Lời chứng của Nick Vujicic

Lời chứng của Nick Vujicic

Đăng bởi lúc 3:57 Sáng 7/04/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (07.04.2013) – Facebook – Tôi tên là Nick Vujicic và tôi xin ca tụng Chúa vì Người đã dùng chứng tá của tôi để đánh động hàng ngàn con tim trên khắp thế giới !

Tôi được sinh ra không tay không chân, và về mặt y học các bác sĩ không thể giải thích “khuyết tật” bẩm sinh này. Như các bạn có thể hình dung, tôi đã phải đương đầu với rất nhiều khó khăn và thách thức.

“Anh em thân mến, anh em hãy tuyệt đối hân hoan khi phải chịu thử thách tứ bề.” Xem nỗi khổ đau và sự tranh đấu của mình là niềm hân hoan tuyệt đối ư ? Vì cha mẹ tôi là người Kitô giáo, và cha tôi còn là mục sư trong hội thánh chúng tôi, nên cha mẹ tôi biết rất rõ câu trên.

Dù sao, vào ngày 4 tháng 12 năm 1982 tại Melbourne (Úc Châu), cha mẹ tôi không thể nào nghĩ đến ba từ “Ngợi khen Chúa !” được. Đứa con đầu lòng của hai vị được sinh ra không tay chân ! Hai vị không có thời gian và cũng không được báo trước để chuẩn bị đón nhận điều này.

Các bác sĩ cũng ngỡ ngàng và không thể nào giải thích nổi ! Cho đến bây giờ cũng chẳng có lý do nào về mặt y học để giải thích tại sao điều này lại xảy ra và bây giờ thì tôi lại có một em trai và một em gái được sinh ra bình thường như bao nhiêu trẻ em khác.

Cả hội thánh khóc thương cho số phận của tôi và cha mẹ tôi thì bị mất tinh thần hoàn toàn. Mọi người đều đặt câu hỏi: “Nếu Chúa thật sự là Thiên Chúa Tình Yêu, vậy tại sao Người lại có thể để cho một sự dữ như thế xảy ra, Người không nhằm vào bất cứ ai khác, mà lại là đúng vào người Kitô giáo nữa chứ ?”

Cha tôi nghĩ là tôi sẽ sống không được bao lâu, nhưng các kết quả xét nghiệm cho thấy tôi là một bé trai khỏe mạnh, chỉ có hơi thiếu tay chân mà thôi.

“Và chúng ta biết rằng trong mọi sự Thiên Chúa sẽ làm điều tốt nhất cho những người yêu mến Người.” Câu này đi sâu vào lòng tôi và làm tôi xác tín rằng nếu những “sự dữ” như thế này xảy đến trong đời chúng ta thì

không bao giờ là do may rủi, tình cờ hay trùng hợp ngẫu nhiên mà ra.

Tôi hoàn toàn bình an khi biết là Chúa không bao giờ để xảy ra điều gì trong cuộc đời mình mà lại không có mục đích tốt cho nó. Tôi hoàn toàn phó mình cho Chúa ở tuổi 15 sau khi đọc phúc âm thánh Gioan đoạn 9. Đức

Giêsu nói lý do ngưòi đàn ông sinh ra bị mù từ lúc lọt lòng mẹ “là để vinh quang của Chúa được thể hiện qua ông ấy.“ Tôi thật sự tin là Chúa chữa lành cho tôi để tôi có thể trở thành một nhân chứng đắc lực cho Quyền năng tuyệt diệu của Người.

Sau đó, tôi được ban cho ơn khôn ngoan để hiểu rằng, khi chúng ta cầu xin một điều gì, nếu đó là ý Chúa, thì nó sẽ xảy ra vào thời điểm Ngài muốn. Nếu Chúa không muốn để điều đó xảy ra, thì tôi tin là Người có một dự định khác tốt đẹp hơn cho tôi.

Bây giờ tôi hiểu là vinh quang Người được thể hiện khi tôi như thế nào thì Người dùng tôi như thế ấy và theo những đường lối mà Người không thể dùng được nơi những người khác.

Năm 23 tuổi (2005) tôi tốt nghiệp bằng cử nhân Thương Mại, với chuyên môn là Kế hoạch Tài Chính và Kế Toán. Tôi cũng là một diễn giả nhiệt thành và tôi rất thích đi ra ngoài để chia sẻ câu chuyện và chứng tá của tôi

khi có dịp. Tôi đã đi nói chuyện nhiều để làm bạn với các sinh viên học sinh và động viên tinh thần họ qua những đề tài đang làm cho các thanh thiếu niên ngày nay ưu tư. Tôi cũng là diễn giả hay đến nói chuyện với các hội đoàn. Tôi có đam mê đến với giới trẻ và Iuôn sẵn sàng làm bất kỳ những gì Chúa muốn tôi làm, và Người đưa tôi đi đâu thì tôi cũng xin theo.

Tôi có nhiều ước mơ và cũng đề ra nhiều mục tiêu mà tôi phải đạt được trong cuộc đời. Tôi muốn trở nên người làm chứng tốt nhất theo khả năng mình cho Tình Yêu Chúa và lòng Trông Cậy.

Tôi muốn trở nên một diễn giả quốc tế có khả năng khích lệ mọi người và làm ích lợi cho cả người trong Kitô giáo lẫn người ngoài Kitô giáo. Tôi muốn được độc lập về tài chính vào năm 25 tuổi, nhờ vào đầu tư địa ốc. Tôi muốn chế biến một chiếc xe để tôi có thể tự lái được, và được phỏng vấn cũng như được chia sẻ câu chuyện của tôi trên chương trình “Oprah Winfrey Show”!

Một trong những ước mơ nữa của tôi là viết nhiều sách ăn khách nhất và tôi hy vọng viết xong quyển sách đầu tiên của tôi trước cuối năm nay. Sách sẽ có tựa đề là: “Không tay, không chân, không lo âu !”.

Tôi tin rằng nếu các bạn mong muốn và có đam mê làm một điều gì, và nếu đó là ý Chúa, thì các bạn sẽ thực hiện được điều này vào lúc thích hợp. Với bản chất con người, không vì lý do nào cả, chúng ta luôn đặt giới hạn cho mình. Tệ hơn nữa là chúng ta đặt giới hạn cả cho Chúa là Đấng có thể làm được mọi sự. Chúng ta để Chúa vào một cái “hộp” rồi.

Xin Chúa ban phúc lành cho các bạn, Hiệp thông trong Chúa Kitô.

Nick Vujicic

CHÚA Ở QUANH TA

CHÚA Ở QUANH TA

Lm. Vĩnh Sang, dcct.

nguồn:conggiaovietnam.net

Trong tất cả các trình thuật về biến cố Chúa Giêsu hiện ra sau khi đã phục sinh : Buổi sáng ngày thứ nhất trong tuần (Ga 20, 11 – 18); buổi chiều với hai môn đệ trên đường Emmaus (Lc 24, 12 – 35); buổi sáng nơi bờ biển với các môn đệ sau một đêm đánh cá (Ga 21,1 – 19). Không lần nào chúng ta thấy Chúa xuất hiện trong dáng vẻ của người cao sang quyền thế, trong y phục lộng lẫy sang trọng, bên những đoàn quân tiền hô hậu ủng. Ngược lại, buổi sáng hôm ấy nơi tha ma nghĩa địa, Chúa làm cho bà Maria Magdalena lầm tưởng là người làm vườn, ắt hẳn rằng Chúa đã mặc áo quần cũ kỹ, đã khoác lên người những mảnh vải bạc màu, đã giản đơn với đôi dép nhẹ, đã để lộ đôi bàn tay sần sùi chai cứng. Ắt hẳn buổi chiều hôm đó, cả một đoạn đường dài từ Giêrusalem về hơn 11 cây số, Chúa đã “thất thểu” trong bộ dáng người lữ khách, áo phong sương nhuốm bụi đường, bình thường đến độ quá tầm thường vì không di chuyển bằng xe, bằng lừa ngựa, nhưng làm người khách bộ hành nghèo đường xa. Sáng hôm đó nơi bờ biển vắng lặng, ắt hẳn Chúa đã đi lại trên bờ thế nào, dáng vẻ tềnh toàng kèm theo lời xin “có gì ăn không ?” (Ga 21, 5) để các đồ đệ của mình lầm tưởng “người ăn xin” lang thang nào đó !

Chúa Giêsu không chỉ làm người nghèo trong thời gian sinh sống làm người giữa nhân loại, nhưng ngay cả khi đã phục sinh vinh hiển, thì chất nghèo vẫn quyện lấy Con Thiên Chúa làm người dù đã vinh thắng. Chắc chắn chọn lựa này của Thiên Chúa không phải là một chọn lựa tình cờ, cũng chẳng phải là một chọn lựa nhất thời, nhưng là một chọn lựa mang tính dứt khoát và quyết liệt. Thiên Chúa quyết định hoá thân và định cư vĩnh viễn nơi người nghèo. Phải hiểu và xác tín như vậy, không còn cách nghĩ nào khác khi trong Mt 25 Thiên Chúa tuyên bố:

“ Khi xưa Ta đói ngươi đã cho ăn,

Ta khát ngươi đã cho uống….”

Càng không ngần ngại khẳng định : 

“Việc gì ngươi làm cho một người anh em bé mọn nhất ấy làm làm cho chính Ta”.

Ngay khi khởi đầu sứ vụ, Chúa dõng dạc lên tiếng :

“Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó,

vì Nước Trời là của họ”.(Mt 5)

Hình ảnh vị tân Giáo hoàng Phanxicô tiếp tục làm thế giới rúng động, không chỉ là tin tức nhưng có cả hình ảnh kèm theo. Một đôi lần ngài đã không dùng xe riêng nhưng di chuyển cùng với đoàn tuỳ tùng bằng xe chung, vẫn tấm áo dài trắng nhưng ngồi chung với anh em, không cách biệt. Hàng ngày vẫn sống trong căn hộ dành cho khách của Toà Thánh nơi nhà trọ Thánh Mattha và chỉ chấp nhận dọn lên một căn hộ có hai phòng vì cần phải tiếp nhiều vị khách. Hàng ngày vẫn ăn cơm với các Hồng y, các nhân viên đang trú ngụ tại nhà trọ Thánh Mattha và vẫn dâng lễ mỗi sáng với mọi người cho các nhân viên đang phục vụ cùng tham dự. Với bằng đó thông tin trên các phương tiện truyền thông kể cả trên báo chí của nhà nước Việt Nam (báo Pháp Luật, Tuổi Trẻ, Người Lao động …) là những cơ quan tuyên truyền của đảng cộng sản vốn dĩ “xa lạ” với Giáo hội Công giáo Roma, chúng ta có thể nghĩ ngài như vẫn là một vị Hồng y đến sinh sống và làm việc ở Vatican chứ không phải là vị lãnh đạo tinh thần số một của Giáo hội Công giáo.

Thứ Năm Tuần Thánh vừa qua, hình ảnh truyền đi khi ngài đến thăm nhà tù dành cho các trẻ em vị thành niên ở Roma, không chỉ thăm, ngài cử hành Thánh lễ chiều thứ Năm Tuần Thánh, ngài đã cúi xuống rửa và hôn chân mười hai phạm nhân, trong đó có hai phạm nhân nữ người Hồi giáo. Cái gì vậy ? Chúng ta có mơ ngủ không ? Nếu Đức Thánh Cha rửa chân cho phạm nhân vị thành niên, hôn chân phụ nữ Hồi giáo thì chúng ta sẽ phải làm gì ?

Khi tôi còn phụ trách một họ đạo, tôi đề nghị rửa chân cho những thanh niên “hư hỏng” trong cộng đoàn (chỉ thanh niên thôi không dám là phụ nữ), họ là những người rượu chè be bét, họ là những người vướng vào ma tuý, cờ bạc, tôi đã gặp phải sự chống đối quyết liệt của những người đạo đức và gương mẫu trong cộng đoàn, khi tôi cương quyết thực hiện họ tìm cách đe doạ và gây áp lực cho những người được chọn không thể đến, đã có năm tôi chỉ có sáu người để rửa chân, ngày ấy tôi mang tiếng là ông cha cấp tiến, chướng ! Cũng may việc này đã làm cho một số anh em được rửa chân suy nghĩ lại và sửa chữa đời sống.

Đức Thánh Cha đã chọn lựa một cách hành động thể hiện tinh thần nghèo, khiêm tốn và thuộc về người nghèo. Qua lá thư nhận định và góp ý của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (01/03/2013), Hội Thánh Việt Nam cũng đã chọn lựa đứng về phía người nghèo, người bị bỏ rơi, người bị tước đoạt những quyền lợi căn bản.

Còn chúng ta, chúng ta đã dứt khoát đứng về một phía với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam chưa ? Chúng ta có dứt khoát chọn lựa như vị cha chung của chúng ta đã chọn lựa chưa, hay chúng ta chỉ đọc lá thư nhận định và góp ý cho có đọc, chỉ xem tin tức cho có xem, hoặc chỉ ca ngợi nhưng không hề chuyển biến, lương tâm người Kitô hữu tra vấn chúng ta.

Lm. Vĩnh Sang, dcct.

Phục Sinh 2013.

Hôm nay, hôm qua và ngày mai.

Các phương tiện truyền thông VN thời gian nay hay kể chuyện chiến tranh, chuyện “Once upon a time” quá, nói cách khác là “Ăn mày dĩ vãng”. Đọc câu chuyện này thấy rất thú vị, quá khứ dù có đẹp đến đâu cũng không thể thay thế hiện tại và tương lai.

“Một lớp của trường tiểu học Mỹ có 26 học sinh đặc biệt vì chúng đều có những quá khứ tội lỗi: em thì đã từng tiêm chích, em thì đã vào trại cải tạo, thậm chí có một học sinh nữ trong một năm đã phá thai ba lần.

Gia đình đã từ bỏ chúng, các thầy cô giáo và nhà trường cũng coi chúng là đồ bỏ đi. Cuối cùng, lớp học được giao cho cô giáo Phila chủ nhiệm.

Ngay ngày đầu tiên của năm học, Phila đã không dọa nạt, ra oai với chúng như những giáo viên trước mà cô nêu ra cho cả lớp một câu hỏi sau: “Cô kể cho các em một số điểm trong quá khứ của 3 ứng cử viên như sau:

Người thứ nhất luôn tin vào y thuật của thầy cúng. Ông ấy từng có hai người tình, ông ta hút thuốc và nghiện rượu trong nhiều năm liền.

Người thứ hai đã từng bị đuổi việc hai lần. Ngày nào ông ta cũng ngủ đến trưa, tối nào cũng uống một lít rượu brandy và cũng từng hút thuốc phiện.

Người thứ ba từng là anh hùng trong chiến đấu. Ông ta luôn giữ thói quen ăn kiêng, không hút thuốc, thỉnh thoảng mới uống rượu, thường uống bia nhưng không uống nhiều. Thời thanh niên chưa từng làm gì phạm pháp”.

Cô hỏi cả lớp trong 3 người, ai sau này sẽ cống hiến nhiều nhất cho nhân loại. Các em học sinh đồng thanh chọn người thứ 3, nhưng cô giáo làm cho cả lớp kinh ngạc khi trả lời:

“Các em thân mến, cô biết chắc chắn các em sẽ cho rằng chỉ có người thứ ba mới có thể cống hiến được nhiều cho nhân loại. Nhưng các em đã sai rồi đấy.

Ba người này là những nhân vật nổi tiếng trong thế chiến thứ 2:

Người thứ nhất là Franklin Roosevelt, tuy tàn tật nhưng ý chí kiên cường, ông đảm nhận chức vụ tổng thống Mỹ trong bốn nhiểm kỳ liên tiếp.

Người thứ hai là Winston Churchill, thủ tướng nổi tiếng nhất trong lịch sử nước Anh.

Người thứ ba là Adolf Hitler, con ác quỷ phát xít đã cướp đi sinh mạng của hàng chục triệu người dân vô tội”.

Khi cô nói xong, tất cả học sinh đều ngây người nhìn cô và như không tin nổi những gì chúng vừa nghe thấy. Cô giáo nói tiếp:

“Các em có biết không, những điều mà cô nói về ba nhân vật này là quá khứ của họ. Còn sự nghiệp sau này của họ, là những việc mà họ đã làm sau khi họ thoát ra khỏi cái quá khứ đó. Các em ạ, cuộc sống của các em chỉ mới bắt đầu, vinh quang và tủi nhục trong quá khứ chỉ đại diện cho quá khứ. Cái thực sự đại diện cho cuộc đời một con người chính là những việc làm ở hiện tại và tương lai. Hãy bước Ra từ bóng tối của quá khứ, bắt đầu làm lại từ hôm nay, cố gắng làm những việc mà các em muốn làm nhất trong cuộc đời mình, các em sẽ trở thành những người xuất chúng… “.

Sau khi những học sinh này trưởng thành, rất nhiều người trên cương vị công tác của mình đã đạt được nhiều thành tích đáng tự hào: Có người trở thành bác sĩ tâm lý, có người trở thành quan tòa, có người trở thành nhà du hành vũ trụ. Điều đáng nói là, Robert Harrison, cậu học sinh thấp nhất và quậy phá nhất lớp, giờ đây trở thành giám đốc tài chính trẻ nhất của phố Wall”.

Trong cuộc đời của con người, mỗi ngày đều có thể là một sự bắt đầu mới mẻ và hướng thiện, những vinh quang và tủi nhục của ngày hôm qua đều trở thành dĩ vãng. Chỉ cần bạn thực sự chịu trách nhiệm với bản thân, chịu trách nhiệm với tương lai, tích cực nỗ lực để gia nhập vào đội ngũ những người cầu tiến, ngày mai chắc chắn bạn sẽ thành công.

Sau khi xuất bản, một người bạn gởi thêm những lời vàng ngọc lượm lặt từ “đám mây kiến thức”:

Đừng quá xem trọng điều gì. Hãy tiếp nhận mọi sự may rủi một cách nhẹ nhàng (Jefferson).

“Trong những lúc khó khăn nhất của cuộc sống, đừng cố gắng trở thành một người thành công hay hạnh phúc, tốt hơn hãy trở thành một người có giá trị” (Albert Einstein).

Đừng khóc vì nước mắt chỉ làm đầy thêm bể khổ, đừng cười vì ngạo mạn sẽ làm tan vỡ cả tương lai

Kẻ nào nghĩ mình là giỏi, thì biết rằng kẻ ấy vẫn còn quá ngu dốt. Người nào nghĩ mình vẫn còn kém cỏi mà vẫn không tự ti, luôn cố gắng thì đó là 1 suy nghĩ đúng

Cuộc sống của chúng ta có lắm thăng trầm. Thăng vì đôi lúc chúng ta biết khiêm hạ nhưng trầm vì chúng ta còn mắc bệnh khoe khoang

Người nào hay bị kích động, người đó có một tinh thần yếu đuối. Người nào không bị kích động, người đó có một tinh thần mạnh mẽ

Hãy khôn ngoan như rắn và hiền lành như chim bồ câu

Can đảm không phải là dám chết mà là dám sống và làm ích lợi cho đời

Có nhiều điều kỳ diệu chợt đến trong cuộc sống, nhưng hầu hết những điều tuyệt vời trong đời là do ta thận trọng vun đắp, nỗ lực đeo đuổi hoặc đòi hỏi sự kiên trì bền bỉ mới có được

Người không chịu sửa mình mà muốn có tiếng thơm để đời thì khác nào mặt xấu mà muốn có cái hình đẹp trong gương

Nếu không tìm thấy hạnh phúc ngay trong chính bản thân mình thì không thể tìm được ở nơi nào khác

Sự tôn trọng không đến từ công việc mà bạn đang làm, nó đến từ cái cách mà bạn đang làm công việc đó

Bạn có thể không thể lựa chọn được những gì xảy đến với mình nhưng bạn hoàn toàn có thể lựa chọn thái độ tích cực nhất để đối mặt với chúng

Khi ta chưa có địa vị, ai nói gì mình cũng nhịn được, nhưng có địa vị rồi, tâm lại trở nên hẹp hòi, cho nên được ca ngợi thì mình mới vui, ai xem thường thì mình khổ đau

Người không ham giàu thì nghèo không là nỗi khổ; không thương yêu thì xa nhau không tiếc nhớ; không ghét nhau thì gần nhau không bực bội; không tự ái thì bị nhục mạ không khó chịu; không cần danh vọng thì mất chức không là nỗi bận tâm

Người ta buồn vì có vui (hết vui thì thấy buồn) và người ta vui vì có buồn (hết buồn thì thấy vui). Chỉ có những người thiết lập được sự bình an, tâm tư lắng đọng không bị cảnh bên ngoài chi phối, vượt lên sự buồn vui thường tình mới thực sự vững chải, an trú trong hạnh phúc và tịnh lạc

Đối với những người nóng giận, nhìn thái độ biểu hiện bên ngoài, tưởng chừng những người hay giận dữ có một bản tính mạnh mẽ, nhưng thực chất, họ có một nội tâm yếu ớt. Vì tâm và thân vốn ngược nhau. Người có thân mạnh là người làm được nhiều việc, hăng hái, năng nổ nhưng tâm chưa hẳn đã mạnh. Tâm mạnh là tâm trầm tĩnh, không dễ dàng bị kích động

Ta phải sống khiêm hạ nhưng không hèn hạ, khúm núm. Khi gặp người khác, chúng ta luôn tôn trọng họ nhưng tuyệt đối không khúm núm, không có thái độ của một kẻ cầu cạnh vì đó là thái độ của người mất tư cách

Sự trả thù là dấu hiệu của một tinh thần yếu ớt, bất lực không thể chịu đựng được những sự lăng mạ.

nguồn: từ ngocnga và Nguyễn Kim Bằng

Hôm nay, hôm qua và ngày mai.

Các phương tiện truyền thông VN thời gian nay hay kể chuyện chiến tranh, chuyện “Once upon a time” quá, nói cách khác là “Ăn mày dĩ vãng”. Đọc câu chuyện này thấy rất thú vị, quá khứ dù có đẹp đến đâu cũng không thể thay thế hiện tại và tương lai.

“Một lớp của trường tiểu học Mỹ có 26 học sinh đặc biệt vì chúng đều có những quá khứ tội lỗi: em thì đã từng tiêm chích, em thì đã vào trại cải tạo, thậm chí có một học sinh nữ trong một năm đã phá thai ba lần.

Gia đình đã từ bỏ chúng, các thầy cô giáo và nhà trường cũng coi chúng là đồ bỏ đi. Cuối cùng, lớp học được giao cho cô giáo Phila chủ nhiệm.

Ngay ngày đầu tiên của năm học, Phila đã không dọa nạt, ra oai với chúng như những giáo viên trước mà cô nêu ra cho cả lớp một câu hỏi sau: “Cô kể cho các em một số điểm trong quá khứ của 3 ứng cử viên như sau:

Người thứ nhất luôn tin vào y thuật của thầy cúng. Ông ấy từng có hai người tình, ông ta hút thuốc và nghiện rượu trong nhiều năm liền.

Người thứ hai đã từng bị đuổi việc hai lần. Ngày nào ông ta cũng ngủ đến trưa, tối nào cũng uống một lít rượu brandy và cũng từng hút thuốc phiện.

Người thứ ba từng là anh hùng trong chiến đấu. Ông ta luôn giữ thói quen ăn kiêng, không hút thuốc, thỉnh thoảng mới uống rượu, thường uống bia nhưng không uống nhiều. Thời thanh niên chưa từng làm gì phạm pháp”.

Cô hỏi cả lớp trong 3 người, ai sau này sẽ cống hiến nhiều nhất cho nhân loại. Các em học sinh đồng thanh chọn người thứ 3, nhưng cô giáo làm cho cả lớp kinh ngạc khi trả lời:

“Các em thân mến, cô biết chắc chắn các em sẽ cho rằng chỉ có người thứ ba mới có thể cống hiến được nhiều cho nhân loại. Nhưng các em đã sai rồi đấy.

Ba người này là những nhân vật nổi tiếng trong thế chiến thứ 2:

Người thứ nhất là Franklin Roosevelt, tuy tàn tật nhưng ý chí kiên cường, ông đảm nhận chức vụ tổng thống Mỹ trong bốn nhiểm kỳ liên tiếp.

Người thứ hai là Winston Churchill, thủ tướng nổi tiếng nhất trong lịch sử nước Anh.

Người thứ ba là Adolf Hitler, con ác quỷ phát xít đã cướp đi sinh mạng của hàng chục triệu người dân vô tội”.

Khi cô nói xong, tất cả học sinh đều ngây người nhìn cô và như không tin nổi những gì chúng vừa nghe thấy. Cô giáo nói tiếp:

“Các em có biết không, những điều mà cô nói về ba nhân vật này là quá khứ của họ. Còn sự nghiệp sau này của họ, là những việc mà họ đã làm sau khi họ thoát ra khỏi cái quá khứ đó. Các em ạ, cuộc sống của các em chỉ mới bắt đầu, vinh quang và tủi nhục trong quá khứ chỉ đại diện cho quá khứ. Cái thực sự đại diện cho cuộc đời một con người chính là những việc làm ở hiện tại và tương lai. Hãy bước Ra từ bóng tối của quá khứ, bắt đầu làm lại từ hôm nay, cố gắng làm những việc mà các em muốn làm nhất trong cuộc đời mình, các em sẽ trở thành những người xuất chúng… “.

Sau khi những học sinh này trưởng thành, rất nhiều người trên cương vị công tác của mình đã đạt được nhiều thành tích đáng tự hào: Có người trở thành bác sĩ tâm lý, có người trở thành quan tòa, có người trở thành nhà du hành vũ trụ. Điều đáng nói là, Robert Harrison, cậu học sinh thấp nhất và quậy phá nhất lớp, giờ đây trở thành giám đốc tài chính trẻ nhất của phố Wall”.

Trong cuộc đời của con người, mỗi ngày đều có thể là một sự bắt đầu mới mẻ và hướng thiện, những vinh quang và tủi nhục của ngày hôm qua đều trở thành dĩ vãng. Chỉ cần bạn thực sự chịu trách nhiệm với bản thân, chịu trách nhiệm với tương lai, tích cực nỗ lực để gia nhập vào đội ngũ những người cầu tiến, ngày mai chắc chắn bạn sẽ thành công.

 

Sau khi xuất bản, một người bạn gởi thêm những lời vàng ngọc lượm lặt từ “đám mây kiến thức”:

Đừng quá xem trọng điều gì. Hãy tiếp nhận mọi sự may rủi một cách nhẹ nhàng (Jefferson).

“Trong những lúc khó khăn nhất của cuộc sống, đừng cố gắng trở thành một người thành công hay hạnh phúc, tốt hơn hãy trở thành một người có giá trị” (Albert Einstein).

Đừng khóc vì nước mắt chỉ làm đầy thêm bể khổ, đừng cười vì ngạo mạn sẽ làm tan vỡ cả tương lai

Kẻ nào nghĩ mình là giỏi, thì biết rằng kẻ ấy vẫn còn quá ngu dốt. Người nào nghĩ mình vẫn còn kém cỏi mà vẫn không tự ti, luôn cố gắng thì đó là 1 suy nghĩ đúng

Cuộc sống của chúng ta có lắm thăng trầm. Thăng vì đôi lúc chúng ta biết khiêm hạ nhưng trầm vì chúng ta còn mắc bệnh khoe khoang

Người nào hay bị kích động, người đó có một tinh thần yếu đuối. Người nào không bị kích động, người đó có một tinh thần mạnh mẽ

Hãy khôn ngoan như rắn và hiền lành như chim bồ câu

Can đảm không phải là dám chết mà là dám sống và làm ích lợi cho đời

Có nhiều điều kỳ diệu chợt đến trong cuộc sống, nhưng hầu hết những điều tuyệt vời trong đời là do ta thận trọng vun đắp, nỗ lực đeo đuổi hoặc đòi hỏi sự kiên trì bền bỉ mới có được

Người không chịu sửa mình mà muốn có tiếng thơm để đời thì khác nào mặt xấu mà muốn có cái hình đẹp trong gương

Nếu không tìm thấy hạnh phúc ngay trong chính bản thân mình thì không thể tìm được ở nơi nào khác

Sự tôn trọng không đến từ công việc mà bạn đang làm, nó đến từ cái cách mà bạn đang làm công việc đó

Bạn có thể không thể lựa chọn được những gì xảy đến với mình nhưng bạn hoàn toàn có thể lựa chọn thái độ tích cực nhất để đối mặt với chúng

Khi ta chưa có địa vị, ai nói gì mình cũng nhịn được, nhưng có địa vị rồi, tâm lại trở nên hẹp hòi, cho nên được ca ngợi thì mình mới vui, ai xem thường thì mình khổ đau

Người không ham giàu thì nghèo không là nỗi khổ; không thương yêu thì xa nhau không tiếc nhớ; không ghét nhau thì gần nhau không bực bội; không tự ái thì bị nhục mạ không khó chịu; không cần danh vọng thì mất chức không là nỗi bận tâm

Người ta buồn vì có vui (hết vui thì thấy buồn) và người ta vui vì có buồn (hết buồn thì thấy vui). Chỉ có những người thiết lập được sự bình an, tâm tư lắng đọng không bị cảnh bên ngoài chi phối, vượt lên sự buồn vui thường tình mới thực sự vững chải, an trú trong hạnh phúc và tịnh lạc

Đối với những người nóng giận, nhìn thái độ biểu hiện bên ngoài, tưởng chừng những người hay giận dữ có một bản tính mạnh mẽ, nhưng thực chất, họ có một nội tâm yếu ớt. Vì tâm và thân vốn ngược nhau. Người có thân mạnh là người làm được nhiều việc, hăng hái, năng nổ nhưng tâm chưa hẳn đã mạnh. Tâm mạnh là tâm trầm tĩnh, không dễ dàng bị kích động

Ta phải sống khiêm hạ nhưng không hèn hạ, khúm núm. Khi gặp người khác, chúng ta luôn tôn trọng họ nhưng tuyệt đối không khúm núm, không có thái độ của một kẻ cầu cạnh vì đó là thái độ của người mất tư cách

Sự trả thù là dấu hiệu của một tinh thần yếu ớt, bất lực không thể chịu đựng được những sự lăng mạ.

nguồn: từ ngocnga và Nguyễn Kim Bằng

Vụ xử Đoàn Văn Vươn : Đáng buồn cho nền tư pháp Việt Nam

Vụ xử Đoàn Văn Vươn : Đáng buồn cho nền tư pháp Việt Nam

nguồn: RFI

Hải Phòng huy động quân đội và công an can thiệp trong vụ cưỡng chế đất của gia đình ông Đoàn Văn Vươn (huyện Tiên Lãng), 05/01/2012. Trong ảnh, đại tá Đỗ Hữu Ca – Giám đốc Công an Hải Phòng (bên trái). DR

Hải Phòng huy động quân đội và công an can thiệp trong vụ cưỡng chế đất của gia đình ông Đoàn Văn Vươn (huyện Tiên Lãng), 05/01/2012. Trong ảnh, đại tá Đỗ Hữu Ca – Giám đốc Công an Hải Phòng (bên trái). DR

Hải Phòng huy động quân đội và công an can thiệp trong vụ cưỡng chế đất của gia đình ông Đoàn Văn Vươn (huyện Tiên Lãng), 05/01/2012. Trong ảnh, đại tá Đỗ Hữu Ca – Giám đốc Công an Hải Phòng (bên trái). DR

Trọng Thành

Hôm nay, 05/04/2013, Tòa án Hải Phòng đã ra phán quyết trong vụ án xét xử ông Đoàn Văn Vươn và những người thân chống lại lực lượng cưỡng chế thu hồi đất cách đây hơn một năm. Theo đó, ông Đoàn Văn Vươn bị án 5 năm tù giam. Ba thành viên khác trong gia đình cũng bị phạt án tù giam. Vụ án Đoàn Văn Vươn – Cống Rộc (Tiên Lãng – Hải Phòng) được công luận trong và ngoài nước hết sức quan tâm.

Trả lời RFI hôm nay, tiến sĩ Nguyễn Quang A (Hà Nội) cho rằng bản án này « bộc lộ sự khốn cùng của nền tư pháp Việt Nam », « cho thấy một căn bệnh trầm kha của toàn bộ hệ thống chính trị của Việt Nam (…). Đấy là một căn bệnh nếu không thực sự sửa chữa về căn bản, thì đây là căn bệnh ung thư và sẽ làm cho toàn bộ hệ thống sụp đổ nhanh chóng ».

Ông Nguyễn Quang A (Hà Nội)

05/04/2013

Nghe (06:56)

More

MƯỜI NGUYÊN TẮC THỌ THÊM NHIỀU TUỔI

MƯỜI NGUYÊN TẮC THỌ THÊM NHIỀU TUỔI

1. Câu châm ngôn thứ nhất:

“Trong thiên hạ, không có chuyện làm biếng mà có thể có một thân thể khỏe mạnh.”
2. Câu châm ngôn thứ hai:
-Ði với những việc không vui vẻ của dĩ vãng và nghịch cảnh, không thấy khó chịu.
-Ðối với những ngày sắp tới không có ước vọng quá cao, nhưng luôn cầu bình an hạnh phúc.
Ba DƯỠNG
1. Bảo dưỡng.
2.Dinhdưỡng.
3. Tu dưỡng.
Bốn QUÊN
1. Quên tuổi tác.
2. Quên tiền tài.
3. Quên con cái.
4. Quên buồn phiền.

Năm PHÚC
1. Có thân thể mạnh khỏe, gọi là phúc.
2. Có vui thú đọc sách, gọi là phúc.
3. Có bạn bè tri kỷ, gọi là phúc.
4. Có người nhớ đến anh, gọi là phúc.
5. Làm những việc mà mình thích làm, gọi là phúc.
Sáu VUI
1. Một vui là hưu nhưng không nghĩ.
2. Hai vui là con cái độc lập.
3. Ba vui là vô dục tắc cương.
4. Bốn vui là vui vẻ vấn tâm mà không xấu hổ..
5. Năm vui là có nhiều bạn hữu.
6. Sáu vui là tâm tình không già.
Bẩy SUNG SƯỚNG
1. Biết đủ thường sung sướng.
2. Biết giải trí khi nhàn rỗi.
3. Biết đắc chí tìm niềm vui.
4. Khi cấp thời biết tìm niềm vui.
5. Biết dùng người làm vui.
6. Biết vui khi hành thiện.
7. Bình an là vui nhất.

Tám CHÚT XÍU
1. Miệng ngọt ngào thêm một chút nữa.
2. Ðầu óc hoạt động thêm một chút nữa.
3. Nóng giận ít thêm một chút nữa.
4. Ðộ lượng nhiều hơn một chútnữa.
5. Lòng rộng rãi thêm một chút nữa.
6. Làm việc nhiều thêm một chút nữa.
7. Nói năng nhẹ nhàng thêm chút xíu nữa.
8. Mĩm cười nhiều thêm chút nữa.

Chín THƯỜNG

1. Răng thường ngậm.
2. Nước miếng thường nuốt.
3. Mũi thường vê.
4. Mắt thường động.
5. Mặt thường lau.
6. Chân thường xoa (bóp).
7. Bụng thường xoay.
8. Chi thường vươn.
9. Hậu môn thường co bóp


MƯỜI NGUYÊN TẮC KHỎE MẠNH
1. Ít thịt, nhiều rau.
2. Ít mặn, nhiều chua.
3. Ít đường, nhiều trái cây.
4. Ít ăn, nhai nhiều.
5.Ít áo, tắm nhiều.
6. Ít nói, làm nhiều.
7. Ít muốn, bố thí nhiều.
8. Ít ưu tư, ngủ nhiều hơn.
9. Ít đi xe, đi bộ nhiều.
10. Ít nóng giận, cười nhiều hơn.
Anh Nguyễn v Thập gởi

LẠY CHÚA LÀ THIÊN CHÚA CỦA CON

LẠY CHÚA LÀ THIÊN CHÚA CỦA CON

Trong tạp chí Guidepots, bác sĩ Scott Harrison, một chuyên viên phẫu thuật bàn tay có viết rằng: lần nào giải phẫu ông cũng đều kêu lên vào một lúc nào đó: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”.  Ông có thói quen lạ lùng nầy từ hồi ông còn ở Việt Nam.  Một đêm nọ, vừa mới rời trường Y, ông được kêu đi gắp một viên đạn bị kẹt trong tay một người lính.  Đã vậy, ông còn phải giải phẫu dưới ánh sáng của ngọn đèn pin.  Cuộc giải phẫu ấy khiến ông cảm xúc sâu xa đến nỗi sau khi cuộc chiến kết thúc, ông đã quyết định đi chuyên ngành giải phẫu bàn tay.  Nhờ đi sâu vào lãnh vực chuyên môn nầy, ông đã thẩm định được cách sâu sắc cơn đau khủng khiếp do một vật gây ra, chẳng hạn như một viên đạn, khi vật ấy xuyên thủng lớp xương, lớp gân và những sợi dây thần kinh nơi bàn tay con người.  Nhà phẫu thuật ấy kể rằng ông thường giật thót người mỗi lần nghĩ đến cơn đau kinh khiếp Chúa Giêsu phải chịu khi đôi tay Ngài bị đóng đinh vào thập giá.

Khi chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay, ông nói rằng theo ông, tiếng kêu “lạy Chúa là Thiên Chúa của con” của Thánh Tôma không chỉ là một lời tuyên xưng đức tin, mà còn là tiếng kêu đầy rung động khi vị tông đồ nhìn thấy dấu vết của đôi bàn tay bị xé toạc ra của Chúa Giêsu.  Chỉ đến lúc đó, Tôma mới hoàn toàn nhận thức được cơn đau đớn Chúa Giêsu đã phải chịu trên thập giá.  Theo nhận định của nhà phẫu thuật, khám phá nầy hầu như vượt quá mức chịu đựng của Tôma.  Và ông đã kết thúc bản văn đầy cảm động đó với lời chứng sau đây: “Mỗi lần giải phẫu mà nhìn phía dưới làn da của bàn tay con người, tôi luôn nhớ tới Chúa Kitô đã hy sinh đôi tay toàn hảo của Ngài cho tôi, và cũng như Tôma, tôi thốt lên: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”.

********************************************

Câu chuyện trên làm nổi bật một điểm thuộc về đức tin mà chúng ta rất thường hay quên.  Đó là mỗi người chúng ta phải tiếp xúc trực tiếp với Chúa Giêsu qua đức tin.  Không phải vì cha mẹ, họ hàng, bạn hữu chúng ta tin nên chúng ta tin theo.  Đức tin của họ giúp ích cho chúng ta rất nhiều, nhưng chỉ như thế mà thôi thì chưa đủ.  Chúng ta phải tiếp xúc trực tiếp bằng đức tin với Chúa Giêsu giống như nhà phẫu thuật trong câu chuyện, hoặc giống như Thánh Tôma trong Tin Mừng hôm nay.  Ông nghĩ mình có quyền được xem thấy Chúa sống lại như các anh em khác.  Các tông đồ kia lúc đầu cũng chẳng ai tin Chúa đã sống lại.  Các ông chỉ tin sau khi được tiếp cận với Chúa Giêsu, được sờ đến thân xác Ngài, được ăn uống với Ngài.  Vì thế, Tôma thấy mình thiệt thòi và thua kém.  Cho nên ông cương quyết không chịu tin lời anh em kể lại và ông đòi phải được sờ vào những dấu đinh ở tay Ngài.

Ông Robert Cleath, một tác giả viết sách đã trở lại với đức tin khi ông suy niệm về sự biến đổi kỳ diệu đã đến với các môn đệ Chúa Giêsu vào dịp lễ Phục Sinh.  Trước biến cố nầy, họ là đám người thất vọng thảm bại, thế mà sau biến cố nầy, họ đã được biến đổi kỳ diệu và còn có năng lực làm phép lạ nữa.  Ông nói: “Không có cách giải thích nào hữu lý về sự biến đổi của họ hơn là sự giải thích của chính họ: đó là vì họ đã nhìn thấy Chúa Giêsu hiện đang sống”.

Blaise Pascal, nhà thiên tài toán học, được hấp dẫn đến với đức tin khi ông suy niệm về sự kiện, không có sự đe dọa giết chóc nào có thể ngăn cản các môn đệ Chúa Giêsu nói thật to cho thế giới biết rằng, Chúa đã sống lại.  Pascal nói ông tin chắc chắn vào kẻ nào dám sẵn sàng chịu “chém đầu” vì lời rao giảng của mình.

Trong cuốn sách mang tựa đề “Ngang qua thung lũng sông Kwai”, Ernest Gordon đã kể lại câu chuyện hai ngàn tù binh đã bị chết vì bệnh tật và vì bị đối xử tàn tệ.  Thế nhưng, họ được lôi cuốn đến với đức tin qua cảm nghiệm riêng tư về quyền năng Chúa Giêsu đang hoạt động trong cuộc sống của họ.  Chúng ta hãy nhớ lại những tù binh nầy từng lao động đầu trần chân đất dưới cơn nóng cháy da miền nhiệt đới.  Trong chỉ vài tuần lễ, từ những người đàn ông lực lưỡng, họ đã biến thành những bộ xương biết đi.  Tinh thần họ bị xuống đến mức tệ nhất.  Người ta lo sợ sắp có điều gì xảy ra.  Thế nhưng vào ngay thời điểm ấy, hai tù nhân đã đứng lên tổ chức nhóm tù còn lại thành những nhóm tìm hiểu Kinh Thánh.  Nhờ suy tư tìm hiểu Kinh Thánh, các tù nhân đã học biết rằng Chúa Giêsu Phục Sinh đang ở giữa họ.  Họ chỉ việc tiếp xúc với Ngài.  Và sau khi tiếp xúc với Ngài, các tù nhân đã được biến đổi kỳ diệu trong cuộc sống từng người.  Chính cảm nghiệm thiêng liêng nầy khiến họ quỳ gối xuống thưa Chúa Giêsu “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”.

Chúng ta cũng phải biểu lộ niềm tin trực tiếp vào Chúa Giêsu như thế.  Chúng ta cũng phải tìm được lý do riêng tư thôi thúc chúng ta quỳ gối xuống thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”.  Dĩ nhiên chúng ta không thể leo lên cỗ máy thời gian, bay ngược dòng lịch sử cách đây hơn 2000 năm để dự lễ Phục Sinh đầu tiên.  Chúng ta cũng không thể đặt ngón tay vào lỗ đinh nơi tay Chúa Giêsu giống như Thánh Tôma.  Vậy thì chúng ta có thể làm gì?

Chúng ta có thể làm như những tù nhân ở bờ sông Kwai.  Chúng ta có thể tin vào Tin Mừng, có thể tiếp xúc với Chúa Giêsu bằng đức tin, có thể cảm nghiệm được Chúa Giêsu Phục sinh đang ngự giữa chúng ta: Ngài sẵn sàng giúp đỡ chúng ta như Ngài từng giúp đỡ đám tù binh nọ.  Đây là lời mời gọi mà Tin Mừng hôm nay dành cho chúng ta.  Đây là lời mời gọi Chúa Giêsu ngỏ với chúng ta như Ngài nói với Thánh Tôma: “Tôma, vì con đã thấy nên con mới tin, nhưng phúc cho kẻ nào không thấy mà tin”.

Khi Chúa Giêsu nói với Thánh Tôma: “Phúc cho ai không thấy mà tin” là Ngài đang ngỏ lời với chính chúng ta, cũng như với triệu triệu Kitô hữu trong suốt dòng lịch sử.  Phúc cho chúng ta nếu chúng ta tin vào Tin Mừng.  Phúc cho chúng ta nếu chúng ta tiếp xúc với Chúa Giêsu bằng đức tin.  Thật vậy, phúc cho chúng ta, vì cũng như các tù binh nọ, chúng ta sẽ khám phá được Chúa Giêsu đã sống lại, và hiện đang sống ngay lúc nầy đây giữa chúng ta, và luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta.

Cuối cùng, đức tin còn phải được nuôi dưỡng bằng những dấu hiệu, dấu chỉ.  Không có các bí tích, không có Thánh Thể, chúng ta sẽ tìm đâu ra cơ hội để gặp thấy sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh? Một khi đức tin của chúng ta đã được các dấu hiệu, các bí tích nầy thức tỉnh rồi, thì mọi sự sẽ có thể trở thành dấu hiệu về sự hiện diện của Chúa Kitô: các biến cố, các hoàn cảnh, tha nhân…  Mỗi giây phút đưa chúng ta đến với một cuộc gặp gỡ và chúng ta lại có thể tuyên xưng như Thánh Tôma tông đồ: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”.

Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’

From: langthangchieutim và

Anh chị Thụ & Mai gởi

Thư cảm ơn ĐTC viết từ nhà tù thiếu nìên Los Angeles!

Thư cảm ơn ĐTC viết từ nhà tù thiếu nìên Los Angeles!
Trần Mạnh Trác4/2/2013

 

 

(CNA) – Sau khi nghe tin Đức Giáo Hoàng Phanxicô rửa chân cho các tù nhân vị thành niên, những thanh thiếu niên trong trại giam Los Angeles đã viết thư cảm tạ Ngài vì đã cho họ một niềm hy vọng.

“Cảm ơn ông đã rửa chân cho những người trẻ giống như chúng tôi ở bên Ý”, một tù nhân viết, “Chúng tôi cũng là những người trẻ đã phạm phải sai lầm và Xã hội đã mất hy vọng về chúng tôi, cảm ơn ông đã không bỏ mất hy vọng về chúng tôi. ”
Đức Thánh Cha Phanxicô đã gây xôn xao dư luận sau khi quyết định sẽ cử hành Thánh lễ Thứ Năm Tuần Thánh tại Casal del Marmo là trung tâm giam giữ thanh thiếu niên ở Rome, thay vì ở Vương Cung Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô.

Trong lúc còn lãnh đạo tổng giáo phận Buenos Aires, Ngài (Hồng Y Bergoglio) cũng đã từng cử hành phụng vụ Thứ Năm Tuần Thánh trong một nhà tù, một bệnh viện hoặc một nhà tế bần cho những người bị gạt ra bên lề xã hội.
Đức Thánh Cha đã giải thích lý do với các bạn trẻ ở Casal del Marmo rằng: “Đây là điều Chúa Giêsu đã dạy chúng ta. Vì thế mà đây là những gì Cha làm. Và Cha làm điều đó với tất cả trái tim của Cha. Cha làm điều này bằng trái tim của Cha bởi vì đó là nhiệm vụ của Cha, là một linh mục và giám mục, Cha phải phục vụ các con. “

Ngài nói thêm “Nhưng đó là một nhiệm vụ đến từ trái tim của Cha và là một nhiệm vụ mà Cha yêu thích. Cha thích làm việc đó bởi vì đây là những gì Chúa đã dạy” .

Đức Thánh Cha khuyến khích những người trẻ tuổi ở Rome trở nên tự hiến và hữu ích. “Và như vậy,” Ngài nói , “nhờ giúp đỡ lẫn nhau, chúng ta sẽ làm tốt cho nhau.”
Ngay trước khi rửa chân cho họ, Đức Giáo Hoàng xin các bạn trẻ tự đặt câu hỏi với chính mình: ‘Tôi thực sự sẵn sàng giúp đỡ người khác chưa?’
Theo gương Đức Thánh Cha, những thành viên của một tổ chức mục vụ cho thanh thiếu niên bị bỏ tù, hội ‘Sáng kiến Phục hồi Công lý cuả dòng Tên’ (the Jesuit Restorative Justice Initiative) đã rửa chân cho những trẻ vị thành niên ở nhà tù LA và đọc những lá thư đáp ứng cuả họ gửi cho Đức Giáo Hoàng trước nghiã cử cuả Ngài.

Một tù nhân cho biết, gương của Chúa Kitô qua việc rửa chân cho Mười Hai môn đệ đã dạy anh ta “một cái gì đó rất khác” so với những gì anh đã được dạy khi lớn lên, là chỉ đạt được sự tôn trọng trong cách “làm tổn thương kẻ thù”.

“Khi Chúa Giêsu rửa chân cho môn đệ của mình, Ngài đưa ra một cái gương về sự khiêm nhường,” tù nhân còn ở độ tuổi vị thành niên đó viết tiếp. “Tôi hy vọng chúng tôi có thể học hỏi từ điều này”.

Một tù nhân cho biết anh ta đã “lớn lên trong một ‘khu rừng’ của băng nhóm ma túy và bạo lực,” anh xin Đức Thánh Cha cầu nguyện cho anh để “một ngày nào đó khi Con được tự do, Con sẽ có thể để giúp đỡ những thanh niên khác như Cha (ĐGH) đã làm.”
Một thanh niên xin cầu nguyện cho “tất cả các nạn nhân bạo lực” đặc biệt là các gia đình của những người mà anh và các tù nhân khác “đã làm tổn thương.”

Hành động cuả Đức Giáo Hoàng sẽ khuyến khích cuộc chiến chống lại nạn nghiện ngập, một thiếu niên viết,
“Ma tuý là một phần đời sống cuả tôi từ rất lâu,” thiếu niên đó viết, “Nhưng ông (ĐGH) đã truyền cảm hứng cho tôi và tôi hứa là sẽ tỉnh táo và giúp đỡ người khác vượt qua các cơn nghiện độc ác của crystal meth”.

Một số tù nhân cảm ơn Đức Giáo Hoàng trong việc lựa chọn tên Phanxicô để noi gương thánh Phanxicô Assisi.
“Ngài (thánh Phanxicô) là một người hòa bình và đơn giản,” lá thư xin Đức Giáo Hoàng “cầu nguyện cho khu phố đầy băng đảng của chúng con có hòa bình.”
“Tôi chưa bao giờ được đến Rome”, một thanh niên viết cho Đức Thánh Cha, “Tôi không biết nó có ở gần Los Angeles không bởi vì tất cả đám thanh niên chúng tôi chỉ biết đến khu phố của mình mà thôi.” Anh cho biết hy vọng một ngày nào đó nhận được một ” cơ hội thứ hai ” và có lẽ nhận được “phép lành” từ Đức Giáo Hoàng Phanxicô.

Một thiếu niên nghĩ rằng Đức Thánh Cha phải “ở một gia đình tốt” và thừa nhận rằng “gia đình cuả Em đang đau khổ nhiều vì Em.”

“Em biết Em đã làm nhiều điều tồi tệ, nhưng Em không phải là một đứa trẻ xấu đâu”, bức thư viết.
Một thiếu niên xúc động về việc Đức Giáo Hoàng “hiểu rằng chúng Em có thể thay đổi và muốn thay đổi “, điều nó “giúp chúng Em” giúp đỡ người khác án giam khắc nghiệt nhất cho một trẻ vị thành niên ở Ý là 20 năm, một tù nhân ước ao rằng “điều đó trở thành một sự thật ở đây,” anh thêm rằng anh “hãnh diện” là một người Công giáo “bởi vì tôi có một giáo hoàng tuyệt vời như Đức Thánh Cha !!!”

Một kỷ niệm về niềm tin từ câu Tin Mừng Ga 13:13

Một kỷ niệm về niềm tin từ câu Tin Mừng Ga 13:13

Tác giả: Hoàng Ngọc Tấn

nguồn:thanhlinh.net

Tôi còn nhớ năm 1979, lúc đó tôi đi học chuyên ngành để ra đi làm. Trong chương trình học có một môn học mà bài học mở đầu nó mang một tựa đề rất dài, mãi cho đến giờ tôi vẫn còn nhớ từng chữ từng lời: “ Không phải Thượng đế tạo nên con người nhưng chính con người đã dựng nên Thượng đế: Thượng đế chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng của con người.” Để truyền đạt bài học này, người ta đã mời một người thầy của một trường lớn ở xa về. Bằng một kiến thức rộng, nhất là về khoa học, người thầy đó đã thuyết phục các học viên rằng không có thượng đế hiện hữu và thượng đế chỉ là sản phẩm trí tưởng tượng của con người.

Không biết bây giờ người ta đã thay đổi chương trình học hay chưa, nhưng những năm sau năm 1975 thì những ai từng học đại học và trung học nghề đều phải trải qua cái bài học này. Những người trẻ chuẩn bị đi vào đời đã được trang bị những kiến thức như vậy.  Lúc đó bản thân tôi cũng chưa có gì gọi là niềm tin; chỉ có một lòng tự ái nổi lên vì mình cũng là dân Công giáo, là Catholic vậy mà người ta bảo rằng không có Thượng đế, không có Thiên chúa trong cái vũ trụ này; thế thì những truyền thống Công giáo mà mình đang thực thi đây là vô nghĩa sao? Và lúc đó thầm trách mình sao chưa đủ kiến thức để thấu đạt mọi vấn đề.

Đó là chuyện đã qua của ngày xưa.

Lúc đó sống ở môi trường tập thể. Sinh hoạt văn hóa những năm đó thật nghèo nàn, muốn tìm cái gì đó đáng đọc thì cũng chẳng có gì để mà đọc. Gia tài tình cờ may mắn có được quyển Tân Ước nho nhỏ mà truớc năm 1975 người Tin Lành thường hay phát không trong các bệnh viện. Thế rồi những lúc rảnh rỗi cũng cầm lên đọc, và đọc cũng chỉ để mà đọc. Đọc dần thuộc rất nhiều, nhận ra sự giống nhau và khác nhau giữa các quyển tin mừng, nhất là sự khác biệt của tin mừng thánh Gioan. Sau này mới được biết trong giáo hội đã có tư tưởng ví tin mừng thánh Gioan như cánh phượng hoàng bay vút trên cao. Có lẽ vì là người môn đệ được Chúa thương yêu nhiều nhất nên điều này đã góp phần để thánh nhân cảm nhận được cái sâu thẳm, cao vời mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa nhập thể làm người và toát lên trong quyển tin mừng thứ tư tuyệt vời này. Và một ngày nọ trong lúc đọc đến tin mừng thánh Gioan đoạn 13:13 mà nguyên văn được dịch là: ” Các con gọi ta bằng Thầy bằng Chúa, các con nói phải vì ta chính thật là như vậy.”. Có thể đoạn tin mừng ấy đã đọc qua nhiều lần nhưng chỉ lần đó một cảm giác kỳ lạ tràn ngập tâm hồn mình, một sự giật mình để thốt lên trong lòng rằng: Vậy là Chúa có thật sao?; và cũng tự mình trả lời:”Phải rồi Chúa là có thật rồi.” Nếu ai từng đọc tin mừng của thánh Gioan; đọc một mạch từ đầu chương 13 đến cuối chương 17, tức là từ đầu đến cuối bữa tiệc ly sẽ luôn cảm nhận nơi những đoạn tin mừng này toát lên cái man mác của tâm tình biệt ly, cái vời vợi của bao nhiêu nổi niềm mà Chúa Giêsu muốn chia sẻ cùng các môn đệ của Ngài-những người đã đi theo Chúa với một tấm lòng mà có thể chưa hiểu nhiều về sứ mạng của Ngài. Một chí sĩ đã có câu rằng: “Con chim sắp chết hót tiếng bi thương. Con người sắp mất nói lời tâm huyết.” Một lát nữa đây Chúa Giêu Ngài sẽ một thân một mình bước vào cuộc thương khó, còn các môn đệ thì tan tác. Rồi đây các ông sẽ không còn được nhìn thấy Chúa thường ngày nữa. Thầy trò sẽ không còn cùng nhau rong ruổi trên những nẻo đường của đất Palestina để truyền giảng tin mừng nữa rồi. Bữa tiệc này là bữa tiệc sau cùng, bữa tiệc của biệt ly. Chính trong bối cảnh đó Chúa Giêsu đã khẳng định lại một điều quan trọng mà ơn của Chúa vào thời điểm đọc đoạn tin mừng đó đã tuôn đổ, khai sáng, đánh động để lòng mình cảm nhận ra một cách trọn vẹn rằng Chúa là có thật và để những năm tháng sau này khi đọc hoặc nghe đoạn tin mừng trên lòng lại bồi hồi, rưng rưng nhớ lại là từng có một thuở Chúa đã dùng đoạn tin mừng trên để cho mình sự nhận biết về Ngài.

Và những dòng này đã được viết ra:

“ Con muốn khóc vì tràn đầy vui sướng

Con muốn ca lên vang dậy cả núi đồi

Con thổn thức vì tin, yêu, hy vọng

Con xao xuyến tâm hồn vì Chúa đã thương con.”

Trong đời sống tập thể những năm tháng ấy, tôi cũng chứng kiến có người từng hung hăng trong vô tín, thành khẩn, lâm râm với nén nhang trên tay trước một chuyến xe đi xa mà có lần đã suýt chết. À thì ra trước cái may rủi mong manh của đời người, trước cái chết người ta cũng run sợ; cũng cảm nhận ra cái gì đó linh thiêng vượt trên giới hạn của con người.

Niềm tin là một hồng ân của Thiên Chúa, là món quà cho không của Ngài dành cho con người. Niềm tin cũng là cả một tiến trình trải nghiệm, cảm nghiệm qua những biến cố, những sự kiện xẩy ra trong cuộc đời của mỗi người, rồi soi rọi nó dưới ánh sáng của tin mừng, của lời Chúa. Niềm tin cũng sẽ chỉ đến đối với những ai trải lòng mình ra một cách đơn sơ, chân thành để đón nhận.

Vậy thì trước những luận thuyết phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa cho rằng Ngài không tồn tại trong cái vũ trụ này bạn và tôi ta cùng cứ trải lòng mình ra để đón nhận, để tìm hiểu về cuộc đời của một con người mang tên là Giêsu cùng với những tư tưởng, giáo huấn của Ngài. Ngài là một nhân vật có thật trong lịch sử, sinh ra ở miền đất Palestina vào đầu công nguyên. Nhưng có một điều rất quan trọng, vô cùng quan trọng. Đó là Ngài không đơn thuần chỉ là con người. Ngài là con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Ngài đã chịu nhiều nhục nhằn bất công mà đáng ra Ngài chẳng cần phải chịu. Chỉ vì tình thương đối với con người, những con người mà Ngài đã nhào nặn nên từ bụi đất đó, Ngài đã cam chịu chết để bạn và tôi cùng được cứu, cùng được có diễm phúc được làm con, làm bạn hữu với Ngài. Rồi từ trong cõi chết Ngài đã sống lại để những ai tin vào Ngài cũng có được niềm hy vọng sẽ sống lại trong quê hương của chính Ngài. Rồi trong suốt hai ngàn năm qua, Giáo hội mà Ngài đã gầy dựng nên ấy, Giáo hội đó có sự thánh thiện và cũng có khiếm khuyết, những khiếm khuyết mà những tư tưởng muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi thế giới này đã dùng nó để làm lung lạc niềm tin ngay cả đối với những người đã tin vào Ngài. Cũng trong suốt hai ngàn năm qua, đã có biết bao con người dành trọn cuôc đời mình dấn bước ra đi vun đắp niềm tin về Ngài nơi những người anh em đồng loại của mình.

Với sự trải lòng mình ra để đón nhận Đức Giêsu Ki-tô và tìm hiểu về cuộc đời của Ngài như vậy; qua thời gian, qua tiến trình được vun đắp, một niềm tin sẽ dần lớn lên trong tâm hồn của bạn và tôi. Rồi một ngày nào đó trong tương lai chúng ta lại nghe nói đâu đó trong cái thế giới này có ai đó đưa ra luận thuyết này, luận thuyết nọ bảo rằng không có Thượng đế, không có Thiên chúa trong cái thế giới này đâu. Có thể khi đó bạn và tôi ta sẽ chỉ mỉm cười mà trong lòng mình tràn ngập bình an, mạnh mẻ tự nhủ rằng: “Điều mà người ta nói đó chẳng có nghĩa gì với tôi đâu, chẳng làm bận lòng, chẳng làm lung lạc được tôi đâu; bởi vì chính tôi đã gặp được Ngài rồi. Tôi đã gặp được Ngài trong những giây phút nguyện cầu; đã gặp được Ngài và nhận ra Ngài qua những biến cố, những sự kiện trong cuộc đời của chính bản thân tôi; rồi mai này tôi cũng mang một niềm tin, một niềm hy vọng sẽ gặp lại được Ngài ở buổi họp mặt sau cùng đầy vinh hiển và vĩnh cửu trong quê hương của chính Ngài.”

Khi Stephen Hawking nhà vật lý học nổi tiếng trình bày trong cuốn “ Sự thiết kế Vĩ đại” rằng vũ trụ này đã được hình thành dựa trên những quy luật, những định luật vật lý mà không cần có bàn tay của Thiên Chúa; người ta lại nhao nhao lên rằng: Đấy bác học Stephen Hawking lỗi lạc đã bảo là không có Thiên Chúa trong vũ trụ này đâu!

Có một em bé mà vào dịp lễ Giáng sinh, đứng bên cạnh hang đá Bêlem nhìn vào trong đó; nơi có máng cỏ, có Chúa Hài Đồng. Dưới cái nhìn của em bé đó thì Thiên Chúa Ngài cũng đơn sơ, thân thương, gần gủi qua hình hài trẻ thơ bé nhỏ như vậy. Rồi đứa bé đó thầm thì bên tai Chúa Hài đồng những ao ước của mình, những ao ước có lẽ cũng đơn sơ như chính tâm hồn của nó hiện giờ.

Và cũng có một cụ già; cụ chẳng biết gì về khoa học, chẳng biết gì về những triết thuyết phức tạp của con người. Từ mấy mươi năm nay cụ đã được truyền đạt và tiếp nhận rằng có một Chúa cứu thế Giêsu người Nazarét đã chết cho cụ và cho mọi người. Cũng từ mấy mươi năm nay cụ vẫn hằng liên lỉ nguyện cầu với đấng Cứu thế ấy. Giờ đây ở buổi xế chiều của thân phận con người, cụ vẫn mong, vẫn tin sẽ gặp được Đấng mà cụ vẫn tôn thờ.

Dưới ánh nhìn của Thiên Chúa, một Stephen Hawking lỗi lạc được ngưỡng mộ kia có thể lại không bằng cụ già hay em bé đây đã có cái nhìn đơn sơ về Thiên chúa nhưng tin cậy nơi Ngài. Niềm tin vào Thiên Chúa luôn gặp nhiều thách thức từ bên ngoài nhưng cũng chính điều này càng làm cho niềm tin ấy trở nên có giá trị và được chúc phúc.

Một niềm tin mà chính vì nó chúng ta đã hiện diện trong cái thế giới này, có mặt trong cuộc đời này như lời của Đức Thánh Cha Gioan XXIII cũng là Chân phước Giáo hoàng Gioan XXIII đã viết trong “Nhật ký tâm hồn” của ngài: “Sống ở đời chỉ là để nhận biết, để yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa mà thôi.” Và lời này cũng có thể trở nên là một trong nhiều câu trả lời mà Kytô giáo có thể dành cho khoa học, dành cho triết học về cái trăn trở ngàn đời của con người: Chúng ta là ai? -Chúng ta từ đâu tới?- Chúng ta sống để làm gì? -Chúng ta đi về đâu?.

Hoàng Ngọc Tấn