TUYÊN XƯNG, SỐNG VÀ LÀM CHỨNG CHO ĐỨC TIN

TUYÊN XƯNG, SỐNG VÀ LÀM CHỨNG CHO ĐỨC TIN

ĐGM. Giuse Nguyễn Năng

  1. Không một tôn giáo nào có một lịch sử kỳ lạ như Kitô giáo.  Quả vậy, không một tôn giáo nào bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương như Kitô giáo; và cho dù bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương, Kitô giáo không hề bị tiêu diệt, trái lại vẫn không ngừng tăng trưởng cả về phẩm chất lẫn số lượng.  Đó là những bí ẩn của lịch sử không thể lý giải bằng lý lẽ tự nhiên, nhưng chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng của niềm tin.

Quả vậy, ngay từ những năm tháng đầu tiên loan báo Tin Mừng, Hội Thánh đã trải qua 300 năm bị bách hại dưới thời các hoàng đế Roma.  Rồi từ đó, Phúc Âm được rao giảng ở đâu, thì ở đó không sớm thì muộn, các Kitô hữu cũng bị bắt bớ và giết chết, Hội Thánh bị bách hại và loại trừ.  Lịch sử Hội Thánh là một lịch sử đầy những cuộc tử đạo, ở khắp mọi miền trên thế giới, vào hết mọi thời kỳ trong lịch sử.

Ngay trong thời đại chúng ta, trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI này, nếu tính tổng cộng tất cả các Kitô hữu, gồm Công giáo, Chính thống, Anh giáo và Tin lành, thì hằng năm có khoảng 170.000 người tử đạo, 200.000.000 người chịu bách hại vì đức tin Kitô giáo.

Trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này, 117 vị thánh đã được phúc tử đạo trong một giai đoạn bách hại kéo dài đúng 117 năm, tính từ hai vị tử đạo tiên khởi vào năm 1745 đến vị cuối cùng vào năm 1862, qua các triều đại vua Lê chúa Trịnh, Tây Sơn và các triều nhà Nguyễn.  Đó là chưa kể chân phước Anrê Phú Yên tử đạo vào năm 1644, và hằng trăm ngàn tín hữu chết vì đức tin nhưng chưa được phong thánh.

Bức tranh trên đây là một thực tế, và đó cũng là một điều bí ẩn của lịch sử Hội Thánh.  Các Kitô hữu bị ghét, vì trước hết, chính Chúa Giêsu đã bị ghét và đã chịu tử hình trên thánh giá.  Chúa Giêsu chính là vị tử đạo đầu tiên vì Tin Mừng mà Ngài rao giảng.  Ngài là con đường dẫn đến sự sống đích thực, nhưng thế gian lại yêu sự tối tăm hơn ánh sáng.

Chúa nói: “Vì anh em không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em…  Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em…  Họ chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15, 19-21).  Đơn giản chỉ là thế.  Sâu xa là như vậy.

Tuy nhiên, Chúa đã hứa ở cùng Hội Thánh mọi ngày cho đến tận thế, và Chúa đã tuyên bố không quyền năng nào có thể tiêu diệt Hội Thánh.  “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó.  Nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).

  1. Chúng ta hãy cùng nhau ôn lại đời sống đức tin của các thánh tử đạo Việt Nam để xem các ngài đã tuyên xưng, đã sống và làm chứng cho đức tin thế nào.  Tại sao các Kitô hữu bị ghét bỏ, bị bắt bớ và giết chết?  Các thánh tử đạo đã làm gì?

Các thánh tử đạo bị giết chỉ vì tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu.  Lòng tin ấy biểu lộ qua việc tôn thờ thánh giá Chúa.  Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được!”  Thánh Têôphan Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”

Chắc chắn không phải vì các ngài đã theo đạo Tây mà phản bội tổ quốc và dân tộc.  Các ngài tôn trọng vua quan và hết lòng vì quê hương.  Thánh linh mục Tự đối đáp với quan tòa: “Tôi kính Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ phụ.  Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được.”

Nhiều vị thánh đã ở trong hàng ngũ quân đội bảo vệ đất nước.  Thánh Trần Văn Trung là một binh sĩ, đã bị giết vì khẳng khái tuyên bố: “Tôi là Kitô hữu, tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ.”  Thánh linh mục Khuông từng tuyên bố: “Đạo Giatô không những cấm tín hữu chống lại triều đình, mà còn khuyến khích để họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương an ninh thịnh vượng.”  Yêu nước không có nghĩa là phải thù ghét loại trừ các Kitô hữu và chống lại Kitô giáo.

  1. Lời tuyên xưng của các thánh tử đạo không chỉ là lời tuyên bố trong một khoảnh khắc nhất thời trước khi chết, nhưng đó là hoa trái kết tinh từ một đời sống thấm nhuần Lời Chúa.  Các ngài đã sống đức tin, đã thể hiện Tin Mừng yêu thương trong chính đời sống của mình.

Trước hết, đời sống đức tin của các thánh tử đạo được biểu lộ ngay trong bổn phận hằng ngày của đời sống gia đình.

Dù thời đó, chế độ đa thê vẫn đang thịnh hành trong xã hội Việt Nam, nhưng các thánh tử đạo đã trung thành với giáo huấn một vợ một chồng của Phúc Âm.  Dĩ nhiên có những vị lúc đầu đã không trung thành với lời cam kết hôn nhân, như các thánh Gẫm, binh sĩ Huy, Cai Thìn, quan Hồ Đình Hy… đã có thời gian sa ngã, thế nhưng sau đó tất cả đều biết trở về để vun đắp lại mái ấm gia đình của mình.

Các thánh chu toàn bổn phận nuôi dạy con cái theo tinh thần đức tin.  Thánh Thọ căn dặn các con vào thăm trong tù: “Các con thân mến, cha không còn làm gì giúp các con ở thế gian này được nữa, cha chỉ còn lo chuẩn bị tâm hồn đón nhận những thử thách cuối cùng.  Ý Chúa đã muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố gắng vâng lời mẹ.  Các con lớn hãy nhớ quan tâm săn sóc em mình.  Các con nhỏ phải biết kính trọng vâng lời anh chị.  Hãy thương yêu nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ.  Hãy nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hằng ngày.  Chúa trao cho mỗi người một thánh giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên trung giữ đạo.”

Về phần thánh Anê Lê Thị Thành, vị thánh nữ duy nhất trong số các vị tử đạo, người con gái thứ hai của ngài là cô Anna Năm xác nhận: “Bố mẹ chúng tôi chỉ gả các con gái cho những người thanh niên đạo hạnh.  Sau khi tôi kết hôn, mẹ tôi thường đến thăm chúng tôi và khuyên bảo những lời tốt lành.  Có lần mẹ dạy tôi: “Tuân theo Ý Chúa, con lập gia đình là gánh rất nặng.  Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ chồng.  Hãy vui lòng nhận thánh giá Chúa gửi cho.”  Người cũng thường khuyên vợ chồng tôi:“Hai con hãy sống hoà hợp, vui vẻ, đừng để ai nghe chúng con cãi nhau bao giờ.”

Kế đến, sống đức tin là sống Tin Mừng yêu thương.

Thánh y sĩ Phan Đắc Hòa rộng tay giúp người nghèo khổ, riêng bệnh nhân túng thiếu, không những ông chữa bệnh miễn phí, lại còn giúp tiền giúp lúa.  Thánh Martinô Thọ nói: “Công bằng chưa đủ, phải có bác ái nữa, mà muốn thực thi bác ái phải có điều kiện”, nên ngài trồng thêm vườn dâu kiếm tiền giúp người thiếu thốn.  Người cùng tử đạo với ngài là Gioan Cỏn từng mạnh dạn đấu tranh cho người nghèo chống lại chính sách đòi sưu cao thuế nặng.  Thánh Năm Thuông là ân nhân của viện cô nhi trong vùng. Còn thánh Trùm Đích thường xuyên thăm viếng trại cùi và sẵn sàng nuôi người mắc bệnh dịch tại nhà mình.

 Điều quan trọng trong đời sống đức tin của các thánh tử đạo là lòng tha thứ.

Nếu lòng anh dũng giúp các vị tử đạo bình thản đón nhận cái chết không run sợ, không quỵ lụy khóc than, thì chính lòng bao dung thứ tha mới là đặc tính phân biệt vị tử đạo với những vị anh hùng vì lý do khác.

Các tín hữu chỉ thực sự chết vì đạo nếu biểu lộ được tình yêu, lòng nhân ái, sự bao dung của Tin Mừng.  Các vị chắc chắn không đồng ý với bản án bất công của triều đình, nhưng như Đức Giêsu trên thánh giá vẫn cầu nguyện cho quân lính giết hại mình, các chứng nhân tử đạo vẫn tiếp tục yêu thương vua quan, và những người hành xử mình.

Khi viên quan nói: “Tôi phải theo lệnh vua, đừng giận tôi nhé”, linh mục Théophane Ven đáp: “Tôi chẳng ghét gì ai cả, tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho quan.”  Thánh Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá lên cười khi ngài đọc: “Cầu Chúa Giêsu, xin cho các quan trị nước cho yên, càng ngày càng thịnh.”

 Lời tuyên xưng và đời sống đức tin của các thánh tử đạo đã làm trổ sinh hoa trái phong phú trên quê hương Việt Nam thân yêu này.  Chính đời sống của các thánh tử đạo đã cảm hóa và chiếm được tình cảm của bà con hàng xóm.  Dù triều đình nhà Nguyễn ra chiếu chỉ bách hại, bà con hàng xóm vẫn tỏ dấu hiệu thân ái với người công giáo.

Thánh linh mục Vũ Bá Loan là niên trưởng 84 tuổi, được mọi người kính trọng gọi bằng “cụ”, ngài không bị đánh đòn; và trong ngày xử, mười lý hình chạy trốn, đến người thứ mười một, đã lịch sự xin phép: “Việc vua truyền cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho.  Cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái.  Khi về trời cụ nhớ đến cháu nhé.”  Trong vụ án thánh linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: “Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức, thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi.  Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quí cụ.”

Hơn nữa, ngay trong lúc bị giam tù, các ngài đã đưa hằng trăm người đến với Chúa.  Và từ đó đến nay, hạt giống Tin Mừng không ngừng lớn lên trong đất nước này.  Tin Mừng như men đang thấm vào mọi sinh hoạt xã hội để đưa thế gian đi theo con đường của chân lý Phúc Âm.

Là con cháu các thánh tử đạo, chúng ta hãy phát huy gia sản đức tin mà cha ông đã để lại cho chúng ta.  Đức tin ấy đã lớn lên trong máu và nước mắt, trong hy sinh và gian khổ.  Bao nhiêu thế hệ đã nằm xuống để chúng ta được trung kiên với đức tin tông truyền.

Ngày nay, tuy không còn phải chịu những đau thương dữ dằn như trong quá khứ, nhưng chúng ta đang phải đối diện với một cuộc tấn công khác có thể còn nguy hiểm gấp bội, đó là sức mạnh của tiền bạc, địa vị, khoái lạc, tự do buông thả.  Những sức mạnh này đã làm cho bao nhiêu tín hữu gục ngã, đã lôi kéo bao nhiêu Kitô hữu rời xa Hội Thánh, đã làm cho biết bao người quên Thiên Chúa.

Chúng ta hãy bắt chước các thánh tử đạo tuyên xưng đức tin một cách xác tín, ý thức.  Chúng ta có thể nói như thánh Phaolô không: “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (2Tm 1, 12)?  Hãy để cho lòng tin vào Chúa thấm nhuần và biến đổi cuộc sống chúng ta, để tất cả mọi hành vi, ứng xử, chọn lựa, thái độ, của chúng ta luôn tỏa chiếu sức mạnh của Tin Mừng và tạo nên một sức hấp dẫn đối với những người chung quanh để đưa họ đến với Chúa Giêsu Cứu Thế.

ĐGM. Giuse Nguyễn Năng

From Langthangchieutim

Nếu không có Đảng, không có Bác thì làm gì

Dang Tuong
Nhiều người hay trách DLV là bọn đầu tôm hay là bọn bị nhồi sọ nặng nhưng tôi thấy có những cái họ phát biểu rất chính xác. Trong số các câu nói bất hủ mà DLV đưa ra khi bảo vệ quan điểm của mình, thì câu nói tôi ưng nhất là: Không có Đảng, không có Bác Hồ thì làm gì có Việt Nam hôm nay.

Quả thật câu này nó chính xác đến 100%, cố tìm cũng chẳng thấy tý tẹo cái sai nào trong đó. Hãy nhìn cái cách hiện tại mà người Việt Nam đối với người Việt Nam, hay cái nhìn khinh khi của người dân các nước có người Việt Nam đến lao động, học tập và sinh sống là chúng ta thấy câu nói ấy nó giá trị thế nào.

Nếu không có Đảng, không có Bác thì làm gì có một Việt Nam lẹt đẹt trên các bảng xếp hạng của thế giới, làm gì có một Việt Nam không sản xuất nổi con ốc vít hay phải nhập cả cái tăm xỉa răng.

Nếu không có Đảng, không có Bác thì làm gì có một Việt Nam nổi tiếng với việc xuất khẩu culi và gái điếm, nổi tiếng với nạn trộm cắp, giết, hiếp xảy ra hằng ngày như cơm bữa trên mảnh đất hình chữ S này.
Nếu không có Đảng, không có Bác thì làm gì có lãnh đạo lương tuy không quá 15 triệu/tháng mà ông nào cũng nhà lầu, xe hơi, cũng con du học nước này, nước nọ. Không có Đảng, không có Bác thì làm gì có chuyện mỗi người dân được vinh dự gánh 1200 đô tiền nợ công, 432 loại thuế phí, và vô số các chiêu trò bóc lột khác.

Nếu không có Đảng, không có Bác thì làm gì chúng ta có con đường đắt nhất hành tinh, rồi tới đây là tháp truyền hình cao nhất thế giới, hay việc biển đảo ngày càng mất dần vào tay Trung Cộng.

Tôi cố liệt kê, nhưng liệt kê mãi cũng không hết những cái mà nhờ có Đảng, có Bác mới có một Việt Nam như ngày hôm nay trên bản đồ thế giới. Cảm ơn các bạn DLV đã thông não, đã cho tôi được sáng mắt, sáng lòng.
Quả thực công ơn trời biển của Đảng, của Bác không một lời lẽ hay bút mực nào có thể tả hết được, nói gì đến một thằng ngu lâu, dốt bền, lại khó cải tạo như tôi đây.

Tác giả: Nhân Thế Hoàng.

Image may contain: 3 people, meme and text

9.000 tiến sĩ để làm gì ?

Phan Thị Hồng is with Hoang Le Thanh and 2 others.
9.000 tiến sĩ để làm gì ?

Các đề án đào tạo tiến sĩ đại trà đã thất bại.

Đề án 322 (năm 2000) 20.000 tiến sĩ
Đề án 911 (năm 2010) 23.000 tiến sĩ.

Mới đây – Đề án (năm 2017) – 9.000 tiến sĩ.

Liệu “nâng cấp” hàng loạt 9.000 tiến sĩ trong vòng 6 năm, mỗi năm cần ra lò ấp 1.500 tiến sĩ mới đạt chỉ tiêu, thì … lấy đâu ra chất lượng.

Tại các nước phát triển: Không nước nào đào tạo tiến sĩ đại trà.

Bộ Giáo dục và Đào tạo nhận định rằng Việt Nam hiện nay có khoảng:

– 9.000 giáo sư, phó giáo sư,
– 24.300 tiến sĩ

Nhưng kết quả nghiên cứu khoa học của Việt Nam tụt xa so với các nước trong khu vực ASEAN.

Vậy đào tạo đại trà 9.000 tiến sĩ này, họ sẽ làm được gì?

***

Ở các trường đại học danh tiếng trên thế giới, một giáo sư giỏi, cùng lúc có thể hướng dẫn nhiều nghiên cứu sinh, nhưng hàng năm chỉ có thể đào tạo 1 – 2 tiến sĩ với chất lượng chuẩn mực.

Ở VN, nếu một giáo sư giỏi được trao một khoản kinh phí đầy đủ, để họ có thể tăng thu nhập, giảm giờ dậy, mua sắm thiết bị, tham gia hội thảo quốc tế để trau dồi kiến thức, thường xuyên cập nhật được các vấn đề nghiên cứu khoa học “nóng” trên thế giới,…

Nhưng đó là chuyện xa vời. … Liệu VN có chính sách nào để thực hiện được những điều đơn giản nầy.

Việt Nam hiện không có chính sách gì cụ thể để mời các giáo sư, các nhà nghiên cứu tầm cỡ từ nước ngoài về giảng dạy.

Ngoài ra – theo thống kê – số lượng tiến sĩ loại giỏi tốt nghiệp ở nước ngoài về Việt Nam không nhiều.

Rất tiếc, có về nước, họ cũng tìm cách ra đi.

Xin tóm tắc bình luận của Giáo sư Vũ Hà Văn (Đại học Yale, Mỹ):

– “Với chất lượng đào tạo tiến sĩ như hiện nay, bạn sẽ lắc đầu ngao ngán là dù có thêm 9.000, hay 90.000 người, thì cũng vậy thôi”.

Ảnh: Giáo sư Vũ Hà Văn (Đại học Yale, Hoa Kỳ). Trong một dịp về nước, Gs. giảng bài tại Viện Nghiên cứu Cao cấp về Toán học. Ảnh Quý Hiên (Báo Thanh Niên).

Image may contain: 1 person, standing

Hồi kết đảng cộng sản chắc chắn cũng sẽ như tên độc tài bị lật đổ ở Zimbabwe.

Hoang Le Thanh added 3 new photos — with Phan Thị Hồng.
Những tên độc tài thích tự xưng là nhà lãnh đạo.

Chúc Mừng Người Dân Zimbabwe đã được tự do !!!

Hồi kết đảng cộng sản chắc chắn cũng sẽ như tên độc tài bị lật đổ ở Zimbabwe.

Lê Công Định

Nhà độc tài già nua Robert Mugabe vừa bị lật đổ ở Zimbabwe từng luôn nghĩ rằng không có lực lượng chính trị và nhân vật chính trị nào đủ năng lực và uy tín quản lý đất nước … ngoài chính ông ta.

Luận điệu tự huyễn hoặc mình và huyễn hoặc thiên hạ của mọi kẻ độc tài trên khắp thế giới có vẻ giống nhau. Lão đãng ở Việt Nam cũng không khác, luôn cho rằng không tổ chức chính trị nào ngoài “đảng quang vinh muôn năm” có khả năng lèo lái con thuyền đất nước, vì đó là “lựa chọn của lịch sử”(!).

Độc tài như nhau, tham lam như nhau, tàn phá quốc gia như nhau, nguỵ biện như nhau, nên kết cuộc chắc chắn cũng sẽ như nhau.

Ảnh 1: Nhà độc tài Zimbabwe, tổng thống Robert Mugab khi còn quyền hành.

Ảnh 2: Tổng thống Robert Mugabe bị cô lập, mọi kẻ thân cận đều lìa bỏ ông và lên tiếng buộc ông ta từ chức.

Ảnh 3: Người dân Zimbabwe biểu tinh, họ trương biểu ngữ trên đường phố kêu gọi ông Mugabe phải ra đi.

Image may contain: 1 person, hat
Image may contain: one or more people, eyeglasses, hat and text
Image may contain: 6 people

9/11/1977: Sadat đến thăm Israel

 

19/11/1977: Sadat đến thăm Israel

Nguồn: Sadat visits IsraelHistory.com

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Vào ngày này năm 1977, trong một động thái chưa từng có của một nhà lãnh đạo Ả Rập, Tổng thống Ai Cập Anwar el Sadat đã đến Jerusalem để tìm kiếm một giải pháp hòa bình lâu dài với Israel sau nhiều thập niên xung đột. Chuyến thăm của Sadat, trong đó ông gặp Thủ tướng Israel Menachem Begin và phát biểu trước Quốc hội (Knesset), đã bị phỉ báng ở hầu hết các nước Ả Rập.

Mặc cho những lời chỉ trích từ các đồng minh khu vực của Ai Cập, Sadat vẫn tiếp tục theo đuổi hòa bình với Begin, và năm 1978, hai nhà lãnh đạo gặp lại nhau tại Mỹ, nơi họ đàm phán một thỏa thuận lịch sử với Tổng thống Jimmy Carter tại Trại David, Maryland. Hiệp ước Trại David (Camp David Accords), được ký vào tháng 09/1978, đã đặt nền móng cho một hiệp định hòa bình vĩnh viễn giữa Ai Cập và Israel sau ba thập niên chiến tranh.

Hòa ước chính thức – hiệp ước đầu tiên giữa Israel và một trong những nước láng giềng Ả Rập – đã được ký vào tháng 03/1979. Hiệp ước này chấm dứt tình trạng chiến tranh giữa hai nước và thành lập các mối quan hệ ngoại giao và thương mại đầy đủ.

Sadat và Begin sau đó đã cùng nhau nhận giải Nobel hoà bình năm 1978 vì những nỗ lực của họ. Tuy nhiên, những nỗ lực hòa bình của Sadat lại không được đánh giá cao ở thế giới Ả Rập, và ông bị ám sát vào ngày 06/10/1981 bởi những người Hồi giáo cực đoan ở Cairo. Dù Sadat đã qua đời, nhưng tiến trình hòa bình vẫn tiếp tục dưới thời Tổng thống mới của Ai Cập, Hosni Mubarak. Vào năm 1982, Israel đã hoàn thành nghĩa vụ theo Hòa ước năm 1979 bằng cách trao trả lại phần cuối cùng của bán đảo Sinai cho Ai Cập. Hòa ước Ai Cập-Israel vẫn tiếp tục được duy trì tới ngày hôm nay.

Chúng tôi không là Việt Kiều… – Ts Nguyễn Đình Thắng.

Nguồn:  Van Pham
 

Chúng tôi không là Việt Kiều… – Ts Nguyễn Đình Thắng.

Năm ngoái, một cô du sinh Việt Nam theo học chương trình tiến sĩ ở Hoa Kỳ phỏng vấn tôi cho luận án của cô ấy với đề tài: Cách nào để chính quyền Việt Nam đến với Việt kiều ở Mỹ.

“Trước hết hãy ngưng gọi chúng tôi là Việt kiều,” tôi trả lời.

Thấy cô ấy lúng túng, tôi giải thích: “Chúng tôi là công dân Mỹ gốc Việt, không phải công dân của Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.”

Chính quyền Việt Nam muốn xem người Việt ở hải ngoại là công dân Việt mang “hộ chiếu” nước ngoài.

Cứ xem thái độ của Ông Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang của họ thì rõ. Khi gặp Tổng Thống Mỹ Barack Obama ở Toà Bạch Ốc hồi tháng 7 năm ngoái, Ông Sang cảm ơn chính phủ Mỹ đã chăm lo cho các người Việt ở Hoa Kỳ. Đây là lời cám ơn không đúng cương vị. Chính phủ Mỹ lo cho dân Mỹ là việc đương nhiên; hà cớ gì Ông Sang cảm ơn nếu không là muốn nhận vơ chúng tôi là dân của ông ấy?

Nhận vơ như vậy không ổn, vì nhiều lý do.

Những người không còn, hoặc chưa bao giờ mang hộ chiếu CHXHCN VN liệu có phải là Việt Kiều?

Trước hết, rất nhiều người chưa hề một ngày là công dân của nhà nước cộng sản Việt Nam: những người ngoài Bắc di cư vào Nam trước khi đảng cộng sản lập ra Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, và những người trong Nam bỏ nước ra đi trước khi đảng cộng sản ấy xâm chiếm miền Nam.

Kế đến là những người bỏ nước đi tị nạn. Theo định nghĩa của Liên Hiệp Quốc, tị nạn có nghĩa từ bỏ sự bảo vệ của chế độ cầm quyền ở quốc gia nguyên quán. Theo nguyên tắc này, khi chúng ta đang xin hay còn mang quy chế tị nạn mà đặt chân về Việt Nam, dù chỉ để thăm gia đình, thì xem như tự đặt mình trở lại dưới sự bảo vệ của chế độ cầm quyền và sẽ tự động mất tư cách tị nạn. Pháp áp dụng đúng nguyên tắc này trong khi một số quốc gia khác thì nhân nhượng hơn.

Dù không thuộc các thành phần trên, một khi giơ tay tuyên thệ nhập quốc tịch Hoa Kỳ, mỗi người trong chúng tôi đã chính thức từ bỏ quốc tịch Việt Nam. Trước luật pháp Hoa Kỳ, chúng tôi là công dân Mỹ chứ không là công dân của Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Cô sinh viên tiến sĩ xem chừng hiểu ra câu trả lời: “Chúng tôi không là Việt kiều. Chúng tôi là người Mỹ gốc Việt,.”

Tôi giải thích thêm: “Cái gốc Việt ấy cho phép chúng tôi lên tiếng về các vi phạm nhân quyền và một số vấn đế khác nữa ở Việt Nam. Chúng tôi có thân nhân bị đàn áp. Chúng tôi có tài sản bị cưỡng chiếm. Đó là những vấn đề quyền lợi của công dân Mỹ, khi bị xâm phạm thì chính quyền Mỹ có nhiệm vụ can thiệp. Hơn nữa, chúng tôi có sự hiểu biết sâu sắc về hiện tình xã hội Việt Nam để giúp cho sự can thiệp ấy đạt hiệu quả.”

Nói đi thì cũng phải nói lại. Khi nhà nước cộng sản Việt Nam nhận vơ thì lỗi của họ chỉ có phân nửa. Phân nửa còn lại là lỗi của chúng ta.

Gần đây, cộng đồng Việt ở vùng Hoa Thịnh Đốn xôn xao về cuộc phỏng vấn video của một người Việt bị chặn ở phi trường, không được nhập cảnh, khi về thăm nhà ở Việt Nam. Cuộc tranh luận đã bỏ sót một yếu tố quan trọng: Cả hai phía của cuộc tranh luận đứng trên cương vị Việt kiều hay trên cương vị công dân Mỹ?

Khi công dân Mỹ bị gây khó dễ ở phi trường, thì người ấy dứt khoát đòi liên lạc với toà lãnh sự Mỹ ở Việt Nam; nếu bị công an câu lưu “làm việc” thì người ấy tuyệt nhiên không hợp tác cho đến khi đã nói chuyện được với toà lãnh sự Mỹ; nếu bị tống tiền, chèn ép bởi giới chức chính quyền Việt Nam thì cũng báo ngay cho toà lãnh sự Mỹ. Khi về lại Hoa Kỳ thì nạn nhân phải báo động ngay với Bộ Ngoại Giao.

Chính quyền Mỹ có nhiệm vụ bảo vệ công dân Mỹ. Khi nhận được nhiều báo cáo từ các công dân Mỹ bị sách nhiễu, thì chính quyền Mỹ sẽ phải đặt vấn đề với phía Việt Nam.

Nhà nước Việt Nam có dám đối xử tệ với những công dân Mỹ khác đâu, mà chỉ sách nhiễu người Mỹ gốc Việt. Chẳng qua chúng ta cho phép họ làm vậy. Lỗi ấy là của chúng ta.

Thành ra, muốn khẳng định “chúng tôi không là Việt kiều” với nhà nước Việt Nam thì trước hết chúng ta phải tự nhủ và nhắc nhở lẫn nhau: “Chúng ta không là Việt kiều”. Khi người người trong chúng ta ý thức điều này và hành xử đúng cương vị thìnhà nước Việt Nam sẽ phải thay đổi theo. Tôi tin là vậy.

VAWA,Hiệp Hội An Sinh Xã Hội Việt Úc, Vietnamese-Australian Welfare Association, hướng dẫn, giúp đỡ…
VAWANSW.ORG.AU
 
 

Chế độ chia nhau ngân quỹ đút túi, nay hết tiền trả lương… đè dân ra … LỘT….

Nguồn:   Van Pham
Chế độ tuyên truyền “Mỹ-Ngụy bóc lột”. Sao người dân của họ lại được đi học & chăm sóc y tế hoàn toàn miễn phí?

Chế độ CS của dân, sao cứ đè nhân dân ra trấn lột không chừa một thứ gì???!!!!
**************

Chế độ chia nhau ngân quỹ đút túi, nay hết tiền trả lương… đè dân ra … LỘT….

Phí học lại tăng gấp 5 lần, sinh viên bức xúc… có dám xuống đường như sinh viên Hồng Kông???

Dân trí Ngày 2/11, Trường ĐH Quốc tế Hồng Bàng (TPHCM) ban hành quyết định về các khoản thu của trường cho năm học 2015-2016. Ngay khi quyết định ban hành thì nhiều sinh viên của trường bức xúc vì số tiền học lại tăng bất thường, cao gấp 5 lần so với trước.

Theo quyết định số 623/QĐ-ĐHB về việc ban hành danh sách các khoản thu và mức thu năm học 2015-2016 có hiệu lực từ ngày 9/11 của Trường ĐH Quốc tế Hồng Bàng, thì phí học lại đối với hình thức lớp học ghép và mở lớp riêng ở bậc đại học là 600.000 đồng/tín chỉ, cao đẳng 500.000 đồng/tín chỉ; bậc tiến sĩ là 1,5 triệu đồng, thạc sĩ là 1,2 triệu đồng,… Còn đối với những sinh viên (SV) nào có nhu cầu đăng ký học lại khi không có lớp (học theo yêu cầu) thì phải đóng 1,5 -3 triệu đồng/tín chỉ (bậc ĐH).

(Dân trí) – Ngày 2/11, Trường ĐH Quốc tế Hồng Bàng (TPHCM) ban hành quyết định về các khoản thu của trường cho năm học 2015-2016. Ngay khi quyết định ban hành thì nhiều sinh viên của trường bức xúc vì số tiền học lại tăng bất thường, cao gấp…
 
DANTRI.COM.VN
 

Ông Vũ Đức Đam cần xin lỗi quốc hội và dân Việt lẫn nước Đức

 
  
 
 Nguồn:  Thuong Phan shared Vu Hai Tran‘s post
 
 
 
Image may contain: 1 person, eyeglasses and suit
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
Vu Hai Tran added 3 new photos.Follow

 

Ông Vũ Đức Đam cần xin lỗi quốc hội và dân Việt lẫn nước Đức vì đã thông tin sai về mạng xã hội Đức! (Xin cư dân mạng chia sẻ và cùng yêu cầu này).

Ngày 17/11/2017, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nói trên diễn đàn Quốc hội về mạng xã hội. Ông nói vo, được bà Chủ tịch Quốc hội khen hay, cho thêm 10 phút. Ông dẫn nhiều số liệu về mạng xã hội Việt nam và các nước khác, có vẻ các ông bà nghị tin sái cổ. Tuy nhiên một số thông tin ông cung cấp không chính xác.

Hôm qua, trong một STT tôi đã phân tích ông VĐĐ đã sai khi khẳng định Việt nam không thu thuế được từ doanh thu quảng cáo hàng trăm triệu đô la từ Việt nam của hai ông lớn Facebook và Google, vì thực tế các doanh nghiệp Việt chuyển tiền cho hai ông lớn này phải trích trả hộ thuế nhà thầu nước ngoài cho Việt nam.

Đặc biệt ông VĐĐ đã thông tin sai về mạng xã hội Đức, khi ông nói “Chỉ 37% người Đức dùng mạng xã hội, bởi họ biết rằng dùng là bị lấy mất thông tin cá nhân”. Ý nói rằng, dân Việt dễ dãi quá, đua nhau dùng mạng xã hội và bị các hãng cung cấp dịch vụ (chủ yếu của nước ngoài) lấy mất thông tin cá nhân. Tôi không rõ ông Đam lấy số liệu trên từ nguồn nào. Trong khi theo những số liệu chính thức từ nước Đức về người sử dụng Internet và sử dụng mạng xã hội tại nước này như sau:

Năm 2016, có 79% người Đức sử dụng Internet, và 80% số người sử dụng Internet dùng mạng xã hội. (Trong số người sử dụng mạng xã hội, 88% sử dụng Youtube, 87% sử dụng Facebook). Như vậy, trong năm 2016 trên 63% người Đức sử dụng mạng xã hội, năm 2017, tỷ lệ này còn gia tăng. (Xem nguồn http://social-media-atlas.faktenkontor.de/2015/index.php và https://de.statista.com/…/entwicklung-der-internetnutzung-…/)

Có lẽ ông VĐĐ do không biết tiếng Đức, nên không thẩm tra lại con số ” chỉ 37% người Đức sử dụng mạng xã hội”, đúng ra là “chỉ 37% người Đức không sử dụng mạng xã hội” và “có đến 63% người Đức sử dụng mạng xã hội”.

Ông Vũ Đức Đam cần xin lỗi quốc hội và dân Việt lẫn nước Đức vì đã thông tin sai về mạng xã hội Đức!
http://cafebiz.vn/pho-thu-tuong-vu-duc-dam-chi-37-nguoi-duc…

VIỆT NAM LÀ MỘT QUỐC GIA CÓ NHIỀU CON SỐ ĐÁNG GIẬT MÌNH –

Nguồn :  Van Pham
 

VIỆT NAM LÀ MỘT QUỐC GIA CÓ NHIỀU CON SỐ ĐÁNG GIẬT MÌNH –

Phạm Nhật Bình.

Tiền thì đi vào túi các tham quan đầu sỏ và chia chác cho tay chân, bộ hạ, nợ đi vay thì do người dân gánh vác.
————

Con số gần 3 triệu công chức cán bộ trong tổng số 11 triệu người hưởng lương nhà nước (http://vietnamnet.vn/…/bo-bien-che-de-giam-ganh-nang-11-tri…), do ngân sách quốc gia chi trả để phục vụ 95 triệu dân Việt Nam già trẻ lớn bé cho thấy đảng CSVN yêu dân đến… cỡ nào.

Nếu so sánh với Hoa Kỳ là nước giàu nhất nhì thế giới mà chỉ có 1,8 triệu công chức phục vụ cho trên 300 triệu dân, Việt Nam thuộc vào hàng “do dân, vì dân” hạng nhất.

Còn việc công khai đón đường đánh đập công dân là chuyện đùa bỡn của bọn côn đồ có giấy phép hành nghề của Bộ.

Hay số tiền ngót nghét 100 triệu đô-la ngân sách phải chi tiêu để nuôi văn phòng Trung ương đảng năm 2014. Nó làm cho người dân kinh ngạc khi nghĩ đến bao nhiêu trẻ em vùng cao còn đu dây đi học hàng ngày.

Gần đây nhất là con số đông đảo cán bộ viên chức sắp về hưu hăng hái tham gia phái đoàn xuất cảnh nghiên cứu làm du lịch, học tập bán vé số sáng mua chiều xổ cũng là một con số đáng phấn khởi.

Cán bộ ở vào tuổi hoàng hôn của cuộc đời làm đày tớ dân mà còn năng nổ học hỏi như thế, chẳng là phúc đức cho đất nước lắm sao?

Nhưng bên cạnh đó, con số mà ông Tổng thanh tra chính phủ Huỳnh Phong Tranh đưa ra ngày 13/12 trong chương trình “Dân hỏi – Bộ trưởng trả lời”, mới thật sự làm người dân phải giật mình. Theo đó trong năm 2015, ngành thanh tra chính phủ đã thực hiện 40.000 cuộc thanh tra các cấp và đã phát hiện sai phạm 212.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 10 tỷ USD.

Người dân chẳng những giật mình mà còn bàng hoàng chua xót vì con số 10 tỷ đô-la bị bốc hơi chỉ trong vòng 12 tháng ngắn ngủi. Đối với một nước được xếp vào hạng nghèo, vừa chậm phát triển vừa không chịu phát triển như Việt Nam, số tiền 10 tỷ đô-la ấy thật lớn.

Nếu so với ngân sách quốc phòng của Philippines mới công bố, chỉ vỏn vẹn khoảng 500 triệu đô la, người ta sẽ thấy Việt Nam thật sự không nghèo, vì nghèo thì lấy đâu ra để vung vãi một số tiền to đến thế?

Nhưng thử đặt câu hỏi, sau khi đã giật mình: tiền ấy chạy đi đâu hay trốn vào túi ai? Những sai phạm ấy là sai phạm gì, từ đâu ra và ai là người sai phạm?

Câu trả lời đầu tiên cũng thật hiển nhiên vì đã được lặp đi lặp lại hàng triệu lần: chính mạng lưới tham nhũng dầy đặc trong các tầng lớp cán bộ đảng viên từ trên xuống dưới đã thủ đắc nó.

Không thể nói gì khác hơn, tham nhũng từ lâu đã trở thành “chủ trương lớn” của đảng. Chính sách độc quyền chính trị, độc quyền kinh tế của đảng đã tạo ra tham nhũng. Đảng nuôi dưỡng, vỗ béo tham nhũng để phục vụ lợi ích riêng tư của mình.

Chính lợi ích riêng tư này đã vô hiệu hóa pháp luật, triệt tiêu quyền tố cáo của công dân, cho phép các tập đoàn cầm quyền từ thành thị đến thôn quê tha hồ bòn rút của công, ăn cắp ngân sách.

Chỉ cần so sánh tình trạng một nước GDP chỉ đạt 120 tỷ Mỹ kim một năm mà con số thất thoát đã lên đến 10 tỷ Mỹ Kim, chiếm gần 1/10 GDP quốc gia. Nói cách khác, cứ cả nước làm ra 100 đồng thì bị ăn cắp 10 đồng. Kẻ cắp không ai khác hơn là các tầng lớp cán bộ đảng ẩn náu dưới những hình thức gọi là tập đoàn lợi ích để trốn tránh trách nhiệm.

Sự tiêu xài hoang phí của các “đày tớ dân” đã góp phần tạo nên tình trạng nợ nần chồng chất. Trái với những quốc gia nghèo khác vay nợ để đầu tư xây dựng đất nước, kế sách lâu dài của chính phủ Việt Nam là vay nợ để tiêu xài và tiêu xài vung vít, tiêu xài vô tội vạ, vừa tiêu xài vừa ăn cắp.

Họ mạnh tay đầu tư công vào những công trình hay dự án “tầm vóc thế kỷ” để chứng minh tính ưu việt của thời kỳ quá độ tiến lên xã hội chủ nghĩa. Họ hoàn toàn bỏ quên phúc lợi thực tế của người dân, một phần vì các dự án vẽ vời ra chỉ là chủ trương của các phe nhóm tìm cách bòn rút ngân sách.

Tiền thì đi vào túi các tham quan đầu sỏ và chia chác cho đàn em cấp dưới, nợ đi vay thì do người dân gánh vác.

Nhìn vào con số đầu tư cho tượng đài Hồ Chí Minh ở Sơn La trị giá 1 ngàn 400 tỷ hay đồ án Trung tâm hành chính tỉnh Khánh Hòa dự trù chi ra 4.300 tỷ, người dân dù bất mãn nhưng sẽ thấy 212.000 tỷ đồng thất thoát trong một năm cũng không phải không hợp lý.

Còn biết bao tượng đài, trung tâm hành chánh khác của các tỉnh đang lên kế hoạch thì còn đi vay nợ để thực hiện và con số thất thoát sẽ không dừng lại ở đó.

Ngoài ra, Tổng thanh tra chính phủ chỉ đưa ra một con số bị biến đi khơi khơi mà không nói được là ai hay phe nhóm nào đã làm thất thoát. Đồng đô-la chắc chắn không thể mọc cánh bay vào khối tài sản của các quan tham.

Chính vì chế độ trách nhiệm không được đề ra nên “trách nhiệm tập thể” là pháo đài kiên cố nhất để trốn trách nhiệm sau khi đã hoang phí, ăn chia trên sự suy sụp của nền kinh tế. Hay các viên thanh tra nhà nước chỉ nhìn con số trên giấy tờ mà không nhìn thấy con người?

Điều này cũng cho thấy, Ban chỉ đạo chống tham nhũng mà Nguyễn Phú Trọng giật lấy từ tay Nguyễn Tấn Dũng hiện nay cũng chỉ là một trò đấu đá trong nội bộ đảng để giành phần béo bở hơn mà thôi. Nó chẳng phát hiện ra điều gì mới mẻ, đúng như báo cáo của hai thành phố lớn nhất nước: 9 tháng đầu năm không…. tìm thấy tham nhũng.

Có người hỏi một cách không vui: vậy tham nhũng trốn đi đâu? Câu trả lời hợp lý nhất là tham nhũng nay đều là thành viên của các Ủy ban chống tham nhũng trên cả nước.

Nên Việt Nam sẽ còn nhiều con số đáng giật mình hơn chứ không chỉ có một.

Image may contain: text
 
 

KỂ CHUYỆN “LÀM VIỆC” TRONG ĐỒN CÔNG AN: LỜI THOẠI NHƯ PHIM!

Hoa Kim Ngo and 2 others shared Pham Doan Trang‘s post.

Pham Doan Trang

 

KỂ CHUYỆN “LÀM VIỆC” TRONG ĐỒN CÔNG AN: LỜI THOẠI NHƯ PHIM!

Dưới đây là trích lược một vài đoạn đối thoại giữa tôi và các nhân viên an ninh điều tra của Bộ Công an Việt Nam vào ngày 16/11/2017, tại đồn công an phường Cống Vị, sau cuộc gặp gỡ giữa Phái đoàn Liên minh Châu Âu và các nhà hoạt động nhân quyền ở Việt Nam buổi sáng hôm đó.

Tôi ghi lại, bởi thấy chúng… như lời thoại trong phim vậy, và biết đâu chúng có ích cho ai đó khi rơi vào hoàn cảnh tương tự ở đồn công an.

– Chị đến tòa nhà Lotte hôm nay gặp ai, có việc gì?

– Các anh chị hỏi có động cơ gì vậy?

– Chúng tôi hỏi chị đến đó làm gì, chị được người ta mời hay chị tự đến?

– Sao tôi lại phải nói với các anh chị?

– Tại sao chị không nói?

– À, đó là bí mật công tác của tôi đấy.

– Chà, công việc của chị bí mật đến thế cơ à?

– Vâng, bí mật công tác, cũng giống như an ninh quốc gia của đảng nhà các anh chị thôi ấy mà.

– Chị đến đó gặp những ai?

– Tôi đã nói là bí mật công tác mà. Nói đúng hơn là tôi sẽ phản ánh đầy đủ các thông tin đó trong bài viết của tôi. Các anh chị có thể đón đọc, cũng như mọi độc giả khác. Ngoài tòa soạn, không một ai có quyền đọc tác phẩm báo chí trước độc giả cả. Các anh chị cũng chỉ là độc giả mà thôi, các anh chị không có quyền gì để đòi hỏi biết những thông tin đó trước các độc giả khác cả.

– Chúng tôi không phải là độc giả của chị, chị nhé. Đây là ở trong đồn. Và chúng tôi đang làm việc với chị trên tư cách chính quyền làm việc với công dân.

– À, thế là các anh chị cao hơn tôi hả?

– Tôi không nói thế. Chúng tôi nói đây là quan hệ chính quyền với công dân.

– Ý các anh chị là như vậy, các anh chị có thể thích bắt ai về đồn thì bắt, và hỏi gì thì người ta phải trả lời à? Không. Không thế được đâu. Các anh chị quen cái kiểu ấy lâu rồi, nhưng với tôi thì không được đâu. Các anh chị chẳng là cái gì để tôi phải trả lời cả. Ở đây tôi mới là người quyết định có cung cấp thông tin nào đó, cho độc giả, hay không, chứ không phải các anh chị. Các anh chị muốn biết điều gì thì cứ đón đọc bài báo, chứ các anh chị không là cái gì để đòi hỏi được biết thông tin trước các độc giả bình thường cả. Tại sao các anh chị lại có nhu cầu biết trước người khác?

– Chúng tôi chỉ cần những thông tin căn bản thôi, như là chị gặp ai. Đại sứ quán Pháp có dự không?

– Tôi không trả lời đâu.

– Thế có Bỉ không? EU à? Chắc có Đức nhỉ?

– Tôi không trả lời đâu. Đó là công việc của tôi.

– Chị Trang này, tôi không muốn so sánh đâu, nhưng nếu so sánh chị với những người hoạt động thế hệ trước chị thì… nói thế nào nhỉ, xin lỗi nhé, tôi thấy chị có cái gì đó kém hơn. Ý tôi là kém sòng phẳng, kém đàng hoàng, kém cái tinh thần dám làm dám chịu.

– Ồ, anh không phải nói khích. Tôi kém xa nhiều người mà. Nhưng ở đây không phải chuyện dám làm dám chịu, mà đây là vấn đề đạo đức nghề nghiệp. Một trong những nguyên tắc của đạo đức báo chí là phải bảo vệ nguồn tin, các anh chị ạ.

– Chị nói hay nhỉ? Bảo vệ nguồn tin. Vậy đến lúc viết bài thì chị không trích dẫn ở đâu hết, chị bưng bít nguồn tin, chị tự bịa hết ra à?

– Khi viết bài thì tôi có cách xử lý của tôi chứ. Tất nhiên là phải bảo đảm trích dẫn đầy đủ, chính xác, không đạo văn, không bịa đặt. Còn đây là chuyện bảo vệ nguồn tin các anh chị ạ.

– Chúng tôi chỉ hỏi các thông tin căn bản, như chị được mời hay chị tự đến, ai mời chị, chị đến đó gặp ai…

– Những thông tin đó tôi sẽ đưa vào bài cả, tại sao các anh chị cứ đòi biết trước?

– Thôi chị Trang ạ, chúng ta biết nhau quá rõ rồi. Chị thừa biết tại sao chị về đây rồi. Tại sao bao nhiêu người khác chúng tôi không đưa về đây, mà lại đưa mỗi chị. Chị quá biết rồi còn gì.

– Không, tôi biết gì đâu. Các anh chị cho biết lý do đi.

– Chị không phải nói cái giọng ấy nhé.

– Tôi cho các anh chị 5 phút để trả lời câu hỏi của tôi. Nhắc lại câu hỏi: Vì sao đưa tôi về đây?

Đến đây thì đồng chí an ninh nhìn thẳng mặt tôi, hạ giọng nói khe khẽ:

– Những đứa khác có bằng chứng thì bóc lịch cả rồi đấy. Còn chị thì chưa đủ bằng chứng thôi chứ nếu không thì giờ này cũng không được ngồi ở đây đâu.

– Không ngồi ở đây thì ở đâu? Tù hả? (cười)

– Đúng đấy. Chị cũng không phải chờ lâu đâu, sắp rồi.

– Ừ, tóm lại là chưa có bằng chứng gì phải không? Bằng chứng đâu, đưa đây coi nào. Tôi thách đấy.

– Chưa đủ bằng chứng thôi, còn những đứa nào đủ thì đã bóc lịch cả rồi đấy. Cứ nhìn đi.

– Nhắc lại: Bằng chứng đâu? Tại sao đưa tôi về đây? Lấy điện thoại của tôi vì lý do gì?

– Chị cứ chờ đấy. Không lâu đâu.

Hai bên cùng nhìn thẳng vào mắt nhau và cùng cười rất tươi. Hệt như hai đứa trẻ con thi nhau xem đứa nào chớp mắt trước.

– Vậy hả? OK, chúng ta cùng chờ. Chắc lúc ấy các anh chị sung sướng lắm phải không, mở tiệc to ấy nhỉ?

– Được rồi. Sắp rồi. Chị cứ chờ đi.

Cuộc “làm việc” tiếp tục chuyển sang vài vấn đề khác. Câu hỏi an ninh đặt ra là tại sao chị Trang không ký xác nhận vào một tập tài liệu chị cầm theo người. Câu hỏi chị Trang đặt ngược lại là tại sao lại phải ký.

– Tại sao chị không ký?

– Vì tôi không hiểu lý do các anh chị yêu cầu tôi ký. Các anh chị cần chữ ký của tôi để làm gì?

– Đó chỉ là vấn đề thủ tục, quy trình mà thôi. Chúng tôi chỉ muốn bảo đảm quyền lợi của chị, nên mới yêu cầu chị ký.

– Tôi ghi nhận là các anh chị có nỗ lực làm việc đúng quy trình. Tôi cảm ơn. Tiếc là cái quy trình ấy của các anh chị không thỏa đáng, nên tôi không thể theo được. Tự nhiên lại bắt người đang đi đường về đồn rồi bắt ký xác nhận cái này cái nọ. Thế là có động cơ gì?

– Chị biết những tài liệu chị cầm theo là xấu, là có vấn đề gì đó, nên chị mới không ký phải không?

– Ấy đừng suy đoán thế. Bản năng con người là phải biết cảnh giác để tự vệ, các anh chị ạ. Cho dù có là tài liệu gì cũng thế thôi.

– Chị biết nội dung của tập tài liệu chị cầm theo chứ? (Đó là các báo cáo tóm lược về thảm họa biển miền Trung, đánh giá Luật Tôn giáo và tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, bằng tiếng Anh).

– Nếu tôi bảo là tôi không biết thì sao? Cứ coi như tôi không biết tiếng Anh, tôi mù chữ đi.

– Chị đừng nói chị không biết tiếng Anh, nghe nó buồn cười lắm. Tài liệu chị mang theo có nội dung gì?

– Thì các anh cứ đọc đấy.

– Chúng tôi thừa nhận chúng tôi kém tiếng Anh, được chưa? Chúng tôi muốn nhờ chị đọc và giải thích sơ lược nội dung nó là cái gì.

– Ấy chết, ai nói các anh chị kém đâu.

– Chị hiểu nội dung mà, phải không?

– Vâng, tôi hiểu, nhưng tôi không dịch đâu.

– Ký chị cũng không ký, nhờ dịch hộ vài dòng cũng không dịch. Trong khi mọi việc chúng tôi làm chỉ là để bảo đảm quyền lợi của chị. Chúng tôi không chỉ là theo quy trình đâu, mà chúng tôi làm việc theo quy định của pháp luật.

– Vâng, cảm ơn. Tiếc là cái pháp luật ấy của các anh chị cũng không thỏa đáng, nên tôi không thể theo được. Phải cảnh giác chứ tin các anh chị thế nào được?

– Vậy chúng tôi ghi vào đây là chị không ký tài liệu vì lý do gì?

– Các anh chị ghi rõ là vì tôi thấy động cơ của các anh chị không minh bạch.

– Này, chị bỏ cái từ “động cơ” ấy đi nhé. Chúng tôi là cơ quan an ninh, chúng tôi làm việc nhà nước, chứ chả có cái động cơ xấu nào ở đây cả mà bảo minh bạch với không minh bạch.

– (bật cười) Sao các anh chị dùng từ “động cơ” với “đối tượng” thì được mà hễ người ta dùng lại từ ấy với các anh chị thì các anh chị phản ứng thế?

– Này này, tôi chưa hề nói ai là đối tượng nhé. Tôi chưa hề bảo chị là đối tượng, tự chị nhận đấy nhé. Nãy giờ toàn chị nói nhé.

– À vâng vâng, tôi xin lỗi. Tôi nói chung chung thế thôi chứ có bảo là anh bảo tôi là đối tượng đâu.

– Chị đang cố tình làm mất thời gian của cả hai bên đấy chị Trang nhé. Chị không có gia đình, chứ chúng tôi còn có con nhỏ, còn phải về đón con, cho con ăn. Mà bây giờ là giờ tan tầm, chị biết rồi đấy.

– Vâng ạ. 5h30 rồi. Các anh chị có bận thì cứ về trước đi ạ.

– À, tôi nói là tôi nói đồng chí Hương đây có con nhỏ, phải về đón con. Chứ tôi thì tỷ phú thời gian luôn nhá. Tôi sẽ ngồi đây với chị đến khi nào làm rõ hết vấn đề. Mà không chỉ có tôi, còn nhiều anh em khác nữa.

– Dạ vâng ạ. Thế nếu chị Hương có con nhỏ thì về đón con đi ạ.

– Rồi, chúng ta tiếp tục.

Thật ra tất cả các cuộc đối thoại như thế với tôi đều chỉ có ý nghĩa… nghịch cho vui, chứ chẳng để làm gì. Bởi vì luôn luôn cơ quan an ninh sẽ đưa vào phòng một người nào đó làm nhân chứng, ưu tiên những người dân thường chẳng hiểu chuyện gì và hễ cứ thấy “cơ quan công quyền” là rúm ró. Nhân chứng đó dĩ nhiên do an ninh chọn, không có sự tham gia chọn của ta, không cần sự đồng ý của ta. Cho nên ta có ký hay không ký, an ninh và nhân chứng cũng có thể tự lập biên bản, tự ký với nhau.

Có đồng chí cứng tuổi hơn nêu câu hỏi:

– Em có nghĩ là bọn anh biết hết những việc em làm không?

– Dạ, việc gì hả anh?

– Anh đang hỏi em có nghĩ bọn anh biết hết những việc em đang làm không?

– Như là việc gì ạ?

– Thì đó, tất cả những việc em làm. Em có nghĩ bọn anh biết cả không, hả?

– (cười xòa) Em không để ý lắm.

* * *

Có một nhân viên an ninh trẻ hơn, rất chịu khó nói chuyện với tôi về các chủ đề ngoài “làm việc”. Cậu giải thích tỉ mỉ cho tôi về sự khác biệt giữa các loại rượu, giữa thuốc lá và thuốc lào, giữa các môn phái võ thuật “cương” và “nhu”. Tôi rất thích nghe, và cậu cũng nói “em chỉ thích chém gió cho vui, em chẳng thích chị em mình phải làm việc với nhau trong hoàn cảnh này”. Tôi cũng mong cậu ấy nói thật.

Và suy cho cùng, chẳng có ai trong số những người thuộc diện “đối tượng” như chúng tôi muốn phải là đối thủ của ai, muốn cãi cọ, đấu lý, gài bẫy, cảnh giác với ai cả. Nhưng điều đó chắc sẽ không thể nào chấm dứt, chừng nào vẫn còn có một lực lượng coi chúng tôi là kẻ thù.

Một thể chế mới – một nền dân chủ – với một thiết chế công an mới sẽ là sự giải thoát cho cả hai bên chúng ta.

Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính , vì Nước Trời là của họ .

 
 
 
From facebook:  Mai Sương shared Mai Sương‘s post.
 
 
Image may contain: 1 person, text
Image may contain: 1 person, text

Mai Sương added 2 new photos.

 

Cứ mỗi năm , đến ngày 1/11 – lễ các thánh nam nữ , một đại lễ của người Công giáo , thì chúng ta lại được nghe Chúa Giêsu công bố HIẾN CHƯƠNG NƯỚC TRỜI ( Tám mối phúc thật ).

Trong hiện tình đất nước hiện nay , tôi chú ý đến mối phúc cuối cùng : ” Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính , vì Nước Trời là của họ . Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta xỉ vả , bách hại và vu khống đủ điều xấu xa . Anh em hãy vui mừng hớn hở vì phần thưởng dành cho anh em ở trên Trời thật là lớn lao ” ( Mt 5 , 10 – 12) . Vâng , mối phúc thứ 8 này khiến tôi nghĩ đến những người đấu tranh dân chủ chân chính ở Việt nam , họ đã dấn thân đấu tranh cho SỰ THẬT, CÔNG BÌNH , BÁC ÁI … và cái giá họ phải trả là bị vu khống , bắt bớ , tù đầy … tôi tự hào vì chị NGUYỄN NGỌC NHƯ QUỲNH ( mẹ Nấm ) là một trong những người Công giáo dám đánh đổi tất cả để đấu tranh cho SỰ CÔNG CHÍNH !

” QUÂN PHẢN ĐỘNG “

From facebook:  Huỳnh Phi Long shared Mai Sương‘s post.
 
Image may contain: 1 person, text and closeup
Mai Sương is with Nguyen Tuan Anh and 32 others.

 

” QUÂN PHẢN ĐỘNG “

Đảng ta nào có xấu đâu
Sao ” quân phản động ” đua nhau chửi hoài ?
Phải công nhận chúng rất tài
Chuyện gì cũng biết cũng tài phanh phui .
Nhiều chuyện đảng cố chôn vùi
Vậy mà cũng bị chúng khui ra ngoài
” Thành đô mật ước ” với Tàu
Chúng đem phân tích làu làu từng chương
Văn thơ lai láng chúng tuôn
Chửi hay hơn hát , chúng thường rêu rao
Chửi đảng từ thấp đến cao
Bịt miệng bọn chúng : làm sao bây giờ ?
Cấm “phây” , “yu tút” , “Gu gồ” *
Để ” quân phản động ” hóa ngu câm mồm
Cho toàn dân tộc ngu luôn
Dễ bề cai trị : đảng còn sống lâu !

* Cấm Facebook , Youtube , Google

Mai Sương