S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Vợ Tù

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

15/05/2025

The Catcher in the Rye xuất bản năm 1951, khi tôi chưa kịp mở mắt chào đời. Tuy hai phần ba thế kỷ đã qua, và tôi cũng sắp sửa từ giã cõi trần (tới nơi rồi) nhưng vẫn chưa bao giờ tìm đọc nguyên văn tác phẩm này của J.D Salinger cả.

Lý do, giản dị, chỉ vì tôi đã đọc Bắt Trẻ Đồng Xanh (Thanh Hiên xb 1967) của Phùng Khánh tự lâu rồi. Dịch giả hẳn là phải thông thạo Anh ngữ lắm nên bản tiếng Việt vô cùng gẫy gọn, trong sáng (và cũng rất tài hoa) khiến tôi sợ rằng đọc nguyên tác chưa chắc đã thích bằng. Nó hay đến độ mà nhà văn Võ Phiến cũng có một tạp luận) cùng tên (“Bắt Trẻ Đồng Xanh”) vì ông đã mượn tựa từ bản dịch của ni sư Thích Nữ Trí Hải.

Bài viết này xuất hiện lần đầu trên tạp chí Bách Khoa – phát hành từ Sài Gòn, vào tháng 10 năm 1968 – và đến nay vẫn còn được độc giả quan tâm, dù hơn nửa thế kỷ đã qua. Một trong những vấn đề được tác giả đề cập đến là số phận bi đát của những người phụ nữ miền Nam, có chồng (và mất chồng) chỉ trong vài hôm – hoặc vài tuần – sau Hiệp Định Genève :

“Cuộc chiến này xuất hiện ngay từ những cuộc liên hoan chia tay giữa kẻ ở người đi trong thời hạn 300 ngày tập kết, những cuộc liên hoan có hát có múa, có bánh trái tiệc tùng… Nó xuất hiện ngay từ những đám cưới vội vã sau ngày đình chiến, những đám cưới lắm khi tổ chức tập thể, do trưởng cơ quan, trưởng đơn vị chủ tọa. Nạn nhân đầu tiên của cuộc chiến này không phải là những kẻ ngã gục vào 1958, 1959, mà là những cô gái tức khắc biến thành góa bụa từ 1954.”

Sáu năm sau Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được thành lập, vào hôm 20 tháng 12 năm 1960, tại huyện Châu Thành – tỉnh Tây Ninh. Tuy được “dựng” lên ở miền Nam  nhưng phần lớn cán binh (và tử sĩ) lại là người miền Bắc, theo ghi nhận của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện:

Trại lính, trại tù, người đi không ngớt 

Người về thưa thớt dăm ba 

Trẻ con đói, xanh như tàu lá 

Cày bừa phụ nữ đảm đang

Chốn thôn trang vắng bóng trai làng 

Giấy báo tử rơi đầy mái rạ! (“Đất Này Chẳng Có Niềm Vui1965)

Mười năm sau năm nữa (năm1975) thì chiến tranh chấm dứt. Tuy hòa bình đến nhưng trại lính, trại tù, người (vẫn) đi không ngớt. Bọn trẻ thì đi thi hành nghĩa vụ quốc tế (giải phóng nước bạn Cambodia), còn lớp già (thuộc phe thua trận) thì đi … học tập cải tạo.

Dù được bên thắng cuộc hứa hẹn là thời gian “thụ huấn” chỉ vài tuần thôi nhưng thực tế thì người về thưa thớt dăm ba, và không ít kẻ đã ra đi vĩnh viễn, để lại vô số những vành khăn tang trên đầu cô phụ (vào giữa thời bình) mà chả hề có một tờ thư hay mảnh giấy báo tử nào ráo trọi.

Nếu còn sống sót, kẻ thất trận cuối cùng cũng đã rời trại tù vào những năm đầu của thập niên 1990, sau gần 20 năm bị giam cầm. Hơn một phần tư thế kỷ đã qua. Tù nhân chính trị ở Việt Nam hiện nay đều thuộc vào lớp người mới, với tên gọi mới: tù nhân lương tâm – TNLT.

Hôm 22 tháng 6 năm 2021, VOA cho biết:

“Theo báo cáo mới được đưa ra của VNHR, ít nhất 46 người đã bị bắt giữ và truy tố tính đến ngày 31/5 vì vi phạm Bộ luật Hình sự 2015 sau khi ‘bày tỏ quan điểm chính trị của họ thông qua mạng xã hội’, một cáo buộc mà các nhà chức trách gọi là ‘chống phá nhà nước’. Nhóm nhân quyền ở California cho biết rằng những người khác bị bắt trong năm qua bao gồm các nhà hoạt động chính trị, nhà báo độc lập và những người khiếu kiện về quyền đất đai.”

Ngày 15 tháng 7 năm 2022, bỉnh bút Nguyễn Văn Lung (Tạp Chí Luật Khoa) cập nhật thêm vài ba dữ kiện :

“Trong nửa đầu năm 2022, đã có 16 người bị bắt liên quan đến những vấn đề như quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí hay quyền tự do hoạt động hội nhóm… Con số bị bắt đó tương đương với các năm trước, khi mà cả năm 2021 và 2020 đều có 39 người bị bắt vì những vấn đề nhân quyền. Hiện tượng này có thể gọi là ‘đàn áp một cách ổn định’. Những con số đáng buồn cho thấy không có tiến triển gì trong việc cải thiện tình hình nhân quyền trong nước.

Tuy tuyệt nhiên “không có tiến triển gì trong việc cải thiện tình hình nhân quyền trong nước” nhưng đã có sự thay đổi lớn lao (và khá bất ngờ) nơi thái độ của không ít nạn nhân. Phụ nữ Việt Nam hiện nay không còn chịu nín lặng trong cảnh góa bụa, ngay sau ngày cưới, như lúc đình chiến 1954. Họ cũng không cắn răng và nuốt nước mắt, trước cảnh gia đình tan nát (chỉ vì chả may thuộc bên thua cuộc) như sau Đại Thắng Mùa Xuân 1975 nữa.

Những người vợ tù bây giờ đã cùng chồng tích cực nhận lãnh vai trò “tác nhân,” thay vì chỉ nhẫn nhục “cam chịu lịch sử” như lớp người đi trước, dù họ vẫn bị đe dọa và sách nhiễu thường xuyên:

Công an Thanh Hóa dọa bắt luôn vợ Bùi Văn Thuận

Vợ TNLT Trương Minh Đức bị câu lưu, tước hộ chiếu

Ông Trịnh Bá Phương bị ép cung: “Không nhận tội vợ sẽ bị bắt”

Vợ nhà báo Lê Trọng Hùng bị từ chối thăm gặp chồng

Công an Hà Nội gây khó dễ việc tiếp tế cho nhà hoạt động Trương Văn Dũng đang bị tạm giam

Gia đình tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Túc bị nhiều công an bao vây

Gia đình tù nhân lương tâm khiếu nại việc đối xử thô bạo, nhục mạ bởi quản giáo

Thân nhân đi thăm tù bị đánh đập

Chính sách thô bạo và ti tiện cố hữu của nhà đương cuộc Hà Nội, xem ra, không có chút tác dụng nào đáng kể. Phản ứng và cách hành xử của những người vợ tù hiện nay, thế hệ sinh trưởng trong lòng cách mạng, đã hoàn toàn khác trước.

Xin ghi lại dăm ba trường hợp, theo thứ tự abc, để rộng đường dư luận :

Bùi Huệ, phu nhân của TNLT Dũng Vova: “Đến nay Vova được sự ủng hộ và quý mến của không ít các bà con, anh em cùng lý tưởng. Nó giống như vị ngọt của cà phê đã trải qua cái đắng.”

Đỗ Lê Na, phu nhân của TNLT Lê Trọng Hùng: “Tôi cũng muốn cho người dân ở trong nước, đặc biệt là những gia đình đấu tranh, một số gia đình thì cũng còn e ngại trong việc người thân của mình bị bắt bớ, có những gia đình không dám thẳng thắn lên tiếng, thì tôi muốn qua cái câu chuyện của gia đình mình để cho mọi người biết rằng là cái quyền lên tiếng để chống lại áp bức bất công – đó là quyền của mỗi người, và nếu chúng ta làm đúng thì chúng ta sẽ không có gì phải sợ hãi họ cả.”

Trịnh Nhung, phu nhân của TNLT Bùi Văn Thuận: “Cháu/em là vợ của anh Thuận, luôn tự hào về anh, ủng hộ và tin tưởng rằng anh không làm gì sai cả, nên sẽ luôn đồng hành cùng anh trên con đường khó khăn phía trước.”

Đỗ Thu, phu nhân của TNLT Trịnh Bá Phương: “Tôi đã chuẩn bị sẵn tinh thần. Tôi nghĩ họ sẽ không để yên cho tôi đâu.”

Nguyễn Thị Ánh Tuyết, hôn thê của TNLT Đỗ Nam Trung: Sau này Trung về chắc chắn chúng tôi sẽ thực hiện nốt những việc còn dang dở, mà chúng tôi đã có những dự tính cho tương lai của hai đứa. Và tôi cũng sẽ kể cho Trung nghe rất nhiều về những tháng ngày đã xa cách này, tôi đã nhớ Trung biết bao nhiêu…”

Lê Bích Vượng, phu nhân của TNLT Nguyễn Lân Thắng: “Bốn tuần. Ba mươi ngày. Một tháng. Nghe nói tóc anh bạc nhiều. Nghe nói anh gầy đi. Nghe nói anh già đi đến vài tuổi. Uh. Không sao. Mọi người luôn bên anh – Như anh đã có mặt ở những vùng đất khó khăn, những khi bão lũ, thiên tai, nhân hoạ … tàn phá.”

Không chỉ thân nhân mà bằng hữu, hàng xóm, láng giềng cũng thế. Thái độ của họ đối với những TNLT của chế độ hiện hành hoàn toàn đã khác. Hình ảnh, biểu ngữ, cùng những bó hoa rực rỡ và bia bọt tràn lan khi mọi người chào đón Phạm Thanh Nghiên, Cấn Thị Thêu, Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh (như những vị anh thư hay anh hùng của thời đại) đã khiến cho cư sỹ Phạm Nguyên Trường cảm thán: “Trong nước CS mà đón tù chính trị về vui vẻ như thế này thì thời gian tồn tại của chế độ có thể kéo dài bao lâu?”

Ơ hay, cái ông này hay nhỉ? ̣Sao đã tu tại gia (và đã muốn gác bỏ chuyện thế sự ngoài tai) mà vẫn còn “bao la” thế? “Thời gian tồn tại của chế độ còn có thể kéo dài bao lâu” nữa là chuyện của “các đồng chí lãnh đạo ở trên,” chứ việc gì mình phải bận tâm!


 

Ba ‘cô tiên’ gốc Việt cứu người suýt chết trong nhà hàng ở Little Saigon

Ba’o Nguoi-Viet

May 14, 2025

Văn Lan/Người Việt

GARDEN GROVE, California (NV) – Ba cô gái Việt Nam vừa được vinh danh trong một buổi tiệc nhỏ ở nhà hàng Brodard Chateau, Garden Grove, lúc 7 giờ tối 23 Tháng Tư, vì trước đó cứu được một người suýt chết trong một buổi tiệc ở một nhà hàng khác trong vùng Little Saigon.

Cô Michelle Đỗ (bìa trái, đại diện GSV Janet Nguyễn) trao tặng bằng tưởng lục vinh danh ba “cô tiên” cứu người, từ trái, Tricia Hoàng, Jacqueline Ngọc Diễm Trần, và Vannessa Nina Rose Phạm. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Vì hành động anh hùng đó mà ba “cô tiên” Tricia Hoàng, Jacqueline Ngọc Diễm Trần, và Vannessa Nina Rose Phạm được Văn Phòng Giám Sát Viên Janet Nguyễn tuyên dương.

Tại buổi tiệc, cô Michelle Đỗ, đại diện vị dân cử gốc Việt, trao tặng bằng tưởng lục đến ba người này, và nói rằng: “Họ đã có hành động anh hùng, phản ứng nhanh chóng và vị tha trong trường hợp khẩn cấp đe dọa tính mạng người khác. Khi sự việc xảy ra, hô hấp nhân tạo (CPR) và sự hỗ trợ cần thiết của họ đã đóng vai trò quan trọng trong việc cứu sống một người. Lòng dũng cảm và lòng trắc ẩn mà bạn thể hiện phản ảnh lý tưởng cao nhất về tinh thần cộng đồng và lòng nhiệt huyết.”

Được biết, sự việc xảy ra tại nhà hàng White Palace, Westminster, hôm 15 Tháng Hai.

Cô Tricia Hoàng, y sĩ của bệnh viện UCI, nhớ lại: “Hôm đó ở nhà hàng rất đông người, rất ồn ào và náo nhiệt. Khi em đang cắt bánh sinh nhật, bỗng nhiên ông xã em chạy lại báo có một phụ nữ không được khỏe. Em chạy lại thấy người phụ nữ lúc đó còn tỉnh nhưng mặt mày phờ phạc y như người thiếu ngủ.”

“Rồi gương mặt cô ấy tái nhợt, cô không còn thở, té ngửa ra bất tỉnh kéo em té theo. Em đỡ cô ấy lên làm CPR (bằng miệng). Trong khi đó, cô Jacqueline Ngọc Diễm Trần, cũng là y sĩ, chạy tới làm phương pháp đập ngực để giúp tim bệnh nhân có nhịp đập trở lại. Khoảng hơn 5 phút sau, cô ấy bắt đầu thở lại được. Tiếp đến, cô Vannessa Nina Rose Phạm chạy tới nâng đầu cô ấy qua một bên, và cô ta nôn mửa lên người Nina. Mấy phút sau, xe cấp cứu tới chở cô ấy đi bệnh viện,” cô Tricia kể tiếp.

Cô Liên Nguyễn (ngồi, thứ hai từ phải), em cô Vân Nguyễn, đại diện chị ngỏ lời cám ơn ba “cô tiên” đã cứu sống chị cô. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Theo cô Tricia, “có thể cô ấy bị nhồi máu cơ tim, hoặc là gì khác nữa chăng, có nhiều nguyên nhân lắm. Ngay lúc nguy cấp đó em chỉ biết cứu người thôi. Nếu mình biết cách cứu chữa thì nên làm. Là người trong ngành y thấy người sắp chết không thể không cứu.”

Trong khi đó, cô Jacqueline Ngọc Diễm Trần, cũng là một y sĩ lâu năm, cộng tác với Trung Tâm Y Tế Michael Đào tám năm nay, cho biết khi cô chạy đến, bệnh nhân đã bất tỉnh, mặt tái ngắt và không còn hơi thở.

Cô tiếp: “Tricia đỡ cô ấy nằm xuống đất làm hô hấp nhân tạo, và em thăm dò coi mạch máu ở cổ còn đập hay không. Khi không thấy nhịp đập thì Tricia làm CPR, còn em kích thích nhịp tim bằng CPR, ấn lòng ngực nhiều lần để hồi sức tim phổi, kết hợp giữa ép tim trong lồng ngực và thông khí nhân tạo.”

“Sau đó, bệnh nhân có hơi thở trở lại nhưng rất yếu, tụi em ngưng làm CPR, lay cho đến khi cô mở mắt ra thì nạn nhân buồn nôn, phải đặt cô ấy nằm nghiêng một bên đề phòng khi ói không chảy ngược vào cuống phổi. Cô ấy ói rất nhiều, vài phút sau là xe cấp cứu tới đưa nạn nhân đi nhà thương,” cô Jacqueline Ngọc Diễm Trần kể.

Cô Jacqueline kể thêm: “Trường hợp này cho thấy triệu chứng của người bị nhồi máu cơ tim. Ví dụ như không còn hơi thở, không còn nhịp tim, mặt tái lại, nếu để nạn nhân nằm yên không can thiệp kịp thời thì nguy cơ tử vong rất cao vì não không có oxy. Nếu có cứu được thì não cũng bị tổn thương, tuy sống sót nhưng có thể bị đột quỵ, nếu chúng em không có ở đó, có thể chuyện không hay đã xảy ra.”

Nhóm bạn và đồng nghiệp của ba “cô tiên” cứu người, trong buổi tiệc mừng vinh danh. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Cô Vannessa Nina Rose Phạm, Hoa Hậu Nhân Ái California, cũng có mặt trong giây phút cấp cứu người bị nạn.

Cô cho hay cô cũng là y tá ở San Jose, California. Trong phút giây nguy cấp, cứu người là hành động tức khắc, chậm một giây phút nào là nguy đến tính mạng ngay lập tức.

Tại buổi tiệc, cô Vân Nguyễn, người bị ngưng tim trong tiệc sinh nhật hai tháng trước đã được cứu thoát trong gang tấc, vì bận việc không đến dự được, nên cô Liên Nguyễn là em của cô Vân, thay mặt chị ngỏ lời cám ơn ba “cô tiên” trong đời thường, đã kịp thời cứu chị cô qua cơn nguy hiểm.

Cô Michelle Đỗ cho hay hành động nhanh chóng, phản ứng kịp thời của ba cô này để cứu người đang cơn nguy cấp đến tính mạng rất đáng ca ngợi, vì không phải ai biết CPR cũng có thể làm với phản xạ cấp kỳ như vậy được.

Cô tiếp: “Văn Phòng Giám Sát Viên Janet Nguyễn khuyến khích mọi người nên biết đến phương pháp CPR này, ít nhất là trong gia đình để khi gặp trường hợp khẩn cấp có thể hành động nhanh được, cứu sống một mạng người rất quan trọng, mọi người nên để ý đến.” [đ.d.]


 

Nguy cơ vỡ nợ : Liệu Mỹ có lặp lại lịch sử năm 1933 ?

RFI

Ngày 10/05/2025, bộ trưởng Tài Chính Scott Bessent cảnh báo Mỹ có nguy cơ sẽ không còn khả năng thanh toán các nghĩa vụ tài chính vào tháng 8 nếu không đình chỉ hoặc nâng trần nợ công. Trong thư ngỏ gởi đến chủ tịch Hạ Viện Mike Johnson, ông kêu gọi Quốc Hội sớm hành động nhằm « duy trì mức độ tin cậy và lòng tin » của cộng đồng quốc tế và các chủ nợ đối với Hoa Kỳ.

Đăng ngày: 14/05/2025 

Ảnh minh họa: Tờ một đô la Mỹ.

Ảnh minh họa: Tờ một đô la Mỹ. AFP – ANDY JACOBSOHN

Minh Anh

Lời kêu gọi này được ông Bessent đưa ra vào lúc Quốc Hội Mỹ đang thảo luận về việc điều chỉnh trần nợ, hiện đã ở mức 36.000 tỷ đô la – một giới hạn đã được Quốc Hội phê duyệt và đã bị vượt quá từ tháng Giêng năm 2025. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như Hoa Kỳ thực sự mất khả năng huy động thanh khoản ? Câu chuyện Mỹ bị vỡ nợ và đơn phương tái cấu trúc nợ năm 1933 vẫn còn ám ảnh giới chuyên gia cho đến ngày nay.

Vỡ nợ công là gì ?

Giáo sư Charbel Cordahi, chuyên ngành Tài Chính và Kinh tế, Trường Quản trị Kinh doanh Grenoble, trên trang The Conversation (07/05/2025) trước hết giải thích, vỡ nợ công diễn ra khi một quốc gia không thực hiện được mọi nghĩa vụ tài chính, bao gồm cả việc trả lãi cho các chủ nợ. Một trong nhiều lý do chính yếu khiến một nước vỡ nợ là do tình trạng trì trệ kinh tế kinh niên, được đặc trưng bởi tăng trưởng thấp, thâm hụt ngân sách liên tục và mất cân đối cơ cấu trong tài khoản vãng lai cũng như là mức độ mắc nợ quá mức.  

Việc « phớt lờ » các dấu hiệu cảnh báo là yếu tố « quyết định » dẫn đến việc mất khả năng thanh toán, chẳng hạn như một chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm thúc đẩy mở rộng tiền tệ và giảm nhẹ gánh nặng nợ thông qua lạm phát hay giảm giá đồng nội tệ. Những lập luận ủng hộ cho việc vỡ nợ thường được dựa trên việc giảm bớt gánh nặng nợ nần, giảm dòng chảy vốn ra bên ngoài, bảo toàn dự trữ ngoại hối cũng như là nhu cầu đàm phán lại nợ.

Chuyện gì đã xảy ra giai đoạn 1840-1842 ?

Giai đoạn 1840 – 1842 đánh dấu một trong những sự sụp đổ ấn tượng nhất và bất ngờ nhất trong lịch sử nước Mỹ : 19 trong số 26 bang rơi vào tình trạng vỡ nợ. Nguyên nhân là do chi phí xây dựng kênh đào quá cao dẫn đến việc chồng chất nợ quá mức. Trong những năm 1830, nhiều bang Mỹ ký các khoản vay nợ để tài trợ các dự án hạ tầng và xây dựng kênh đào, thiết yếu cho sự phát triển kinh tế. Các dự án này chủ yếu được tài trợ thông qua việc phát hành trái phiếu Nhà nước. 

Một thế kỷ sau, trong suốt năm 1933, chính phủ Mỹ từ chối trả niên kim vàng nợ cho Panama theo hiệp ước 1903, tiểu bang Arkansas vỡ nợ và chế độ bản vị vàng bị tân tổng thống Franklin Roosevelt đình chỉ.

Sập sàn chứng khoán 1929 : Điểm xuất phát cho cuộc Đại Suy Thoái ?

Giới kinh tế gia thường coi vụ sập sàn chứng khoán Thứ Năm Đen Tối, xảy ra ngày 24/10/1929 như là điểm xuất phát cho cuộc Đại Suy Thoái Mỹ. Vào lúc đỉnh điểm, năm 1933, một phần tư dân số Mỹ trong độ tuổi lao động, tức khoảng 12,83 triệu người, bị thất nghiệp. Thu nhập của những lao động may mắn giữ được việc làm sụt giảm đến 42,5% trong giai đoạn 1929 – 1933. Tình trạng « đình lạm » đã xẩy ra, một hiện tượng hiếm gặp mà ở đó, đình trệ kinh tế diễn ra vào lúc lạm phát tăng cao.

Từ bỏ chế độ bản vị vàng

Trang mạng Le Temps (16/08/2018) nhắc lại rằng khi chính thức nhậm chức ngày 04/03/1933, tổng thống Franklin D. Roosevelt còn phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng ngân hàng gay gắt đến mức ông phải ra lệnh đóng cửa các ngân hàng nhiều ngày. Nguyên nhân : đồng đô la được bảo đảm bằng vàng. Do đô la mất giá, người dân chuyển đổi đô la thành vàng, dự trữ vàng của ngân hàng sụt giảm mạnh.

Vào thời điểm đó, vàng còn có một vai trò chủ chốt khác. Hầu hết các hợp đồng nợ, tư nhân và nhà nước, đều có điều khoản vàng, quy định trả nợ bằng vàng để bảo vệ nhà đầu tư trước nguy cơ đồng đô la trượt giá. Điều khoản này có liên quan đến một khoản nợ đáng kể, 120 tỷ đô la, tức chiếm đến 180% GDP nước Mỹ.

Để ngăn chặn tình trạng thất thoát kim loại quý này và bình ổn nền kinh tế quốc gia, tháng 4/1933, chính phủ Mỹ đã đình chỉ khả năng chuyển đổi của đồng đô la, đồng thời cấm những người nắm giữ đô la, bất kể là Mỹ hay nước ngoài, đổi tiền thành vàng. Biện pháp này đặt dấu chấm hết cho chế độ bản vị vàng, một hệ thống tiền tệ có hiệu lực từ năm 1879, theo đó, tiền tệ được bảo đảm bằng vàng.

Cùng lúc, tổng thống Roosevelt ra lệnh đổi tất cả các đồng tiền vàng và chứng chỉ vàng có giá trị hơn 100 đô la sang các loại tiền tệ khác. Ông bắt buộc tất cả những ai trữ đồng tiền vàng, thỏi vàng và chứng chỉ vàng phải « bán » cho Cục Dự trữ Liên bang trước ngày 01/05, với mức giá ấn định là 20,67 đô la/ounce. Đến ngày 10/05/1933, chính phủ Mỹ thu được 300 triệu đô la tiền vàng và 470 triệu đô la chứng chỉ vàng.

Trang Le Temps cho biết thêm, đến ngày 05/06/1933, Quốc Hội Mỹ hủy tất cả các điều khoản vàng của các hợp đồng có hiệu lực hồi tố, bao gồm cả những hợp đồng có liên quan đến chủ nợ nước ngoài. Một đòn sét đánh tại một nước được biết đến vì sự tôn trọng các cam kết của mình. Ngày 31/01/1934, tổng thống Roosevelt cho giảm giá đồng đô la đến 69% khi định giá vàng ở mức 35 đô la.

Những quyết định trên đã dẫn đến một cuộc chiến pháp lý giữa các nhà đầu tư với chính quyền Roosevelt, và làm dấy lên những chỉ trích cho đấy là « một hành vi vi phạm hợp đồng và chuyển giao tài sản từ chủ nợ sang con nợ », một quyết định « vi hiến »…

Mỹ « phủi » một phần nợ đối với Panama

Theo Charbel Cordahi, chính sách tái cấu trúc nợ đơn phương bằng vàng của Mỹ năm 1933, tuy phần nào đã làm giảm mạnh gánh nặng nợ của Mỹ, cho phép phục hồi nền kinh tế, nhưng cũng đã dẫn đến tình trạng vỡ nợ đối với Panama.

Quyết định của Mỹ hủy các điều khoản trả nợ bằng vàng đã làm cho những khoản nợ vay với Panama bị mất giá đến 41%. Chính phủ Mỹ từ chối thanh toán vào ngày đáo hạn bằng đồng vàng balboa, loại tiền tệ được định giá theo vàng và được sử dụng làm biểu tượng cho tiền tệ quốc gia Panama.

Việc bác bỏ một phần nợ đối với Panama đã gây ra những căng thẳng chính trị chưa từng có giữa hai nước. Phải đợi đến năm 1936, chính quyền Mỹ mới thực sự trả số tiền đã thỏa thuận bằng đồng vàng balboa.

Bang Arkansas mất khả năng thanh khoản

Trong cùng năm 1933, ngoài hai vụ vỡ nợ trên, còn xảy ra việc bang Arkansas mất khả năng thanh toán. Bang này, bị tác động mạnh bởi cuộc Đại Suy Thoái, đã không thể thanh toán các trái phiếu hạ tầng mà chính quyền bang Arkansas phát hành trong những năm 1920 để tài trợ cho các dự án xây đường cao tốc, được bảo đảm bằng nguồn thu thuế đất.

Tuy nhiên, nguồn thu thuế sụt giảm mạnh, kết hợp với khoản nợ ngày càng lớn đối với các ngân hàng của phố Wall khiến việc trả nợ trở nên bất khả thi. Ngay từ năm 1932, chính quyền bang không còn khả năng thanh toán khoản nợ gồm cả gốc lẫn lãi là 11 triệu đô la. Các nỗ lực của chính quyền bang như tái cấu trúc nợ, hay hợp nhất trái phiếu thành một đợt phát hành mới duy nhất đều bị phản bác.

Trong tình thế này, chính quyền Arkansas phải đình chỉ trả tiền nợ gốc và lãi đối với hàng triệu đô la trái phiếu. Và Arkansas trở thành bang duy nhất ở Mỹ bị vỡ nợ trong suốt cuộc khủng hoảng kinh tế của những năm 1930. Chỉ đến cuối thập niên 1930, bang này mới có thể quay trở lại thị trường tín dụng nhưng phải chịu các điều kiện ràng buộc hơn nhiều như phải tăng thuế và từ bỏ một phần quyền kiểm soát các nguồn thu từ đường cao tốc được dùng để trả nợ.

Liệu lịch sử có tái diễn ?

Dự phóng tương lai là một việc làm tế nhị và việc để vỡ nợ luôn phải trả giá. Trong trường hợp của Mỹ, việc mất khả năng thanh toán có thể làm dấy lên nghi ngờ về vị thế trụ cột của đồng đô la trong hệ thống tiền tệ quốc tế. Nhiều nước đã bắt đầu nghĩ đến nguy cơ vỡ nợ có chọn lọc đối với nợ của Mỹ. Hiện tượng này sẽ xảy ra khi một Nhà nước quyết định chọn không thanh toán một số khoản nợ trong khi vẫn tiếp tục trả các khoản nợ khác. Chiến lược này cho phép giảm nợ mà vẫn duy trì được niềm tin đối với các nhà đầu tư.

Giáo sư Charbel Cordahi kết luận : Chỉ có thời gian mới có thể trả lời…

(Nguồn The Conversation, Le Temps)


 

44 năm sau vụ ám sát Đức Gioan Phaolô II – Một bài học tha thứ vượt thời gian

Thao Teresa 

Một câu chuyện đẹp về tha thứ.

Ngày 13 tháng 5 năm 1981 – Ngày viên đạn không giết được đức tin

Hôm nay, ngày 13 tháng 5 năm 2025, chúng ta tưởng niệm một biến cố chấn động thế giới Công giáo: vụ ám sát Đức Gioan Phaolô II tại Quảng trường Thánh Phêrô. Vào một buổi chiều tháng Năm cách đây đúng 44 năm, ngài bị bắn hai phát súng bởi một phần tử cực đoan khi đang đứng trên xe chào đón các tín hữu. Viên đạn xuyên qua bụng, máu chảy lênh láng, nhưng điều không ai ngờ: ngài đã sống sót.

Giữa ranh giới của sự sống và cái chết, ngài vẫn nói lời tha thứ với người ám sát mình.

Với giọng nói yếu ớt được ghi lại từ giường bệnh, ngài nói: “Tôi cầu nguyện cho người anh em đã nổ súng vào tôi, người mà tôi đã thật lòng tha thứ. Hiệp nhất với Đức Kitô, Vị Linh mục và Lễ vật, tôi dâng những đau khổ của mình cho Giáo hội và cho thế giới.” (Vatican News)

Lời ấy không phải là một cử chỉ mang tính biểu tượng. Hai năm sau, chính ngài đã bước vào phòng giam, đối diện với Mehmet Ali Ağca – kẻ từng muốn lấy mạng mình – và siết chặt tay anh ta. Không một lời lên án, không một ánh mắt giận dữ. Chỉ có sự tha thứ.

Ngài tin rằng chính Đức Mẹ Fatima đã che chở cho ngài hôm đó. Viên đạn găm trong người ngài sau đó được ngài dâng lên đền thánh Fatima như một lời tạ ơn. Ngày bị bắn – 13/5 – cũng chính là ngày kỷ niệm lần hiện ra đầu tiên của Đức Mẹ tại Fatima năm 1917.

Vụ ám sát không giết chết Đức Giáo hoàng. Trái lại, nó làm nổi bật một con người sắt thép trong đức tin, nhưng dịu dàng trong tình yêu thương. Sau vụ việc, ngài không sống trong thù hận, không đóng cửa với thế giới. Ngài đi khắp năm châu, đối thoại với người trẻ, với người nghèo, với người không tin.

Trong một thế giới ngày càng dễ nổi giận và khó tha thứ, câu chuyện của ngài là một bài học cần được nhắc lại: Tha thứ không làm yếu đi công lý, mà làm sáng lên chân dung người môn đệ Đức Kitô.

Ảnh : Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II (trái) gặp gỡ Mehmet Ali Agca tại nhà tù Rebibbia, Rôma, vào ngày 27 tháng 12 năm 1983. Agca là kẻ đã ám sát hụt ngài vào ngày 13 tháng 5 năm 1981. Ảnh: ARTURO MARI/AFP/Getty Images

Ảnh cuối : Triều thiên Đức Mẹ Fatima chứa viên đạn từ vụ ám sát Đức Gioan Phaolô II.

https://phailamgi.com/…/44-nam-sau-vu-am-sat-duc-gioan…/


 

HÃY CẦU NGUYỆN KHÔNG NGỪNG

HÃY CẦU NGUYỆN KHÔNG NGỪNG

  Thánh Alphonso Ligouri là Đấng Sáng Lập Dòng Chúa Cứu Thế và cũng là tác giả của nhiều tác phẩm thiêng liêng đã cho rằng cầu nguyện có quyền năng vô cùng vì cầu nguyện làm thay đổi bộ mặt thế giới. Ngài nói: “Ai cầu nguyện thì sẽ được ơn cứu độ.”

Nhà thơ Frances Morton đã nói về cầu nguyện như sau:
1. Lời cầu nguyện vào buổi sáng sẽ bảo đảm cho chúng ta một ngày đầy ơn lành.
2. Lời cầu nguyện vào buổi tối sẽ cho chúng ta một đêm nghỉ ngơi bình an.
3. Lời cầu nguyện khi chúng ta yếu đuối thì chắc chắn chúng ta có bàn tay mạnh mẽ của Chúa giúp đỡ.
4. Lời cầu nguyện khi chúng ta cô đơn thì Chúa sẽ đồng hành và giúp đỡ.
5. Lời cầu nguyện khi đau khổ thì sẽ được Chúa an ủi, ban bình an và nghỉ ngơi.
6. Lời cầu nguyện khi nghi ngờ thì Chúa sẽ an ủi và soi sáng và ban ơn đức tin cho chúng ta.
7. Lời cầu nguyện khi vui mừng thì sẽ gặt hái nhiều niềm vui và sự vui thỏa.
8. Lời cầu nguyện để cảm tạ lòng từ bi của Chúa thì chúng ta sẽ hạnh phúc trong mọi lúc.
9. Mỗi ngày, mỗi mùa và mỗi giờ, chúng ta cần cầu nguyện để được chúc phúc mỗi giây phút trong cuộc sống.
10. Không có linh hồn nào mà không cần ơn thánh Chúa và khi chúng ta cùng nhau kết hợp để cầu nguyện thì Chúa sẽ ban cho chúng ta những quyền năng vô biên.

From: Ngoc Bích & KimBang Nguyen

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Một gia đình nông dân

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến 

14/05/2025

Tôi vốn chả thiết tha hay mặn mà gì lắm với chuyện văn nghệ/văn gừng nên hoàn toàn không quan tâm chi đến những điều tiếng eo sèo, quanh mấy câu thơ (“hơi quá tân kỳ”) của Nguyễn Quang Thiều.

Theo Wikipedia, tiếng Việt, đọc được vào hôm 21 tháng 7 năm 2021: “Ngoài lĩnh vực chính thơ ca tạo nên tên tuổi, ông còn là một nhà văn với các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký và tham gia vào lĩnh vực báo chí. Ông hiện nay là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam; Phó Tổng thư ký thứ nhất Hội Nhà văn Á – Phi.”

Thảo nào mà Nguyễn Quang Thiều thường xuất ngoại, và hay viết về những chuyến đi. Năm tháng mà Nguyễn Quang Thiều sống ở nước ngoài, có lẽ, ít hơn thời gian tôi ngồi lê la trong mấy cái bar rượu (nơi xứ lạ) nên đọc mấy trang du ký của ông không thấy có chi là hào hứng lắm.

Cũng theo Wikipedia: “Nguyễn Quang Thiều được coi là người cùng với nhà văn, trung tướng công an Hữu Ước sáng lập nên hai tờ báo là tờ An Ninh Thế giới cuối thángCảnh Sát Toàn Cầu.”

Đã là một quan chức trong chế độ toàn trị, lại làm báo Cảnh Sát với một ông tướng công an (rất nhiều tai tiếng) nên thỉnh thoảng Nguyễn Quang vẫn bị chê trách là lẽ tất nhiên. Tuy nhiên, khách quan mà xét thì khó có thể phủ nhận được rằng ông là một người cầm bút có tài (và cũng rất có tâm) khi viết về cuộc sống ở nông thôn.

Hãy xem qua đôi đoạn (“Thư Của Đứa Con Những Người Nông Dân”) đã được đăng nhiều kỳ trên trang Vietnamnet:

“Cảnh làm ruộng của những người nông dân của mấy chục năm trước kia và bây giờ chẳng khác nhau chút nào. Có khác thì chỉ khác một điểm. Đó là người nông dân đi sau đít con trâu mấy chục năm trước kia hiện ra trong ảnh đen trắng còn người nông dân bây giờ vẫn đi sau đít trâu nhưng là trong ảnh màu rực rỡ….”

Trong những tấm “ảnh mầu rực rỡ” này, Nguyễn Quang Thiều tìm ra được nhiều con số rất “kinh hoàng” – theo như nguyên văn cách dùng từ của chính ông:

“Khi tiếp xúc với những người nông dân, tôi thường xuyên hỏi về tổng thu nhập mỗi tháng của một khẩu trong một gia đình họ là bao nhiêu. Dù rằng tôi biết họ đang sống một cuộc sống vô cùng vất vả nhưng tôi vẫn kinh ngạc khi nghe một con số cụ thể:

‘Tổng thu nhập một tháng trên một khẩu của chúng tôi là 40.000 đồng …’ 40.000 đồng có giá trị như thế nào lúc này. Đó là giá của 2 bát phở, giá của 4 lít xăng, giá của hai xuất cơm trưa văn phòng, giá của một cuốc xe ôm trên đoạn đường 10km, giá của hơn một bao thuốc lá 555, giá của 3 ly cà phê…Tôi biết sẽ có rất nhiều người không thể tin rằng tổng thu nhập hàng tháng của một khẩu trong hầu hết những gia đình nông dân lại chỉ với một con số ‘kinh hoàng’ như thế.”

Nhà văn Nguyễn Khải còn cho biết thêm đôi ba sự việc còn “kinh hoàng” hơn thế nữa:

“Ai cũng giàu có hơn trước, nấu cơm bằng nồi cơm điện, tối xem tivi mầu, giờ rảnh thì xem phim bộ. Mỗi xóm đều có cửa hàng cho thuê băng vidéo, có gái điếm cho ngủ chịu đến mùa trả bằng thóc, có cờ bạc, có hút thuốc phiện và chích heroin, thành phố có gì ở làng quê đều có, cả hay lẫn dở, dở nhiều hơn hay.”

Dù “dở nhiều hơn hay,” làng quê Việt Nam vẫn tồn tại nhờ vào vô số những nông dân “đội sương nắng bên bờ ruộng sâu, vài ngàn năm đứng trên đất nghèo ” để nuôi nấng cho cả dân tộc này được sống “no lành” – theo như lời (Tình Ca) thắm thiết của Phạm Duy.

Câu hỏi đặt ra là liệu giới nông dân còn vẫn có thể tiếp tục “đứng” mãi như thế thêm bao lâu nữa, trước tình trạng nông thôn đang bị bức tử một cách thảm thương như hiện cảnh? Bi kịch mới nhất của giới nông dân Việt Nam vừa được RFA tường trình:

“Vụ án hai nhà hoạt động vì quyền đất đai là ông Trịnh Bá Phương và bà Nguyễn Thị Tâm bị cáo buộc tội danh ‘phát tán tài liệu nhằm chống nhà nước’ đã kết thúc giai đoạn điều tra vào hôm 15 tháng 6 năm 2021…

Bà Đỗ Thị Thu, vợ ông Trịnh Bá Phương, cho biết, gia đình chồng của cô có tổng cộng ba người bị bắt giữ, bao gồm ông Phương bị công an Hà Nội bắt giam một năm về trước – chỉ bốn ngày sau khi bà sinh con…

Luật sư Lê Văn Luân, người bào chữa cho cả hai nhà hoạt động thì cho hay trên Facebook cá nhân rằng, cả bà Nguyễn Thị Tâm và ông Trịnh Bá Phương đều bị đề nghị truy tố theo khoản 2, Điều 117 Bộ Luật Hình sự với khung hình phạt từ 10 đến 20 năm tù giam.”

FB Vũ Quốc Ngữ cho biết thêm: “Từ đầu năm đến nay, an ninh Việt Nam bắt giữ ít nhất 13 người theo cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước’ hoặc ‘lợi dụng quyền tự do dân chủ,’ và kết án 14 người cũng theo hai tội danh trên với mức án từ 4 năm đến 15 năm tù giam.”

Cả hai tội danh thượng dẫn đều rất mơ hồ – nếu chưa muốn nói là hàm hồ – chỉ để che đậy cho những sự thực (phũ phàng) liên quan đến việc tranh chấp đất đai ở xứ sở này:

Hiến pháp 1959 vẫn chưa “quốc hữu hóa đất đai” như Hiến pháp 1936 của Liên Xô mà nó được coi là một bản sao. Cho dù, từ thập niên 1960 ở miền Bắc và từ cuối thập niên 1970 ở miền Nam, ruộng đất của nông dân đã bị buộc phải đưa vào tập đoàn, hợp tác xã, đất đai chỉ chính thức thuộc về “sở hữu toàn dân” kể từ Hiến pháp 1980…

Chiều 18-1-2011, khi điều khiển phiên họp toàn thể của Đại hội Đảng lần thứ XI biểu quyết lựa chọn giữa “chế độ công hữu về tư liệu sản xuất” và “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”, ông Nguyễn Phú Trọng hứa với Đại hội “thiểu số sẽ phục tùng đa số”. Nhưng, tháng 5-2012, Ban Chấp hành Trung ương mà ông Nguyễn Phú Trọng là tổng bí thư vẫn quyết định duy trì “chế độ công hữu” với đất đai, “tư liệu sản xuất” quan trọng nhất.” (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập II. OsinBook, Westminster, CA: 2013).

Chính cái được mệnh danh là “chế độ công hữu” này đã sản sinh ra vô số những “vụ cướp ngày” từ mấy thập niên qua:

“Chỉ đến thời đại của Internet và đặc biệt là mạng xã hội, những vụ cướp đất đầy tai tiếng mới được phơi bày, luôn luôn đầy bạo lực, máu, nước mắt, và tù tội. Những cái tên đất, tên làng đã đi vào… lịch sử cướp đất: Tiên Lãng, Văn Giang, Đồng Tâm, Dương Nội, Thủ Thiêm, và nhiều nữa… (Đoan Trang, Trịnh Hữu Long. “Chính Trị Việt Nam: Một Thập Kỷ Nhìn Lại.” Luật Khoa Tạp Chí 30/12/2009).

Tác giả Đỗ Thúy Hường tóm gọn:

“Luật ngày càng rườm, dài. Nhưng ‘tim đen’ của luật lại rất đơn giản. Nó nằm ở nội hàm của từ ‘quản lý’… Chỉ bằng một câu viết trên giấy ‘Đất đai (về hình thức) là sở hữu toàn dân, (nhưng thực chất) do nhà nước toàn quyền quản lý’… Thế là, lập tức 50-60 triệu nông dân đang có ruộng, phút chốc biến ngay thành tá điền của đảng.”

Phải cần thêm bao nhiêu dân oan, bao nhiêu mảnh đời bầm dập, và bao nhiêu gia đình nông dân tan nát nữa để cái nhà nước hiện hành có thể “hoàn thiện CNXH ở Việt Nam vào cuối thế kỷ này” ?


 

CÁI NƯỚC MÌNH NÓ THẾ ..

Hắn đưa ông bố viêm túi mật đi cấp cứu nhà thương. Bệnh cụ căng quá. Bác sỹ bảo phải mổ ngay.

“Gia đình mình cho cụ mổ CÔNG NGHỆ CAO nhé ?!”

“Ngoài công nghệ cao còn có mổ gì, thưa bác sỹ ?!” – Hắn hỏi một cách cầu thị.

Tay bác sỹ nhìn hắn như nhìn một thằng ngố lạc loài, đáp: “Mổ thường chứ còn mổ gì !”.

Vì lơ mơ không hiểu nên hắn định hỏi thêm về “Mổ Công nghệ cao” và “Mổ thường” khác nhau thế nào nhưng rồi kinh nghiệm đi viện khiến hắn ngậm miệng.

Hắn gọi điện nhờ tư vấn. Ông bạn thân quát lên trong máy: “Lăn tăn gì nữa! Công nghệ cao! Nhanh và luôn !”.

Ca mổ thành công rực rỡ. Tất nhiên chi phí “công nghệ cao” cũng… cao hơn vài chục triệu đồng. Mổ xong ắt phải nằm hồi sức.

“Gia đình cho cụ nằm hồi sức TÍCH CỰC hay hồi sức thường ?!”

Kinh nghiệm của “công nghệ cao” cho hắn quyết định nhanh gọn: “Vâng! Xin theo hồi sức tích cực”.

Quyết định của hắn thật sáng suốt. Phòng “Hồi sức tích cực” nằm ngay gần cầu thang chứ không xa xôi heo hắt như “hồi sức thường”. Phòng có cả… dép tổ ong đỏ thắm, cắt cụt mũi cho người nhà bệnh nhân. Ở đây đủ loại máy móc, thầy thuốc ra vào chăm sóc tận tình. Vì “tích cực” nên mấy cô osin cũng có vẻ sang chảnh hơn, móng chân, móng tay, điện thoại đều đời mới. Các cô đi lại chộn rộn và thường nhìn mấy cô osin “hồi sức thường” với con mắt rất… thường.

Chưa hết, ngày đầu ở phòng “tích cực” hắn bối rối khi bác sỹ hỏi:

“Gia đình mình cho cụ dùng THUỐC TỐT nhé ?!”;

Hắn giật mình: “Sao nhỉ! Đã tích cực thì thuốc phải tốt chứ ?!”. Dù thắc mắc vậy, trước mặt anh chị em, họ hàng, bạn bè, hắn vẫn dõng dạc tuyên bố: “Thuốc tốt tất nhiên !”

Tiếc rằng, dù mổ công nghệ cao, hồi sức tích cực và dùng thuốc tốt, bố hắn vẫn qua đời không lâu sau khi nhập viện.

Tưởng chết là hết ai ngờ khi gọi điện tìm nhà tang lễ, đầu dây bên kia có người hỏi:

“Gia đình mình dùng DỊCH VỤ TRỌN GÓI hay dịch vụ thường ?”.

Đang sẵn đau thương bối rối nên hắn trả lời cho xong: “Bình thường thôi !”. Hắn không ngờ không dùng “trọn gói”, dịch vụ bình thường lại không… bình thường chút nào. Nhưng chuyện đã dài rồi, để lúc khác kể tiếp…

Thực lòng chuyện này viết ra không phải để đau thương căm hận mà để hài hước đồng ý với danh ngôn: “Cái nước mình nó thế !…”

Nguồn: Tào lao kẻ chợ


 

‘Con trai chị có bệnh tăng động, cháu không ngồi yên trên ghế được 3 phút.’

Lương Văn Can

 Lần đầu tiên họp phụ huynh cho con, cô giáo mầm non nói với người mẹ: ‘Con trai chị có bệnh tăng động, cháu không ngồi yên trên ghế được 3 phút.’

Trên đường trở về nhà, con trai hỏi mẹ cô giáo đã nói gì. Người mẹ nói với con trai: ‘Cô giáo nói con trai mẹ trước đây không ngồi trên ghế được một phút, giờ con đã ngồi được 3 phút rồi, con có tiến bộ.’

Tối hôm đó, cậu bé ăn hẳn 2 bát cơm mà không cần mẹ bón.

Không lâu sau, cậu bé vào tiểu học. Đi họp phụ huynh cho con, cô giáo nói: ‘Cả lớp có 50 em, trong lần kiểm tra toán này, con chị xếp thứ 48, có thể con có một chút vấn đề về trí tuệ.’

Trở về nhà, cô nói với con: ‘Cô giáo nói chỉ cần con chú ý một chút, con sẽ xếp trước 48 bạn.’

Nghe mẹ nói vậy, ánh mắt cậu bé lóe sáng, gương mặt ủ rũ bỗng giãn ra. Ngày hôm sau đi học, cậu đi sớm hơn hẳn ngày thường.

Khi con lên cấp hai, người phụ nữ vẫn không tránh được những buổi họp phụ huynh. Trước khi về, giáo viên nói với chị: ‘Theo kết quả học tập hiện nay của con, việc thi vào trung học phổ thông sẽ hơi khó một chút.’

Trên đường về, chị xoa vai con và nói: ‘Cô giáo nói, chỉ cần con nỗ lực hơn nữa, rất có hy vọng là con sẽ đỗ vào trường công lập.’

Rồi cũng đến ngày cậu bé tốt nghiệp trung học phổ thông. Đến khi trường đại học có thông báo kết quả thi, cậu bé từ trường trở về, mang theo giấy thông báo trúng tuyển một trường đại học danh tiếng đưa cho mẹ, nước mắt rưng rưng: ‘Mẹ, con không phải là một đứa trẻ thông minh nhưng mẹ luôn ở bên cạnh cổ vũ, động viên, ghi nhận con.’

Lúc đó, người mẹ đã ôm con thật chặt, những giọt nước mắt lẫn lộn vui buồn lăn dài trên má.

‘Một lời nói hay sưởi ấm ba đông, nửa lời ác nghiệt lạnh sáu tháng ròng.’ Một lời an ủi động viên sẽ giúp người khác có thêm động lực, niềm tin, hướng đến những điều tích cực.

Một lời cổ vũ khích lệ có thể thay đổi được cả quan niệm và hành vi của người khác, từ đó có thể thay đổi cả vận mệnh, số phận của con người.

Sưu tầm

( FB cô Pham Mylan )


 

Thánh Mát-thi-a, Tông đồ—thế kỷ thứ 1- Cha Vương

Chúc bình an đến bạn và gia đình, hôm nay Giáo Hội mừng kính trọng thể thánh Mát-thi-a, Tông đồ—thế kỷ thứ 1 (St. Matthias the Apostle). Mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm bổn mạng nhé.

Cha Vương

Thứ 4, 4PS: 14/05/2025

Theo Tông Ðồ Công Vụ 1:15-26, sau khi Ðức Giêsu Lên Trời, các tông đồ cần phải tìm người thay thế cho Judas Iscariot. Với tất cả những bàng hoàng chưa thông hiểu, những nguy hiểm đang phải đương đầu, tại sao các ngài lại chú ý đến việc tìm vị tông đồ thứ mười hai? Số mười hai là con số quan trọng cho Dân được chọn: mười hai là con số của mười hai chi tộc Israel. Nếu một Israel mới phát sinh từ các môn đệ của Ðức Kitô, thì cần phải có mười hai tông đồ. Nhưng biết ai để mà chọn?

        Khi Thánh Phêrô đứng lên đề nghị phương cách chọn lựa, lúc ấy có một trăm hai mươi người đang tụ tập cầu nguyện. Thánh Phêrô biết rằng người được chọn phải là người đã theo Ðức Kitô từ ban đầu—từ lúc Ngài chịu thanh tẩy bởi Gioan Tẩy Giả cho đến khi Lên Trời. Lý do thật dễ hiểu, tông đồ phải là người theo Ðức Kitô trước khi bất cứ ai biết đến, phải trung thành với Ngài dù có những khó khăn và đã chứng kiến sự phục sinh của Ðức Kitô.

        Có hai vị hội đủ điều kiện – Matthias và Giuse Barsabbas. Các tông đồ biết hai vị này đã từng ở với họ và ở với Ðức Kitô trong suốt thời gian Ngài thi hành sứ vụ. Nhưng ai thực sự quyết tâm làm nhân chứng cho sự phục sinh của Ðức Kitô. Chỉ có Thiên Chúa mới biết được điều đó. Và các tông đồ đã cầu nguyện và bỏ phiếu. Người được chọn là ông Matthias, là người được thêm vào nhóm Mười Hai thay Judas Iscariot.

        Theo một tương truyền Hy Lạp, thánh nhân giảng đạo ở Capadoce và bị ném đá chết tại Colchis năm 80 AD; xác thánh nhân được chôn ở Jerusalem. Thánh tích còn tại nguyện đường tu viện ở Triers, phần khác do thánh nữ Helene đưa về La Mã tại Đền Thánh Đức Bà cả. Ðó là tất cả những gì chúng ta được biết về Thánh Matthias.

Lời Bàn: Ðức Clêmentê ở Alexandria nói rằng Thánh Matthias, cũng như tất cả các tông đồ khác, được Ðức Kitô chọn không phải vì họ tốt lành, nhưng vì Ðức Kitô đã thấy trước con người tương lai của họ. Các ngài được chọn không phải vì sự xứng đáng nhưng vì các ngài sẽ trở nên người xứng đáng. Ðức Kitô cũng chọn chúng ta giống như vậy. Thử nghĩ xem Ðức Kitô muốn bạn trở nên một người như thế nào? [Chính những gì bạn làm ngay bây giờ sẽ quyết định tương lai của bạn đó.]

 (Nguồn: Người Tín Hữu) 

From: Do Dzung

*************************

Đường con theo Chúa -tinmung.net

CÁI QUÁI GÌ VẬY? – Ls Luân Lê

Ngô Diệp

 Ls Luân Lê

Hôm qua tôi hỏi một bạn, bạn này là đảng viên, rất yêu chế độ cộng sản.

Tôi hỏi: Giờ có hai lựa chọn đi du lịch và học tập, một là Hàn Quốc, hai là Triều Tiên, em chọn nơi nào để đi?

Cô gái: Tất nhiên em không muốn ăn cỏ và gặp lãnh tụ là khóc như mưa mà chỉ để học phóng tên lửa hạt nhân rồi, em muốn sang xứ sở xứ Kim Chi Hàn Quốc.

Tôi lại hỏi tiếp: Bây giờ có hai nước là Mỹ và Venezuela, em chọn quốc gia nào để sinh sống và phát triển sự nghiệp?

Cô gái: Rõ ràng là em không muốn bới rác để ăn rồi. Em sẽ qua Mỹ bằng mọi cách.

Tôi lại hỏi tiếp: Bây giờ có hai đất nước, là Indonesia và Malaysia, họ cấm cộng sản hoạt động. Em sẽ vẫn đeo huy hiệu hoặc cờ đảng cộng sản ra đường bày tỏ chứ? Cô gái: Dạ không. Em phải giấu đi chứ, bên đó họ tấn công người nào có biểu hiện như vậy.

Giờ thế này nhé: Giữa nước Pháp bảo vệ tự do, dân chủ đến cùng và một nước Trung Quốc muốn kiểm soát, chấm điểm phân hạng công dân, em chọn nơi nào để sinh sống?

Cô gái: Em không muốn làm nạn nhân của Thiên An Môn hay bị soi xét đến cả lời ăn tiếng nói và nội tạng, rõ ràng là em chọn Pháp rồi.

Tôi lại đặt ra giả dụ: Giờ có hai nơi, một là Việt Nam và hai là Nhật Bản, em có chọn Việt Nam để chữa bệnh hoặc học tập không?

Cô gái: Xứ sở mặt trời mọc là lựa chọn ưu tiên hàng đầu của em. Em đang làm thủ tục để qua đó.

Tôi đành phải nói: Sao em vừa lưu manh lại vừa khốn nạn thế? Mặc áo một đằng mà lại sẵn sàng xảo trá để đạt mục đích của mình và chỉ chọn những “đế quốc tư bản” vậy?

Ls Luân Lê


 

CHÍNH THIÊN CHÚA ĐÃ NÂNG ĐỠ TÔI TRONG CHỐN LAO TÙ- Tu Huynh Anh

Tu Huynh Anh is with Chim Toc Trang

 (Tính không đăng nhưng một số người sau khi nghe lại muốn đọc thêm nên tôi post ở đây.  Bài phát biểu tại Thượng viện Hoa Kỳ hôm 1 Tháng Năm, 2025. Nhan đề tôi vừa đặt).

CHÍNH THIÊN CHÚA ĐÃ NÂNG ĐỠ TÔI TRONG CHỐN LAO TÙ

Kính thưa quý vị!

Trước tiên, tôi xin cảm ơn quý vị đã cho tôi cơ hội hiện diện tại đây hôm nay.

Thật khó để truyền tải chặng đường 14 năm tù đày chỉ trong vài phút ngắn ngủi. Tôi ra tù đã gần 12 năm, có những điều đã phai mờ, nhưng cũng có những ký ức sẽ theo tôi suốt đời.

Tôi và người em trai, Huỳnh Anh Trí, bị bắt vào đêm 29/12/1999. Sau đó, họ đưa anh em tôi đến hai địa điểm khác nhau để tra khảo. Hơn mười viên an ninh thay nhau hỏi cung tôi suốt 72 giờ không ngừng nghỉ. Suốt ba ngày ba đêm, tôi không được ăn, không được ngủ. Nhiều lúc không thể chịu đựng nổi, tôi gục xuống bàn. Mỗi lần như thế, họ lại nắm tóc dựng tôi dậy và hắt nước vào mặt tôi.

Một trong số họ đã đánh tôi, trong khi những viên an ninh khác thì chửi bới, đe dọa: nếu không nhận tội, tôi sẽ đối mặt với bản án 20 năm tù, hoặc chung thân, thậm chí tử hình.

Sang ngày thứ tư, họ đưa tôi vào buồng biệt giam rộng chừng 6 mét vuông, không cửa sổ, ăn uống và tiêu tiểu tại chỗ. Sau 72 giờ bị tra khảo liên tục, tôi tưởng rằng mình sẽ được nghỉ ngơi. Nhưng vừa thiếp đi, lập tức trong đầu tôi vang lên thứ âm thanh rất đáng sợ, lúc thì như là tiếng tru tréo kinh hoàng, khi thì giọng cười ma quái. Tôi cố bịt tai lại, nhưng âm thanh ấy càng lúc càng rợn người. Hơn mươi sáu năm đã trôi qua, đôi khi âm thanh đó vẫn bất ngờ quay lại, khiến tôi hoảng loạn.

Tôi bị biệt giam khoảng một năm rưỡi trước khi ra tòa. Tám tháng đầu, tôi liên tục bị gọi đi cung lúc 1–2 giờ sáng. Gần sáng họ đưa tôi trở lại buồng, và chỉ vài tiếng sau lại có nhóm khác đến tiếp tục lôi tôi đi thẩm vấn. Chúng tôi gọi hình thức này là “xa luân chiến” – một người phải đấu trí với cả chục an ninh.

Tôi từng bị chuyển qua 5 nhà tù khác nhau, chưa kể các lần chuyển buồng, chuyển trại.

Ký ức ám ảnh nhất đối với tôi là ĐÓI, RẤT ĐÓI.

Không ai có thể sống nổi ngần ấy năm tù nếu chỉ dựa vào khẩu phần ăn của nhà tù cung cấp.

Chúng tôi sống được là nhờ sự đùm bọc của các tu sĩ Công giáo – những người bị bắt sau năm 1975 chỉ vì là linh mục. Đói và thèm ăn đến mức, có hôm tỉnh dậy, tôi thấy miệng mình dính thứ gì như chất bột màu trắng. Tôi chợt nhớ, đêm trước mình đã mơ được ăn no, và trong mơ tôi đã nhai thật – điều ấy giải thích vì sao quanh miệng tôi dính chất màu trắng vào sáng hôm sau.

Kính thưa quý vị!

Tôi và em trai bị kết án 14 năm tù. Cùng vụ còn 38 người khác, bị kết án từ 2 đến 20 năm. Gần 10 người đã chết vì đói, vì lao động khổ sai, vì bệnh tật không được chữa trị. Chưa kể những người chết trong các vụ án khác, như ông Nguyễn Minh Tân – hàng ngày vẫn lao động cuốc đất, nuôi cá, gặt lúa… nhưng chết vì đói.

Tù chính trị và cả tù hình sự đều phải lao động khổ sai, làm các việc như khai hoang, cuốc đất, đào ao, trồng rau… nhưng những năm đầu, chúng tôi chưa bao giờ được ăn những gì mình làm ra – dù chỉ là vài cọng rau. Nhiều khi chúng tôi phải hái cỏ non        để ăn thay rau.

Chúng tôi đã  nhiều lần tuyệt thực để phản đối sự ngược đãi, yêu cầu cai tù thực thi đúng chính sách, quy định do chính nhà nước đề ra.

Cuộc tuyệt thực lâu nhất kéo dài 14 ngày tại trại giam Xuân Lộc, năm 2010, với hàng chục tù chính trị tham gia. Sau sự kiện đó, Tôi bị đưa về nhà tù An Phước, tỉnh Bình Dương.

Thưa quý vị!

Mười bốn năm tù không chỉ là sự chịu đựng bi kịch của cá nhân mình , mà tôi đã chứng kiến nỗi đau của biết bao người đồng cảnh ngộ. Tôi chưa từng thấy ai bị đánh đến chết, nhưng có nhiều người chết vì bị ngược đãi, một cách đàn áp tinh vi và có hệ thống”. Ví dụ, người mắc bệnh tim mạch, cao huyết áp bị cấm mang thuốc vào buồng giam – và họ chết, như ông Lê Thân, ông Phan Văn Trước. Nguồn nước bẩn, thực phẩm ôi thiu, bồn cầu hỏng không sửa … ,tất cả đều có chủ đích và sự chịu đựng kéo dài đã hủy hoại sức khoẻ của tù nhân.

Tù đày không chỉ là tra tấn, bệnh tật, chết chóc – mà còn là sự cô lập tinh thần. Chúng tôi bị cách ly khỏi tù hình sự, bị kiểm soát mọi giao tiếp với nhau. Vì không được sử dụng giấy bút, không đuọc nhận sách báo nên chúng tôi không thể viết, không thể đọc, không thể ghi chép lại bất cứ điều gì tai nghe mắt thấy, hoặc chỉ đơn giản là giãi bày những cảm xúc của chính mình.

Không ít lần tôi có ý định tự tử và từng chuẩn bị một cái chết cho mình. Nhưng có một sức mạnh vô hình mà sau này tôi tin đó là Thiên Chúa, đã nâng đỡ tôi. Tôi phải sống để chiến thắng, chí ít là để không thất bại trước thế lực tà ác.

Thưa quý vị!

Chúng tôi kể lại những điều này không chỉ cho bản thân mình, mà còn cho những người đã chết – như em tôi, Huỳnh Anh Trí; ông Trương Văn Sương, Nguyễn Văn Trại, Bùi Đăng Thủy, Đinh Đăng Định và nhiều người vô danh khác.

Chúng tôi kể thay cho những người vẫn đang bị giam giữ – những người không có cơ hội cất tiếng nói của chính mình.

Tôi mong rằng quý vị – những tiếng nói mạnh mẽ vì tự do, sẽ không quên những nơi còn trong bóng tối, những con người vẫn đang chịu cảnh tù đày vì tranh đấu cho tự do, dù ở đất nước xa xôi như Việt Nam.

Xin chân thành cảm ơn quý vị.


 

ANH CÒN NỢ EM….- Phan Công Tuấn

Việt Luận – Viet’s Herald

Phan Công Tuấn

Đó là bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ Anh Bằng, phổ thơ Phạm Thành Tài. Nhưng có lẽ không nhiều người biết Phạm Thành Tài không chỉ là nhà giáo, nhà thơ mà còn là lương y tham gia sinh hoạt và viết sách xuất bản ở Câu lạc bộ Châm cứu Sông Bé vang bóng một thời.

Trưa nay, thấy trên mạng xã hội dẫn lại một bài viết có thông tin Thi sĩ Phạm Thành Tài sinh năm 1932 và mất năm 1997. Quê quán ở quận Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa. Ông từng bị tù cải tạo sau năm 1975, đi qua Mỹ qua diện HO và học lấy bằng Đông Y Bác Sĩ (OMD- Oriental Medical Doctor).

Tôi liền vùng dậy, lục tìm cuốn sách “Phối Huyệt Châm Cứu Chữa Bệnh Kinh Đới Trong Phụ Khoa” của lương y Phạm Thành Tài trong tủ sách của mình, và thêm vài cú nhấp chuột tôi mới khẳng định được vị lương y này chính là tác giả lời ca của nhạc phẩm nổi tiếng đó.

Về bối cảnh ra đời bài thơ, có thông tin cho biết có một phụ nữ kể lại câu chuyện tình của cô bạn thân của cô với một thanh niên học cùng trường nhưng hơn mấy lớp ở Ninh Hoà. Chàng và nàng quen nhau từ thủa học trò. Đỗ tú tài, chàng vào Sài Gòn, rồi sau đó du học Mỹ, nàng thì ở lại quê làm cô giáo trường làng. Ra đi, chàng bảo nàng yên tâm đợi chàng về. Nhưng rồi sau đó được tin chàng đã lấy vợ, một người con gái học thức, sang giàu, nàng đau khổ một thời gian rồi cũng lấy chồng.

Sau 1975, một lần họp đồng hương Ninh Hoà ở Mỹ, người phụ nữ kể chuyện gặp lại chàng, biết cô sắp về thăm quê, chàng gửi ít tiền về biếu nàng ngày xưa, vốn là bạn thân của cô. Nàng sống ở quê cùng chồng là thương phế binh chế độ cũ, với năm con, nghèo lắm nhưng từ chối món tiền của chàng.

Qua Mỹ, đến thăm chàng trong ngôi nhà cao đẹp, nhưng một mình vì đã li di vợ, có đứa con trai cũng sống với mẹ. Người phụ nữ kể lại câu chuyện, chàng ngậm ngùi nói “anh còn nợ em”.

Nhạc sĩ Anh Bằng kể rằng đọc tập thơ nhỏ của Phạm Thành Tài, có mấy bài thơ ngắn, rồi thích thú phổ thành bản Anh Còn Nợ Em.

“Anh còn nợ em, công viên ghế đá, công viên ghế đá, lá đổ chiều êm. Anh còn nợ em, giòng xưa bến cũ, giòng xưa bến cũ, con sông êm đềm. Anh còn nợ em, chim về núi nhạn, trời mờ mưa đêm, trời mờ mưa đêm. Anh còn nợ em, nụ hôn vội vàng, nụ hôn vội vàng, nắng chói qua rèm. Anh còn nợ em, con tim bối rối, con tim bối rối, anh còn nợ em. Và còn nợ em, cuộc tình đã lỡ, cuộc tình đã lỡ, anh còn nợ em.”

Trong mỗi đoạn nhạc, có 4 câu thơ mà có câu lập lại hai lần, toàn bài câu “anh còn nợ em” lập lại 8 lần; đó là nét riêng của ca khúc và lập lại mà nghe không chán.

Khi bài hát phổ biến, nhạc sĩ Anh Bằng nhờ người tìm tác giả bài thơ và khi tìm được thì thi sĩ Phạm Thành Tài đã qua đời hơn mười năm. Ông chép tay bài nhạc Anh Còn Nợ Em và tặng cho người vợ của thi sĩ làm kỷ niệm.

Phan Công Tuấn