10 điều bạn nên biết về Chân phước Carlo Acutis

Thao Teresa

Đức Thánh Cha Leo XIV sẽ tôn phong hiển thánh cho Carlo Acutis vào Chúa Nhật 07/09/2025. Cậu thiếu niên lập trình viên, mê trò chơi điện tử nhưng có tình yêu đặc biệt dành cho Thánh Thể, sẽ trở thành vị thánh thiên niên kỷ đầu tiên của Giáo hội.

Vậy Carlo là ai? Dưới đây là 10 điều bạn nên biết:

  1. Xuất thân

Carlo Acutis sinh ngày 3/5/1991 tại London, trong thời gian cha mẹ làm việc tại đây, rồi sớm chuyển về Milan (Ý).

  1. Cơn bệnh cuối đời

Carlo được chẩn đoán mắc bệnh bạch cầu khi còn là thiếu niên. Trước khi qua đời năm 2006, cậu dâng những đau khổ của mình cho Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI và cho Giáo hội, với ước nguyện: “Con xin dâng tất cả để được lên thẳng thiên đàng, không phải qua luyện ngục.”

  1. Tình yêu Thánh Thể

Ngay từ nhỏ, Carlo đã yêu mến Thiên Chúa dù cha mẹ chưa sốt sắng. Sau lần rước lễ đầu đời, cậu đi lễ mỗi ngày, lôi kéo cả gia đình đến với Thánh Lễ và chầu Thánh Thể. Carlo thường nói: *“Có hàng dài người xếp hàng trước các buổi hòa nhạc hay trận bóng đá, nhưng con không thấy những hàng dài trước Thánh Thể.”*

  1. Gương sáng dẫn đưa người khác đến đức tin

Rajesh Mohur, người giúp việc trong gia đình, đã từ bỏ Ấn giáo để theo Công giáo nhờ chứng tá của Carlo – một thiếu niên biết chia sẻ thức ăn và tình thương cho người nghèo.

  1. Can đảm bảo vệ giáo huấn

Carlo mạnh mẽ bênh vực sự sống ngay từ lúc thụ thai khi bàn về phá thai trong lớp học, dù bị bạn bè phản đối.

  1. Người bạn trung tín

Cậu luôn đứng về phía những bạn nhỏ bị bắt nạt, đặc biệt là người khuyết tật, và nâng đỡ bạn bè gặp khủng hoảng gia đình.

  1. Tài năng công nghệ

Carlo tự học lập trình C, C++ và dùng khả năng ấy để thiết kế triển lãm về các phép lạ Thánh Thể, hiện đã được trưng bày tại hàng ngàn giáo xứ trên khắp năm châu.

  1. Niềm vui đơn sơ

Cậu thích Game Boy, PlayStation, Pokémon, Spider-Man… nhưng luôn giữ kỷ luật: chỉ chơi không quá 2 giờ mỗi tuần.

  1. Nơi an nghỉ

Carlo qua đời ngày 12/10/2006, được an táng tại Assisi. Thi hài cậu hiện được đặt trong lăng kính, mặc quần jean và giày thể thao, trở thành nơi hành hương của hàng ngàn tín hữu.

  1. Ngày hiển thánh

Ngày 23/05/2024, Đức Thánh Cha công nhận phép lạ thứ hai nhờ lời chuyển cầu của Carlo – việc chữa lành một thiếu nữ 21 tuổi ở Costa Rica sau tai nạn xe đạp nghiêm trọng. Phép lạ đầu tiên là việc chữa lành một bé trai 3 tuổi ở Brazil mắc dị tật tuyến tụy.

Vào thứ sáu, ngày 13 tháng 6, Đức Giáo hoàng Leo XIV đã chủ trì công nghị đầu tiên trong triều đại giáo hoàng của mình, phê chuẩn chính thức việc phong thánh cho Chân phước Carlo Acutis, được gọi là “tông đồ mạng của Bí tích Thánh Thể”.

Trong Công nghị, Đức Giáo hoàng đã sắc lệnh rằng Chân phước Pier Giorgio Frassati, cùng với Chân phước Carlo Acutis, sẽ được phong thánh vào Chúa Nhật, ngày 7 tháng 9 năm 2025.

Jos Nguyen chuyển ngữ – CNA/EWTN Vatican


 

Thánh Grêgôriô Cả (540-604), Tiến Sĩ Hội Thánh – Cha Vương 

Chúc bạn và gia đình một ngày tươi vui bình an trong Chúa nhé. Hôm nay 03/09, Giáo Hội mừng kính Thánh Grêgôriô Cả (540-604), Tiến Sĩ Hội Thánh. Mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm quan thầy.

Cha Vương 

Thứ 4: 03/09/2025   t3-24

Trong cuộc đời Thánh Grêgôriô Cả, sự nghiệp của ngài càng ngày càng lẫy lừng. Ngài là trưởng thánh bộ Rôma trước khi 30 tuổi. Năm năm sau đó, ngài từ chức, sáng lập sáu đan viện trên các phần đất của ngài ở Sicilia và chính ngài là một tu sĩ dòng Biển Ðức (Benedictine) ở Rôma. Sau khi thụ phong linh mục, ngài là một trong bảy phó tế của đức giáo hoàng, và còn giữ chức vụ sứ thần tòa thánh ở Constantinople, Ðông Phương. Sau đó ngài được gọi về làm đan viện trưởng, và vào lúc 50 tuổi, ngài được chọn làm giáo hoàng thứ 64 kế vị Thánh Phêrô bởi hàng giáo sĩ và giáo dân Rôma. Ngài thẳng tính và kiên quyết. Ngài cách chức các linh mục bất xứng, cấm không được lấy tiền khi phục vụ, và ngài lấy tất cả quỹ riêng của đức giáo hoàng để chuộc các tù nhân bị phe Lombard bắt và săn sóc những người Do Thái bị bách hại và các nạn nhân của nạn dịch tễ cũng như nạn đói kém. Ngài rất lưu tâm đến việc trở lại của nước Anh nên đã sai 40 đan sĩ của ngài đến hoạt động ở đây. Ngài nổi tiếng vì những cải cách phụng vụ, và củng cố sự tôn trọng học thuyết. Người ta đang tranh luận xem có phải chính ngài là người chịu trách nhiệm phần lớn nhạc bình ca (Gregorian) hay không.

   Thánh Grêgôriô sống trong giai đoạn luôn luôn có bất hòa vì sự xâm lăng của phe Lombard và vì những tương giao khó khăn với Giáo Hội Ðông Phương. Khi Rôma bị tấn công, chính ngài là người đến chất vấn vua Lombard. Một sử gia Anh Giáo đã viết: “Không thể nào tưởng tượng được những gì sẽ xảy ra trong thời Trung Cổ–thật lộn xộn, vô trật tự–nếu không có triều đại giáo hoàng; và nói về giáo hoàng của thời trung cổ, vị cha chung đích thực là Ðức Grêgôriô Cả.” Cuốn sách của ngài “Cách Chăm Sóc Mục Vụ” nói về nhiệm vụ và đặc tính của một giám mục, đã được đọc trong bao thế kỷ sau khi ngài chết. Ngài diễn tả vị giám mục chính yếu như một y sĩ mà nhiệm vụ chính là rao giảng và duy trì kỷ luật. Trong các bài giảng thực tế của ngài, Thánh Grêgôriô có tài áp dụng phúc âm hàng ngày vào nhu cầu đời sống của giáo dân. Ðược gọi là “Cả”, Thánh Grêgôriô được nâng lên một vị trí ngang hàng với Thánh Augustine, Thánh Ambrôsiô và Thánh Giêrôme như một trong bốn vị tiến sĩ nòng cốt của Giáo Hội Tây Phương.

Lời Bàn: Thánh Grêgôriô thích là một đan sĩ, nhưng ngài sẵn sàng phục vụ Giáo Hội trong các phương cách khác khi được yêu cầu. Ngài đã hy sinh những sở thích của ngài trong nhiều phương cách, nhất là khi làm Giám Mục Rôma (Giáo Hoàng). Một khi được kêu gọi để phục vụ công ích, Thánh Grêgôriô đã dùng hết khả năng để chu toàn nhiệm vụ. (Nguồn: Người Tín Hữu)

Sau đây là những câu nói của ngài, mời bạn đọc và suy gẫm để đưa mình đến gần Chúa hơn:

(1) Những ai đã vấp ngã trên đất bằng, đừng nên đến gần vực thẳm.

(2) Ngay cả khi không có quyền lực trong tay, tâm trí con người vẫn hướng chiều về sự kiêu căng; thế thì khi có quyền lực nâng đỡ, họ còn tự đại đến đâu nữa.

(3) Linh hồn là bộ mặt bên trong của con người, theo đó, chúng ta được Đấng Tạo Thành nhận biết và chăm sóc.

(4) Chỉ cần yêu thích những sự trên cao là đã vươn cao rồi.

(5) Nói cho cùng có lẽ không khó để người ta từ bỏ của cải, nhưng chắc chắn là thật khó để từ bỏ chính mình. Khước từ những gì mình có là chuyện nhỏ; nhưng khước từ cái tôi của mình đó mới thật đáng kể.

(6) Đừng lo lắng anh em có gì, nhưng hãy lo lắng anh em là gì.

(7) Nếu biết thường xuyên trang bị tinh thần bằng nghị lực kiên cường để chống lại những xúi giục của các tập quán xấu xa, chúng ta có thể biến chính các tập quán xấu ấy thành vốn liếng của nhân đức.

Câu nào đánh động bạn nhất? Đối với mình thì câu số 

  1. Còn bạn?

❦ Thánh Grêgôriô, cầu cho chúng con. 

From: Do Dzung

***********************

AVE MARIA – Gregorian Chant of the Annunciation (Video in NAZARETH)

Thánh Gioan Tẩy Giả bị chém đầu, tử đạo-Cha Vương

Thánh Gioan Tẩy Giả bị chém đầu, tử đạo-Cha Vương

Chúc bình an! Hôm nay 29/08 Giáo Hội mừng Kính Thánh Gioan Tẩy Giả bị chém đầu, tử đạo. Xin cho một lòng một dạ, giữ trọn niềm tin vào Chúa khi phải chịu đau khổ vì Chúa và vì Tin Mừng.

Cha Vương

Thứ 6: 29/8/2025

    Lời thề khi say sưa của một vị vua coi thường danh dự, một điệu vũ mê hoặc và một con tim hận thù của hoàng hậu đã đưa đến cái chết của Gioan Tẩy Giả. Vị tiên tri vĩ đại nhất đã chịu chung số phận như nhiều tiên tri khác trong Cựu Ước: bị tẩy chay và tử đạo. “Tiếng kêu trong sa mạc” không ngần ngại lên án kẻ có tội, và dám nói lên sự thật. Tại sao ngài làm như vậy? Ngài được gì khi hy sinh mạng sống mình?

       Nhà cải cách tôn giáo này đã được Thiên Chúa sai đến để chuẩn bị dân chúng đón nhận Ðấng Thiên Sai. Ơn gọi của ngài là một hy sinh cách vị tha. Chỉ có một quyền năng mà ngài công bố là Thần Khí Thiên Chúa. “Tôi làm phép rửa cho các người với nước để giục lòng sám hối, nhưng Ðấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi. Tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các ngươi trong Thánh Thần và lửa” (Mátthêu 3:11). 

       Phúc Âm kể cho chúng ta biết có nhiều người theo Gioan để tìm kiếm hy vọng, có lẽ vì nóng lòng chờ đợi Ðấng Thiên Sai. Gioan không bao giờ tự nhận cho mình cái vinh dự giả dối khi dân chúng tuốn đến với ngài. Ngài biết ơn gọi của mình là sự chuẩn bị. Khi đã đến lúc, ngài dẫn các môn đệ đến với Chúa Giêsu: “Hôm sau, ông Gioan lại có mặt ở đó với hai môn đệ của ông và khi thấy Ðức Giêsu đi ngang qua, ông nói: ‘Ðây là Chiên Thiên Chúa.’ Hai môn đệ nghe nói, liền đi theo Ðức Giêsu” (Gioan 1:35-37)

      Chính Gioan Tẩy Giả là người đã chỉ đường đến Ðức Kitô. Ðời sống và cái chết của Gioan là để hy sinh cho Thiên Chúa và loài người. Lối sống đơn giản của ngài thực sự là lối sống tách biệt khỏi vật chất thế gian. Tâm hồn của ngài đặt trọng tâm ở Thiên Chúa và lời mời gọi ngài nghe được từ Thần Khí Thiên Chúa đã đánh động tâm hồn ngài. Tin tưởng ở ơn Chúa, ngài đã can đảm nói những lời kết tội hoặc kêu gọi sám hối, vì sự cứu độ. (Nguồn: Nhóm Tinh Thần)

       Mỗi người đều có một ơn gọi mà họ phải lắng nghe. Không ai có thể lập lại sứ vụ của Thánh Gioan, và tất cả chúng ta đều được kêu gọi đến một sứ vụ riêng biệt. Ðó là vai trò làm chứng nhân cho Ðức Giêsu của mỗi một Kitô Hữu. Bất cứ hoàn cảnh nào trong đời sống, chúng ta được mời gọi để trở nên môn đệ của Ðức Kitô. Qua hành động và lời nói, người khác sẽ nhận thấy chúng ta đang sống trong niềm vui khi tin nhận Ðức Giêsu là Chúa chúng ta. Chúng ta không bị gò bó bởi sức mạnh hạn hẹp của chính chúng ta, nhưng chúng ta có thể tìm thấy sức mạnh từ ơn cứu độ bao la của Ðức Kitô. 

(Nguồn: Nhóm Tinh Thần) 

From: Do Dzung

*********************

Thánh Ca: Chúa Luôn Đồng Hành – Sáng tác: Hoàng Peter

Thánh Augustinô (354-430), Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh- Cha Vương

Hôm này 28/08, Giáo Hội mừng kính Thánh Augustinô thành Hyppo (354-430), Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh. Mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé. Mình xin bạn một lời cầu nguyện khẩn thiết cho nạn nhân của nạn nổ súng vào nhà thờ Truyền Tin ở thành phố Minneapolis, Minnesota, Hoa Kỳ. Đa tạ!

Cha Vương

Thứ 5: 28/8/2025

Thánh Augustinô sinh ngày 13 tháng 11 năm 354 tại Tagaste, Numidia thuộc Bắc Phi Châu. Cha Ngài là người ngoại giáo, mẹ Ngài là Thánh nữ Monica. Nhận thấy Augustinô sáng trí và có nhiều triển vọng nên hai ông bà quyết định cho Ngài theo đuổi việc học tới cùng. Nhưng tại kinh thành Carthage, Augustinô bị tiêm nhiễm bởi nếp sống trụy lạc sa đọa và chạy theo những tư tưởng lạc giáo Manichaeans trái nghịch với đức tin Công Giáo. Mẹ Ngài hết sức đau buồn và bà hằng cầu nguyện cho Ngài. Sau những năm đắm mình trong tà thuyết và lạc thú, Augustinô chán ngán và rơi vào một tình trạng cô đơn, sầu muộn tột độ. Chính trong lúc ấy, Chúa đã đến gõ cửa lòng Ngài; chỉ một câu Thánh kinh: “Ðừng sống theo dục tình và lạc thú dâm ô nữa, nhưng hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô” đã khiến đời Ngài chuyển hướng hoàn toàn. Ngài bắt đầu nghiên cứu giáo lý Công Giáo, theo sự chỉ dẫn của Ðức Cha Ambrosiô ở Milan và Ngài đã được rửa tội năm 387, lúc đó Ngài đã 33 tuổi. Mẹ ngài qua đời, ngài trở về Carthage (Phi Châu) và bán hết tài sản cho người nghèo, sống một cuộc đời khổ hạnh và sám hối trong một dòng tu. Sau đó Ngài được đề cử làm Giám Mục thành Hyppo năm 396. Thánh nhân qua đời ngày 28 tháng 8 năm 430 tại Hippo, hưởng thọ 76 tuổi. Mộ thánh nhân được an vị trong VCTĐ San Pietro tại Cielo d’Oro, Pavia thuộc miền Bắc nước Ý Đại Lợi, nơi giữ hài cốt của thánh Augustinô kể từ năm 725. Ngày 20 tháng 9 năm 1295, Đức Giáo Hoàng Bonifacius VIII đã tuyên phong thánh Augustinus ở Hippo cùng với thánh Ambrosius, thánh Gregory Cả và thánh Jérome là các thánh Tiến Sĩ của Giáo Hội La Tinh .

Mình mời bạn suy niệm những câu nói bất hủ của Ngài:

(1) Tâm hồn chúng con khắc khoải cho đến khi nghỉ yên trong Chúa.

(2) Hãy yêu, rồi làm những gì bạn muốn làm.

(3) Một lòng một ý trong Thiên Chúa.

(4) Hát là việc của người đang yêu.

(5) Hát hay, ấy là cầu nguyện hai lần.

(6) Ai thấy tình yêu là thấy Thiên Chúa Ba Ngôi.

(7) Kiêu ngạo khiến các thiên thần đổi thành ma quỷ; khiêm nhường làm cho con người thành các thiên thần.

(8) Thiên Chúa đã dựng nên con mà không cần con, nhưng Ngài sẽ không cứu con nếu không có con.

(9) Đức Maria được diễm phúc vì tin vào Chúa Kitô hơn là vì cưu mang thân xác Người trong cung lòng mình.

(10) Hòa bình là sự ổn định của trật tự.

(11) Bạn hãy cầu nguyện như thể mọi sự tùy thuộc vào Thiên Chúa, và hãy làm việc như thể mọi sự tùy thuộc vào bạn.

Câu nào đánh động bạn nhất? Đối với mình thì câu số 7, bởi vì mình ao ước được làm thiên thần. 🙂 Xin Thánh Augustinô cầu cho chúng con. 

From: Do Dzung

*************************

Yêu Chúa Muộn Màng (Sáng tác: Sr. Clara Chu Linh. OP) – Thanh Sử

MÔNICA BÀ MẸ suốt đời khóc vì chồng vì con

Gieo Mầm Ơn Gọi

Khi viết về người Mẹ một nhà văn Pháp đã có những lời diễn tả như thế này: “Bà mẹ không phải như một họa sĩ vẽ cái đẹp lên tranh, không như một nhà điêu khắc chạm hình trong đá, không như nhà văn diễn đạt tư tưởng hay bằng những lời chọn lọc, cũng không như một nhạc sĩ ký thác tâm tình đẹp trong tiếng đàn. Phận sự của bà mẹ chính là nhờ ở sức Chúa giúp đỡ, hình thành nên trong linh hồn những người con hình ảnh của Chúa trên trời.”

Có lẽ không có lời nào hay hơn thế để mô tả về một người mẹ, một người mẹ rất nổi tiếng trong Giáo Hội sẽ mừng vào ngày 27/8 hằng năm: Đó là thánh nữ Monica.

Chúng ta chỉ biết Thánh Mônica qua quyển Tự Thuật của người con là Thánh Augustino. Bà sinh khoảng năm 332 ở Tagaste miền bắc Châu Phi, là con trong một gia đình có đạo. Lúc 18 tuổi, bà phải kết hôn với một người ngoại tên là Patricius theo ý của gia đình và sau đó sinh được 3 người con: người con cả là Augustinô.

Bà luôn theo dõi sự phát triển của con với niềm vui lẫn âu lo. Bà đã phải khóc lóc vì thấy nơi người con của bà có những dấu hiệu sai lạc về luân lý và tinh thần. Dầu vậy bà luôn luôn lấy tình thương khuyên nhủ con. Sau một thời gian quá dài nhưng chưa chinh phục được người con của mình, bà đã được một vị Giám mục, nói chính xác là thánh Ambrosiô, đã an ủi bà: “Không lẽ một người con đã làm cho bà rơi biết bao nhiêu nước mắt, lại phải hư mãi sao?”.

Như vậy là chúng ta thấy không những bà đã lo lắng cho chồng để ông được trở lại đạo một năm trước khi ông qua đời, khoảng năm 371. Rồi sau khi chồng mất, bà đã từ Roma theo người con cả Augustino lên tận Milan nơi ông dạy học để ở nơi đây Bà được chứng kiến cảnh con của mình từ bỏ lạc giáo trở về với Chúa, chịu rửa tội vào đêm Vọng Phục Sinh năm 387 dưới sự hướng dẫn và dìu dắt của Giám Mục Ambrôsiô. Sau khi trở lại, Augustinô, em và mẹ đã quyết định trở về Tagaste.

Mùa thu năm 387 cả ba mẹ con từ bỏ Rôma, lên đường về Châu Phi. Chúng ta hãy nghe chính Augustinô thuật lại những giờ sau hết của mẹ mình trên dương thế: “Con không nhớ rõ con đã trả lời làm sao. Nhưng phỏng năm ngày sau, hay hơn một chút, mẹ con ngã bệnh sốt rét. Đang khi nằm bệnh, thì ngày nọ ngài bất tỉnh, không còn nhận ra những người chung quanh. Chúng con chạy tới thì ngài tỉnh lại ngay, nhìn con và em con đang đứng đó; ngài có vẻ tìm kiếm cái gì đó và bảo chúng con : “Mẹ ở đâu thế này?”

Rồi thấy chúng con buồn sầu và lo sợ, ngài nói: “Các con hãy nhớ chôn mẹ ở nơi đây!’ Con thinh lặng và kìm hãm nước mắt. Nhưng em con nói mấy lời tỏ ý ước ao thấy ngài được chết tại quê nhà hơn là ở tha hương.

Nghe thấy vậy, ngài tỏ vẻ không bằng lòng. Ngài quắc mắt nhìn em con, vì nó đã có những tư tưởng như vậy, rồi nhìn con mà nói: “Con xem, nó nói như vậy đó!” Đoạn ngài bảo hai chúng con: “Các con chôn xác này ở đâu cũng được; các con đừng quá lo về việc đó. Mẹ chỉ xin các con một điều, là bất cứ các con ở đâu, các con hãy nhớ đến mẹ trước bàn thờ Chúa”. Sau khi cố gắng nói được điều đó rồi, mẹ con ở lặng và cơn bệnh gia tăng, làm cho ngài càng đau đớn. Vậy, sau khi thụ bệnh được 9 ngày, thì linh hồn thánh thiện và đạo đức đó đã lìa khỏi xác: ngài được 56 tuổi còn con được 33 tuổi” đúng tuổi sống trên đời của Chúa Giêsu.

Augustinô đã chôn cất mẹ tại Ostia.

Sau này khi nhớ về cái chết của Mẹ mình Augustinô đã viết: “Con mất mẹ cách đột ngột, nhưng con cảm thấy an ủi khi dâng cho Chúa nước mắt con khóc mẹ. Con dâng nước mắt ấy cầu nguyện cho mẹ con. Nếu ai đoán xét con, phạm tội vì khóc thương một bà mẹ chết đi và tạm thời mắt con không còn trông thấy được nữa, thì con xin họ nhớ rằng chính bà đã khóc than biết bao năm trường để mắt bà được trông thấy con sống lại với Chúa, xin họ đừng nhạo cười con, nhưng xin họ cũng khóc lóc vì tội lỗi con đã phạm trước mặt Chúa. Chúa là cha của tất cả anh chị em chúng con trong Đức Kitô.

Ngày nay xác bà được dời về thánh đường kính Thánh Augustinô tại Rôma.

Nguồn: Giáo xứ Ba Thôn


 

Thánh Monica (322-387)- Cha Vương

Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé. Hôm nay 27/8 Giáo Hội mừng kính Thánh Monica (322-387), người mẹ gương mẫu, đạo đức, và thánh thiện. Ngài là quan thầy của giới hiền mẫu đó. Chúc mừng, chúc mừng!

Cha Vương

Thứ 4: 27/8/2025

Thánh Monica sinh năm 322 tại Tagaste (Souk Ahrus), nước Algeria. Thuộc dòng dõi Berber nên tên Ngài là Berber. Những gì chúng ta biết được về thánh nữ đều nhờ các bút tích của con Ngài, nhất là cuốn IX bộ “tự thuật” (confessions). Cuộc đời và gương sáng của thánh nhân cho chúng ta thấy rằng: ngài đã “làm những chuyện bình thường cách phi thường”. Tại sao vậy? Sau đây là những gương sáng:

(1) Là chu toàn bổn phận. Chu toàn bổn phận cách trung thành, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác thì quả là anh hùng. Ngài đã hoàn thành sứ mạng Chúa trao trong ơn gọi làm vợ và làm mẹ. Làm vợ, thánh nhân đã hết lòng quý trọng, yêu thương và trung thủy với chồng. Làm mẹ, thánh nhân hết mực yêu thương, hy sinh cho con cái. Tận tụy giáo dưỡng con cái nên người. Khi không được như ý của mình, ngài vẫn không bỏ cuộc. Thánh nhân đã cầu nguyện và hy sinh liên lỷ cho con. Nhờ đó mà ngài đã cải hóa được Augustinô trở về với Chúa và phục vụ Giáo Hội.

(2) Là cảm hóa bằng gương sáng. Khi bị ngược đãi bởi mẹ chồng và chồng, thánh nhân đã nêu cao gương khiêm nhường, yêu thương và tha thứ. Sẵn lòng thông cảm cho tính khí của mẹ và chồng. Yêu thương, phục vụ, khiêm nhường và tha thứ là lựa chọn của thánh nhân trong những lúc khó khăn và gặp chuyện chẳng lành.

(3) Là mẫu gương cầu nguyện và hy sinh. Thánh nhân đã kết hợp với Chúa cách liên lỷ và hoàn toàn phó thác nơi Ngài. Cuộc đời của ngài với những biến cố vui buồn, thành công hay thất bại đều kết hợp với Chúa. Ngài luôn phó thác mọi sự trong sự an bài của Thiên Chúa.

(4) Là sự kiên trì và trung thành. Kiên trì trong cầu nguyện. Trung thành trong niềm tin, dù nhiều khi phải quặn đau. 

Quả thật, cả cuộc đời của thánh nhân đã để lại cho chúng ta gương sáng tuyệt vời nơi những người vợ, người mẹ và cho hết mọi người. 

Mời bạn hãy chọn một gương sáng của Thánh Monica và đem vào thực hành trong cuộc sống, hãy đặt hết niềm tin và hy vọng vào sức mạnh biến đổi của Chúa nhé. Đừng bỏ cuộc!

From: Do Dzung

***************************

Lời Con Muốn Nói – Trọng Tấn | Bài Hát Tặng Mẹ

THÁNH AUGUSTINO – GIÁM MỤC, TIẾN SĨ HỘI THÁNH – Enzo Lodi

 Enzo Lodi

 1.Ghi nhận lịch sử – phụng vụ

 Việc kính nhớ thánh Augustin, một trong bốn tiến sỹ lớn của Giáo hội la tinh, qua đời tại Hippone ngày 28 tháng 8 năm 430, đã xuất hiện trong sách các phép thế kỷ thứ III, và ở Roma từ thế kỷ XI.

 Aurelius Augustinus sinh ngày 13 tháng 11 năm 354 tại Thagaste (nay là Souk-Ahras, Algéric) ở Châu Phi thuộc Roma.  Là công dân Roma, con một người cha không công giáo tên Patricius và một bà mẹ công giáo tên Mônica, Augustin trước học văn phạm ở Madanre, đến năm 371, đi sang Carthage thủ phủ châu Phi Roma để theo học triết lý – Mê say đọc Hortensius của Cicéron, Augustin khám phá triết học và đam mê đi tìm chân lý.  Vì nhu cầu nuôi sống gia đình ông buộc lòng nhận dạy tu từ học ở Carthage.  Thời gian đó ông theo lạc thuyết Manichée trong chín năm, mong tìm được chân lý nơi tôn giáo này.  Trước tiên, ông bị mê hoặc bởi giáo thuyết này tưởng có thể giải thích sự tranh chấp giữa Thiện và Ác, cái đẹp và những điều lộn xộn nơi thế giới, nhưng rồi ông thất vọng.  Năm 383, Augustin bỏ Carthage sang Roma trước khi đến Milan lúc đó là thủ phủ đế quốc Roma phương Tây, tại đây ông cũng dạy tu từ.  Mẹ Ngài là bà Mônica đã đến tìm gặp ông ở đây, và cũng chính tại đây, đường chuyển biến tinh thần của Augustin kết thúc nhờ thánh giám mục Ambroise mở đường cho Ngài hiểu Kinh thánh và một thứ tân Platon thuyết có vẻ đáp ứng niềm khát mong chân lý nơi Ngài.  Giờ đây Augustin đã sẵn sàng cho bước nhảy tới Chúa, tức là trở lại.

 Một giai thoại nhiều người biết xảy ra trong vườn nhà Ngài ở Milan đã được thánh nhân kể trong quyển Tự Thuật: “Tâm hồn đau đớn, con tim tan nát, tôi đang khóc, bỗng tôi nghe từ nhà bên cạnh tiếng hát của một người con trai hay con gái không rõ.  Tiếng hát không rõ nhưng nghe lặp nhiều lần: Tolles, lege. Tolles, lege (Cầm lên, đọc đi!  Cầm lên, đọc đi!).  Vậy nên tôi vội vã đến chỗ Alypius ngồi, tôi cầm lấy cuốn sách của Thánh Tông đồ, mở ra và im lặng đọc khúc đầu tiên bắt gặp: Đừng chè chén say sưa, đừng chơi bời dâm đãng, cũng đừng cãi cọ ghen tuông.  Trái lại hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô và đừng chiều theo xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng (Rm 13,13)….  Chính lúc này, như có một luồng sáng tỏa lan hồn tôi phá tan mọi bóng tối nghi ngờ” (XIIII,12).  Tám tháng sau, thánh Ambroise rửa tội cho Ngài trong đêm Phục sinh đêm 24 rạng sáng ngày 25 tháng tư năm 387.

 Năm 388 sau khi mẹ qua đời tại Ostie, Augustin trở về Thagaste ở châu Phi cùng với ông bạn Alypius và Adeodat con trai.  Mong ước cuộc sống chuyên tu, Augustin tập hợp một số bạn hữu lại và cùng sống đời dòng tu, chuyên nghiên cứu và cầu nguyện trong ba năm (388-391), sau đó, thể theo đề nghị của giáo dân Hippone, Augustin thụ phong linh mục để giúp đỡ Đức giám mục Valère.  Năm 395 Ngài thụ phong giám mục và một năm sau, kế vị Đức giám mục Valère làm giám mục Hippone, thành phố lớn thứ hai châu Phi.  Từ đây, trong suốt ba mươi lăm năm trong đại thánh đường An Bình, Ngài chú giải Thánh vịnh và các Sách thánh, ngồi tòa xử án, theo dõi việc quản trị tài sản Hội thánh, trả lời các thư tín đến từ khắp phương Tây, biện luận đả kích lạc giáo, đặc biệt là phái Donatus và Pélagius.

 Cùng với các giáo sỹ của mình sống đời tu trì, thánh Augustin cũng sáng tác một số tác phẩm rất quan trọng, như Confessions (397-401), Giáo lý dự tòng (400), Giáo lý công giáo (394-416).  Đối với phái Donatus vẫn tự phụ là Giáo hội của những người Trong Trắng, thánh thiện, Ngài dùng nhiều thái độ khác nhau liên tục, khi diễn thuyết, lúc tranh luận cho đến một cuộc tranh luận phản biện tại Carthage năm 411 dưới sự chủ tọa của một đại diện hoàng đế đã đến kết luận rằng người công giáo mà Augustin là phát ngôn nhân, thắng.  Từ đó những người theo phái Donatus bị cảnh sát hoàng đế truy đuổi.  Với phe Pélagius (bị Roma kết án năm 417), Augustin chứng tỏ là một tiến sỹ lớn về ân sủng và tiền định. Cũng trong thời gian đó một số tác phẩm khác ra đời: Đô thành Thiên Chúa (413-424), Chúa Ba Ngôi (399-422).  Cuốn những lời phản biện (Rétractations) viết vào những năm cuối đời (426-427) là chứng tá đức khiêm tốn thánh Augustin: “Tôi đọc lại các tác phẩm thô hèn của mình và nếu có đoạn nào gây cho tôi hoặc có thể gây cho người khác khó chịu thì lúc đó tôi lên án nó, có lúc phải giải thích ý nghĩa cần có để biện minh cho nó.”

 Những năm cuối đời của thánh Augustin nhuốm màu ảm đạm vì châu Phi Roma và Hippone, thành phố có toà giám mục của Ngài bị người Vandales vây hãm và xâm chiếm; lúc này đã bảy mươi sáu tuổi, thánh Augustin giám mục vẫn cần mẫn chu toàn bổn phận giáo huấn và quản trị, đồng thời lo cho rất nhiều người di cư đến tìm trốn tránh tại thành phố.  Tháng thứ ba kể từ ngày thành phố bị vây hãm, Người bị bệnh và qua đời ngày 28 tháng 8 năm 430, trối các sách vở của mình lại cho Giáo hội Hippone.  Mười lăm tháng sau khi người Vandales chiếm thành phố, mộ và thư viện thánh Augustin vẫn được tôn trọng.

 Các ảnh tượng về thánh Augustin rất nhiều chứng tỏ ảnh hưởng lan tỏa lạ thường của sự thánh thiện và giáo lý Người, đặc biệt là các tác phẩm của Fra Angelico và G.de Crayer (Louvre) và G.Coustou (Versailles).

2. Thông điệp và tính thời sự

 Lời nguyện trong ngày van xin Thiên Chúa cho chúng ta được tràn đầy tinh thần của thánh Augustinô, chỉ khao khát mỗi mình Thiên Chúa và chỉ tìm Người vì Người là nguồn của sự khôn ngoan.  Đề tài tìm kiếm chân lý là trọng tâm của đời sống thánh nhân; ngài nói với Cassiciacum: “Tâm hồn con xin nói Ngài: Con đã đi tìm nhan thánh Chúa!  Lạy Chúa, cho đến bây giờ, con vẫn đi tìm nhan thánh Ngài !” (Tự thuật IX,3). 

Trong bản văn Phụng vụ giờ kinh, vị thánh tiến sĩ thành Hippone ca tụng chân lý: “Chí có tình yêu mới có thể nhận ra chân lý.  Ôi chân lý vĩnh hằng!  Ôi tình yêu vĩnh cửu, Ôi sự đời đời đáng yêu!  Ngài là Thiên Chúa của con, con khao khát Chúa đêm ngày…  Cuối cùng con đã được ôm lấy Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, Đức Giêsu Kitô!…  Chính Người đã gọi chúng con và nói rằng: Ta là Đường, là sự Thật và là sự sống” (Tự thuật VII, 10.18).  Bài đọc này trích đoạn nổi tiếng mà chúng ta gặp trong điệp ca Magnificat: “Ôi sự đẹp đẽ vừa cổ kính vừa mới lạ, Con đã yêu Người quá trễ!  Nhưng bây giờ: Ngài ở trong con, trong khi con còn ở bên ngoài, và ở bên ngoài con lại đi tìm Chúa… Chúa luôn ở với con, còn con con không ở với Chúa…  Ngài đã gọi con, đã kêu lớn tiếng, cuối cùng Chúa đã thắng sự điếc lát của con; Chúa tỏ sáng, Chúa bừng lên và Chúa đã xua đuổi sự tối mù của con…” (Tự thuật; Chúa tỏ sáng, Chúa bừng lên và Chúa đã xua đuổi sự tối mù của con…) (Tự thuật X,27).

 Sự khôn ngoan của thánh Augustinô được nhận thấy trong Lề luật viện tư tưởng, xuất phát từ những giáo huấn trong một lá thư của thánh tiến sĩ, được phổ biến rộng rãi vào thời Trung Cổ.  Bản Luật này cũng ảnh hưởng trên thánh Bênêđíctô, sau đó là các kinh sĩ của thánh Phanxicô và thánh Đaminh. “Từ một trái tim duy nhất và từ một tâm hồn duy nhất, hướng về Thiên Chúa” luôn là luật căn bản, như lý tưởng của chính cộng đoàn tiên khởi (x. Cv 2,42-47).

 Lời nguyện Hiệp Lễ lấy cảm hứng từ các Bài giảng của thánh nhân (57,7) làm nổi bật một khía cạnh khác của giáo lý thánh Augustinô: bí tích Thánh Thể giúp chúng ta đồng hình đồng dạng với Đấng mà chúng ta rước lấy.  Vì thế chúng ta cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho việc thông phần vào Bàn Tiệc thánh hóa chúng con, để một khi chúng con là chi thể của Nhiệm Thể của Người, chúng con thật sự trở thành điều chúng con đã lãnh nhận.”

 Thánh Tiến sĩ Ân sủng, vì đã chống lại nhóm Pelagius, cũng là kẻ bảo vệ tự tự do của con người, vì sự tự do này không bị sự toàn năng của Thiên Chúa bóp nghẹt, nhưng ngược lại được nâng lên thật cao quí, vì Thiên Chúa một khi đội mão triều thiên cho công nghiệp của chúng ta (nhờ ân sủng) thì cũng đội triều thiên cho chính ân sủng của Người (sự tự do).

 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã tuyên bố về thánh Augustinô: “Tất cả phẩm chất của các Giáo phụ nổi bật trong thánh nhân ở mức độ tuyệt diệu nhất.”  Thật vậy, không ai trình bày về Hội Thánh như ngài.  Say mê Thiên Chúa và con người, ảnh hưởng của ngài có thể nói là nổi bật nhất trong phạm trù công giáo.

 Enzo Lodi

From: Langthangchieutim


 

Thánh Bê-na-đô (Bernard) ở Clairvaux, 1091-1153, viện phụ, Tiến Sĩ Hội Thánh – Cha Vương

Ngày Thứ 4 tràn đầy Tình Yêu của Thiên Chúa nhé. Nếu bạn bước theo chân các Thánh, thế nào bạn cũng sẽ gặp Chúa Kitô và Đức Maria Mẹ Ngài. Hôm nay ngày 20/08, Giáo Hội mừng kính Thánh Bê-na-đô (Bernard) ở Clairvaux, 1091-1153, viện phụ, Tiến Sĩ Hội Thánh. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy, và mời bạn hãy noi gương ngài để đến gần với Chúa và Mẹ hơn.

Cha Vương

Thứ 4: 20/08/2025   Tht7-22

Bê-na-đô sinh năm 1090 tại Fontaines-les-Dijon, Burgundy, nước Pháp trong một gia đình quý tộc. Khi 20 tuổi, Bê-na-đô từ giã quê nhà ở Burgundy để gia nhập cộng đồng đan sĩ ở Citeaux. Năm người anh em, hai người chú của ngài và khoảng 30 người bạn theo ngài vào đan viện. Trong vòng bốn năm, một cộng đoàn đang tàn lụi đã phục hồi sinh lực đủ để khai sinh một đan viện mới trong thung lũng Wormwoods gần đó, với Bê-na-đô làm đan viện trưởng. Nhiệt huyết của người thanh niên trẻ tuổi này là một đòi hỏi thật khắt khe, nhưng đối với chính ngài hơn là người khác. Một cơn bệnh nặng đã khiến ngài kiên nhẫn hơn và thông cảm hơn. Không bao lâu, thung lũng này được gọi là Clairvaux, thung lũng ánh sáng. Ngài có tài phân xử và cố vấn. Do đó, càng ngày ngài càng phải xa đan viện để giải quyết các tranh chấp đã có từ lâu trong Giáo Hội. Thánh Bê-na-đô là người đã can thiệp vào một vụ li giáo đang bùng nổ mạnh và đã đứng về phía đức giáo hoàng ở Rôma để chống với phe ngụy giáo hoàng.

     Theo truyền tụng, những lời than thở “Ôi khoan thay, nhân thay, diệu thay, Trinh Nữ Maria!” đã được thánh Bê-na-đô ứng khẩu thêm vào cuối câu kinh Chào Kính Nữ Vương. Thánh nhân đã có công phổ biến thánh thi ấy trong các cộng đoàn tu trì và các đền thánh. Năm 1220, dòng Citeaux đã quyết định buộc mọi phần tử trong dòng phải đọc thánh thi ấy hàng ngày. Kinh Hãy Nhớ, một bản kinh Thánh Mẫu rất được yêu chuộng cũng được cho là của thánh Bê-na-đô ở Claiveaux, mặc dù xác quyết này thỉnh thoảng cũng bị phản đối.

   Thánh Nhân qua đời ngày 20 tháng 8 năm 1153 tại đan viện Clairvaux. Thánh Bê-na-đô ở Clairvaux được Đức Giáo Hoàng Alexander III tôn phong hiển thánh năm 1170. Đức Giáo Hoàng Pius VIII đã tuyên xưng Thánh Bê-na-đô ở Clairvaux là Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1830. (Tóm tắt từ Nguồn: Người Tín Hữu)

Sau đây là những lời nói của Thánh Bê-na-đô:

(1) Khi Thiên Chúa yêu, thì Người không muốn điều gì khác hơn là được yêu: Thật vậy, Thiên Chúa yêu, thì Người không nhằm điều gì khác ngoài được yêu lại, vì Người biết ai yêu mến Người thì sẽ được hạnh phúc nhờ chính tình yêu đó.

(2) “Đấng chiếm đoạt những con tim” là tước hiệu mà thánh Bê-na-đô đã yêu tặng Mẹ.

(3) Ơn chiêm niệm chỉ được ban cho khát vọng thao thức và nài nẵng. 

(4) Cầu nguyện là thứ rượu làm vui thỏa tâm hồn con người.

(5) Tôi biết các binh lính phải khổ sở rất nhiều và phải chịu đựng trong âm thầm. Giả như mỗi sáng khi thức giấc, họ chịu khó thân thưa với Thiên Chúa lời than thở đơn sơ này: “Lạy Thiên Chúa của con, con ước ao làm và chịu đựng mọi sự trong ngày hôm nay vì yêu mến Chúa.” Họ sẽ tích lũy được nhiều vinh quang muôn đời.

(6) Khi hiểm nguy, khi do dự, khi khó khăn, hãy nghĩ đến Ðức Maria, hãy kêu cầu Ðức Maria. Liên lỉ kêu cầu danh ngài, hễ có đau khổ thì hãy chấp nhận trong lòng vì danh ngài. Có như thế, bạn mới chắc chắn được sự trợ giúp của lời ngài cầu bầu, đừng sao nhãng theo bước chân ngài. Với sự dẫn dắt của ngài, bạn sẽ không bao giờ lạc lối; khi cầu khẩn ngài, bạn sẽ không bao giờ nhát đảm; một khi có ngài trong tâm trí, bạn sẽ không bị lừa dối; khi được ngài nắm tay, bạn sẽ không thể vấp ngã; với sự phù trì của ngài, bạn không còn gì để sợ hãi; nếu theo ngài, bạn sẽ không mệt mỏi; nếu được ngài ưu đãi, bạn sẽ đạt được mục đích.

Câu nào đánh động Bạn nhất? Đối với mình thì câu số 5 đánh động mình nhất.

Thánh Bê-na-đô, cầu cho chúng con.

From: Do Dzung

**********************

Trên Con Đường Về Quê (Nguyễn Khắc Xuyên) – Hoàng Oanh

 Thánh Mác-xi-mi-li-a-nô Ma-ri-a Kôn-bê, linh mục, tử đạo (Maximilian Mary Kolbe) (1894-1941) – Cha Vương

Chúc bình an, hôm nay 14/08 Giáo Hội mừng kính Thánh Mác-xi-mi-li-a-nô Ma-ri-a Kôn-bê, linh mục, tử đạo (Maximilian Mary Kolbe) (1894-1941). Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Th 5: 14/8/2025   t2-23

Thánh Mác-xi-mi-li-a-nô chào đời vào ngày 7 thánh giêng năm 1894, tại Zund-Wola, thuộc nước Balan. Bố mẹ đặt tên là Raymond. Năm 1907, thánh nhân nhập dòng Phan sinh và lấy tên là tu huynh Maximilian. Ngài được gởi sang Rôma để học triết học và thần học. Kolbe thụ phong linh mục vào năm 1918. Sau khi trở về Ba lan, Ngài thành lập đội Đạo binh Đức Mẹ vô nhiễm. Năm 1927, Kolbe thành lập hội ”Thành Phố Đức Mẹ vô nhiễm”.  Hội này phát triển và lan rộng tại Ba Lan và nhiều nước khác.

   Trở về Ba Lan năm 1936, cha phải chịu nhiều cuộc bách hại của Gestapo (mật thám Đức Quốc xã). Ngày 17 tháng 2 năm 1941, Maximiline bị bắt và giam vào trại Auschwitz, với số hiệu tù nhân: 16670.

   Vào ngày 31 tháng Bảy 1941, có một tù nhân trốn thoát. Sĩ quan chỉ huy trại bắt 10 người khác phải chết thay. Hắn khoái trá bước dọc theo dãy tù nhân đang run sợ chờ đợi sự chỉ định của hắn như tiếng gọi của tử thần. “Tên này.” “Tên kia.” Có những tiếng thở phào thoát nạn. Cũng có tiếng nức nở tuyệt vọng. Trong khi 10 người xấu số lê bước về hầm bỏ đói, bỗng dưng tù nhân số 16670 bước ra khỏi hàng. “Tôi muốn thế chỗ cho ông kia. Ông ấy có gia đình, vợ con. “Cả một sự im lặng nặng nề. Tên chỉ huy sững sờ, đây là lần đầu tiên trong đời hắn phải đối diện với một sự can đảm khôn cùng. “Mày là ai?” “Là một linh mục.” Không cần xưng danh tính cũng không cần nêu công trạng. Và Cha Kolbe được thế chỗ cho Trung Sĩ Francis Gajowniczek.

       Trong “hầm tử thần” tất cả bị lột trần truồng và bị bỏ đói để chết dần mòn trong tăm tối. Nhưng thay vì tiếng rên xiết, người ta nghe các tù nhân hát thánh ca. Vào ngày áp lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (14 tháng 8 năm 1941) chỉ còn bốn tù nhân sống sót. Tên cai tù chấm dứt cuộc đời Cha Kolbe bằng một mũi thuốc độc chích vào cánh tay. Sau đó thân xác của ngài bị thiêu đốt cũng như những tù nhân khác. Đức Thánh Cha Phaolô VI phong chân phước cho Ngài vào năm 1971. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh vào năm 1982. Mời bạn hãy noi gương thánh nhân qua việc suy gẫm những câu nói của ngài và can đảm làm một việc bác ái nho nhỏ hôm nay nhé.

(1) Thiên Chúa cho phép mọi việc xảy ra để nhắm đến một phúc lành lớn hơn.

(2) Chúng ta hãy để Mẹ hướng dẫn, hãy đưa tay cho Mẹ dắt dìu, hãy sống yên hàn dưới sự dẫn dắt của Mẹ; chính Mẹ sẽ chăm sóc và tiên liệu mọi sự cho chúng ta, sẽ mau mắn cứu giúp, đáp ứng những nhu cầu hồn xác, đẩy lùi những khó khăn phiền toái cho chúng ta.

(3) Chính sự vâng phục, và chỉ có sự vâng phục mà thôi, mới cho ta biết chắc ý muốn của Thiên Chúa. 

(4) Chừng nào chúng ta phải hy sinh ý riêng, chừng đó lòng yêu mến đó được thể hiện rõ ràng hơn cả. 

(5) Bạn đừng e sợ rằng: bạn dành cho Mẹ Maria quá nhiều tình yêu. Liệu tình yêu của bạn có hơn tình yêu Chúa Giêsu dành cho Mẹ.

❦  Câu nào đánh động bạn nhất?

From: Do Dzung

************************

Con Chúa Hy Sinh – Hiệp Lễ

Thánh Edith Stein (1891-1942), nữ tu, tử đạo – Cha Vương

Ngày thứ 7 và cuối tuần an lành và bình an nhé. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Tê-rê-xa Bê-nê-đíc-ta (Thánh Edith Stein, nữ tu, tử đạo). Xin thánh nhân chuyển cầu cho chúng con trong những thăng trầm của cuộc sống. 

Cha Vương

Thư 7: 09/08/2025  t6 – 24

Thánh Edith Stein (1891-1942), một nữ tu Camêlô thánh thiện, một triết gia uyên thâm và một văn sĩ sáng giá, không những ngài có ảnh hưởng lớn ở thời ấy mà ngày nay, ảnh hưởng ấy đang lan tràn trong giới triết gia và trí thức ở Ðức cũng như trên toàn thế giới. Ngài là nguồn cảm hứng cho tất cả những ai coi Thánh Giá là di sản, và cuộc đời ngài được dâng hiến cho sự đau khổ và bách hại của dân tộc Do Thái.

 Sinh ngày 12 tháng 10 năm 1891 trong một gia đình Do Thái ở Breslau, nước Ðức, ngay từ nhỏ Edith Stein đã chứng tỏ năng lực học hỏi lạ thường, và vào lúc bắt đầu Thế Chiến I, ngài đã học xong triết và ngữ văn tại đại học Breslau và Goettingen. Sau cuộc chiến, ngài tiếp tục cao học tại Ðại Học Freiburg và lấy bằng tiến sĩ ưu hạng về triết. Sau đó ngài là giáo sư phụ tá và là cộng tác viên của Giáo Sư Husserl, cha đẻ của hiện tượng học và cũng là người có ảnh hưởng lớn đến tư duy của thánh nữ. Trong tất cả các ngành học hỏi, Edith Stein không chỉ tìm kiếm chân lý mà còn đi tìm chính Chân Lý và ngài đã tìm thấy ở Giáo Hội Công Giáo sau khi đọc tự truyện của Thánh Têrêsa Avila. 

Edith Stein được rửa tội vào ngày đầu năm 1922. Sau khi trở lại đạo, Edith dùng toàn thời giờ để dạy học, diễn thuyết, viết lách và thông dịch, và không bao lâu ngài trở nên một triết gia và tác giả nổi tiếng, nhưng điều ngài khao khát là cuộc sống cô độc và tịnh niệm của dòng Camêlô, là nơi ngài tận hiến cho Thiên Chúa và người dân của ngài. Trước khi Ðức Quốc Xã bách hại người Do Thái khiến ngài phải ngưng mọi hoạt động thì cha linh hướng đã đồng ý để ngài gia nhập dòng Camêlô Hèn Mọn ở Cologne-Lindenthal vào tháng Mười năm 1933. Vào tháng Tư năm kế tiếp, ngài được mặc áo dòng và lấy tên là “Têrêsa Bênêđícta của Thánh Giá.” Vào Chúa Nhật Phục Sinh năm 1935, ngài khấn trọn. Khi sự bách hại người Do Thái gia tăng mãnh liệt và điên cuồng, Sơ Têrêsa Bênêđícta nhận thấy sự nguy hiểm khi có mặt tại nhà dòng Camêlô ở Cologne, và ngài đã xin phép bề trên để di chuyển đến một tu viện ở ngoại quốc. Vào đêm 31 tháng Mười Hai 1938, ngài bí mật vượt biên giới đến Hòa Lan là nơi ngài được tiếp đón một cách nồng nhiệt vào dòng Camêlô ở Echt. Ở đây ngài sáng tác văn bản sau cùng là Thánh Giá Học.

   Chính Thánh Giá của ngài thì ở trước mặt, vì lúc ấy Ðức Quốc Xã đã xâm lăng Hòa Lan, và khi các giám mục Hòa Lan công bố lá thư mục vụ phản đối việc trục xuất người Do Thái và đuổi các học sinh Do Thái ra khỏi trường Công Giáo, thì Ðức Quốc Xã ra lệnh bắt giữ mọi người Công Giáo thuộc gốc Do Thái ở Hòa Lan. 

Sơ Têrêsa Bênêđícta bị bắt vào ngày 2 tháng 8 năm 1942, và được chở đến trại tử thần Auschwitz. Ngài chết trong phòng hơi ngạt ở Auschwitz ngày 9 tháng 8 năm 1942. 

Vào ngày 01 tháng 5 năm 1987, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong chân phước cho Sơ Têrêsa Bênêđícta, và sau cùng sơ được phong thánh ngày 11 tháng 10 năm 1998. 

(Trích Gương Thánh Nhân – ns Người Tín Hữu online) và (Nhóm Tinh Thần nhuận chính lại theo Patron Saint và Santi-Beati-Testimoni)

   Sau đây là một đoạn viết của Thánh Edith Stein: “Những gì trong dự án của Thiên Chúa tôi không hề dự liệu tí nào. Tôi đã có được một đức tin sống động và xác tín rằng, theo quan điểm của Thiên Chúa, không hề có chuyện ngẫu nhiên tình cờ, tất cả cuộc đời của tôi, cho tới hết mọi chi tiết của nó, đều đã được phác họa trong sự quan phòng thần linh của Thiên Chúa và có một ý nghĩa trọn vẹn và toàn hảo trước con mắt toàn tri của Thiên Chúa”.

(Nguồn: theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 8/2/2007)

Bạn nghĩ thế nào về đoạn trích này?

From: Do Dzung

***********************

Con Có Chúa Mà – Nguyễn Hồng Ân

Thánh Đa Minh (1170-1221)- Cha Vương

Một ngày bình an và hạnh phúc nhé. Hôm nay 8/8 Giáo Hội mừng kính Thánh Đa Minh, chúc mừng Bổn Mạng đến các nam nữ tu sĩ, linh mục Dòng Đa Minh và những ai nhận thánh Đa Minh làm quan thầy. Chúc mừng! Chúc mừng!

Cha Vương

Thứ 6: 8/8/2025 t5-24

Thánh Đa Minh (1170 -1221) sinh tại Caleruega, thuộc dòng tộc Guzman, nên được gọi là Đa Minh Guzman. Guzman là một dòng tộc vị vọng tại Tây ban nha vào thời trung cổ. Thân phụ ngài là ông Felix, một kiếm sĩ “tuyệt vời và dịu dàng.” Bà cố là Joanna d’Aza, xuất thân từ gia đình cao quý. Bà cố đạo đức và được đức giáo hoàng Leo XII tuyên phong chân phước. Bên cạnh Đa Minh, bà cố còn có một người con nữa cũng là chân phước dòng Đa Minh: Mannes. Thực là gia đình đạo hạnh: một thánh, hai chân phước. Theo thánh Jordan Saxony, vị ký lục về cuộc đời Đa Minh kể lại, thì khi đang mang thai, bà cố mơ thấy mình cho chào đời một con chó ngậm bó đuốc đang cháy sáng và mang lửa đến khắp thế giới. Rồi trong ngày thánh nhân rửa tội, mẹ đỡ đầu trông thấy trên trán chú bé một ngôi sao sáng, chiếu tỏa chung quanh. Do đó tại sao ngày nay khi tạc tượng thánh Đa Minh, người ta cũng tạc luôn tượng con chó đang ngậm đuốc sáng nằm dưới chân, còn trên trán ngài thì có ngôi sao sáng. Dù được cưng chiều, thánh Đa Minh sớm sống đời khổ hạnh. Đến tuổi đi học, Đa Minh được gởi tới thụ giáo với ông cậu là linh mục ở Gumiel. Năm 14 tuổi, Ngài theo học tại đại chủng viện ở Palencia và đã tiến triển rất nhanh về hiểu biết lẫn nhân đức. Nạn đói lan tràn nước Tây Ban Nha, một người bạn đến thăm Đa Minh không thấy đồ dùng lẫn những pho sách quí đâu nữa. Ngài đã bán để giúp người nghèo khó rồi. Gương sáng này đã lôi kéo được nhiều sinh viên lẫn các giáo sư bắt chước. Ngài là đấng sáng lập Dòng Anh Em Giảng Thuyết (Ordo Praedicatorum”, viết tắt: O.P.) về sau người ta thường gọi là Dòng Đa Minh. 

Vào năm 1206 thánh nhân lập hội dòng nữ Đa Minh đầu tiên tại Prouille, nước Pháp. Ngài chọn đường lối rao giảng Tin Mừng bằng cách lấy khó nghèo và cầu nguyện làm gương sáng thu hút mọi người. Cuộc đời của thánh Đa Minh được giáo hội ca tụng là ngài chỉ “nói với Chúa, về Chúa và trong Chúa.” Đem Chúa đến cho tha nhân, và nhờ sức mạnh của lời cầu nguyện, người dẫn đưa tha nhân về với Chúa. Chân phước Jordano ghi rằng: Cha thường cầu nguyện suốt đêm, Chúa đã ban cho cha ơn đặc biệt cầu nguyện cho các tội nhân, cho người nghèo và người sầu khổ. Cha cảm thông với những đau cổ của họ tận đáy lòng, và biểu hiện ra bên ngoài bằng những dòng nước mắt. Có khi giữa đêm thanh vắng. Ngài lớn tiếng kêu nài: Chúa ơi! Rồi đây các tội nhân sẽ ra sao? Một hôm Thánh Nhân rảo qua khắp nẻo trên đường giảng dạy, một thanh niên ngây ngất hỏi Ngài đã học cách nào, Ngài nói: Hỡi con trong sách đức ái đó, sách này hơn mọi sách dạy bảo tất cả. 

(Nguồn: Hạnh Các Thánh)

    Hôm nay mời Bạn hãy bắt chước Thánh Đa Minh, bằng chính đời sống cầu nguyện của mình, “đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Máccô 16:15), và qua việc cầu nguyện dẫn đưa tha nhân về với Chúa. 

From: Do Dzung

ĐaMinh Ngọn Đuốc Tin Mừng (Sáng tác: Sr. Clara Chu Linh .OP) – Vũ Phong Vũ