Bài học về chánh trị mà ai cũng thuộc – Nguyễn Gia Việt

Lê Vi

Nguyễn Gia Việt

Chúng ta không cần đọc tin “thuyết âm mưu” kiểu ai đi ai ở, ai giành ai nhường. Vì suy cho cùng ai cũng như ai thôi.

Làm chánh trị đại kị nhứt là biến mình thành kẻ thù của toàn dân. Với kiểu xốc xã hội lên mà không thấy lợi lộc gì, chỉ thấy mất mát hao tốn nhiều hơn.

Xài hình phạt tràn lan trong khi dân hoàn toàn vô sản. Ngày xưa Lão Tử  từng nói, quản trị như chiên cá nhỏ, con cá nhỏ khi chiên chỉ trở một lần, cứ lấy đũa trở riết cá nát bét.

Thế lớn trong thiên hạ, cứ tan lâu rồi lại hợp, hợp lâu rồi lại tan. Đó là câu mở đầu của Tam Quốc Chí.

Không sợ, phải nhìn và bước qua khi bánh xe lịch sử xoay chuyển.

Lịch sử là của chung dân tộc, không phải của hương hoả dòng họ hay cá nhân, đảng phái nào mà muốn làm gì cũng đặng.

Lịch sử buồn nhưng lịch sử công bằng. Lịch sử đi qua và vẫn còn đâu đó. Không thể xóa nhòa hay che ép nó đặng. Tại vì lịch sử khúc đó làm người ta nhớ hoài.

Lịch sử có tánh lặp lại.

Vũ Tài Lục nói “Không đọc sử không đủ tư cách nói chuyện chính trị”.

Không có chế độ chánh trị nào là “mãi mãi” dù là cai trị tàn bạo.

Nhìn lịch sử Đông Tây thấy rõ ràng hễ là chế độ chánh trị thì cũng có thời, tức là có lên có xuống, lên làm sau thì xuống như vậy.

Nghiệp quả.

Chúng ta thấy nhà Trần ở VN lợi dụng hôn nhân lên ngôi thì sau đó bị nhà Hồ cũng dùng hôn nhân mà lật.

Chu Nguyên Chương dùng khởi nghĩa nông dân lật Nguyên Mông lập ra Minh triều thì sau đó cũng bị một cuộc khởi nghĩa nông dân khác do Lý Tự Thành lật đổ.

Có những triều đại, thể chế hùng cường, sức ảnh hưởng của nó kinh khủng.

Bên Châu Âu chúng ta nhìn lại thời kỳ hưng thịnh của đế chế Công Giáo Vatican khi từ thần quyền lan qua tới pháp quyền, chánh trị, cai trị và rồi cũng có ngày chựng lại lui vào nhà thờ và trao trả quyền quyết định chánh trị lại cho mọi người dân.

Hay thời đế quốc Anh, khi nữ hòang Victoria còn tại vị mà, đất của Anh trên khắp thế giới đến nổi có câu truyền ”Mặt trời không bao giờ lặn trên đất của đế quốc Anh”, nhưng rồi sau đó các xứ đòi độc lập, Anh cũng cũng phải lui về phía sau, thời thế mà.

Ở Châu Á, sẽ lấy ví dụ quân Mông Cổ và nhà  Nguyên  Mông.

Có một thời người Mông Cổ-đế chế Mông Cổ đặt chân từ Á sang Âu. Vó ngựa Mông Cổ kéo dài từ thảo nguyên Mông Cổ xuống Trung Hoa, qua Nhựt Bổn, Triều Tiên, Đại Việt, Miến Điện, Java, sang Ba Tư. Từ vùng đất lạnh giá như Siberia cũng như vùng đất nóng bức Arabia, tới Đông Âu như: Moscou, Vladmir (Nga), Kiev (Ukraine), Varsovie, Cracovie (Ba Lan), Lienitz (Đông Đức), Budapest (Hungary), tiến đến sát thành Vienne (Áo), tiến tới sông Volga…

Quân Mông Cổ tới đâu cũng đốt phá, cướp bóc, giết người, hãm hiếp tàn bạo.

Năm 1271, Hốt Tất Liệt đã tuyên bố thành lập nhà Nguyên, triều đại Nguyên Mông cai trị nước Trung Hoa trong hai thế kỷ 13 và 14, cai trị Trung Hoa 97 năm (1271- 1368). Tuy nhiên sử gia Trung Hoa chỉ công nhận từ năm 1280 là năm nhà Tống không còn cầm quyền nữa đến năm 1368 là năm người Mông Cổ bị đuổi khỏi Trung Hoa, dài 88 năm, gồm 11 đời vua.

Trong 97 năm cai trị, Mông Nguyên đã tàn bạo với Trung Hoa với chánh sách không nhẹ tay.

Nguyên Mông thi hành chánh sách áp bức bóc lột phân chia giai cấp hết sức tàn nhẫn, phân loại như sau: Mông Cổ là số 1,tới là Hồi, Thổ, Tạng, Tây Hạ, Ba Tư …Dưới là  Khiết Đan, Nữ Chân, cuối cùng bét nhứt là Hán mà Mông Cổ gọi là “Nam Nhân”.

Người Hán không được cầm võ khí, không được tụ tập đông người, không được tụ họp đi săn, hành lễ tôn giáo…Mông Cổ diệt 5 họ lớn của người Hán.

Người Mông Cổ được ưu tiên như khi bị tội giết người thì người Mông Cổ chỉ bị phạt bằng gậy và đưa lên biên giới phía Bắc xung vào quân đội, còn người Hán và các dân tộc khác bị xử tử.

Người Hán không được lấy người Mông Cổ làm vợ, nhưng Mông Cổ có quyền lấy thiếp người Hán. Người Hán ít được bổ vào cơ quan hành chánh.

Về thuế khóa, Mông Cổ được miễn, các dân tộc khác nộp 1/3, Hán tộc hay Nam nhân nộp toàn bộ. Ruộng đất của người Hán bị Mông Cổ chiếm đoạt gần hết ,người Hán chỉ làm nô tì, nông nô hạng bét.

Dận số Trung Hoa thời kỳ đầu nhà Nguyên Mông có 100 triệu người, sang cuối triều Nguyên chỉ còn 60 tới 80 triệu người.

Đến cuối nhà Nguyên dân Trung Hoa đói rả ruột. Đê điều không tu sửa nên bể nhiều trận dân chết cả vùng, dân chết đói thê thảm, dịch bịnh tràn lan. Tương truyền nhà Chu Nguyên Chương chỉ còn 3 hột lúa.

Cứ nghĩ những chánh sách giết-cướp-cai trị tàn bạo của Nguyên Mông là mãi mãi?

Không.

Sau những năm đó xuất hiện rất nhiều cuộc khởi nghĩa từ tôn giáo tới nông dân.

Chu Nguyên Chương (1328 – 1398) xuất  thân  từ  gia đình bần nông,năm 17 tuổi, cha và anh đều bị chết vì bịnh dịch, Chu Nguyên Chương phải xuất gia làm sư, vì gặp năm đói, phải đi khất thực ở nhiều nơi .

Từ năm 1352 Chu Nguyên Chương tham gia Hồng Cân quân (quân khăn đỏ) của Quách Tử Hưng tới tháng giêng năm 1368 Chu Nguyên Chương xưng đế, kể ra có 16 năm chinh chiến.

Khẩu hiệu “Đánh giặc Hồ, khôi phục Trung Hoa, cứu dân tộc Hán”.

Sau khi lên ngôi,trước tình cảnh kinh tế be bét, dân đói tràn lan, Chu Nguyên Chương phải thi hành nhiều chánh sách an dân thời hậu chiến.

Ông nhận thức được rằng: “Thiên hạ mới định, tài lực trăm họ còn khó khăn, giống như con chim mới tập bay, không thể nhổ lông nó, như cái cây mới trồng, không thể lay gốc nó mà phải nâng niu nuôi dưỡng”.

Chúng ta không thể không nhắc tới sự tàn bạo của nhà Minh khi xâm lăng Đại Việt.

Năm 1407 thời Minh Thành Tổ Chu Đệ, nhà Minh tràn qua chiếm nước Việt thời Đại Ngu của họ Hồ. Sau đó thi hành chánh sách cực kỳ tàn bạo, đốt sách, phá chùa, phá hủy tận diệt nền văn hiến của Việt Nam, bắt hết những trí thức của chúng ta qua Tàu, con nít mà đẹp cũng bắt luôn.

Nhà Minh với Trương Phụ cai trị Việt Nam bằng máu, tàn sát  đốt phá và hủy diệt.

Minh Thành Tổ từng nói  rằng: “An Nam vốn cùng chữ viết và phong tục tập quán giống người Trung Hoa, lại đã từng là đất của Trung Hoa hơn  một ngàn năm trước kia.”

Nhưng rồi chúng ta có Lê Lợi,có Nguyễn Trãi, có khởi nghĩa Lam Sơn..

Kể từ năm 1407 khi nhà Minh đánh bại nhà Hồ cai trị Việt Nam và chấm dứt năm 1427 khi Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh, thì có 20 năm Minh đô hộ xứ Việt trong máu và máu.

Và từ năm 1416 khi  Lê Lợi chánh thức khởi nghĩa, và năm 1428 khi ông lên ngôi lập ra nhà Hậu Lê, vị chi Lê Lợi có 12 năm chinh chiến.

Thịnh cực tất suy, dân ý thức sẽ làm chánh trị, một cuộc cách mạng.

Chánh trị mà, dân tộc đất nước trường tồn chứ “chế độ chánh trị”cũng có lúc lên có lúc cáo chung thôi, không có gì là mãi mãi hết.

Tuấn kiệt như sao buổi  sớm

Nhơn tài như lá màu thu.

– Nguyễn Gia Việt


 

Được xem 1 lần, bởi 1 Bạn Đọc trong ngày hôm nay