MIỀN TRUNG CHÌM TRONG BIỂN NƯỚC, NHIỀU NGƯỜI CHẾT VÀ MẤT TÍCH

BBC News Tiếng Việt 

Khoảng 128.000 ngôi nhà ở miền Trung đang chìm trong nước lũ, và đã có ít nhất 18 người chết và mất tích khi mưa lớn gây lũ lụt hoành hành khu vực này trong những ngày qua.

 (Photo by NHAC NGUYEN/AFP via Getty Images)

Thông tin này được Cục Quản lý Đê điều và Phòng chống Thiên tai, thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường, đưa ra vào sáng 30/10.

Dù mưa đêm 29/10 đã giảm, lũ sông Thu Bồn (Đà Nẵng) vẫn ở mức cao, và từ nay đến đêm 31/10, khu vực từ Nghệ An đến Đà Nẵng tiếp tục có mưa.

Khoảng 2h sáng nay, lũ trên sông Thu Bồn ở mức 5,62m, trên báo động 3 là 1,62m, vượt lũ lịch sử năm 1964 là 0,14m.

Hiện khoảng 90 xã, phường vẫn đang ngập sâu, hàng trăm ngôi nhà bị lũ cuốn trôi, sập hoặc hư hỏng; 20 tuyến quốc lộ ách tắc vì ngập, sạt lở, và nhiều chuyến tàu khách trên tuyến Hà Nội – Sài Gòn – Huế – Đà Nẵng buộc phải tạm dừng.

Getty Images: Ảnh chụp tại Hội An hôm nay 30/10

#BBCTiengViet –  #Lulut

(Photo by NHAC NGUYEN/AFP via Getty Images)

 

“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.”- Cha Vương 

Ngày Chúa Nhật tràn đầy tình thương và nhân hậu của Chúa Chiên Lành. Xin một hy sinh nhỏ cầu nguyện cho các linh hồn hôm nay nhé. Đa tạ!

Cha Vương 

CN: 2/11/2025

TIN MỪNG: Lòng nhân hậu và tình thương CHÚA ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên. (Tv 23:6)

SUY NIỆM: Đối với người Ki-tô hữu Thánh Vịnh (Tv) 23 (hay theo truyền thống La Hy là 22) là một Tv rất quen thuộc. “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.” Lời cầu nguyện tâm tình của vua Đa-vít này bạn được nghe nhiều trong Thánh Lễ an táng hoặc các nghi thức cầu nguyện cho các linh hồn. Thậm chí con người còn thuộc lòng nữa. Đa-vít diễn tả niềm xác tín rằng chính ông là kẻ được dẫn dắt và bảo vệ, ông được đem đến chốn thanh nhàn thoát khỏi mọi hiểm nguy, bởi vì Chúa là Mục tử của ông.

 Đối với người Do Thái, khát vọng thẳm sâu của họ là được trở về Đền Thờ và cư ngụ ở đó. Được sống bên Thiên Chúa trong sự thân mật và sự tốt lành của Người là ước nguyện và nỗi hoài hương của tất cả kẻ tin: có thể được sống ở nơi thực sự Thiên Chúa ở, được ở bên Thiên Chúa. Đây cũng là niềm khao khát của người Ki-tô hữu, còn sống cũng như đã qua đời. 

Dù cuộc đời mang đến cho bạn bao nhiêu những khó khăn và thử thách, uớc mong bạn luôn vững tin vào Chúa là “Người Mục Tử Tốt” lành. Người luôn đi tìm con chiên bị lạc, Người biết chiên của Người và trao ban sự sống cho chúng ta. 

CẦU NGUYỆN: Lạy Cha nhân từ, xin lấy lòng nhân hậu và tình thương của CHÚA ấp ủ con hôm nay và mãi mãi. 

THỰC HÀNH: Cầu nguyện hoặc viếng thăm nghĩa trang cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời.

From: Do Dzung

***************************

Chúa Chăn Dắt Tôi – Thánh Vịnh 22

PHÙ PHIẾM – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù!”.

“Sự tôn trọng của thế giới chỉ là một món hối lộ. Để mua lấy bình yên của nó, bạn phải bán rẻ sự bình yên của mình. Đây là cách thế giới thưởng cho kẻ ngốc, những kẻ sống nhờ nụ cười quyến rũ và phản bội của ‘nàng’ với những vinh quang phù phiếm!” – William Cowper.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay nói đến phần thưởng thế giới ban cho kẻ ngốc – sự ‘phù phiếm!’.

Chúa Giêsu đưa ra một lời khuyên khi đãi tiệc. Thật là tốt khi động cơ đãi tiệc là tình yêu; nhưng nếu động cơ của nó, hay của bất kỳ hành động từ thiện nào khác là khoe khoang, thì ‘phù phiếm’ đạt được từ đó là ‘khoản thu’ bạn và tôi sẽ nhận được. Buồn thay, không ít người tìm kiếm và nhận được ‘sự trả công’ cho loại ‘vinh quang’ này!

Do cám dỗ của cái tôi, chúng ta thường quan tâm đến điều người khác nghĩ về mình. Tổ chức tiệc tùng cho bạn bè và những người giàu có là một hình thức của kiêu ngạo và khoa trương. Trong bối cảnh này, Chúa Giêsu đang nói về một số người thích xây dựng hình ảnh bản thân theo loại này để ăn mày lời khen của thiên hạ. Sự ‘phù phiếm’ này không chỉ vô ích đối với linh hồn mà còn nguy hại cho nhân cách. “Khao khát được khen là yếu đuối cuối cùng mà người khôn ngoan phải chiến thắng!” – John Ruskin.

Tuy nhiên, không chỉ nói đến thái độ nội tâm, Chúa Giêsu còn chạm đến thân xác, “Hãy mời những người nghèo khó!”. Khi chạm đến thân xác người đau khổ, mầu nhiệm Nhập Thể được tiếp nối. ‘Phù phiếm’ là khi thân xác thành sân khấu cho cái tôi; tình yêu là khi nó trở thành khí cụ của tự hiến. “Tình yêu trừu tượng không phải là tình yêu thật; nó phải mang lấy xác phàm mới thành hiện thực!” – Dietrich Bonhoeffer.

Ngược lại, khi bằng lòng với một số việc tốt âm thầm nào đó, bạn vẫn vui vẻ cống hiến vì một lý do duy nhất là muốn tạo nên một sự khác biệt trong cuộc sống tha nhân… thì đây là điều Chúa Giêsu khuyến khích bạn dành cho những ai không có khả năng ‘trả nợ’. Nhưng thật thú vị, chính Thiên Chúa ‘tự chuốc’ khoản nợ này và Ngài sẽ ‘trả’ dù bạn không có quyền đòi, “Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại sau?” – bài đọc một. Dẫu vậy, bạn vẫn có quyền xin Ngài ân thưởng, “Lạy Chúa, xin đáp lại, vì ơn cả nghĩa dày!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Anh Chị em,

“Đừng mua lấy bình yên của thế gian bằng cách bán rẻ sự bình yên của mình!”. Hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta cách thức mua bình yên: Đầu tư vào người nghèo! “Đó còn là lên tiếng cho những người không có tiếng nói, khẩn cấp mở rộng trái tim và biến những đau khổ và lo lắng của người nghèo, người đói, người bị gạt ra ngoài lề xã hội, người tị nạn, những người bị đánh bại bởi cuộc sống, những người bị xã hội chối bỏ… thành của mình trước sự kiêu ngạo của kẻ mạnh. Bằng cách này, việc phục vụ người khác của chúng ta sẽ trở thành chứng tá của tình yêu, và làm cho tình yêu Chúa Kitô trở nên hữu hình và đáng tin!” – Phanxicô.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin cho cuộc sống con thôi là sân khấu của ‘phù phiếm’, mà trở nên bàn thờ của một tình yêu tự hiến!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)   

*******************************************

Lời Chúa Thứ Hai Tuần XXXI Thường Niên, Năm Lẻ

Đừng mời bạn bè, nhưng hãy mời những người nghèo khó, tàn tật.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 14,12-14

12 Một ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa. Người nói với ông rằng : “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. 13 Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. 14 Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc : vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.”


 

 KIẾP BỤI TRO – Trầm Thiên Thu

Thuy Phan

Trầm Thiên Thu

Không chỉ trong Mùa Chay, mà cả đời người Công giáo luôn phải ghi nhớ thực-tế-thật này: “Ngươi là bụi đất và sẽ trở về bụi đất” (St 3:19).

Tuy không là Kitô hữu, nhưng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng chân nhận kiếp người chẳng là gì trong ca khúc “Cát Bụi”, với lời lẽ: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai vươn hình hài lớn dậy…  Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi…  Bao nhiêu năm làm kiếp con người chợt một chiều tóc trắng như vôi, lá úa trên cao rụng đầy, cho trăm năm vào chết một ngày…  Mặt trời nào soi sáng tim tôi, để tình yêu xoay mòn thành đá cuội… Ôi cát bụi phận này, vết mực nào xóa bỏ không hay.”

Ca từ da diết trong giai điệu trầm lắng.  Triết lý kiếp người là sự yếu đuối, mỏng dòn, bất túc, bất trác,… vì kiếp người chỉ là cát bụi, là bụi tro, là bụi cát, là bụi đất – không được là hạt cát hoặc hạt đất, mà chỉ là hạt bụi quá bé nhỏ!

Cũng với nỗi niềm về thân phận con người, nhạc sĩ Lê Dinh đã trải tâm sự qua ca khúc “Trở về Cát Bụi” (*), ca từ rõ ràng hơn và gần gũi với tư tưởng Công giáo: “Sống trên đời này, người giàu sang cũng như người nghèo khó.”  Tất cả những gì chúng ta sở hữu và tận hưởng đều không do tài năng của mình, vì thế mà phải chân nhận tích cực: “Trời đã ban cho, ta cám ơn trời, dù sống thương đau.”  Tất cả đều là Hồng Ân Thiên Chúa, Ngài CHO hay LẤY LẠI là quyền của Ngài, chúng ta không thể đòi hỏi, vả lại rồi ai cũng “trắng tay” như nhau: “Mai kia chết rồi, trở về cát bụi, giàu khó như nhau, nào ai biết trước số phận ngày sau ông trời sẽ trao.”  Số phận mai sau là do mình quyết định qua cách sống trên trần gian này: Được hưởng phúc trường sinh, hoặc chịu án phạt đời đời.

Nhạc sĩ Lê Dinh có cách lý giải bình dân mà vẫn thâm thúy: “Này nhà lớn lầu vàng son, này lợi danh, chức quyền cao sang, có nghĩa gì đâu, sao chắc bền lâu, như nước trôi qua cầu.”  Tất cả sẽ qua như “nước trôi qua cầu” mà không thể lấy lại.  Thế mà người ta vẫn vênh vang tự đắc khi sống ung dung hơn người khác, nhưng Chúa Giêsu nói rõ: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5:3).  Vậy người giàu đừng vội “hãnh diện,” còn người nghèo đừng quá “tủi thân.”  Thiên Chúa nói là làm.  Chắc chắn như vậy.  Nhưng ngày nay chưa ai biết, quan trọng là kiếp sau!

Về vật chất đã vậy, về tinh thần cũng thế.  Tất cả đều giả dối: “Này lời hứa, này thủy chung, này tình yêu, chót lưỡi đầu môi cũng thế mà thôi, sẽ mất ngày mai như áng mây cuối trời.”  Cái CÓ mà như KHÔNG, cái KHÔNG mà như CÓ.  Ngay cả lời hứa tưởng chừng “chắc chắn” mà cũng chỉ như “mây cuối trời,” mà mây thì luôn di động, thay đổi thất thường.  Người ta gọi là “hứa cuội.”  Vui cười chỉ trong thoáng chốc, nỗi buồn lo cứ đằng đẵng theo tháng ngày.  Tiệc cưới một ngày mà vui được bao nhiêu phút?  Tết cả ba ngày mà vui được bao lâu?  Thực tế phũ phàng đó có giúp chúng ta cảm nghiệm được gì về tâm linh chăng?  Ý Chúa muốn gì qua các biến cố cuộc đời – dù lớn hay nhỏ?

Nhạc sĩ Lê Dinh nói về cuộc đời và nhắc nhở mọi người, nhất là với người giàu: “Sống trên đời này tựa phù du có đây lại rồi mất, cuộc sống mong manh, xin nhắc ai đừng đổi trắng thay đen.  Nào người sang giàu, đừng vì tham tiền, bỏ nghĩa anh em.  Người ơi, xin nhớ cát bụi là ta, mai này chóng phai.”  Thánh Gióp đã từng nhận thức rất rõ: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng” (G 1:20).  Thế nên, dù mất tất cả và bản thân cũng bệnh tật đau đớn, ngài vẫn không than trách và vẫn tạ ơn Chúa.  Một tấm gương sáng ngời để chúng ta cố gắng noi theo!

Lời nhắc nhở đó được lặp đi lặp lại ở phần kết (coda), cũng là lời xoáy sâu vào tâm khảm của mỗi chúng ta: “Người nhớ cho ta là cát bụi, trở về cát bụi, xin người nhớ cho!”  Nốt kết không ở chủ âm mà ở át âm, cứ lơ lửng, cứ ngân vang, như lời nhắc nhở không ngừng và mỗi người phải suy nghĩ đêm ngày, nhất là trong Mùa Chay này…

Kinh thánh đã so sánh rất cụ thể: “Con tim của anh là tro bụi, hy vọng của anh hèn hơn đất, cuộc đời của anh tệ hơn bùn” (Kn 15:10).  Quả thật, thân phận con người chẳng là gì cả.  Vì thế, hãy bắt chước Thánh Phaolô: “Nếu phải tự hào, tôi sẽ tự hào về những yếu đuối của tôi” (2 Cr 11:30).

Đã bao lần chúng ta chứng kiến những người thân nhất của mình “ra đi,” dù y học có tân tiến đến đâu và các thầy thuốc có cố gắng hết sức thì cũng vẫn đành “bó tay” trước lưỡi hái của Tử Thần.  Họ nhắm mắt và xuôi tay, một đi không hẹn trở lại, và đã bao lần chúng ta tiễn đưa người khác ra nghĩa trang.  Đất lấp đầy huyệt là xong một kiếp người!  Chúng ta suy nghĩ điều gì?

Lá cứ rụng, dù xanh hay vàng.  Nhưng với người Công giáo, chết không là hết, mà chỉ là biến đổi (1 Cr 15:51), vì “chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Thánh Phanxicô Assisi).  Chúng ta tin sẽ được sống lại trong ngày sau hết, đó là niềm tin chắc chắn, không mơ hồ hoặc ảo tưởng, thế nên chúng ta vẫn dâng lời cảm tạ: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118; Tv 136).

Lạy Chúa, xin thương xót những tội nhân chúng con, xin giúp chúng con can đảm chết với Con Chúa để có thể được đồng phục sinh vinh quang. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người cứu độ chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.

Trầm Thiên Thu

Nguồn: Mạng lưới cầu nguyện


 

SAU TINH GỌN: CẤP PHÓ MỌC NHƯ NẤM SAU MƯA

Người ta nói sáp nhập để tinh gọn bộ máy, giảm biên chế, tiết kiệm ngân sách và tăng hiệu quả quản lý. Nhưng ở Việt Nam, cái gọi là “tinh gọn” lại đang phình ra. Càng sáp nhập, bộ máy càng đồ sộ, số cấp phó càng sinh sôi như nấm sau mưa.

Chỉ riêng con số 9 Phó Thủ tướng đã đủ

khiến người ta choáng váng. Một quốc gia không quá lớn về diện tích, dân số, cũng chẳng phải nền kinh tế đầu tàu thế giới, lại có số Phó Thủ tướng nhiều gấp ba, gấp bốn so với các nước phát triển.

Thế nhưng, nghịch lý ấy không dừng ở cấp trung ương. TP.HCM, Sở Tài chính có đến 18 phó giám đốc, một “đội hình” mà nếu xếp ghế họp thôi cũng phải mất nửa ngày.

Một đất nước với ngân sách còn phải chắt chiu từng đồng cho giáo dục, y tế, an sinh, lại chi hàng nghìn tỷ mỗi năm để trả lương cho các “ông phó”. Những con người mà đôi khi, chức danh nhiều hơn cả công việc thực tế.

Sáp nhập mà không giảm ai, chỉ đổi tên ghế, thì đó không phải là tinh giản, mà là tái sinh bộ máy cồng kềnh trong hình hài mới. Một bộ máy mà số phó ngang ngửa số dân thế này thì dân trả lương sao cho nổi?

Hiểu Lam


 

TƯỞNG NIỆM MỘT CON NGƯỜI CHÍNH TRỰC…-LÊ NGUYỄN

Sau 54 năm ngày mất của một con người chính trực mang tên Ngô Đình Diệm, người dân miền Nam không bao giờ quên 9 năm ngắn ngủi dưới chính thể Đệ nhất Cộng hòa mà đời sống kinh tế luôn vững vàng, ổn định. Đặc biệt hơn cả, ngày nay, những thế hệ sinh ra từ gần một triệu người miền Bắc di cư vào Nam cần hiểu rõ những gì cha ông mình đã trải qua, đã được chính thể Ngô Đình Diệm đối xử như thế nào. 

 Theo những con số thống kê chính thức vào năm 1956, dân số miền Nam chỉ có 12, 366 triệu người, như vậy, trước khi tiếp nhận đồng bào di cư từ miền Bắc vào, dân số miền Nam chưa đến 11,5 triệu người. Vậy mà, vào những năm 1954-1955, ông Diệm và bộ tham mưu của ông đã lo chu toàn cho cuộc sống của thêm gần một triệu người vượt cả ngàn cây số để vào Nam. Ông cho thành lập ba Phủ Tổng ủy quan trọng đặc trách những vấn đề liên quan đến đồng bào di cư miền Bắc. Phủ Tổng ủy Di cư lo tiếp nhận đồng bào mới đến, ổn định tạm thời cuộc sống của họ; Phủ Tổng ủy Dinh điền phụ trách thành lập các khu dinh điền, khu trù mật tại những địa phương còn nhiều đất rộng, chưa canh tác hết, để đưa đồng bào đến định cư lâu dài; và Phủ Tổng ủy Hợp tác xã và Nông tín nhằm cung cấp tín dụng hỗ trợ đời sống của đồng bào các khu dinh điền, khu trù mật, giúp họ có vốn liếng canh tác làm ăn trong khuôn khổ các hợp tác xã được lập ra vì mục đích công ích. 

 Vào thời điểm đó, nhiều khu vực hoạt động tốt, đời sống người dân ổn định và ngày càng phát triển, như khu định cư Hố Nai, Biên Hòa, khu trù mật Hậu Mỹ, quận Cái Bè, khu trù mật Vị Thanh – Hỏa Lựu thuộc tỉnh Chương Thiện, tách ra từ các tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ), Kiên Giang (Rạch Giá)… 

 Đặc biệt khu dinh điền Cái Sắn nằm trong phạm vi hai tỉnh Kiên Giang và An Giang (Long Xuyên), mỗi gia đình được cấp một khoảnh đất ngang 100 mét, dài một cây số, day mặt ra một con kênh đào, cứ hai nhà đâu lưng nhau giữa 2 con kênh đào cách nhau 2 cây số. Để có một khu vực vuông vắn như thế, chính quyền đã phải di dời nhiều hộ dân địa phương, phần lớn theo đạo Hòa Hảo, đến nơi khác, đất không tốt bằng. Song do chính sách đúng đắn nhằm hỗ trợ đồng bào di cư, không dính dáng gì đến quyền lợi cá nhân hay bè phái, đồng bào địa phương sẵn lòng hi sinh một phần quyền lợi riêng của họ. Năm 1968, khi tôi xuống tham gia chính quyền ở quận Kiên Tân, tỉnh Kiên Giang, trong đó có phần lớn khu dinh điền Cái Sắn, từ kênh 1 đến kinh 10, đồng bào di cư Cái Sắn đã có của ăn, của để, lúa thóc đầy bồ, tắc-ráng (loại xuồng máy đuôi tôm nhỏ) chạy ngang dọc các kinh đào như đi trẩy hội. 

 Những năm tháng khó khăn ban đầu, vừa ổn định chính trị, vừa bình định các tổ chức vũ trang chống đối quyết liệt (Bình Xuyên, Hòa Hảo, Cao Đài…), vừa tiếp nhận và lo cho cuộc sống của hàng triệu đồng bào chân ướt chân ráo vào Nam, nếu không có những bộ óc sáng suốt, vì dân, và một đội ngũ công chức biết xả thân vì đại cuộc, miền Nam không thể nào có một bộ mặt ổn định 9 năm liền. 

 Trong những ngày qua, trên một vài trang Facebook, một số bạn trẻ bị đầu độc bởi những thứ văn hóa phẩm “bưng bô”, xuyên tạc, lên án cái gọi là ‘tình trạng tham nhũng” của thời ông Diệm. Xin thưa, nếu thời đó có tham nhũng chăng, thì cũng chỉ bằng 1% của thời đại chúng ta đang sống. Không kể những quan to chức lớn nuôi tham vọng xây biệt phủ, mua nhà nước ngoài hay cho con đi du học, tham nhũng ngày nay được nhiều công bộc sử dụng như một loại biện pháp “chữa cháy” trước đồng lương thấp kém, đời sống khó khăn. 

 Thời ông Diệm, một công chức trung cấp nuôi sống được cả gia đình 4-5 miệng ăn. Khoảng đầu thập niên 1960, học sinh, sinh viên, công chức xa nhà ăn cơm tháng trả khoảng 500 – 600 đồng, trong khi lương tháng một viên chức mới tốt nghiệp đại học gần 7 ngàn đồng, phụ cấp một dân biểu Quốc Hội (tất nhiên là chuyên trách hoàn toàn) 25 ngàn đồng/tháng, một dược sĩ cho thuê bằng mỗi tháng 20 ngàn đồng. 

 Nhìn vào các con số thống kê chính thức (của Viện Quốc gia Thống kê VNCH) công bố vào thập niên 1960, mới thấy tiếc nhớ đời sống kinh tế – xã hội dưới  chính quyền Ngô Đình Diệm. Niên khóa 1955-56, tổng số sinh viên – học sinh chỉ ở mức 665.000 (lấy số tròn), đến niên khóa 1963-64, đã lên tới con số 1.936.000 người, tăng gần gấp 3 lần; tổng chỉ số giá tiêu thụ (trên cơ sở giá tháng 12/1963 là 100) của giới lao động vào năm 1954 là 74,5, vào năm 1962 là 94, và vào năm 1970, sau gần 7 năm chính quyền nằm trong tay các quân nhân, là … 664, tức mức đắt đỏ cao gấp 9 lần chỉ số năm 1954 và 7 lần chỉ số năm 1962! Thịt heo năm 1954 giá 2,4 đồng/kg, 8 năm sau (1962) chỉ tăng thêm 2 cắc, giá 2,6 đ/kg, một viên chức cấp thấp, lương 2.000 đồng/tháng  mua được khoảng 770 kg thịt heo, tính theo thời giá trung bình 70.000 đồng/kg thịt heo, khoản tiền trên bằng với gần 54 triệu đồng. 

 Năm 1962, tôi thi đỗ vào Học viện Quốc gia Hành chánh với học bổng 1.500 đồng/tháng, trả tiền cơm tháng cho người cô 500 đồng, còn 1.000 đồng bỏ túi, đi xe buýt 1đồng/ chuyến, ăn tô hủ tiếu 5 đồng, tiêu hoài không hết.

 Nhắc chuyện khu dinh điền, khu trù mật thời chính quyền Ngô Đình Diệm, xin kể hai giai thoại:

 – Những năm 1955-1960,  tình trạng an ninh tại miền Nam còn khá ổn định, hầu hết sinh viên tốt nghiệp Học viện QGHC đều được bổ nhiệm làm Quận trưởng tại địa phương. Khoảng năm 1958-1959,  ông Nguyễn Đình Xướng, cựu sinh viên khóa 1 QGHC, làm Quận trưởng Cai Lậy, chịu trách nhiệm xây dựng khu trù mật Hậu Mỹ. Một  ngày nọ, ông Diệm đi kinh lý, chứng kiến sự tổ chức tinh tế, khoa học của khu trù mật, hết sức khen ngợi ông Quận trưởng, khi trở về đã thăng ông Xướng làm Tỉnh trưởng Vĩnh Bình (Trà Vinh), đến khi quân sự hóa lãnh đạo cấp tỉnh (khoảng 1959-1960), ông Xướng còn được tiếp tục làm Tỉnh trưởng với cấp bậc Thiếu tá giả định. Con đường thăng tiến của viên chức này luôn suôn sẻ, sau Tỉnh trưởng Vĩnh Bình là Tổng thư ký Bộ Nội vụ, rồi cuối cùng là Tổng quản trị Hành chánh Phủ Tổng thống, mãi đến tháng 6.1975, mới chịu dừng lại, với cương vị người bạn tù cải tạo cùng một nhà, một đội với người viết bài này tại trại Long Thành. 

 – Thời ông Diệm, số công chức như ông Xướng khá nhiều, nhưng không phải không có đôi trường hợp bê trễ, tắc trách. Người ta kể rằng lần nọ, Phủ tổng thống loan báo chuyến kinh lý của Tổng thống đến tỉnh Bình Tuy (Hàm Tân) thăm một khu trù mật ở đây. Quan chức nghe tin rụng rời vì công việc tổ chức khu trù mật chưa hoàn tất theo tiến độ đã trình. Cuối cùng, họ chọn một hạ sách là chờ đến sáng ngày Tổng thống đến, đi nhổ cây xanh ở những nơi xa, đem trồng hai bên đường. Khi ông Diệm ngồi xe trên đường về tỉnh, thấy hai bên đường cây xanh tốt, bèn dừng xe lại, đến gần những cây trồng, trầm trồ khen ngợi, chẳng ngờ cây trồng cạn quá, chỉ mới đụng qua đã bật gốc. Nhận ra mình vừa bị lừa, cụ giận lắm, nhưng chưa biết thể hiện thái độ bằng cách nào, sẵn chiếc nón nỉ đội trên đầu, cụ nhấc lên và quẳng mạnh. Ông Tỉnh trưởng Bình Tuy là Thiếu tá Lê Văn B. đi cạnh Tổng thống đã kịp nhảy tới, hai tay chụp gọn chiếc nón, nhanh và chuẩn xác như thủ môn Buffon thời hiện đại. Giai thoại này tôi nghe kể lại từ anh Trần Văn K. P., Trưởng ty Y Tế Bình Tuy, có mặt trong phái đoàn đón cụ Diệm lúc bấy giờ.

 LÊ NGUYỄN

2.11.2017

Đăng trên trang 8 Sài Gòn

From:haiphuoc47 & Nguyen NThu

XUỐNG MAU ĐI! – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn hối cải ăn năn!”.

“Ai leo lên cây? Khỉ! Ai leo xuống cây? Người! Dẫu đó là một mô tả giản lược về ‘sự tiến hoá’, nhưng nó vẫn nói lên một điều gì đó hối thúc bạn “Xuống mau đi!” để gặp ‘Một Ai đó’ mà người ấy có thể khiến niềm vui của bạn vỡ oà!” – Tgm. Michel Aupetit.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay man mát một niềm vui. Giakêu không còn leo lên cây như ‘khỉ’; nhưng theo lời gọi “Xuống mau đi!” của Chúa Giêsu, ông tụt xuống để làm ‘người’ và niềm vui vỡ oà.

Chúa Giêsu đi qua Giêricô, Giakêu tìm cách nhìn Ngài. Khổ nỗi, ông thấp bé! Giakêu trèo lên một cây sung; Ngài dừng lại, gọi ông, “Giakêu, xuống mau đi vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”. “Khi Chúa Giêsu dừng lại, thế giới của những kẻ bị lãng quên bắt đầu chuyển động trở lại!” – Jean Vanier. “Xuống mau đi” vì tôi đã quá vất vả, nay mới tìm được ông! “Xuống mau đi” vì tôi không cần phải đi đâu xa nữa, tôi đã tìm được người tôi tìm! “Xuống mau đi” vì người ta khinh dể ông bao nhiêu, tôi trân quý ông bấy nhiêu! “Xuống mau đi” vì tôi đang đói, không phải một bữa ăn nhưng đói linh hồn ông! Những lời ấy là một hối thúc dịu dàng, một đề nghị bất chợt, một thỉnh cầu đến kinh ngạc. Trước ánh mắt ấy, trước lời gọi ấy, Giakêu tưởng như mơ… ông vội vàng leo xuống.

Giêricô là thành được sử sách gọi là “Thành Bị Lãng Quên”. Về mặt địa lý, thành này thấp hơn mực biển; về mặt xã hội, thành này chỉ dành cho tiện dân. Ấy thế, Chúa Giêsu vẫn đi vào, dừng lại, Ngài không sợ đến với tầng lớp thấp nhất, ty tiện nhất mà đại diện là Giakêu – một người xấu xa, không thể được cứu thoát. Vậy mà, điều đó không có trong cái nhìn của Chúa Giêsu, Ngài gọi ông bằng tên, “Giakêu” – nghĩa là “Chúa nhớ đến”. Thú vị thay, trong ‘thành bị lãng quên’, ‘Thiên Chúa nhớ đến’ một người tội lỗi; Ngài đã gọi ông, “Xuống mau đi!” và ông được biến đổi! “Nơi mỗi tội nhân, Thiên Chúa thấy một câu chuyện nên thánh đang chờ được viết!” – Henri Nouwen.

Anh Chị em,

“Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi!” – đó là khởi điểm của mọi ơn cứu độ. Chính vì lòng thương xót vô biên ấy, Thiên Chúa không huỷ diệt, nhưng chờ đợi để con người hối cải – bài đọc một. Giakêu đã cảm được ánh nhìn xót thương ấy nơi Chúa Giêsu – ánh nhìn khiến trái tim bằng đá tan chảy, lòng băng giá bừng lửa yêu thương. Gặp được lòng Chúa, Giakêu xé nát lòng mình; ông đứng lên xưng thú và làm việc đền tội – bù đắp và chia sẻ. Cũng thế, ai biết “xuống mau đi”, từ bỏ cái tôi kiêu ngạo, để Chúa bước vào ‘nhà’ mình, người ấy sẽ được nên công chính, “xứng đáng với ơn gọi” – bài đọc hai – “Khi Thiên Chúa chậm lại, ấy là vì lòng thương xót thích chờ đợi hơn là huỷ diệt!” – Fulton Sheen. Và bấy giờ là niềm vui ắt sẽ đến, “Xin chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, mỗi ngày con lén lút, lập lờ, lây lất đời ‘khỉ’; chỉ khi con chạm đất, con mới gặp được Chúa – Đấng gần con biết mấy – và bấy giờ, con được lại niềm vui!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

*************************************************

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN, NĂM C 

Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 19,1-10

1 Khi ấy, Đức Giê-su vào Giê-ri-khô, đi ngang qua thành phố ấy. 2 Ở đó có một người tên là Da-kêu ; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. 3 Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. 4 Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó. 5 Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông : “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông !” 6 Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. 7 Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau : “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !” 8 Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng : “Thưa Ngài, tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo ; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” 9 Đức Giê-su mới nói về ông ta rằng : “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. 10 Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.”


 

Nguyễn Ánh hay Hồ Chí Minh: Ai là người “bán nước”, ai là người “cõng rắn cắn gà nhà”?

Ba’o Tieng Dan

31/10/2025

Trương Nhân Tuấn

31-10-2025

Sử gia CSVN lên án Nguyễn Ánh “bán nước”, bằng chứng là Hiệp ước Versailles 1787 và vụ cắt đất Trấn Ninh. Hiệp ước Versailles Nguyễn Ánh hứa nhượng Đà Nẵng và đảo Côn sơn cho Pháp. Đất Trấn Ninh, sau khi lên ngôi Nguyễn Ánh cắt Trấn Ninh để ban thưởng cho vua Ai Lao đã có công giúp Nguyễn Ánh trong chuyện dẹp Tây Sơn.

Thực tế là gì?

Hiệp ước Versailles 1787 không được thi hành. Quan chức Pháp thấy là “không có lợi Pháp”, do đó khước từ. Tức là hiệp ước đơn thuần “vô giá trị”. Nguyễn Ánh không có nhượng “cục đất” nào cho Pháp cả.

Còn đất Trấn Ninh bị Pháp sáp nhập vào Ai Lao để dựng lên nước Lào. Điều không thấy ai nói là sau đó Pháp tách ra từ Lào (và Cambodge) vùng đất rộng lớn, gồm cao nguyên trung phần (bao gồm Darlac, Đà Lạt, Kon Tum v.v..) để sáp nhập vô Việt Nam, để “đền bù” cho Việt Nam vụ Trấn Ninh. Vụ này tôi có viết hôm trước.

Sử gia CSVN phê phán Nguyễn Ánh dựa trên “ý định nhượng đất cho Pháp”.

Vấn đề là việc phê phán của họ không dựa trên tinh thần khách quan, khoa học, mà lại dựa theo ý kiến của ông Hồ Chí Minh trong một “bài vè”, tựa đề “Lịch sử nước ta”. Trong bài có các câu:

“Gia Long lại dấy can qua,

Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài.

Tự mình đã chẳng có tài,

Nhờ Tây qua cứu, tính bài giải vây.

Nay ta mất nước thế này,

Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà,

Khác gì cõng rắn cắn gà,

Rước voi giầy mả, thiệt là ngu si…”

Đâu phải cái gì ông Hồ nói, hay làm cái gì thì những cái đó đều đúng hết đâu!

Ông Hồ bị sử gia Tây phương xếp chung “một giỏ” với những “đồ tể cộng sản” như Mao Trạch Đông, Pol Pot… Họ Mao trách nhiệm về cái chết của hàng trăm triệu người Hoa. Pol Pot trách nhiệm “diệt chủng” 1/4 dân Cambodge. Ông Hồ chỉ giết sơ sơ có 4 triệu người Việt mà thôi.

Thực tế cho thấy những gì mà ông Hồ nói về Gia Long đều là “vu khống”, vì không có bằng chứng.

Nguyễn Ánh có “rước Tây vào nhà không?”

Pháp chiếm 6 tỉnh Nam kỳ, sau đó chiếm Bắc kỳ, vì nhiều lý do mà không có lý do nào cho thấy có yếu tố “Nhà Nguyễn rước Tây vô nhà” hết cả.

Pháp chiếm Việt Nam “bằng vũ lực”. Pháp chiếm 6 tỉnh Nam kỳ bằng vũ lực. Pháp chiếm Hà nội bằng vũ lực. Pháp đánh quân Thanh để “bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của nước An Nam” bằng vũ lực. Cuộc chiến tranh với nhà Thanh khiến Pháp thiệt hại nặng nề. Chuyện này tôi cũng nói rồi.

Tôi có thể kết luận rằng ông tổ ngành “sử phịa” của Việt Nam là ông Hồ!

Giả sử rằng nhà Tây Sơn không bị Nguyễn Ánh tiêu diệt. Liệu nhà Tây Sơn có giúp Việt Nam giữ được “độc lập” hay không?

Theo tôi là không! Càng “cương” thì càng chết nhiều.

Cùng thời kỳ, những đế quốc sừng sỏ nhứt, từ Ấn Độ cho tới Trung Hoa, tất cả đều bị thực dân chiếm đóng làm thuộc địa. Trung Hoa bị các đại cường “phân liệt” thê thảm hơn hết. Vì đế quốc này giàu quá. Đây là thời kỳ “trăm năm nhục nhã” của đất nước Trung Hoa. Tất cả các nước trong khu vực, không ngoại lệ, từ Ấn Độ trải dài qua tới Trung Hoa, đều trở thành thuộc địa của nước ngoài.

Ngoại trừ Nhật, nước này thấy coi bộ “chống không lại” nên “thua trước cho cao cờ”. Bèn mở cửa cho nước ngoài (Mỹ) vào buôn bán. Mục đích của Mỹ, cũng như các đế quốc khác, là tìm một chỗ trú chân, trước để buôn bán, sau là nơi dưỡng quân. Mục đích của các đế quốc là “xẻ thịt” con heo mâp ú là Trung Hoa.

Việt Nam đã có thể trở thành một nước Nhật, nếu Hiệp ước Versailles 1787 được Pháp thi hành. Việt Nam được một đại cường hải quân bảo vệ, qua một hiệp ước “an ninh hỗ tương”, không khác gì các hiệp ước an ninh giữa Mỹ và các đồng minh NATO hay Nhật, Hàn, Phi… Nước nào lại không cắt đất cho Mỹ đóng quân? Nước nào không trả tiền để được Mỹ bảo vệ? Vụ này tôi cũng đã nói rồi.

***

Không có một bằng chứng nào cho thấy nhà Nguyễn “cõng rắn cắn gà nhà”. Nhưng có rất nhiều bằng chứng cho thấy ông Hồ và các hậu duệ cộng sản của ông đích thị là những kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”. Ngoài ra còn có bằng chứng cho thấy ông Hồ và hậu duệ đã “bán nước có văn bản”.

Biết bao nhiêu tài liệu từ nguồn Trung quốc, từ Mỹ, trong các thư viện các nước Tây phương… từ nhiều thập niên trước, đã cho ta thấy vai trò của Trung quốc trong cuộc kháng chiến gọi là “đánh Pháp giành độc lập”.

Khởi đầu phải tính từ cột mốc tháng 8 năm 1945: Thời điểm Nhật đầu hàng Đồng minh. Sử sách CSVN khoe khoang là “Việt Minh đã thành công đánh pháp, đuổi Nhật, chạy đua với Đồng minh để cướp chính quyền“.

Sự thật là sau khi quân Đồng minh vào Việt Nam để giải giới quân Nhật, miền Bắc được ủy nhiệm cho quân Trung Hoa Dân quốc và miền Nam cho quân Anh. Quân Trung Hoa vô tới đâu là tước vũ khí của Việt Minh tới đó, rồi giao chính quyền địa phương cho quân Việt Quốc. Miền Nam thì Anh “trả chủ quyền của An Nam” lại cho Pháp. Tức là không có vụ “đánh Pháp, đuổi Nhật, chạy đua với Đồng minh” mà chỉ có vụ Việt Minh “chạy có cờ”.

Nhờ thuật “bôi trơn” (truyền lại cho tới ngày nay) ông Hồ được Trung Hoa ủng hộ, ép Pháp ký Hiệp ước sơ bộ. Vấn đề là khi ký nhận, ông Hồ nhìn nhận “nước của ông Hồ” thực tế chỉ là một “tiểu bang tự do” trong “liên bang Đông dương thuộc Pháp”. Tức là cái “chính danh” của ngày 2-9-1945 rốt cục chỉ là “làm tay sai” lại cho Pháp mà thôi!!! Vụ này ông Bảo Đại có phê bình như vầy: “Để sửa sai ông Hồ đã đưa đất nước vào biển máu“.

Rõ ràng y chang như vậy: Ông Hồ đã đưa đất nước vào biển máu.

Sau năm 1949, nhờ sự trợ giúp về quân sự lẫn nhân sự từ cộng sản Tàu, lực lượng ông Hồ ngày càng mạnh, trên vùng biên giới. Trận Điện Biên Phủ năm 1954, quân ông Hồ thắng quân Pháp hay là quân Tàu thắng quân Pháp?

Bàn cãi vụ này tới chiều chưa hết. Để biết ai thắng, ta nên quy chiếu về Hiệp định Genève 1954. Bên nào chủ động trong bàn Hội nghị Genève? Xin thưa một bên là Pháp (dĩ nhiên), bên kia là Trung Cộng. Châu Ân Lai đóng vai chánh, Phạm Văn Đồng ngồi cho có. Kết quả phân chia Việt Nam ở vĩ tuyến 17, là quyết định của họ Châu.

Tới đây tạm đặt một dấu chấm để nói về “quyền dân tộc tự quyết”, là nền tảng của tính “chính danh” trong cuộc “đánh Pháp giành độc lập” của phe Cộng sản Việt Nam.

Làm gì có chuyện “tự quyết”, bởi vì sau lưng ông Hồ có Trung Cộng ủng hộ, từ cây súng, viên đạn, hột gạo… Trên mặt trận thì cố vấn Tàu Cộng chỉ vẽ đánh thế nào, đánh ở đâu v.v… Trên bàn hội nghị thì có Châu Ân Lai thương nghị với Pháp. Tức là Trung Cộng thủ vai chánh, “quyết” mọi thứ với địch thủ là Pháp.

Trong khi Việt Nam đã được Pháp trả độc lập trước đó 5 năm rồi, qua Hiệp ước Elysée 1949.

Việt Nam đã độc lập rồi, năm 1951 nước Việt Nam này tham dự Hội nghị San Francisco 1951, với tư cách là “quốc gia độc lập có chủ quyền, có tuyên bố chiến tranh với Nhật“. Việt Nam là khách mời của Mỹ.

Chuyện “đánh Pháp giành độc lập” của ông Hồ thực tế chỉ là chuyện “thọc gậy bánh xe” của Trung Cộng. Mao Trạch Đông không muốn có một Việt Nam thân tư bản ở sát nách nước mình.

Cho đến năm 1958, ông Hồ và chính phủ ký công hàm 1958, trong đó tôn trọng và thực thi mọi yêu sách về lãnh hải 12 hải lý, trên những vùng lãnh thổ của Trung quốc. Vấn đề là yêu sách của Trung Quốc bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Công hàm Phạm Văn Đồng ký năm 1958. Ảnh trên mạng

Quan điểm của nhà nước CSVN đối với công hàm này là gì?

Đó là nhà nước CSVN chỉ nhìn nhận lãnh hai 12 hải lý mà thôi. Không có chuyện gì khác nữa.

Theo tôi đây là lập luận ngu xuẩn nhứt trong những lập luận ngu xuẩn khác của CSVN về chủ quyền biển đảo.

Khi công nhận hiệu lực 12 hải lý thì nhà nước CSVN đã mặc nhiên nhìn nhận hiệu lực của công hàm 1958.

Mọi bàn luận khác của học giả CSVN chung quanh chuyện này để phủ nhận công hàm 1958 trở thành chuyện hài.

Vấn đề là khi nhìn nhận hiệu lực công hàm 1958 rồi, thì công hàm này phải được rọi dưới luật pháp quốc tế.

Chiếu luật quốc tế về “hiệu lực các tuyên bố đơn phương”. Không cần giải thích dông dài. Khi Việt Nam đã nhìn nhận hiệu lực công hàm 1958. Việt Nam đã mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Chiếu Luật quốc tế về Biển 1982, Việt Nam nhìn nhận hiệu lực công hàm thì Trung Quốc có quyền yêu sách hải phận các đảo Hoàng Sa và Trường Sa lên tới 200 hải lý.

Ngưng chuyện Hoàng Sa và Trường Sa ở đây.

Là gì? Là đích thị ông Hồ và hậu duệ ông Hồ đã chủ trương “bán nước”. Bán nước có văn tự hẳn hoi.

Học giả CSVN nghe ông Hồ dựng chuyện về Nguyễn Ánh rồi cả đàn hùa nhau “lật sử”, buộc Nguyễn Ánh về tội “bán nước”.

Ai bán nước có văn tự, Gia Long hay ông Hồ?

Cho tới cuộc chiến 54-75, có tới trên 300 ngàn quân Trung Cộng có mặt tại Việt Nam, giúp CSVN trong suốt cuộc chiến tranh “đánh Mỹ cứu nước”.

Theo luật quốc tế về việc thực thi quyền “dân tộc tự quyết”, khi một dân tộc gọi là “bị áp bức” nhờ tay một thế lực ngoại bang giúp đỡ để chống lại thế lực áp bức, quyền tự quyết của dân tộc này đã tiêu vong. Ta thấy quân Palestine khi chống Do thái, với danh nghĩa là sử dụng “quyền dân tộc tự quyết”, ta thấy có người ngoài nào trong hàng ngũ của họ hay không?

Tức là khi CSVN vịn vào quyền “dân tộc tự quyết” để “đánh Mỹ, giải phóng miền nam” mà trong hàng ngũ của họ lại có mặt 30 sư đoàn quân Tàu Cộng, thì CSVN không còn chánh nghĩa nào nữa cả.

Ngay cả khi quân Tàu chỉ đóng ở ngoài Bắc, thì theo luật và tập quán quốc tế, Trung Cộng vẫn là “một bên” can dự vào chiến tranh Việt Nam. Đây là lý do mà các nước EU không gởi quân giúp Ukraine tự vệ đánh lại Nga, ngay cả khi đạo quân này chỉ ở hậu phương không chạm súng với Nga.

Tức là gì?

Là không có chuyện “giải phóng miền Nam” mà chỉ có chuyện “xâm lược miền Nam”. Khi quyền tự quyết đã tiêu vong thì danh nghĩa “giải phóng” cũng thành mây khói.

Rốt cục lại, Gia Long hay Hồ Chí Minh, ai là kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”?

Rắn Trung Cộng, rắn Liên Xô, rắn Bắc Hàn… có mặt cả đàn theo lời kêu gọi của ông Hồ và đảng CSVN.

Phê phán Gia Long thì phải lập luận theo “hệ quy chiếu thiên mạng”.

Phê phán ông Hồ thì phải quy chiếu theo luật lệ và tập quán quốc tế hiện hành.

Không phải ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN “cõng rắn cắn gà nhà” thì còn ai vô đây?

Có người dân miền Nam nào muốn được mấy ông cộng sản giải phóng? Không có ai hết. Việt Cộng vô tới đâu dân chạy “chết mẹ” tới đó, biết chết trong bụng cá họ vẫn chạy. Ngay cả bây giờ, thà chết trong thùng đông lạnh người Việt Nam vẫn bỏ nước ra đi. Không có bấy nhiêu người muốn ở lại Việt Nam để “xây dựng đất nước” với đảng CSVN hết cả.

Không ai tin vào cộng sản bất cứ một chuyện gì hết cả, huống chi là chuyện lịch sử.


 

Đảo chính 1-11-1963: Đại sự bất thành của bốn đại tá dân ông Tạ

Ba’o Tieng Dan

01/11/2025

Cù Mai Công

1-11-2025

(Ba cái chết thảm, một án tử hình và năm mộ phần ở khu ngoại vi/ phụ cận/environ vùng Ông Tạ. Xin nói rõ: Tôi không phải là người viết sử mà chỉ ghi nhận thông tin từ góc người Ông Tạ. Nhưng lịch sử VNCH chắc chắn sẽ phải viết lại hoàn toàn nếu mưu sự ấy thành công).

Trong một con hẻm trên đường Thánh Mẫu (nay là Bành Văn Trân, Tân Bình cũ, TP.HCM) có một ngôi nhà khá lặng lẽ. Dân trong xóm này gọi bà chủ nhà lịch thiệp, lộ rõ nét sang trọng này là o Khôi. Ít ai biết đó là vợ đại tá VNCH Lê Quang Tung – tư lệnh Lực lượng Đặc biệt VNCH, phụ trách Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống phủ.

O Khôi hay đi bộ đến thăm gia đình đại tá Bùi Dzinh cách nhà o hơn trăm thước, đối diện hồ tắm Cộng Hòa. Phó của ông Tung là đại tá Trần Khắc Kính, nhà khu Bắc Hải – Ông Tạ, con rể cụ lý Sóc trong ngõ Con Mắt – Ông Tạ; cách nhà cũ của nhà thơ Đỗ Trung Quân chừng vài chục mét.

ĐẠI SỰ BẤT THÀNH

Ông Dzinh, ông Tung cùng Công giáo nhiều đời như gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm, thậm chí đồng hương Lệ Thủy (Quảng Bình), Huế với ông Diệm nên không khó để biết hai vị này rất ủng hộ ông Diệm. Riêng ông Tung, người tuyệt đối trung thành với ông Diệm; từng được ông Ngô Đình Nhu giao nhiệm vụ thành lập Quân ủy Trung ương đảng Cần Lao. CIA lúc đó xếp ông là người có quyền lực nhất ở Nam Việt Nam, sau anh em ông Diệm và ông Nhu.

Ngày 15.3.1963, Tổng thống Diệm đổi Sở Liên lạc thành Lực lượng Đặc biệt, thăng ông Tung lên đại tá, tư lệnh Lực lượng Đặc biệt, ông Kính làm phó.

Lực lượng Đặc biệt và Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống phủ là nỗi ám ảnh thất bại của nhóm tướng lĩnh đảo chính với hậu thuẫn của Mỹ – như đã từng thất bại trong cuộc đảo chính năm 1960. Ngày 19.10.1963, tướng Paul D. Harkins, chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ ở Việt Nam Cộng hòa thông báo cho Tổng thống Diệm biết ngân khoản Hoa Kỳ dành cho Lực lượng Đặc biệt bị cắt giảm.

Rõ ràng phía Mỹ đã “ngửi mùi” một âm mưu đáng sợ từ Lực lượng Đặc biệt mà hai vị tư lệnh và phó tư lệnh là Lê Quang Tung và Trần Khắc Kính – đều là dân Ông Tạ – đã lên kế hoạch: Một nhóm lính thuộc Lực lượng Đặc biệt mặc đồ thường dân sẽ phóng hỏa đốt Tòa đại sứ Mỹ, ám sát đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge, Jr. và một số quan chức chủ chốt của tòa đại sứ.

Và nhóm tướng lĩnh âm mưu đảo chính, với hậu thuẫn của Mỹ và đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge, Jr., ra tay trước.

NGÀY LỄ CÁC THÁNH, CÁC LINH HỒN 1 VÀ 2-11-1963 ĐẪM MÁU

Cả Tổng thống Diệm và ba vị đại tá kia đều là người Công giáo nhiệt thành chắc chắn không bỏ qua việc dự thánh lễ những ngày này. Thực tế sáng 2-11, ngay trong cơn dầu sôi lửa bỏng, thập tử nhất sinh, trước khi quyết định gọi điện thoại cho phe đảo chính báo nơi ẩn náu của mình, ông Diệm và em trai là ông Nhu vẫn bí mật dự lễ Các linh hồn ở nhà thờ Cha Tam.

Cuộc đảo chính của nhóm các tướng lĩnh, do tướng Dương Văn Minh làm chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng, có lẽ đã tính toán cả những chuyện này khi quyết định chọn ngày D cho cuộc đảo chính: 1-11-1963.

Tuy nhiên, ngày 1-11, trong khi đại tá Kính cùng gia đình chuẩn bị bước vào nhà thờ An Lạc, nơi mà “thằng bé” sau này là nhà thơ Đỗ Trung Quân từng giúp lễ để dự lễ Các thánh thì đại tá Lê Quang Tung lại phải chuẩn bị đến Bộ Tổng tham mưu (nay là Bộ Tư lệnh Quân khu 7) cách khu An Lạc khoảng cây số – theo yêu cầu của nhóm tướng lĩnh tổ chức cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm.

Trong cuộc gặp này, ông Tung đứng lên phản đối cuộc đảo chính, bị lôi ra ngoài giết chết. Sau đó, em trai ông Tung là thiếu tá Lê Quang Triệu, tham mưu trưởng Lực lượng Đặc biệt vào Bộ Tổng tham mưu tìm anh cũng bị giết.

Thân xác của hai anh em ông Tung và ông Triệu bị vùi ở đâu đó ở khu vực nghĩa trang Bắc Việt (nay là khu vực chùa Phổ Quang, Tân Bình cũ), bên hông Bộ Tổng tham mưu mà tới giờ vẫn chưa tìm thấy.

Một ngày sau khi hai anh em ông Tung – ông Triệu bị thảm sát, ngày 2-11-1963, hai anh em ông Diệm và ông Nhu cũng bị thảm sát đẫm máu.

Điều trùng hợp là thoạt đầu, trước khi dời mộ về nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (nay là công viên Lê Văn Tám), hai ông Diệm – Nhu cũng được chôn cất gần nơi hai anh em ông Tung – Triệu bị giết (nghĩa trang Bắc Việt). Cụ thể hai ông Diệm, Nhu ban đầu đã được an táng trong một nghĩa trang trong khuôn viên Bộ Tổng Tham mưu, cạnh mộ Lê Văn Phong, em ruột Tổng trấn thành Gia Định Lê Văn Duyệt…

Sáu tháng sau, ngày 22-4-1964, em trai Tổng thống Diệm là ông cố vấn miền Trung Ngô Đình Cẩn bị Tòa án Cách mạng tuyên án tử hình. Ngày 9-5-1964, ông Cẩn bị hành quyết bằng xử bắn và chôn cất ở nghĩa trang Bắc Việt – xã Tân Sơn Hòa, ngoại vi Ông Tạ, cách mộ hai anh mình vài trăm thước.

Như vậy, ban đầu cả ba anh em ông Diệm – Nhu – Cẩn đều được chôn cất trên phần đất xã Tân Sơn Hòa, sát bên vùng Ông Tạ (trung tâm xã Tân Sơn Hòa).

MỘT ĐẠI TÁ BỊ TUYÊN TỬ HÌNH, MỘT ĐẠI TÁ BỊ SÁT HẠI

Ngày 1-11-1963, hay tin cuộc đảo chính nổ ra ở Sài Gòn, đại tá Bùi Dzinh đã lập tức điều động Trung đoàn 15 thuộc Sư đoàn 9 bộ binh và một pháo đội của Tiểu đoàn 9 pháo binh về phản đảo chính.

Nhưng đại tá Nguyễn Hữu Có, thuộc phe đảo chính, đã dàn lính Sư đoàn 7 bộ binh chặn ở ngã ba Trung Lương sau khi ra lệnh cho tỉnh trưởng Định Tường – trung tá Nguyễn Khắc Bình rút hết phà tại bến bắc Rạch Miễu và Mỹ Thuận về bờ phía Mỹ Tho để ngăn Sư đoàn 9 vượt sông Tiền.

Đây không phải là lần đầu tiên ông Dzinh phản đảo chính cứu Tổng thống Ngô Đình Diệm, người đồng hương huyện Lệ Thủy, Quảng Bình của mình. Ba năm trước, ngày 11-11-1960, ông Dzinh, lúc ấy là trung tá, tư lệnh phó kiêm tham mưu trưởng của Sư đoàn 21 bộ binh, cũng từ miền Tây mang một pháo đội 105 cùng đại úy Lưu Yểm, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/33 của của Sư đoàn 21 bộ binh kéo về Sài Gòn nhổ chốt Phú Lâm, do Tiểu đoàn 8 Nhảy dù trấn giữ; thẳng đường về Dinh Độc Lập dẹp tan cuộc đảo chính do đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu.

Ông Dzinh không ngồi yên. Ngày 19-2-1965, ông cũng ra tay: Tham gia cuộc đảo chính nhằm lật đổ tướng Nguyễn Khánh, do thiếu tướng Lâm Văn Phát chỉ huy cùng đại tá Phạm Ngọc Thảo.

Cuộc đảo chính thất bại. Ông Dzinh chạy về vùng Ông Tạ, ẩn náu ở lò bánh mì nhà ông bà Dần trên đường Thánh Mẫu, sau đó sang Nhà hưu dưỡng các linh mục trong khuôn viên nhà thờ Chí Hòa cách đó vài chục mét. Đại tá Thảo vốn nhà ở khu Bắc Hải – Ông Tạ nên thoạt đầu cũng chạy về vùng Ông Tạ, được nhà báo Thiên Hổ – linh mục Nguyễn Quang Lãm, xứ Nghĩa Hòa che giấu.

Bị lùng sục ráo riết, hai ông chạy sang nơi khác. Ông Dzinh bị tòa án quân sự kết án tử hình khiếm diện với tội danh “chuyên viên đảo chính và sử dụng quân đội bất hợp pháp” (sau hạ xuống chung thân rồi tha bổng).

Ông Dzinh chạy về nhà một ông trùm giáo xứ Lạng Sơn ở Xóm Mới (Gò Vấp) và bị bắt ở đây. Ông Thảo chạy về Biên Hòa, bị bắt và sát hại ở đây.

… Những ngày đại lễ tam nhật Các thánh ấy đầy oan khiên, máu và nước mắt.


 

Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. (Mt 5:12a)- Cha Vương

Mừng Lễ Các Thánh đến bạn và gia đình nhé. Xin Chúa chúc lành và ban bình an cho bạn hôm nay và mãi mãi.

Cha Vương

Thứ 7: 1/11/2025

TIN MỪNG: Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. (Mt 5:12a)

SUY NIỆM: Thông thường phần thưởng chỉ được trao cho cá nhân nào sau khi đã trải qua những công lao nỗ lực trong sứ vụ mà họ đảm nhận. Phần thưởng của các thánh là được vui hưởng niềm hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng với Chúa sau khi đã hoàn tất hành trình làm chứng cho Tin Mừng trên thế gian này. Đây cũng là niềm khát vọng của mỗi người Ki-tô hữu. Mỗi người Ki-tô hữu đều có cơ hội để trở nên những vị thánh. Dù bạn có là ai đi nữa—giầu, nghèo, sang, hèn, học thức, không học thức, đàn ông, đàn bà, trai, gái, tu hành, giáo dân… cả đến tội nhân—tất cả đều có thể nên thánh: “Mỗi vị thánh đều có một quá khứ, mỗi tội nhân đều có một tương lai”. Miễn sao bạn phải THÀNH TÂM và CƯƠNG QUYẾT sống xứng đáng với ơn làm con Thiên Chúa. Thánh Gioan Bosco nói: “Muốn làm thánh phải làm người trước”.  Muốn làm con Thiên Chúa bạn phải làm điều mà Chúa Giêsu muốn bạn làm, bạn phải đến nơi mà Người muốn bạn đến, và thực hiện điều đó với tình yêu lớn lao. Bạn chỉ làm điều mà Chúa Giêsu muốn bạn làm mà thôi! Nếu bạn là người chồng, hãy trở thành người chồng mà Chúa muốn! Nếu bạn là người vợ, hãy trở thành người vợ mà Chúa muốn! Nếu bạn là người độc thân vui tính, hãy trở thành người độc thân mà Chúa muốn! Nếu bạn là người tu sĩ, hãy trở thành người tu sĩ mà Chúa muốn!

Mỗi ngày bạn hãy tự hỏi tôi có phải là người mà Chúa muốn tôi trở thành không? Chúc bạn thành công trong hành trình nên thánh nhé.

CẦU NGUYỆN: Lạy Cha nhân từ, xin thánh hoá đời sống con để con được ở bên Chúa muôn đời.

THỰC HÀNH: Chu toàn bổn phận trong ơn gọi của mình trong Chúa.

From: Do Dzung

***********************

Đường con theo Chúa -tinmung.net