Được giải oan sau 38 năm ngồi tù vì tội giết người

Ba’o VNEXPRESS

Người đàn ông Anh Peter Sullivan phải ngồi tù gần 4 thập kỷ vì tội danh giết người trước khi được minh oan nhờ bằng chứng ADN.

Tòa phúc thẩm ở London, Anh ngày 13/5 hủy bỏ bản án giết người với Peter Sullivan, 68 tuổi, và yêu cầu trả tự do cho ông ngay lập tức. Phán quyết được đưa ra sau khi bằng chứng pháp y từ hiện trường vụ án mạng năm 1986 được kiểm tra và cho kết quả không khớp với ADN của Sullivan.

Tòa Phúc thẩm ở London đã hủy bỏ bản án của ông Sullivan vào thứ Ba© PA

Sullivan, người đã ngồi tù 38 năm vì tội danh giết người, bật khóc khi nghe phán quyết của tòa. Ông theo dõi phiên tòa qua đường truyền video từ nhà tù Wakefield ở miền bắc nước Anh, nói với luật sư rằng ông không oán giận vì bản án oan và mong ngóng được gặp người thân.

“Vì Chúa là nhân chứng của tôi và người nói rằng sự thật sẽ mang đến cho bạn tự do. Thật không may khi chúng tôi đã mất một khoảng thời gian dài để giải quyết xong bản án oan. Tôi không oán giận hay cảm thấy cay đắng”, luật sư đại diện Sarah Myatt đọc tuyên bố của Sullivan bên ngoài tòa án.

Ảnh hồ sơ nhà tù của Peter Sullivan. Ảnh: Standard

Sullivan là tù nhân chịu án oan lâu nhất ở Anh, theo Myatt. Peter Sullivan năm 1987 bị kết án giết người phụ nữ tên Diane Sindall ở Bebington, gần Liverpool, phía tây bắc Anh.

Vào đêm 1/8/1986, Sindall, 21 tuổi, đang trở về sau khi làm thêm tại quán rượu thì xe của cô hết xăng. Cảnh sát cho biết một số nhân chứng thấy cô rời xe và đi bộ trên đường dẫn tới trạm xăng.

Xác của Sindall được phát hiện 12 tiếng sau đó trong một con hẻm. Cô bị tấn công tình dục và đánh đập dã man. Nguyên nhân tử vong được xác định là do xuất huyết não. Một ngày sau khi Sindall bị sát hạt, quần áo của cô bị phát hiện đang cháy trên đồi Bidston gần đó.

Sullivan sau đó bị xem là nghi phạm khi một nhân chứng nói rằng thấy Peter đang chạy gần nơi đốt quần áo của Sindall. Tinh dịch được tìm thấy trên cơ thể của Sindall khi đó không thể phân tích vì công nghệ hạn chế và được bảo quản như bằng chứng của vụ án.

Sau khi bị bắt, Sullivan ban đầu không được phép có luật sư bào chữa. Ông thú nhận giết Sindall nhưng sau đó rút lại lời nhận tội.

Ông Sullivan năm 2008 nộp đơn đề nghị Ủy ban Đánh giá Vụ án Hình sự (CCRC) xem xét lại phán quyết của ông, nhưng đơn bị từ chối. Năm 2019, ông gửi đơn kháng cáo, nhưng tòa án đã từ chối năm 2021.

Diane Sindall, nạn nhân vụ án mạng. Ảnh: NEWS

Cuối năm 2021, CCRC tiếp nhận đề nghị xem xét lại vụ án của Sullivan. Họ quyết định nên xét nghiệm các mẫu tinh dịch tìm thấy trên cơ thể của Sindall năm xưa dựa vào những tiến bộ công nghệ hiện tại. Kết quả xét nghiệm năm 2024 cho thấy nó không thuộc về Sullivan, theo luật sư bào chữa Jason Pitter.

Trong đơn gửi ủy ban năm 2008, Sullivan từng đề xuất kiểm tra bằng chứng ADN, nhưng các chuyên gia pháp y thời điểm đó nói rằng bất kỳ xét nghiệm nào đều không khả thi. Các kỹ thuật được sử dụng để kết luận ADN không trùng khớp đều không có vào thời điểm đó.

Cảnh sát đã mở lại cuộc điều tra, nhưng cho biết ADN được xác định trong vụ án không khớp với bất kỳ ai trong cơ sở dữ liệu quốc gia. Họ đã loại trừ vị hôn phu của Sindall, các thành viên gia đình cô và hơn 260 người đàn ông trong diện tình nghi.

“Chúng tôi đã mất Peter trong 39 năm và không chỉ có chúng tôi chịu thiệt. Peter không chiến thắng trong cuộc chiến này và gia đình Sindall cũng vậy. Họ đã mất con gái và không thể tìm lại. Chúng tôi giờ có lại Peter và cố gắng xây dựng lại cuộc sống với anh ấy một lần nữa”, Kim Smith, em gái của Sullivan, nói.

Thùy Lâm (Theo ABC News, NEWS


 

“Chúa thành tín trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm.” (Tv 145:13b)-Cha Vương

… điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài,…

 

Ngày Thứ 6 bình an zui zẻ đủ để chia xẻ cho những người chung quanh nữa nhé.

Cha Vương

Thứ 6, 4PS: 16/5/2025

TIN MỪNG: Còn chúng tôi, chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Đức Giê-su sống lại, đúng như lời đã chép trong Thánh vịnh 2: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con. (Cv 13:32-33)

SUY NIỆM: Ai ai trong đời đã có một lần thất hứa hay bị người khác cho leo cây. Hứa thì dễ nhưng giữ lời hứa lại rất khó. Bản chất con người dễ bội tín, thất trung với lời hứa của mình. Còn đối với Thiên Chúa thì sao? “Chúa thành tín trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm.” (Tv 145:13b)

 Hôm nay Sách Công Vụ nhắc nhở bạn về điều Thiên Chúa đã hứa với bạn và cả cha ông của bạn nữa.

Chúa hứa sẽ ban bình an cho những ai hết lòng tin tưởng vào Ngài.

Hơn bao giờ hết con người cần bình an. Bình an để  khỏi bị lo âu sợ hãi. Bình an vì có Chúa luôn bảo vệ phù trì. Bình an vì được Chúa dẫn dắt qua những thung lũng sâu của dòng đời.

Thật là hổ thẹn với Chúa vì đã nhiều lần bất trung với Chúa với nhau để lại bao nhiêu tổn thương cho người thân yêu và những người chung quanh. 

LẮNG NGHE: Đừng chỉ vâng lời trước mặt, như muốn làm đẹp người ta, nhưng như nô lệ của Đức Kitô, đem cả tâm hồn thi hành ý Chúa. (Ep 6:6)

'Peace Be With You' - Biblical Meaning & Importance | Crosswalk.com

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giê-su Phục sinh, xin giúp con luôn can đảm trung thành với Chúa, luôn tuân giữ lời Chúa để được Chúa quan phòng chở che.

Xin Chúa cũng giúp con biết giữ lời hứa với nhau để xã hội luôn thăng tiến trong Chúa và nhờ Chúa.

THỰC HÀNH: Nhẩm đi nhẩm lại lời hứa của mình như rửa tội, hôn nhân, khấn dòng, lời hứa dấn thân linh mục, v.v… 

From: Do Dzung

**************************

Nguyện Chúa Ban An Bình (Sáng tác: JB. An Ninh) – Tuyết Mai 

CỘNG ĐOÀN YÊU THƯƠNG -TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

 Trong suốt mùa Phục sinh, Phụng vụ cho chúng ta nghe nội dung sách Công vụ Tông đồ, mà thánh Lu-ca là tác giả.  Như một phóng sự dài, chủ đề chính của cuốn sách này nói về hoạt động của các tông đồ, đời sống đức tin và sự phát triển của cộng đoàn Giáo hội tiên khởi.  Tác giả khẳng định: Đấng Phục sinh luôn hiện diện giữa các tín hữu.  Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, Lời Chúa nhanh chóng lan rộng và số tín hữu ngày càng thêm đông.  Các tông đồ hăng say đi khắp mọi nơi để làm chứng về Chúa Giê-su phục sinh.  Niềm xác tín nơi các ông mạnh mẽ đến nỗi các ông sẵn sàng chịu đau khổ, thậm chí chấp nhận cái chết, để làm chứng cho lời rao giảng của mình.  Những địa danh khác nhau được tác giả sách Công vụ liệt kê (Bài đọc I), cho thấy nỗ lực loan báo Lời Chúa của các tông đồ và hoạt động mãnh liệt của Chúa Thánh Thần.  Tuy vậy, dù phát triển nhanh chóng, cộng đoàn tín hữu cũng phải đối diện với những khó khăn từ phía người Do Thái.  Họ đã giết Chúa Giê-su, người mà họ lên án là “phản loạn,” và nay họ tiếp tục tẩy chay các tông đồ và vu khống cho các ông mọi điều xấu xa.  Hai vị tông đồ là Phao-lô và Bác-na-ba đã khích lệ động viên các cộng sự, củng cố tinh thần của họ, với lời khẳng định: “Chúng ta phải chịu nhiều đau khổ mới được vào Nước Thiên Chúa.”

 Cộng đoàn tín hữu của sách Công vụ Tông đồ trải dài trong lịch sử hai ngàn năm và hôm nay lan rộng toàn thế giới.  Mỗi Ki-tô hữu chúng ta đều là những người nối tiếp anh chị em tín hữu tiên khởi, tiếp tục sống đức tin và loan báo Lời Chúa, với niềm xác tín Chúa Phục sinh đang hiện diện, với tác động của Chúa Thánh Thần.  Chính Chúa Thánh Thần đã nối kết mọi nền văn hóa và mọi ngôn ngữ chủng tộc, đồng thời vẫn tôn trọng và lưu giữ những khác biệt.  Giáo hội của Chúa Giê-su mang tính duy nhất trong những dị biệt, làm nên một Giáo hội phong phú đa dạng và cùng tôn thờ một Thiên Chúa là Cha chung của gia đình nhân loại, lấy đức yêu thương làm luật căn bản. 

Các Ki-tô hữu tin vào sự hiện diện của Chúa Giê-su, và cùng nhau làm nên những cộng đoàn yêu thương.  Từ thời ban đầu, Đạo Ki-tô được gọi với cái tên rất dễ mến là “Đạo yêu thương.”  Lời mời gọi yêu thương của Chúa Giê-su chính là nền tảng cho các cộng đoàn Ki-tô hữu, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.  Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta hồi tưởng giờ phút linh thiêng sau bữa tiệc ly.  Chúa Giê-su đã truyền lại một di chúc quan trọng.  Người gọi đó là “giới răn mới.”  Yêu thương là điều kiện cốt yếu để trở nên môn đệ của Chúa Giê-su, đồng thời cũng là dấu chỉ để mọi người nhận ra Chúa Giê-su đang hiện diện nơi các tín hữu, cá nhân cũng như cộng đoàn. 

Yêu thương là cốt lõi của Ki-tô giáo.  Đó cũng là lời mời gọi thường xuyên được nhắc lại trong giáo huấn của Giáo hội.  Tuy vậy, lời mời gọi này có nguy cơ trở thành một công thức lỗi thời và nhàm chán đối với một số tín hữu.  Đây đó vẫn tồn tại những Ki-tô hữu chỉ mang danh nghĩa mà thiếu chiều sâu.  Vì vậy đức tin không thực sự thấm nhập vào cuộc đời, để tác động và chi phối hành vi, lời nói và cử chỉ của các tín hữu.  Vẫn còn đó những cộng đoàn chỉ sống đức tin một cách hình thức mà thiếu lòng đạo đức nội tâm.  Một đức tin hời hợt, khi đối diện với thử thách hoặc tranh chấp quyền lợi, sẽ dễ bị nhường chỗ cho xung đột, chia rẽ và bất hòa. 

Nếu Bài đọc I trích sách Công vụ Tông đồ, nhắc cho chúng ta về quá khứ, là thời sơ khởi của Giáo hội, thì Bài Tin Mừng lại là giáo huấn dành cho hiện tại, và Bài đọc II lại hướng chúng ta về tương lai.  Thánh Gio-an đã được chiêm ngắm khung cảnh huy hoàng của Thiên Đàng, đó là Trời mới Đất mới.  Nơi đó sẽ không còn nước mắt và tang tóc, nhưng tràn ngập niềm vui.  Nơi đây, điều mà hai tông đồ Phao-lô và Bác-na-ba khích lệ các cộng sự: “Chúng ta phải chịu nhiều đau khổ mới được vào Nước Thiên Chúa” đã trở thành hiện thực.  Khung cảnh Trời mới Đất mới là nguồn động viên chúng ta trong hành trình đức tin.  Đó cũng là câu trả lời cho những vấn nạn về tương lai và hậu vận của con người.  Đối với những ai tin cậy yêu mến Chúa, Ngài sẽ dành cho họ vinh quang vĩnh cửu.  Chúa Giê-su cũng mời gọi chúng ta ngay ngày hôm nay và trong mỗi hoàn cảnh cụ thể, hãy cùng cộng tác với Người để đổi mới bộ mặt thế giới, làm cho tình yêu thương lan tỏa nơi mọi nẻo đường trần thế, và như vậy, Nước Thiên Chúa đang ngự đến giữa chúng ta.

 TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim

SỰ TĨNH LẶNG – NGUỒN SINH LỰC CỦA TÂM HỒN

                Giữa dòng chảy không ngừng của cuộc sống, con người thường bị cuốn vào vòng xoáy của công việc, lo toan, áp lực và những bộn bề không tên. Trong sự vội vã đó, ta quên mất rằng đôi khi điều ta thực sự cần không phải là chạy nhanh hơn, làm nhiều hơn, mà là một chút tĩnh lặng – khoảng dừng để lắng nghe chính mình.

Tĩnh lặng không có nghĩa là cô đơn, cũng không phải sự trống rỗng. Đó là khoảnh khắc ta trở về với nội tâm, buông bỏ những ồn ào bên ngoài để tìm thấy bình yên bên trong. Một tâm hồn tĩnh lặng không phải là tâm hồn không có sóng gió, mà là tâm hồn đủ mạnh mẽ để không bị cuốn theo những sóng gió đó.

– Trong cuộc sống, ta có thể tìm thấy sự tĩnh lặng qua những điều giản dị: 

một buổi sáng sớm lặng lẽ thưởng thức ly cà phê, 

một chiều hoàng hôn ngắm nhìn bầu trời đổi sắc, 

Hay một khoảng lặng giữa những cuộc đối thoại. 

Khi ta biết trân trọng những giây phút đó, ta sẽ nhận ra sự tĩnh lặng không phải là sự trốn tránh thực tại, mà là cách để ta sống sâu hơn, hiểu mình hơn và mạnh mẽ hơn.

Khi tâm hồn đủ tĩnh lặng, ta sẽ không còn bị dao động bởi những lời phán xét, không bị cuốn vào những nỗi lo vô định. Ta học được cách chấp nhận, cách buông bỏ những điều không thuộc về mình, và trân trọng những gì thật sự quan trọng.  Sự tĩnh lặng chính là một loại sức mạnh. 

Người biết cách lắng nghe sự tĩnh lặng sẽ không vội vàng phản ứng trước cuộc đời, mà biết cách đối diện với nó bằng sự điềm tĩnh và thấu hiểu. Khi ta không còn để những thứ bên ngoài quyết định tâm trạng của mình, đó chính là lúc ta thật sự tự do.

Vậy nên, giữa những chộn rộn của đời thường, hãy dành cho mình một chút tĩnh lặng. Để trái tim được thở, để tâm trí được nghỉ ngơi, và để ta có thể bước tiếp trên hành trình của mình với sự an yên trong lòng.

..Ta về vui với đất trời

Gom mây làm áo rong chơi cõi hồng.

Ta về lắng đục khơi trong

Bon chen chi cũng lòng vòng được, thua.

Ta về vui với bốn mùa

Trăng sao làm bạn, chuông chùa kết thân.

Giọt tâm thanh thoát trong ngần

Lặng yên hạnh phúc vạn lần xôn xao..

Tiếng Lòng

Namo Buddhaya

Thư viện ngựa thồ (Park Horse Library)

Chuyện tuổi Xế ChiềuCông Tú Nguyễn 

Những năm 1930 là thời kỳ Đại khủng hoảng. Nhưng bang Kentucky ở nước Mỹ vẫn lập ra một dự án là Park Horse Library- thư viện ngựa thồ. Dự án này có 2 ý nghĩa. Một là tạo việc làm cho người dân đang rất khó khăn và hai là đem sách tới cho các vùng xa xôi để nâng cao dân trí. Dự án này do phụ nữ tham gia vì đàn ông khi đó đã đi vào nhiều chương trình của dự án Kinh tế mới mà TT Mỹ Franklin D. Roosevelt đề ra để thoát khỏi đói khổ.

"Pack Horse Library Project": llevar libros y materiales de lectura a ...

Những người phụ nữ giao sách này đã mang sách tới các vùng hẻo lánh của dãy núi Appalachia. Mỗi con ngựa sẽ mang theo 100 cuốn sách. Họ đi theo một con đường núi dài từ 100-120 dặm mỗi tuần. Thư viện được vận hành bởi ngân sách công. Sách từ nguồn quyên tặng của những nhà hảo tâm. Lương của mỗi phụ nữ chuyển sách là 28 usd mỗi tháng. Có khoảng 1000 phụ nữ làm công việc này.

 

Những sách được ưa thích nhất là Kinh Thánh, các tác phẩm văn học kinh điển, sách nuôi dạy con, nấu ăn và chăm sóc gia đình, làm thủ công.

Ngoài việc đưa sách tới, nhiều phụ nữ chuyển sách còn đọc sách cho người dân và trẻ em nghe. Họ cũng mang thư và kể chuyện về những gì đang xảy ra ngoài các ngọn núi. Họ đem tới hy vọng.

Kentucky pack-horse librarians : Student Snippets : School of Library ...

Có khoảng 30 thư viện ngựa thồ khác nhau phục vụ khoảng 100.000 người khác nhau ở các vùng núi của tiểu bang Kentucky.  Tính đến năm 1937, các thư viện này cũng đã phục vụ khoảng 155 trường học ở các quận này.

Dự án từ khi bắt đầu vào năm 1935 đến khi kết thúc vào năm 1943, đã tiếp cận được 1,5 triệu người dân trong bang..

Bằng cách này, vùng miền núi xa xôi ở Kentucky khi đó có sách đọc. Và sau này ngựa thồ được thay bằng xe sách lưu động. Và cuối cùng là xây các thư viện.

The Pack Horse Librarians of Appalachia | KET

Đó là cách nước Mỹ nỗ lực vượt qua khủng hoảng và kiên cường nâng cao dân trí. Đói khổ không có nghĩa là ngừng học hỏi và ngừng tiến bộ.

Hình tư liệu 1 phụ nữ trong dự án đi giao sách cho độc giả tại một trang trại hẻo lánh ở Mill Creek, Kentucky năm 1938.

Nguyễn Thị Bích Hậu


 

GIÁO SƯ ĐOÀN VIẾT HOẠT QUA ĐỜI

Phạm Thanh Nghiên

Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, một trong những biểu tượng tiêu biểu của phong trào dân chủ và nhân quyền Việt Nam trong vài thập niên trở lại đây, vừa qua đời vào chiều 14/5/2025 tại Nam Cali.

Ông sinh năm 1942 tại Hà Đông, từng là phụ tá Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh trước năm 1975. Sau năm 1975, ông bị bắt và bị giam cầm suốt 12 năm trong trại cải tạo mà không qua xét xử. Sau khi được trả tự do, ông tiếp tục đấu tranh ôn hòa cho tự do ngôn luận và dân chủ, dẫn đến việc bị kết án 20 năm tù vào năm 1993. Dưới áp lực quốc tế, ông được trả tự do và sang Hoa Kỳ năm 1998, nơi ông tiếp tục hoạt động cho đến cuối đời.  

Ông được mệnh danh là “Sakharov của Việt Nam” và từng nhận nhiều giải thưởng quốc tế danh giá như Giải Tự do Báo chí Quốc tế (1993), Giải Nhân quyền Robert F. Kennedy (1995), Giải Bút vàng Tự do (1998) và được vinh danh là Anh hùng Tự do Báo chí Thế giới năm 2000.

Khoảng 3 năm trước, ông chuyển từ Washington DC tới sinh sống tại Nam Cali , nơi có đông người Việt tị nạn cộng sản.

Giáo sư Đoàn Viết Hoạt qua đời là một mất mát cho cộng đồng người Việt tị nạn tại hải ngoại. Di sản của ông chắc chắn sẽ là nguồn cảm hứng cho những người đi sau, trên hành trình tìm kiếm tự do cho quê hương.


 

NHÀ CỦA CHA – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”; “Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.

Tháng 4/1667, John Milton bán bản quyền “Thiên Đàng Đã Mất” – bộ sử thi vĩ đại nhất của nước Anh – cho nhà xuất bản Samuel Simmons với giá 10 bảng. Ông qua đời, bà Elizabeth Milton bán tất cả tác quyền vĩnh viễn còn lại cho cùng nhà xuất bản với giá 8 bảng. Thật khó để tưởng tượng “giá” một kiệt tác tầm cỡ quốc gia, tầm cỡ thế giới, lại hời đến thế!

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay không nói đến một “Thiên Đàng Đã Mất”, nhưng nói đến một “Thiên Đàng Sẽ Được”. Chúa Giêsu giục giã chúng ta nhìn vào thực tế vinh quang thiên đàng, đó là ‘Nhà của Cha’ – Vương Quốc – nơi mà Ngài hằng thao thức, cuối cùng, làm sao bạn và tôi cùng Ngài chung sống.

“Ngài từng nói với anh trộm, “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng!”. Trong toàn bộ Phúc Âm, đây là lần đầu, cũng là lần cuối, chữ “thiên đàng” xuất hiện trên môi Chúa Cứu Thế; điều này có nghĩa là, thiên đàng, một sự thật 100%. Thiên đàng là có thật!” – Phanxicô. Nó không phải là khu vườn hoang tưởng của chuyện cổ tích! Nếu ‘hiểu đúng’ thiên đàng, bạn sẽ khát khao nó với một tình yêu sâu sắc; mong chờ nó với một ước vọng mãnh liệt; tưởng nhớ nó với một niềm vui ngập lòng. Tuy nhiên, thật không may, với một số người, ý nghĩ rời khỏi trái đất để ở với Chúa Thiên Đàng là một suy nghĩ không mấy vui, nếu không nói là sợ hãi. Đó là một nỗi sợ về ‘những điều chưa biết’; họ nghĩ, họ sẽ bỏ lại những người thân yêu, hoặc thậm chí sợ rằng, thiên đàng không phải là nơi an nghỉ.

Là con cái Chúa, điều cần thiết là chúng ta cần nuôi dưỡng một tình yêu lớn lao đối với thiên đàng bằng cách ‘hiểu đúng’ về nó, hiểu rõ ‘mục đích của cuộc sống hôm nay’ là hướng về nó. Thiên đàng phải ‘định hướng và sắp xếp’ cuộc sống của chúng ta! Chúa Giêsu nói về ‘đích đến’ này bằng cách đưa ra một hình ảnh rất thân thiện, gần gũi: ‘Nhà của Cha!’. Nó tiết lộ thiên đàng là ‘nhà mình’, một nơi an toàn mà chúng ta thư thái bên những người thân yêu và cảm nhận nó là chốn những con trai, con gái của Cha ‘thuộc về’.

“Chúa Giêsu đã dành một chỗ trên trời cho mỗi chúng ta. Đừng quên, ‘nơi ở’ chờ đợi chúng ta là thiên đàng. Bạn đang quá cảnh ở trần gian, chỉ quá cảnh thôi! Bạn được tạo dựng cho thiên đàng, để sống mãi mãi với những người thân yêu; và cùng họ, chia sẻ niềm vui vĩnh cửu trong ‘Nhà Cha mình!’” – Phanxicô.

Anh Chị em,

“Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”. Chúng ta có nhiều chỗ để đi, nhưng chỉ có một chỗ ‘để ở’; đúng hơn, ‘để về’ – thiên đàng! Vậy mà, thật bất ngờ, thiên đàng không ở đâu xa, không chỉ ở đời sau; nó ‘ở đây, lúc này!’. Ở đâu có Giêsu, ở đó có thiên đàng; Giêsu là thiên đàng. Vì thế, ở đâu có Thánh Thể, ở đó là ‘một góc’ thiên đàng. Mỗi ngày, với lòng sạch tội, rước Chúa Giêsu, bạn và tôi ‘ẵm’ thiên đàng. Tác giả “Giêsu Khoan Nhân” – một thánh ca xưa – viết, “Chúa đến thăm con, thăm con mỗi sáng ngày, linh hồn thấy lại tuổi thơ ngây; thiên đàng chớm nở, chớm nở ngay dưới thế, tháng năm hoan lạc trôi từ đây!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, trần gian là lữ điếm mà con – lữ khách – quá cảnh; đừng để con quên, con đang về ‘nhà Cha’. Bằng không, con sẽ ‘vất vưởng’ không chỉ mai ngày nhưng ngay hôm nay!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

********************************

Thứ Sáu Tuần IV Phục Sinh

Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.        Ga 14,1-6

1 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Anh em đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. 2 Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở ; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. 3 Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. 4 Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.”

5 Ông Tô-ma nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường ?” 6 Đức Giê-su đáp : “Chính Thầy là con đường là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.”


 

NÊN CẢM ƠN AI?

Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn

 

“Được thừa hưởng một nền giáo dục nhân bản, nên gương mặt rất Chân chất và đôn hậu.”

Trong hình là tiến sĩ Nguyễn Thị Hoàng Dương (Kelly Nguyễn), quê Quảng Ngãi.

Hiện cô làm việc tại MRC-Phòng thí nghiệm về sinh học phân tử tại Cambridge, Anh quốc. Báo chí loan tin cô sẽ được trao huy chương Colworth năm 2024 vì những kết quả nghiên cứu xuất sắc.

Cô là nhà khoa học người Việt đầu tiên nhận huy chương này trong lịch sử 60 năm của giải thưởng.

Con đường của tiến sĩ Hoàng Dương bắt đầu khi học xong lớp 10 ở tỉnh nhà, cô nhận học bổng toàn phần chương trình phổ thông tại Trường nữ sinh Wellington New Zealand.

Khi tốt nghiệp xong, cô có thành tích rất tốt và thi đậu học bổng toàn phần học Hóa học tại đại học danh giá Australian National University (ANU). Ở đây, cô học rất giỏi và tốt nghiệp với hạng đứng đầu khóa học First Class Honours với một huy chương University Medal. Thường 1 năm chỉ có 1 sinh viên của khoa nhận vinh dự này.

Từ kết quả đó, năm 2010 cô được nhận vào học tiến sĩ với học bổng toàn phần tại University of Cambridge (Trinity College).

 Cô tốt nghiệp tiến sĩ khi mới chỉ 26 tuổi và ở lại trường làm công tác nghiên cứu. Cô cũng từng qua nghiên cứu tại Đại học California Berkeley, Mỹ.

Là một nhà nghiên cứu về sinh học phân tử đầy tiềm năng, cô đã từng nhận rất nhiều giải thưởng quốc tế danh giá về chuyên ngành.

Trinity College, nơi cô theo học tiến sĩ và đang làm việc là đại học tốt nhất của Viện đại học Cambridge- trường đại học chất lượng bậc nhất thế giới. Thành lập từ 1546, trường này đã có 34 thành viên nhận giải thưởng Nobel (trong số 121 giải thưởng mà các thành viên của Đại học Cambridge nhận được). Đây là trường mà nhà vật lý Isaac Newton và rất nhiều vĩ nhân từng theo học.

Trường chỉ hiện có tổng số 180 sinh viên tiến sĩ, do đó được vào đây học hành và đỗ đạt là vô cùng vinh dự.

Có một nhà khoa học Việt tại nước Anh, trong 1 trung tâm khoa học lớn của thế giới như tiến sỹ Hoàng Dương thật quý báu. Chúc mừng cô và mong cô đạt nhiều thành tựu khoa học mới.

Nguyễn Thị Bích Hậu


 

Lần Đầu Tiên Gặp Ba Trong Trại Tù “Cải Tạo” của Cộng Sản – Câu Chuyện của Bà Cao Xuân Thanh Ngọc VHM

Lần Đầu Tiên Gặp Ba Trong Trại Tù “Cải Tạo” của Cộng Sản – Câu Chuyện của Bà Cao Xuân Thanh Ngọc VHM     

Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, hàng trăm ngàn trẻ em miền Nam bỗng dưng trở thành mồ côi vì cha mẹ họ vốn từng phục vụ cho chính thể Việt Nam Cộng Hòa nên đã phải trình diện rồi bị đưa vào những trại giam giữa rừng sâu nước độc, không biết ngày trở về.

Trong số những trẻ ấy có chị Thanh Ngọc: Được sinh ra giữa lòng đất đỏ Xuân Lộc – địa phận Long Khánh, trong khi người cha vốn là một sĩ quan của Quân Lực VNCH đã bị giam cầm suốt 10 năm trời. Mẹ chị, một cô giáo tiểu học, đã phải một mình âm thầm gồng gánh để nuôi năm người con trong cảnh khốn cùng.

Khi được 9 tuổi, chị lần đầu được gặp mặt cha trong trại tù cộng sản – một ký ức không thể nào quên, đánh dấu cột mốc đầu đời cho hành trình tìm lại gốc rễ, danh dự và tình phụ tử.

Năm 1991, gia đình chị được định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO. Từ một thiếu nữ vị thành niên không rành tiếng Anh, chị đã kiên trì suốt hơn một thập niên không ngừng vươn lên trên con đường học vấn.

Ngày nay, chị là một Tiến sĩ Dược Khoa, Inpatient Pharmacy Supervisor tại Kaiser Ontario Medical Center, đồng thời đảm nhận thêm vai trò Corporate Senior Director of Pharmacy cho một hệ thống có trên 500 nhà thương với hơn 2,500 dược sĩ làm việc trên toàn nước Mỹ. 

Câu chuyện về cuộc đời chị là một trường hợp đặc biệt cụ thể minh chứng cho sự nỗ lực vươn lên mãnh liệt từ nghịch cảnh, như gián tiếp là lời tri ân thầm lặng đến cha mẹ, đến đất nước Hoa Kỳ – nơi đã giang tay đón nhận người Việt tỵ nạn – và cũng là ngọn đuốc tinh thần soi sáng cho thế hệ trẻ Việt Nam khắp nơi trên thế giới.

Kính mời quý vị cùng lắng nghe hành trình đầy thử thách do chính chị Cao Xuân Thanh Ngọc thuật lại.

Lịch Sử Qua Chuyện Kể là một trong những dự án của Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt để lưu lại những câu chuyện trong ký ức, trực tiếp qua lời thuật chuyện của những người đã từng tham gia hay là nhân chứng trong các sự kiện lịch sử cận đại. Dự án này là một công trình nghiên cứu  mục đích sưu tầm, lưu trữ và giải thích lịch sử người Việt tỵ nạn.

Những người Việt tỵ nạn sống sót cần có cơ hội trực tiếp chia sẻ cụ thể  đầy cảm xúc về những kinh nghiệm mà mình đã trải qua, hoặc chứng kiến những biến cố lịch sử của dân tộc, trên con đường đi tìm tự do, cũng như là những khó khăn bước đầu định cư và lập nghiệp nơi xứ người. Đây là cơ hội để có thể thông cảm và hiểu biết lẫn nhau hơn giữa các thế hệ tỵ nạn; đồng thời cũng là tạo cho những thế hệ mai sau thấu hiểu, hãnh diện và nhớ ơn những hy sinh và can đảm của tiền nhân. 

Thánh Isidore (1070-1130)-Cha Vương

Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Isidore. (St. Isidore of Madrid, 1070-1130) Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé. Xin thánh nhân chuyển cầu cho chúng con được sống thánh giữa đời.

Cha Vương

Thứ 5: 15/05/2025

Thánh Isidore là quan thầy của các nông dân và làng quê. Ðặc biệt, ngài là quan thầy của Madrid, Tây Ban Nha, và của Hội Nghị Ðời Sống Công Giáo Thôn Quê Hoa Kỳ.

     Khi lớn tuổi, ngài làm công cho gia đình ông Gioan de Vergas, một địa chủ giầu có ở Madrid, và trung thành làm việc cho đến mãn đời. Isidore kết hôn với một thiếu nữ đạo đức và chính trực mà sau này bà được tuyên xưng là thánh Maria de la Cabeza. Hai người có được một con trai nhưng chẳng may cậu chết sớm. Cả hai ông bà tin rằng ý Chúa không muốn hai người có con, do đó họ quyết định sống khiết tịnh cho đến suốt đời.

     Isidore là người đạo đức thâm trầm bẩm sinh. Ngài thức dậy từ sáng sớm để đi lễ và dành thời giờ trong những dịp lễ lớn để đi viếng các nhà thờ ở Madrid và vùng phụ cận. Trong khi làm việc, ngài luôn chuyện trò với Thiên Chúa. Khi bị các đồng nghiệp cho rằng ngài trốn tránh nhiệm vụ qua việc tham dự Thánh Lễ hằng ngày, lấy nhiều thời giờ để cầu nguyện, v.v…,

     Isidore trả lời rằng ngài không còn lựa chọn nào khác hơn là tuân theo Ông Chủ tối cao. Truyền thuyết kể rằng, một sáng kia khi ông chủ đến cánh đồng để bắt quả tang Isidore trốn việc đi nhà thờ, ông thấy các thiên thần đang cầy cấy nơi khu ruộng của Isidore.

     Isidore còn nổi tiếng là thương người nghèo và cũng thường để ý đến việc chăm sóc loài vật. [Chuyện kể có lần giáo xứ tổ chức tiệc. Isidore đến nhà thờ sớm để cầu nguyện. Vì lý do đó ông đến hội trường muộn, đã vậy ông còn kéo thêm một nhóm người ăn xin nữa. Các giáo dân tỏ vẻ phẫn nộ vì sợ không có đủ thức ăn cho tất cả những người ăn xin đó thì sao? Nhưng trong khi phân phát đồ ăn thì họ thấy đồ ăn càng nhiều thêm đến độ đủ thức ăn cho mọi tất cả mọi người. Thánh Isidore tế nhị giải thích: “Chúa chăm sóc cho những người nghèo của Ngài đó”]

     Isidore từ trần ngày 15 tháng Năm 1130, và được phong thánh năm 1622, cùng với các Thánh I-nhã, Phanxicô Xaviê, Têrêsa và Philip Nêri.

 Lời Bàn: Chúng ta có thể tìm thấy nhiều sự ứng dụng nơi vị lao công thánh thiện này: Công việc lao động có phẩm giá; sự thánh thiện không bắt nguồn từ địa vị xã hội; sự chiêm niệm không lệ thuộc vào học thức; đời sống thanh bạch là con đường dẫn đến sự thánh thiện và hạnh phúc. 

(Nguồn: GP Vĩnh Long)

***************************

Nên Thánh Giữa Đời ( Sr Têrêsa / Ca sĩ Xara Trần)

PHẢN BỘI, TRUNG THÀNH – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con!”.

Không phản bội nào tồi tệ hơn phản bội của một thành viên trong gia đình hay của một người bạn! Caesar đã trải nghiệm điều đó. Một trong những kẻ mưu hại ông là Brutus, người ông tin tưởng và ưu ái như con ruột. Theo các sử gia, trong cuộc mưu sát, Caesar chống lại sự tấn công của các sát thủ; nhưng khi thấy Brutus với con dao trong tay, ông lặng trân! Kéo áo qua mặt, Caesar để lại một lời bất hủ, “Cả ngươi nữa, Brutus, con ta?”.

Kính thưa Anh Chị em,

Trải nghiệm của Julius Caesar 44 năm trước Chúa Giêsu cũng là trải nghiệm của chính Ngài. Vậy mà Chúa Giêsu vẫn yêu đến cùng, bất chấp các môn đệ của Ngài ‘phản bội!’ hay ‘trung thành’.

Bối cảnh Tin Mừng hôm nay là bữa Tiệc Ly; qua đó, Chúa Giêsu cho biết một trong các môn đệ sẽ phản Ngài. Biết trước điều đó, lẽ ra, Chúa Giêsu không để con người này đến gần; không, Ngài vẫn tỏ ra yêu thương, trìu mến. Ngài “trao bánh” cho Giuđa, một cử chỉ thân ái của người đang yêu, kèm theo một lời Thánh Kinh gợi ý bóng bẩy, “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con”; may ra nhờ đó, Giuđa suy nghĩ lại. Ngài mở rộng tình bạn cho Giuđa đúng vào lúc ông đang mưu phản. Tình yêu thuỷ chung của Chúa Giêsu bền bỉ đến cùng, đến tận thập giá, đến tận phục sinh! Khi Ngài tắt hơi, trừ một mình Gioan, không môn đệ nào có mặt; vậy mà sau khi sống lại, Ngài không hề nhắc đến sự bất tín của một ai. Chúa Giêsu thấu hiểu, tha thứ; và với họ, tiếp tục đồng hành.

Phaolô cũng đã rao giảng một Thiên Chúa trung thành, Đấng đã chọn Israel, giải thoát và chịu đựng nó. Thiên Chúa trung thành với giao ước Ngài đã lập; đặc biệt, lời hứa với Đavít, “Từ dòng dõi vua này, theo lời hứa, Thiên Chúa đã đưa đến cho Israel một Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu!” – bài đọc một.

“Cả ngươi nữa, Brutus, con ta?”, lời của một trái tim tan nát; “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con!”, lời của một tâm hồn vỡ vụn! Đó là gót của một trong những môn đệ mà Ngài đã thức suốt đêm để cầu nguyện và chọn ra; một môn đệ đã ba năm gần gũi Thầy, nghe bao điều, thấy bao dấu lạ, vậy mà vẫn đang tâm phản bội. Dẫu thế, Chúa Giêsu vẫn một lòng yêu; và có thể nói, Ngài đeo bám Giuđa để yêu; “Nếu ta không trung tín, Ngài vẫn một lòng trung tín, vì Ngài không thể chối bỏ chính mình!” – Phaolô.

Anh Chị em,

“Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con!”. Trung tín là bản chất của Thiên Chúa, và bất tín ‘xem ra’ là bản chất của con người! Vậy mà, với Thiên Chúa, con người ‘trung thành’ hay ‘phản bội’ xem ra không thành vấn đề; vì lẽ, Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối trung thành và sự trung thành của Ngài chính là tình yêu Ngài dành cho mọi người. Chớ gì bạn và tôi đừng phản bội; phản bội thiên chức, phản bội lời khấn, phản bội lời thề! Để từ đó, trở nên những sứ giả nói cho thế giới rằng, “Nhân loại này đang có một Đấng tuyệt đối yêu thương, tuyệt đối trung thành, trung thành đời đời!”; “Lạy Chúa, tình thương Chúa, đời đời con ca tụng!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, ranh giới giữa ‘trung thành’ và ‘phản bội’ thật mong manh. Giúp con trung tín với Chúa từng ngày, hầu con có thể tín trung với những ai con cam kết!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

From: KimBang Nguyen

*****************************************************

Thứ Năm Tuần IV Phục Sinh

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.

16 Sau khi rửa chân cho các môn đệ, Đức Giê-su nói: “Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. 17 Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em! 18 Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con. 19 Thầy nói với anh em điều đó ngay từ lúc này, trước khi sự việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra, anh em tin là Thầy Hằng Hữu. 20 Thật, Thầy bảo thật anh em: ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.”


 

NGUYÊN NHÂN CÔNG AN TỈNH LONG AN TRUY BỨC THIỀN AM

Việt Tân 

– Luật sư Mạnh Đăng-

Tôi đã nhiều lần bắt gặp câu hỏi rằng “Tại sao Thiền Am lại bị công an Long An truy bức đến mức độ như vậy?”. Vì thật khó hiểu khi Thiền Am chỉ là một cơ sở tu tại gia và một số thành viên có hoạt động văn nghệ giải trí cho công chúng mà thôi…

Thật ra, chỉ những ai đã từng quan tâm theo dõi đến các hoạt động của Thiền Am, từ cách họ mưu sinh bằng tài năng văn nghệ của mình, cũng như cách họ vụng về đối phó với những thị phi ập đến… mới có thể có câu trả lời đúng đắn và đầy đủ. Vì lẽ, nguyên nhân của sự việc đã trải dài theo nhiều năm.

Qua đó, theo nhận xét của tôi, có 6 nguyên nhân chính khiến cho Thiền Am bị truy bức:

– Sự nổi tiếng của Thiền Am, một cơ sở tu hành từ chối sự quản lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tiềm ẩn thách thức an ninh đối với chính quyền địa phương;

– Thiền Am từ chối cộng tác với Thích Nhật Từ và từ chối vào Giáo hội Phật Giáo Việt Nam khiến cho Thích Nhật Từ tố cáo trả đũa;

– Công an trả đũa vụ tai tiếng hối lộ 300 triệu bất thành làm mất uy tín ngành công an tại địa phương;

– Công an che dấu tội phạm trong vụ 50 côn đồ xâm nhập vào Thiền Am để hành hung người, đập phá, trộm cắp tài sản;

– Công an che dấu sự lạm quyền trong việc cưỡngbức đưa cô Bùi Ngọc Trâm đi khám phụ khoa;

– Công an che dấu sự lạm quyền khi bắt cóc cô Diễm My, một phụ nữ đã thành niên trái với ý muốn của cô ấy;

Cụ thể như sau:

  1. Đánh giá an ninh mang tính truyền thống của chế độ vốn không cho phép cá nhân, tổ chức được phép tồn tại nếu nổi tiếng và có khả năng hiệu triệu được công chúng. Cho dù hoạt động của các cá nhân, tổ chức đó không liên quan gì đến chính trị cả.

Sự tiềm ẩn về thách thức an ninh đối với chính quyền phải được triệt tiêu từ trong trứng nước.

Thiền Am đã trở nên rất nổi tiếng ở trong nước và nhất là ở ngoài nước, với những sản phảm video thu hút đến hàng chục vạn, thậm chí hàng triệu lượt xem và theo dõi đã vô tình trở thành mối tiềm ẩn về thách thức an ninh đối với chính quyền địa phương. Để triệt tiêu sự thách thức này, họ truy bức Thiền Am.

  1. Thiền Am đã thẳng thừng từ chối 2 lời mời của Thích Nhật Từ, trụ trì chùa Giác Ngộ và là một chức sắc thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, gồm:

– Sau những thành công của Thiền Am qua việc đoạt các giải thưởng cao trong game show truyền hình và trên trang mạng xã hội, Thích Nhật Từ đã mời Thiền Am cộng tác để cùng tham gia vào các hoạt động kinh doanh của chùa Giác Ngộ do Thích Nhật Từ trụ trì. Nhưng Thiền Am đã từ chối.

– Thích Nhật Từ cũng mời Thiền Am tham gia vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nhưng Thiền Am cũng từ chối. Theo lời ông cụ Lê Tùng Vân: “Vì Giáo hội Phật Giáo Việt Nam không xứng đáng để tôi tham gia”!.

Sĩ diện, “Ăn không được thì đạp đổ”, Thích Nhật Từ đã trả đũa bằng cách trở mặt, liên tục xúc phạm, bôi nhọ, đặt điều gây tổn hại đến thanh danh của Thiền Am trong một thời gian dài. Sau khi Thiền Am khiếu nại, tố cáo không được giải quyết, đã có lời xúc phạm trả đũa liền bị Thích Nhật Từ tố cáo yêu cầu công an xử lý.

Sự tố cáo của Thích Nhật Từ phù hợp với ý đồ của Công an tỉnh Long An, do đó, họ đã truy bức Thiền Am.

  1. Công an địa phương đã đòi hối lộ 300 triệu đồng để làm chứng minh nhân dân cho một số thành viên của Thiền Am. Sự việc bị tố cáo khiến cho công an mất mặt, mất uy tín.

Để trả đũa, họ truy bức Thiền Am.

  1. Như chính Võ Văn Thắng thừa nhận, với sự gợi ý của công an địa phương, Võ Văn Thắng đã huy động 50 tên côn đồ tự tiện xâm nhập vào Thiền Am, hành hung người gây thương tích, trộm cướp, đập phá tài sản… Tất cả đều có clip ghi ảnh, ghi hình đầy đủ.

Dù Thiền Am đã tố cáo, nhưng công an tỉnh Long An đã làm ngơ, không điều tra, không khởi tố vụ án với lý do đã làm mất hồ sơ và chứng cứ vụ án.

Để chạy tội cho 50 tên tội phạm và để che dấu sự bao che tội phạm của chính mình, họ truy bức Thiền Am.

  1. Cô Bùi Ngọc Trâm là một nữ tu tại Thiền Am và chưa từng lập gia đình. Cô ấy tố cáo luật sư Trần Quốc Dũ có phát ngôn trên mạng xã hội xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm.

Đổi lại, công an địa phương cưỡng chế đưa cô ấy đi khám phụ khoa để chứng minh lời luật sư Trần Quốc Dũ xúc phạm cô Trâm là đúng. Như là cách để cứu ông Dũ!

Từ tư cách người tố cáo, cô Bùi Ngọc Trâm bị công an tỉnh Long An ngang nhiên xúc phạm thân thể, danh dự. Cho dù sau đó luật sư Trần Quốc Dũ đã thừa nhận lỗi của mình.

Để che đậy cho sự lạm quyền của mình, họ truy bức Thiền Am.

  1. Cô Diễm My là một thiếu nữ đã thành niên. Cô ấy có toàn quyền quyết định chọn nơi cư trú ở nhà cha mẹ hoặc ở Thiền Am mà cô ấy mong muốn.

Nhưng Công an địa phương đã lừa gạt, dùng xe cứu thương đưa cô ấy về giao cho cha mẹ.

Do Thiền Am không biết sự lừa gạt này nên đã có phát ngôn cho rằng công an bắt cóc Diễm My là có lý do và hoàn toàn bình thường.

Để che đậy hành vi lừa gạt, bắt cóc một thiếu nữ đã thành niên trái với ý muốn của cô ấy và trả đũa phát ngôn “công an bắt cóc người”, họ truy bức Thiền Am.

KẾT LUẬN :

Truy bức Thiền Am là cách công an tỉnh Long An trả đũa và đang tự cứu lấy mình để: Che dấu các hành vi lạm quyền cùng các hành vi che dấu tội phạm của chính công an tỉnh.

Trong một xã hội bất công, lực lượng công an thay vì là giải pháp lại trở thành nguồn gốc gây ra bất công. Nó khiến cho mọi quan hệ xã hội trở nên méo mó. Theo đó, thì ngay cả việc dân lành chọn cách sống lương thiện cũng trở thành khó khăn.

Manh Dang

——-///——-

Ảnh: Đại tá Văn Công Minh, Phó Giám đốc công an tỉnh, người chủ trương xóa sổ Thiền Am