuần mới hoàn tất cái quần cho căn
nhà. Thức ăn gà vịt, phải qua thành phố bên cạnh mà mua, chất đầy cả chục bao
trên xe, chạy về. Cũng chỉ có một mình tôi lăn xuống xe hơi, bỏ lên xe kéo, và
mang vào chất trong kho. Nặng nề, mệt lữ và bụi bặm. Không quen lao đông, khi
nào tôi cũng thở phì phò, có khi quáng mắt, thấy đom đóm giữa ban ngày.

Phân gà phân vịt tràn đầy cả
sân cỏ, cả lối đi, nhão nhẹt và dơ bẩn. Tôi dùng vòi nước xối rửa mỗi ngày. Sau
nầy, nhìn biên lai tiền nước, tôi giật mình không dám rửa ráy thường xuyên và
xài phí nhiều. Có tháng phải trả cả năm trăm đồng tiền nước, mà chưa bán được
đồng nào nông phẩm.

Gà cũng thả rong, vịt cũng
thả rong. Nhiều lúc chú gà trống lớn vô tình lãng vãng đi gần đàn vịt mái. Ông
vịt xiêm đầu đàn hiểu lầm, phóng đến đánh đuổi chú gà. Thế là có cuộc đọ sức,
như hai võ sĩ thượng đài. Chú gà đâu có chịu thua dễ dàng, nhảy lên, cắn vào
mồng ông vịt, dùng hai chân đạp thốc vào ngực vịt, có lẽ hai cái cựa nhọn cũng
đâm sâu vào địch thủ. Ông vịt dong hai cánh đập tạt vào, mạnh như roi quất. Có
khi làm chú gà lộn ngược nằm lăn ra đất. Cuộc chiến kéo dài, tôi và thằng con
trai ngồi coi khoái lắm, toét miêng cười, và có khi la hổ trợ cho cuộc chiến.
Vợ tôi thì nhãy đỗng lên mà gào:

“Anh không ra mà can chúng
ra, để chúng bị thương, có con chết đấy”

“Con nào chết thì đem nấu
cháo ăn”. Tôi trả lời.

Ông vịt hạ cái đầu xuông
thấp, thẳng ra phía trước như võ sĩ đi xà quyền. Chú gà ngóc đầu lên cao mổ
xuống. Ông vịt hất ngược cái đầu lên, thọc mạnh vào dưới hàm con gà, và hai
cánh vịt đập vào như trời giáng, chú gà ngã lăn quay. Dứng dậy, bỏ đi mà không
chạy trốn, rồi đập cánh bồm bộp, gáy hai tiêng dài, như thổi kèn chiến thắng.
Ông vịt chắc cũng thấm đòn, gờm, không dám đuổi theo.

“Sao con gà mà đấu thua con
vịt hở Ba?”
Thằng con trai tôi hỏi.

“Vì con gà thiếu chính
nghĩa. Léng phéng gần đám đàn bà của con vịt. Vả lại, theo luật quyền Anh, đây
là một cuộc đọ sức không cân xứng, con vịt nặng gần gấp đôi con gà?..”

Tôi trả lời chưa xong,
thì thằng con cắt ngang:

“Chính nghĩa là gì Ba?”

Vợ tôi nghe con hỏi, nạt
tôi:

“Thôi ba nó ơi. Đừng đầu
độc con cái. Thấy gà vịt đánh nhau, đã không can mà còn ngồi xem, tán thưởng.
Làm con nó quen với cái ác, hư đầu óc thơ ngây của chúng.”

Đám gà vịt nầy, ăn mạnh
và lớn mau, đẻ trứng lung tung đầy vườn. Chúng tôi phải đi nhặt cất vào thùng
lớn, mua hộp có ngăn đựng trứng mà chứa. Bây giờ thì phải nghĩ đến cách tiêu
thụ trứng nầy. Vợ tôi bàn rằng, mua một cái máy ấp, bán hột gà lộn hai mươi mốt
ngày, và bán luôn hột vịt lộn.

Cái máy ấp đem về, mỗi
lần ấp được ba trăm trứng. Ấp xong, tôi lựa những cái trứng lớn cho gia đình
dùng. Trứng ấp tại nhà, ăn ngon vô cùng,

Nước trong trứng ngọt
lịm. Tôi ăn một lúc sáu cái. Đứa con gái tôi rùn vai ghê sợ, không dám ăn.
Thằng con trai bắt chước bố, cũng ăn được năm cái, và bị sình bụng suốt đêm nằm
rên ư ử. Trứng ngon quá, đem đi bán thì uổng, tôi bàn với nhà tôi, chủ nhật
nầy, đem về thành phố tặng cho các bạn bè bà con, mỗi người vài chục hột ăn
chơi, hưỡng cái thành quả đầu tiên của nông trại chúng tôi.

Thế là chúng tôi mất thêm
một ngày chủ nhật, chạy từ nhà nầy qua nhà kia, chia cái vui của nông trại cho
bà con. Ai cũng khen, vồn vả tiếp đón, vì mấy khi có trứng lộn tươi như thế nầy
trên đất Mỹ. Chúng tôi ra về, dù đường xa mệt nhọc và tốn xăng, tốn sức, nhưng
lòng vui như hoa nở.

Tôi đi ngoại giao, gặp
các chủ tiệm bán thực phẩm Á Châu, hứa sẽ cung cấp cho họ rau tươi, bầu bí, gà
vịt tươi, trứng lộn, với giá rẻ. Đa số đều vui vẻ, và bảo tôi đem hàng đến cho
họ xem, rồi họ sẽ mua. Về sau, trứng ấp được đem bỏ mối cho các chợ, ban đầu
thì bán rất khá, nhưng càng lúc, thì càng ế ẩm, vì người ta ăn cho vui, ăn để
nhớ hương vị quê nhà, không phải ăn vì ngon, và muốn ăn thường xuyên. Trứng
không để lâu được, các tiệm bán không hết trả lui, tôi phải ôm về, còn phải năn
nỉ bạn bè để tặng không cho họ. Thế mà có người từ chối, và nói thẳng thừng là
không muốn ăn các thứ đó nữa. Đám gà vịt, cũng không bán được bao nhiêu, trong
nhà ăn mãi cũng ớn. Đem cho bạn bè thì nhiều. Người thì làm tiết canh vịt, vịt
xáo măng, gỏi gà, cháo gà, phở gà. Gà tươi nuôi trong vườn thì ăn ngon. Cho thì
họ ăn, nhưng mua thì không mua. Tiền bán gà vịt gom lại, không bằng tiền thực
phẩm mua cho chúng ăn trong vài tháng. Ấp trứng thì lỗ vốn lớn, có lẻ tiền bán
được chưa đủ tiền điện, tiền xăng, chưa kể công vận chuyển.

Khi nuôi vịt, tôi nghĩ
vịt là phải có nước cho chúng tắm, tôi chưa biết vịt có thể ở khô. Tôi thuê xe
ủi đất, hì hục đào một cái hồ lớn, cái hồ chứ không phải là ao. Mấy ngày ròng
rã. Tôi vật lộn với cái máy ủi đất. Đào, xời hắt lên cao. Khi đào xong cái hồ,
thì tôi chợt nhận ra là cái xe ủi đất đang nằm dưới lòng hồ, mà bờ hồ thì cao,
dốc đứng, xe không lên được. Tôi phải hì hục đào một đường dốc xiên cho xe đi
lên. Thế là vợ tôi có dịp để cười và chế nhạo. Đào hồ xong, thì phải xả nước
vào, và hy vọng mùa mưa khỏi phải tốn nước. Cuối tháng đó, đọc cái biên lai
tiền nước mà tôi hoa mắt, chóng mặt. Tôi phải dấu cái biên lai tiền nước, không
cho vợ biết, vì sợ vợ buồn. Cái ao đã đào lỡ rồi, mỗi ngày nước bốc hơi, phải
châm thêm cho đầy. Nghe tiêng nước chảy, mà tôi đau như máu mình đang thất
thoát. Bỗng tôi đâm ác cảm với bầy vịt, ăn thì như hạm, phóng uế vung vãi, bán
thì khó. Để già thì thịt dai, không ai ăn, và họ có lỡ mua một lần, thì lần sau
không dám đụng đến nữa. Vịt già cũng sẽ làm hại uy tín kinh doanh. Làm thịt bỏ
tủ lạnh, thì tôi không đủ can đảm đầu tư thêm cái máy làm gà vịt, không đủ vốn,
mà từ đó sinh ra nhiều chi phí khác nữa.

Cứ nghĩ ra thêm một cái
gì, thì tốn kém thêm tới đó. Có người mách tôi, cứ đem gà vịt ra chợ trời mà
bán vào các ngày họp chợ, từ thứ sáu đến chủ nhật. Lại biết thêm nghề bán chợ
trời. Bán ở chợ trời thì chịu nắng nôi, nhưng nhiều người mua. Về sau, tôi bán
sĩ với giá rẻ cho những người bán lẻ. Như thế thì mau hơn, đở tốn công, đỏ mệt
nhọc.

Tôi dựng giàn trồng bầu
bí, chưa kịp đi mua gỗ đóng giàn, thì có người mách bảo: “Hãy mua ống nước bằng
nhựa, mua thêm các khúc ống nối thẳng, nối cong, nối chữ T, chữ L. Cứ thế mà
ráp vào thành giàn, làm mau như gió. Tội chi mà đóng giàn gỗ cho khổ công mà
mau mục ải.” Tôi nghe theo lời thầy bàn, nghe thì có lý lắm, nhưng khi vào thực
tế thì gặp không biết bao nhiêu ván đế. Thứ nhất là quá tốn kém, thứ hai là
giàn không vững, khi gió thổi thì mấy cái giàn cứ đu đưa nhún nhẫy theo chiều
gió. Thế là phải mua thêm ống nước lớn mà chống chỏi, mà đâu phải là dễ chống,
vì ống nước nhựa trơn lu, không có nơi tựa, mà đông đinh thì xôc xệch lỏng lẻo.
Lại tốn thêm bộn tiền. Phải mua thêm lưới mắt cáo trùm lên cho bầu bí leo. Mỗi
ngày, buổi chiều đi học về, con gái tôi ra vườn tưới cây. Bầu bí lớn mau như
thổi, chẳng bao lâu dàn cây lá sum sê xanh mướt, ra hoa vàng rực, và những nụ
trái nhú ra đẹp như những nậm ngọc. Lũ ong bướm kéo đến nhỡn nhơ . Tôi nhìn mà
lòng vui không xiết. Rồi những trái bầu bí dài thòng, nặng chĩu, phải buộc dây
treo chúng lên.

Vợ tôi bàn rằng, nên thuê
người đổ đất làm một con đường chạy từ ngoài vào đến cuối vườn, để mai đây, khi
nông phẩm nhiều, xe vận tải lớn có thể vào chuyên chở thẳng ra chợ. Tôi thấy có
lý quá, đi giao thiệp,và giao cho nhà thầu đổ đất, cán đường, làm mương thoát
nước hai bên đường. Lại tốn kém thêm ngoài dự trù, nhưng nghĩ lại, mai đây, đở
tốn công thuê người khuân vác từ nhà ra đường. Sau nầy, con đường chưa được hân
hạnh đón chiếc xe vận tải nào đi qua, vì chúng tôi ước tính thì nhiều, mà thành
quả nông nghiệp không gặt hái được bao nhiêu.

Những trái bầu non, nấu
canh tôm ngọt nước, ban đầu thì ngon lắm, vợ chồng khen tấm tắc và như ăn canh
thay cơm, nhưng ăn mãi thì cũng chán. Bạn bè bà con xa gần cũng hưỡng được
thành quả của chúng tôi. Chúng tôi đem bầu bí ra bỏ mối ở các chơ Việt Nam, có
bao nhiêu bán được hết bấy nhiêu. Nhưng đó là thời gian đầu mùa, về sau, dù
xuống giá rẻ rề, cũng không bán hết, phải mang các thứ trái cây héo về, đổ
xuống làm phân xanh. Tôi lại chuyển bầu bí ra chợ trời, bán sĩ cho các gian
hàng, người ta trả giá nào cũng phải bán tháo đi. Bạn bè bà con, ăn mãi cũng
chán bí chán bầu, không ai muốn nhận các món quà nầy, vì ngoài chợ cũng rẻ rề.

Chúng tôi tính toán sai
cả, thì ra cái tưởng tượng khác xa thực tế. Chưa có kinh nghiệm, chưa từng
trãi, cứ vẽ vời trong trí tưởng tượng mà đem ra thực hành. Đôi khi tôi có cảm
tưởng như vợ tôi là vị bí thư tỉnh ủy, cứ vạch hết kế hoạch nầy, đến kế hoạch
kia, mà tôi là nhân dân, chỉ biết thi hành và sai thì sửa và càng sửa thì càng
sai.

Mùa đông đầu tiên, một
buổi sáng thức giấc, dậy đánh răng rửa mặt, mở nước không chảy. Tôi tưởng hãng
cung cấp nước tạm thời khóa nước để sửa chửa. Tôi định sẽ kêu điện thoại than
phiên vì khóa nước mà không báo trước. Nhưng sau tôi mới biết là thời tiết
lạnh, đã làm đông đá nước trong ống. Mấy đứa con tôi không chịu đi học vì chưa
đánh răng súc miệng. Tôi cũng chịu thua. Ống nước bị lạnh đông đá, làm nhiều
nơi bị vở, khi đá tan, nước chảy lênh láng. Lại phải nhờ mấy ông thợ ông nước
đên sửa chửa với tiền công chém rất ngọt. Nhà tiền chế, tường mỏng, mái mỏng,
mùa hè thì thiêu đốt như lò lửa, mùa đông thì lạnh căm căm. Tôi lại phải tốn
thêm tiền mua hệ thông sưởi, hệ thông điều hòa không khí.

Chỉ một thời gian thôi,
tiền tiết kiệm, tiền bán căn nhà, đã đổ hết vào cái nông trại. Thấy cạn tiền
đầu tư cho mùa tới,vợ tôi bàn chuyện đi vay ngân hàng, đem cái nông trại nầy ra
mà cầm cố. Thôi thì cũng liều – Sống trên xứ nầy không có nợ, thì không phải là
người tốt – Một anh bạn tôi bảo vậy. Tôi chở vợ ra ngân hàng làm giấy tờ vay
mượn. Chỉ mấy hôm sau, được giấy báo là ngân hàng đã chấp thuận. Chúng tôi hớn
hở, cứ còn nước thì còn tát, để cứu vãn cái nông trại nầy. Nhưng khi nhìn vào
bản chiết tính chi tiết các phí khoản vay, đủ các thứ chi phí, vay thì ít, mà
nợ tốn kém thì nhiều. Vợ tôi nhăn nho, nói tiếng Việt Nam với tôi, trước mặt
ông nhân viên cho vay:

“Bọn nầy là tụi ăn cướp
ngày, ăn cướp có giấy tờ, ăn cướp có pháp luật che chở. Vay chừng đó, mà chi
phí chừng đó, có chết thì thôi, tôi không mượn đâu. Thôi đi về.”

Không mượn được tiền,
chúng tôi lo lắng lắm. Thôi thì tạm thời chi tiêu bằng thẻ nhựa, chịu lãi suất
cao, cũng còn đở hơn. Tôi thức khuya, dậy sớm chăm nom lũ gà vịt, lũ rau ráng.
Có khi đến mười giờ khuya mà vẫn còn vác nặng trên vai những bao thức ăn súc
vật, còn xối nước tưới cây. Những lúc nầy, tôi cũng bắt chước vợ mà hổn hển
ngâm nga:

“Ta dại ta tìm nơi vắng
vẻ,

Người khôn người tìm đến
chốn lao xao”,

và thấy ông Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm viết sấm ký giỏi quá, dự đoán tương lai cho tôi đúng phóc.
Quả không có ai dại bằng mình., tìm đến nơi vắng vẻ nầy mà lao động khổ nhọc,
đốt hết tiền tiết kiệm trong bao nhiêu năm.

Một hôm nữa khuya thức
giấc, vợ tôi nhẹ nhàng hỏi:

“Anh có nhớ chuyện Tam
Quốc Chí không? Khi đánh nhau, họ hay lập thế trận ỷ dốc. Anh có biết thế trận
ỷ dốc là thế nào không?”

“Trời ơi, nữa đêm mà nói
chuyện Tam Quốc Chí, anh lao động quần quật từ sáng đên khuya, rã người, em để
anh ngủ cho có sức để mai còn lao động tiếp.”

Tôi nghe tiếng thở dài
não nuột của vợ mà động lòng, trả lời ấm ớ cho vợ khỏi buồn:

“Anh không biết chắc ‘ỷ
dốc’ là cái khỉ khô gì. Nhưng có lẻ họ chia quân đóng hai vị trí khác nhau, một
nhóm tác chiến, còn nhóm kia yểm trợ“.

Vợ tôi như bắt được ý,
hăng hái nói:

“Em nghĩ, mình cũng nên
bắt chước người xưa, lập thế trận ỷ dốc mà cứu vãn cái nông trại nầy. Có nghĩa
là anh xin việc đi làm bên ngoài, đem lợi tức về bù đắp, yểm trợ cho khu nông
trại của chúng ta. Nếu một năm sau nữa , mà còn không nên cơm cháo gì, thì bán
quách, chúng ta đi làm công cho người khác. Nếu thành công, thì anh nghỉ việc
bên ngoài, trở về với nông trại.”

Nghe vợ bàn mà tôi tỉnh
ngủ. Ừ, giản dị thế mà cũng nghĩ không ra. Cứ lo lắng hoài. Đàn bà cũng có
nhiều cái suy nghĩ thật hay. Tôi nhẹ nhàng hỏi vợ:

“Nhưng một mình em, có
kham hết công việc trong nông trại nầy chăng? Việc thì bề bộn, nặng nhọc, làm
hoài không hết.”

“Những việc thường
thường, thì em có thể làm được, những việc nặng nhọc, thì chờ anh đi làm về
giúp”

Tôi nghe mà ngao ngán.
Thế nầy là vui thú điền viên trong tuổi xế chiều chăng. Ngày đi làm toàn thời
gian, đêm về làm việc nặng. Nhưng có lẽ không còn giải pháp nào tốt hơn. Ráng
thêm vài năm nữa, may ra thời vận đến.

Nhờ có chuyên môn, tôi
xin được việc làm có đồng lương khá. Mỗi tháng đem tiền lương về nuôi lũ gà
vịt, lũ rau ráng bí bầu. Công ty tôi làm đang đến đến hồi phát triển mạnh, mỗi
ngày tôi làm việc từ mười đến mười hai giờ, mỗi tuần làm sáu ngày. Mịt mờ trời
đất, thế mà đêm về cũng phải lo thêm việc của nông trại nữa. Vợ tôi thỉnh
thoảng phải thuê người phụ làm trong vườn. Lương tôi cũng tạm thời đáp đổi chi
phí của nông trại. Ngày chủ Nhật tôi phải lái xe đưa nông phẩm ra chợ bán.
Nghĩa là không có một ngày nghỉ nào trong tuần.

Thỉnh thoảng nghe vợ tôi
than phiền về chồn cáo bắt mất một số gà vịt, tôi chỉ cười bảo:

“Chia cho chúng tha bớt,
mất càng nhiều, thì em càng đở mệt.”

Chồn cáo xứ nầy khôn
ngoan lắm, chúng biết con chó săn trong nhà đêm đêm đi tuần rảo quanh hàng rào,
rồi vào nằm nghe ngóng canh chừng. Chúng lập kế đánh du kích, để vài ba con kêu
chí chóe xa xa về hướng đông, con chó chạy về hướng đó mà sục sạo. Thừa thế,
chúng lẻn vào hướng tây mà bắt gà vịt lôi đi. Khi lũ gà vịt kêu lên thất thanh,
con chó quay lại, thì chồn cáo đã đem theo được chiến lợi phẩm mà cao chạy xa
bay, ra khỏi vòng rào.

Mấy hôm, thấy lũ vịt
không xuống hồ bơi lội mà đứng trên bờ ngơ ngác, lông lá tả tơi. Tôi ra xem,
thấy mặt hồ đóng váng, như có ai đổ dầu, và quanh bờ thì có những vờ bọt đen
đặc quánh. Tôi vớt bọt, dùng cây mà quậy, thì thấy như có chất dầu. Đem đốt thì
cháy ra khói đen đặc và hôi mùi dầu. Tôi tái mặt, và nhảy cẫng lên mà chạy mau
vào nhà la lớn:

“Em ơi, mình sắp thành tỷ
phú rồi em à. Dưới đất của mình có vàng đen. Dầu, dầu hỏa, mình sắp thành phó
vương dầu hỏa rồi. Thôi, dẹp hết, bỏ hết, chẵng có bí bầu gà vịt chi nữa. Bỏ ra
công sức thì nhiều, mà thu hoạch chăng bao nhiêu. Bỏ ra cả trăm ngàn bạc mà thu
lại chưa được vài ngàn. Trời thương chúng mình, trời đãi chúng mình.”

Vợ tôi chưa tin, tôi ra
hồ nước, vớt dầu vào làm thí nghiệm chứng minh. Vợ tôi thấy dầu cháy, ôm lấy
tôi hôn mà kể công, rằng đó là nhờ nàng đưa ý kiến làm nông trại, mà nay thành
tỉ phú. Cả tuần, chúng tôi bỏ không tưới cây, gà vịt thì cho ăn cầm chừng. Kêu
bạn bè đến, bảo muốn bắt bao nhiêu thì bắt. Giàu rồi, thì kể chi mấy con gà,
con vịt lẻ tẻ. Nhiều đêm hai vợ chông tôi nằm mơ chuyện sang giàu, gởi con qua
Anh Quốc cho học trường lớn nhất., chuyện ngao du khắp thế giới. Tôi chạy ngược
chạy xuôi tìm hãng khai thác dầu. Và niềm vui của tôi xẹp xuống, khi nghe người
ta nói về việc khai thác dầu. Hãng dầu còn xem trử lượng được bao nhiêu, có
đáng khai thác hay không, và khi biết mõ dầu có trữ lượng cao, thì họ chỉ thuê
một khu đất nhỏ,với giá rẻ mạt, không đáng vào đâu. Thế là giấc mơ tỷ phú của
chúng tôi xẹp xuống thảm hại.

Việc trồng trọt và nuôi
gà vịt quá nhọc nhằn, chúng tôi không kham nỗi, vợ tôi bàn chương trình nuôi
dê, bò. Chúng tôi bán tháo hết đám gà vịt, mua hai mươi lăm con dê cái, có con
đã chửa bụng lưng lửng, và một anh dê đực râu xồm, có hai cái sừng quăn lại,
xỉa ra đàng trước. Mua thêm bốn con bò, ba con cái, một con đực. Bọn dê tạp ăn,
lá gì cũng bứt và nhai nuốt, thật là dễ nuôi. Thả chúng long rong trong vườn.
Cách nuôi thật nhàn hạ, không cần chăm sóc chi nhiều. Bốn con bò cũng vậy. Mỗi
ngày, con dê đực làm tình với bọn dê cái liên miên, làm vợ tôi ngượng. Con chó,
cũng to lớn không thua gì con dê, nhưng sống độc thân, mỗi lần thấy con dê đực
nhãy cái, thì nó ghen, chồm lên mà sủa om sòm. Có khi nó nhãy lên, tấn công sau
mông con dê đực. Con dê dực tức giận vì kẽ phá đám, quay lại, dùng sừng ủi đại
vào cho chó. Có khi con chó tránh đòn không kịp. Cũng lăn kềnh ra. Vợ tôi đứng
la lớn, bảo tôi can chúng ra. Sợ con chó bị thương vì cái sừng nhọn của dê. Tôi
cũng nạt nộ, la hét mà hai bên không ngưng chiến. Tôi phải dùng cây roi da, vụt
túi bụi vào cả dê lần chó, chúng mới chịu dang ra.. Vợï tôi nói:

“Con dê nầy hung tợn quá,
có ngày con chó bị sừng dê đâm đổ ruột”

Tôi cười:

“Lỗi tại con chó. Trời
đánh còn tránh bữa ăn. Huống chi nó đang làm cái việc truyền giống thiêng
liêng, mà con chó nhãy vào phá đám. Ví như tụi mình đang vui vẻ, có đứa nào phá
đám, mình có nỗi điên lên không.”

“Thôi ông ơi, ăn nói đàng
hoàng một chút có được không?”- Vợ tôi cằn nhằn.

“Mà con chó nó ghen tức
cũng phải, nó thì chay tịnh, mà con dê thì cứ làm tình lia lịa, không ngứa mắt
sao được?”

Mấy con dê cái bắt đầu
sinh con, những con dê con như cục nhung mềm, môi đỏ hồng, hai mắt long lanh,
dáng đi yếu đuối. Mấy đứa con tôi cưng chúng lắm. Cứ ẵm bồng hoài, đi học về là
ra vườn ẵm dê con vuốt ve.

Chị tôi từ Úc Châu qua Mỹ
thăm, anh chị thấy tôi ở giữa đồng không mông quạnh gió hú vi vu mà ái ngại. Cứ
lắc đầu mãi. Cứ nói mãi câu:

“Cậu mợ tính như thế nầy
là trật lất rồi. Mình đã xa quê hương, thiếu tình đông bào, phải sống nơi nào
phồn hoa đô hội, cho bớt nỗi cô đơn. Lại gần chợ búa, gần bệnh viện, gần các
tiện ích công cọng, có bạn bè, có bà con láng giềng, khi đau ốm, khi trái gió
trở trời có nhau. Lại khi muốn ăn tiệm Việt Nam cũng phải lái xe đi về hơn hai
giờ , phí công quá. Phải tính lại đi.”

Một buổi sáng sớm, cả nhà
ngồi uống cà phê nhìn qua cửa sổ, thấy con dê đực đứng trước cửa chuồng, chổng
râu dê lên đón bọn dê cái. Mỗi khi có con dê cái đi ngang qua, thì dê đực nhãy
lên lưng làm tình. Liên tiếp mười mấy lần, mà thấy chàng dê vẫn tỉnh táo như
thường. Chị tôi phát mạnh vào vai anh rể tôi cười mà nói:

“Ba mầy chẳng bằng một
phần nào của con dê cả.”

Anh rễ tôi bình tỉnh nói:

“Em xem, con dê đực thay
đổi nhiều con dê cái khác nhau, chứ nếu chỉ có một con dê cái thôi, thì nó cũng
chỉ làm một lần, chứ không làm đến lần thứ hai. Nếu có hai chục bà khác nhau,
thì anh đâu có thua anh dê kia chút nào.”

Trưa hôm ấy, một người bạn
cũ của anh rễ tôi ghé nhà thăm, thấy bầy dê và nghe kể lại chuyện tiếu lâm buổi
sáng, mắt anh sáng lên, rũ chúng tôi đi đến tiệm bán thịt dê của người Ấn Độ
nằm về phía Bắc của thành phố. Đi mua thịt dê về nhậu chơi, tăng cường sức khỏe
mà bổ dương. Mấy bà ở nhà, chúng tôi ba người đàn ông lái xe đi. Tiệm rộng lớn,
có hai căn, như một căn chợ. Nồng nặc mùi cà ri, muì hương vị. Đủ loại cà ri,
đủ loại hương vị trong bao ni lông, chất đầy trên kệ. Bên kia thì dê dã lột da
treo lòng thòng nhiều con trần truồng. Khách hàng muốn mua cẳng, đùi, ngực, thì
cứ việc chỉ vào đó. Anh Ấn Độ đầu quấn khăn chà chóp đem cưa dến, cắt ào ào gọn
nhẹ lắm. Chúng tôi mua nguyên cái đùi sau con dê, hơn mười cân Anh. Anh rễ tôi
thấy nhiều cặp ngọc dương (dái dê) tròn trỉnh, trắng tươi, gói trong giấy bóng
rất bắt mắt, xuýt xoa, đòi mua đến năm cặp. Tôi hỏi ai mà ăn hết, anh bảo không
ai ăn thì để cho anh. Mấy khi mà có thứ quý báu nầy trên miền đất văn minh. Anh
thì thầm: “Ăn thứ nầy vào, thì phải biết. Không có hiệu quả sao có ghi trong
sách thuốc người Tàu?”

Chúng tôi mua thêm một ít
hương liệu, rồi hớn hở chạy xe về. Ông bạn anh rễ tôi dành làm bếp, nấu các món
đặc biệt, mà ông nói đùa là món “Ông ăn bà khen”. Ông bạn đem ướp ngọc dương
rồi xào với hành tây, đem ra nhậu trước. Mấy bà biết đó là cái gì, thì cứ la
oai oái ngoãnh mặt đi. Mười viên xào tròn trịa nằm trên dĩa, có hành xắt lát,
có tiêu rắc lấm chấm đen. Trông thật ngon. Tôi bắt chước ông anh, gắp một viên
đưa vào miệng, mới cắn sơ, đã có mùi thum thủm, tôi muốn nhả ra. Trong lúc ông
bạn của anh tôi thì gắp bỏ vào mồm, nhai nuốt ực ngon lành, còn hít hà khen
ngon. Ông anh rễ tôi cũng thưởng thức tận tình và nói:

“Bổ lắm đấy nhé. Cứ ăn
vào là nghe máu chuyển rần rật, mặc sức mà rượt các bà chạy có cờ. Người
Ấn
độ và Trung Hoa biết món ăn
nầy nên đông con là phải”

“Nếu có thêm rượu thuốc
toa Minh Mạng nữa, nhấp vào, thì là một phối hợp hết sẩy” – Bạn ông anh tôi
tiếp lời – “Hồi còn ở bên nhà, tôi thấy mấy ông già trộn huyết dê với rượu,
uống vào thì như thần dược.”

Thịt dê được nấu càri,
thêm nhiều hương vị khác, nước cà ri vàng màu đỏ sền sệt, chấm với bánh mì mà
ăn . Bà chị tôi nói:

“Vẫn còn mùi mồ hôi dê.
Nghe đâu khi làm dê, để thịt khỏi hôi, người ta cho dê uống nước, rồi cột dây,
đánh nó chạy quanh một cái cọc, cho vả mồ hôi ra. Xong xối nước tắm cho nó. Bao
nhiêu mùi hôi đều ra hết. “

Vợ tôi xen vào:

“Ở Mỹ mà làm thế là đi tù
sớm, vì mang tội hành hạ súc vật. Ngon đâu không thấy, đi tù mệt lắm”

Mấy hôm sau, có con dê
cái trong vườn bị thương tích, ông bạn của anh tôi đề nghị làm dê thui mời bạn
bè ăn chơi. Ông nhận trách nhiệm thọc thuyết và lột da dê. Cái chậu đựng rượu
Vodka được chôn lưng chừng xuống mặt đất, ông thọc dao vào cổ dê mà ngoáy. Máu
dê tuôn ra kêu ọc ọc. Các bà khiếp sợ la lên và bỏ chạy cả. Mổ bụng ra, mối
biết con dê có chửa. Cái tử cung chứa bốn con dê con đã tượng hình. Ông bạn anh
tôi xuýt xoa, bảo rằng thứ nầy quý lắm, để ông làm dê “hà nàm” cho mà ăn. Cái
bọc tử cung để nguyên, dổ vào nồi, đặt lên bếp hầm với nhiều vị thuốc bắc. Khi
chí đem xuống, vớt ra dĩa, dùng dao mà cắt từng khoanh, thịt dê con mềm nhũn,
nuốt vào cổ như ăn đông sương. Con dê được xuyên qua cây cọc, quay trên đống
lửa than đá.

Tôi điện thoại mời đám
bạn bè xa gần đến tham dự buổi tiệc thịt dê. Nghe có tiết canh dê, dê thui, dê
“hà nàm”, ông nào cũng hớn hở, đòi mời thêm các bạn bè khác nữa.

Đám đàn ông ăn uống nhồm
nhoàm, miệng môi đầy máu tiết canh, nói chuyện tiếu lâm bao quanh vấn đề tình
dục, không kiêng cử gì cả, và cười ha hả, làm nhiều bà nhăn mặt bất bình.

Buổi tiệc thịt dê thật
vui, anh em ra về hỉ hả, và hẹn có ngày trở lại làm một chầu khác. Tối hôm đó,
tôi nằm chờ kết quả của dê “hà nàm” và tiết canh dê, nhưng không thấy gì cả và
ngủ quên cho đến sáng. Vợ tôi nhìn tôi cười hỏi:

“Có thật thịt dê làm tăng
cường năng lực sinh lý không?”

“Toàn cả chuyện tào lao,
tiếu lâm chơi thôi, đàn ông ưa ăn tục nói phét, bịa chuyện cho vui bữa rượu ấy
mà”

Bọn dê sinh sản nhanh,
mau lớn, và ăn tạp, phá trơ trụi cả khu vườn. Chúng biết đứng lên trên hai chân
sau, mà bứt lá những cành cao. Làm cho khu nông trại tiêu điều trông trải. Mỗi
chủ nhật, tôi đẩy dê lên xe, đem ra bán ở chợ trời. Thấy mình giống mấy anh nông
dân Âu Châu tả trong tiểu thuyết của Pháp, mà ngày xưa thường hay
đọc.. Đem dê bán cũng không phải là chuyện
giản dị, đứng chờ, trả giá, cò cưa. Loại người như tôi không thích hợp với công
việc thương mãi, nên cảm thấy chán lắm.

Một lần đứng bán dê, có
cô thư ký trong sở đi chợ trời, thấy tôi, nhãy đến ôm chầm như gặp cố nhân – Mà
ngày nào không gặp nhau chứ – Cô cười nói huyên thuyên và ôm hôn mấy con dê như
người Mỹ thường hôn chó. Thấy cô thích quá, và hỏi chuyên dê tíu tít, tôi cho
cô một con. Lấy cái áo cũ bao mông nó lại, đẩy lên băng sau chiếc xe hơi sang
trọng của cô thư ký. Con dê phá tan cả vườn hoa của nhà cô và hai vợ chông gây
nhau, suýt li dị. Cô dem con dê trả lại cho tôi ngay tại sở. Tôi lại phải khổ
sở kiếm vải bọc mông con dê, cho lên băng sau chiếc xe mình, chở về. Vợ tôi
thấy con dê la lên:

“Dê bán không hết, anh
mua thêm về làm chi?”

Vợ tôi nhọc nhằn vì cái
nông trại quá, bàn với tôi bán đi, về lại thành phố ở. Phải gần nữa năm mới bán
được đám đất nông trại. Bán lỗ vốn, vì chúng tôi muốn phủi tay cho xong. Căn
nhà tiền chế, người mua đất đòi chúng tôi trả thêm tiền họ mới nhận. Còn không
thì phải dẹp đi. Chúng tôi năn nỉ mãi, họ mới nhận với điều kiện tất cả trang
bị về máy sưỡi, máy lạnh, điên nước để nguyên. Vợ tôi nói:

“Ai đời cho không căn nhà
mà phải năn nỉ người ta. Lại còn đòi hỏi đủ điều.”

Chúng tôi thở phào, thoát
ra được cái “vui thú điền viên“ nhọc nhằn đó, dọn về phố, thuê nhà ở. Dù còn nợ
nần nhiều, nhưng chúng tôi cảm thấy như trút được gánh nặng ngàn cân trong
lòng. Hai vợ chồng đi làm công, chiều về ngồi xem truyền hình, đọc sách đọc
báo. Buổi tối ngủ thẳng giấc không lo lũ chồn cáo du kích tấn công. Ngày nghỉ
rủ nhau đi chơi, đi phố, thăm bạn bè bà con. Thảnh thơi không lo lắng nhiều.
Suốt ba năm làm nông trại, tôi chỉ có được một lần vui toàn vẹn, là lần mời bạn
bè cùng ăn thịt dê. Tôi chưa có một lúc rảnh rang để ngững đầu lên trời nhìn
trăng, chứ khoan nói là khi xem hoa nở khi chờ trăng lên.

Tôi bảo với vợ rằng:

“Mấy ông thi sĩ, văn sĩ,
cứ vẽ vời ra cảnh thơ mộng để gạt gẫm tụi mình.. Tiêu phí sạch cả tiền bán căn
nhà, tiền tiết kiệm, mà lại ngày đêm đầu tắt mặt tối trong mấy năm . May mà
thoát ra được. Sướng quá. Thôi nhé, từ nay em đừng vẽ vời thêm chuyện thơ mộng
nữa nhé.”

Vợ tôi cười:

“Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm có
nói rồi:

“Ta dại ta tìm nơi
vắng vẻ”.

Lỗi tại mình, không chịu
hiểu nghĩa đen mà cứ hiểu nghĩa bóng.
Nên
mới ra nông nỗi.”

Tràm Cà Mau

Soi gương, soi lòng

Soi gương, soi lòng

Nhà văn Quyên Di

image

Ngày nọ, tôi gặp một vị linh mục trung niên, tính tình vui vẻ hòa đồng. Lâu ngày không gặp, tôi nhìn thấy nơi khuôn mặt vị linh mục những nét phong sương, nếp nhăn xuất hiện trên vừng trán và khóe mắt, nụ cười tuy vẫn tươi nhưng nét môi như chùng xuống. Tôi nói:

– Trông cha như già đi…

Vị linh mục xác nhận, ông nói:

– Soi gương thì thấy mình già…

Nhưng ông tiếp ngay:

– Soi lòng thì thấy vốn là thanh niên.

Rồi ông cười, giọng đầy hào sảng.

Cuộc gặp gở ngắn ngủi kết thúc. Buổi tối trở về nhà, tôi nhớ hoài đến câu thơ ”soi gương, soi lòng” ấy. Và rồi tôi soi gương, soi lòng chính tôi thật.

Tôi soi gương và thấy  khuôn mặt tôi trong đó. Tôi hôm nay khác hẳn tôi mấy chục năm về trước. Đã có một thời xa xưa nào đó, tôi là một khuôn mặt trẻ thơ, hiền lành, nhút nhát; có thể là một khuôn mặt ngây ngô, không lanh lợi cho lắm. Nhưng dù sao đó cũng là một khuôn mặt không mấy khó ưa. Thời đó, tóc tôi còn xanh, đôi mắt còn trong, dĩ nhiên là không phải đeo kính như bây giờ. Thời đó tuy là con trai nhưng da
mặt của tôi mịn (da trẻ em nào mà không mịn), cánh môi tôi cũng xinh; má tôi
không phính, nhưng nhiều người lớn thấy tôi cũng muốn ”véo má một cái”. Thời
đó, trán tôi chưa hề có nếp nhăn, lông măng phơn phớt, một vài đường gân xanh
nhỏ bên thái dương và những tia máu nhỏ chạy li ti trên đôi má, Thời đó khuôn
mặt tôi hiền hậu, dễ thương. Ít là tôi nghĩ như thế.

Rồi thời gian qua đi. Khuôn mặt tôi biến đổi cho phù hợp với tuổi thiếu niên tôi có. Tóc trở nên rậm và cứng hơn. Da không còn mịn nữa. Nó đã hơi ”gồ ghề” và nhiều nơi có mụn trứng cá. Đôi má không còn hấp dẫn để cho người lớn ”muốn véo một cái” nữa. Cặp mắt tôi sâu hơn, đen hơn và đôi lông mày rậm. Khuôn mặt tôi thuở ấy hình
như có những nét không cân đối và thiếu hòa hợp. Có lẽ không phải vì những
đường nét tự nhiên của khuôn mặt, nhưng do ảnh hưởng của thể lí và sinh lí tuổi
đang lớn.

Khuôn mặt tôi biến đổi một lần nữa khi tôi bước vào tuổi thanh niên. Tôi không phải là một người vạm vỡ, cao lớn. Nhưng dù sao ở tuổi ấy, khuôn mặt tôi cũng có góc cạnh hơn, tóc tai “đâu vào đấy” hơn. Tôi vốn không phải là người chú ý đến diện mạo bên
ngoài nên không nhớ mình có “đẹp trai” không. Những cô bạn gái của tôi
không ai chú ý đến khuôn mặt tôi cả, họ để tâm đến tính nết tôi hơn. Nhưng dù
sao tôi cũng không bị mang tiếng là người xấu xí.

Thế rồi thời gian cứ trôi, khuôn mặt tôi vẫn cứ biến đổi. Không biết bao nhiêu lớp da với những tế bào cằn cỗi đã bị đào thải, thay vào đó là những lớp da mới. Đã nhiều lần khuôn mặt tôi trầy xước, xây xát vì những vết thương; nhiều lần sưng phù, mọng đỏ,
mụn mằn vì những cơn bệnh; nhiều lúc hóp lại vì mệt nhọc, lo lắng, ưu tư. Cũng
đôi khi khuôn mặt ấy hồng hào vì khỏe mạnh, rạng rỡ vì niềm vui. Tất cả những
khuôn mặt ấy đều là ”TÔI” cả .

Cho đến ngày hôm nay, một buổi tối thinh lặng, tịch mịch, một mình tôi đối diện với tấm gương. Tôi thấy là lạ vì không có thói quen soi gương sửa soạn cho khuôn mặt. Tôi vốn có tính xấu: cẩu thả và luộm thuộm; phải đi đâu vớ được bộ quần áo nào là xỏ vào ngay, không chắc mặc nó ”hợp’ hay ”không hợp”. Tóc thì chỉ cần đưa tay lên
“cào” vài cái là xong. Chính vì vậy, hôm nay nhìn kĩ khuôn mặt mình trong
gương, tôi thấy nó kì kì. Tôi nhăn mũi, lè lưỡi chọc ghẹo cái khuôn mặt trong
gương ấy. Nhưng rồi tôi cũng quan sát nó thật kĩ. Tôi, trong gương, bây giờ là
một khuôn mặt trung niên; mái tóc đã có một vài sợi bạc; trán có kha khá nếp
nhăn; lông mày còn rậm, nhưng đuôi lông mày bên trái bị đứt một đoạn ngắn, hậu
quả của một lần mí mắt bị sưng và làm độc. Da tôi không đen nhưng sạm màu, làn
da cũng có những nếp nhăn và không còn phẳng phiu, mịn màng như ”ngày xưa còn
bé ”.

Tôi nhìn tôi trong gương, không thấy mình đáng ghét cho lắm, nhưng không còn chút nào vẻ thơ trẻ hồn nhiên. Thời gian và những biến thiên dời đổi của cuộc đời đã để lại trên khuôn mặt tôi nhiều vết tích không phai mờ. Tôi thử cười một cái, nụ cười làm
cho khuôn mặt tôi có nhiều nếp nhặn hơn. Nụ cười không làm cho tôi trẻ đi, tươi
hơn; trái lại, hình như trông già hơn, héo hơn một chút.

Trong khoảnh khắc, tất cả mọi khuôn mặt của tôi liên tiếp xuất hiện trong gương, rất nhanh nhưng cũng rất rõ. Tất cả đều là tôi, là “tôi-trong-cùng-một-lúc”; không có
”tôi” nào trước, ”tôi” nào sau. Bởi vậy, nếu hỏi rằng tôi thích “tôi” nào nhất thi tôi không trả lời được.

Bỏ tấm gương đấy, tôi muốn ”soi lòng”. Tôi tắt đèn đi, ngồi thu lu trên giường, đắm chìm trong bóng tối và sự tịch liêu. Lòng mình là cái rất khó nhìn vào và rất khó thấy rõ. Bởi vậy, tôi cần sự trợ giúp của bóng tối, che phủ tất cả những ngoại cảnh,
ngoại vật, để tôi không còn bị chi phối mà chú tâm vào lòng mình. Trong bóng
đêm thinh lặng, cõi lòng tôi mở ra, và tôi soi tôi trong cõi lòng ấy.

Tôi nhìn lại cõi lòng tôi, lúc thiếu thời mở cửa cho tuổi hoa niên. Khi ấy cõi lòng tôi phơi phới nở hoa. Bao nhiêu mơ mộng thần tiên với những hoa và bướm. Tôi lớn lên với những giấc mộng đẹp và lí tưởng cao trong đáy trái tim. Lòng tôi đã bao phen reo vui và  ngây ngất với những tâm tình hướng thượng. Tuổi trẻ nào cõi lòng cũng đẹp và lí tưởng nào cũng tuyệt vời. Nhưng nhiều người tuổi trẻ khi lớn lên đã thấy mình
lầm, vì bị lợi dụng để phục vu cho những mục tiêu cá nhân, vụ lợi:

“Nhân Ái, Công Bình, Yêu Thương, Bất Khuất,

Viết chữ hoa trong óc tuổi mười lăm.

Khi ba mươi biết được chuyện xưa lầm

Thì đau khổ đã hằn trên trán nhỏ,

Thì uất hận vạch trời nhưng chẳng tỏ,

Rồi cô đơn như một kẻ chăn cừu,

Trên đường về nhìn tinh tú luân lưu…”

Tạ Ký (Sầu Ở Lại)

image

Rất may cho riêng tôi  ! Qua tuổi mười lăm, mười bảy; đến tuổi hai mươi, hăm lăm; rồi tuổi ba mươi, rồi lớn hơn nữa… chưa bao giờ tôi thấy “chuyện xưa lầm” và cũng chưa bao giờ ”uất hận vạch trời nhưng chẳng tỏ. ”Lí tưởng và những giấc mơ đẹp có
khi bùng cao, chói sáng; có khi trầm lắng, giấu ẩn… nhưng lúc nào ước vọng
làm đẹp cho đời, cho người cũng vẫn còn đấy. Bao nhiêu người đã than thở: “Mộng
bền năm xưa chỉ là mơ qua”.
Tôi chưa hề một lần than thở, dù rằng đau
khổ không những “hằn trên trán nhỏ” mà đôi khi còn tạo nên
những lết thương làm tan nát cõi lòng.

Tôi soi lòng, và nhìn thấy trong đó những đam mê cuồng nhiệt của tình cảm; những nhớ nhung đằm thắm; những mong đợi thiết tha. Tôi soi lòng tôi và thấy cả những ”bối rối bồi hồi, ráo riết miệt mài” khi yêu lần cuối, những “bỡ ngỡ xôn xao, cuống quít dạt dào” khi yêu lần đậu (Phạm Duy, Giọt mưa trên lá). Tôi soi lòng, và cảm nhận những chao nghiêng, vùi lấp; nghe thấy những tiếng: sóng lúc rì rào, khi ào ạt. Những cơn sóng lòng đôi khi như bị nhân chìm tôi vào biển tình cảm.

Tôi soi lòng lôi, và may mắn không thấy hiện lên những hận thù, cũng không có cả những mưu mô gian ác, những tính toan bất chính, những lường gạt phi nhân. Nhưng tôi thấy trong lòng. đôi khi có những ghét ghen nhè nhẹ, những bực dọc âm thầm, những trách cứ nghiêm khắc và những đòi hỏi sự lưu tâm.

Tôi soi lòng tôi và tìm thấy ở nhiều lúc có những nỗi chán chường, những cơn buồn dày dặc; và những sự tủi thân, âm thầm, không muốn cho ai biết. Những cơn buồn và sự tủi thân gặm nhấm lòng tôi, làm cho đắng cay, đau đớn.

Tôi soi lòng tôi, và bắt gặp những thân thương, ấm áp của tình yêu, tình bạn, tình người. Những tình cảm nồng nàn và ân cần, làm cho tôi thấy cuộc đời tươi đẹp, hạnh phúc và đáng sống.’

Tôi soi lòng tôi và cũng thấy những nỗi cô đơn. Có những phút giây cõi lòng tôi hoang lạnh, tưởng chừng như không có ai và cũng chẳng biết đến ai.

Tôi soi lòng tôi, thấy hết trong cùng một lúc niềm vui nỗi buồn, khổ đau và hạnh phúc; tâm tình hướng thượng và tư tưởng thấp hèn; cô đơn và thân ái; chấp nhất và thứ tha; hăng say và buồn chán; bất ổn và bình an.

Và tôi thấy lòng tôi để rồi thấy trong đó một chú bé, chú bé ”tôi-ngày-xưa”. Chú bé thân quen và dễ thương. Vị linh mục tôi mới gặp ”soi lòng thì thấy vẫn là thanh niên”.
Tôi, tôi thấy mình không còn là thanh niên nữa. Tôi già giặn, chín chắn và trầm
tĩnh hơn tuổi thanh niên ngày trước rất nhiều, nhưng trong lòng tôi vẫn có một
chú bé, và tôi muốn chơi với chú. Tôi nhớ lại bạn tôi nói: ”Trong lòng mỗi
người chúng ta đều có một chú bé hay một cô bé , và rất nhiều khi chúng ta phải
mở cửa cho em bé ấy ra ngoài chơi. “Tuổi thơ đẹp, không phải chỉ ở trong
quá khứ. Tuổi thơ có thể được gọi về, bất cứ lúc nào; nếu chúng ta gọi với đúng
ngôn ngữ và tâm tình của tuổi thơ, những tín hiệu mà tuổi thơ có thể ”bắt’ được.

Hôm nay, một buổi tối cuối năm, tôi ngồi ”soi gương” và “soi lòng”. Chẳng mấy khi trong đời tôi làm được như thế. Soi gương, với tôi, có lẽ không cần thiết lắm. Nhưng soi lòng, tôi mong rằng tôi thực hiện mỗi ngày, vào những buổi tối trước khi tôi
thiếp vào giấc ngủ, để thấy những gì mình làm vui lòng Chúa và vui lòng người
khác; những gì mình làm buồn lòng Chúa và buồn lòng người khác. Nếu tôi thực
hiện được như vậy, chắc cuộc đời tôi sẽ dễ thương hơn, hữu ích hơn và đáng sống
hơn một chút.

Nhà văn Quyên Di

Anh Nguyễn v Thập gởi

TIN VÀ LÀM CHỨNG CHO CHÚA

TIN VÀ LÀM CHỨNG CHO CHÚA

LM ĐAN VINH

1. BÁC TÀI XẾ TẮC-XI LÀM CHỨNG CHO CHÚA:

Một vị linh mục sau chuyến du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một
cách truyền giáo của một bác tài xế xe tắc-xi tại đây như sau:

“Ngày nọ, tôi đón tắc-xi từ khách sạn đi sang trung tâm thành phố Đài
Bắc mua quà lưu niệm. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một
tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: “Bạn có thể thấy một vài quyển
sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể
đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà
không phải trả tiền mua sách”. Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một
chục cuốn sách mỏng bằng tranh, nội dung về cuộc đời Đức Giê-su in
trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện tranh các thánh và các
danh nhân tôn giáo, một ít cuốn là những mẩu chuyện sống đức tin giữa
đời thường… Ngoài ra, phía trên kính chiếu hậu trước mặt tài xế
cũng có treo một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi bác
tài xế:

– Này bác tài, xin vui lòng cho biết: Hành khách đi xe của bác có ai
quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?

– Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người còm cầm theo
mang về nhà nữa.

Tôi hỏi tiếp:

– Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc sách đạo do bác giới
thiệu?

– Tôi cảm thấy rất vui anh à! Anh biết không: tôi là người tín hữu công
giáo nhưng không có nhiều giờ để đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy
xe kiếm sống. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi
rất mừng vì đã có thể làm được hai việc một lúc: Vừa lái xe nuôi gia
đình lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không bị mất thêm thời giờ. Tôi nghĩ
rằng tôi đang làm một việc thật tuyệt vời!

2. ANH EM SẼ LÀ CHỨNG NHÂN CỦA
NHỮNG ĐIỀU NÀY:

Tin mừng Chúa Nhật hôm nay cho thấy Chúa
Giê-su Phục Sinh đã hiện đến với các Tông Đồ đang bị giao động. Sau khi trấn an
các ông, Người đã chứng minh cho các ông thấy Người không phải chỉ là bóng ma,
nhưng là con người bằng xương bằng thịt thực sự, qua việc ăn uống trước mặt các
ông. Cuối cùng sau khi các ông đã tin Người đã từ cõi chết sống lại, Đức Giê-su
chỉ thị cho các ông và cho mọi tín hữu sau này: “Chính anh em sẽ là chứng
nhân của những điều này”(Lc 24,48).

3. PHẢI LÀM CHỨNG NHƯ THẾ NÀO ? :

Ngày nay các tín hữu chúng ta dù không thấy Chúa, nhưng vẫn có thể thi hành sứ
mệnh làm chứng cho Người bằng các phương thế như sau:

+ Làm chứng bằng việc thuật lại cho người khác về cuộc đời và lời
rao giảng của Đức Giê-su như bà Maria Mác-đa-la đã làm (Ga 20,18). Việc truyền
đạt này mọi tín hữu đều có thể làm, nhưng khó thuyết phục được người nghe tin
theo (x. Lc 24,11).

+ Làm chứng bằng cách để Chúa ngỏ lời với người khác qua miệng chúng
ta: Đức Giê-su đang sống và hiện diện nơi ta, và ta có bổn phận chia sẻ
sự xác tín, niềm vui và bình an hạnh phúc mình đang cảm nghiệm được
cho tha nhân. Cách làm chứng này đã được Nhóm Mười Một Tông đồ áp
dụng. Sau khi đón nhận ơn Thánh Thần, Tông đồ Phê-rô đã rao giảng và làm chứng
về Đức Giê-su như sau: “Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại. .
Về điều này tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền
nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống. Đó là điều
anh em đang thấy đang nghe…” (Cv 2,32-33). Cách làm chứng hùng hồn đầy xác tín
này của Tông Đồ Phê-rô đã thuyết phục được tới ba ngàn người xin tòng giáo
(x. Cv 2,41).

+ Làm chứng bằng lối sống hy sinh quên mình, vị tha bác ái noi gương cộng đòan
tín hữu thời Hội Thánh sơ khai như sách Công vụ thuật lại: “Các tín hữu chuyên
cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau và cầu nguyện
không ngừng. Mọi người đều kính sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ.
Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất
đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất
trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa
với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được tòan dân thương mến. Và
Chúa cho cộng đòan mỗi ngày thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42-47).

+ Cuối cùng, làm chứng cho Đức Giê-su bằng việc sẵn sàng chịu bách hại
vì đức tin, quyết không hèn nhát bước qua thập giá để khỏi chết, noi
gương các anh hùng tử đạo. Nhờ đó, các thánh Tử đạo đã được gọi là các
“Chứng nhân đức tin”. Đây là phương cách truyền giáo rất hữu hiệu như lời
Téc-tuy-li-a-nô khẳng định: “Máu các vị Tử đạo là hạt giống phát sinh
các Ki-tô hữu”.

4. LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH.

Mỗi lần hiện ra với các môn đệ,
Chúa đều dùng Kinh Thánh để giúp các ông tìm ra thánh ý Thiên Chúa và
giải thích cho các ông về con đường “Qua đau khổ vào vinh quang”, đồng
thời chứng minh Chúa đã thực sự sống lại từ cõi chết, đúng như lời
Thánh kinh. Xin giúp chúng con ý thức giá trị của Lời Chúa trong việc sống
đạo và truyền đạo, hầu khi gặp bất cứ biến cố vui buồn sướng khổ nào trong
cuộc sống, chúng con cũng biết tìm kiếm thánh ý Chúa. Xin cho chúng con biết
năng hội hiệp nhau học sống Lời Chúa hằng tuần, biết lắng nghe Lời Chúa
khi dự lễ, để nhờ lời Chúa hướng dẫn, đức tin của chúng con sẽ ngày càng
lớn lên và nhờ ơn Thánh Thần tác động, chúng con sẽ chu tòan được sứ mệnh Chúa
trao cho Hội Thánh: “Chính anh em là chứng nhân của những điều này” (Lc
24,48). -AMEN.

LM
ĐAN VINH

From: hnkimnga &

Anh chi Thu & Mai goi