ĐI TÌM THÚ VUI ĐIỀN VIÊN !

ĐI TÌM THÚ VUI ĐIỀN VIÊN !

Tràm Cà Mau

Vợ chồng tôi đến Mỹ gần chẵn mười năm. Những lo lắng ban đầu vì sinh kế đã tạm quên. Cũng đã thực hiện được “cái mộng của người Mỹ” là mua được căn nhà khá khang trang. Thêm vào đó, tiền tiết kiệm trong ngân hàng khá dồi dào. Cũng nhờ công sức hai vợ chồng, làm ngày làm đêm, làm không quản ngại khó khăn, không ngại thứ bảy, chủ nhật, đêm khuya, cứ có việc là có làm, có tiền là có chúng tôi. Chúng tôi chưa biết chê làm việc phụ trội bao giờ. Một hôm chủ nhật rảnh rang, thức dậy muộn, còn nằm trên giường, hai vợ chồng nằm gác chân nói chuyện tầm phào. Vợ tôi hỏi:

“Anh có nhớ câu: ‘Một mai một cuôc, một cần câu” của ông Nguyễn Bỉnh Khiêm hay của ông Nguyễn Khuyến? Câu nầy tác giả muôn nói gì anh nhớ không?”

Được một người nguyên là giáo sư Việt văn các lớp thi Tú Tài hỏi về văn chương, tôi cũng khoái chí, làm bộ hiểu biết, trả lời:

“Ông Nguyễn Khuyến hay Nguyễn Bỉnh Khiêm, không cần phải nhớ ai là tác giả làm chi cho mệt, cứ nhớ là ông Nguyễn thôi cũng đủ rồi. Câu thơ ca ngợi cái thú thanh nhàn khi sống nơi thôn dã.”

Vợ tôi nói tiếp:

“Ngày xưa, anh thường nói với em về giấc mơ khi đất nước hết chiến tranh. Chúng mình sẽ về quê, mua mấy mẫu ruông vườn, và vui thú điền viên. Sống đời thanh thản hạnh phúc. Anh còn nhớ không?”

“Ừ, thì nhớ chứ. Giấc mơ ấp ủ suốt một thời niên thiếu mà. Tiếc thay, sau khi hết mùa chinh chiến, thì đến mùa tù tội. Mà không tù tội, thì cũng không thể nào vui thú điền viên được trong cái xã hội vô cùng kỳ lạ, vô cùng gò ép con người đó. Nghĩ cũng tiếc.”

Vợ tôi nắm chặt tay tôi, nói với giọng tha thiết:

… Bây giờ mình muốn vui thú điền viên cũng đâu có muộn. Cái mộng anh ấp ủ ngày xưa có thể trở thành sự thực dễ dàng. Hay là mình bán nhà, mua một nông trại, lấy hết tiền tiết kiệm ra đầu tư vào chăn nuôi, trồng trọt. Nuôi các thứ gà vịt thả trong vườn, bán cho đồng hương Việt nam mình, trồng các thứ rau ráng mà người Mỹ không sản xuất như rau muống, bí bầu, bạc hà, tần ô, rau răm, rau thơm vân vân, chiếm luôn độc quyền cung cấp cho thị trường. Và gởi máy bay chuyển hàng lên miền đông bắc, tây bắc nước Mỹ mà bán. Không chừng mau phát đạt, mà lại nhàn nhã, có cơ sở vững chắc cho con cái sau nầy tiếp nối.”

Nghe thì khoái, nhưng tôi thở dài:

“Em nghĩ cũng hay lắm. Nhưng anh tiếc công việc đang làm hiện tại. Lương bỗng cũng khá. Công việc làm đã quen. Mình trở thành chuyên viên rồi. Bỏ đi cũng uổng. Vã lại, công việc em đang làm cũng khá bền vững. Bỏ cái bền vững, đi tìm cái bấp bênh, anh cũng hơi ngại.”

Vợ tôi cũng thở dài, tiếng thở dài dài hơn và não nề hơn:

“Công ty em đang làm, cũng chuẩn bị dọn qua một xứ Nam Mỹ, có nhân công rẻ hơn, để cứu vản tình trạng thua lỗ từ mấy năm nay. Em chưa nói với anh, vì ngại anh lo.”

Tôi hỏi vợ:

“Ai bày cho em cái kế hoạch lui về làm nông trại, vui thú điền viên nầy? Em đã nghĩ kỹ chưa, và có chương trình kế hoạch gì trong đầu chưa?”

Vợ tôi trả tời tự nhiên:

“Không ai bày cả. Cách đây mấy tháng, một đêm mất ngủ, em bật truyền hình lên . Xem một phim kể về đời sống ở nông trại thời xưa. Sao mà thanh bình hạnh phúc như trong mộng. Đời sống dễ thương quá. Và những lần đi chợ Á Đông, em thấy họ bán rau muống, rau màu Việt Nam đắt như vàng. Bán khoai mì đắt như sâm nhung. Em nghĩ mình có một nông trại sản xuất ra các thứ hiếm hoi nầy mà cung cấp cho các chợ, thì có thể hốt tiền thiên hạ như hốt lá. Anh xem, những lần tiệc tùng họp bạn, mà có thịt gà tươi “chạy bộ”, ai ăn cũng khen rối rít, xít xoa. Đó là chưa kể mình nuôi vịt bán cho thiên hạ làm tiết canh. Mình cứ đánh đúng vào thị hiếu của họ, thì mặc sức mà hái ra tiền. Chỉ một thời gian ngắn thôi, là hai vợ chồng mình thanh nhàn sung sướng, thong thả, và khi đó thì có thể khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên, chứ không làm việc túi bụi như bây giờ“.

Nghe vợ vẽ vời hay quá, cái lãng mạn đã ngủ yên trong tôi bỗng dưng thức giấc xao xuyến. Thanh nhàn, sung  ướng, ai mà không ưa, họa là khờ. Và lại còn khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên, chao ôi, đẹp quá chừng. Dù khoái tai với cái mông tưởng của vợ, tôi cũng thử vợ tôi thêm:

“Em cũng biết, nhà anh suốt mấy đời chưa hề làm nông, chưa ai cầm đến cái cuốc, cái cày. Ông nội anh là nhà nho thất chí, suốt một đời mang áo dài the, cắp cái dù đi lang thang nhà bạn bè bàn chuyện cần vương hưng quốc, ba anh thì là nhà giáo, anh suốt đời cầm bút làm việc trong văn phòng, có biết chi về canh nông, về chăn nuôi, mà dấn thân vào đó.”

Vợ tôi hăng hái thuyết phục thêm:

“Anh cũng đã từng bị đi tù cải tạo, học tập lao động mấy năm, cũng đã cuốc đất trồng khoai, cũng có chút kinh nghiệm phần nào rồi chứ. Việc nào rồi cũng quen đi. Anh xem, ngày mới qua Mỹ, mình đâu có biết việc gì, mà rồi việc gì khó khăn đến đâu, cũng làm được cả. Đi qua biển với ngàn hiểm nguy như thế, còn làm được, thì việc gì mà không làm được?”

“Nầy, sao cái luận điệu của em hao hao giống luân điệu của những kẽ tự xưng là nhân dân anh hùng, họ thường bảo rằng vượt Trường Sơn đánh Mỹ còn được, thì việc gì mà không làm được. Anh nói thêm cho em rõ, học tập lao động trong trại tù, là học được cái trây lười, cái làm cho có. Và nếu lao động như thế để kiếm ăn, thì đói cho vẫu mỏ ra.”

Cứ thế, vợ tôi nhẹ nhàng
thuyết phục tôi về một cuộc đời vui thú điền viên, về cái hạnh phúc đơn sơ
trong thanh nhàn, cái an bình trong tâm tưởng, được làm chủ lấy mình, không tùy
thuộc vào công ăn việc làm của người khác, không lo kinh tế nay lên mai xuống,
bấp bênh sụt trồi.

Thấy vợ tha thiết với nông
trại, mà những vẽ vời của nàng cũng đẹp thật, tôi cũng muốn làm vui lòng vợ một
lần. Vợ tôi đã khổ, đã chịu nhiều cay đắng trong đời khi chồng đi tù, khi chồng
tù về, và đã theo tôi đi qua bao đoạn đường chông gai khó khăn của cuộc đời. Mơ
ước của vợ tôi về cuộc sống nông trại, cũng rất chính đáng. Tôi bằng lòng bán
nhà, mua đất làm ăn.

Chưa bán được nhà, mà chúng
tôi đã được mấy ông hành nghề địa ốc lôi chạy. Chạy đôn chạy đáo theo mấy ông
từ vùng nầy, qua vùng kia, để xem đất, để xem các bảng tính toán lỗ lời do các
ông đưa ra. Hình như cuộc đất nào cũng tốt, cũng đem lại một tỉ suất lời cao.
Cuối cùng, chúng tôi cũng mua được một sở đất năm mẫu, cách thành phố Dalas bảy mươi dặm về hướng bắc. Lái xe chừng hơn một giờ thì đến thấu.

Năm mẫu đất nằm giữa đồng
không mông quạnh, gió thổi vun vút, mùa hè bụi lốc xoáy mù. Chủ đất và người
hành nghề địa ốc dẫn tôi đi, lội cỏ lút đầu gối để chỉ các cột mốc ranh giới.
Tôi và vợ đi theo, mà thở hồng hộc, vấp té mấy lần.

Học theo các chủ nông trại
đi trước, chúng tôi mua một căn nhà tiền chế có ba phòng ngủ, hai phòng tắm và
thuê xe kéo về đặt trên thửa đất. Căn nhà trông bên ngoài cũng rất mỹ thuật,
đẹp đẻ. Phòng ốc bên trong xếp đặt rất hợp lý và sáng sủa. Ngồi trong nhà,
không có cảm giác chi là căn nhà tiền chế. Vợ tôi khen, căn nhà nầy còn mới, và
rộng không thua chi căn nhà cũ của chúng tôi. Nhìn cái xe của hãng sản xuất nhà
tiền chế kéo cái nhà về đặt trên sở đất mà ngán. Cái nhà dài lòng thòng, và
rộng bề ngang, kéo đi choán hết bề rộng mặt đường. Hãng phải xin giấy phép đặc
biệt để kéo đi. Cái nhà về đến trước đường cái, chiếc xe từ từ nhích vào nơi
chúng tôi muốn đặt căn nhà, mới chạy được một đoạn ngắn, thì bánh xe lún xuống
đất bùn nhão nhẹt và quay tít. Lui không được mà tiến cũng không xong, tiếng
máy xe gầm lên từng hồi như con thú bị thương. Thì ra vì trời mưa suốt tuần
trước, làm đất mềm và nhão, không đủ sức cho bánh xe cán lên. Ông tài xế râu
ria xồm xoàm và ăn mặc áo da, giống như mấy tay găng tơ trong phim xi nê nhảy
xuống xe và chữi thề om xòm, làm như chính tôi là thủ phạm làm xe ông mắc lầy.
Tôi lãng ra nơi khác, không muốn thấy cái thái độ thiếu lịch sự của gã. Ông đòi
mượn ván gỗ để chêm bánh xe, tôi làm sao có được, y chạy lui chạy tới như gà
mắc đẻ, rồi hét lớn;

“Tại sao không cho biết đất còn mềm, bây giờ làm sao mà lui ra đây?”

“Tôi làm sao mà biết được đất cứng hay mềm mà nói? Đâu phải là chuyện của tôi?”

“Thế thì cái nhà nầy của ai đây? Không phải của anh chắc?”

Ông tài xế lên xe, dùng điện
thoại kêu về công ty và ngồi chờ. Chừng hơn một giờ sau, có chiếc xe khác tới
phụ, lôi chiếc xe bị lún bùn ra. Cái nhà bị đẩy giật tới, giật lui, lúc lắc.
Cuối cùng, cái nhà được tạm thời hạ xuống bên đường lề đường, và lấn ra, choán
gần hết mặt lộ. Cái nhà nằm khơi khơi trên con đường trông rất chướng mắt. Ông
tài xế bảo tôi:

“Cứ để tạm đó, chờ khi nào đất khô rồi kéo vào.”

Tôi vô cùng bối rối. Cái nhà choán mặt đường, xe cộ ngược chiều đi qua không thấy nhau, và phải nhường cho nhau đi qua trong một phần nhỏ hẹp của lòng đường còn lại. Mà chẳng có bảng hiệu, bảng thông báo trước để xe chuẩn bị mà tránh nhau.

“Thế thì bao giờ cái nhà mới được đem vào bên trong” Tôi lo ngại hỏi anh tài xế.

“Không biết. Chờ”

“Để ngoài đường như thế nầy rất nguy hiểm cho người lái xe. Lỡ họ tông hư nhà thì làm sao”

“Anh không phải lo” Ông tài xế trả lời tôi như nói với đứa con nít…

Không biết làm gì hơn, tôi
cùng vợ lái xe về, mà trong lòng không yên. Hôm sau, chúng tôi đến lại cuộc
đất, thì thấy cảnh sát đã gài giấy phạt, và hăm phạt tăng nhiều lần nếu còn để
cái nhà choán đường lưu thông. Tôi đem giấy phạt về công ty bán nhà và than phiền
với hãng. Ông chủ hãng nầy không tiếp tôi, mà giao cho người khác giải quyết.
Anh chàng nầy nói năng rất từ tốn, bảo là hãng sẽ giải quyết ngay, đừng lo. Thế
nhưng cả tuần sau, cái nhà mới được đưa đúng vào vị trí mong muốn. Tôi tưởng
đặt nhà là ở được. Nhưng không. Đi tiêu đi tiểu và nước thải đổ vào đâu? Không
lẽ lấy cuốc đào chút đất trong vườn, sau khi đi tiêu, lấp lại như ở nhà quê
sao? Thế là phải chạy đi mua cái hầm tiêu tự hoại. Mua thì dễ, mà giấy phép đặt
hầm cầu, thì có những chi tiết kỹ thuật bắt buộc phải cung cấp cho văn phòng
quận. Lại mất thêm tiên cho công ty kỹ thuật lập hồ sơ. Cái nhà tiền chế bị
dịch lui dịch tới nhiều lân, làm gảy các ống nhựa bắt sẵn bên trong, cho nên
khi nối đường nước vào, thì nước chảy tung tóe. Ướt hết từ trong ra ngoài. Tôi
đứng nhìn mà ngao ngán. Phải chờ thêm mấy ngày để chờ thợ ống nước đến sửa
chửa.

Khi tôi đến công ty điện,
công ty nước để xin nối điện, nối nước vào nhà, tôi mới giật mình thấy cái bảng
ước tính chi phí bắt điện, bắt nước. Nhà tôi xa đường dây điện chính, phải
trồng thêm nhiều trụ điện khác, mới chạy được đường dây vào. Tôi phải chịu phí
tổn đó. Không ai nói trước cho tôi điều nầy. Dù chi phí cao đến mấy, tôi cũng
phải cắn răng mà ký tên vào tờ giao kèo, thỏa thuận. Không lẻ phải mua máy điện
riêng, lôi thôi chịu chi nỗi. Đã đâm lao thì phải theo lao, chứ làm sao bây
giờ. Đường nước, thì tôi may mắn hơn, nước đã đến cách cuộc đất chúng tôi không
xa lắm, nhưng cũng phải chi tiêu khá nhiều để chuyển nước từ ống chính vào.
Công ty nước đào đất, chuyển ống đến đồng hồ mà thôi, sau đồng hồ nước là mình
phải tự lo lấy. Thợ ống nước tính tiền ngọt lắm, đào xới, lắp ráp, sửa chửa,
chút chút là đòi bạc trăm, bạc ngàn, mình không có dụng cụ, và không có kinh
nghiệm, nên cứ cắn răng mà trả, có kêu ca cũng vô ích. Tôi đứng quan sát các
anh thợ, để học lóm nghề, thì ra cũng dễ dàng như chơi. Chịu khó mua một ít
dụng cụ, thì cũng có thể tự làm được. Nhờ học lóm, mà sau nầy, tôi tự chạy
đường nước tưới cây trong vườn.

Bốn góc nhà, tôi bắt thêm
bốn vòi nước, để dễ câu ra vườn. Đất mùa mưa nhão nhẹt, không chạy xe vào nhà
được, tôi kêu xe đổ sạn trắng, làm thành một vòng cung ngay trước nhà. Cái đỉnh
vòng cung là cửa vào nhà, hai chân vòng cung nối ra đường. Phải đặt ống cống
cho nước trong mương bên lề đường thông thương. Khi xe vào vườn, chỉ cần chạy
một chiều, vào bằng một cửa, ra bằng cửa khác. Vợ tôi ví cái đường vòng cung
nầy với sân tòa Bạch Ốc, cũng sang trọng và đẹp không kém.

Vợ tôi sung sướng ngâm nga :

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ.

Người khôn người tìm chốn lao xao”.

Ngâm đi ngâm lại mãi. Vợ tôi
bàn rằng, làm thêm một cái bệ gỗ bên cạnh nhà, che song gỗ bên trên, mùa hè ban
đêm cả gia đình ra ngồi ngắm trăng, uống trà ăn kẹo ngọt, để nhớ miền quê Việt
Nam. Cũng để xem ông thi sĩ miền Bắc nước ta, bốc thơm đàn anh Trung Quốc rằng
“Trăng nước Mỹ không đẹp bằng trăng Trung Quốc” có đúng không. Nghe đã lỗ tai,
tôi mua gỗ về hì hục, cưa đóng cả tuần mới xong. Tốn tiền, mà sau nầy vì công
việc nông trại tối mắt, tắt mày, chưa bao giờ có thì giờ rảnh ra ngồi ngắm
trăng uống trà, chỉ có những khi mệt vã mồ hôi, ngồi bệt lên sàn nghỉ một chốc
mà thôi.

Bây giờ thì phải làm hàng
rào bao quanh khu vườn lại. Tôi mua cọc sắt, và lưới làm hàng rào. Loại cọc mà
bên Việt nam mình kêu là cọc sắt ấp chiến lược, và loại lưới gọi là lưới B40.
Nhìn vào bảng ước tính giá mua cọc và lưới mà mặt vợ tôi nhăn lại như ăn dấm
chua. Cũng mất mười mấy ngàn đồng. Không thể chịu đựng nỗi chi phí nầy, tôi
quyết định chỉ rào khu chăn nuôi thôi, còn khu trông trọt thì cứ để trống. Ai
mà chạy xe ra đến đây để ăn cắp hoa màu cuả mình. Nước Mỹ chớ đâu phải châu Phi mà lo. Hãng bán cọc sắt và lưới đổ cho tôi một đống lớn trong vườn. Mình phải
tự làm hàng rào lấy, chứ thuê thì tiền đâu mà chịu nỗi. Tôi mua búa tạ và thang
xếp, làm thành cái dàn. Con gái tôi mới mười bốn tuổi, giúp bố giử cây cọc, tôi
leo lên, dùng búa giáng xuống. Sức dộng của búa rung cây cọc sắt, làm tay con
tôi đau buốt và buông cọc ra mà kêu thét lên. Tôi phải làm một nùi vải, chêm
vào tay cho nó cầm. Cứ đóng vài ba búa, là thấy cọc có chiều nghiêng nghiêng,
không đứng thẳng được. Tôi phải leo xuống, dùng dây dọi điều chỉnh rất khó
khăn. Vợ tôi dứng nhìn và nói:

“Đóng cọc theo lối nầy, thì không chừng tốn cả năm trường mới xong được.”

Hai bàn tay tôi đỏ và sưng
lên. Con gái tôi cũng nhăn nhó mặt mày vì cái trò chơi không mấy hứng thú nầy,
và phải đứng ngoài nắng gió cả buổi. Để việc rào dậu chóng hoàn tất, tôi phải
tính đến chuyện thuê người làm phụ. Tôi bàn với vợ, thuê một anh người Mễ. Vợ
tôi ngại sẽ bị lôi thôi với pháp luật, vì thuê người nhập cảnh bất hợp pháp.
Tôi bảo rằng, tôi không ra ứng cử dân biểu, nghị sĩ, thì sợ gì, có ai mất công
mà tố cáo tôi thuê người nhập cảnh bât hợp pháp.

Sáng hôm sau, tôi lái xe về
phía Nam nông trại, đi mất chừng hơn nửa giờ, đến gần khu có cây xăng, nơi đây
các thanh niên người Nam Mỹ thường hay tụ tập, đứng lóng ngóng chờ người đến
thuê đi làm. Xe tôi vừa đậu lại, thì có hơn hai chục thanh niên vây kín, lao
nhao đòi đi làm. Có vài anh còn nhãy lên thùng xe ngồi đó. Không ai biết tiếng
Anh, mà tôi thì mù tịt tiếng Mễ. Họ biết tôi cần người làm, tôi biết họ cần
việc làm, nhưng không ai nói cho ai hiểu là phải làm việc gì.

Tôi nhãy xuống xe, đứng cong
lưng, hai tay đưa lên đưa xuống, ra dấu đóng cọc. Họ à à gật đầu và cười, nói
“Ô kê, ô kê”. Tôi ra dấu, đưa một ngón tay lên, bảo là chỉ cần một người thôi,
thế mà bốn năm người nhảy lên thùng sau xe ngồi, và chục người khác bu theo
nhao nhao, nói gì tôi không hiểu. Tôi chán quá, la lên và khoát tay và lắc đầu,
có ý bão họ là không thuê ai nửa cả, đòng thời ra dấu cho mấy người ngồi trên
xe tôi đi xuống. Phải lâu lắm, tôi mới rời được đám người nầy. Khó quá, mình
không biết nói, mà họ cũng không hiểu mình, và cứ đeo theo đòi đi làm. Tôi lái
xe đi, giả vờ như không thấy những người Mễ hai bên đường đang ra dấu, hỏi tôi
có thuê họ hay không. Dừng xe lại là họ nhào đến, không đi được.

Tôi đang phân vân, chưa biết
phải làm thế nào, thì thấy có một anh Mễ to lớn, mập mạp, đang đi một mình trên
đường, tôi chạy xe chậm lại, và hất đầu làm dấu như hỏi anh ta có muốn đi làm
viêc hay không. Anh vui vẻ gật đầu, tôi mở cửa cho anh lên xe, thì thấy có
nhièu người khác chạy gấp về phía tôi, và la lên, có người níu xe. Tôi phải xua
tay, và rồ máy chạy thẳng. Đến một góc đường xa, tôi dừng xe lại. Hỏi anh Mễ
muốn tôi trả bao nhiêu một ngày. Hai bên không hiểu nhau, anh Mễ cứ đực mặt ra,
như người điếc. Tự nhiên tôi cảm thương anh Mễ , vì anh làm tôi nhớ tới thời
mới tới Mỹ, ai nói gì cũng không hiểu và chỉ cười. Tôi lấy giấy ra, ghi số tiền
tôi muốn trả cho anh ngày hôm nay, cao hơn lương lao động tối thiểu chừng mười
lăm phần trăm. Anh Mễ lắc đầu, ghi số tiền gấp đôi. Tôi ra dấu cho anh xuống
xe. Anh lấy giấy ghi số tiền thấp hơn. Tôi lắc đầu. Cuối cùng, anh bằng lòng
làm việc với số tiền công tôi ghi ban đầu.

Đi bốc người, vừa đi vừa về
mất hơn hai giờ, rồi buổi chiều phải mang trả anh ta tại chỗ cũ nữa. Nhưng
không thể làm việc một mình được.

Tôi dẫn anh Mễ vào, dắt đi
quanh vườn, ra dấu cho anh biết là tôi sẽ đóng cọc hàng rào quanh khu nầy. Hai người
nói chuyện với nhau bằng tay, ra dấu, và tôi nói tiếng Anh, anh ấy nói tiếng
Mễ. Tôi cầm cọc sắt cho anh Mễ đóng. Tôi nghĩ là với cái tướng dáng to lớn vạm
vở đó, anh chỉ đóng ba búa cho mỗi cọc, là đi tuốt xuông đất sâu. Nhưng không
ngờ, anh Mễ dáng búa lên, và gõ nhẹ xuống cây cọc, như sợ cây cọc đau, cứ từ từ
chầm chậm búa xuống, thong thả nhàn nhã và nhẹ nhàng. Đóng mãi mới xong được
một cây cọc. Vợ tôi đứng nhìn. Khi đóng qua cây cọc thứ hai, thì vợ tôi hỏi:

“Anh ơi, ông Mễ múa thể dục
Tài Chi hay sao mà yểu điệu và khoan thai thế. Đóng cọc theo lối nầy, thì biết
đến thuỡ nào mới xong được?”

Tôi cũng nóng ruột với cái
dáng điệu khoan thai của anh Mễ, kêu anh xuống thang, và bảo anh cầm cây cọc
cho tôi đóng. Anh cầm cây cọc chắc lắm, tôi cứ đóng xuống là thẳng đứng. Ừ thì
ít ra cũng xữ dụng được cái sở trường của anh nầy. Tôi tự an ủi là dùng người
như dùng gỗ, dùng cái ưu điểm của anh ấy thôi. Chưa lao động quen, mồ hôi cứ vã
ra như tắm, và tôi uống nước liên tục. Cứ nữa tiếng, là tôi nghỉ ngơi một chốc.
Vợ tôi phàn nàn rằng, thuê người để họ làm, chứ đâu phải thuê người về vịn cây
cọc. Sau nầy tôi mới được các bạn bè cho biết, họ làm theo đồng tiền được trả,
khi cho là ít tiền, thì họ làm ít. Tiền nào của đó, và môt lý do nữa, là họ làm
chậm, thì hy vọng công việc làm được nhiều ngày hơn.

Buổi chiều, trả tiền cho anh
Mễ, anh kỳ kèo đòi thêm, cứ đưa tay ra mãi. Bực quá, tôi cho thêm năm đồng, anh
vẫn chìa tay ra, tôi lắc đầu cương quyết không là không. Vợ tôi thấy tôi cho
thêm tiền, tiếc của la lối :

“Không làm được gì mà anh
còn cho thêm tiền ư?”

Vợ tôi kéo tôi ra nói nhỏ:

“Em nghĩ anh Mễ nầy không
được lương thiện lắm. Cứ nhìn trộm em hoài., làm em sợ. Chắc mình phải mua
súng, để tự vệ. Chứ nơi đồng không mông quạnh nầy, có chuyện gì xẫy ra chẵng
biết làm sao.”

Tôi cảm thấy lo, nói cho vợ
yên lòng:

“Ừ, để rồi tính sau. Dễ mà,
xứ nầy mua bao nhiêu súng cũng được, bất cứ loại súng nào.”

Tôi ra dấu cho anh Mễ lên
xe, để tôi chở trả anh về nơi cũ. Khi đến gần nơi xuống xe, anh nói: “Mà nha
na, mà nha na” (manãna: ngày mai), có ý muốn ngày mai làm việc nữa. Tôi chỉ
hiểu tiếng ngày mai thôi. Lắc đầu, tôi nói “Nô mà nha na.”

Chẳng thể không thuê người
phụ đóng cọc được, hôm sau tôi lái xe về nơi cũ. Khi đi ngang chỗ các anh Mễ,
tôi gia tăng vận tốc chút xíu, thế mà cũng có những cánh tay đưa ra ngoắt tôi.
Lòng tôi lại chợt chùng xuống, và thương những người lìa bỏ quê hương đi kiếm
ăn. Tôi nghĩ đến thân phận mình may mắn hơn, được vào Mỹ hợp pháp, được đi làm
và cũng có cơ hội đồng đều như người Mỹ sinh trưởng tại đây. Tôi liếc mắt tìm
những anh Mễ đứng đơn dộc, và chạy xe chậm lại kềm sát một người đang đi ngược
chiều. Tôi hất đầu làm dấu, anh Mễ gật đầu. Tôi mừng vì anh nầy biết lỏm bỏm
tiếng Anh. Tôi đưa giá, anh bằng lòng ngay. Anh nầy cao, gầy, rắn chắc, tên là
Pedro.

Rút kinh nghiệm ngày hôm
qua, tôi không nói trước là phải làm bao nhiêu hàng rào để họ khỏi tính chuyện
câu giờ. Tôi giữ cọc sắt cho Pedro đóng xuống. Anh đóng ào ào, mỗi nhát búa tạ
của anh làm cây sắt đâm sâu xuống đất, sâu gấp hai lần mỗi nhát búa của tôi.
Tôi bằng lòng lắm. Vợ tôi đem nước cam và thức ăn, cùng trái cây ra đãi trong
khi chúng tôi nghỉ xả hơi. Ngày hôm đó, chúng tôi đóng được gần ba lần ngày hôm
trước. Vợ tôi vui ra mặt và nói với tôi:

“Sao anh không đề nghị cho
Pedro làm khoán , có lẻ mình đỡ mệt, mà đi lo việc khác.”

Tôi cố gắng lắm mới nói cho
Pedro hiểu. Anh bằng lòng làm, và cho một cái giá thấp mà tôi không ngờ được.
Tôi chở Pedro về, và hẹn hôm sau trở lại đón lúc bảy giờ sáng. Hôm sau Pedro
đem theo một người bạn, hai anh thay phiên nhau đóng cọc, và làm mãi cho đến
khi trời tối mịt mới nghỉ. Tôi đãi hai anh nầy cơm nước, bánh trái rất hậu. Vợ
tôi nói “Ngày xưa Tào Tháo đải Quan Công e cũng chỉ đến thế mà thôi.” Chỉ mấy
ngày, Pedro và bạn anh đã hoàn tất cái hàng rào. Họ còn nhổ lên và đóng lại
những cái cọc xiên xẹo, những cái tôi đã đóng lúc đầu.

Hôm hoàn tất hàng rào, tôi
làm tiệc đãi Pedro, thịt nướng ăn với rau, có mấy chục lon bia trợ lực. Trả
tiền, và tính lại thì tiết kiệm được rất nhiều tiền công, nếu thuê hãng chuyên
môn rào, thì tiền nhân công đắt gấp ba lần.

Xong cái hàng rào, tôi mua
hai trăm con vịt xiêm, ba trăm con gà, thả vào vườn. Cho chúng mặc sức mà đi
lại, chạy nhãy và phá phách khu cỏ chưa trồng trọt. Vịt thì ban đêm nó chui vào
gầm nhà tiền chế mà ngủ, tránh sương tránh gió. Cứ đầu hôm, chúng kêu om sòm.
Có khi nữa đêm giật mình vì tiếng vịt kêu. Con tôi cho rằng có lẽ vịt nó nằm mơ
và la hoảng. Tôi nghĩ là vịt nó núp dưới sàn nhà rất tiện lợi, đở tốn tiền làm
chuồng. Nhưng chỉ mới mấy ngày, vợ tôi la các con, hỏi có đứa nào đạp phân gà
vịt và mang vào, làm dính thảm nhà hay không, sao có mùi hôi mãi. Tôi giật
mình, thì ra vịt nó phóng uế đầy ngập dưới gầm nhà. Thế là tôi phải lái xe đi
mua vật liệu, về hì hục đóng chuồng. Đóng một mình thì không được, phải có thợ
phụ. Vợ tôi giúp, và con gái đi học về cũng ra phụ. Tôi phải dùng vòi nước, bò
vào gầm rất thấp của căn nhà mà rửa cho sạch phân. Vừa chật, vừa hôi, vừa khó
chịu, tôi nghĩ mình dại quá, không nghĩ ra sớm cái chuyện vịt phóng uế . Thôi
thì phải trả nợ cái tội thiếu nghĩ xa.

Tôi định rào lưới che hầm
sàn nhà, thì có nhân viên của thành phố đến, cho tôi biết rằng, theo luật thành
phố, thì cái nhà phải mặc quần, nghĩa là che kín phần dưới chân lại, không có
quyền ở truồng, vì mùa đông sợ lạnh bụng. Thế là phải đi đặt hàng, mua vật liệu
để che kín cái chân nhà lại. Tôi cũng mất cả tuần mới hoàn tất cái quần cho căn
nhà. Thức ăn gà vịt, phải qua thành phố bên cạnh mà mua, chất đầy cả chục bao
trên xe, chạy về. Cũng chỉ có một mình tôi lăn xuống xe hơi, bỏ lên xe kéo, và
mang vào chất trong kho. Nặng nề, mệt lữ và bụi bặm. Không quen lao đông, khi
nào tôi cũng thở phì phò, có khi quáng mắt, thấy đom đóm giữa ban ngày.

Phân gà phân vịt tràn đầy cả
sân cỏ, cả lối đi, nhão nhẹt và dơ bẩn. Tôi dùng vòi nước xối rửa mỗi ngày. Sau
nầy, nhìn biên lai tiền nước, tôi giật mình không dám rửa ráy thường xuyên và
xài phí nhiều. Có tháng phải trả cả năm trăm đồng tiền nước, mà chưa bán được
đồng nào nông phẩm.

Gà cũng thả rong, vịt cũng
thả rong. Nhiều lúc chú gà trống lớn vô tình lãng vãng đi gần đàn vịt mái. Ông
vịt xiêm đầu đàn hiểu lầm, phóng đến đánh đuổi chú gà. Thế là có cuộc đọ sức,
như hai võ sĩ thượng đài. Chú gà đâu có chịu thua dễ dàng, nhảy lên, cắn vào
mồng ông vịt, dùng hai chân đạp thốc vào ngực vịt, có lẽ hai cái cựa nhọn cũng
đâm sâu vào địch thủ. Ông vịt dong hai cánh đập tạt vào, mạnh như roi quất. Có
khi làm chú gà lộn ngược nằm lăn ra đất. Cuộc chiến kéo dài, tôi và thằng con
trai ngồi coi khoái lắm, toét miêng cười, và có khi la hổ trợ cho cuộc chiến.
Vợ tôi thì nhãy đỗng lên mà gào:

“Anh không ra mà can chúng
ra, để chúng bị thương, có con chết đấy”

“Con nào chết thì đem nấu
cháo ăn”. Tôi trả lời.

Ông vịt hạ cái đầu xuông
thấp, thẳng ra phía trước như võ sĩ đi xà quyền. Chú gà ngóc đầu lên cao mổ
xuống. Ông vịt hất ngược cái đầu lên, thọc mạnh vào dưới hàm con gà, và hai
cánh vịt đập vào như trời giáng, chú gà ngã lăn quay. Dứng dậy, bỏ đi mà không
chạy trốn, rồi đập cánh bồm bộp, gáy hai tiêng dài, như thổi kèn chiến thắng.
Ông vịt chắc cũng thấm đòn, gờm, không dám đuổi theo.

“Sao con gà mà đấu thua con
vịt hở Ba?”
Thằng con trai tôi hỏi.

“Vì con gà thiếu chính
nghĩa. Léng phéng gần đám đàn bà của con vịt. Vả lại, theo luật quyền Anh, đây
là một cuộc đọ sức không cân xứng, con vịt nặng gần gấp đôi con gà?..”

Tôi trả lời chưa xong,
thì thằng con cắt ngang:

“Chính nghĩa là gì Ba?”

Vợ tôi nghe con hỏi, nạt
tôi:

“Thôi ba nó ơi. Đừng đầu
độc con cái. Thấy gà vịt đánh nhau, đã không can mà còn ngồi xem, tán thưởng.
Làm con nó quen với cái ác, hư đầu óc thơ ngây của chúng.”

Đám gà vịt nầy, ăn mạnh
và lớn mau, đẻ trứng lung tung đầy vườn. Chúng tôi phải đi nhặt cất vào thùng
lớn, mua hộp có ngăn đựng trứng mà chứa. Bây giờ thì phải nghĩ đến cách tiêu
thụ trứng nầy. Vợ tôi bàn rằng, mua một cái máy ấp, bán hột gà lộn hai mươi mốt
ngày, và bán luôn hột vịt lộn.

Cái máy ấp đem về, mỗi
lần ấp được ba trăm trứng. Ấp xong, tôi lựa những cái trứng lớn cho gia đình
dùng. Trứng ấp tại nhà, ăn ngon vô cùng,

Nước trong trứng ngọt
lịm. Tôi ăn một lúc sáu cái. Đứa con gái tôi rùn vai ghê sợ, không dám ăn.
Thằng con trai bắt chước bố, cũng ăn được năm cái, và bị sình bụng suốt đêm nằm
rên ư ử. Trứng ngon quá, đem đi bán thì uổng, tôi bàn với nhà tôi, chủ nhật
nầy, đem về thành phố tặng cho các bạn bè bà con, mỗi người vài chục hột ăn
chơi, hưỡng cái thành quả đầu tiên của nông trại chúng tôi.

Thế là chúng tôi mất thêm
một ngày chủ nhật, chạy từ nhà nầy qua nhà kia, chia cái vui của nông trại cho
bà con. Ai cũng khen, vồn vả tiếp đón, vì mấy khi có trứng lộn tươi như thế nầy
trên đất Mỹ. Chúng tôi ra về, dù đường xa mệt nhọc và tốn xăng, tốn sức, nhưng
lòng vui như hoa nở.

Tôi đi ngoại giao, gặp
các chủ tiệm bán thực phẩm Á Châu, hứa sẽ cung cấp cho họ rau tươi, bầu bí, gà
vịt tươi, trứng lộn, với giá rẻ. Đa số đều vui vẻ, và bảo tôi đem hàng đến cho
họ xem, rồi họ sẽ mua. Về sau, trứng ấp được đem bỏ mối cho các chợ, ban đầu
thì bán rất khá, nhưng càng lúc, thì càng ế ẩm, vì người ta ăn cho vui, ăn để
nhớ hương vị quê nhà, không phải ăn vì ngon, và muốn ăn thường xuyên. Trứng
không để lâu được, các tiệm bán không hết trả lui, tôi phải ôm về, còn phải năn
nỉ bạn bè để tặng không cho họ. Thế mà có người từ chối, và nói thẳng thừng là
không muốn ăn các thứ đó nữa. Đám gà vịt, cũng không bán được bao nhiêu, trong
nhà ăn mãi cũng ớn. Đem cho bạn bè thì nhiều. Người thì làm tiết canh vịt, vịt
xáo măng, gỏi gà, cháo gà, phở gà. Gà tươi nuôi trong vườn thì ăn ngon. Cho thì
họ ăn, nhưng mua thì không mua. Tiền bán gà vịt gom lại, không bằng tiền thực
phẩm mua cho chúng ăn trong vài tháng. Ấp trứng thì lỗ vốn lớn, có lẻ tiền bán
được chưa đủ tiền điện, tiền xăng, chưa kể công vận chuyển.

Khi nuôi vịt, tôi nghĩ
vịt là phải có nước cho chúng tắm, tôi chưa biết vịt có thể ở khô. Tôi thuê xe
ủi đất, hì hục đào một cái hồ lớn, cái hồ chứ không phải là ao. Mấy ngày ròng
rã. Tôi vật lộn với cái máy ủi đất. Đào, xời hắt lên cao. Khi đào xong cái hồ,
thì tôi chợt nhận ra là cái xe ủi đất đang nằm dưới lòng hồ, mà bờ hồ thì cao,
dốc đứng, xe không lên được. Tôi phải hì hục đào một đường dốc xiên cho xe đi
lên. Thế là vợ tôi có dịp để cười và chế nhạo. Đào hồ xong, thì phải xả nước
vào, và hy vọng mùa mưa khỏi phải tốn nước. Cuối tháng đó, đọc cái biên lai
tiền nước mà tôi hoa mắt, chóng mặt. Tôi phải dấu cái biên lai tiền nước, không
cho vợ biết, vì sợ vợ buồn. Cái ao đã đào lỡ rồi, mỗi ngày nước bốc hơi, phải
châm thêm cho đầy. Nghe tiêng nước chảy, mà tôi đau như máu mình đang thất
thoát. Bỗng tôi đâm ác cảm với bầy vịt, ăn thì như hạm, phóng uế vung vãi, bán
thì khó. Để già thì thịt dai, không ai ăn, và họ có lỡ mua một lần, thì lần sau
không dám đụng đến nữa. Vịt già cũng sẽ làm hại uy tín kinh doanh. Làm thịt bỏ
tủ lạnh, thì tôi không đủ can đảm đầu tư thêm cái máy làm gà vịt, không đủ vốn,
mà từ đó sinh ra nhiều chi phí khác nữa.

Cứ nghĩ ra thêm một cái
gì, thì tốn kém thêm tới đó. Có người mách tôi, cứ đem gà vịt ra chợ trời mà
bán vào các ngày họp chợ, từ thứ sáu đến chủ nhật. Lại biết thêm nghề bán chợ
trời. Bán ở chợ trời thì chịu nắng nôi, nhưng nhiều người mua. Về sau, tôi bán
sĩ với giá rẻ cho những người bán lẻ. Như thế thì mau hơn, đở tốn công, đỏ mệt
nhọc.

Tôi dựng giàn trồng bầu
bí, chưa kịp đi mua gỗ đóng giàn, thì có người mách bảo: “Hãy mua ống nước bằng
nhựa, mua thêm các khúc ống nối thẳng, nối cong, nối chữ T, chữ L. Cứ thế mà
ráp vào thành giàn, làm mau như gió. Tội chi mà đóng giàn gỗ cho khổ công mà
mau mục ải.” Tôi nghe theo lời thầy bàn, nghe thì có lý lắm, nhưng khi vào thực
tế thì gặp không biết bao nhiêu ván đế. Thứ nhất là quá tốn kém, thứ hai là
giàn không vững, khi gió thổi thì mấy cái giàn cứ đu đưa nhún nhẫy theo chiều
gió. Thế là phải mua thêm ống nước lớn mà chống chỏi, mà đâu phải là dễ chống,
vì ống nước nhựa trơn lu, không có nơi tựa, mà đông đinh thì xôc xệch lỏng lẻo.
Lại tốn thêm bộn tiền. Phải mua thêm lưới mắt cáo trùm lên cho bầu bí leo. Mỗi
ngày, buổi chiều đi học về, con gái tôi ra vườn tưới cây. Bầu bí lớn mau như
thổi, chẳng bao lâu dàn cây lá sum sê xanh mướt, ra hoa vàng rực, và những nụ
trái nhú ra đẹp như những nậm ngọc. Lũ ong bướm kéo đến nhỡn nhơ . Tôi nhìn mà
lòng vui không xiết. Rồi những trái bầu bí dài thòng, nặng chĩu, phải buộc dây
treo chúng lên.

Vợ tôi bàn rằng, nên thuê
người đổ đất làm một con đường chạy từ ngoài vào đến cuối vườn, để mai đây, khi
nông phẩm nhiều, xe vận tải lớn có thể vào chuyên chở thẳng ra chợ. Tôi thấy có
lý quá, đi giao thiệp,và giao cho nhà thầu đổ đất, cán đường, làm mương thoát
nước hai bên đường. Lại tốn kém thêm ngoài dự trù, nhưng nghĩ lại, mai đây, đở
tốn công thuê người khuân vác từ nhà ra đường. Sau nầy, con đường chưa được hân
hạnh đón chiếc xe vận tải nào đi qua, vì chúng tôi ước tính thì nhiều, mà thành
quả nông nghiệp không gặt hái được bao nhiêu.

Những trái bầu non, nấu
canh tôm ngọt nước, ban đầu thì ngon lắm, vợ chồng khen tấm tắc và như ăn canh
thay cơm, nhưng ăn mãi thì cũng chán. Bạn bè bà con xa gần cũng hưỡng được
thành quả của chúng tôi. Chúng tôi đem bầu bí ra bỏ mối ở các chơ Việt Nam, có
bao nhiêu bán được hết bấy nhiêu. Nhưng đó là thời gian đầu mùa, về sau, dù
xuống giá rẻ rề, cũng không bán hết, phải mang các thứ trái cây héo về, đổ
xuống làm phân xanh. Tôi lại chuyển bầu bí ra chợ trời, bán sĩ cho các gian
hàng, người ta trả giá nào cũng phải bán tháo đi. Bạn bè bà con, ăn mãi cũng
chán bí chán bầu, không ai muốn nhận các món quà nầy, vì ngoài chợ cũng rẻ rề.

Chúng tôi tính toán sai
cả, thì ra cái tưởng tượng khác xa thực tế. Chưa có kinh nghiệm, chưa từng
trãi, cứ vẽ vời trong trí tưởng tượng mà đem ra thực hành. Đôi khi tôi có cảm
tưởng như vợ tôi là vị bí thư tỉnh ủy, cứ vạch hết kế hoạch nầy, đến kế hoạch
kia, mà tôi là nhân dân, chỉ biết thi hành và sai thì sửa và càng sửa thì càng
sai.

Mùa đông đầu tiên, một
buổi sáng thức giấc, dậy đánh răng rửa mặt, mở nước không chảy. Tôi tưởng hãng
cung cấp nước tạm thời khóa nước để sửa chửa. Tôi định sẽ kêu điện thoại than
phiên vì khóa nước mà không báo trước. Nhưng sau tôi mới biết là thời tiết
lạnh, đã làm đông đá nước trong ống. Mấy đứa con tôi không chịu đi học vì chưa
đánh răng súc miệng. Tôi cũng chịu thua. Ống nước bị lạnh đông đá, làm nhiều
nơi bị vở, khi đá tan, nước chảy lênh láng. Lại phải nhờ mấy ông thợ ông nước
đên sửa chửa với tiền công chém rất ngọt. Nhà tiền chế, tường mỏng, mái mỏng,
mùa hè thì thiêu đốt như lò lửa, mùa đông thì lạnh căm căm. Tôi lại phải tốn
thêm tiền mua hệ thông sưởi, hệ thông điều hòa không khí.

Chỉ một thời gian thôi,
tiền tiết kiệm, tiền bán căn nhà, đã đổ hết vào cái nông trại. Thấy cạn tiền
đầu tư cho mùa tới,vợ tôi bàn chuyện đi vay ngân hàng, đem cái nông trại nầy ra
mà cầm cố. Thôi thì cũng liều – Sống trên xứ nầy không có nợ, thì không phải là
người tốt – Một anh bạn tôi bảo vậy. Tôi chở vợ ra ngân hàng làm giấy tờ vay
mượn. Chỉ mấy hôm sau, được giấy báo là ngân hàng đã chấp thuận. Chúng tôi hớn
hở, cứ còn nước thì còn tát, để cứu vãn cái nông trại nầy. Nhưng khi nhìn vào
bản chiết tính chi tiết các phí khoản vay, đủ các thứ chi phí, vay thì ít, mà
nợ tốn kém thì nhiều. Vợ tôi nhăn nho, nói tiếng Việt Nam với tôi, trước mặt
ông nhân viên cho vay:

“Bọn nầy là tụi ăn cướp
ngày, ăn cướp có giấy tờ, ăn cướp có pháp luật che chở. Vay chừng đó, mà chi
phí chừng đó, có chết thì thôi, tôi không mượn đâu. Thôi đi về.”

Không mượn được tiền,
chúng tôi lo lắng lắm. Thôi thì tạm thời chi tiêu bằng thẻ nhựa, chịu lãi suất
cao, cũng còn đở hơn. Tôi thức khuya, dậy sớm chăm nom lũ gà vịt, lũ rau ráng.
Có khi đến mười giờ khuya mà vẫn còn vác nặng trên vai những bao thức ăn súc
vật, còn xối nước tưới cây. Những lúc nầy, tôi cũng bắt chước vợ mà hổn hển
ngâm nga:

“Ta dại ta tìm nơi vắng
vẻ,

Người khôn người tìm đến
chốn lao xao”,

và thấy ông Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm viết sấm ký giỏi quá, dự đoán tương lai cho tôi đúng phóc.
Quả không có ai dại bằng mình., tìm đến nơi vắng vẻ nầy mà lao động khổ nhọc,
đốt hết tiền tiết kiệm trong bao nhiêu năm.

Một hôm nữa khuya thức
giấc, vợ tôi nhẹ nhàng hỏi:

“Anh có nhớ chuyện Tam
Quốc Chí không? Khi đánh nhau, họ hay lập thế trận ỷ dốc. Anh có biết thế trận
ỷ dốc là thế nào không?”

“Trời ơi, nữa đêm mà nói
chuyện Tam Quốc Chí, anh lao động quần quật từ sáng đên khuya, rã người, em để
anh ngủ cho có sức để mai còn lao động tiếp.”

Tôi nghe tiếng thở dài
não nuột của vợ mà động lòng, trả lời ấm ớ cho vợ khỏi buồn:

“Anh không biết chắc ‘ỷ
dốc’ là cái khỉ khô gì. Nhưng có lẻ họ chia quân đóng hai vị trí khác nhau, một
nhóm tác chiến, còn nhóm kia yểm trợ“.

Vợ tôi như bắt được ý,
hăng hái nói:

“Em nghĩ, mình cũng nên
bắt chước người xưa, lập thế trận ỷ dốc mà cứu vãn cái nông trại nầy. Có nghĩa
là anh xin việc đi làm bên ngoài, đem lợi tức về bù đắp, yểm trợ cho khu nông
trại của chúng ta. Nếu một năm sau nữa , mà còn không nên cơm cháo gì, thì bán
quách, chúng ta đi làm công cho người khác. Nếu thành công, thì anh nghỉ việc
bên ngoài, trở về với nông trại.”

Nghe vợ bàn mà tôi tỉnh
ngủ. Ừ, giản dị thế mà cũng nghĩ không ra. Cứ lo lắng hoài. Đàn bà cũng có
nhiều cái suy nghĩ thật hay. Tôi nhẹ nhàng hỏi vợ:

“Nhưng một mình em, có
kham hết công việc trong nông trại nầy chăng? Việc thì bề bộn, nặng nhọc, làm
hoài không hết.”

“Những việc thường
thường, thì em có thể làm được, những việc nặng nhọc, thì chờ anh đi làm về
giúp”

Tôi nghe mà ngao ngán.
Thế nầy là vui thú điền viên trong tuổi xế chiều chăng. Ngày đi làm toàn thời
gian, đêm về làm việc nặng. Nhưng có lẽ không còn giải pháp nào tốt hơn. Ráng
thêm vài năm nữa, may ra thời vận đến.

Nhờ có chuyên môn, tôi
xin được việc làm có đồng lương khá. Mỗi tháng đem tiền lương về nuôi lũ gà
vịt, lũ rau ráng bí bầu. Công ty tôi làm đang đến đến hồi phát triển mạnh, mỗi
ngày tôi làm việc từ mười đến mười hai giờ, mỗi tuần làm sáu ngày. Mịt mờ trời
đất, thế mà đêm về cũng phải lo thêm việc của nông trại nữa. Vợ tôi thỉnh
thoảng phải thuê người phụ làm trong vườn. Lương tôi cũng tạm thời đáp đổi chi
phí của nông trại. Ngày chủ Nhật tôi phải lái xe đưa nông phẩm ra chợ bán.
Nghĩa là không có một ngày nghỉ nào trong tuần.

Thỉnh thoảng nghe vợ tôi
than phiền về chồn cáo bắt mất một số gà vịt, tôi chỉ cười bảo:

“Chia cho chúng tha bớt,
mất càng nhiều, thì em càng đở mệt.”

Chồn cáo xứ nầy khôn
ngoan lắm, chúng biết con chó săn trong nhà đêm đêm đi tuần rảo quanh hàng rào,
rồi vào nằm nghe ngóng canh chừng. Chúng lập kế đánh du kích, để vài ba con kêu
chí chóe xa xa về hướng đông, con chó chạy về hướng đó mà sục sạo. Thừa thế,
chúng lẻn vào hướng tây mà bắt gà vịt lôi đi. Khi lũ gà vịt kêu lên thất thanh,
con chó quay lại, thì chồn cáo đã đem theo được chiến lợi phẩm mà cao chạy xa
bay, ra khỏi vòng rào.

Mấy hôm, thấy lũ vịt
không xuống hồ bơi lội mà đứng trên bờ ngơ ngác, lông lá tả tơi. Tôi ra xem,
thấy mặt hồ đóng váng, như có ai đổ dầu, và quanh bờ thì có những vờ bọt đen
đặc quánh. Tôi vớt bọt, dùng cây mà quậy, thì thấy như có chất dầu. Đem đốt thì
cháy ra khói đen đặc và hôi mùi dầu. Tôi tái mặt, và nhảy cẫng lên mà chạy mau
vào nhà la lớn:

“Em ơi, mình sắp thành tỷ
phú rồi em à. Dưới đất của mình có vàng đen. Dầu, dầu hỏa, mình sắp thành phó
vương dầu hỏa rồi. Thôi, dẹp hết, bỏ hết, chẵng có bí bầu gà vịt chi nữa. Bỏ ra
công sức thì nhiều, mà thu hoạch chăng bao nhiêu. Bỏ ra cả trăm ngàn bạc mà thu
lại chưa được vài ngàn. Trời thương chúng mình, trời đãi chúng mình.”

Vợ tôi chưa tin, tôi ra
hồ nước, vớt dầu vào làm thí nghiệm chứng minh. Vợ tôi thấy dầu cháy, ôm lấy
tôi hôn mà kể công, rằng đó là nhờ nàng đưa ý kiến làm nông trại, mà nay thành
tỉ phú. Cả tuần, chúng tôi bỏ không tưới cây, gà vịt thì cho ăn cầm chừng. Kêu
bạn bè đến, bảo muốn bắt bao nhiêu thì bắt. Giàu rồi, thì kể chi mấy con gà,
con vịt lẻ tẻ. Nhiều đêm hai vợ chông tôi nằm mơ chuyện sang giàu, gởi con qua
Anh Quốc cho học trường lớn nhất., chuyện ngao du khắp thế giới. Tôi chạy ngược
chạy xuôi tìm hãng khai thác dầu. Và niềm vui của tôi xẹp xuống, khi nghe người
ta nói về việc khai thác dầu. Hãng dầu còn xem trử lượng được bao nhiêu, có
đáng khai thác hay không, và khi biết mõ dầu có trữ lượng cao, thì họ chỉ thuê
một khu đất nhỏ,với giá rẻ mạt, không đáng vào đâu. Thế là giấc mơ tỷ phú của
chúng tôi xẹp xuống thảm hại.

Việc trồng trọt và nuôi
gà vịt quá nhọc nhằn, chúng tôi không kham nỗi, vợ tôi bàn chương trình nuôi
dê, bò. Chúng tôi bán tháo hết đám gà vịt, mua hai mươi lăm con dê cái, có con
đã chửa bụng lưng lửng, và một anh dê đực râu xồm, có hai cái sừng quăn lại,
xỉa ra đàng trước. Mua thêm bốn con bò, ba con cái, một con đực. Bọn dê tạp ăn,
lá gì cũng bứt và nhai nuốt, thật là dễ nuôi. Thả chúng long rong trong vườn.
Cách nuôi thật nhàn hạ, không cần chăm sóc chi nhiều. Bốn con bò cũng vậy. Mỗi
ngày, con dê đực làm tình với bọn dê cái liên miên, làm vợ tôi ngượng. Con chó,
cũng to lớn không thua gì con dê, nhưng sống độc thân, mỗi lần thấy con dê đực
nhãy cái, thì nó ghen, chồm lên mà sủa om sòm. Có khi nó nhãy lên, tấn công sau
mông con dê đực. Con dê dực tức giận vì kẽ phá đám, quay lại, dùng sừng ủi đại
vào cho chó. Có khi con chó tránh đòn không kịp. Cũng lăn kềnh ra. Vợ tôi đứng
la lớn, bảo tôi can chúng ra. Sợ con chó bị thương vì cái sừng nhọn của dê. Tôi
cũng nạt nộ, la hét mà hai bên không ngưng chiến. Tôi phải dùng cây roi da, vụt
túi bụi vào cả dê lần chó, chúng mới chịu dang ra.. Vợï tôi nói:

“Con dê nầy hung tợn quá,
có ngày con chó bị sừng dê đâm đổ ruột”

Tôi cười:

“Lỗi tại con chó. Trời
đánh còn tránh bữa ăn. Huống chi nó đang làm cái việc truyền giống thiêng
liêng, mà con chó nhãy vào phá đám. Ví như tụi mình đang vui vẻ, có đứa nào phá
đám, mình có nỗi điên lên không.”

“Thôi ông ơi, ăn nói đàng
hoàng một chút có được không?”- Vợ tôi cằn nhằn.

“Mà con chó nó ghen tức
cũng phải, nó thì chay tịnh, mà con dê thì cứ làm tình lia lịa, không ngứa mắt
sao được?”

Mấy con dê cái bắt đầu
sinh con, những con dê con như cục nhung mềm, môi đỏ hồng, hai mắt long lanh,
dáng đi yếu đuối. Mấy đứa con tôi cưng chúng lắm. Cứ ẵm bồng hoài, đi học về là
ra vườn ẵm dê con vuốt ve.

Chị tôi từ Úc Châu qua Mỹ
thăm, anh chị thấy tôi ở giữa đồng không mông quạnh gió hú vi vu mà ái ngại. Cứ
lắc đầu mãi. Cứ nói mãi câu:

“Cậu mợ tính như thế nầy
là trật lất rồi. Mình đã xa quê hương, thiếu tình đông bào, phải sống nơi nào
phồn hoa đô hội, cho bớt nỗi cô đơn. Lại gần chợ búa, gần bệnh viện, gần các
tiện ích công cọng, có bạn bè, có bà con láng giềng, khi đau ốm, khi trái gió
trở trời có nhau. Lại khi muốn ăn tiệm Việt Nam cũng phải lái xe đi về hơn hai
giờ , phí công quá. Phải tính lại đi.”

Một buổi sáng sớm, cả nhà
ngồi uống cà phê nhìn qua cửa sổ, thấy con dê đực đứng trước cửa chuồng, chổng
râu dê lên đón bọn dê cái. Mỗi khi có con dê cái đi ngang qua, thì dê đực nhãy
lên lưng làm tình. Liên tiếp mười mấy lần, mà thấy chàng dê vẫn tỉnh táo như
thường. Chị tôi phát mạnh vào vai anh rể tôi cười mà nói:

“Ba mầy chẳng bằng một
phần nào của con dê cả.”

Anh rễ tôi bình tỉnh nói:

“Em xem, con dê đực thay
đổi nhiều con dê cái khác nhau, chứ nếu chỉ có một con dê cái thôi, thì nó cũng
chỉ làm một lần, chứ không làm đến lần thứ hai. Nếu có hai chục bà khác nhau,
thì anh đâu có thua anh dê kia chút nào.”

Trưa hôm ấy, một người bạn
cũ của anh rễ tôi ghé nhà thăm, thấy bầy dê và nghe kể lại chuyện tiếu lâm buổi
sáng, mắt anh sáng lên, rũ chúng tôi đi đến tiệm bán thịt dê của người Ấn Độ
nằm về phía Bắc của thành phố. Đi mua thịt dê về nhậu chơi, tăng cường sức khỏe
mà bổ dương. Mấy bà ở nhà, chúng tôi ba người đàn ông lái xe đi. Tiệm rộng lớn,
có hai căn, như một căn chợ. Nồng nặc mùi cà ri, muì hương vị. Đủ loại cà ri,
đủ loại hương vị trong bao ni lông, chất đầy trên kệ. Bên kia thì dê dã lột da
treo lòng thòng nhiều con trần truồng. Khách hàng muốn mua cẳng, đùi, ngực, thì
cứ việc chỉ vào đó. Anh Ấn Độ đầu quấn khăn chà chóp đem cưa dến, cắt ào ào gọn
nhẹ lắm. Chúng tôi mua nguyên cái đùi sau con dê, hơn mười cân Anh. Anh rễ tôi
thấy nhiều cặp ngọc dương (dái dê) tròn trỉnh, trắng tươi, gói trong giấy bóng
rất bắt mắt, xuýt xoa, đòi mua đến năm cặp. Tôi hỏi ai mà ăn hết, anh bảo không
ai ăn thì để cho anh. Mấy khi mà có thứ quý báu nầy trên miền đất văn minh. Anh
thì thầm: “Ăn thứ nầy vào, thì phải biết. Không có hiệu quả sao có ghi trong
sách thuốc người Tàu?”

Chúng tôi mua thêm một ít
hương liệu, rồi hớn hở chạy xe về. Ông bạn anh rễ tôi dành làm bếp, nấu các món
đặc biệt, mà ông nói đùa là món “Ông ăn bà khen”. Ông bạn đem ướp ngọc dương
rồi xào với hành tây, đem ra nhậu trước. Mấy bà biết đó là cái gì, thì cứ la
oai oái ngoãnh mặt đi. Mười viên xào tròn trịa nằm trên dĩa, có hành xắt lát,
có tiêu rắc lấm chấm đen. Trông thật ngon. Tôi bắt chước ông anh, gắp một viên
đưa vào miệng, mới cắn sơ, đã có mùi thum thủm, tôi muốn nhả ra. Trong lúc ông
bạn của anh tôi thì gắp bỏ vào mồm, nhai nuốt ực ngon lành, còn hít hà khen
ngon. Ông anh rễ tôi cũng thưởng thức tận tình và nói:

“Bổ lắm đấy nhé. Cứ ăn
vào là nghe máu chuyển rần rật, mặc sức mà rượt các bà chạy có cờ. Người
Ấn
độ và Trung Hoa biết món ăn
nầy nên đông con là phải”

“Nếu có thêm rượu thuốc
toa Minh Mạng nữa, nhấp vào, thì là một phối hợp hết sẩy” – Bạn ông anh tôi
tiếp lời – “Hồi còn ở bên nhà, tôi thấy mấy ông già trộn huyết dê với rượu,
uống vào thì như thần dược.”

Thịt dê được nấu càri,
thêm nhiều hương vị khác, nước cà ri vàng màu đỏ sền sệt, chấm với bánh mì mà
ăn . Bà chị tôi nói:

“Vẫn còn mùi mồ hôi dê.
Nghe đâu khi làm dê, để thịt khỏi hôi, người ta cho dê uống nước, rồi cột dây,
đánh nó chạy quanh một cái cọc, cho vả mồ hôi ra. Xong xối nước tắm cho nó. Bao
nhiêu mùi hôi đều ra hết. “

Vợ tôi xen vào:

“Ở Mỹ mà làm thế là đi tù
sớm, vì mang tội hành hạ súc vật. Ngon đâu không thấy, đi tù mệt lắm”

Mấy hôm sau, có con dê
cái trong vườn bị thương tích, ông bạn của anh tôi đề nghị làm dê thui mời bạn
bè ăn chơi. Ông nhận trách nhiệm thọc thuyết và lột da dê. Cái chậu đựng rượu
Vodka được chôn lưng chừng xuống mặt đất, ông thọc dao vào cổ dê mà ngoáy. Máu
dê tuôn ra kêu ọc ọc. Các bà khiếp sợ la lên và bỏ chạy cả. Mổ bụng ra, mối
biết con dê có chửa. Cái tử cung chứa bốn con dê con đã tượng hình. Ông bạn anh
tôi xuýt xoa, bảo rằng thứ nầy quý lắm, để ông làm dê “hà nàm” cho mà ăn. Cái
bọc tử cung để nguyên, dổ vào nồi, đặt lên bếp hầm với nhiều vị thuốc bắc. Khi
chí đem xuống, vớt ra dĩa, dùng dao mà cắt từng khoanh, thịt dê con mềm nhũn,
nuốt vào cổ như ăn đông sương. Con dê được xuyên qua cây cọc, quay trên đống
lửa than đá.

Tôi điện thoại mời đám
bạn bè xa gần đến tham dự buổi tiệc thịt dê. Nghe có tiết canh dê, dê thui, dê
“hà nàm”, ông nào cũng hớn hở, đòi mời thêm các bạn bè khác nữa.

Đám đàn ông ăn uống nhồm
nhoàm, miệng môi đầy máu tiết canh, nói chuyện tiếu lâm bao quanh vấn đề tình
dục, không kiêng cử gì cả, và cười ha hả, làm nhiều bà nhăn mặt bất bình.

Buổi tiệc thịt dê thật
vui, anh em ra về hỉ hả, và hẹn có ngày trở lại làm một chầu khác. Tối hôm đó,
tôi nằm chờ kết quả của dê “hà nàm” và tiết canh dê, nhưng không thấy gì cả và
ngủ quên cho đến sáng. Vợ tôi nhìn tôi cười hỏi:

“Có thật thịt dê làm tăng
cường năng lực sinh lý không?”

“Toàn cả chuyện tào lao,
tiếu lâm chơi thôi, đàn ông ưa ăn tục nói phét, bịa chuyện cho vui bữa rượu ấy
mà”

Bọn dê sinh sản nhanh,
mau lớn, và ăn tạp, phá trơ trụi cả khu vườn. Chúng biết đứng lên trên hai chân
sau, mà bứt lá những cành cao. Làm cho khu nông trại tiêu điều trông trải. Mỗi
chủ nhật, tôi đẩy dê lên xe, đem ra bán ở chợ trời. Thấy mình giống mấy anh nông
dân Âu Châu tả trong tiểu thuyết của Pháp, mà ngày xưa thường hay
đọc.. Đem dê bán cũng không phải là chuyện
giản dị, đứng chờ, trả giá, cò cưa. Loại người như tôi không thích hợp với công
việc thương mãi, nên cảm thấy chán lắm.

Một lần đứng bán dê, có
cô thư ký trong sở đi chợ trời, thấy tôi, nhãy đến ôm chầm như gặp cố nhân – Mà
ngày nào không gặp nhau chứ – Cô cười nói huyên thuyên và ôm hôn mấy con dê như
người Mỹ thường hôn chó. Thấy cô thích quá, và hỏi chuyên dê tíu tít, tôi cho
cô một con. Lấy cái áo cũ bao mông nó lại, đẩy lên băng sau chiếc xe hơi sang
trọng của cô thư ký. Con dê phá tan cả vườn hoa của nhà cô và hai vợ chông gây
nhau, suýt li dị. Cô dem con dê trả lại cho tôi ngay tại sở. Tôi lại phải khổ
sở kiếm vải bọc mông con dê, cho lên băng sau chiếc xe mình, chở về. Vợ tôi
thấy con dê la lên:

“Dê bán không hết, anh
mua thêm về làm chi?”

Vợ tôi nhọc nhằn vì cái
nông trại quá, bàn với tôi bán đi, về lại thành phố ở. Phải gần nữa năm mới bán
được đám đất nông trại. Bán lỗ vốn, vì chúng tôi muốn phủi tay cho xong. Căn
nhà tiền chế, người mua đất đòi chúng tôi trả thêm tiền họ mới nhận. Còn không
thì phải dẹp đi. Chúng tôi năn nỉ mãi, họ mới nhận với điều kiện tất cả trang
bị về máy sưỡi, máy lạnh, điên nước để nguyên. Vợ tôi nói:

“Ai đời cho không căn nhà
mà phải năn nỉ người ta. Lại còn đòi hỏi đủ điều.”

Chúng tôi thở phào, thoát
ra được cái “vui thú điền viên“ nhọc nhằn đó, dọn về phố, thuê nhà ở. Dù còn nợ
nần nhiều, nhưng chúng tôi cảm thấy như trút được gánh nặng ngàn cân trong
lòng. Hai vợ chồng đi làm công, chiều về ngồi xem truyền hình, đọc sách đọc
báo. Buổi tối ngủ thẳng giấc không lo lũ chồn cáo du kích tấn công. Ngày nghỉ
rủ nhau đi chơi, đi phố, thăm bạn bè bà con. Thảnh thơi không lo lắng nhiều.
Suốt ba năm làm nông trại, tôi chỉ có được một lần vui toàn vẹn, là lần mời bạn
bè cùng ăn thịt dê. Tôi chưa có một lúc rảnh rang để ngững đầu lên trời nhìn
trăng, chứ khoan nói là khi xem hoa nở khi chờ trăng lên.

Tôi bảo với vợ rằng:

“Mấy ông thi sĩ, văn sĩ,
cứ vẽ vời ra cảnh thơ mộng để gạt gẫm tụi mình.. Tiêu phí sạch cả tiền bán căn
nhà, tiền tiết kiệm, mà lại ngày đêm đầu tắt mặt tối trong mấy năm . May mà
thoát ra được. Sướng quá. Thôi nhé, từ nay em đừng vẽ vời thêm chuyện thơ mộng
nữa nhé.”

Vợ tôi cười:

“Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm có
nói rồi:

“Ta dại ta tìm nơi
vắng vẻ”.

Lỗi tại mình, không chịu
hiểu nghĩa đen mà cứ hiểu nghĩa bóng.
Nên
mới ra nông nỗi.”

Tràm Cà Mau

Soi gương, soi lòng

Soi gương, soi lòng

Nhà văn Quyên Di

image

Ngày nọ, tôi gặp một vị linh mục trung niên, tính tình vui vẻ hòa đồng. Lâu ngày không gặp, tôi nhìn thấy nơi khuôn mặt vị linh mục những nét phong sương, nếp nhăn xuất hiện trên vừng trán và khóe mắt, nụ cười tuy vẫn tươi nhưng nét môi như chùng xuống. Tôi nói:

– Trông cha như già đi…

Vị linh mục xác nhận, ông nói:

– Soi gương thì thấy mình già…

Nhưng ông tiếp ngay:

– Soi lòng thì thấy vốn là thanh niên.

Rồi ông cười, giọng đầy hào sảng.

Cuộc gặp gở ngắn ngủi kết thúc. Buổi tối trở về nhà, tôi nhớ hoài đến câu thơ ”soi gương, soi lòng” ấy. Và rồi tôi soi gương, soi lòng chính tôi thật.

Tôi soi gương và thấy  khuôn mặt tôi trong đó. Tôi hôm nay khác hẳn tôi mấy chục năm về trước. Đã có một thời xa xưa nào đó, tôi là một khuôn mặt trẻ thơ, hiền lành, nhút nhát; có thể là một khuôn mặt ngây ngô, không lanh lợi cho lắm. Nhưng dù sao đó cũng là một khuôn mặt không mấy khó ưa. Thời đó, tóc tôi còn xanh, đôi mắt còn trong, dĩ nhiên là không phải đeo kính như bây giờ. Thời đó tuy là con trai nhưng da
mặt của tôi mịn (da trẻ em nào mà không mịn), cánh môi tôi cũng xinh; má tôi
không phính, nhưng nhiều người lớn thấy tôi cũng muốn ”véo má một cái”. Thời
đó, trán tôi chưa hề có nếp nhăn, lông măng phơn phớt, một vài đường gân xanh
nhỏ bên thái dương và những tia máu nhỏ chạy li ti trên đôi má, Thời đó khuôn
mặt tôi hiền hậu, dễ thương. Ít là tôi nghĩ như thế.

Rồi thời gian qua đi. Khuôn mặt tôi biến đổi cho phù hợp với tuổi thiếu niên tôi có. Tóc trở nên rậm và cứng hơn. Da không còn mịn nữa. Nó đã hơi ”gồ ghề” và nhiều nơi có mụn trứng cá. Đôi má không còn hấp dẫn để cho người lớn ”muốn véo một cái” nữa. Cặp mắt tôi sâu hơn, đen hơn và đôi lông mày rậm. Khuôn mặt tôi thuở ấy hình
như có những nét không cân đối và thiếu hòa hợp. Có lẽ không phải vì những
đường nét tự nhiên của khuôn mặt, nhưng do ảnh hưởng của thể lí và sinh lí tuổi
đang lớn.

Khuôn mặt tôi biến đổi một lần nữa khi tôi bước vào tuổi thanh niên. Tôi không phải là một người vạm vỡ, cao lớn. Nhưng dù sao ở tuổi ấy, khuôn mặt tôi cũng có góc cạnh hơn, tóc tai “đâu vào đấy” hơn. Tôi vốn không phải là người chú ý đến diện mạo bên
ngoài nên không nhớ mình có “đẹp trai” không. Những cô bạn gái của tôi
không ai chú ý đến khuôn mặt tôi cả, họ để tâm đến tính nết tôi hơn. Nhưng dù
sao tôi cũng không bị mang tiếng là người xấu xí.

Thế rồi thời gian cứ trôi, khuôn mặt tôi vẫn cứ biến đổi. Không biết bao nhiêu lớp da với những tế bào cằn cỗi đã bị đào thải, thay vào đó là những lớp da mới. Đã nhiều lần khuôn mặt tôi trầy xước, xây xát vì những vết thương; nhiều lần sưng phù, mọng đỏ,
mụn mằn vì những cơn bệnh; nhiều lúc hóp lại vì mệt nhọc, lo lắng, ưu tư. Cũng
đôi khi khuôn mặt ấy hồng hào vì khỏe mạnh, rạng rỡ vì niềm vui. Tất cả những
khuôn mặt ấy đều là ”TÔI” cả .

Cho đến ngày hôm nay, một buổi tối thinh lặng, tịch mịch, một mình tôi đối diện với tấm gương. Tôi thấy là lạ vì không có thói quen soi gương sửa soạn cho khuôn mặt. Tôi vốn có tính xấu: cẩu thả và luộm thuộm; phải đi đâu vớ được bộ quần áo nào là xỏ vào ngay, không chắc mặc nó ”hợp’ hay ”không hợp”. Tóc thì chỉ cần đưa tay lên
“cào” vài cái là xong. Chính vì vậy, hôm nay nhìn kĩ khuôn mặt mình trong
gương, tôi thấy nó kì kì. Tôi nhăn mũi, lè lưỡi chọc ghẹo cái khuôn mặt trong
gương ấy. Nhưng rồi tôi cũng quan sát nó thật kĩ. Tôi, trong gương, bây giờ là
một khuôn mặt trung niên; mái tóc đã có một vài sợi bạc; trán có kha khá nếp
nhăn; lông mày còn rậm, nhưng đuôi lông mày bên trái bị đứt một đoạn ngắn, hậu
quả của một lần mí mắt bị sưng và làm độc. Da tôi không đen nhưng sạm màu, làn
da cũng có những nếp nhăn và không còn phẳng phiu, mịn màng như ”ngày xưa còn
bé ”.

Tôi nhìn tôi trong gương, không thấy mình đáng ghét cho lắm, nhưng không còn chút nào vẻ thơ trẻ hồn nhiên. Thời gian và những biến thiên dời đổi của cuộc đời đã để lại trên khuôn mặt tôi nhiều vết tích không phai mờ. Tôi thử cười một cái, nụ cười làm
cho khuôn mặt tôi có nhiều nếp nhặn hơn. Nụ cười không làm cho tôi trẻ đi, tươi
hơn; trái lại, hình như trông già hơn, héo hơn một chút.

Trong khoảnh khắc, tất cả mọi khuôn mặt của tôi liên tiếp xuất hiện trong gương, rất nhanh nhưng cũng rất rõ. Tất cả đều là tôi, là “tôi-trong-cùng-một-lúc”; không có
”tôi” nào trước, ”tôi” nào sau. Bởi vậy, nếu hỏi rằng tôi thích “tôi” nào nhất thi tôi không trả lời được.

Bỏ tấm gương đấy, tôi muốn ”soi lòng”. Tôi tắt đèn đi, ngồi thu lu trên giường, đắm chìm trong bóng tối và sự tịch liêu. Lòng mình là cái rất khó nhìn vào và rất khó thấy rõ. Bởi vậy, tôi cần sự trợ giúp của bóng tối, che phủ tất cả những ngoại cảnh,
ngoại vật, để tôi không còn bị chi phối mà chú tâm vào lòng mình. Trong bóng
đêm thinh lặng, cõi lòng tôi mở ra, và tôi soi tôi trong cõi lòng ấy.

Tôi nhìn lại cõi lòng tôi, lúc thiếu thời mở cửa cho tuổi hoa niên. Khi ấy cõi lòng tôi phơi phới nở hoa. Bao nhiêu mơ mộng thần tiên với những hoa và bướm. Tôi lớn lên với những giấc mộng đẹp và lí tưởng cao trong đáy trái tim. Lòng tôi đã bao phen reo vui và  ngây ngất với những tâm tình hướng thượng. Tuổi trẻ nào cõi lòng cũng đẹp và lí tưởng nào cũng tuyệt vời. Nhưng nhiều người tuổi trẻ khi lớn lên đã thấy mình
lầm, vì bị lợi dụng để phục vu cho những mục tiêu cá nhân, vụ lợi:

“Nhân Ái, Công Bình, Yêu Thương, Bất Khuất,

Viết chữ hoa trong óc tuổi mười lăm.

Khi ba mươi biết được chuyện xưa lầm

Thì đau khổ đã hằn trên trán nhỏ,

Thì uất hận vạch trời nhưng chẳng tỏ,

Rồi cô đơn như một kẻ chăn cừu,

Trên đường về nhìn tinh tú luân lưu…”

Tạ Ký (Sầu Ở Lại)

image

Rất may cho riêng tôi  ! Qua tuổi mười lăm, mười bảy; đến tuổi hai mươi, hăm lăm; rồi tuổi ba mươi, rồi lớn hơn nữa… chưa bao giờ tôi thấy “chuyện xưa lầm” và cũng chưa bao giờ ”uất hận vạch trời nhưng chẳng tỏ. ”Lí tưởng và những giấc mơ đẹp có
khi bùng cao, chói sáng; có khi trầm lắng, giấu ẩn… nhưng lúc nào ước vọng
làm đẹp cho đời, cho người cũng vẫn còn đấy. Bao nhiêu người đã than thở: “Mộng
bền năm xưa chỉ là mơ qua”.
Tôi chưa hề một lần than thở, dù rằng đau
khổ không những “hằn trên trán nhỏ” mà đôi khi còn tạo nên
những lết thương làm tan nát cõi lòng.

Tôi soi lòng, và nhìn thấy trong đó những đam mê cuồng nhiệt của tình cảm; những nhớ nhung đằm thắm; những mong đợi thiết tha. Tôi soi lòng tôi và thấy cả những ”bối rối bồi hồi, ráo riết miệt mài” khi yêu lần cuối, những “bỡ ngỡ xôn xao, cuống quít dạt dào” khi yêu lần đậu (Phạm Duy, Giọt mưa trên lá). Tôi soi lòng, và cảm nhận những chao nghiêng, vùi lấp; nghe thấy những tiếng: sóng lúc rì rào, khi ào ạt. Những cơn sóng lòng đôi khi như bị nhân chìm tôi vào biển tình cảm.

Tôi soi lòng lôi, và may mắn không thấy hiện lên những hận thù, cũng không có cả những mưu mô gian ác, những tính toan bất chính, những lường gạt phi nhân. Nhưng tôi thấy trong lòng. đôi khi có những ghét ghen nhè nhẹ, những bực dọc âm thầm, những trách cứ nghiêm khắc và những đòi hỏi sự lưu tâm.

Tôi soi lòng tôi và tìm thấy ở nhiều lúc có những nỗi chán chường, những cơn buồn dày dặc; và những sự tủi thân, âm thầm, không muốn cho ai biết. Những cơn buồn và sự tủi thân gặm nhấm lòng tôi, làm cho đắng cay, đau đớn.

Tôi soi lòng tôi, và bắt gặp những thân thương, ấm áp của tình yêu, tình bạn, tình người. Những tình cảm nồng nàn và ân cần, làm cho tôi thấy cuộc đời tươi đẹp, hạnh phúc và đáng sống.’

Tôi soi lòng tôi và cũng thấy những nỗi cô đơn. Có những phút giây cõi lòng tôi hoang lạnh, tưởng chừng như không có ai và cũng chẳng biết đến ai.

Tôi soi lòng tôi, thấy hết trong cùng một lúc niềm vui nỗi buồn, khổ đau và hạnh phúc; tâm tình hướng thượng và tư tưởng thấp hèn; cô đơn và thân ái; chấp nhất và thứ tha; hăng say và buồn chán; bất ổn và bình an.

Và tôi thấy lòng tôi để rồi thấy trong đó một chú bé, chú bé ”tôi-ngày-xưa”. Chú bé thân quen và dễ thương. Vị linh mục tôi mới gặp ”soi lòng thì thấy vẫn là thanh niên”.
Tôi, tôi thấy mình không còn là thanh niên nữa. Tôi già giặn, chín chắn và trầm
tĩnh hơn tuổi thanh niên ngày trước rất nhiều, nhưng trong lòng tôi vẫn có một
chú bé, và tôi muốn chơi với chú. Tôi nhớ lại bạn tôi nói: ”Trong lòng mỗi
người chúng ta đều có một chú bé hay một cô bé , và rất nhiều khi chúng ta phải
mở cửa cho em bé ấy ra ngoài chơi. “Tuổi thơ đẹp, không phải chỉ ở trong
quá khứ. Tuổi thơ có thể được gọi về, bất cứ lúc nào; nếu chúng ta gọi với đúng
ngôn ngữ và tâm tình của tuổi thơ, những tín hiệu mà tuổi thơ có thể ”bắt’ được.

Hôm nay, một buổi tối cuối năm, tôi ngồi ”soi gương” và “soi lòng”. Chẳng mấy khi trong đời tôi làm được như thế. Soi gương, với tôi, có lẽ không cần thiết lắm. Nhưng soi lòng, tôi mong rằng tôi thực hiện mỗi ngày, vào những buổi tối trước khi tôi
thiếp vào giấc ngủ, để thấy những gì mình làm vui lòng Chúa và vui lòng người
khác; những gì mình làm buồn lòng Chúa và buồn lòng người khác. Nếu tôi thực
hiện được như vậy, chắc cuộc đời tôi sẽ dễ thương hơn, hữu ích hơn và đáng sống
hơn một chút.

Nhà văn Quyên Di

Anh Nguyễn v Thập gởi

TIN VÀ LÀM CHỨNG CHO CHÚA

TIN VÀ LÀM CHỨNG CHO CHÚA

LM ĐAN VINH

1. BÁC TÀI XẾ TẮC-XI LÀM CHỨNG CHO CHÚA:

Một vị linh mục sau chuyến du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một
cách truyền giáo của một bác tài xế xe tắc-xi tại đây như sau:

“Ngày nọ, tôi đón tắc-xi từ khách sạn đi sang trung tâm thành phố Đài
Bắc mua quà lưu niệm. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một
tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: “Bạn có thể thấy một vài quyển
sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể
đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà
không phải trả tiền mua sách”. Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một
chục cuốn sách mỏng bằng tranh, nội dung về cuộc đời Đức Giê-su in
trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện tranh các thánh và các
danh nhân tôn giáo, một ít cuốn là những mẩu chuyện sống đức tin giữa
đời thường… Ngoài ra, phía trên kính chiếu hậu trước mặt tài xế
cũng có treo một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi bác
tài xế:

– Này bác tài, xin vui lòng cho biết: Hành khách đi xe của bác có ai
quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?

– Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người còm cầm theo
mang về nhà nữa.

Tôi hỏi tiếp:

– Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc sách đạo do bác giới
thiệu?

– Tôi cảm thấy rất vui anh à! Anh biết không: tôi là người tín hữu công
giáo nhưng không có nhiều giờ để đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy
xe kiếm sống. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi
rất mừng vì đã có thể làm được hai việc một lúc: Vừa lái xe nuôi gia
đình lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không bị mất thêm thời giờ. Tôi nghĩ
rằng tôi đang làm một việc thật tuyệt vời!

2. ANH EM SẼ LÀ CHỨNG NHÂN CỦA
NHỮNG ĐIỀU NÀY:

Tin mừng Chúa Nhật hôm nay cho thấy Chúa
Giê-su Phục Sinh đã hiện đến với các Tông Đồ đang bị giao động. Sau khi trấn an
các ông, Người đã chứng minh cho các ông thấy Người không phải chỉ là bóng ma,
nhưng là con người bằng xương bằng thịt thực sự, qua việc ăn uống trước mặt các
ông. Cuối cùng sau khi các ông đã tin Người đã từ cõi chết sống lại, Đức Giê-su
chỉ thị cho các ông và cho mọi tín hữu sau này: “Chính anh em sẽ là chứng
nhân của những điều này”(Lc 24,48).

3. PHẢI LÀM CHỨNG NHƯ THẾ NÀO ? :

Ngày nay các tín hữu chúng ta dù không thấy Chúa, nhưng vẫn có thể thi hành sứ
mệnh làm chứng cho Người bằng các phương thế như sau:

+ Làm chứng bằng việc thuật lại cho người khác về cuộc đời và lời
rao giảng của Đức Giê-su như bà Maria Mác-đa-la đã làm (Ga 20,18). Việc truyền
đạt này mọi tín hữu đều có thể làm, nhưng khó thuyết phục được người nghe tin
theo (x. Lc 24,11).

+ Làm chứng bằng cách để Chúa ngỏ lời với người khác qua miệng chúng
ta: Đức Giê-su đang sống và hiện diện nơi ta, và ta có bổn phận chia sẻ
sự xác tín, niềm vui và bình an hạnh phúc mình đang cảm nghiệm được
cho tha nhân. Cách làm chứng này đã được Nhóm Mười Một Tông đồ áp
dụng. Sau khi đón nhận ơn Thánh Thần, Tông đồ Phê-rô đã rao giảng và làm chứng
về Đức Giê-su như sau: “Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại. .
Về điều này tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền
nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống. Đó là điều
anh em đang thấy đang nghe…” (Cv 2,32-33). Cách làm chứng hùng hồn đầy xác tín
này của Tông Đồ Phê-rô đã thuyết phục được tới ba ngàn người xin tòng giáo
(x. Cv 2,41).

+ Làm chứng bằng lối sống hy sinh quên mình, vị tha bác ái noi gương cộng đòan
tín hữu thời Hội Thánh sơ khai như sách Công vụ thuật lại: “Các tín hữu chuyên
cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau và cầu nguyện
không ngừng. Mọi người đều kính sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ.
Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất
đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất
trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa
với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được tòan dân thương mến. Và
Chúa cho cộng đòan mỗi ngày thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42-47).

+ Cuối cùng, làm chứng cho Đức Giê-su bằng việc sẵn sàng chịu bách hại
vì đức tin, quyết không hèn nhát bước qua thập giá để khỏi chết, noi
gương các anh hùng tử đạo. Nhờ đó, các thánh Tử đạo đã được gọi là các
“Chứng nhân đức tin”. Đây là phương cách truyền giáo rất hữu hiệu như lời
Téc-tuy-li-a-nô khẳng định: “Máu các vị Tử đạo là hạt giống phát sinh
các Ki-tô hữu”.

4. LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH.

Mỗi lần hiện ra với các môn đệ,
Chúa đều dùng Kinh Thánh để giúp các ông tìm ra thánh ý Thiên Chúa và
giải thích cho các ông về con đường “Qua đau khổ vào vinh quang”, đồng
thời chứng minh Chúa đã thực sự sống lại từ cõi chết, đúng như lời
Thánh kinh. Xin giúp chúng con ý thức giá trị của Lời Chúa trong việc sống
đạo và truyền đạo, hầu khi gặp bất cứ biến cố vui buồn sướng khổ nào trong
cuộc sống, chúng con cũng biết tìm kiếm thánh ý Chúa. Xin cho chúng con biết
năng hội hiệp nhau học sống Lời Chúa hằng tuần, biết lắng nghe Lời Chúa
khi dự lễ, để nhờ lời Chúa hướng dẫn, đức tin của chúng con sẽ ngày càng
lớn lên và nhờ ơn Thánh Thần tác động, chúng con sẽ chu tòan được sứ mệnh Chúa
trao cho Hội Thánh: “Chính anh em là chứng nhân của những điều này” (Lc
24,48). -AMEN.

LM
ĐAN VINH

From: hnkimnga &

Anh chi Thu & Mai goi

TÔI VẪN NHỚ,

TÔI VẪN NHỚ,

Song Như.

Lâu lắm không về thăm cố hương,

Hàng tre xanh thẩm khuất nẻo đường,

Trâu già phe phẫy đuôi xua muỗi,

Nhai lại trong mồm nỗi nhớ thương…

Hàng cây trứng cá hoa trăng trắng,

Cánh bướm khoe màu lượn tung tăng,

Lục bình lờ lửng trên sông cạn,

Cá đớp mồi trưa sóng nhập nhằn…

Võng đưa kẽo kẹt mà ai đã,

Đưa khúc đồng dao đến mọi nhà,

Cho hồn dân tộc thêm tha thiết,

Len lỏi trong lòng khách phương xa…

Chiều chiều ngắm vạt nắng vàng rơi,

Nghe tiếng ầu ơ dạ rối bời,

Tết nay lại vắng nhà lần nữa,

Tết tới về thăm… nhớ lắm rồi…

Liverpool.6/2/2013.

Song Như.
Kính gởi Quý Thầy Cô và các bạn LVC.

Mồ Mả: Mộ Người Chết Hay Tâm Hồn Người Sống?

Mồ Mả: Mộ Người Chết Hay Tâm Hồn Người Sống?

Linh Mục Nguyễn Tầm Thường Dòng Tên, S.J.

Qủy nhập là điều có thật:
Giáo Hội xác tín điều đó.  Giáo Hội đã có mục vụ đặc biệt cho những trường hợp này.  Các Giám Mục trong địa phận phải chỉ định cách riêng một linh mục nào đó để khi chuyện xảy ra, có kẻ trừ tà.  Không  gì rõ bằng trong Kinh Thánh.  Phúc Âm xác nhận quỷ nhập vào người ta, Kinh Thánh cũng nói đến trừ quỷ.  Chúa Kitô trừ quỷ.  Các môn đệ trừ quỷ.
Hiện tượng quỷ nhập rất phức tạp, có thể lẫn lộn với bệnh tâm thần.  Phức tạp không có nghĩa là không có quỷ thật sự nhập vào người ta.  Vì thế phải rất cẩn thận khi đề cập đến.  Tôi không dễ tin những chuyện này.  Không dễ tin, nhưng có những
chuyện tôi phải tin.

Tôi bắt đầu để ý về những hiện tượng quỷ nhập khi đọc tờ báo National
Catholic
Reporter số ra ngày 1 tháng 9 năm 2000. Tờ National Catholic Reporter dành nguyên một số báo đề cập đến hiện tượng quỷ nhập.  Theo
điều tra của tờ National Catholic Reporter, trong vòng hai trăm năm vừa qua,
Giáo Hội khá lặng im về vấn đề này.  Bỗng dưng đầu thế kỷ này, hiện tượng quỷ nhập xảy ra nhiều nơi.  Theo thống kê, cha Gabriele Amorth, người được bổ
nhiệm trừ quỷ của địa phận Roma, cũng là một trong những người sáng lập International Association of Exorcists, vào trung tuần tháng bẩy năm 1993 trong đại hội những người trừ quỷ tại Roma chỉ có sáu người tham dự.  Vào năm 2000, con số tăng lên 200 người.  Vẫn theo tờ National Catholic Reporter, tại
Roma vào năm 1986 chỉ có 20 người làm mục vụ trừ quỷ.  Hiện nay toàn nước Ý con số lên tới 300 người.
Theo kinh nghiệm mục vụ, cha Gabriele Amorth viết một cuốn sách mang tên: An Exorcist Tells His Story – Câu Chuyện Của Kẻ Trừ Tà.
Ngài cho biết quỷ có thể làm cho người bị nó nhập mửa ra những đụm tóc người.  Ta
cũng có thể khám phá ra quỷ nhập bằng cách trộn Nước Phép vào đồ ăn rồi xem nó
phản ứng ra sao.  Cũng trong số báo này cho biết, cha James LaBar, được Đức Hồng Y John J.O’Conner bổ nhiệm làm kẻ trừ quỷ của địa phận New
York,
cho hay trong năm 1999, ủy ban của ngài đã phải đương đầu với
25 trường hợp quỷ nhập.  Theo ngài, nhu cầu mỗi ngày một gia tăng. Ngài nổi tiếng là “kẻ trừ quỷ” sau vụ trừ tà ở Florida năm 1991 và được chương trình 20/20 của đài truyền hình Mỹ ABC phát hình.  Tờ Atlanta Journal Constitution, 1999 làm một
cuộc điều tra, cho biết 50% người Mỹ tin rằng cuộc sống ít nhiều cũng có lúc bị
quỷ nhập vào.  Chính Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trừ quỷ cho một người đàn bà Ý tên là Francesca Fabrizzi, Ngài gọi nó là kẻ sát nhân và là vua gian dối của vũ trụ.  Theo Cha Amorth, Đức Giáo Hoàng đương kim đã trừ quỷ ba lần trong điều đại của ngài.  Phúc Âm Mátthêu và Luca tường thuật, Đức Kitô cũng trừ quỷ (Mt. 2:63, Lc. 8:26-40).  Theo tờ National Catholic Reporter, nhiều thần
học gia tại Hoa Kỳ cho rằng quỷ nhập là một sự kiện phải nhìn nhận một cách
nghiêm chỉnh.
Với những sự kiện trên, tôi đặt dấu hỏi cho những tò mò của tôi.

Tại sao thời đại này lại có nhiều hiện tượng quỷ nhập như thế?
Đời sống con người trong thời đại này thế nào?
Niềm tin tôn giáo?  Sự công bình xã hội?
Giá trị luân lý?
Giá trị gia đình?
Đang lúc tôi muốn tìm hiểu vấn đề này, tôi bắt gặp câu chuyện quỷ nhập một người ở Ba Tri, thuộc tỉnh Bến Tre, Việt Nam.  Tôi không dễ tin, nên tôi muốn gặp tất cả đương sự, kẻ làm chứng, nhất là giáo quyền, linh mục trừ tà để kiểm điểm sự kiện.  Điều tôi mong muốn đã xảy ra.

Câu chuyện xảy ra đã hơn hai mươi năm về trước.

Trong số những chứng nhân, chỉ có thân sinh của nạn nhân là qua đời.
Tôi gặp chính cô Hồng, người bị quỷ nhập.  Ngày đó mới hai mươi hai tuổi, hôm nay cô bốn mươi bẩy.

Tôi gặp cô Chi, người sống bên cạnh cô Hồng mấy tháng trời, nuôi cô.

Người giảng viên giáo lý tên Chi này là nhân chứng biết nhiều chuyện về cô Hồng nhất.

Tôi gặp mẹ cô Hồng, bà cụ cũng già yếu rồi.
Tôi gặp các giáo dân, những người trong ca đoàn cùng tuổi cô Hồng của nhà thờ Cái Bông.
Tôi gặp cha phó nhà thờ Cái Bông, lúc đó là thầy giúp xứ.
Tôi gặp chính cha quản nhiệm Nguyễn Văn Quang, người đã trừ quỷ cho cô Hồng.

Một trong những điều làm tôi tò mò là tại sao quỷ hay chọn mồ mả làm nơi cư trú. “Khi Đức Giêsu sang qua bờ bên kia, và đến miền Gađara, thì có hai người bị quỷ ám từ trong đám mồ mả gặp Ngài.  Chúng rất dữ tợn đến nỗi không ai dám qua lại lối ấy” (Mt. 8:28).  Đức Giêsu và các môn đệ tới vùng đất của dân Ghêsarê, “từ mồ mả có một kẻ bị thần ô uế ám ra gặp Ngài.  Người này thường sống trong đám mồ mả và không ai có thể trói anh ta lại được, dầu phải dùng đến cả xiềng xích.  Nhiều lần bị gông cùm và bị xiềng xích, nhưng anh ta vẻ gẫy xiềng xích, đập tan gông cùm.  Không ai có thể kiềm chế anh được.  Suốt đêm ngày, anh ta cứ ở trong đám mồ mả và trên núi đồi, tru tréo và lấy đá đập vào mình” (Mc. 5:2-5).  Bốn Phúc Âm đều nói đến mồ mả.  Tôi có thể chia ra ba loại mồ mả sau đây:

– Quỷ thường sống ở mồ mả.
– Người ta cũng là một thứ mồ mả. “Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài
có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế.  Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác” (Mt. 23:27).
– Chúa phục sinh từ mồ mả.
Trong những thứ mồ mả trên chỉ có ngôi mộ của Chúa Kitô có sự sống.  Về câu chuyện cô Hồng, vào những đêm cô trốn nhà  người ta thường bắt gặp cô ở nghĩa địa gần đó.  Cách nhà thờ không xa có một nghĩa địa lâu đời.
Chị Kim Chi đã dẫn tôi đến nghĩa trang này chụp hình, chị cho tôi biết, nhiều đêm cô ta biến mất, đổ đi tìm thì thấy cô đang nằm ngoài nghĩa địa trên các mồ mả cỏ rậm um tùm.

Ma quỷ gần với sự chết.  Nó yêu thích sự chết.  Căn nhà cư trú của nó là sự chết.  Không phải những người nằm dưới đó là bạn bè nó.  Nhưng nghĩa trang là nơi dành cho sự chết.  Ngoài nghĩa trang chỉ còn một nơi nữa nó có thể cư ngụ là lòng con người.  Như Đức Kitô đã nói, lòng con người có thể là một “mồ mả tô vôi”.  Trong ý nghĩa ấy, có biết bao ngôi mộ đang đi ngoài đường, đi trong chợ, ngồi ở tiệm ăn.  Theo lời Đức Kitô nói, có biết bao mồ mả tô vôi, bên ngoài đẹp đẽ mà bên trong toàn xương người.  Có thể ngôi mộ ấy là người bạn của chính mình.
Họ ở cạnh nhau.
Bà mẹ cô Hồng kể cho tôi biết cô ta có dấu hiệu khác người từ hồi lên năm tuổi.  Tính đến ngày cô được trừ quỷ vào năm cô hai mươi hai, nghĩa là dòng dã mười bẩy năm.  Bà cụ cho biết trong gia đình không người con  nào mặc bệnh tâm trí.  Riêng cô Hồng lúc năm tuổi thì bắt đầu đau yếu.  Khoảng mười tuổi thì bỏ nhà đi làm nhiều điều phi thường ai cũng sợ.  Bà kể cô ta ăn hết một chiếc nồi đất để luộc
bánh tét.  Một chiếc nồi đất to thế mà cô cứ ngồi nhai rau ráu, ăn chỉ chừa có cái vành nồi.  Rồi bà tự hỏi:

– Ông cha coi đó, nó ăn như vậy mà không sao, bụng đâu mà chứa hết một cái nồi
đất to như vậy.
Tôi nghe bà kể, rợn người.  Bên cạnh bà, trước mặt ống kính máy thu hình, chị Hồng cũng ngồi bên cạnh. Tôi giả bộ, lại bào chữa cho hành động phi thường ấy. Tôi bảo bà:
– Thưa cụ, người bị bệnh tâm thần cũng có thể làm như thế.
Chưa để bà cụ trả lời, cô Hồng lên tiếng ngay:
– Thưa cha không mà, con bị quỷ nhập thật mà cha ơi!
Chị Kim Chi cũng đang trước ống kính thu hình, kể thêm:
– Thưa cha người tâm thần gì mà treo lơ lửng trên trần nhà, lúc con nhân danh
Chúa truyền cho nó ra, nó thả cô ta rơi đánh bịch cái xuống mà không hề bị gì.
Cô Kim Chi lúc ấy là giảng viên giáo lý, gặp cô Hồng ngoài đường, dẫn về nhà thờ.  Theo lời cô Kim Chi thuật lại, lúc tới cổng nhà thờ cô Hồng bỏ chạy. “Nó sợ nhà thờ”.  Cô Chi nói vậy.  Sau này đem cô Hồng về nhốt trong căn nhà thuộc
đất nhà xứ.  Đó là phòng họp dành cho hội Legio Mariae.  Bên cạnh nhà có một giếng nước khá to.  Khi quỷ nhập vào, cô nhảy xuống giếng, nằm nổi trên mặt nước hằng giờ.  Những cô trong ca đoàn bấy giờ cũng chỉ độ hai mươi, bây giờ đã mấy mặt con rồi, họ là chứng nhân còn sống.  Tôi gặp một nhóm sáu người, phỏng vấn họ:
– Tại sao các chị cho rằng cô Hồng bị quỷ nhập mà không phải là bệnh thần kinh?
– Thưa cha, thần kinh làm sao biết được những chuyện kín?  Một hôm chúng con đang ngồi xem cô ấy lên cơn.  Nó bảo: “Đấy, thằng Quang vừa đi tìm
cách để chống lại ta.”  Không ai hiểu nó nói gì.  Sau này mới biết khi nó nói thế
chính là lúc cha Quang ở nhà thờ lái xe lên toà giám mục xin đức cha làm phép
giây Stola trừ quỷ đem về.  Thần kinh gì mà khi hú nghe rợn người.  Nó hú nghe ghê
lắm cha ơi.  Bây giờ mà con còn rởn da gà lên đây nè.  Lúc lên cơn trốn chạy, nó chỉ
về ngủ ở nghĩa trang.
Lúc tôi phỏng vấn mấy chị này, trời đã xế trưa.  Tôi sẽ ra nghĩa trang chụp mấy tấm hình.  Tôi lại liên tưởng đến Phúc Âm hay nói về quỷ và mồ mả.  Nếu đời sống mà linh hồn là ngôi mộ tô vôi, bên trong chất chứa sự dữ, chỉ giả hình bên ngài thôi thì đấy chính là quê hương của nó trú ngụ.  Lời Chúa nói về mồ mả trong Phúc Âm Mátthêu lại vẽ trong tâm trí tôi một thứ quê hương của ma quỷ. Một thứ mồ mả nơi con người sống đang biết đi, đang mặc áo đẹp.
“Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong
thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì
có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian
ác” (Mt. 23:27).
Phải chăng nếu sống mà linh hồn là nơi nó cư trú thì khi chết chôn xuống lòng đất
nó sẽ tìm về ngôi mộ đó.
Linh Mục Nguyễn Tầm Thường Dòng Tên, S.J.

LÀM NGƯỜI THẬT KHÓ

LÀM NGƯỜI THT KHÓ

Đại sư Tinh Vân có một người đệ tử, sau khi tốt nghiệp đại học liền học
thạc sĩ, rồi lại học tiến sĩ, sau nhiều năm đèn sách cuối cùng cũng đã hoàn
thành luận án tiến sĩ nên vô cùng mừng vui.
Một hôm người đệ tử này trở về, thưa với Đại sư: “Thưa thầy nay con đã có
học vị tiến sĩ rồi, sau này con phải học những gì nữa?”
Ngài Tinh Vân bảo: “Học làm người, học làm người là việc học suốt đời chẳng thể nào tốt nghiệp được.

1. Thứ nhất , “học nhận lỗi”.
Con người thường không chịu nhận lỗi lầm về mình, tất cả mọi lỗi lầm đều
đổ cho người khác, cho rằng bản thân mình mới đúng, thật ra không biết nhận lỗi
chính là một lỗi lầm lớn.
2.Thứ hai, “học nhu hòa”.
Răng người ta rất cứng, lưỡi người ta rất mềm, đi hết cuộc đời răng người ta lại rụng hết, nhưng lưỡi thì vẫn còn nguyên, cho nên cần phải học mềm mỏng, nhu hòa thì đời
con người ta mới có thể tồn tại lâu dài được. Tâm nhu hòa là một tiến bộ lớn
trong việc tu tập.
3. Thứ ba, ” học nhẫn nhục”.
Thế gian này nếu nhẫn được một chút thì sóng yên bể lặng, lùi một bước
biển rộng trời cao. Nhẫn, vạn sự được tiêu trừ. Nhẫn chính là biết xử sự, biết
hóa giải, dùng trí tuệ và năng lực làm cho chuyện lớn hóa thành nhỏ, chuyện nhỏ
hóa thành không.
4. Thứ tư, “học thấu hiểu”.
Thiếu thấu hiểu nhau sẽ nảy sinh những thị phi, tranh chấp, hiểu lầm. Mọi người
nên thấu hiểu thông cảm lẫn nhau, để giúp đỡ lẫn nhau. Không thông cảm lẫn nhau
làm sao có thể hòa bình được?
5. Thứ năm, “học buông bỏ”.
Cuộc đời như một chiếc vali, lúc cần thì xách lên, không cần dùng nữa thì đặt
nó xuống, lúc cần đặt xuống thì lại không đặt xuống, giống như kéo một túi hành
lý nặng nề không tự tại chút nào cả.  Năm tháng cuộc đời có hạn, nhận lỗi,
tôn trọng, bao dung, mới làm cho người ta chấp nhận mình, biết buông bỏ thì mới
tự tại được!
6. Thứ sáu, “học cảm động”.
Nhìn thấy ưu điểm của người khác chúng ta nên hoan hỷ, nhìn thấy điều không may
của người khác nên cảm động. Cảm động là tâm thương yêu, tâm Bồ tát, tâm Bồ đề;
trong cuộc đời mấy mươi năm của tôi, có rất nhiều câu chuyện, nhiều lời nói làm
tôi cảm động, cho nên tôi cũng rất nỗ lực tìm cách làm cho người khác cảm động.
7. Thứ bảy, “học sinh tồn”.
Để sinh tồn, chúng ta phải duy trì bảo vệ thân thể khỏe mạnh; thân thể khỏe
mạnh không những có lợi cho bản thân, mà còn làm cho gia đình, bạn bè yên tâm,
cho nên đó cũng là hành vi hiếu đễ với người thân.”
(Sưu tầm, không rõ xuất xứ)

Luật sư Lê Công Định ra tù

Luật sư Lê Công Định ra tù

thứ tư, 6 tháng 2, 2013

nguồn: BBC

Phiên tòa 20/1/2010 (ông Lê Công Định ở góc dưới bên phải)

Phiên tòa 20/1/2010 đã thu hút sự chú của dư luận trong nước và quốc tế

Một trong những nhân vật bất đồng chính kiến nổi tiếng ở VN, Luật sư Lê Công Định, vừa được ra tù trước thời hạn.

Thân nhân của LS Định, bà Đặng Ngọc Ánh, xác nhận với BBC ông đã về nhà lúc 10:00 sáng thứ Tư 6/12 trong tình trạng “sức khỏe tốt nhưng hơi gầy”.

Ngay trưa cùng ngày, ông Định đã phải tới chính quyền địa phương để trình diện.

Ông Lê Công Định, sinh 1968, bị bắt ngày 13/6/2009 để điều tra vi phạm Điều 88 Bộ Luật hình sự, Tội Tuyên truyền chống Nhà nước XHCN.

Cùng đợt với ông có ba người khác, là các ông Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung và Lê Thăng Long.

Tội danh của các ông sau bị chuyển sang thành Hoạt động lật đổ, theo Điều 79 Bộ Luật Hình sự, là tội nặng hơn.

Ngày 20/01/2010, Tòa sơ thẩm TP Hồ Chí Minh đã tuyên án từ 5 năm tới 16 năm tù giam, thêm từ 3 tới 5 năm quản chế tại gia cho các bị cáo trên, trong đó ông Lê Công Định lãnh án 5 năm tù, cộng thêm 3 năm quản chế tại gia.

Tòa phúc thẩm sau đó đã y án trên.

Như vậy, ông đã được ra tù sớm trước hạn hơn một năm.

Phiên xử gây chú ý

Vụ bắt và xét xử Lê Công Định đã thu hút sự chú ý đặc biệt của quốc tế vì ông Định có tiếng trong giới luật sư và đã từng đại diện lợi ích cho Việt Nam trong nhiều vụ kiện có yếu tố nước ngoài.

Một bị cáo khác, ông Lê Thăng Long, đã ra tù tháng 6/2012, sớm trước thời hạn 6 tháng.

 

LS Lê Công Định là người được dư luận quốc tế biết tới nhiều

Hai ông Trần Huỳnh Duy Thức và Nguyễn Tiến Trung hiện vẫn đang thực hiện án 16 năm và 7 năm tù.

Sau khi phiên sơ thẩm ngày 20/1/2010 kết thúc, giới ngoại giao phương Tây đã lập tức lên tiếng bày tỏ quan ngại.

Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại TP HCM lúc đó, ông Kenneth Fairfax, tuyên bố Mỹ “quan ngại sâu sắc” về các vụ bắt giữ và kết tội những người chỉ thực hiện quyền tự do ngôn luận của mình.

Hoa Kỳ và nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế kêu gọi Việt Nam trả tự do cho các nhà hoạt động ngay lập tức và vô điều kiện.

Trong phiên xử, ông Lê Công Định và ba vị còn lại bị buộc tội đã cấu kết với “các thế lực phản động” trong và ngoài nước nhằm lật đổ chế độ.

Những người này cũng bị buộc tội liên quan tới Đảng Dân chủ Việt Nam, vốn không được phép hoạt động trong nước.

Ông Lê Công Định còn bị cáo buộc đã tham gia khóa huấn luyện lật đổ bất bạo động do tổ chức Việt Tân, mà Việt Nam liệt vào danh sách khủng bố, tổ chức.

Nhận tội

Luật sư Định, người bị thẩm vấn đầu tiên trong phiên sơ thẩm, đã tường trình trước tòa về phương hướng của Đảng Dân chủ Việt Nam mà ông là thành viên. Ông nói đảng này kêu gọi đa nguyên và muốn thay đổi chế độ chính trị trong nước.

”Trong quá trình học tập ở nước ngoài, tôi đã bị ảnh hưởng bởi tư tưởng phương Tây về dân chủ, tự do và nhân quyền.”

“Trong quá trình học tập ở nước ngoài, tôi đã bị ảnh hưởng bởi tư tưởng phương Tây về dân chủ, tự do và nhân quyền.”

LS Lê Công Định tại phiên sơ thẩm 20/1/2010

Ông Định nói: “Tôi nhận là đã vi phạm Điều 79 (Bộ Luật Hình sự)”.

Trước đó, ngày 18/6/2009, tức chưa đầy một tuần sau khi bắt ông Lê Công Định, công an Việt Nam tổ chức họp báo công bố việc ông Định “thừa nhận hành vi phạm tội”.

Tại cuộc họp báo, báo chí trong nước đã được cung cấp hình ảnh các trang viết tay được cho là của ông Định tự khai báo, cùng một số đoạn băng hình quay cảnh ông Định đọc nội dung bản tường trình “nhận tội”.

Nhiều người ủng hộ phong trào dân chủ đã bày tỏ thất vọng trước các hình ảnh này.

Ông Lê Công Định đã hành nghề lâu năm tại TP HCM. Trước kia, với tư cách luật sư của công ty YKVN, ông đã cùng đối tác là hãng luật White & Case của Mỹ bảo vệ phía Việt Nam trong vụ kiện cá basa tại Hoa Kỳ.

Sau đó, ông tham gia bào chữa cho nhiều vụ việc bị cho là ‘nhạy cảm’, như bào chữa cho các luật sư bất đồng chính kiến Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân và cho blogger Điếu Cày.

Ông Định cũng từng là Phó chủ nhiệm Đoàn luật sư TP HCM nhưng sau bị xóa tên khỏi luật sư đoàn.

Luật sư Định cũng được biết tới như một cây bút viết các bài bình luận thời sự, nhiều bài đã đăng trên BBCVietnamese.com.

Tốt nghiệp Đại học Luật năm 1989, ông Định lấy bằng thạc sỹ luật tại Đại học Tulane University, Hoa Kỳ hồi 2000. Trước đó, ông có một thời gian tu nghiệp tại Pháp.

Năm 2004, LS Lê Công Định cưới Nguyễn Thị Ngọc Khánh, Hoa hậu Việt Nam 1998.

 

Cuốn sách về Hội Tam Điểm ở Việt Nam. Phỏng vấn tác giả Trần Thu Dung

Cuốn sách về Hội Tam Điểm ở Việt Nam. Phỏng vấn tác giả Trần Thu Dung

nguồn: RFI

 

Các biểu tượng của Hội Tam Điểm: Mắt, êke, compa (DR)

Các biểu tượng của Hội Tam Điểm: Mắt, êke, compa (DR)

Thanh Phương

Lần đầu tiên một công trình nghiên cứu bằng tiếng Việt về Hội Tam Điểm ở Việt Nam và những thành viên người Việt đầu tiên của hội này sắp được xuất bản tại Pháp vào khoảng đầu tháng 2/2013. Cuốn sách có tựa đề: “ Hội Tam Điểm với những đóng góp của các thành viên Việt Nam đầu tiên trong công cuộc giải phóng thuộc địa và bảo tồn văn hóa ngôn ngữ dân tộc” (Les Franc-maçons au Vietnam), (The Story of freemasons in Vietnam).

Tác giả cuốn sách này là tiến sĩ văn chương Trần Thu Dung, hiện sống tại Paris. Cuốn sách được phát hành bởi một nhà xuất bản vừa mới ra đời tại Paris, đó là Nhà xuất bản SÁNG.

Tiến sĩ Trần Thu Dung từng là tác giả của công trình nghiên cứu “Đạo Cao Đài và Victor Hugo”, đồng thời là một nhà nghiên cứu văn hóa đối chiếu và nhà thơ. Để viết cuốn sách về Hội Tam Điểm ở Việt Nam, bà Trần Thu Dung đã bỏ nhiều năm để tra cứu các tài liệu quý hiếm của các Hội Tam Điểm và của nhiều thư viện Pháp, cũng như phỏng vấn một số người có liên quan.

Như lời giới thiệu của Giáo sư Nguyễn Thái Sơn, chủ tịch Hội Interface Francophone Paris và cũng là giám đốc Nhà xuất bản SÁNG, những thành viên người Việt đầu tiên của Hội Tam Điểm đã biết “ vượt qua nhiều khó khăn của hoàn cảnh, kiên nhẫn và tương kế tựu kế, tích cực tham gia vào việc bảo tồn văn hóa dân tộc và phong trào giành độc lập, tự do và dân chủ cho nhân dân và đất nước”, trung thành với những giá trị của Hội Tam Điểm : tự do, bình đẳng, tình huynh đệ bác ái, bốn biển đều là anh em.

Cũng xin nói thêm là tác giả Trần Thu Dung đã muốn cuốn sách của bà được xuất bản ở Việt Nam, nhưng cho tới nay vẫn không được cấp giấy phép. Nhân dịp cuốn sách về Hội Tam Điểm ở Việt Nam sắp ra mắt độc giả, RFI Việt ngữ đã phỏng vấn tác giả Trần Thu Dung.
.
RFI : Xin chào tiến sĩ Trần Thu Dung, trước hết xin bà nói sơ sơ lược vài nét về lịch sử của Hội Tam Điểm nói chung và Hội Tam Điểm Pháp ?

Tiến sĩ Trần Thu Dung : Hội Tam Điểm mang tính chất huyền bí, nên nhiều chi tiết nguồn gốc cũng mang tính huyền thoại. Hội xuất hiện ở châu Âu vào cuối thế kỷ 17. Thời trung cổ, Giáo hội và nhà vua là hai thế lực mạnh nhất. Những người kiến trúc xây dựng đền đài cung điện, nhà thờ luôn được nhà vua và Giáo hội ân sủng cho hành nghề tự do. Họ thành lập những hội đoàn sinh hoạt riêng lấy tên những người thợ xây tự do ( tiếng Pháp là Franc Maçonnerie). Sau này hội mở rộng thu nạp những người xuất sắc trên mọi lĩnh vực.

Tam Điểm là cách gọi sáng tạo thông minh của người Việt dựa trên ba dấu chấm trong các văn bản chữ ký của các bậc đại sư. Ba chấm thể hiện ba góc hình tam giác tượng trưng sự hoàn hảo -có nghĩa là ba cấp bậc (Tập sự – Thợ – Thầy), cả ba đều đóng vai trò chủ thể như nhau trong việc tạo dựng thế giới và ba tiêu chí “Tự do – Bình đẳng – Bác ái”. Tất cả mọi cấp bậc đều bình đẳng dù ở góc độ nào. Cách dịch Tam Điểm vừa mang tính chất huyền bí vừa mang đúng ý nghĩa của hội.

Tự do, công bằng, huynh đệ bác ái là khát vọng muôn thuở của con người, trở thành ba nguyên tắc chính của hội và trong hiến pháp của nước Pháp. Ba điểm chính là đòn bẩy để thu hút tất cả mọi người, mọi nơi, mọi chính kiến khác nhau, đến với nhau trong hội. Hội trở thành một hội triết lý và bác ái.

Các biểu tượng phong phú và đa dạng như mắt, ê ke, thước thợ, compas, kim tự tháp của hội dựa trên chân lý ham muốn hiểu biết. Sự hiểu biết giúp con người tự giải phóng cho chính bản thân mình ra khỏi sự lệ thuộc. Nhiều người nhầm lẫn, đồng hóa Tam Điểm với tôn giáo. Tam Điểm không phải tôn giáo, cũng không phải là một đảng phái.

Thành viên của hội Tam Điểm được quyền tham gia bất kỳ tôn giáo nào và sinh hoạt bất kỳ ở tổ chức chính trị nào mà họ thấy phù hợp vì quan điểm của hội là tôn trọng sự nhận thức của mỗi cá nhân. Song hội là một hội kín không mở rộng cửa như các nhà thờ nên nhiều người nghĩ nhầm là một hình thức giáo phái.

Hiện nay hội Tam Điểm ở Anh và Pháp có ảnh hưởng mạnh nhất trên thế giới. Số lượng người theo hội trên thế giới không đông, nhưng họ lại nằm trong bộ máy chính của chính quyền nhà nước và nắm chức vụ lớn trên mọi lĩnh vực. Nhiều đời Tổng thống Mỹ, Pháp, thủ tướng, bộ trưởng, nhà văn nổi tiếng trên thế giới là thành viên của hội như Washington, Lincoln, Churchill, Allende, Napoléon; Voltaire, Montesquieu, Kipling, Pouskin, …; Tóm lại, hội thu hút được nhiều thành phần ưu tú trong xã hội.

RFI : Vậy thì Hội Tam Điểm Pháp đã đến Việt Nam như thế nào và đã có tác động ra sao trong chính sách khai hóa thuộc địa?

Tiến sĩ Trần Thu Dung : Nhiều sĩ quan, giáo chức và công chức Pháp cao cấp phục vụ tại Việt Nam là thành viên Tam Điểm. Việc thành lập chi hội trực thuộc ở Đông Dương là sự thiết yếu để các thành viên Tam Điểm có điều kiện sinh hoạt tiếp tục và phát triển hội viên mới. Hội gắn liền với thời kỳ hoàng kim của nước Pháp với các thuộc địa. Nhiều nhân vật quan trọng trong Bộ Thuộc địa là thành viên Tam Điểm, nên sự có mặt công khai của hội ở Đông Dương là điều hiển nhiên để phô trương thế lực.

Hội gắn chặt với sự phát triển thuộc địa Pháp và chính sách thực dân. Do đó chính sách khai hóa thuộc địa của hội chính là chính sách của chính quyền thuộc địa. Nhân danh đi khai sáng văn minh, và nhân danh nước Pháp« tự do, bình đẳng, bác ái », ở Việt Nam, họ đã đóng góp trong việc mở các trường học, xóa bỏ kỳ thi kiểu ảnh hưởng Tàu, báo chí, nhà in, kiến trúc, xây dựng, phát triển chữ quốc ngữ, …

Tất nhiên các thành viên Tam Điểm Pháp không bao giờ quên quyền lợi của họ khi đến khai phá thuộc địa (như các đồn điền cà phê, cao su, nhà máy xi măng, thuế, thuốc phiện, rượu… đã đem lại cho nước Pháp và cho chính họ một lợi nhuận đáng kể).

RFI : Ai là các nhân vật nổi tiếng trong số những thành viên Việt Nam đầu tiên của Hội Tam Điểm ?

Tiến sĩ Trần Thu Dung : Có thể nói họ đều là những người xuất sắc thành công trong xã hội trong nhiều lĩnh vực văn hóa, chính trị, tôn giáo như Nguyễn Văn Vĩnh, Vua Duy Tân, Nguyễn Ái Quốc, Bùi Quang Chiêu, Tạ Thu Thâu, Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Hoàng Mịnh Giám, … Một phần lớn được kết nạp tại Pháp khi du học.

Trường hợp đặc biệt nhất thể hiện tài năng xuất chúng là Nguyễn Văn Vĩnh, ông xuất thân từ nhà nghèo, không đi du học Pháp, chỉ được mời sang triển lãm hội chợ Đông Dương (1908), ông được mời ở lại thêm hơn hai tháng nhằm mục đich kết nạp ông vào hội Tam Điểm, vượt qua một số quy chế ngặt nghèo của hội và những rào ngăn cản ở Đông Dương khi kết nạp người bản xứ. Lúc đó hội chưa kết nạp người Việt Nam tại bản địa.

RFI : Ông Nguyễn Ái Quốc tại sao được vào hội Tam Điểm, và sau đó ông lại theo Cộng sản ?

Tiến sĩ Trần Thu Dung : Nguyễn Ái Quốc thời kỳ qua Pháp, ông tuy chỉ là thợ sửa ảnh (tức là sửa lại cho đẹp, chứ không phải thợ rửa ảnh) nhưng được kết nạp vào hội Tam Điểm, vì ông Nguyễn Ái Quốc lúc đó là quen Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường… những người sinh viên xuất sắc đã tốt nghiệp và đang làm việc tại Pháp. Cùng một lý tưởng « giải phóng thuộc địa », lòng yêu nước đưa họ xích lại gần nhau.

Nguyễn Thế Truyền và Phan Văn Trường và các huynh đệ thành viên TĐ đã thấy khả năng tiềm ẩn trong NAQ, NAQ cũng vốn xuất thân từ gia đình nhà nho, do đó họ đã giới thiệu NAQ vào hội. NAQ nhận thấy hội TĐ là một tổ chức mang tư tưởng tiến bộ và có tinh thần bác ái huynh đệ, nên NAQ xin tham gia năm 1922.

Nhưng Tình huynh đệ bác ái thực sự không thể có được giữa người bị áp bức, và người áp bức, giữa người đi thực dân và người bị đô hộ, nên năm 1923, với khát vọng giải phóng thuộc địa, ông đã sang Nga tìm hiểu về Cộng sản khi ông thấy cách mạng Nga thành công rực rỡ vào năm 1917.

Qua Nga, NAQ đã nhận thấy chỉ có con đường CS mới giải quyết được vấn đề giải phóng thuộc địa. Đảng CS mới thu hút mọi tầng lớp xã hội. Giải phóng thuộc địa là phải giải phóng toàn bộ những người bị áp bức. Trong khi hội Tam Điểm chỉ kết nạp những thành viên xuất sắc của xã hội.

Do đó, NAQ với khát vọng giải phóng thuộc địa, ông đã chọn con đường Cộng sản. Giải phóng thuộc địa, giành độc lập là khát vọng chung của cả dân tộc. Nhiều trí thức công chức Việt Nam thời đó cùng chung khát vọng đã lên rừng tham gia Việt Minh kháng chiến giành độc lập trong đó có một số thành viên Tam Điểm như Cao Triều Phát, Phạm Ngọc Thạch, Hoàng Minh Giám…

RFI : Các thành viên Việt Nam Hội Tam Điểm đã có những đóng góp gì vào công cuộc bảo tồn văn hóa và giải phóng thuộc địa?

Tiến sĩ Trần Thu Dung : Trong hoàn cảnh đất nước bị đô hộ, họ đã dám vượt lên trên được ý thức tư tưởng hệ ngoại lai, tham gia hội với khát vọng mở mang dân trí và giải phóng thuộc địa. Đó là một trong những mưu kế để bảo tồn dân tộc. Khi những Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, bị Pháp vô hiệu hóa bắt giam và Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Trung Trực bị giết, họ đã ý thức được phải vào hội và nhân danh « Bình đẳng, tự do, huynh đệ bác ái,» đòi độc lập khi VN chưa đủ khả năng về quân sự, nếu chống lại, nổi loạn đất nước sẽ bị diệt vong xóa sổ như Inca.

Đóng góp đầu tiên của những thành viên VN TĐ chủ yếu trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa và ngôn ngữ dân tộc qua báo chí, mở trường. Văn hóa và ngôn ngữ dân tộc chính là một vũ khí để giành độc lập. Phạm Quỳnh nói một câu nổi tiếng« Truyện Kiều còn, tiếng Việt còn, Tiếng Việt còn là nước ta còn ».

Họ đã mở mang dân trí bằng con đường dịch các tác phẩm mang tư tưởng tự do, nhân đạo, dân chủ đặc biệt thời kỳ ánh sángcủa Pháp ra tiếng Việt, giới thiệu, dịch một số tác phẩm VN ra chữ quốc ngữ, và tiếng Pháp.

Với tinh thần ái quốc, họ lập đảng, lập hội, lập đạo để thu hút mọi tầng lớp tham gia. Qua báo chí, họ khơi dậy tinh thần ái quốc và thổi luồng tư tưởng đòi tự do độc lập. Tên các tờ báo mà họ làm chủ bút, hoặc phụ trách thể hiện tinh thần ái quốc và khát khao giành độc lập : Tiếng vọng An Nam, Đông Dương hành động ,Việt Nam hồn, Phục quốc, An Nam Mới. Tương lai Bắc kỳ. Đuốc nhà Nam, Phục sinh,…

Thời Pháp thuộc việc tham gia các tổ chức chính trị đấu tranh bài trừ thực dân, đòi dân chủ không phải là đơn giản. Trong tình thế bắt buộc, họ đã chọn con đường thỏa hiệp để chờ thời cơ. Dựa trên tình huynh đệ bác ái, tự do bình đẳng, họ đã lập Đảng, lập hội như Đảng Lập hiến, Đảng Lao động, – Đảng Việt Nam Độc lập.- Hội hỗ trợ những người Đông Dương – Hội Khai trí Tiến Đức, ..

Một số thành viên chọn con đường hòa bình khác bằng cách lập đạo. Đạo CĐ thu hút nhiều trí thức và 2 triệu tín đồ, tồn tại đến tận ngày nay vì lý tưởng cao đẹp “Hòa hợp tôn giáo, hòa hợp Đông Tây, hòa hợp mọi dân tộc”. Ngô Văn Chiêu sáng lập viên đầu tiên của đạo Cao Đài và Lê Văn Trung giữ chức Giáo tông đều là thành viên TĐ. Nói chung họ tham gia các hoạt động chính trị với tinh thần ái quốc. Một số đã tham gia Việt minh giành độc lập.

RFI : Để viết công trình nghiên cứu này, bà đã thu thập tài liệu, chứng cứ từ những nguồn nào ?

Tiến sĩ Trần Thu Dung : Tài liệu thu thập rất đa dạng. Tài liệu chính là kho lưu trữ văn khố của hội Tam Điểm tại Paris và qua phỏng vấn gia đình và các chức sắc Cao Đài trong và ngoài nước.

Khó khăn chủ yếu là kiểm chứng tài liệu. Nhiều tài liệu bị đốt, thất thoát khi chính phủ Vichy cấm hội kín hoạt động. Tài liệu quá cũ, vàng ố, tên tiếng Việt do người Pháp ghi chép sai, không dấu, hoặc ngược lại, tên người Pháp phiên âm sai qua tiếng Việt. Nhiều tài liệu không chính xác hoặc che giấu sự thật.

Khó khăn thứ hai, khi phỏng vấn và xin tài liệu. Một số né tránh vì vấn đề tế nhị. Có chức sắc Cao Đài rất nhiệt tình giúp nhưng bảo tôi hãy thề « không nói xấu đạo », tôi đã hứa « tôi chỉ viết đúng như tài liệu và sẽ kiểm chứng ở mức độ văn bản cho phép».

Tất nhiên, trong quá trình đó, có thể có sai sót, tôi mong tất cả bạn đọc, gia đình con cháu họ hãy giúp tôi hoàn chỉnh bổ sung khi có dịp tái bản cuốn sách.

RFI : Khi cho phát hành cuốn sách này, mong muốn của bà là gì ?

Tiến sĩ Trần Thu Dung : Cuốn sách mang hai thông điệp : Hãy nhìn lại khái niệm yêu nước. Thánh Gióng nằm yên câm không đồng nghĩa là Gióng không yêu nước. Sự im lặng thể hiện khát vọng hòa bình với các nước láng giềng, với kẻ thù.

Thỏa hiệp không đồng nghĩa là chấp nhận, là đầu hàng và không yêu nước. Hoàn cảnh không cho phép, sức yếu buộc một số người phải im lặng, hoặc phải thỏa hiệp đề cứu dân bằng cách giáo dục dân trí và đòi tự trị bằng con đường không bạo động.

Thời kỳ Pháp thuộc, nhiều trí thức Việt Nam như thánh Gióng, đã thức tỉnh. Lòng ái quốc tiềm ẩn trỗi dậy thể hiện rất đa dạng và phong phú. Ông cha chúng ta đã thông minh tương kế tựu kế, hợp nhau lại để giành độc lập. Chúng ta theo gương ông cha phải giữ lấy độc lập và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ.

Dù theo đảng nào, tư tưởng nào, Việt Nam nghèo, hay bị mất nước, là người Việt Nam chúng ta đều xấu hổ. Hãy xóa bỏ hận thù, vì lợi ích dân tộc, người Việt Nam hãy liên minh để bảo vệ và xây dựng một nước Việt Nam tự cường và hạnh phúc như khát vọng của ông cha và khát vọng chung của toàn người Việt Nam trên quả địa cầu. Chiến tranh không ai ca ngợi, không ai muốn tham gia, nhưng cuộc chiến tranh bảo vệ nước, giành độc lập dưới mọi hình thức đều đáng khâm phục và xứng đáng ca ngợi.

Thông điệp thứ hai mong người Việt Nam dù ở đâu trên trái đất theo gương ông cha luôn ý thức bảo tồn văn hóa và ngôn ngữ dân tộc. Đó là một vũ khí để bảo vệ tổ quốc bằng con đường hòa bình và cao sang. Hiện nay tiếng Việt mà ông cha chúng ta bao công sức bảo tồn cũng như nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới có xu hướng bị tiếng Anh áp đảo.

Các chương trình phát trên vô tuyến Việt Nam xen rất nhiều tiếng Anh, trong khi tiếng Việt rất phong phú để diễn đạt. Hòa đồng cùng thế giới không có nghĩa xóa bỏ ngôn ngữ dân tộc. Thế giới đa sắc màu, như hoa đa sắc. Bản sắc dân tộc sẽ làm phong phú sự đa dạng trên thế giới và một hình thức bảo vệ độc lập.

Nhân đây, tôi xin trân trọng cám ơn Giáo sư Nguyễn Thái Sơn, Giáo Sư Vũ Quốc Thúc, hiệp hội Interface Paris, nhà xuất bản « Sáng » với mục đích vì phát triển văn hóa, ngôn ngữ dân tộc và nâng cao dân trí đặc biệt ở Việt Nam, vì một lý tưởng cao đẹp « thế giới huynh đệ bác ái » đã nhiệt tình ủng hộ cho cuốn sách ra đời, và cám ơn đài RFI đã giúp giới thiệu cuốn sách này đến bạn đọc.

RFI : Xin cám ơn tiến sĩ Trần Thu Dung.

 

Trao bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp

Trao bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp

thứ ba, 5 tháng 2, 2013

nguồn: BBC

Ông Nguyễn Đình Lộc và Chu Hảo tại cuộc gặp

Bản Kiến nghị đã được trao cho đại diện Quốc hội

Một nhóm nhân sỹ trí thức vừa  trao Kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992 cho Quốc hội, trong đó có đề xuất bỏ Điều 4 về quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Những người này cũng chủ xướng  một dự thảo Hiến pháp mới, trong đó thiết lập mô hình nhà nước cộng hòa với người đứng đầu là Tổng thống.

Nhóm nhân sỹ gồm 15 vị đã tới  Địa điểm tiếp nhận ý kiến đóng góp của nhân dân về sửa đổi Hiến pháp tại Văn phòng Quốc hội, Hà Nội, để trao kiến nghị vào sáng thứ Hai 4/2.

Trưởng đoàn là ông Nguyễn Đình Lộc, nguyên bộ trưởng Tư pháp, đồng thời là thành viên Ban soạn thảo Hiến pháp Việt Nam 1992.

Bản Kiến nghị, nay đã có hàng  nghìn chữ ký, đã được trao cho đại diện Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, trong không khí được ông Lộc mô tả là ‘khá dân chủ’.

Quốc hội Việt Nam đang tiếp  nhận ý kiến đóng góp của người dân về bản Hiến pháp sửa đổi từ nay tới hết tháng Ba.

Trong cuộc trao đổi kéo dài nửa  tiếng đồng hồ với đại diện của Quốc hội, các vị nhân sỹ trí thức đã nêu quan điểm rằng tiến trình đóng góp sửa đổi Hiến pháp phải
là quá trình dân chủ, với sự tham gia của mọi tầng lớp người dân.

Mô hình dân chủ

Họ cũng đề xuất kéo dài quá trình đóng góp ý kiến tới hết năm.

Ông Nguyễn Đình Lộc, người từng  làm Trưởng ban Biên tập Hiến pháp 1992, thừa nhận Hiến pháp 92 dựa trên mẫu hình Liên Xô, với nhiều phạm trù “nay không còn phù hợp”.

Tuy nhiên ông cũng cho rằng muốn  áp dụng Hiến pháp 1946, mà nhiều người cho rằng phù hợp với Việt Nam hơn cả, cũng cần phải cân nhắc “vì hoàn cảnh đã khác
rồi”.

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

“Nay tình hình đã khác,  quan hệ quốc tế cũng đã thay đổi. Bản thân ông Hồ Chí Minh, khi sửa đổi Hiến pháp năm 1959 cũng thừa nhận Hiến pháp 46 đã hoàn thành
nhiệm vụ lịch sử và không còn phù hợp nữa.”

Kiến nghị do các vị nhân sỹ  trí thức khởi xướng gồm 7 điểm chính, trong đó nhấn mạnh tới việc bỏ Điều 4 Hiến pháp, vốn đề cao một chiều vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.

Họ cho rằng người dân phải được bầu cử tự do, dân chủ, định kỳ để lựa chọn lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

“Một chính đảng thực sự có  chính nghĩa, phục vụ lợi ích của nhân dân sẽ không lo bị thất bại trong các cuộc bầu cử như vậy.”

Bản kiến nghị viết rõ: “Việc đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là phù hợp với xu thế lịch sử, là điều kiện cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, kể cả các đảng viên trung thực của Đảng Cộng sản Việt Nam trước bối cảnh
hiện nay của đất nước”.

Chỉ có tiếp thu ý kiến trên,  theo những người viết kiến nghị, Đảng Cộng sản Việt Nam mới có thể “lấy lại niềm tin đã từng có trong dân để thực sự trở thành lực lượng lãnh
đạo chính trị được xã hội chấp nhận”.

Thay đổi từng bước

Tiếp theo kiến nghị đầu tiên này, là sáu kiến nghị khác về quyền con người; sở hữu đất đai; tổ chức Nhà nước; lực lượng vũ trang; trưng cầu dân ý đối với Hiến pháp và
thời hạn góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp.

Cũng theo cựu bộ trưởng Nguyễn Đình Lộc, những người làm kiến nghị chủ xướng xã hội theo mô hình cộng hòa, với người đứng đầu nhà nước là Tổng thống.

Tuy nhiên, ông Lộc thừa nhận tiến trình sửa đổi Hiến pháp mới đang đi những bước đầu tiên.

“Cái mới không phải ai cũng tiếp nhận một cách dễ dàng được, phải biết chờ đợi.”

“Sửa đổi đến đâu cũng phải chờ đợi mới biết, vì có người cần, nhưng cũng có người thấy rằng chưa cần lắm.”

CHÚC MỪNG

CHÚC MỪNG

Lm Nguyễn Tầm Thường SJ

Có nhiều lời chúc mừng.

Có nhiều dịp chúc mừng.

Có nhiều người được chúc mừng.

Người ta chúc mừng nhau.  Bằng lời nói.  Bằng thư từ.  Trong những lời chúc mừng, lời chúc mừng về tình yêu, về những gì liên quan đến hạnh phúc, đến giá trị thiêng liêng là lời chúc mừng bi đát nhất.

Chẳng hạn:

Kỷ niệm 25 năm thành hôn của anh chị, chúng tôi cầu chúc tình yêu của anh chị
nồng nàn như thủa mới yêu nhau.

Hoặc như:

Kỷ niệm 10 năm linh mục của Cha.  Chúng con kính chúc Cha những ngày tràn
đầy hồng ơn Chúa. Tâm tình Cha sốt mến như ngày Cha dâng thánh lễ mở tay.

Những lời chúc rất chân thành.  Càng chân thành bao nhiêu, càng thấm thía
và bi đát bấy nhiêu.       Thực tế, những lời chúc này xảy ra hàng ngày, ở chỗ này, chỗ kia.  Nó đến từ trái tim người cầu chúc là mong ước.  Và biết đâu, từ trái tim người được cầu chúc cũng tha thiết xin được như thế.  Sự bi thương nằm ở đó.  Lời cầu chúc này đến từ một thực tế.  Nó diễn tả cái thực trạng hàng ngày.  Nó là tấm gương
phản chiếu trung thực lòng khao khát của người cầu chúc, nó là ước vọng của
người được cầu chúc.

Bi thương hơn nữa là đời cứ tiếp đời, lời chúc tiếp tục lời chúc đi theo thời
gian.

***********************

Kỷ niệm 25 năm thành hôn

Chúng tôi cầu chúc tình yêu của anh chị nồng nàn như thủa mới yêu nhau.
Chúc như thế, nghĩa là, tình yêu của anh chị hôm nay mệt mỏi lắm rồi.  Nó
xói mòn lắm rồi, nên tôi chúc cho anh chị được như ngày đầu.  Nói cách
khác, tình yêu ấy cứ mỗi ngày một nhạt đi, cứ mỗi ngày một hết như thủa ban đầu.
Chúc như thế, không là thành thực xót xa sao.  Nếu tình yêu của người nào
đó, sau 25 năm cưới nhau, bây giờ nồng nàn hơn, thì chúc như thế mang ý nghĩa
gì?  Nó vô duyên và vụng về biết mấy. Nhưng hôm nay, họ cứ chúc mừng nhau
như vậy.  Họ dựa vào kinh nghiệm thực tế mà làm nên lời chúc.  Nếu
vậy, mỗi lời chúc không là một lời đau thương sao?

***********************

Kỷ niệm 25 năm linh mục

Sau 25 là linh mục.  Tôi rửa tội biết bao nhiêu người.  Tôi săn sóc
biết bao bệnh nhân, xức dầu Thánh cho biết bao nhiêu người trong giờ hấp
hối.  Trong 25 năm tôi dâng biết bao thánh lễ.  Biết bao lần Mình Máu
Thánh Chúa hóa thân trên tay tôi.  Tôi cử hành biết bao bí tích.  Như
thế, sau 25 năm đôi tay tôi đã xây dựng biết bao ân sủng.  Một phần tư thế
kỷ sống sống đời linh mục, tôi xây dựng biết bao nhân đức.  Tại sao người
ta lại chúc mừng trong ngày kỷ niệm đẹp như thế bằng lời chúc bi thương?

Họ mong cho tôi dâng thánh lễ sốt sắng như ngày đầu, nghĩa là thánh lễ tôi dâng
hôm nay không còn chuẩn bị như ngày mở tay.  Nghĩa là hôm nay tôi dâng
thánh lễ nhàm chán như chuyện phải làm.  Tôi hết náo nức rồi.

***********************

Vì sao có những lời chúc như thế.  Cũng là do thực tế mà thôi.  Nó cũng đến từ một nhận thức trong sinh hoạt bình thường.  Nó do kinh nghiệm, do quan sát, do thấy như vậy.  Tôi gọi đó là những lời chúc bi thương.  Vì nó thật nên nó bi thương.  Những lời chúc ấy đến từ cảm nghiệm.

Những lời chúc như thế, là linh mục, hay tình yêu hôn nhân, nó là tiếng chuông
cầu thương khó.  Trước lời chúc đó, tình yêu phải nhìn lại tình yêu.  Hôn nhân phải hỏi lại hôn nhân.  Linh mục phải nhìn lại linh mục.  Tu sĩ khấn Dòng phải hỏi lại lý tưởng.  Những lời chúc ấy đến từ ước vọng.  Nó vừa là tiếng lòng mong mỏi, cũng vừa là tiếng lòng đợi trông.

Thủa ban đầu có nhau lưu luyến ấy, nếu bây giờ nhạt phai, nó phải có nguyên
nhân.

Nếu thánh lễ mở tay là náo nức, bây giờ chỉ còn là bổn phận, nó phải có nguyên
do.

Những ngày đầu của tình yêu hôn nhân, tháng ngày ấy mới là ngưỡng cửa bước vào
vườn hạnh phúc.  Ðàng sau đó là một chân trời khám phá.  Thì càng đi càng say chứ.  Nhưng thực tế, cứ có những tiếng thở dài.  Nhiều đôi hôn nhân càng đi càng mỏi.

Những ngày đầu của linh mục cũng thế.  Mới lên đường mà thấy lòng rộng mở,
thì càng cao, đường phải càng đẹp, càng đi lâu tâm hồn càng say mê đi tới
chứ.  Nhưng thực tế, không thiếu những cử hành phụng vụ chỉ là cánh cửa sổ
cũ kỹ muốn đóng sập xuống cho chóng xong.

Từ những kinh nghiệm được xác định đó, lời cầu chúc ra đời.  Ði tìm nguyên
do, đi hỏi nguyên nhân.  Kinh Thánh bảo: “Khi mọi người ngủ thì kẻ thù đến gieo cỏ lùng, rồi bỏ đi” (Mt.13: 25).  Thời gian nào mà không có phấn bụi bay.  Khoảnh khắc nào mà không có sương mù.  Hạnh phúc rất mong manh.  Tấm gương cần phủi bụi mỗi ngày.  Cỏ lùng cần nhổ khi còn là mầm non.  Chúa muốn nói với tôi về một tỉnh thức.

**********************

Là linh mục, xin Chúa cho con trước lời chúc đó là tiếng lòng cảnh tỉnh.

Con muốn sống làm sao mỗi ngày đẹp hơn.

Con muốn sống làm sao với ân sủng để mỗi ngày có thêm thiết tha đi tới chứ
không ao ước quay về.

Tình yêu mà cứ mỗi thời gian đi tới, lại cứ cầu chúc nhau tìm về bến cũ, thì
con đò sẽ lặng lẽ biết bao.  Hôn nhân mà mỗi bình minh lên, lại cứ phải
mong cho nhau như ngày xa xưa cũ thì còn đâu chân trời khám phá.  Chả có
sáng tạo, hôn nhân mà cứ phải nương nhờ ngày xưa thì bước đi tới nặng nề làm
sao.

Lạy Chúa, con muốn nói với Chúa về một lời chúc.

Ðừng để đời linh mục con, có những lời cầu chúc như thế.

Xin cho con sửa lại lời cầu chúc bi thương.

Ngày con dâng lễ mở tay, chỉ là mở tay thôi, mỗi ngày bàn tay con phải vươn cao
hơn, nhiều nhân đức hơn, chứa đựng nhiều ơn trời hơn.

Ngày đầu bước vào đời linh mục, có ngỡ ngàng, thì mỗi ngày, mỗi sáng sáng phải
ngỡ ngàng hơn vì khám phá ra quá nhiều ơn sủng Cha ban.

Mỗi thời điểm về gần ánh sáng, con phải thấy hân hoan hơn, thấy mình thấm nhuần
ánh sáng hơn.

Con phải quên đi những ngày đầu chập chững.

Con phải sống sao những ngày đầu chỉ là ơn sủng còn non màu mạ, mỗi thời gian
đi tới là chứa chan màu vàng của lúa đơm bông.

Như cánh bướm, vì vườn hoa càng rực rỡ thì càng buông cánh vào càng duyên dáng
hơn.

“Ơn sủng Cha ban thì hằng hà sa số,

Lớp lớp thời gian Cha không ngừng đổ rót.

Ðể lãnh xin, con chỉ có bàn tay bé nhỏ,

Vậy sao hồn con cứ trống và tim con còn vơi?” (Tagore)

Lạy Cha, lỗi ở con mà thôi.

Con ước muốn sửa lại lời cầu chúc trên kia.

Con muốn mỗi ngày cánh buồm đong gió ra đi là càng thênh thang, chứ đừng có lời
cầu chúc tầm thường mong sao được như ngày xưa bên bến hồ nhỏ bé.

Lời cầu chúc đời ban tặng con đến từ nhận xét.

Con không thể thay đổi cái nhìn của đời được, vì con thế nào thì đời nhận xét
như thế.

Lời cầu chúc đến từ cảm nghiệm.

Con không van xin đời thay đổi cảm nghiệm được, con chỉ có thể thay thế chanh
chua bằng mật ong, vì đời cảm nghiệm thế nào, đời mong mỏi như vậy.

Lời cầu chúc đến từ ước mơ.

Con không cho đời hạnh phúc được nếu mơ ước kia không là sự thật.

Lời cầu chúc đến từ lòng thành thật.

Con có đau thương vì lời chúc thì cũng hãy thành thật nhận lời chúc như câu
kinh.

Lời cầu chúc đến như tiếng than thở.

Con hãy quý những thở than đó vì nó là tiếng lòng nhắc nhở con về một tiếng
gọi.

Lời cầu chúc đến từ thực tế.

Con không thể lặng thinh mà không hỏi lòng mình: Tại sao thế?

Lời cầu chúc có thể còn tiếp tục mãi.

Con không thể lặng thinh mà không hỏi Chúa:

– Vậy sáng mai con dâng thánh lễ ra sao.

 

***********************

Ôi! Lạy Chúa,

Mỗi lời chúc đều nói với con về một ý nghĩa.

Mỗi lời chúc đều nói với con về chính con.

Mỗi lời chúc đều nói với con về liên hệ giữa con và Chúa.  Amen!

 

Lm Nguyễn Tầm Thường SJ
– Trích tập suy niệm Ðường Ði Một Mình

From: langthangchieutim &

Anh chị Thụ & Mai gởi