Nỗi buồn không thể gọi tên

Nỗi buồn không thể gọi tên

Chuacuuthe.com

VRNs (30.4.2014) – Sài Gòn – Có một nỗi buồn không thể gọi tên, có những nỗi đau không thể nói thành lời. Trước tiên, xin kính cẩn nghiêng mình trước anh linh của những người lính và những người dân vô tội đã chết trong cuộc chiến phi nghĩa giai đoạn 1954-1975.

Nỗi buồn không thể gọi tên là khi tôi tận mắt nhìn thấy những Thương Phế Binh (TPB), cho tôi được phép viết hoa danh xưng đó vì tôi dành cho họ một tình thương cảm khác.
Tôi đứng đó, nhìn thấy họ từng con người, từng hoàn cảnh cứ xuất hiện dần trong tôi như một màu sắc khác của cuộc sống mà đến giờ tôi mới biết nó tồn tại.
Họ chưa bao giờ xuất hiện hay tồn tại trong ký ức tôi. Vì sao thế? Không phải tôi không học hỏi mà những điều đó tôi không được học. Nếu có thì những điều người ta cho tôi biết về họ là những người nhu nhược, sống bám bằng đồng đô la Mỹ, là đội quân hèn nhát…
Với tôi họ mờ nhạt, rất rất mờ nhạt, để rồi hôm nay đây tôi phải nghẹn đắng và sống mũi cay cay. Tôi khóc. Khi nhìn thấy họ- những người TPB ở chính mảnh đất họ chiến đấu.
Tôi chỉ biết đến sự hi sinh nhiều vô kể của hàng triệu lính Bắc Việt mà không hề biết đến sự hi sinh của những người lính Việt Nam Cộng Hoà.
Tôi chỉ biết đến những người thương binh của miền Bắc cũng có những hoàn cảnh khó khăn được trao ít quà mỗi dịp nào đó. Nhưng những đồng tiền hay món quà đó đã bị chặn đầu chặn đuôi rất nhiều. Và họ cũng khổ, nhưng chí ít họ được nhắc nhớ.
Còn rất nhiều điều tôi biết mà hoá ra không biết để rồi ngày hôm đó (28/4/2014) tôi mới hiểu thêm được một trang sử khác, khác rất nhiều những trang sử tôi được đọc, được học.
Chiến tranh phút này còn, giây của phút sau đã mất. Sự tàn khốc của chiến tranh là điều không ai phủ nhận. Vậy tại sao lại phủ nhận rất nhiều nhân chứng lịch sử của cuộc chiến tranh ấy?
Không có sự thật lịch sử nhưng có những dữ kiện lịch sử mới làm nên bức tranh lịch sử chân thực. Cộng sản Việt Nam đã viết một trang lịch sử bằng máu đỏ. Màu đỏ ấy đã chiếm hết lịch sử để rồi giờ đây không chỉ tôi mà có rất nhiều người trẻ không biết đến một màu cờ vàng từng tồn tại phồn vinh và tự do trên mảnh đất hình chữ S.
Tôi đứng đó chết lặng khi nhìn thấy những người mất hết tay chân, đi trên đôi nạng gỗ, những người mù mắt vì xác pháo bắn vào, đa số họ đã mất khả năng lao động nhưng vẫn phải mưu sinh vì miếng cơm manh áo hàng ngày.
Họ đã một thời là những thanh niên khoẻ mạnh dũng cảm. Họ là những người lính có những phút giây lãng mạn của thời thanh niên trai tráng, có những mẹ già, em thơ hay một hình bóng người con gái… Tôi chợt nhận ra họ rất người nhưng sao họ không được đối xử công bằng? Họ phải đi tù cải tạo, bị đối xử rất tồi tệ có thể điều đó cũng khiến họ buồn, nhưng điều đáng buồn hơn cả là họ bị lãng quên.

Một ông thương phế binh VNCH thới tham dự ngày họp mặt Tri ân các thương phế binh hôm 28.4 vừa qua. Ảnh Đức Hiệp

Một ông thương phế binh VNCH thới tham dự ngày họp mặt Tri ân các thương phế binh hôm 28.4 vừa qua. Ảnh Đức Hiệp

Tôi hiểu vì sao 30/4 lại là ngày quốc hận.

Hình ảnh thứ hai tôi xúc động là giọt nước mắt của Cha Giám tỉnh Vinh Sơn. Tôi không nghĩ một người như Ngài có thể khóc, bởi tôi gặp người lần nào cũng là sự vui vẻ và những câu chuyện khiến tôi cười không dứt. Những người anh em cùng thời với Cha, người còn, người mất và bị xã hội này cố tình lãng quên. Để hôm nay đây, bất chấp sự độc ác của chế độ này lần thứ hai Dòng Chúa Cứu Thế tổ chức gặp mặt để họ ôn lại những điều đáng nhớ.
Tôi thấy họ hào hùng hơn bao giờ hết khi họ hát lên bài “Việt Nam quê hương ngạo nghễ”. Tôi thấy được hình ảnh của họ thời đó, một chút gì đó trong họ sống lại. Tôi thấy giọt nước mắt xúc động của không chỉ một mà rất nhiều các ông, các bác và các chú TPB hôm nay.
Chỉ trong khoảng bốn tiếng đồng hồ tôi được nhìn thấy một bức tranh khác về lịch sử. Tôi tự hỏi những người thương binh Bắc Việt có biết có những người giống hệt hoàn cảnh của họ.
Tôi đã thấy hình ảnh khác của người lính không phải “ba lô, súng, mũ tai bèo” nữa.
Tôi thương cảm cho những anh linh của những người lính đã ngã xuống ở hai phía. Nhưng đôi khi cái chết đó có khi còn may mắn hơn là sống dưới chế độ này, họ bị coi rẻ, họ bị tâm lý của “bên thua cuộc”, song có một sự thật khác họ cũng không hơn gì những người thương binh của “bên thắng cuộc”.
Cuộc chiến phi nghĩa ấy đã khiến cho mảnh đất hình chữ S một trang sử đen tối. Nếu thực sự muốn hoà giải, cộng sản nên hoà giải với người sống trước, đừng chỉ hoà giải với người đã chết.
Cộng sản luôn nói đến hoà giải nhưng tôi chưa thấy họ làm được điều gì đáng cho 1 điểm trong việc này. Đừng nhắc đến chữ hoà giải khi những ngày này vẫn còn nói về sự “chiến thắng”.

Vân Hà, cộng tác viên VRNs

 

Nắng sao như nắng đời xưa ấy

Nắng sao như nắng đời xưa ấy

Chuacuuthe.com

VRNs (30.04.2014) – Úc Đại Lợi – Suy tư Tin Mừng Chúa nhật thứ Ba năm A 04-5-2014

“Nắng sao như nắng đời xưa ấy,

Nắng vàng con mắt thấy duyên đâu.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Lc 24: 13-35

Nhà thơ vẫn thấy nắng đời xưa ấy cứ như nắng vàng con mắt chẳng thấy duyên. Nhà Đạo có theo chân đồ-đệ Chúa trên đường Emmaus, cũng chẳng thấy được nắng “thủy tinh” vàng rực cả tâm hồn, mà không biết

Truyện kể hôm nay về đồ-đệ rong ruổi “trên đường Em-maus” đã thành văn bản song hành so với bản văn Tân Ước chứa đựng nội dung ta cử hành Tiệc Thánh Thể mỗi tuần. Điều này có lẽ sẽ khiến nhiều người ngạc nhiên, khi nghĩ: Tiệc Tạ Từ của Chúa đâu giống thế. Nhưng ở trình thuật hôm nay, thánh Luca nhắc nhở cộng đoàn lúc ấy cũng như bây giờ, rằng: họ cũng bị cản ngăn không gặp được Chúa, nhưng mọi người vẫn có kinh nghiệm sống đích thực là Ngài đang hiện diện quanh ta và với ta.

Trong hành trình tin-yêu, môn đệ đã gặp gỡ Chúa như họ từng có kinh nghiệm. Đây là chi tiết sống động trong trình thuật hôm nay. Quả vậy, nơi trình thuật, Đức Giê-su đã lắng nghe những gì họ mong mỏi, hy vọng và cả những chán chường tuyệt vọng cho đến khi họ bộc lộ thực trạng, Đức Kitô mới tỏ lộ Kinh thánh, để họ nhớ. Làm thế, Ngài lấy đi các huyễn hoặc và giúp họ thấy được mối nối kết dẫn đưa vào trình thuật cứu độ. Và, điều này dẫn họ vào hy vọng. Cả vào lúc đó, họ mới nhận ra Ngài. Nhận ra được Ngài, vào lúc Ngài bẻ bánh. Và bằng vào bẻ bánh, Ngài tỏ cho họ biết Ngài là Đấng, họ ngóng trông. Và, kinh nghiệm ấy đã dẫn họ về lại Giê-ru-sa-lem, làm chứng cho việc Ngài thật sự đã Phục Sinh.

Mỗi Chúa nhật, thành phần của hành trình tin-yêu ta dấn bước trên đường đến Em-mau, có Chúa. Có chi tiết nào đưa ta đến đây, để tự hào mà nói: ta khác nhiều với những gì mình thực sự cảm nghiệm. Khác nhiều với những gì mình thực sự đang sống niềm tin ấy. Đức Chúa thấy được tâm can và tâm trí của mỗi người. Ngài gặp gỡ mỗi người chúng ta qua lớp bụi lẩn vẩn của cuộc sống, dù những thứ ấy có mang mặc hình hài khác lạ. Truyện kể về “Con đường Em-mau” dạy cho ta biết Đức Giê-su, trước nhất, muốn lắng nghe ý lòng chúng ta trước khi Ngài muốn ta lắng nghe Lời Ngài.

Tuy vậy, truyện “Con đường Em-mau” không chỉ nói về đồ đệ Chúa và cuộc sống của các thánh, thôi. Hệt một kiểu như thế, Tiệc Thánh Thể cũng không chỉ diễn tả cuộc sống của ta một cách đơn thuần mà Đức Kitô đã mở Kinh thánh cho ta thấy mỗi tuần, để ta có thể tạo cho kinh nghiệm sống của ta có được ý nghĩa. Để ta thấy được con đường Chúa hiện diện, cũng như vắng mặt. Và như thế, mới thấy được sự khùng điên của mỗi người, trong ta. Cũng giống môn đệ trên đường Em-mau, ta được chào đón. Được ngồi vào cùng bàn tiệc của Đức Chúa. Ở bàn tiệc ấy, ta nhận ra Ngài qua việc bẻ bánh. Và nhận ra chén cứu chuộc. Tiệc Thánh Thể, vẫn giúp ta sau khi rời khỏi nơi đây vào cuối bữa, để ra đi rao báo cho mọi người biết rằng ta đã gặp Đức Kitô. Ngài đã thực sự sống lại và Ngài sống lại rồi.

Một trong những điều mà Hội thánh ngày nay rất trân trọng, là: việc nối kết với các kinh nghiệm sống của Hội thánh thời ban sơ. Đích thực là như thế và thật là vinh dự. Vinh dự, nhắc nhớ những gì ta thường làm ở đây, mỗi Chúa Nhật. Nhắc để ta nhớ những gì có khả năng vun đắp niềm tin yêu nơi ta. Những gì ta đang cử hành và tiếp tục làm thế, qua nhiều thế hệ, là điều hệ trọng. Giống “Em-mau.

Cho dù, nhiều điều diễn ra, có thể rất khác. Khác vì văn hoá sắc tộc mỗi người khác nhau. Nhưng, khi thực hiện Tiệc Lòng Mến ở khắp nơi, vẫn có những điều giống hệt nhau. Những điều vẫn được lưu giữ, ở lại. Chính Đức Kitô Phục Sinh, Đấng vẫn tháp tùng cùng đi với ta đi bên ta, trong hành trình của cuộc sống. Ngài vẫn lắng nghe mỗi người. Ngài vẫn mở rộng lòng trí của mỗi người, để nhớ lại những điều nói trong Kinh thánh. Ngài vẫn mời ta ngồi vào bàn tiệc của Ngài. Vẫn gửi ta ra đi về với thế giới nhân trần, cho họ biết: Ngài đích thực đã sống lại từ cõi chết.

Đây là cách hay nhất để ta hiểu được chính mình theo “truyền thống của người Công Giáo” ở khắp nơi. Như thế, ta sẽ chia sẻ với các thế hệ ngàn năm trước/sau, cũng một lửa ngọn của tình yêu của Đức Chúa đang bừng bừng, làm cháy nóng tâm can ta, khi ta được chào đón mỗi tuần ở đây nơi Tiệc Lòng Mến mỗi tuần. Nơi, ta được lắng nghe, được giáo huấn, nuôi dưỡng và gửi đi để làm một chút gì rút từ chính con người mình hầu biến Vương Quốc Nước Trời của Đức Chúa thành hiện thực.

Đó chính là ý nghĩa của trình thuật “Trên đường Em-mau”. Của Tiệc Thánh Thể, rất hôm nay.

“Nắng sao như nắng đời xưa ấy,

Nắng vàng con mắt thấy duyên đâu

Muốn gửi thương về người cổ độ,

Mà sao tình chẳng nói cho đau.”

(Hàn Mặc Tử – Buồn ở đây)

Nhà thơ “buồn ở đây” vì “tình chẳng nói cho đau”. Con dân nhà Đạo cũng chẳng cần nói đến Tình bởi có nói vẫn cứ đau, vì người người đã có tình. Tình yêu-thương, giùm giúp chí ít là người trong Đạo, vẫn giữ đạo suốt đời mình.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

GS Stephen Young kể chuyện đưa người Việt tị nạn vào Mỹ

GS Stephen Young kể chuyện đưa người Việt tị nạn vào Mỹ
Tuesday, April 29, 2014

Nguoi-viet.com


Hà Giang/Người Việt


LTS:
Cách đây gần 40 năm, trong thời gian gần 30 Tháng Tư, khi chiến tranh Việt Nam sắp chấm dứt, viễn ảnh miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản ngày càng gần, Giáo Sư Stephen Young, một người có vợ Việt Nam, yêu quê hương của vợ, cùng một nhóm thanh niên trẻ làm việc trong nhiều vị trí quan trọng tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, qua Việt Nam sinh sống, đã băn khoăn về việc Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam, và tìm cách vận động chính phủ cho phép một số người Việt Nam được vào Hoa Kỳ tị nạn. Sự vận động thành công của họ mở đầu cho quy chế tị nạn vào thập niên 1980. Nhân một dịp đến thăm tòa soạn, Giáo Sư Stephen Young kể lại cho nhật báo Người Việt về thời gian này, qua một cuộc phỏng vấn, tóm lược dưới đây.



Giáo Sư Stephen Young trả lời phỏng vấn tại tòa soạn nhật báo Người Việt. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Hà Giang (NV): Kính chào Giáo Sư Stephen Young, được biết trong thời gian gần 30 Tháng Tư năm 1975, giáo sư là một trong những người đóng vai trò quan trọng trong việc vận động chính quyền Mỹ đón nhận người tị nạn Việt Nam. Ông có thể kể lại câu chuyện hầu như rất ít người biết này?

GS Stephen Young: Tôi không phải là một chuyên viên về luật di trú nhưng đại khái theo tôi nhớ trước năm 1980, Hoa Kỳ không có một quy chế về người tị nạn gì hết. Thỉnh thoảng vì nhu cầu chính trị hay vì nhu cầu ngoại giao, thì chính phủ cho phép một số người của một nước nhập vào nước Mỹ nhưng họ không có Visa, vì luật của nước Mỹ là không có Visa cho người di cư trước năm 1980. Lúc đó thì họ gọi là Parole Authority, là một cái phép đặc biệt là bên Bộ Tư Pháp phải thương lượng với Quốc Hội, thì họ định là sẽ cho vào bao nhiêu người không có Visa. Theo tôi nhớ thì sau Thế Chiến Thứ Hai thì Mỹ đón một số người Ðông Âu, Do Thái, bị Hitler muốn tiêu diệt, sau đó có một nhóm người Hungary, hình như là ba mươi mấy ngàn người thôi, sau đó nữa thì có người Cuba đến sau khi Castro lên, áp dụng chế độ Cộng Sản ở nước họ, những người Cuba họ lấy tầu thủy họ trốn qua Florida.

Ðến năm 1975, thì thoạt đầu chính phủ Mỹ không có luật nào để đón người di cư từ Việt Nam, và như thế trên nguyên tắc, trừ những người được cấp Visa, Mỹ không nhận người di cư nào hết sau ngày 30 Tháng Tư, 1975.

NV: Vào khoảng cuối Tháng Năm, 1975, Quốc Hội cho ra đời một đạo luật gọi là “Indochina Immigration and Refugees Act,” thì vai trò của giáo sư trong việc dự luật này ra đời, và được Tổng Thống Ford phê chuẩn là gì?

GS Stephen Young: Theo tôi nhớ thì việc cho người Việt vào Mỹ đã được quyết định cuối Tháng Tư rồi, 30 Tháng Tư thì đã có phép rồi, nhưng hồi đó có hai trại lớn là Fort Chaffee ở Florida và Indiantown Gap ở Pennsylvania, thì phải có một chương trình nào đó có người giúp họ mua thức ăn, lo cho họ lúc ban đầu. Chế độ bảo trợ qua những tiểu bang, chính phủ cần một đạo luật để chi tiền. Chính phủ Mỹ không thể chi tiền nếu không có Quốc Hội chấp thuận.

Không ai ngờ sẽ mất miền Nam trong vòng một tháng, hình như Ðà Nẵng mất cho Cộng Sản ngày 30 Tháng Ba, nhà tôi là người Việt, nên tôi rất quan tâm đến tình hình Việt Nam, lúc đó tôi nhớ rõ là một ngày Chủ Nhật, nghe đài phát thanh thấy mất Ðà Nẵng thì hết hồn, vì tôi biết là mất Ðà Nẵng tức là uy tín của Tướng Ngô Quang Trưởng mất rồi, và thứ nhì thì ông Thiệu không còn giữ được miền Nam nữa, chỉ có thể hy vọng là ông Trưởng lên thay thế ông Thiệu. Thành ra ngày Thứ Hai, tôi không đi làm, tôi đi Washington, DC, để nhờ một số người bạn phát động một phong trào di cư, vì tôi thấy là bây giờ người Mỹ có bổn phận vì danh dự, vì quyền lợi, nhất là vì danh dự một nước Hoa Kỳ tranh đấu cho tự do và nhân quyền cho thế giới, mà đã có mấy triệu người Việt Nam nhờ vào Mỹ để giúp họ, mà nếu mình không giúp được họ thì mình cũng không được bỏ quên luôn, vì bỏ quên luôn thì là một hành động hèn quá, không thể chấp nhận được. Mà tôi biết là cứ để yên thì ông Kissinger và ông Ford sẽ không cứu được người nào, bằng chứng là Cambodia, chị nhớ mà, nước Mỹ không mang ai ra. Tôi nhớ là vào giờ chót, khoảng 15, 16 Tháng Tư thì khi ông đại sứ Mỹ rời Phnom Penh đem ra 17 gia đình, còn mấy người Miên kia thì cứ để lại cho bị bắt.

NV: Vâng trở lại vào cái ngày Thứ Hai sau khi ông nghe tin Ðà Nẵng đã mất, lúc đó ông đang làm gì?

GS Stephen Young: Lúc đó tôi khoảng 30 tuổi, đang là luật sư, đang làm việc cho một hãng luật, mới làm việc được năm đầu tiên, thành ra là tôi đi Washington, DC. Tôi nhớ là mình đến đó mới gọi điện thoại cho một người bạn là Paker Borg. Parker với tôi học tiếng Việt cùng với nhau một năm trước khi đi qua Việt Nam để cùng làm việc cho chương trình Bình Ðịnh Phát Triển Nông Thôn, nhưng lúc đó Parker là phụ tá của Ngoại Trưởng Henry Kissinger, thì tôi nghĩ là tôi phải nói chuyện với Parker, gợi ý cho Parker, rồi Parker nhờ có ảnh hưởng trong Bộ Ngoại Giao xin vận động cho một chương trình tị nạn Việt Nam. Ông Parker lúc đó nói với tôi rằng: “Xin lỗi tôi không thể giúp được.” Tôi hỏi: “Tại sao anh lại không giúp?” Parker nói rằng ông đã từ chức Thứ Sáu vừa rồi, vì không thể tiếp tục làm việc với ông Henry Kissinger, vì “ông ta là người không tốt.”

Parker hơn tôi hai tuổi. Chị phải hiểu là một thanh niên cỡ 32, 33 tuổi, làm việc trong ngành ngoại giao mà lúc đó được làm phụ tá cho ngoại trưởng là đường công danh rộng mở lắm, nhưng nếu mình từ chức, mà nhất là sếp của mình là Kissinger nữa, thì coi như là tàn sự nghiệp rồi, bởi vì ông Kissinger sẽ “nhớ đời” cái việc này. Tôi nghe chuyện vừa thấy phục Parker mà vừa tức. Tôi năn nỉ Parker, nói chúng ta không thể buông xuôi được, ít nhất chúng ta cũng phải giúp một số gia đình qua, nếu không thì họ sẽ bị giết chết. Bởi vì một người thầy của tôi là Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy, bị chính Lê Duẫn ra lệnh là phải ám sát ông ấy. Nói tóm lại, tôi nói một hồi thì Parker nói: “Steve, việc này tốt nhưng khó quá, nhưng chính phủ không làm thì mình làm. Tối nay mình sẽ đi gặp ông Lionel Rosenblatt.” Lionel Rosenblatt hồi đó cũng làm ở Bộ Ngoại Giao, phụ tá cho phó ngoại trưởng. Thế là tối hôm đó ba chúng tôi vừa uống rượu vừa tìm cách giúp người Việt Nam.

NV: Rồi sau đó thì làm sao thưa giáo sư?

GS Stephen Young: Sau đó thì Thứ Ba chúng tôi một nhóm thanh niên gặp nhau, toàn những người cùng tuổi, cùng làm việc ở Việt Nam, toàn ghét Cộng Sản, trong đó có ba người là con rể Việt Nam (có vợ Việt Nam). Có lẽ vì thế chúng tôi không thể dửng dưng với những gì sẽ xảy ra cho quê hương của vợ. Ngoài ra gia đình của vợ tôi cũng gặp nhiều khó khăn vì liên hệ với tôi.

Nói tóm lại, nhóm thanh niên chúng tôi, hăng hái nhất là ba người con rể Việt Nam, gồm tôi, Ken Quinn và Al Adams, viết thư đi khắp nơi nhờ mọi người giúp. Rồi chúng tôi bầu Parker Borger làm người lãnh đạo, vì Parker từ chức rồi, không có việc làm (cười), nhưng Parker quen biết nhiều, lại dùng điện thoại trong Bộ Ngoại Giao từ phòng làm việc của Lionel Rosenblatt để liên lạc, vận động. Chúng tôi may mắn được Thượng Nghị Sĩ Edward Kennedy tích cực tiếp tay vận động hộ, cuối cùng thì chúng tôi có được một “Administrative Action” đồng ý cho phép khoảng 150,000 người, bằng số người Cuba trước đó được nhận vào Mỹ. Và đó là khởi đầu của việc chính quyền Hoa Kỳ cho phép người Việt Nam được vào nước Mỹ, dẫn đến đạo luật gọi là “Indochina Immigration and Refugees Act” sau này, mà khi rảnh hơn chúng ta sẽ nói chuyện rõ thêm.

NV: Cảm ơn ông đã dành thì giờ cho chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn.

 

440 thương phế binh VNCH dự “Tri ân” ở Sài Gòn

440 thương phế binh VNCH dự “Tri ân” ở Sài Gòn
Monday, April 28, 2014

Nguoi-viet.com

SÀI GÒN (NV) .- Buổi “Tri ân Quý ông Thương phế binh Việt Nam Cộng hòa” lần thứ hai vừa diễn ra ở Tu viện Dòng Chúa Cứu thế, nằm trên đường Kỳ Đồng, quận 3, Sài Gòn.

Sân Hiệp Nhất của Tu viên Dòng Chúa Cứu thế, nằm trên đường Kỳ Đồng, quận 3, Sài Gòn trong buổi “Tri ân Quý ông Thương phế binh Việt Nam Cộng hòa”. (Hình: website chuacuuthe.com)

Đây là hoạt động do Hội đồng Liên Tôn Việt Nam tổ chức, theo sáng kiến của Thượng tọa Thích Không Tánh (Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất). Buổi “Tri ân Quý ông Thương phế binh Việt Nam Cộng hòa” lần đầu, diễn ra hồi tháng 8 năm ngoái.

Năm ngoái, khi tổ chức “Tri ân Quý ông Thương phế binh Việt Nam Cộng hòa” lần đầu, Ban Tổ chức giải thích, thương phế binh và tử sĩ Việt Nam Cộng hòa cũng cần được tri ân và tưởng nhớ giống như ngày 27 tháng 7 hàng năm, nhà cầm quyền CSVN tổ chức các hoạt động “nhớ ơn” những thương binh, liệt sĩ đã hy sinh tính mạng, xương máu của họ cho việc áp đặt chính thể cộng sản trên toàn cõi Việt Nam.

Năm ngoái, số thương phế binh Việt Nam Cộng hòa ghi danh tham dự “tri ân” chỉ có hơn 100 vị. Năm nay, do tài chính eo hẹp, Ban Tổ chức dự tính chỉ nhận 200 thương phế binh Việt Nam Cộng hòa ghi danh tham dự. Nhưng giờ chót, số thương phế binh Việt Nam Cộng hòa ghi danh lên đến hơn 400 vị. May mắn là giờ chót, nhiều ân nhân ở cả trong và ngoài Việt Nam nhiệt tình tiếp sức nên Ban Tổ chức không phải từ chối vị nào.

Có 60 tình nguyện viên là thanh niên, sinh viên của một số tổ chức tôn giáo, dân sự ở Sài Gòn đã ghi danh hỗ trợ Ban Tổ chức phục vụ các thương phế binh Việt Nam Cộng hòa. Một thương phế binh Việt Nam Cộng hòa cho biết, gần 40 năm qua, ông và bạn bè sống bên lề xã hội, ông không ngờ sẽ có ngày được giúp đỡ để hội ngộ với nhau, Không ngờ sự hy sinh của mình sẽ còn được nhắc đến, chứ không bị lãng quên.

Tình nguyện viên giúp đỡ các vị là thương phế binh Việt Nam Cộng hòa đến dự buổi “tri ân”. (Hình: website chuacuuthe.com)

Ông Nguyễn Hữu Cầu, cựu đại úy Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cựu tù chính trị vừa được trả tự do, tâm tình, ông bị “cải tạo” 5 năm, ở tù thêm 32 năm nữa. Đôi khi ông thấy sự khốn khổ, nhục nhằn mà ông phải gánh chịu rất lớn lao nhưng khi biết đến những cay đắng, tủi nhục, gian khổ mà các thương phế binh Việt Nam Cộng hòa gánh chịu gần 40 năm qua, ông thấy sự khốn khổ, nhục nhằn của ông chẳng đáng gì. Đặc biệt là dù tàn phế, kiếm sống khó khăn nhưng những thương phế binh Việt Nam Cộng hòa vẫn ngẩng mặt, can đảm để sống phần đời còn lại của mình.

Ngoài việc nghe chia sẻ tâm tình tri ân vì đã đóng góp xương máu cho dân tộc và xứ sở, xem văn nghệ, dùng cơm và hàn huyên với nhau, mỗi vị trong 440 vị là thương phế binh Việt Nam Cộng hòa được tặng một phần quà trị giá một triệu đồng. Sự hỗ trợ của các ân nhân còn đủ để hỗ trợ một phần chi phí di chuyển cho những vị ở xa.

Giờ chót có hai nhân viên của Văn phòng Caritas thuộc Tổng Giáo phận Sài Gòn tìm đến, thông báo, Văn phòng có nhã ý ráp chân giả miễn phí cho những quý ông là TPB thương phế binh Việt Nam Cộng hòa có nhu cầu.

Theo tường thuật của truyền thông Dòng Chúa Cứu thế, có một vài trường hợp không phải là thương phế binh nhưng vẫn đòi tham dự “tri ân” và bộ phận tiếp tân đã giải thích cặn kẽ để từ chối đón tiếp. (G.Đ)

Một số hình ảnh ngày Tri ân quý ông thương phế binh (Dòng Chúa cứu thế)

DSC_0040 Một thương phế binh được người nhà bế từ nơi để xe vào khu vực họp mặt

DSC_0036 Bloger Hoàng Dũng giúp một thương phế binh

DSC_0252

Một số ông thương phế binh tranh thủ chụp tấm hình trước hàng chữ “Tri ân quý ông thương phế binh”

 

TÂM LÝ ĐỘC TÀI

TÂM LÝ ĐỘC TÀI

Tôi nghe, không phải một lần, mà là khá nhiều lần; từ không phải một người, mà là khá nhiều người, chủ yếu là những Việt kiều, vì thiện chí, về Việt Nam làm việc và có cơ hội tiếp xúc với nhiều người trong giới lãnh đạo, than thở: “Nói chuyện với giới lãnh đạo Việt Nam khó lắm. Khen thì mấy ổng cười toe toét. Nhưng chê, dù là chê những chuyện có vẻ hiển nhiên và với giọng điệu nhẹ nhàng nhất, mấy ổng cũng sầm mặt xuống ngay tức khắc. Sau đó muốn gặp lại cũng khó. Khó lắm!”

Khi tôi kể lại những lời than thở trên cho một số bạn bè từ Việt Nam sang; mọi người – tất cả đều thuộc giới trí thức khá cao cấp, có người còn nắm giữ những chức vụ khá cao trong guồng máy hành chính – đều xác nhận. Họ thừa nhận, là, họ, chính họ, các trí thức và cán bộ trong nước, cũng không thể nói thẳng và nói thực với cấp trên: Không ai muốn nghe cả. Không những không muốn nghe, người ta còn giận. Nghĩ là mình lập trường không vững hay có ý đồ gì không tốt.

Nhưng, tôi để ý là, sau khi than thở hoặc thừa nhận như thế, tất cả, từ Việt kiều đến những người trong nước, đều cố biện minh: “Cũng tại mấy ổng già quá rồi. Người già thường khó tính.”

Tôi không tin và cũng không thích những lời biện hộ kiểu đó. Tôi cho đó chỉ là một nguỵ biện. Lại là thứ nguỵ biện nguy hiểm. Nguỵ biện: Không phải người già nào cũng không thích nghe sự thực. Vả lại, phần lớn giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay cũng không thực quá già. Trên thế giới có vô số nhà lãnh đạo lớn tuổi mà vẫn thoải mái tiếp nhận những sự phê phán từ người khác. Nguy hiểm: Chính những sự nguỵ biện kiểu như thế đã dung dưỡng cho thái độ nhắm mắt và bịt tai của những người đang cần được nghe nói thực nhất.

Tôi muốn gọi đúng tên cái chứng không thích nghe về cái xấu, cái dở ấy: độc tài.

Lâu nay, nói đến độc tài (authoritarianism), chuyên chế (dictatorship) hay toàn trị (totalitarianism), chúng ta thường nghĩ ngay đến cơ chế (mechanism), đến bộ máy khép kín và nặng nề của đảng và nhà nước. Đành là đúng. Độc tài (hay những thứ cùng loại đã kể), trước hết, là một cơ cấu quyền lực chỉ cho phép một người, hoặc một nhóm nhỏ, được quyền quyết định tất cả. Không có đối lập. Thậm chí, không có gì được độc lập, kể cả hai thành phần cần được độc lập nhất: tư pháp và truyền thông.

Tuy nhiên, độc tài không phải chỉ là vấn đề cơ chế.

Độc tài còn là vấn đề tâm lý. Tâm lý độc tài là tâm lý chỉ tin vào chính mình, chỉ muốn sử dụng quyền lực để bảo vệ niềm tin của mình, và từ chối nghe bất cứ một ý kiến gì khác với mình. Người độc tài, như thế, ở một trạng thái khá mâu thuẫn: một mặt, họ tự tôn, cho mình, chỉ có một mình mình, là đúng; nhưng mặt khác, lại thiếu tự tin: họ sợ những thách thức đến từ người khác; họ tránh đương đầu; họ không muốn hoặc không dám sử dụng lý trí để thuyết phục người khác và bênh vực cho quan điểm của mình.

Người độc tài, do đó, không phải là những người mạnh mẽ. Và họ cũng biết họ không mạnh mẽ. Biết, nên họ thích sử dụng những biện pháp phi-lý trí để áp đặt và cưỡng chế người khác bằng cách xây dựng những cơ chế bảo vệ cái quyền không dùng lý trí của mình. Cái cơ chế ấy không cần lý lẽ, hơn nữa, nhằm loại trừ mọi lý lẽ. Trong cơ chế ấy, chỉ có một nguyên tắc được vận hành: bạo lực.

Tâm lý độc tài, do đó, là tâm lý sùng bái bạo lực. Tâm lý độc tài nào cũng tìm kiếm và cố duy trì một cơ chế độc tài: với người chồng hoặc người bố có tâm lý độc tài, cơ chế ấy là quyền gia trưởng; với người lãnh đạo một quốc gia, đó là tính chất độc quyền. Cơ chế thuộc chính trị. Tâm lý thuộc văn hoá. Thay đổi cơ chế độc tài cần có những vận động chính trị mạnh mẽ và quyết liệt. Thay đổi tâm lý độc tài cần những cuộc vận động lâu dài và sâu sắc nhằm thay đổi cách nhìn và cách nghĩ. Trong cái gọi là cách nhìn và cách nghĩ ấy, có hai điều quan trọng nhất: chấp nhận sự khác biệt và chấp nhận đối thoại.

Đối thoại chứ không phải độc thoại.

ĐẤNG PHỤC SINH ĐANG Ở GIỮA CHÚNG TA

ĐẤNG PHỤC SINH ĐANG Ở GIỮA CHÚNG TA

GM Giuse Vũ Văn Thiên

EucharistIII

Chúng ta đã long trọng mừng lễ Phục Sinh.  Mọi ồn ào của những cuộc kiệu rước đã lắng xuống. Những bận rộn của Tuần Thánh cũng đã đi qua.  Đối với nhiều người, Tuần Thánh và lễ Phục Sinh giống như những ngày lễ hội mỗi năm tổ chức một lần, lễ xong là hết.  Điều còn lại có thể chỉ là những lời bình phẩm về cách tổ chức lễ năm nay có gì hơn hay kém năm ngoái.  Để tránh lối suy nghĩ lệch lạc đó nơi các tín hữu, Phụng vụ hôm nay khẳng định với chúng ta rằng Chúa phục sinh đang hiện diện trong cộng đoàn các tín hữu.  Người hiện diện như mối dây liên kết chúng ta nên một trong tình bác ái và sự chia sẻ nâng đỡ lẫn nhau.  Hình ảnh cộng đoàn tiên khởi ở Giêrusalem là lời mời gọi chúng ta hãy noi gương mà sống xứng đáng với danh nghĩa những môn đệ Chúa Kitô (Bài đọc I).  Nếu các tín hữu có thể coi mọi sự là của chung và chuyên cần tham dự bẻ bánh, siêng năng cầu nguyện và nhiệt thành thực thi bác ái là vì họ tin Chúa Giêsu phục sinh đang ở giữa họ và chứng kiến những điều tốt lành họ đang làm.

Tuy vậy, vấn đề người chết sống lại, xưa cũng như nay, được coi là một câu chuyện hoang đường, không thể chấp nhận.  Ngay như các môn đệ là những người đã cùng sống với Chúa và đã được nghe Người tiên báo về sự phục sinh, mà các ông còn chưa dễ dàng tin vào sự kiện này.  Thánh Máccô ghi lại sự nghi ngờ đến mức cứng lòng của các ông: khi bà Maria Mácđala kể với các ông là bà đã gặp Chúa phục sinh, các ông cũng không tin.  Các ông cũng không tin khi hai môn đệ từ Emmau trở về quả quyết đã gặp Chúa (x. Mc 16, 9-13).

Lời Chúa hôm nay dẫn chứng một nhân vật cụ thể nữa, đó là Tôma.  Ông không có mặt khi Chúa hiện ra với các môn đệ.  Điều các bạn kể lại không thể thuyết phục ông chấp nhận một điều “ngược đời”. Dấu đinh ở tay, vết thương ở cạnh sườn Chúa… là những điều ông đã chứng kiến như bằng cớ của việc Chúa Giêsu đã chết.  Đối với ông, việc được xỏ ngón tay vào lỗ đinh và đặt bàn tay vào cạnh sườn bị đâm thủng là bằng chúng xác thực về việc Chúa sống lại.  Thực ra, Tôma không thách thức Chúa, ông chỉ cần bằng chứng thiết thực để ông tin.

Chúa Giêsu đã đáp trả những điều kiện Tôma đã đưa ra.  Tám ngày sau, cũng vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa đã hiện đến với các ông với những thương tích trên thân thể Người.  Nếu trước đây Tôma đã ra điều kiện để tin, thì nay Chúa mời ông thực hiện những điều ấy.  Ông chẳng còn lòng dạ nào mà xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Chúa.  Đúng hơn, ông chẳng cần làm những điều đó, vì Chúa đang ở trước mặt ông bằng xương bằng thịt và đang nói với ông: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.”  Qua lời nói với Tôma, Chúa Giêsu phục sinh muốn gửi đến cho chúng ta một thông điệp: “Phúc thay những người không thấy mà tin.”  Thông điệp ấy vẫn có giá trị đến ngày hôm nay.  Là những tín hữu, chưa ai trong chúng ta được thấy Chúa trực tiếp.  Chúng ta chỉ cảm nhận Chúa bằng Đức tin.  Con tim và lý trí mách bảo chúng ta Chúa đang hiện diện và những ai tin vào Người thì sẽ không phải thất vọng. “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”  Đó là lời tuyên xưng Đức tin của một người đã hoàn toàn bị chinh phục.  Đó cũng là tâm tình sám hối của một người đã chậm tin những chứng từ của anh em mình.

Trong trình thuật của mình, thánh sử Gioan hai lần nói đến chi tiết “các cửa đều đóng kín,” để diễn tả Đức Giêsu phục sinh không còn bị giới hạn bởi không gian, nghĩa là Người trở nên thiêng liêng giữa thế giới của chúng ta.  Cũng như Người có thể vào trong phòng khi các cửa đều đóng kín, hôm nay Người đang hiện diện nơi dung mạo và cuộc đời của những ai mang tên Người, tức là các Kitô hữu. Thánh Phêrô đã khuyên chúng ta: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin.  Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của Đức tin là ơn cứu độ con người” (Bài đọc II)

Chúa Giêsu phục sinh hôm nay đang hiện diện cách huyền nhiệm nơi cuộc đời này.  Sự hiện diện của Chúa có thể được chứng tỏ qua đời sống đạo đức yêu thương của các tín hữu.  Xin cho mỗi chúng ta biết nhận ra Người đang sống giữa chúng ta để hăng hái nhiệt thành làm chứng cho Người.  “Đức tin là sự tin tưởng sống động và táo bạo vào ơn Chúa, chắc chắn và vững bền tới mức một người có thể cược cả đời mình cho nó hàng nghìn lần” (Sưu tầm).

GM Giuse Vũ Văn Thiên

ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

“Tôi Đi Tìm Tự Do Dân Chủ”

“Tôi Đi Tìm Tự Do Dân Chủ”

Con người phải cày bừa như trâu. Cảnh này không bào giờ có ở miền Nam từ thời Đệ Nhất CH, thời Cụ Ngô Đình Diệm 1954 - cách nay 60 năm

Con người phải cày bừa như trâu. Cảnh này không bào giờ có ở miền Nam từ thời Đệ Nhất CH, thời Cụ Ngô Đình Diệm 1954 – cách nay 60 năm

Năm 1979, sau khi “hoàn thành xuất sắc” các đợt đổi tiền, đánh tư sản mại bản, tịch thu tài sản tài phiệt người Hoa… nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ra đòn vơ vét mới: loan báo cho phép những người mang quốc tịch Trung Hoa “hồi hương”. Từ lệnh này, các “cơ quan chức năng” trên cả nước mặc sức hái ra tiền bằng dịch vụ bán… quốc tịch Tầu, đăng ký và tổ chức hồi hương.

Người Việt muốn mang quốc tịch Trung Hoa phải trả từ 12 đến 15 lạng vàng một nhân xuất thì được cấp thẻ căn cước mang tên Tàu để đăng ký hồi hương.

Nghe nói đây là một chiến dịch toàn quốc, do chính Phó Thủ Tướng kiêm Bộ trưởng nội vụ thời ấy là Phạm Hùng cầm đầu, ban lệnh cho các sở công an địa phương. Một gia đình hồi hương, trước hết là phải nạp nhà cửa, đất đai. Số vàng kể trên, nhà nước chính thức thu một phần, sản còn lại để cho các quan công an địa phương một phần và chủ tàu lo toan mọi việc và đối đãi với công an địa phương.

Sau bốn năm sống dưới quyền hành chuyên chế của XHCN, gia đình tôi như bao người khác, hiểu rõ chỉ còn cách ra đi. Đành là mất tất cả sản nghiệp để đổi lấy tự do. Chạy vạy bán đồ đạc lo đủ số vàng cho tổ chức để lấy đủ giấy tờ mang quốc tịch Tàu!

Vào một buổi sáng sớm đầu tháng Năm âm lịch, gia đình tôi gồm 5 người, em dâu, em gái, tôi và hai cháu nhỏ 6 và 5 tuổi (em trai và em rể đã di tản từ năm 1975, hiện ở Mỹ) rời bỏ căn nhà riêng và cũng là tư xưởng (tôi làm tiểu công nghệ, nhà khá rộng) ra đi lúc vừa tan giờ giới nghiêm.

Tôi đi xe gắn máy, hai em và hai cháu có bạn thân chở giúp bằng xe Vespa. Hành trang chỉ có 3 chiếc tay nải đựng vài bộ áo quần và ít thuốc cần thiết cho trẻ con. Khóa trái cửa, rồ máy xe, tôi nhìn lại căn nhà do chính tôi xây dựng, rồi cúi đầu đạp xe ra khỏi xóm.

Dù đi với diện “hồi hương”, giấy tờ đầy đủ nhưng vẫn phải bí mật tuyệt đối. Khi đến bến xe đò, một người Tàu hướng dẫn nhóm tôi lên một xe vận tải sắt làm nhà, trong xe có 12 hành khách toàn là dân gốc Việt và 2 tài xế. Xe chạy đi Cà Mau.

Khi đến quận Cà Mau trình giấy, công an nói phải đợi có chuyến tàu mới đi được. Họ chỉ chúng tôi sang Hộ Phòng thuê một gian nhà tạm trú ít bữa. Cả gia đình tôi sang sông thuê một gian nhà nhỏ chờ đợi. Tại đây, chuyện công an tổ chức “hồi hương cho người Hoa” là chuyện công khai, có cả trăm gia đình ăn dầm nằm dề chờ đợi, ngày ngày phải chầu chực chờ lệnh công an.

Ba tuần trôi qua. Một tối công an đến báo ngày hôm sau được khởi hành. Sáng hôm sau, dưới trời mưa tầm tã, nhóm người Việt mang quốc tịch Tàu lên trên 3 chiếc xe đò đi Gành Hào để xuống tàu “hồi hương”!
Gành Hào lúc này đã biến thành cả một “cửa khẩu hồi hương”. Nơi nơi đông chen hầu hết là khách đi diện hồi hương từ mọi tỉnh đổ đến chờ ngày khởi hành.

Tới phiên chuyến chúng tôi ra đi, buổi chiều trời vẫn mưa u ám gió lạnh.

Cả đoàn xếp hàng dài trên bờ sông để xuống thuyền. Chiếc tàu lớn 6 mã lực mang 200 người mở máy từ từ ra biển lúc xẩm tối. Hai bên bờ, đèn đã sáng trong làng xóm. Hai đứa trẻ ngây thơ nằm yên trong lòng mẹ. Em dâu và em gái tôi dưng dưng buồn bã. Còn tôi ngồi trong khoang tối nhìn ra ngoài cây, vườn, với ánh đèn thôn quê dần dần xa, lòng tan nát.

Ra tới biển, trời mưa nặng hạt, gió thổi mạnh, sóng lớn. Nhiều hành khách say sóng nằm ngổn ngang trên sàn thuyền. Bên cạnh thuyền có tàu biên phòng của công an theo sát. Bộ đội biên phòng có nhiệm vụ “bảo vệ” thuyền nhân từ bến đến hải phận quốc tế, nhưng thấy gió bão qua lớn nên đã bỏ về vào lúc nửa đêm. Trước lúc bỏ về, có lệnh cho mọi người trên tầu gom góp tiền bạc tư trang còn lại để “ta ơn các bộ đội biên phòng.”

Sau 2 đêm 1 ngày chống chọi với bão gió, thuyền lại phải quay về Gành Hào. Hai trăm con người trở về bến cũ với hình dạng tơi tả, thảm thương. Sau khi nhà chức trách kiểm điểm, mọi người tìm những gian nhà bỏ trống tạm trú. Không ai còn 1 xu nhỏ vì tối trước trên tàu đã thu góp tất cả mang tặng bộ đội. Các nạn nhân lũ lượt vào chợ bán rẻ những chiếc nhẫn kỷ niệm, chiếc lắc khắc tên người thân, sợi dây truyền đeo ảnh Phật… để lấy tiền độ nhật. Một đôi người vì cũng quẫn quá nên buồn rầu bỏ cuộc quay về.

Một tuần sau, chúng tôi lại xuống thuyền ra đi. Cũng gió bão ngất trời rồi trong 3 ngày liên tiếp, khi thuyền qua biển Thái Lan bị cướp 4 lần. Cướp biển, mặt vẽ xanh đỏ, có súng tiểu liên, bóc lột tàn tệ mọi người. Một số thiếu nữ bị hãm hiếp dã man.

Trong thuyền tiếng khóc uất ức vang dội như át cả tiếng sóng đang gầm thét dã man. Tất cả mọi người đều đau xót căm hờn, tâm thần như bại liệt trong hoàn cảnh phũ phàng. Thực phẩm hết, nước uống hạn chế, trẻ em đói khát nằm dài, những người mẹ rỏ từng giọt nước trên môi khô héo của con…

Đêm ngày thứ năm, thủy thủ trên thuyền reo lên: “Các cô, bác, ông bà yên lòng, chúng tôi đã trông thấy ánh đèn của giàn khoan dầu rồi. Độ 2 giờ nữa sẽ tới nơi thôi” Nửa chết, nửa sống, mọi người trông về phía xa xa thấy có mờ mờ ánh sáng, đó là giàn khoan dầu ngoại quốc tại Mã Lai.

Hai cựu quân nhân VNCH gốc hải quân biết đôi chút ngoại ngữ đeo phao nhào xuống biển tìm cách liên lạc với giàn khoan dầu. Các anh trở về bằng ca nô của giàn khoan mang theo nhiều bình nước và mấy túi bánh mì và cho biết là thuyền phải rời xa giàn khoan độ nửa hải lý, sáng mai sẽ có tàu lớn đến tiếp cứu. Thế là chúng tôi có nước cầm hơi, các bà mẹ bẻ bánh mì nhúng nước lạnh bón cho các con nhỏ.

Sáng hôm sau nắng đẹp, trời xanh biếc, mặt biển vàng tươi ánh mặt trời nhưng sóng gió vẫn lớn. Độ 9 giờ, trên tàu xôn xao vui mừng vì nhìn thấy một chấm trắng từ phía xa tiến lại. Các bạn trẻ hét to: “Chuẩn bị, tàu cứu ta đã đến kia rồi”. Khối trắng tiến gần, trên thuyền đã nhìn rõ lá cờ 3 sắc phấp phới “A, tàu Pháp!”, họ hét vang vui vẻ. Hai thuyền nhân giỏi tiếng Pháp đeo phao vù xuống biển đến tàu liên lạc. Lát sau máy phóng thanh trên tàu gọi cho thuyền tiến đến cạnh tàu.

Trên tàu Ile de Lumière (Đảo Ánh Sang) thả dây xuống buộc thuyền chúng tôi vào mạn tàu rồi cứ một lớp sóng đưa thuyền lên cao sát mạn tàu là một số thuyền nhân được nhân viên trên tàu kéo đỡ lên khoang. Khoảng sau 2 tiếng, công việc tiếp cứu đã xong. Gần 200 người tỵ nạn đã được an bình trong chiếc thủy đỉnh rộng lớn. Tất cả mọi người tắm bằng nước biển trên tàu rồi cứ mặc nguyên quần áo ướt ngồi phơi nắng gió cho khô.
Bữa ăn trưa hôm đó, người lớn được một khúc bánh mì kèm mứt ngọt. Trẻ em thêm vài bánh quy. Tối có thêm cháo, bánh mì dòn và phó mát. Đêm đến, trên boong tàu chúng tôi nằm ngồi ngổn ngang. Vừa tảng sáng máy phóng thanh rầm rã kêu gọi mọi người lên sàn tàu nghe thông điệp của Tổng Thống Pháp.

Máy phóng thanh vang vang tuyên bố là đêm qua, Tổng Thống Pháp quốc đánh điện cho các tàu Pháp vớt 1.500 người trên biển đông, và hỏi các thuyền nhân có ưng đi Pháp không. Tiếng hoan hô vang dậ﹬ ai ai cũng đồng ý, thế là tàu trực chỉ hải cảng Singapore.

Chiều tối ngày hôm sau, tới Singpore, tàu phải đậu xa biển mấy trăm thước. Nhân viên sứ quán Pháp xuống tàu làm thủ tục nhập cảnh. Chúng tôi lần lượt được phỏng vấn: tên, tuổi, nghề nghiệp, địa chỉ tại Việt Nam… Lời khai được ghi rõ trong cuốn sổ lớn rồi mỗi người được cấp một tờ giấy nhỏ ngang dọc 15 phân tây. Đó là giấy nhập cảnh Pháp quốc của chúng tôi. Thuyền của nhóm tôi đã được cứu vớt đầu tiên nên được đặc biệt ưu đãi, miễn trả vé máy bay đi Pháp.

Các viên chức thức suốt đêm làm giấy tờ. Khi công việc vừa xong thì đã 7 giờ sáng. Tàu được cập bến ngay lúc đó. Một số người ở lại Singapore để chờ đón thân nhân.

Những người đi Pháp rời khỏi tàu lúc 9 giờ. Lên bến đi qua một lối riêng, cảnh sát xét giấy rồi ra thẳng nơi phi cơ Pháp đã đậu sẵn. Phi hành đoàn và hai bác sĩ, 2 nữ y tá đón chúng tôi ở cầu thang máy bay.

Thời gian tại Pháp

Trong phi cơ sáng trưng, sạch sẽ, thơm phức. Bọn thuyền nhân chúng tôi thì lem luốc, hôi hám, dơ bẩn, tiến vào ngồi trên nệm ghế màu xanh lợt. Nơi đuôi máy bay là phòng khám bệnh, giường nằm, bàn ghế trắng tinh, bác sĩ, y tá sẵn sàng đón tiếp bệnh nhân. Bữa ăn dọn lên. Mỗi người một khay có sữa, thịt gà quay, rau trộn, bánh ngọt, phó mát và kẹo. Thằng cháu nhỏ cầm bánh vừa ăn vừa cười tươi vui làm tôi thấy lòng bồi hồi chua sót.

Phi cơ hạ cánh tại phi trường Charles de Gaulle. Nhân viên Hồng Thập Tự chờ đón tất cả lên xe bus về trạm tiếp cư Crétail. Mỗi gia đình được một phòng.

Tối hôm đó, mọi người được tắm nước nóng. Có người đến Paris chỉ mang trên người một chiếc quần đùi. Áo quần giặt xong căng phơi trên máy sưởi, mình quấn khăn tắm vào giường nệm ấm. Sáng hôm sau mới được đưa
đi lựa quần áo cũ.

Ở Crétail một tuần, nhóm tôi được lệnh đi chuyển về Toulouse để chờ giấy phép đi Mỹ. Một buổi tối, chiếc xe bus màu vàng chở 20 người gồm tài xế, 2 người Lào, tới chở đi. Quá nửa đêm, xe đến địa điểm cư trú. Đó là một khách sạn cũ hai tầng lầu có nhiều phòng. Mỗi gia đình một phòng có đủ giường nệm, chăn gối, bàn ghế. Tầng dưới, phía bên cạnh là tửu lầu, mà cũng là phòng ăn của nhóm tị nạn.

Phòng ăn rộng chia làm hai nơi. Bên kia khách của nhà hàng, bên này là chỗ ăn của nhóm thuyền nhân. Mỗi bàn bốn người, thức ăn đầy đủ các loại thịt, cá, tôm…đặc biệt là Chủ Nhật, mục sư George Irwin đến đón đi lễ nhà thờ Tin Lành. Ông là người Mỹ, bà vợ dân Canada, đã truyền giáo tại Nha Trang bảy năm nên nói tiếng Việt rất lịch sự.

Ở khách sạn tạm cư được hai tháng, chính phủ trợ cấp 8 tháng tiền nhà, tiền ăn để dọn ra phố tự túc thuê nhà, kiếm việc làm. Em dâu tôi biết tiếng Pháp nên kiếm được việc ở tiệm ăn. Em gái ở nhà trông hai cháu nhỏ. Còn tôi vì quá suy nhược lại bị đau tê thấp nặng nên được đi dưỡng bệnh tại bệnh viện Luchon.

Luchon (Baguere de Luchon) nằm trong rặng núi Pyrénées, cách Toulouse độ 100 cây số. Đó là một vùng có thời tiết ấm áp, phong cảnh đẹp nhất miền Nam nước Pháp. Bệnh viện trang trí lịch sự, cách chăm lo bệnh nhân rất chu đáo dưới quyền điều khiển của bác sĩ danh tiếng.

Tại bệnh viện, buổi sáng, sau giờ điểm tâm, bệnh nhân tê thấp xuống hồ tắm nước nóng để y tá nắn gân cốt từng người. Buổi chiều, trước giờ ăn xoa bóp tại phòng ấm, và mỗi hai tuần ngâm bùn nóng. Bùn chứa trong thùng gỗ rộng. Bệnh nhân bỏ áo quần thường, mặc đồ riêng bằng nylon trùm từ đầu tới gót chân, ngâm trong bùn ấm 40 phút rồi bỏ bộ đồ nylon, tắm nước nóng, mặc lại áo quần, nghỉ độ nửa giờ mới được về phòng.
Tại Luchon có một ông bác sĩ gốc Việt Nam, Docteur Georges Navaro, nhưng không biết nói tiếng Việt. Bà vợ người Pháp rất dễ thương. Tôi là bệnh nhân Việt Nam duy nhất nên bác sĩ Navaro săn sóc rất tận tâm. Ông còn lái xe đưa tôi đi ngoạn cảnh các công viên, sang bờ biển Tây Ban Nha (cách Luchon 13 cây số) tới xem các người tập bay khinh khí cầu. Dù tôi không thông thạo tiếng Pháp bao nhiêu nhưng tôi rất thân thiện, quý hóa.

Tổ chức trong bệnh viện chu đáo, lịch sự. Bữa ăn thừa dinh dưỡng. Bệnh viện được coi là nơi để dưỡng sức, nghỉ ngơi khi quá suy nhược tinh thần. Vậy nên người địa phương chỉ được phép ở tối đa là 6 tuần lễ, nhưng riêng tôi đã ở dưỡng viện Luchon gần 3 tháng. Khi được giấy nhập cảnh Mỹ tôi mới rời viện.
Được tin nhóm tôi đi Mỹ, Ông Bà mục sư Tin Lành khuyên nhủ tôi nên ở lại Pháp làm việc cho Hội Thánh và giúp bả mở trường nữ công gia chánh để truyền bá văn hóa Việt Nam cho phụ nữ tại vùng Toulouse. Nhưng làm sao tôi bỏ 2 thiếu phụ đang trên bước đường xa lạ tìm chồng, và hai cháu nhỏ thơ ngây đi tìm cha, và nhất là sau hơn 5 năm chẳng biết em trai, em rể hiện nay tình tiết ra sao nữa?

Lên Paris trước một tuần sau khi phỏng vấn, khám sức khỏe, ký giấy vay tiền hội từ thiện Công Giáo mua vé máy bay đi Mỹ, gia đình tôi đi vãn cảnh tại thủ đô Ánh Sáng: Điện Tuileries, Panthéon, nhà thờ Notre Dame de Paris, tháp Eiffel, sông Seine, Khải Hoàn Môn (Arc de Tromphe)…

Vào trung tuần tháng 3, 1980, lúc mờ sáng, gia đình tôi đón xe lửa qua Bỉ (Belgium) rồi lên phi cơ đi Mỹ. Từ biệt nước Pháp vào lúc đèn phố còn chiếu sáng, xe lửa lướt nhanh qua dẫy phố mái nhà cao thấp, tôi mênh mang nhớ lại 9 tháng trước đây được tầu Ile de Lumière vớt cứu, được Pháp quốc chu cấp tài chánh, lo xếp đặt nơi ăn, chốn ở, chữa bệnh một cách ân cần trọng đãi, coi nhóm thuyền nhân tị nạn chúng tôi như thân hữu từ xa đến du lịch. Những sự đãi ngộ quý hóa đó đã làm chúng tôi phấn khởi tinh thần và tin tưởng kính trọng thể chế Tự Do Dân Chủ. Trong thâm tâm tôi thầm ghi ân Pháp Quốc.

Phi cơ đều hòa lướt cánh, lòng tôi rối ren nửa vui sắp đến nơi chủ định, mà buồn vì mỗi phút một cách xa quê hương. Nước và mây đã đưa tôi từ Á Châu qua Âu Châu, rồi nay đến Mỹ Châu, sau 10 tháng đầy âu lo, mong đợi.

Nước Mỹ

Tháng Ba năm 1980, máy bay hạ cánh tại phi trường National Virginia vào lúc mờ tối. Em trai và em rể đã chờ đón tại đó. Sáu năm xa cách, gia đình gặp nhau biết bao là mừng mừng tủi tủi, rồi cùng lên xe về thành phố Virginia.

Bữa ăn đầu tiên tại Mỹ là thịt gà Kentucky gần nhà. Gian nhà đầu tiên tôi đến ở đường số 7, Virginia, gồm hai phòng ngủ và phòng khách, bếp. Căn chung cư cũ kỹ đó, hai em tôi vừa thuê với giá rẻ để đón gia đình. Yên lành tôi ngủ trong chiếc giường kéo ở divan ra. Đó là chiếc giường đầu tiên tại Mỹ.

Sáng hôm sau cả nhà đến quận hạt trình giấy lĩnh thẻ cư trú, thẻ y tế. Tất cả mọi người đều được phụ cấp hàng tháng. Công việc xét kiểm giấy tờ nhanh chóng. Ông tiếp viên luôn nở nụ cười thân thiện và vui vẻ nói “You are welcome”.

Ngoài đường nắng đẹp, lá cây xanh tươi láng bóng. Em trai cho xe chạy một vòng rồi đưa đến chợ Mỹ. Chợ lớn rộng đầy đủ các loại thực phẩm; khách mua xếp hàng thứ tự. Cô gái Mỹ tính tiền, bấm máy thoăn thoắt, nét mặt tươi vui. Lúc nhận xong tiền, cô luôn nói “Thanh you”.

Về thực phẩm, lúc đó dân địa phương không ăn da gà nên bữa cơm đầu tiên nấu tại nhà có món đặc biệt là da gà xào gừng, hành tây. Vì da gà không tốn tiền mua (free) nên dân nghèo ăn đỡ, biến chế thành món ăn rất ngon.

Mấy tháng qua đi, gia đình tôi thuần thuộc sống theo cảnh lao động Mỹ. Sáu giờ sáng, nhóm đàn ông sách hộp đồ ăn ra xe đến trường (các em đang học điện tử tại đại học), sau buổi học, cả hai đi thẳng đến một nhà hàng làm bồi bàn, 8 giờ mới về. Nhóm đàn bà đi học Anh ngữ, trẻ con đến trường mẫu giáo. Riêng tôi bệnh tê thấp và thiếu máu chưa lành nên ở nhà, mỗi tuần hai lần có xe đón đến bệnh viện chữa trị, khám bệnh, chạy điện, tiêm thuốc…

Nửa năm qua đi, tôi đã đỡ nhiều nên được một nhà nhập cảng hạt ngọc – ngọc trai, ngọc thạch – mướn xâu hạt trả công một chuỗi 3 đô. Công việc không nhiều, mỗi tháng chỉ được hơn 100 dollars nhưng tôi rất mừng vì đó là những món tiền đầu tiên tôi kiếm ra ở Mỹ.

Những ngày lễ nghỉ, các em tôi mang cả gia đình đi ngoạn cảnh thủ đô Washinton DC. Tôi đã được viếng tòa Bạch Ốc (White House), Quốc Hội (Capitol), Bảo Tàng Viện (National Gallery of Art), hồ Jefferson, xem hoa anh đào nở bên dòng sông Potomac. Ngắm anh đào gió bay cánh hoa rụng như mưa, tôi chợt nhớ đến năm xưa du lịch Nhật Bản ngồi dưới gốc anh đào đại thụ ở công viên Sinjuky và ngắm dẫy anh đào ở đường lên Niko, nhưng bây giờ nhìn hoa với tâm thần thưởng ngoạn khác ngày xưa!

Xa nữa, tôi theo các hội đoàn đi du lịch New York xem Trung tâm Thương Mại Thế Giới, vòng thuyền quanh tượng Nữ Thần Tự Do tại sông Manhattan và xa hơn, sang Canada nhìn khói nước mịt mù ở thác Niagara, du ngoạn công viên Victoria, thăm nhà thờ Saint Joseph’s tại Montreal, 1000 Islands…

Hơn một năm sau, em trai, em rể tốt nghiệp kỹ sư điện tử, xin được việc làm tại miền tây. Em trai sở làm ở Bắc Cali, em rể ở Nam Cali. Tôi theo em trai về San José thuê một gian chung cư có ba phòng nhỏ, giá rẻ.
Sáng sáng, em tôi đi làm, cháu trai vào tiểu học. Tôi và em dâu thi vào Evergreen Valley College. Em học lớp trên, tôi học lớp cuối. Em có học bổng (Scholarship), còn tôi thì không, chỉ lấy có 4 units. Tôi rất ngỡ ngàng vì mỗi khóa học đều có thanh tra đến phát giấy cho học trò phê bình hạnh kiểm của cô, thầy giáo. Trong khi thanh tra đến, thầy giáo phải ra ngoài để học trò tự nhiên viết lời phê bình lên giấy. Có một câu hỏi tôi nhớ rõ: “Đối với học trò thầy cô có hòa nhã, lễ độ không?” đó là cách thực thi dân quyền, dân ý của nước dân chủ tự do. Tất cả các trường đều vậy. Ngoài việc học, mỗi chiều thứ sáu và ngày thứ Bảy, tôi phụ giúp tiệm bánh ngọt, công mỗi giờ 3 dollars.

Từ khi đến Hoa Kỳ đến nay thấm thoát đã trên hai mươi năm. Em trai, em rể đã nhiều phen chìm, nổi với nghề nghiệp, đã 4,5 lần thay đổi sở làm và cũng vài lần thất nghiệp nằm nhà đợi “Job” hàng 5,7 tháng. Em dâu cố gắng học xuốt 4 năm để lấy bằng kế toán (acounting). Em gái sau khi khá anh ngữ, học nghề phụ tá bác sĩ về răng. Suốt bao năm vần cù làm lụng, học hỏi không ngừng nên hiện giờ hai người đàn ông đã là nhân viên kỳ cựu trong ngành điện tử, và em gái, em dâu tôi đã tìm được việc làm theo khả năng chuyên môn vững chắc. Hai cháu nhỏ lúc rời nước có 6 tuổi, nay đang theo ngành y khoa.

Còn riêng tôi sau hai năm làm lao công bán bánh ngọt, cửa hàng đổi chủ, tôi đi may thuê tại tiệm may áo dài Việt Nam. Ngoài việc may, em tôi nhận “chip” điện tử về cho làm thêm vào buổi tối. Cả gia đình làm lụng cần cù nên nay các em đã có căn nhà khang trang. Phần tôi đã đến tuổi lão được lĩnh phụ cấp (SSI). Bệnh tê thấp, thiếu máu vẫn dai dẳng, lại thêm bệnh đau dạ dày (stomach Ulcer), bác sĩ khuyên nên an tĩnh tinh thần, duy trì tuổi lão…vậy nên sự du ngoạn là một vấn đề trong chương trình cuộc sống còn của tôi.

Vì thế nên sau mười mấy năm lao động cả về thể chất lẫn tinh thần nơi đất lạ, tôi đã đi thăm các thắng cảnh tại miền Tây để bảo vệ sức khỏe, và nhất là mong được hiểu biết thêm cảnh trí, nền văn hóa, cách sinh hoạt đại chúng từng địa phương với bao công trình kiến tạo đặc sắc của nước Mỹ – một hiệp chủng quốc tân tiến, trù phú, hùng cường, có nhiều sắc dân cư ngụ khắp trong 50 tiểu bang rộng lớn.

Tôi đã từng tới công Viên Yosemite, Redwood Basin, Heart Castle, cầu Golden Gate, San Mateo, Gand Canyon, Mystery Spot (Santa Cruz), Mystery (San José), Lake Tahoe, Universal Studio, Disneyland… và cả các nơi giải trí bằng cờ bạc, đỏ đen như Las Vegas, Reno…

Năm thi quốc tịch tại San Jose, khảo thí viên, một ông Mỹ trắng, hỏi tôi trên 20 câu phần chính về lịch sử từ khi lập quốc, rồi hành pháp, tư pháp, thượng viện, hạ viện, dân biểu, nghị sĩ, và hỏi tôi có bị tù không… Câu cuối cùng, ông ta hỏi: “Tại sao bà muốn làm công dân Mỹ?”

Tôi đáp: “Bởi vì nước Mỹ là nước có Tự Do, Dân Chủ”. Ông khảo thí đưa bút và giấy bảo tôi viết. Ông đọc: “I love America”. Khi tôi viết xong, ông ta nhìn tôi mỉm cười: “Rất tối, bà đã đỗ” (Very good. You have passed).
Sau khi ký các giấy tờ thường lệ và viết tên văn bằng công dân Mỹ, tôi chào ông và nói: “Tôi nhớ ơn Mỹ quốc, xin cảm ơn ông! (I am grateful to America. Thank you)”.

Trùng Quang

* *  *
Bà Trùng Quang Sinh ngày 1-1- 1912 tại miền Bắc VN, bà Trùng Quang là nhà thơ, nhà hoạt động văn hoá, xã hội, giáo dục kỳ cựu của phụ nữ Việt Nam.

Tại Hà Nội, bà là hiệu trưởng sáng lập Trường Nữ Công Việt Nữ. Di cư vào Nam từ 1954, bà là hiệu trưởng trường Phương Chính, giảng dạy về Việt ngữ, sinh ngữ, nữ công. Bà cũng là người khai sáng ngành mỹ nghệ làm búp bê Việt Nam với kỹ thuật du nhập từ Nhật và Âu Châu.
Xuất hiện trên sân khấu, cạnh học trò cũ là Kiều Chinh, tác giả Trùng Quang bằng tiếng Anh lưu loát, đã nói lên đầy đủ ý nghĩa và lòng biết ơn đất nước Hoa Kỳ khi bà Viết Về Nước Mỹ.

 

TÔI ĐÃ ĐƯỢC LOAN BÁO TIN MỪNG

TÔI ĐÃ ĐƯỢC LOAN BÁO TIN MỪNG

(TÂM TƯ CỦA MỘT TÂN TÒNG)

Tôi sinh ra trong một gia đình đông con không Công giáo.  Hơn 30 năm trước, mỗi buổi chiều, tôi thường vừa nhảy lò cò vừa hát: “Đức Chúa Cha mua 3 múi mít, Đức Chúa Mẹ chê ít không ăn…”

Lớn lên chút nữa, tôi tò mò theo đám bạn học Công giáo vào nhà thờ hôn chân Chúa.  Hôn vào lỗ đinh, tôi sợ rợn người, nhưng trong lòng trộm hỏi: sao người ta yêu Chúa thế!  Sao Chúa Giêsu tội nghiệp lại để cho người ta đánh tả tơi!…

Nhà tôi gần xóm núi, mùa đông sương phủ trắng con đường dốc.  Thế mà từ 5 giờ sáng, tôi đã thấy các cụ già lọm khọm đi nhà thờ.  Không sót buổi nào!  Dẫu có mưa phùn hay gió thổi lạnh buốt.  Quá nể phục!  Tôi bắt đầu suy tư… Hẳn phải có một sức hút tâm linh rất mạnh mẽ nơi cái nhà thờ ấy…

Quê tôi rất nghèo.  Những năm 80 đói xác xơ!  Nhà tranh vách lá xiêu vẹo.  Một gia đình Công giáo vừa mới chuyển về mua lại căn nhà rách nát cạnh nhà tôi.  Nhưng điều lạ lùng là chỉ một tuần lễ sau, có một nhóm thanh thiếu niên độ mười mấy hai chục người kéo đến, kẻ vác cột, người kéo tranh…, chỉ trong một ngày là ngôi nhà đã được sửa chữa tươm tất!  Hỏi ra tôi mới biết cha nhà thờ cho người đến giúp.  À thì ra thế!  Hèn gì xóm đạo phía khu B nhà nào cũng vững chải khang trang, đâu có nhếch nhác như xóm kinh tế mới của tôi!  Hay thật!  Tôi ngưỡng mộ thèm muốn…

Nhưng chạnh lòng nhất là vào những dịp lễ, tết, Trung Thu hay vào cuối năm học, thiếu nhi nhà thờ luôn được tặng quà thêm, nhìn bọn nó xúng xính quà cáp trên tay, gương mặt rạng rỡ, đôi lúc còn được tổ chức cho vui chơi, bọn trẻ không Công giáo chúng tôi đứa nào cũng thèm thuồng và buồn thiu buồn thỉu… Có đạo sướng quá, vui quá, và được thương nhiều quá!

Năm nào cũng vậy, gần đến Giáng sinh thì trời càng trở lạnh.  Người ta kháo nhau: Đêm noel lạnh lắm!  Lạnh nhất đấy!  Mà đúng là đêm Noel trời lạnh thật!  Có cái gì đó nhiệm màu, thánh thiêng được thắp lên trong lòng tôi…

Tôi lên mười sáu.  Một anh thanh niên hay ghé nhà tôi chơi.  Anh thao thao nói cho tôi nghe về Chúa. Tôi ngưỡng mộ sự hiểu biết của anh lắm! (Sau này tôi mới biết là lúc ấy anh đang học giáo lý dự tòng, hôm trước nghe cha dạy gì thì hôm sau đem truyền đạt lại cho tôi thôi!)  Có lần tôi nài nỉ anh hôm nào rảnh thì dắt tôi đi nhà thờ với, anh trả lời tôi rằng: “Ừ, để khi nào tiện anh dắt đi.  Cha nói nếu như được ơn Chúa gọi mời thì trước sau gì cũng theo Chúa thôi!”… Từ ngày ấy, tôi ước mơ “được Chúa gọi mời”…

Thời gian trôi qua… anh đi đâu mà chẳng hề giã biệt tôi.  Lời hứa bỏ lơ lửng đó.  Tôi vùi đầu vào sách vở.  Hai năm sau tôi lên thành phố vào đại học.  Tất bật với cuộc sống, mơ ước của tôi cũng dần lãng quên… Bất ngờ tôi gặp lại anh ấy!  Rất tình cờ nhưng tôi xác tín rằng đó là định mệnh Chúa dành cho tôi.  Anh dắt tôi đi nhà thờ thật!  Ước mơ ngày ấy lại trỗi dậy trong tôi.  Tôi còn nhớ như in lần đầu anh dắt tôi đến nhà thờ Chúa Hiển Linh ở Phú Lâm, tôi đã rụt rè cầu nguyện chỉ có môt câu: “Chúa ơi!  Con chẳng biết gì về Ngài, nếu quả thật Ngài là Đấng quyền năng thì xin cho con biết Ngài và yêu Ngài với…!”

Rồi cứ thế, anh ấy đèo tôi trên xe đạp chiều chiều đi lễ… Rất nghèo nhưng rất vui…  Anh đưa tôi đi học giáo lý dự tòng rồi sau đó cùng nhau học giáo lý hôn nhân.  Tôi rửa tội tại nhà thờ Tân Thái Sơn. Cha mẹ tôi tôn trọng quyết định của tôi.  Ngày rửa tội, tôi không muốn khóc nhưng nước mắt cứ rơi ra!  Tôi đã mong đợi ngày ấy lâu biết bao nhiêu – cái ngày mà tôi được đón nhận mình Thánh Chúa!  Tôi cảm nhận một niềm thương chan chứa trong tâm hồn… Chúa thương tôi nhiều quá!  Lúc ấy và cho đến tận bây giờ, mỗi khi nghe một bài thánh ca xúc động vang lên, lòng tôi lại thổn thức… Chúa ơi!  “Chúa ghi vào hồn con dấu ấn của ngài…”

Tốt nghiệp đại học, chúng tôi cưới nhau.  Tôi mang trong mình một tham vọng lớn lắm!  Tôi sẽ dùng hết tài ăn nói khéo léo của mình để thuyết phục cha mẹ và anh em nhập đạo!  Hết lần này đến lần khác, tôi cố gắng kiên trì.  Cuối cùng thì tôi đón nhận được một ánh mắt nghiêm nghị của Ba tôi: “Từ nay con đừng bao giờ đem chuyện tôn giáo ra nói với Ba nữa, Ba không muốn nghe đâu!”  Anh em tôi thì chế nhạo “mở miệng ra là nghe sặc mùi Chúa!”

Tôi buồn.  Lòng nghe tái tê… Tôi thương cha mẹ anh em nhiều lắm!  Tôi tin mình tìm thấy Chúa là tìm thấy bến bờ yêu thương.  Dẫu trong khó nghèo, chúng tôi vẫn có một niềm bình an sâu lắng.  Bởi chúng tôi tin vào sự quan phòng của Chúa.  Lời Ngài đã dạy chúng tôi sống nhường nhịn, tha thứ, yêu thương.  Nhìn mẹ cha anh em sống tất bật trong cơm áo gạo tiền và bao nỗi lo toan cho xác thịt, không có một phút lo liệu cho phần hồn, tôi ái ngại cho đời sau!  Thương quá!  Nhưng không biết làm sao!..

Chúa đã dạy tôi qua miệng lưỡi một ai đó: đừng nói gì, hãy cầu nguyện đi!  Không có gì là Chúa không làm được!  Thế là từ đó tôi cầu nguyện.  Lúc sốt ruột, lúc ỉ ôi, lúc than thở…  Cha ơi!  Sao lại để con đến với Cha quá muộn màng!  Và sao Cha ôm con vào lòng mà còn để mẹ cha anh em con tăm tối!…  Năm năm, rồi sáu năm trôi qua, vẫn không có gì thay đổi.  Lòng tôi vẫn da diết nặng trĩu.  Có một lần tôi chợt nhận ra, nếu Chúa không để tôi đợi chờ mong mỏi, chắc lòng tôi chẳng có nỗi khát khao!  Biết đâu nếu gia đình tôi đạo gốc, tôi chẳng còn có nỗi niềm để thưa gởi, gắn bó với Chúa nữa thì sao?  Thật đáng sợ nếu một ngày nào đó lòng tôi lạnh nhạt, không có gì để nói với Cha, không còn ríu rít “Cha ơi!  Con đây, con dâng ngày của con trong tay Cha!”  Nhận ra điều này, tôi cảm tạ Cha…

Rồi đến năm thứ bảy.  Một lần về thăm quê, ba gọi tôi lại bảo: “Ba muốn theo đạo, con đi găp cha nhà thờ đi!”  Tôi nghe lùng bùng trong tai, không tin được.  Cảm tạ Chúa!..

Thế là ba, mẹ và bà nội tôi được rửa tội (Ông tôi đã mất).  Bảy anh chị em của tôi không theo đạo nhưng cũng đến nhà thờ dự lễ.  Tôi lại khóc thút thít trong nhà thờ.

Một năm sau, em trai kế và chị gái kế của tôi cùng con cái cũng lần lượt được rửa tội tại nhà thờ Tân Thái Sơn luôn.  (Đây là hai người trước đây hay chế giễu tôi nhất!..)

Còn đến 5 gia đình anh chị em của con nữa Cha ơi! Con xin đặt trong trái tim nhân hậu vô biên của Cha!

Con đường tôi đến với Chúa như thế đó!
Có bước chân lọm khọm của cụ già.
Có sự hăng hái vô tư của anh chị thanh niên.
Có sự tận tuỵ của vị chủ chăn và sự chăm lo của ban hành giáo.
Có tình yêu nâng đỡ của chồng tôi.

Và trên tất cả, là Cha yêu thương trên trời, là Giêsu chết treo trên thập giá, là Chúa Thánh Thần luôn ở giữa đời tôi.

Tôi tin Chúa ban tặng mỗi người một con đường riêng.  Con đường ấy mỗi ngày thêm một điều mới lạ, thêm một cụm cỏ, nhánh hoa từ lòng mến của nhau.  Tôi cảm tạ tất cả những người đã đi trên con đường cuộc đời tôi- tuy không dành cho tôi, nhưng đã để lại ấn tượng trong lòng tôi rất đẹp.  Những điều rất đời thường, tưởng chừng như sẽ rơi hút vào không gian.  Nhưng không, trong ơn Thiêng, nó sẽ được trau chuốt và đọng lại, rồi một ngày, đúng thời đúng lúc sẽ nở hoa…

Mẫu Bút Chì

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

 

Vụ chìm phà: thủ tướng Nam Hàn từ chức

Vụ chìm phà: thủ tướng Nam Hàn từ chức

Chủ nhật, 27 tháng 4, 2014

Đơn từ chức của ông Chung còn chờ được tổng thống phê chuẩn

Thủ tướng Nam Hàn Chung Hong-won đã đề nghị được từ chức trong bối cảnh chính phủ nước này bị chỉ trích về cách xử lý thảm họa chìm phà Sewol.

Trong một tuyên bố, ông Chung nói ‘tiếng kêu gào của thân nhân những người mất tích vẫn khiến tôi mất ngủ hàng đêm’.

Phà Sewol chở theo 476 người – đa số là học sinh và giáo viên – chìm ngoài khơi Nam Hàn hôm 16/4.

Các thợ lặn đã trục vớt được 183 thi thể, trong khi những người mất tích được cho là đã chết.

Các thân nhân phẫn nộ đã liên tục chỉ trích điều mà họ cho là sự chậm trễ của chiến dịch cứu nạn.

‘Nhận trách nhiệm’

“Điều đúng đắn mà tôi phải làm là nhận lãnh trách nhiệm và từ chức với tư cách là người lãnh đạo nội các,” ông Chung phát biểu trên truyền hình.

“Thay mặt chính phủ, tôi xin lỗi vì đã có nhiều vấn đề từ việc ngăn chặn thảm họa cho đến xử lý sớm.”

“Có quá nhiều những sự bất thường vẫn diễn ra ở mọi ngóc ngách trong xã hội chúng ta và những việc làm sai trái. Tôi hy vọng những vấn nạn thâm căn cố đế này sẽ được sửa chữa và những tai nạn như thế này sẽ không bao giờ xảy ra một lần nữa,” ông nói thêm.

“Điều đúng đắn mà tôi phải làm là nhận lãnh trách nhiệm và từ chức với tư cách là người lãnh đạo nội các.”

Thủ tướng Nam Hàn Chung Hong-won phát biểu trên truyền hình

Tuy nhiên, Tổng thống Nam Hàn Park Geun-hye vẫn chưa có câu trả lời ngay liệu bà có chấp nhận đơn từ chức của ông Chung hay không.

Một phát ngôn nhân đảng đối lập đã mô tả hành động này của ông Chung là ‘hoàn toàn vô trách nhiệm’ và là ‘sự lảng tránh trách nhiệm một cách hèn nhát’.

Sau khi thảm họa xảy ra, Thủ tướng Chung đã bị la ó phản đối và bị ném chai nước khi ông đến thăm thân nhân các nạn nhân.

Hôm Chủ nhật ngày 27/4, các thợ lặn đã phải đương đầu với điều kiện thời tiết khắc nghiệt để đưa thêm nhiều thi thể bị kẹt trong thân phà ra ngoài.

Một người phát ngôn của lực lượng tuần duyên Nam Hàn cho biết gió lớn khiến biển động làm cho các nỗ lực cứu hộ thêm khó khăn.

“Tình hình rất khó khăn do thời tiết, nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục tìm kiếm bằng cách tận dụng những lúc biển lặng,” ông nói và cho biết có 93 thợ lặn tham gia tìm kiếm hôm 27/4.

Tất cả 15 thành viên thủy thủ đoàn có liên quan đã bị giam giữ và sẽ đối mặt với cáo buộc xao lãng trách nhiệm.

Do thiết kế phà?

Đông đảo thợ lặn đã được huy động để trục vớt các thi thể

Hôm 25/4, các thợ lặn đã tìm thấy 48 thi thể mặc áp phao trong một căn phòng trên phà vốn có sức chứa chỉ 30 người.

Những hành khách này nhồi nhét vào bên trong căn phòng này và tất cả đều mặc áo phao, một sỹ quan của hải quân Nam Hàn cho biết.

Việc có nhiều nạn nhân trong một căn phòng cho thấy nhiều hành khách đã chạy vào phòng khi phà bị nghiêng, các phóng viên nhận định.

Hiện vẫn chưa rõ nguyên nhân thảm họa.

Tuy nhiên các công tố viên được cho là đang điều tra việc điều chỉnh thiết kế của phà có làm cho nó trở nên không vững hay không.

Các yếu tố khác cũng đang được xem xét là cú rẽ của phà cũng như sức gió, dòng chảy và khối lượng hàng trên phà.

Hiện giờ đã có thông tin rằng các khoang ngủ của phà đã được điều chỉnh vào khoảng từ năm 2012 cho đến 2013. Các chuyên gia cho rằng việc này đã tác động đến sự cân bằng của chiếc phà.

Underwater mother Mary Statue

Underwater mother Mary Statue

Malaysia flight searching team found underwater mother Mary Statue. it’s a Miracle
httpv://www.youtube.com/watch?v=-WGVqMgCYP8

Every year, thousands of persons who are not afraid to dive, go there underwater to pray. It’s near Philippines. The Mother Mary statue was placed there years ago to prevent bad persons to kill thousand of fishes underwater with dynamites. And it did work as they knew that this statue was there so they did stopped their activity. Ave Maria.