“GIÓ SẼ MỪNG VÌ TÓC EM BAY…”

“GIÓ SẼ MỪNG VÌ TÓC EM BAY…”

Lm. VĨNH SANG, DCCT

Ephata 599

Một lần nữa tôi có dịp theo chân một đoàn từ thiện đến Tây Nguyên. Tìm được địa điểm để có thể tiếp cận được đồng bào nghèo không phải dễ, những phẩm vật mang theo muốn trao đến trọn vẹn cho đồng bào nghèo càng không dễ chút nào. Chẳng biết cái cơ chế nào, cái luật lệ nào, cái thủ tục nào cứ phải phần trăm cho “các cấp, các ban ngành đoàn thể”, chẳng hiểu cái truyền thống hào hùng nào, cái đạo đức cách mạng nào biến những kẻ mang của cải chia sẻ cho người nghèo phải biết ơn “các cấp, các ban ngành đoàn thể” vì họ bố thí cho chúng ta cái quyền… làm từ thiện ! Nhưng thôi, tất cả cái gian lao đó, tôi đã thấy, nó không làm chùn chân những anh chị em Giáo Dân quảng đại, từ bi và nhân ái.

Tôi học được nơi họ – những người thiện nguyện – rất nhiều, sự hy sinh, can đảm, kiên nhẫn và khôn khèo. Họ không nề hà gian khổ, không kìm nén cảm xúc và không thu vén cho họ, không tìm danh lợi. Chẳng ai, chẳng nơi nào lưu dấu tên họ, chẳng ai biết họ là ai. Sau những chuyến xe gập ghềnh gian lao, những công việc nặng học vất vả, những buổi thăm viếng bị vắt kiệt sức, trở lại phố thị, vệ sinh gột rửa bụi bặm, họ trở nên thoải mái khi trút sạch những gì không có nơi đô thị trừ một cái, họ vẫn còn mang theo vào bữa ăn tối những giọt nước mắt hào sảng dành cho những thân phận nghèo hèn, kém may mắn, mà họ đã gặp nơi các buôn làng, họ đã khóc thật nhẹ nhàng, thật thoải mái khi cùng nhau nhắc lại những cuộc gặp gỡ vừa qua.

Những buôn làng tôi đã đi qua, thật nghèo, cái nghèo cùng kiệt không tả hết, những mái nhà hiu quạnh, rách nát, những con heo tộc bụng gần sát đất rong chơi tìm kiếm thức ăn cùng với những đứa trẻ mặt mày lem luốc ngơ ngác, những cái váy khô cứng xếp lớp như những miềng nhựa quấn quanh người, những cái đầu tóc không thể nào bay cho dù gió đại ngàn có cuồn cuộn kéo ngang, nó bện vào nhau, vàng cháy, khẳng khiu như những nhánh rễ cây đan quyện trên mặt đất. Những mái đầu ấy nếu được tắm gội, được chải chuốt, được đặt lên đó một nhánh hoa rừng, nếu những vòng tay đen cáu được sạch sẽ, được mang sách vở đến trường, được những miếng bánh mì lót lòng buỗi sáng, nếu những bàn chân trần có được đôi dép, tung tăng những bước chân chim với bạn bè, xếp hàng ngay ngắn trước thầy cô, hẳn số phận họ được thay đổi…

Những căn nhà bằng gỗ tồi tàn không còn nguyên vẹn, dáng kiểu nghiêng nghiêng như những triền dốc của núi đồi, hợp thành một bức tranh lạ kỳ, màu đen mốc thếch như những vạt đồi xa xa còn trơ lại đất cát sau những đám cháy nhuộm đen những gốc cây trơ trọi. Cái nghèo không thể xiết !

Chúng tôi mang đến một số phần quà như đã được nhóm tiền trạm báo trước, không ngờ số người đến nhận lại vượt quá con số dự trù. Tìm hiểu mới biết số người tăng thêm đến từ các buôn làng khác. Dân thành phố mình quen tính toán, thi nhau đưa ra giải pháp, bớt mỗi phần bao nhiêu ký để có thêm số phần cho đủ, nhưg người dân tộc tính khác, họ bảo: “Đổ chung đi, rồi cứ chia đều, thế là tốt, cùng là đồng bọn mà !” Chân chất và thật thà đến ngạc nhiên. Chúng tôi học được nhiều bài học từ núi rừng, hồn nhiên và trong sáng như thế đó…

Về lại thành phố, lòng tôi vẫn còn vương vấn, chuyến đi chớp nhoáng, thật nhanh và rút gọn, không biết lần sau có đến được vùng này nữa không, tai tôi vẫn còn ray rứt lời dặn của người môi giới: “Phát quà thôi, không được nói gì về tôn giáo”. Và một lời khác nữa của già làng: “Cán bộ dặn là không theo đạo để được là xã anh hùng !” Chúng tôi có nói gì về đạo đâu nhỉ, chỉ xin chia sẻ trong tình nghĩa làm người với nhau mà cũng khó dễ sao !?!

Bao giờ thì… “gió sẽ mừng vì tóc em bay ?”

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 23.2.2014

 

Con Hạc Trắng

Con Hạc Trắng

Nguồn: Ephata 599

White Stork-Mindaugas Urbonas-1.jpg

Bạn có bao giờ ngắm kỹ một con hạc trắng chưa? Nó trông thật mảnh mai; chân dài, người mỏng, trong một bộ lông trắng muốt. Trông nó thanh cao như một người luống tuổi mà vẫn giữ được phong cách ung dung… Con hạc được coi là một con vật sống lâu cho nên người ta gọi tuổi của các cụ là tuổi hạc.

Tết năm nào gia đình tôi cũng lên Đà Lạt nghỉ ngơi tại nhà 1 người anh bà con. Ðằng sau nhà anh tôi có một con đường mòn dẫn tới một công viên. Con đường mòn vào cuối Xuân chớm Hạ thật là đẹp. suối róc rách chảy, cây cỏ xanh mướt, những bông hoa núi nở trắng xóa. Chúng tôi mỗi buổi sáng dắt theo con chó đi bộ, vừa đi vừa trò chuyện.

Tôi bất giác hỏi:
– Sao con người không giống cây cỏ, vào mùa đông héo, úa, rụng, đến xuân, hạ lại hồi sinh nhỉ?
Anh tôi cười, nói:
– Cứ giữ mãi được Xuân, Hạ trong lòng mình là tốt rồi.

Chúng ta những người ở lứa tuổi đang bước vào tuổi già hay đã già. Tinh thần và thể xác không còn như hai mươi năm, mười năm về trước hay thậm chí như mới năm ngoái nữa.

Thông thường bất cứ người mang quốc tịch nào, sinh sống ở phần đất hay hoàn cảnh nào thì khi về già hay ngồi gậm nhấm lại quá khứ. Ở tuổi già, không có phương tiện di chuyển, bị trở ngại trong giao tiếp đã làm một số người sống một cuộc sống tẻ nhạt, từ tẻ nhạt đưa tới trầm cảm, khép kín.
Từ đó sinh ra bao nhiêu bệnh, và khi có bệnh, sự chạy chữa xem chừng không có hiệu quả lắm cho những người này.

Bác Sĩ Ornish, tác giả cuốn sách Love & Survival, nói rõ: Tách lìa tình thân gia đình và bạn bè là đầu mối cho mọi thứ bệnh từ ung thư, bệnh tim đến ung nhọt và nhiễm độc. Tình thương và tinh thần lạc quan là gốc rễ làm cho chúng ta bệnh hay khỏe.

Ba mươi năm trước mà nghe ai nói cô đơn sinh ra các chứng bệnh thì người ta sẽ chỉ cười nhẹ.. Nhưng bây giờ điều này đã được nhiều bác sĩ công nhận là đúng.

Những buổi tĩnh tâm chung, có cầu nguyện, có tịnh niệm (tùy theo tôn giáo của mỗi người) chia sẻ những buồn vui, lo lắng của mình cùng người khác cũng giúp khai thông được những tắc nghẽn của tim mạch như là ăn những thức ăn rau, đậu lành mạnh vậy.

Nếu không nói ra được những gì dồn nén bên trong thì chính là tự mình làm khổ mình. Khi nói ra, hay viết ra được những khổ tâm của mình thì hệ thống đề kháng được tăng cường, ít phải uống thuốc.

Theo Bác Sĩ Ornish, khi bị căng thẳng cơ thể sẽ tiết ra một hóa chất làm cho mọi sinh hoạt ứ đọng, ăn không ngon, đầu không suy nghĩ, mạch máu trì trệ, mất sức đề kháng, dễ cảm cúm.

Như vậy sự cô đơn cũng là chất độc như cholesterol trong những thức ăn dầu mỡ, mà chỉ có sống lạc quan mới cứu rỗi được.

Nếu bạn không mở tâm ra cho người khác thì bác sĩ bắt buộc phải mở tim bạn ra thôi!!!

Tuổi như thế nào thì gọi là già? Chúng ta biết khi một người qua đời ở tuổi 60 thì được gọi là ‘hưởng thọ’.   Vậy sau tuổi 60 mỗi ngày ta sống là một “bonus”, phần thưởng của Trời cho.

Chúng ta nên sống thế nào với những ngày ‘phần thưởng’ này. Lấy thí dụ một người lớn tuổi, sống cô đơn, biệt lập, không đi ra ngoài, không giao thiệp với bạn hữu, thế nào cũng đi đến chỗ tự than thân trách phận, bất an, lo âu, ủ dột và tuyệt vọng. Từ đó bắt nguồn của bao nhiêu căn bệnh.

Trong “Những lời Phật Dạy” có câu:

Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình.
Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng…

Chắc trong chúng ta không ai muốn rơi vào hoàn cảnh này. Gặp gỡ bè bạn thường xuyên trong những sinh hoạt thể thao là điều tốt lành nhất cho thể lý.
Ði tập thể thao như nhẩy nhẹ theo nhạc, tắm hơi, bơi lội, tennis v.v… đã giúp cho người lớn tuổi giữ được thăng bằng, ít ngã, và nếu có bệnh, uống thuốc sẽ công hiệu hơn, mau lành hơn.

Gặp bạn, nói được ra những điều phiền muộn cho nhau nghe, ngồi tĩnh tâm, đến nhà thờ, chùa cầu nguyện giúp được làm chậm lại sự phát triển của bệnh.

Bác Sĩ Jeff Levin giáo sư đại học North Carolina khám phá ra từ hàng trăm bệnh nhân, nếu người nào thường xuyên đến nhà nguyện họ có áp suất máu thấp hơn những người không đến nhà nguyện, ông bỏ ra hàng đêm và nhiều cuối tuần để theo dõi, tìm hiểu những kết quả cụ thể của ” Tín ngưỡng và sức khỏe “!

Cuốn sách ông phát hành gần đây nhất có tên là God, Faith and Health. Trong đó ông cho biết những người có tín ngưỡng khỏe mạnh hơn, lành bệnh chóng hơn, ít bị nhồi máu cơ tim, gặp sự thăng trầm trong đời sống họ biết cách đối diện, họ luôn luôn lạc quan.

Lạc quan là một cẩm nang mà chúng ta nên luôn luôn mang theo bên mình. Ðừng bao giờ nói, hay nghĩ là “Tôi già rồi, tôi không giúp ích được cho ai nữa”  hoặc  “Tôi vụng về, ít học, chẳng làm gì được” .

Tôi xin kể câu chuyện Hai con ngựa của thầy phó tế George A.Haloulakos.

Cạnh nhà tôi có một cánh đồng cỏ, hàng ngày có một cặp ngựa, con nọ lớn hơn con kia một chút thong thả ăn cỏ ở đấy. Nhìn từ xa chúng là đôi ngựa bình thường giống những con ngựa khác. Tuy nhiên nếu bạn đến gần, bạn sẽ khám phá ra là có một con mù.

Trên đường trở về chuồng mỗi chiều, con ngựa nhỏ chốc chốc lại ngoái cổ lại nhìn bạn, muốn biết chắc bạn mù của nó vẫn đi theo tiếng chuông của nó để lại đằng sau..

Chủ nhân của nó chắc thương nó không nỡ bỏ đi, mà còn cho nó một chỗ ở an toàn. Chính điều này đã thành một câu chuyện tuyệt vời.
Ðứng bên chúng, bạn chợt nghe có tiếng chuông rung, phát ra từ cái đai nhỏ vòng quanh cổ con ngựa nhỏ hơn, chắc là một con cái. Tiếng chuông báo cho con bạn mù của nó, biết là nó đang ở đâu mà bước theo. Quan sát kỹ một chút bạn sẽ thấy cái cách con ngựa sáng chăm sóc con ngựa mù, bạn nó, chu đáo như thế nào. Con ngựa mù lắng nghe tiếng leng keng mà theo bạn, nó bước chậm rãi và tin rằng bạn nó không để nó bị lạc.

Cũng giống như chủ nhân của đôi ngựa có lòng nhân từ, Thượng đế không bao giờ vứt bỏ bạn vì bạn kiếm khuyết, hoạn nạn hay gặp khó khăn. Người luôn luôn đem đến cho chúng ta những người bạn khi chúng ta cần được giúp đỡ. Ðôi khi chúng ta là con ngựa mù, được dẫn dắt bởi tiếng chuông mầu nhiệm mà Thượng đế đã nhờ ai đó rung lên cho chúng ta. Những khi khác chúng ta là con ngựa dẫn đường, giúp kẻ khác nhìn thấy.

Bạn hiền là như vậy. Không phải lúc nào ta cũng nhìn thấy họ, nhưng họ thì luôn hiện diện đâu đó. Hãy lắng nghe tiếng chuông của nhau.
Hãy tử tế hết sức mình, bởi vì có một người mà bạn gặp trên đời, biết đâu cũng đang ở trong một hoàn cảnh khó khăn nào đó họ phải phấn đấu để vượt qua. Không gì hơn là tuổi già nương dựa vào nhau trong tình bạn. Luôn luôn nghĩ bao giờ mình cũng có cái cho đi mà người khác dùng được.

Tính hài hước, làm cho người khác cười cùng với mình cũng là những liều thuốc bổ.

Thi sĩ Maya Angelou vào sinh nhật thứ 77, trong chương trình phỏng vấn của Oprah, hỏi về sự thay đổi vóc dáng của tuổi già, bà nói:

” Vô số chuyện xẩy tới từng ngày… Cứ nhìn vào bộ ngực của tôi xem. Có vẻ như hai chị em nó đang tranh đua xem đứa nào chạy xuống eo trước “. Khán giả nghe bà, cười chẩy cả nước mắt.

Những vấn đề chính ảnh hưởng đến sức khỏe của bạn (qua tinh thần) là:

+Sự cảm thông giữa cha mẹ và con cái, giữa ông bà với các cháu.
+Tinh thần chấp nhận và lạc quan.
+Nghĩ đến những điều vui nhỏ mỗi ngày.
+Tham gia những sinh hoạt nào phù hợp với sức khỏe.
+Làm việc thiện nguyện
.

Sinh, bệnh, lão, tử. Con đường đó ai cũng phải đi qua. Nhưng đi như thế nào thì hầu như 80% chính mình là người lựa chọn.

+Nhóm bạn: Ðọc sách, kể chuyện, đánh cờ, chơi bài (không phải ăn thua).
+Tham gia các lớp thể dục: Như Yoga, ngồi thiền, khí công v.v…Và ngay cả chỉ đi bộ với nhau 30 phút mỗi ngày cũng giúp cho tinh thần sảng khoái, sức khỏe tốt hơn là ở nhà nằm quay mặt vào tường.

Hãy thỉnh thoảng đọc lên thành tiếng câu ngạn ngữ này: ‘Một nét mặt vui vẻ mang hạnh phúc đến cho trái tim và một tin vui mang sức khỏe cho xương cốt.’

Chúc tất cả anh chị em luôn cảm thấy vui khoẻ và trọn vẹn an lành trong tâm hồn

Khuyết Danh

Hai Giáo Hoàng: Một hình ảnh hiếm có!

Hai Giáo Hoàng: Một hình ảnh hiếm có!

Lm. Paul Phạm Văn Tuấn


Vatican – 22.2.2014 – Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã xuất hiện chính thức lần đầu tiên trong buổi lễ tấn phong 19 Hồng Y của Hội Thánh Công Giáo vào sáng thứ bẩy, 22.2.2014 tại đền Thánh Phêrô kể từ khi Ngài từ chức và nghỉ hưu.

Trước khi khai mạc ĐGH Phanxicô đã tiến đến người tiền nhiệm của mình là Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI và hai Giáo Hoàng ôm choàng nhau thắm thiết trong tình anh em Giáo Hoàng.

Giây phút gặp gỡ chính thức trước công chúng này của hai Giáo Hoàng đã làm cho thế giới chờ đợi đến gần cả một năm qua, mặc dù trước đó hai Ngài đã gặp nhau tại nhà nghỉ mát Castel Gandolfo và trong nội thành Vatican thì hôm nay mới là lúc mọi người hiện diện trong đền thánh và qua truyền hình trực tiếp được chứng kiến tỏ tường. Nhiều người đã nhỏ lệ nhìn thấy hai vị ôm choàng nhau. Một hình ảnh thật hiếm có như thế.

Kể từ khi Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI từ chức vào ngày 28 tháng 2 năm 2013 thì Ngài đã không xuất hiện chính thức cũng như không tham dự các nghi lễ trong đền Thánh Phêrô hoặc các sự kiện công cộng khác, kể cả lúc Đức Tân Giáo Hoàng Phanxicô chính thức nhận sứ vụ mục tử.

Hôm nay Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI mặc áo dòng trắng và bên ngoài khoác áo măng-tô màu trắng cũng như đội nón trắng của Giáo Hoàng. ĐTC Bênêđictô XVI ngồi ở hàng ghế đầu của hàng Hồng Y trên một ghệ đệm màu đỏ giống như tất cả các vị Hồng Y khác. Trước lúc khai mạc nhiều Hồng Y đã đến tận ghế ngồi chào và hỏi thăm Ngài.

Tân Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh đã đại diện chào mừng ĐTC Bênêđictô XVI: “Chúng con rất biết ơn đối với sự hiện diện của ĐTC đang ở giữa chúng con”. Hồng Y đoàn và mọi người hiện diện vui mừng vỗ tay chào mừng thật dài. ĐTC Bênêđictô XVI mỉm cười và giơ tay vẫy chào lại.

Cho đến nay, ĐTC Bênêđictô XVI chỉ tham dự chung một lần với ĐGH Phanxicô lúc làm phép tượng Thánh Michael trong vườn của Vatican vào tháng 7 năm ngoái.

ĐTC Bênêđictô XVI đã công bố trước ngày từ chức vào cuối tháng Hai năm 2013 là Ngài muốn sống thinh lặng trong nội thành Vatican.

Đối với ĐGH Phanxicô thì đây là lần đầu tiên Ngài tấn phong Hồng Y trong đời Giáo Hoàng đã được bắt đầu từ tháng Ba năm 2013.

Lm. Paul Phạm Văn Tuấn

LÒNG BAO DUNG

LÒNG BAO DUNG

Tác giả: Lm. Inhaxio Trần Ngà

Tin Mừng Mat-thêu (5, 38-48)

Trả thù, báo oán là cách ứng xử man rợ, thiếu đạo đức.

Luật trả thù báo oán kiểu “mắt đền mắt, răng đền răng” là thứ luật đã lỗi thời, không còn thích hợp nữa, thế mà ngày nay không ít người vẫn muốn cư xử với nhau theo thứ luật rừng man rợ nầy. Nhiều người vẫn chủ trương: Ai móc mắt tôi, tôi móc mắt người đó. Ai đánh gảy răng tôi, tôi đánh gảy răng người đó…

Trước hết, đây là cách ứng xử thông thường của loài cầm thú, như gà chọi chẳng hạn: Con nầy đá qua, con kia mổ lại, đấu đá nhau cho đến khi cả hai đều gục xuống, kiệt sức, mình mẩy đầy máu me!

Đây cũng là phản ứng tự nhiên của những con trâu điên, của những con chó dại: Trâu nầy húc qua, trâu kia báng lại cho đến khi cả hai không còn hơi sức.

Những cách ứng xử như trên thật là man rợ, rừng rú, chỉ thích hợp cho một số loài động vật hung hãn. Là người, chúng ta không thể sống theo bản năng hạ cấp mang đầy thú tính như vậy.

Nhiều cuộc xung đột trên thế giới được giải quyết theo kiểu “mắt đổi mắt răng đền răng”, tức giải quyết bằng chiến tranh, trả thù, báo oán và đã đưa đến hậu quả vô cùng bi đát. Lịch sử chiến tranh giữa các dân tộc qua bao thời đã cho thấy điều đó.

Bao dung tha thứ cho kẻ thù là thượng sách.

Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đề xuất một giải pháp tối ưu cho mọi tranh chấp xung đột giữa người với người, đó là: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” và “Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5, 39.44)

Trước lời dạy nầy, những người nông nổi cho là nhu nhược, là hèn nhát, là yếu đuối; chỉ những ai khôn ngoan sâu sắc mới nhận thấy đây là giải pháp tối ưu để giải quyết mọi xung đột và đem lại an hòa.

Khi người ta quai búa tạ vào tảng đá cứng, đá sẽ dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại búa, hậu quả là đá sẽ nứt vỡ ra, bị nghiền tán ra. Đá bị thất bại hoàn toàn!

Nhưng khi người ta quai búa giáng mạnh xuống hồ nước, nước sẽ dùng sự mềm mại của mình để vô hiệu hoá sức mạnh của búa. Nước không hề hấn gì nhưng búa thì sẽ bị chìm lĩm xuống tận đáy hồ. Thế là nước thắng lợi vẻ vang!

Khi gặp bão táp cuồng phong, những cây cổ thụ cao lớn cứng cáp dùng sự cứng rắn mạnh mẽ của mình để kháng cự lại bão tố. Hậu quả là chúng bị gãy cành, trốc gốc. Trong khi đó, những rặng tre, những cây lau sậy không hề kháng cự lại bão tố, nhưng dùng sự mềm dẻo của mình để uốn theo chiều gió nên chúng được an toàn.

Hiểu được quy luật đó nên Lão tử đã dạy môn sinh từ mấy ngàn năm trước: “Nhu thắng cương, nhược thắng cường.” Vị sư tổ của môn phái Judo cũng đã dựa vào quy luật nầy để sáng lập nên môn phái Judo (nhu đạo), một môn võ thuật lấy mềm dẻo để chiến thắng tính hung bạo cứng rắn.

Tha thứ đem lại bình an cho tâm hồn.

Khi oán ghét, giận hờn, căm thù người khác, ta cảm thấy tâm hồn mình như một mặt hồ đang yên bình bỗng nhiên nổi sóng. Ta cảm thấy bực bội, cay cú và như muốn phát khùng. Ta cảm thấy mình đã đánh mất sự bình an trong tâm hồn: ăn không ngon, ngủ không yên, huyết áp lên cao, bệnh tật phát sinh và tất nhiên, nếu cứ lặp lại tình trạng nầy nhiều lần thì ta bị tổn thọ.

Trong khi đó, người bị ta giận ghét thì vẫn sống hồn nhiên, vẫn vui đùa, vẫn thanh thản hạnh phúc như không có gì xảy ra. Nỗi căm hờn giận ghét của ta dành cho y không làm y đau khổ, mà chỉ làm cho ta đau khổ thôi.

Như thế, khi ta nuôi lòng giận ghét căm hờn người khác, là ta tự phạt mình, tự hành hạ mình, tự làm khổ mình, tự gieo thêm bệnh tật cho mình, tự cắt ngắn tuổi thọ của mình. Làm thế thì chẳng phải là điên rồ, dại dột lắm sao!

Thế thì ta hãy thôi đày đoạ và tự làm khổ mình, hãy trả lại bình an cho tâm hồn mình, trả lại hạnh phúc cho cuộc đời ta bằng cách tha thứ, xoá bỏ và quên đi lầm lỗi của người khác. Chỉ bằng cách nầy, ta mới tìm lại được bình an cho tâm hồn, tìm được hạnh phúc cho cuộc sống.

Lạy Chúa Giê-su,

Hình ảnh đẹp nhất trên đời là hình ảnh của Chúa năm xưa trên đồi Can-vê, dù đang bị đám đông bạo ngược phỉ báng, hành hạ, đóng đinh vào thập giá mà Chúa vẫn tha thiết cầu xin Thiên Chúa Cha thứ tha cho bao kẻ xúc phạm đến Ngài.

Xin ban cho chúng con có đủ yêu thương, có đủ bao dung và thông cảm để sẵn sàng tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng con, để yêu thương và cầu nguyện cho họ như Chúa đã nêu gương.

Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

Tin Mừng Chúa Nhật 6 thường niên : Mát-thêu 5, 38-48

38 “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng.39 Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa.40 Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài.41 Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm.42 Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi.

43 “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù.44 Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. 45 Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính.46 Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?47 Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?48 Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.

Tác giả: Lm. Inhaxio Trần Ngà

Ukraina : Phát hiện dinh thự hoành tráng của ông Ianoukovitch

Ukraina : Phát hiện dinh thự hoành tráng của ông Ianoukovitch

Tòa dinh thự nguy nga như một cung điện của tổng thống Ukraina bị phế truất Victor Ianoukovitch ở ngoại ô thủ đô Kiev. Ảnh chụp ngày 22/02/2014.

Tòa dinh thự nguy nga như một cung điện của tổng thống Ukraina bị phế truất Victor Ianoukovitch ở ngoại ô thủ đô Kiev. Ảnh chụp ngày 22/02/2014.

REUTERS/Konstantin Chernichkin

Thụy My

RFI

Mọi chuyện đã diễn biến quá nhanh hôm thứ Bảy 22/02/2014, khi những dấu hiệu cho hồi kết của Tổng thống Victor Ianoukovitch liên tục nhân rộng. Quốc hội nắm lấy quyền hành, truất phế Tổng thống, giải tán nội các và bổ nhiệm những nhân vật thay thế, kiểm soát lực lượng an ninh và phóng thích bà Ioulia Timochenko bị cầm tù từ năm 2011. Một biểu tượng quan trọng cho việc thời thế đã thay đổi : đó là việc dinh thự riêng của Tổng thống được mở cửa cho công chúng vào tham quan.

Thông tín viên RFI tại Kiev Sébastien Gobert tường thuật :

« Đó là giây phút lịch sử, mang dáng dấp một cuộc dạo chơi cuối tuần. Nằm cách phía bắc Kiev ba mươi cây số, dinh cơ Mezhyhyria và 140 hecta bao quanh là tài sản của Nhà nước xô-viết cũ, được tư nhân hóa trong những điều kiện đáng ngờ và trở thành biệt thự riêng của ông Victor Ianoukovitch. Cơ ngơi này là biểu tượng cho những lạm dụng và nạn biển thủ công quỹ mà chế độ đã bị lên án từ năm 2010.

Khi những cánh cửa được mở ra vào sáng thứ Bảy, không hề có bạo động hay phá hoại. Hàng ngàn người dân gồm người lớn và trẻ em trong gia đình, những cặp tình nhân nắm tay nhau, họ lang thang trong khu công viên, mắt mở to sửng sốt trước sự hoành tráng của dinh cơ này. Dmytro là một trong số những người đó, anh nói : « Người ta đến để kiểm soát, để nhìn ngắm cơ ngơi của Tổng thống, tai nghe mắt thấy nhận ra nạn tham nhũng ở Ukraina. Không ai có thể tưởng tượng ra được những thứ này ».

Bên trong các tòa nhà vẫn được các nhóm tự vệ của phe đối lập canh gác, không cho khách tham quan vào để tránh mọi hành động phá phách. Đám đông thưởng ngoạn từ tòa lâu đài xa hoa, du thuyền, sở thú cho đến khu vực tắm hơi, từ nhà kính trồng cam đến ga-ra đậu đầy những chiếc xe hơi sang trọng. Tất cả đều với ý thức đáng nể : người ta khuyên không nên dẫm lên bãi cỏ !

Maria giải thích sự quan trọng của việc bảo tồn cơ ngơi này, để làm nên một địa điểm mang tính biểu tượng cho nước Ukraina mới : « Tôi mong rằng người ta sẽ dùng nơi này làm trung tâm y tế cho trẻ em và những người nghèo khổ. Hoặc là chuyển đổi thành đài kỷ niệm, hay công viên có thu tiền ».

Trong khi Ukraina vẫn là một trong những nước nghèo nhất châu Âu và nền kinh tế đang bên bờ vực phá sản, chuyến tham quan dinh cơ riêng của ông Ianoukovitch đối với nhiều người đã chứng tỏ rằng, cuộc cách mạng dẫn đến việc lật đổ một Tổng thống được bầu lên một cách dân chủ vào năm 2010 là đúng đắn. Cùng với Mezhyhyria, thêm một biểu tượng mạnh mẽ nữa đã sụp đổ »

Xin xem thêm: Dân Ukraine tràn vào tư gia Yanukovych (BBC)

 

Ukraina truất phế tổng thống, nhưng có nguy cơ bị tan rã

Ukraina truất phế tổng thống, nhưng có nguy cơ bị tan rã

Nhà đối lập Timochenko ngỏ lời với những người ủng hộ đối lập tại quảng trường Độc Lập tối 22/02/2014 sau khi được tự do.

Nhà đối lập Timochenko ngỏ lời với những người ủng hộ đối lập tại quảng trường Độc Lập tối 22/02/2014 sau khi được tự do.

Reuters

Thanh Phương

Ukraina vừa lật qua một trang sử mới với việc phế truất tổng thống Viktor Ianukovitch, và việc trả tự do cho nhà đối lập Iula Timochenko. Thế nhưng, cùng với hy vọng thoát khỏi khủng hoảng là mối lo về nguy cơ nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ này bị tan rã.

Hôm qua, 22/02/2014, sau khi quyết định trả tự do ngay lập tức cho nhà đối lập Timochenko, cựu thủ tướng, Quốc hội Ukraina đã thông qua nghị quyết về việc truất phế tổng thống Ianukovitch và tổ chức bầu cử tổng thống trước thời hạn ngày 25/05 tới.

Tuy nhiên, tại thành phố Kharkiv, ông Ianukovitch, đắc cử tổng thống năm 2010 và trên nguyên tắc đến tháng 03/2015 mới hết nhiệm kỳ, tuyên bố là ông không hề có ý định từ chức, đồng thời lên án điều ông gọi là “một cuộc đảo chính”.

Đến đêm hôm qua, không ai biết là tổng thống bị truất phế đang ở đâu. Hôm nay, một phát ngôn viên của lực lượng biên phòng ở Donetsk ( miền Đông Ukraina ) cho hãng tin AFP biết là ông Ianukovitch đã toan hối lộ họ để phi cơ của ông được cất cánh bay sang Nga, nhưng họ đã từ chối nhận tiền. Hiện nay, tổng thống bị truất phế của Ukraina đang lẩn trốn trong vùng Donetsk, quê hương của ông và cũng là một trong những thành trì của phe ủng hộ ông.

Hôm nay, Quốc hội Urkaina vừa bỏ phiếu thông qua nghị quyết chỉ định chủ tịch Quốc hội Olexandre Tourchinov làm tổng thống lâm thời, chiếu theo quy định của Hiến pháp. Theo thông báo của ông Tourchinov, từ đây đến thứ ba tuần tới, các dân biểu Quốc hội phải thành lập một chính phủ mới. Các dân biểu Ukraina cũng thông qua việc việc giao trả tư dinh nguy nga của tổng thống Ianukovitch cho Nhà nước.

Về phần nhà đối lập Timochenko, sau khi được tự do, đã đến quảng trường Độc Lập để ngỏ lời với khoảng 50 ngàn người đứng chật cứng quảng trường. Bà đã kêu gọi những người biểu tình tiếp tục cuộc đấu tranh.

Về phản ứng của quốc tế, nước Nga hôm qua cáo buộc phe đối lập Ukraina “ đã không thực hiện một nghĩa vụ nào” trong thỏa thuận ký hôm thứ sáu với tổng thống Ianukovitch và tố cáo những người mà họ gọi là “thành phần cực đoan vũ trang và những kẻ cướp phá đang đe dọa trực tiếp toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina”.

Phản ứng của châu Âu thì hoàn toàn khác hẳn. Trên trang mạng Twitter hôm qua, Ngoại trưởng Ba Lan Silorski, người đã tham gia vào thương lượng giữa phe đối lập với chính quyền Ukraina cho rằng không hề có đảo chính ở Kiev. Đại diện ngoại giao cao cấp của Liên Hiệp Châu Âu Catherine Ashton hôm qua đã kêu gọi các lãnh đạo Ukraina hành động “một cách có trách nhiệm” để duy trì toàn vẹn lãnh thổ và sự thống nhất của đất nước.

Về phần Hoa Kỳ thì hoan nghênh việc trả tự do cho nhà đối lập Timochenko, đồng thời nhắc lại rằng chính người dân Ukraina quyết định về tương lai của họ. Từ Washington, thông tín viên Jean-Louis Pourtet gởi về bài tường trình:

“Trong một bản thông cáo, Nhà Trắng đã hoan nghênh việc làm mang tính xây dựng của Quốc hội Ukraina và kêu gọi nhanh chóng thành lập một chính phủ đoàn kết dân tộc, rộng rãi và bao gồm các nhà kỷ trị. Đối với chính quyền Mỹ, có thể là Ukraina đã gần đạt được mục tiêu đề ra: giảm dần bạo lực, sửa đổi Hiến pháp, thành lập chính phủ liên hiệp và tổ chức bầu cử trước thời hạn. Nhà Trắng cũng hoan nghênh việc trả tự do cho nhà đối lập Timochenko và chúc bà chóng bình phục.

Khi được đài NBC hỏi rằng những diễn biến gần đây có thể đưa Ukraina xích gần lại châu Âu và Hoa Kỳ hay không, đại sứ Mỹ tại LHQ Samantha Power nói rằng :” Hiện giờ, chúng tôi nghĩ trước hết đến nhân dân Ukraina. Dứt khoát phải chấm dứt các vụ bạo động và thực hiện thỏa hiệp. Người dân Ukraina phải thảo luận với nhau để quyết định về tương lai của đất nước họ”.

Hoa Kỳ cũng cam kết sẽ làm việc với các đồng minh, với nước Nga, với các định chế Châu Âu và quốc tế để Ukraina trở thành một quốc gia thịnh vượng, thống nhất và dân chủ”.

Nhưng tương lai của nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ này còn rất mờ mịt. Tại Kharkiv, các lãnh đạo của những vùng thân Nga ở miền Đông đã không nhìn nhận “tính chính đáng” của Quốc hội Ukraina, mà theo họ, đang làm việc “ dưới họng súng”. Họ cho rằng toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina đang bị đe dọa. Quốc gia có 46 triệu dân này cho tới nay vẫn bị phân làm hai, một bên là miền Đông, với dân nói tiếng Nga và thân Nga, chiếm đa số, và bên kia là miền Tây, với dân nói tiếng Ukraina và có tinh thần dân tộc rất mạnh.

 

Ân xá Quốc tế sang Việt Nam đối thoại nhân quyền

Ân xá Quốc tế sang Việt Nam đối thoại nhân quyền

21.02.2014

Đại diện tổ chức Ân xá Quốc tế trong tuần này sang Việt Nam để trao đổi về nhân quyền tiếp nối chuyến thăm của Phó Giám đốc Văn phòng Ân xá Quốc tế tại Hoa Kỳ hồi tháng 3 năm ngoái.

Thông cáo báo chí của Ân xá Quốc tế công bố ngày 20/2 cho biết trong 3 ngày làm việc tại Hà Nội, phái đoàn 4 người đã gặp gỡ các giới chức cao cấp của đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam, các đại biểu quốc hội, chuyên gia từ các viện nghiên cứu, đại diện các tổ chức phi chính phủ, và các nhà ngoại giao nước ngoài.

Trưởng phái đoàn, bà Isabelle Arradon, Phó Giám đốc Chương trình Châu Á-Thái Bình Dương thuộc Ân xá Quốc tế, bày tỏ vui mừng về chuyến đi và cho biết phái đoàn đã có các cuộc trao đổi thẳng thắn, cởi mở về các mối quan tâm nhân quyền với phía Việt Nam.

Bà Arradon nói đây là một bước tích cực và Ân xá Quốc tế mong đợi sẽ có thêm những sự giao tiếp xây dựng với chính phủ Việt Nam.

Các cuộc trao đổi trong chuyến thăm lần này xoay quanh quyền tự do bày tỏ quan điểm, các chính sách về nhân quyền, án tử hình, quyền của người dân tộc thiểu số, nữ quyền, vấn đề lao động di cư và buôn người.

Ân xá Quốc tế nói tất cả những tù nhân lương tâm, những người bị giam cầm chỉ vì bày tỏ quan điểm ôn hòa, phải được phóng thích.

Chuyến thăm diễn ra giữa bối cảnh Việt Nam vừa hoãn thi hành án 1 năm cho nhà bất đồng chính kiến Đinh Đăng Định bị ung thư dạ dày giai đoạn cuối và y án 30 tháng tù về tội danh ‘trốn thuế’ đối với luật sư nhân quyền Lê Quốc Quân.

Bà Arradon nhấn mạnh Việt Nam đang tìm kiếm cơ hội củng cố vai trò trong khu vực và trên thế giới, nhưng tham vọng đó phải đi cùng với trách nhiệm tôn trọng, thăng tiến, và bảo vệ nhân quyền.

Ân xá Quốc tế cho hay Hà Nội đã mời họ thực hiện những chuyến thăm kế tiếp. Ân xá Quốc tế dự kiến trong các chuyến thăm sắp tới, họ sẽ trao đổi các sáng kiến về giáo dục nhân quyền, đi tới các khu vực khác ngoài thủ đô Hà Nội, và gặp gỡ với các bên liên quan bao gồm xã hội dân sự.

Việt Nam vừa trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc năm nay và báo cáo nhân quyền tại buổi Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát UPR ở Liên hiệp quốc hồi đầu tháng này.

Nhật ký một bạn tù!

Nhật ký một bạn tù!

Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

Tôi quen biết cả hai vợ chồng anh Nam. Gia đình chị Nam là nạn nhân của cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn”. Cha chị, anh Khoa, là bạn học của tôi ở trưởng tiểu học xã. Lúc tôi làm việc ở Bệnh viện Đà-Nẵng, thì anh là xã trưởng xã Giao Hòa, gần quê tôi. Cha anh bị liệt vào hàng phú nông, đã bị du kích VC ở xã chôn sống, thời chống Pháp, chỉ vì ông chỉ trích biện pháp “tiêu thổ kháng chiến” trong đám giỗ gia đình ông. Người chỉ huy vụ thủ tiêu ông, là cháu kêu ông bằng bác, tên Cội. Cái “giỏi” của Cộng sản, là có thể khơi dậy ở người cháu lòng căm thù, để giết bác ruột. Khoa, lúc ấy, cũng là du kích, chứng kiến cái chết thê thảm của cha, mà không làm gì được. Sau đó, anh lẻn ra vùng Quốc Gia, và thề trả thù cho cha. Anh đã dẫn lính Bảo An, trong đêm tối phục kích tiểu đội du kích VC ở xã, và giết chết Cội. Thời Đệ nhị Cộng Hòa, xã Giao Hòa nằm trong vùng tranh chấp. Ban ngày, Khoa cùng Địa Phương Quân về đóng trong làng, ban đêm rút về quận. Con của Cội, lúc ấy, là “chủ tịch xã” (VC) ban đêm thường hay lẻn về đe dọa dân chúng, và thâu lúa gạo của dân.

Tết Mậu Thân, 1968, con của Cội cùng “bộ đội” miền Bắc đột nhập quận, bắt được Khoa. Chúng dẫn Khoa về làng Giao Hòa, họp dân chúng lại, mở “tòa án nhân dân” xử Khoa, chúng hành hạ Khoa rất tàn nhẫn trước khi giết chết. Chị Khoa, vận đồ tang, về làng xin xác chồng đem về chôn tại quận. Bọn Cộng sản đã không cho, lại giết chết luôn chị Khoa, chỉ vì quá uất hận, chị đã thốt lên những lời mỉa mai trong khi khóc lóc trước mộ chồng.

Hai vợ chồng Khoa chỉ có một cháu gái tên Thu, lúc ấy mới 10 tuổi. Thu bơ vơ được ông Quận trưởng Đại Lộc, Quảng Nam, nhận về nuôi cho đi học. Nam cùng quê với tôi. Cha chết sớm, vì ăn phải nấm độc, trong nạn đói thời “kháng chiến chống Pháp”. Mẹ Nam ở vậy nuôi con. Khi đồng quê mất an ninh, bà ra Đà-Nẵng giúp việc trong nhà cho tôi. Nam đậu Tú tài, vào học trường Nông Lâm Súc. Ra trường, thì bị động viên vào trường Võ Bị Thủ Đức. Nam được chọn đi học khóa Tâm Lý Chiến, rồi về phục vị tại sư đoàn 1. Ông quận trưởng, cha nuôi Thu nay là Đại tá Trung đoàn trưởng, cấp trên của Nam. Thấy Nam chăm chỉ, hiền lành, ông đã cố ý tạo cơ hội cho Nam và Thu gần nhau, hiểu nhau. Đám cưới hai người do tôi tổ chức vào cuối năm 1974. Hai vợ chồng ông Đại tá không có con, lại có căn nhà lớn ở Đà-Nẵng, nên đôi tân hôn sống chung với ông bà.

Cuối năm 1978, Sĩ quan trại tù Kỳ Sơn chuyển lên trại “cải tạo” Tiên Lãnh. Trước đó mấy ngày, tù chính trị và phần lớn các đội lưu động chuyển đi “trại thôn Năm”, để chỗ cho “trại viên” mới. Một chiều ảm đạm, các trại viên cũ đều bị nhốt lại trong phòng, cửa sổ đóng kín. Nghe tiếng máy nhiều xe cam nhông đổ lại trước cổng trại. Tôi lúc ấy làm y tế trại, được lệnh ra nhận thuốc Tây mà các vị Sĩ quan mang theo, để nhập vảo tủ thuốc ký gửi. Các “cán bộ” trại đang ráo riết lục soát “trại viên” mới. Từng đống áo quần treillis, giày da đi trận, xắc đeo lưng bị tịch thu. Đồng hồ, bút máy, nhẫn đeo tay, tiền giấy phải đem ký gửi. Mỗi người nhận lại hai bộ đồ vải màu xám với một ít dồ dùng cá nhân. Công an đã đánh phủ đầu bằng cách lột sạch di tích tù binh, và nhắc nhở một kỷ nguyên thường phạm khắc nghiệt bắt đầu. Tôi gặp lại Nam, nhìn nhau mà không dám nói một lời. Vài tháng sau, Nam được ra làm chăn nuôi, nhờ có bằng kỷ sư Nông lâm súc. Lúc đầu chỉ ra chăn nuôi ban ngày. Ban đêm phải trở về ngủ chung trong phòng giam. Nam vốn ít nói và hiền lành, lại cứu được nhiều gia súc trong một nạn dịch, nên được “quản giáo” chăn nuôi dần dần tín nhiệm, đưa ra ở hẳn trong trại chăn nuôi. Thường ngày Nam dẫn một đàn bò độ 30 con, đi ăn trên những đồng cỏ quanh trại. Tuy không có thăm nuôi, song Nam không thiếu thốn nhiều về ăn uống. Nhờ lang thang với bầy bò, Nam có dịp “cải thiện” bằng cách bẫy chim và thú rừng, đào sắn. Anh cũng trồng rau, bầu bí quanh khu chăn nuôi. Mỗi khi bò đẻ, Nam lấy nhau nấu ăn. Nam cũng hay cho tôi đồ “cải thiện” mỗi khi có dịp vào trại khám bệnh.

Một lần đi đỡ đẻ cho một sản phụ ở bệnh xá dân, tôi có dịp đi ngang qua gò đất mà Nam hay đem bò ra đó gặm cỏ. Đỉnh gò có một miếu hoang, tường gạch, mái ngói, song mang dấu tàn phá của thời gian. Miếu nằm trọn vẹn dưới bóng mát của một cây đa to lớn, có nhiều rễ phụ. Bên cạnh miếu có một nghĩa địa nhỏ. Nam cho biết là có quen một giáo viên chế độ cũ (VNCH), bị đày lên dạy ở trường tiểu học gần đó. Anh nầy thường gửi thư giúp Nam qua bưu điện, khỏi sự “kiểm duyệt” của trại. Nam dẫn tôi vào miếu và chỉ chỗ kín, để khi nào có dịp ghé qua, mà không có Nam, thì giấu thư vào đấy, và Nam sẽ gửi đi giúp. Tôi đã dùng lối nầy gửi thư về nhà vài lần cho đến khi Nam được phóng thích.

Nam ra trại được hai năm, thì bỗng một hôm, nghe nói có một “trại viên” cũ, treo cổ chết ở một cây đa ngoài trai. Lúc ấy, tôi không còn làm y tế nữa, không có dịp để kiểm chứng người chết là ai, song tôi vẫn ngờ ngợ người ấy là Nam. Cho đến khi tôi dược phóng thích. Tôi trở lại chỗ miếu hoang; vào chỗ kín mà trước kia tôi giấu thơ cho Nam gửi về nhà, xem thử. Nếu quả thật Nam đã trở lại đây tự tử, chắc Nam sẽ để lại cho tôi một lá thư tuyệt mệnh. Nam để lại cho tôi không những một lá thư, mà cả một tập nhật ký, viết trên những tờ giấy rời. Kể từ lúc Nam chết cho đến giờ đã năm năm rồi. Tập nhật ký bị mối mọt đục nhiều chỗ, phải dồn vào một bao nylon. Tôi trở ra, đứng dưới gốc cây đa, xem thử Nam đã treo cổ ở cành nào. Lá đa xanh nghít, xào xạc. Dưới chân đồi con sông lượn khúc, khói lam quyện vào mái tranh một căn nhà ven sông, vươn lên bầu trời xanh thẳm. Nam đã chọn chỗ để an giấc nghìn thu. Mộ Nam là một nấm đất nhỏ, cỏ mọc lưa thưa, trong nghĩa địa cạnh miếu. Một tấm bảng gỗ mang tên họ Nam cùng với ngày tháng chết cắm ở chân mộ. tôi quỳ xuống cầu nguyện cho Nam, mặc dù lúc sống, Nam là một Phật tử. Đang lúc suy tư, tôi nghe tiếng chân đạp trên lá sau lưng. Tôi quay lại, thì một trung niên bước tới giới thiệu. Hóa ra là ông giáo viên tiểu học, thường chuyển thư cho Nam ngày xưa. Ông với Nam đã thành bạn thân. Chính ông đã nhận là bà con với nam và xin với xã được chôn cất Nam trong nghĩa địa bên miếu. Ông kể là Nam đã ở lại nhà ông một đêm. Sáng ra Nam lên đồi và không trở lại nữa. Nam còn cẩn thận gửi cho ông giữ một số tiền vừa đủ để chôn cất Nam, trước khi ra đi. Ông cũng chôn theo Nam lon gô mà Nam đeo trên vai, bên ngoài có ghi: “tro của em yêu dấu”. Tôi cám ơn tấm thịnh tình của ông. Về Saigon, tôi giở nhật ký Nam ra xem:

“02-09-79. Hôm nay “quốc khánh XHCN”. Trước kia, miền Nam không có ngày lễ nầy, vì phe Quốc Gia mặc nhiên xem ngày đó là trò hề, khởi đầu cho “cách mạng vô sản quốc tế”, loại bỏ dần dần mọi tham gia của người yêu nước thuần tuý không Cộng Sản. Tất cả trại viên” đều được nghỉ lao động. Riêng chăn nuôi, thì phải dẫn bò đi ăn. Nằm dưới gốc cây đa, thấy những lá non gió đẩy đung đưa trên nền trời xanh, lại nhớ bài thơ:của Huy Cận

“Nằm im dưới gốc cây tơ,

Nhìn Xuân trải nhựa muôn tờ lá non:

Giữa trời hình lá con con,

Trời xa sắc biển lá thon mình thuyền.

Gió qua là gió triều lên,

Hây hây gió đẩy thuyền lên biển trời.

Chở hồn lên tận chơi vơi,

Muôn chèo của nhạc, muôn lời của thơ.

Bâng khuâng như thể bao giờ,

Lênh đênh nào biết bến bờ là đâu!”

“Cuộc đời có lắm buồn phiền, là bể khổ. Có những phút phiêu diêu như thế này, để quên thân phận tù đày. Vẫn nhớ Thu không nguôi. Lời bài hát “Nắng chiều” làm anh nhớ đến lúc chúng mình mới quen nhau: “Anh nhớ trước đây, dáng em gầy gầy, dịu dàng nhìn anh đôi mắt long lanh”. Mẹ đã trở về làng cũ Túy La, sống với gia đình chú Chín, giúp chú làm tằm. mỗi năm mẹ thăm nuôi hai lần, cũng đơn sơ, đạm bạc. Mẹ cũng không có tin tức gì về Thu.

07-10-79. Gửi thư về cho Thu nhiều lần với địa chỉ nhà cũ ở Đà-nẵng, nhưng không có hồi âm. Không biết bây giờ, em trôi giạt về đâu. Chúng mình lạc nhau ngay ở bờ biển Sơn Chà (Sơn Trà) khi nhóm binh sĩ và sĩ quan Biệt động quân đứng thành vòng tròn, mỗi người trên tay một quả lựu đạn đã mở chốt. Khi họ la lên là “đồng bào hãy tránh xa”, anh và em mạnh ai nấy chạy. Nghe một loạt nổ chát chúa và hơi gió tạt từ sau đến. Họ tự tử tập thể, chắc là vì quá tuyệt vọng. Khi anh trở lại hiện trường, thấy cảnh người chết banh thây, mùi máu tanh tưởi, anh vội rời xa, vì nghĩ chắc là em đã thoát. Rất tiếc, là trong lúc hốt hoảng, anh quên không nắm tay em cùng chạy. Mặc dù lúc đó Việt cộng đang ở đèo Hải Vân bắt đầu pháo kích vào Sơn Chà, anh vẫn vừa chạy vừa ẩn núp, để tìm em. Tìm mãi em không được, anh trở về nhà cha nuôi em, song nhà vắng tanh. Anh ở lại đó, chờ em về. Song vẫn biệt tăm. Nghe lịnh “ủy ban quân quản” thành phố, anh ra trình diện, và bị tập trung vào Vĩnh Điện, rồi Kỳ Sơn…” (nhật ký bị rách nát nhiều trang không đọc được).

“… Xa em đã gần bốn năm. Chúng mình sống bên nhau chưa đầy sáu tháng. Những kỷ niệm thân thương không hề phai nhạt:

Bốn năm trời xa em,

Chúng ta mất biết bao ân ái mặn nồng.

Nhớ đến lúc bên nhau hai đứa trần truồng…

Khắn khít uyên ương, thiên đường nguyên thủy…

Anh quỳ bên em ngất ngây thờ lạy,

Vẻ mỹ miều của thân thể trinh nguyên,

Anh hôn lên vầng trán bình yên,

Lên đôi má hây hây say tình e thẹn.

Lên đôi môi nở hoa dâng hiến,

Ôi ngọt ngào là miệng lưỡi của em.

Hơi thở thơm tho, anh mãi mãi thèm…”

(bài thơ lại bị mối đục thủng đoạn kế tiếp). Một mảnh giấy rời, có câu thơ còn đọc được. Bài thơ chắc dài, chỉ còn chục câu, gợi nhớ thương, lo lắng cho vợ lúc đi chăn bò.:

“Gió sớm mai mát rượi, như bàn tay yêu thương,

Biết bao giờ trở lại bên em, ôi cả một thiên đường!

Tiên Lãnh vào Thu, núi rừng đẹp lắm:

Trời lộng xanh cao, cỏ đồi dệt thảm,

Lấp lánh, lao xao, chạy theo nắng ấm,

Vẳng bên tai, chim gió, hát lưng trời.

Cảnh vật an bình, xao xuyến lòng người,

Ngồi dưới gốc cây đa, bên ngôi miếu cổ,

Nhìn đàn bò thong dong gặm cỏ,

Mà tâm hồn bay bổng, hướng về em.

Em ở nơi mô, cuộc sống có êm đềm!

Mà chẳng đến thăm anh tù đày khốn khó?

Lo cho em, chắc nhiều trắc trở,

Xin cầu Trời phù hộ cho em.

20-09-80. Được phóng thích ngày 28-08-80, nhân dịp “quốc khánh”. Trong giấy ra trại cho về nguyên quán làng Túy La. Hai mẹ con dựng một nhà tranh nhỏ, trên miếng đất ngày xưa, sớm chiều có nhau. Kỷ niệm thơ ấu, những ngày hồi cư đói khát, cha chết, không có vải làm khăn tang, trở lại trong giấc ngủ đầy ác mộng. Việc đầu tiên là tìm tông tích của Thu. Lên Giao Hòa hỏi thăm, chẳng có đầu mối gì, chỉ biết thêm là người giết cha mẹ Thu, đã vào tù vì tham nhũng, khi hắn ta làm “chủ tịch Hợp tác xã nông nghiệp quận”. Nghe nói, là hắn “có thể bị xử tử”.

09-10-80. Lo làm ăn, đầu tắt, mặt tối, mà chỉ đủ hai mẹ con, ngày hai bữa, ăn bắp, ghế cơm. Mẹ nhắc hồi nhỏ, mình nói ngọng, kêu bắp là bú, kêu gạo là gụ, và năn nỉ nấu “nửa bú, nửa gụ” cho dễ ăn. Nay hai mẹ con ăn “nửa bú, nửa gụ” thế là tốt rồi. Ra Đà-nẵng nhiều chuyến dò la tin tức Thu. Lúc nào cũng khấn thầm Trời Phật phù hộ tìm ra tông tích nàng. Mộng mị thấy nàng trong giấc ngủ thường xuyên. Tình cờ một hôm vào quán mì Quảng gần chợ Cồn, gặp lại Thúy, bạn học Thu, nay là giáo viên tiểu học. Thúy nói là rất mừng, gặp lại tôi, để thông báo là có thể Thu đã chết trong ngày chạy loạn ở Sơn Chà. Tôi bàng hoàng chết điếng. Em Thu! Em ra đi không một lời từ biệt! Thúy cho biết là cùng Thu chạy về mũi Sơn Chà, giữa rừng người hoảng hốt. Một quả đại bác rơi gần đó. Khi Thúy chổi dậy, thấy chung quang người chết nằm la liệt. Thu nằm bất động, rên khe khẻ, máu rỉ ra từ một vết thương trên trán. Thu thều thào nhờ Thúy báo tin cho Nam. Sau đó Thúy may mắn xuống một thuyền nhỏ ra tàu Mỹ đậu ngoài khơi, vào được Saigon. Lúc trở về Đà nẵng, thì chẳng biết tôi ở đâu để nhắn tin.

12-10-80. Có người mách là có thể đến bệnh viện Đà-nẵng xem danh sách những người bị thương và chết được xe cứu thương mang về đó trong những ngày cuối thắng 03-75. Tôi đến nhà xác bệnh viện. trong quyển sổ cũ, giấy đã vàng, tôi tìm được tên em. Phải lên nghĩa địa Hòa Khánh để tìm mộ. Song mộ lại dời đi Gò Cà trong đợt dời mộ năm 1976 do “lệnh chung của tỉnh”. Nghĩa địa Gò Cà mênh mông, bao trùm nhiều đồi trọc cát sỏi. Cũng may, là anh ra tù sớm. Mộ bia của em, một tấm gỗ nhỏ, đã ngã nằm ra đất, chữ viết bằng loại sơn xấu đã nhòe nhoẹt dưới nắng mưa. Anh bới mộ em lên. Không nhầm lẫn được: hàm răng dưới em có chiếc răng cời bên trái. Trán còn mang lỗ thủng mà chị Thúy có nhắc đến. Chiếc áo lụa em bận ngày chạy loạn chưa hư nát hết. Lượm từng cái xương của em, mà nước mắt tuôn ra không ngớt. Em nhìn anh bằng cặp mắt của hư vô. Bỏ xương vào một hủ sành, anh mang về Túy La.

11-11-80. Cái thằng thôn trưởng thật hắc ám. Mỗi tuần hắn bắt trình diện một lần và khai báo, mặc dù chẳng có gì lạ. Những tạp dịch trong thôn, hắn bắt mình “xung phong” làm. Ngay chuyện gỡ mìn quanh đồn bót cũ, cũng là mình. Lúc nào cũng coi mình là “thù địch”. Trồng dâu, hái dâu, làm cỏ, nuôi tằm, công việc xoay như chong chóng. Những ngày giữ bò còn “sướng” hơn bây giờ.

Đã đốt xương em, cho vào một lon gô, để ở đầu giường, để được gần gụi em. Tối tối, lại trò chuyện cùng em. Trong lòng anh chẳng ai thay thế được em. Có nhiều cô gái trong thôn tỏ tình, nhưng anh dửng dưng, nguội lạnh. Tâm hồn giống như một ông già. Những lúc cô đơn, hay làm việc một mình, tự nhiên lại thốt lên: “đời sao buồn quá” hoặc ngâm se sẽ: “buồn ơi xa vắng, mênh mông là buồn”. Bái hát của Từ Công Phụng nói về nỗi cô đơn, khi người yêu đã mất nghe thấm thía quá: “kể từ khi em đem cô đơn mọc lên phố vắng, khi em đem nụ cười khỏi đời, từng chiều rơi, ta nghe như cõi lòng tê tái. Nghe giữa đời còn gọi tên nhau”. Đoạn giữa của bài hát đúng như lúc chúng mình đứng ở bãi biển Sơn Chà, một đêm sao sáng đầy trời, em ngước mắt nhìn anh, chờ đón nụ hôn, trong khi bài tình ca du dương, từ một quán xa vọng tới: “ngày ấy cho nhau một lần, một lần tiếng hát đồng lõa, đưa anh vào vùng trời lấp lánh, bằng những ánh sao trời vào đôi mắt ngước trìu mến”. Anh muốn tìm lại ánh mắt của em ở thế giới bên kia!

06-12-80. Những bài học về tư tưởng yếm thế hay quanh quẩn trong đầu. Có một thi sĩ Tầu không nhớ tên, đã viết:

“Tích ngã vị sinh thì,

Minh minh vô khả tri.

Thiên công hốt sinh ngã.

Sinh ngã lục hà vi?

Vô y sử ngã hàn,

Vô phạn sử ngã cơ,

Hoàn nhỉ thiên sanh ngã,

Hoàn ngã vị sinh thì”.

Tạm dịch:

“Khi tôi chưa sinh ra,

Hỗn mang nào có biết.

Trời bỏ tôi ra đời,

Ôi số phận cay nghiệt,

Không áo để che thân

Không cơm đói muốn chết,

Trả lại Trời công sinh

Trả lại tôi thời chẳng biết”.

Cuộc đời bi thảm quá. Chỉ muốn trở về với hư vô, (nhật ký rách vụn nhiều trang). Mấy trang chót còn đọc được:

15-07-82. Mẹ đã ra đi một cách êm thắm. Thường ngày mẹ dậy rất sớm. Song hôm nay mặt trời đã lên cao mà mẹ vẫn chưa thấy dậy. Lại giường mẹ xem sao, thấy sắc mặt hơi tái, sờ tay thấy lạnh ngắt. Thì ra, mẹ đã ra đi trong giấc ngủ. Mẹ lúc nào cũng sống âm thầm như chiếc bóng. Lúc giã từ vĩnh viễn, mẹ cũng không muốn quấy rầy con. Thương mẹ, thương em quá chừng. Ma tang đơn giản. Chôn mẹ cạnh mộ cha sau vườn:

Bởi con nghèo, nên mẹ chết âm thầm,

Kẻ giàu có, thì linh đình ngày xuống huyệt.

Mẹ chết rồi, con không còn gì để ràng buộc với thế gian này nữa. Con muốn trở về gốc cây đa, mà con đã trải qua nhiều giờ phút suy tư về kiếp sống con người, và yên nghỉ cùng Thu. Ở một nghĩa địa cổ Hy Lạp, người ta phát giác một bia mộ ghi những lời sau đây: “hỡi những người qua đường, hãy nhẹ chân, vì đêm nay là đêm cuối cùng ta ngủ được ngon giấc”. Ông ta lúc sống chắc trải qua những khổ đau cùng cực, nên mất ngủ triền miên. Tôi thì không đến nỗi như ông, song giấc ngủ dài yên lặng của nấm mồ, tôi thầm mong ước được như thế”.

Thì ra, nhật ký không viết cho tôi. Mà chỉ là những gửi gắm riêng tư. Nam cũng không ngờ là tôi trở lại miếu hoang nầy. Chiến tranh, chết chóc, chia ly, thời thơ ấu thiếu thốn, đau buồn đã hằn lên tâm hồn Nam nhiều đau thương!

Cha chết sớm, chưa kịp dạy Nam yêu đời. Nếu Thu còn sống, chắc Nam cũng yêu đời như ai.

Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

(Trích trong: Tình Yêu Hiện Sinh Một Kiếp Người)

NỖI NIỀM SÂU KÍN CỦA GIÊSU

NỖI NIỀM SÂU KÍN CỦA GIÊSU

Các bạn trẻ thân mến,

Giêsu cũng là con người như chúng ta, cũng biết buồn, biết vui.  Có lúc Ngài cảm thấy hạnh phúc vì niềm an ủi thiêng liêng trào dâng, nhưng cũng có khi Ngài buồn phiền khi gặp phải những chống đối, ghét ghen.  Sứ mạng mà Giêsu đang gánh vác, Giêsu biết là nó sẽ dẫn Ngài đến cây thập giá thật sự trên đồi cao với những đòn roi, vu khống, sỉ nhục và đau đớn.  Dù ý thức rất rõ đó là con đường mà mình phải đi và nhiều lần chính Giêsu cũng đòi buộc các môn đệ phải đi con đường ấy, nhưng cứ nghĩ đến cái chết thảm khốc như một tên tử tội trên đồi, Giêsu vẫn cảm thấy có chút gì tiếc nuối, lo lo.  Mỗi lần như thế, Giêsu muốn tìm đến những người bạn thân của mình để chia sẻ nỗi niềm, mong sao với sự thấu hiểu và sẻ chia của họ, Giêsu có thể phần nào đó vượt qua được cảm giác lo lắng này mà hăng hái hơn gánh lấy trọng trách.  Thế nhưng, mỗi lần chia sẻ cho các môn đệ, vốn là những người bạn thân gắn bó suốt bao nhiêu năm qua, là mỗi lần Giêsu lại nhận lấy những hờ hững và vô tâm của họ.

Khi Ngài nói với họ là mình sẽ bị bắt, bị đánh đập, bị giết chết nhưng rồi sẽ sống lại, họ chẳng hiểu gì nhưng cũng chẳng dám hỏi lại, chỉ lo tranh cãi nhau xem ai là người lớn nhất trong nhóm.  Sau khi Phêrô thay mặt các tông đồ tuyên xưng căn tính Mêsia của Đức Giêsu, Ngài cũng mặc khải cho họ biết về tương lai của mình.  Phêrô vội vàng ngăn cản và không muốn chuyện ấy xảy ra.  Lần khác, ngay sau khi Ngài chia sẻ, hai anh em Giacôbê va Gioan đã bí mật gặp riêng Ngài để xin được ngồi bên hữu bên tả Ngài trong nước của Ngài.  Dường như trong mặt họ, điều quan trọng không phải là tâm tư của Giêsu nhưng là những lợi ích mà họ sẽ có được.  Con đường cứu độ mang đầy dấu vết thập giá của Giêsu, họ vẫn chưa thấu tỏ.  Bao mơ mộng về tột bậc vinh quang và chức tước đã chiếm hết chỗ trong tâm trí của họ, khiến họ không còn tâm tư để nghe những bộc bạch và những nỗi niềm rất riêng của thầy mình.

Đã rất nhiều lần, Giêsu nghẹn ngào tỏ bày mong ước và nỗi lòng sâu kín của mình nhưng chẳng ai hiểu cả.  Ngài ước được ấp ủ mọi người dưới cánh tay như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh.  Ngài mong sao ngọn lửa Ngài mang xuống cho trần gian có ngày được bừng cháy lên.  Ngài nói như một người tràn trề tâm tư khi thổ lộ là Ngài phải uống chén đắng Cha trao.  Là một con người, Giêsu cũng có lúc cô đơn, cũng có khi cần người an ủi, sẻ chia.  Ấy vậy là mà chẳng ai thấu hiểu, chẳng ai nhận ra, trái lại còn làm cho nỗi sầu riêng của Ngài thêm cay đắng.

Các bạn trẻ thân mến,

Trong mắt chúng ta, Giêsu là một con người rất mạnh mẽ vì Ngài đã một mình đương đầu với hết tất cả những khó khăn. Tuy nhiên, chúng ta quên đi một điều là Giêsu cũng là con người như chúng ta. Cũng có lúc Giêsu vui vì có nhiều người nghe mình rao giảng, vì người dân được no nê, hạnh phúc, vì các bệnh nhân được lành.  Nhưng cũng có lúc Giêsu buồn vì chẳng ai hiểu mình, vì lòng người sao cứng cỏi kém tin, vì ai ai cũng bon chen tranh giành chức tước.  Chẳng ai trong chúng ta lại không bồi hồi và sợ hãi khi biết rằng chỉ ít ngày nữa thôi, mình không còn được sống nữa.  Cũng như chúng ta, Giêsu ước ao mình được sống và vui hưởng những niềm vui, hơn là bị những đòn roi tra tấn, bị những lời sỉ vả chát chúa bủa vào tai, bị những mũi đinh nhọn đóng sâu vào xương thịt, bị treo trên thập giá, trần truồng, tủi hổ.

Mỗi khi chúng ta gặp chuyện buồn, ta thường tìm đến bạn bè, hy vọng được san sẻ chút lo lâu.  Còn khi Giêsu có nỗi lòng, ta dường như chẳng mảy may để ý đến.  Ta bận nhiều chuyện quá!  Bận tính toán cho sự nghiệp của mình, bận gặp người này người kia, bận vui chơi với đám bạn trong những trò trụy lạc, bận suy nghĩ để tìm ra những thủ đoạn trả thù.  Ta bỏ rơi Giêsu một mình với nỗi niềm riêng. Ta đến với Giêsu có chăng cũng chỉ là để xin được cái này cái nọ, xin được ngồi bên hữu bên tả, xin Ngài ban cho ta điều này điều khác, còn những mong chờ, khao khát mà Giêsu dành cho chúng ta, ta bỏ lơ như chưa hề biết.  Nỗi cô đơn mà Giêsu chịu vốn đã đủ để dày vò Ngài, nay lại còn phải nhận lấy sự vô tâm của chúng ta, khiến cho nỗi đau ấy thêm phần chua cay, nhức nhối.  Vô tâm nối tiếp vô tâm, ta theo Chúa cốt chỉ để tìm lợi cho chính ta, chứ ta chưa bao giờ cố gắng để hiểu Chúa.

Hãy một lần cố gắng hiểu được những tâm tư của Giêsu như tên trộm lành, các bạn sẽ hưởng được lời hứa của Ngài: anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với tôi.  Đừng để Giêsu một mình với nỗi cô đơn và tâm sự buồn, các bạn nhé!

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

From: langthangchieutim & Anh chi Thụ Mai

Câu chuyện Trời đánh… không chết

Câu chuyện Trời đánh… không chết

Chu Nguyễn

Thực là một phép lạ! Vào lễ Giáng sinh 1971, một cô gái tuổi teen có tên là Juliane Koepcke cùng mẹ đáp máy bay ở Lima tới khu rừng Amazon. Giữa đường sét đánh trúng máy bay. Phi cơ tan xác, hành khách và phi hành đoàn tử vong. Riêng Juliane rơi từ cao độ 10,000 feet xuống rừng sâu thoát chết. Kỳ lạ hơn nữa, sau 11 ngày lạc trong rừng mưa nhiệt đới, tới lúc kiệt sức chạm trán với tử thần lần thứ hai Juliane lại được cứu thoát!

Câu chuyện ly kỳ sau đây lược dịch từ bài Skyfall trên tờ Readers’ Digest, số tháng Một, 2014.
Juliane Koepcke trưởng thành ở Lima, Peru, trước tuổi 14, theo cha mẹ dọn tới vùng rừng mưa nhiệt đới Peru, nơi song thân của cô là Maria và Hans-Wilhelm Koepcke đã dựng một trạm nghiên cứu về sinh vật học có tên là Panguana Biological Research Station. Sau hai năm theo cha mẹ miệt mài trong rừng mưa nhiệt đới, Juliane quay trở về Lima hoàn tất bậc trung học.
Vào ngày 24 tháng 12, 1971, Juliane lúc đó 17 tuổi, cùng mẹ đáp máy bay từ Lima tới thăm cha vào dịp Giáng sinh. Sau đây là lời kể lại của cô về chuyến đi đầy bi kịch và kinh hoàng:

* * *
Những ngày tháng của tôi ở Lima thực tuyệt vời. Mặc dù đã có những kinh nghiệm sống nơi rừng rậm, nhưng tôi vẫn còn là một nữ sinh thơ ngây. Tôi nghỉ hè ở Panguana và đi học cùng bè bạn tại Lima. Mẹ tôi có ý định sớm đáp máy bay tới Pucallpa, một thành phố có phi trường sát Panguana, nhưng tôi năn nỉ bà tạm hoãn lại chuyến đi cho tôi đi cùng vì vào các ngày 22, 23 tháng 12 tôi có một buổi khiêu vũ tại trường và phải dự lễ tốt nghiệp trung học. Bà bằng lòng và quyết định chúng tôi sẽ bay vào ngày 24.
Phi trường đông đúc khi chúng tôi tới khu chờ đợi vào buổi sáng trước ngày Giáng sinh. Ngày hôm trước, nhiều chuyến bay bị hủy và giờ đây hàng trăm hành khách xếp hàng dài trước quầy bán vé. Vào lúc 11 giờ sáng chúng tôi lên máy bay. Mẹ tôi và tôi ngồi sát bên nhau ở hàng ghế gần áp chót. Trên băng ghế có ba chỗ ngồi, tôi luôn luôn chọn nơi sát cửa sổ như thường lệ, mẹ tôi ngồi sát kế bên tôi và ngoài cùng gần lối đi là một ông to con, bệ vệ. Mẹ tôi thực ra không thích đi máy bay mấy nhưng vì nghề nghiệp, một nhà nghiên cứu về điểu học (ornithologist) nên bà có thành kiến một con chim sắt bay được là điều bất thường không tốt.
Nửa giờ đầu tiên của chuyến bay từ Lima tới Pucallpa thì chẳng có gì đáng nói. Chúng tôi được ăn sáng với sandwich và thức uống. Khi các tiếp viên phi hành bắt đầu dọn dẹp, chúng tôi bay vào vùng trời bão tố sấm sét kinh hồn. Ngày chợt biến thành đêm và bầu trời chớp nhoáng lên từ khắp phía. Hành khách nghẹt thở khi máy bay chao đảo quá mạnh. Túi xách, hành lý, quần áo, mọi thứ lủng củng từ ngăn đựng ở phía trên đầu rơi tứ tung xuống dưới. Khay đựng sandwich bay trong không khí và đồ ăn thức uống thừa bắn tung vào mặt mũi hành khách. Mọi người la hoảng bốn phía.
Mẹ tôi trấn an tôi bằng những lời không mấy an tâm: “Hy vọng không sao đâu!”
Tôi chợt thấy một luồng sáng lóe lên từ phía cánh phải. Không hiểu đó là một tia chớp hay một tiếng nổ. Máy bay bắt đầu chúi mũi xuống. Từ nơi tôi ngồi ở phía sau máy bay, tôi có thể nhìn về phía buồng lái. Tai tôi, đầu tôi ù ù và toàn thân tôi tê bại vì tiếng rít của máy bay. Tôi nghe mẹ tôi gắng bằng giọng trấn tĩnh: “Không sao đâu!”

Nhưng máy bay đã mất cao độ. Mọi người la hét và bỗng nhiên tiếng động cơ tắt ngúm. Tôi mơ hồ nhận ra, mẹ tôi không còn ở bên tôi nữa và bản thân tôi cũng không còn ngồi trong máy bay nữa. Ở cao độ 10.000 ft tôi bị gắn chặt vào ghế ngồi vì dây an toàn. Chỉ riêng tôi rơi trong không gian. Bốn bề yên tĩnh tôi chẳng nhìn rõ những gì quanh tôi. Dây an toàn thắt chặt lấy bụng tôi tới mức tôi khó thở.
Tôi chỉ thoáng thấy rừng mưa nhiệt đới Peru nhấp nhô từ từ hiện ra rõ hơn trước mắt tôi với những lùm cây như những bông cải xanh khổng lồ vươn lên như muốn nuốt chửng lấy tôi. Tôi thấy mọi vật như qua lớp mây mù rồi lại ngất đi.

Khi tôi tỉnh lại, thân tôi rơi vào giữa rừng cây rậm rạp. Dây an toàn đã bung ra nên tôi tỉnh táo hơn, tôi co mình vào lưng băng ghế ẩm ướt vì bùn đất và nằm ở đó suốt ngày đêm.
Sáng hôm sau chẳng bao giờ tôi quên được những gì mắt tôi nhìn thấy: những cây cổ thụ có tàn lớn trên đầu tôi tỏa đầy ánh sáng vàng vàng phủ lên vạn vật xanh biếc. Tôi cảm thấy trơ trọi, bơ vơ. Chỗ ngồi của mẹ tôi trước đây trống rỗng.
Tôi không đứng dậy được. Tôi nghe tiếng đồng hồ tay của tôi kêu tích tắc nhưng không nhìn được giờ. Tôi phát giác mắt bên trái của tôi sưng vù và tôi chỉ nhìn được qua khe hở ở mắt phải. Kính của tôi rơi đâu mất nhưng cuối cùng tôi cũng có thể nhìn được giờ, lúc đó là 9 giờ sáng, tôi cảm thấy kiệt sức và cứ thế nằm bất động trên mặt đất.
Một lát sau tôi gắng ngồi dậy nhưng lại nằm vật ra vì kiệt sức. Một lát sau, tôi gắng ngồi lên, sờ lên xương vai bên phải, thấy đau nhưng hy vọng nó không gãy. Bắp chân trái bị xẻ ra một vết như do một vật kim loại sắc tạo ra nhưng lạ thay nó lại không chảy máu.
Tôi thụp xuống bò bốn chân tay để tìm mẹ tôi. Tôi gọi tên người nhưng chỉ có rừng sâu trả lời tôi mà thôi.

Với những ai chưa từng ở rừng mưa nhiệt đới thì xem ra khó tránh được hoảng hốt. Hàng cổ thụ soi bóng bí mật xuống nền rừng. Nước róc rách không ngừng. Rừng mưa nhiệt đới thường có mùi ẩm mốc do cây cỏ tàn úa gây ra. Côn trùng ngự trị rừng rú và tôi gặp đủ loại quấy rầy: kiến, bọ dừa, bươm bướm, châu chấu và muỗi. Một số côn trùng sẵn sàng đẻ trứng nơi vết thương trên da thịt con người và ong dại bám cứng tóc như muốn làm tổ.
Cũng may tôi sống quen hoàn cảnh này trong thời gian khá dài, đã quen tiếng rừng, với hình ảnh đặc biệt biến ảo phi thường nơi rừng rú. Chưa có gì về rừng núi mà ba mẹ tôi chưa dạy cho tôi và giờ đây tôi chỉ cần moi móc trong khối não bị chấn động của mình để đối phó với nghịch cảnh.
Tôi chợt cảm thấy khát khô cuống họng. Những giọt nước còn đọng trên lá cây giúp tôi giải khát. Tôi đã gượng lần quanh nơi tôi ngồi và ý thức được rằng trong rừng dễ lạc lối nên cố gắng đánh dấu nơi mình đang ở.

Chung quanh tôi, tôi không hề thấy dấu vết của nơi máy bay gặp nạn, không có khung kim loại, không có xác người và đồ đạc. Nhưng may mắn tôi nhặt được một bịch kẹo. Tôi nghe thấy tiếng máy bay bay trên đầu, tôi nhìn lên nhưng bóng cây quá rậm, nên chẳng có cách nào người trên máy bay nhìn thấy tôi, tôi có cảm giác bất lực bao trùm tâm trí, tôi phải ra khỏi rừng rậm thì hy vọng nhân viên cứu hộ mới có thể phát giác nạn nhân là tôi. Nhưng trong một thoáng tiếng động cơ biến mất.
Từ xa vẳng lại tiếng nước róc rách mà trước đây tôi không để ý. Tôi lần về phía đó. Không xa tôi tìm thấy một khe nước nhỏ. Phát giác này làm tôi hy vọng. Không những tôi tìm ra nguồn nước uống mà còn giúp tôi thêm tin tưởng khe nước sẽ dẫn tôi tới nơi được tiếp cứu.
Tôi gắng lần theo sát khe nước nhưng rất nhiều thân cây chắn ngang đường hay cỏ hoang mọc dày bít lối đi. Dần dần khe nhỏ mở rộng và biến thành giòng suối, nhưng có phần đã cạn nên tôi có thể đi sát giòng chảy. Vào khoảng 6 giờ chiều, trời sẩm tối, tôi tìm nơi có thể trú ẩn nơi suối khô để qua đêm và tôi ăn thêm một cây kẹo.
Vào ngày 28 tháng 12, chiếc đồng hồ mà bà nội cho đã chết máy và từ đó tôi đếm ngày và tiếp tục đi tìm sinh lộ. Giòng suối mở rộng, biến dần thành giòng chảy lớn hơn nữa và cuối cùng thành một con sông nhỏ. Vì đang là mùa mưa nên khó tìm ra trái cây để ăn và tôi chỉ còn trông cậy vào những viên kẹo cuối cùng. Tôi không có dao để tách quả hạt, cũng chẳng có cách nào bắt cá hay nấu nướng. Vả lại, tôi không dám ăn thức nào khác vì cha mẹ tôi thường dặn, phần lớn những thứ mọc hoang dại đều có thể chứa chất độc, nên tôi lánh xa những thứ trông có vẻ ngon lành nhưng tôi không biết tên chúng. Lúc đói tôi chỉ còn biết uống cho no bụng nguồn nước sông mà thôi.
Mặc dù đã đếm thời gian trôi đi nhưng tôi có thể đã lẫn lộn giữa ngày 29 và 30, không biết là ngày thứ năm hay thứ sáu tôi lạc trong rừng rậm. Tôi nghe thấy tiếng chích chích tranh ăn dữ dội của một loài chim thường kiếm ăn ở ven sông bãi lầy vùng bán nhiệt đới như Nam Mỹ và thực phẩm chính của chúng là rắn các loại (loại thực-xà-điểu hay hoatzin). Đặc biệt loại chim này thường không ở xa nơi có người cư ngụ. Tôi phấn khởi hẳn lên vì khi ở Panguana tôi thường nghe thấy âm thanh này.

Với nguồn hy vọng mới, tôi rảo bước theo âm thanh này. Cuối cùng tôi đứng trên bờ một con sông lớn nhưng chẳng thấy bóng ai cả. Tôi nghe tiếng máy bay từ xa vọng lại rồi âm thanh tan dần. Tôi nghĩ rằng họ đã bỏ cuộc tìm kiếm nạn nhân sau khi cứu mọi hành khách trừ tôi.
Cơn bất bình dâng lên trong lòng. Sao phi công không quay trở lại vào lúc cuối cùng tôi đã ra khỏi rừng rậm? Rồi cơn giận nhường chỗ cho cảm giác tuyệt vọng. Tuy nhiên tôi không bỏ cuộc vì biết rằng nếu đã có sông ngòi thì thế nào gần đó cũng có người cư ngụ.
Bờ sông cây cỏ mọc dày ngăn bước tôi đi, tôi biết loại sứa độc (stingray) thường ở ven bờ sông, nên tôi thận trọng dò từng bước. Bước như thế quá chậm nên tôi quyết định bơi và lội ra giữa giòng vì ở đó không có sứa độc. Nhưng tôi phải coi chừng loài cá có răng nhọn hoắt -piranhas- nhưng tôi biết “cá răng cọp” chỉ nguy hiểm ở nước tù mà thôi. Tôi cũng ngại sẽ gặp cá sấu loại caimans nhưng thông thường loại này không tấn công con người.
Hằng đêm khi mặt trời lặn, tôi tìm một nơi tương đối an toàn để nghỉ ngơi. Muỗi mòng bao quanh tôi, ù ù bên tai tôi và có con còn muốn chui vào tai, vào mũi tôi khiến tôi khó lòng chợp mắt. Tình trạng còn tệ hại hơn nếu trời mừa. Những giọt nước lạnh như quất vào người tôi, thấm qua bộ quần áo mùa hè mỏng manh tôi mặc và về hùa với gió lạnh như cắt làn da tím tái. Trong những giờ phút đó, tôi co ro trong bụi hay dưới lùm cây và cảm thấy chưa bao giờ trơ trọi như vậy.
Ban ngày tôi tiếp tục lội nhưng mỗi lúc một lả người. Tôi uống nước đầy bụng nhưng thèm ăn một chút gì và nghĩ tới thực phẩm. Mỗi buổi sáng, ngồi dậy càng cảm thấy khó khăn nhất là phải dầm mình xuống nước lạnh. Dù sao tôi tự nhủ, tôi phải tiếp tục tìm đường sống.
Vào một buổi sáng tôi cảm thấy đau ở phần lưng trên. Khi tôi sờ tay lên chỗ đau thì thấy đẫm máu. Thì ra mặt trời đã làm tôi lột da khi tôi lội giữa sông và sau này tôi mới biết mình đã bị phỏng cấp hai.
Thời gian trôi qua và tai ù mắt quáng tệ hại hơn trước. Thỉnh thoảng tôi nghe thấy tiếng gà gáy hay nhìn thấy một mái nhà nhưng tôi quá mệt nên không biết đó là sự thực hay ảo giác.
Cứ thế tôi trôi theo giòng nước tới ngày thứ mười. Tôi thường đụng vào gỗ trôi trên sông và gắng vượt qua không để bị gãy xương cốt.

Tới chiều tối , tôi tới một bờ sông phủ đá cuội và thấy đây là nơi nghỉ rất tốt và cứ thế tôi thiếp đi vài mươi phút. Khi tôi tỉnh lại thì có cảm giác có vật gì lạ xuất hiện gần đó. Tôi giụi mắt nhìn đi nhìn lại và rõ ràng thấy một chiếc thuyền.
Tôi bơi lại và vịn lấy thuyền. Lúc đó tôi mới thấy một lối đi đã nhẵn từ bờ sông đi lên đồi. Tôi hoàn toàn tin rằng sẽ tìm ra người ở gần đâu đó. Nhưng vì quá mệt nên hàng tiếng đồng hồ tôi mới lên được phía trên.
Khi lên tới đồi tôi nhận thấy một căn lều nhỏ nhưng vắng bóng người. Từ đó có con đường dẫn vào rừng. Tôi tin rằng chủ thuyền sẽ xuất hiện vào lúc nào đó, nhưng chờ hoài không thấy bóng ai. Trời phủ bóng đêm và tôi ngủ trong lều đêm đó.

Sáng hôm sau tôi tỉnh dậy vẫn không thấy ai cả. Trời bắt đầu mưa, tôi bò vào bên trong căn lều và lấy tấm nhựa phủ lên người cho đỡ lạnh.
Mưa ngừng vào buổi chiều, tôi không còn sức để đứng lên và tự nhủ sẽ ở lại căn lều này thêm một ngày nữa rồi sẽ tiếp tục đi.
Vào lúc hoàng hôn, tôi nghe có tiếng người, tôi nghĩ có lẽ mình tưởng tượng nhưng âm thanh gần hơn. Khi ba người từ rừng xuất hiện và thấy tôi thì họ ngừng bước mở to mắt ngạc nhiên.
Tôi dùng tiếng Tây Ban Nha bảo họ: “Tôi là đứa con gái trong tai nạn máy bay LANSA. Tên tôi là Juliane!”

* * *
Mấy người kiểm lâm tìm ra Juliane Koepcke vào ngày 3 tháng 01, 1972, sau 11 ngày cô sống sót trong khu rừng nhiệt đới, và đưa cô bé tới chỗ an toàn.
Chín mươi mốt hành khách, kể cả bà mẹ của Juliane, đã chết trong chuyến bay số 508 của hãng LANSA và Juliane là người sống sót duy nhất. Giờ đây cô gái trưởng thành và trở thành một nhà sinh vật học kiêm chủ quản thư viện ở Bavarian State Collection of Zoology. Juliane thường trở lại Panguana, nơi cô thừa hưởng phòng thí nghiệm do cha mẹ để lại, để nó tiếp tục hoạt động đón chào tất cả các khoa học gia trên thế giới.

Từ Lâm Kim Trọng gởi

Ai xin sẽ được” (Mt 7,7)

Ai xin sẽ được” (Mt 7,7)

chuacuuthe.com

VRNs (22.02.2014) – Boston – Trong Kinh Hãy Nhớ, chúng ta vẫn thường đọc: “Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời…”

Có thật không đấy ?

Khi viết những dòng chữ này, tôi biết mình đang đi vào bẫy mìn… tín ngưỡng. Rất dễ bị kết án lộng ngôn loạn trí, đặc biệt là từ một người bạn của tôi, cổ điển như một cây phong cầm cũ trong Nhà Thờ họ lẻ, thường xuyên sưu tầm phép lạ bất kể lớn hay nhỏ, dù đáng tin hay chăng ? Tuy bụng chứa một bầu phép lạ vỗ bồm bộp, nhưng hễ có chầu nhậu nào bao giờ anh cũng có mặt đúng giờ, chăm chỉ không khác chu toàn giới răn thứ tư của Hội Thánh: “Giữ ngày Chúa Nhật”. Thời đại “A-còng” này mà truyền giáo cho giới trẻ chỉ bằng toàn phép lạ thì tôi xin… “bó-tay-chấm-com”. Tôn Giáo xây dựng trên phép lạ được lớp trẻ đón nhận cũng giống loại truyện võ lâm kiếm hiệp Kim Dung. Thượng Đế duy nhất chỉ có một, nhưng hiện hữu trùng lớp vô lượng các tôn giáo khác nhau, tăng phái nào cũng bầy tỏ biết bao phép lạ nhãn tiền, Thánh Mẫu hiển linh… Biết tìm đâu chánh đạo nương náu tâm linh ?

Thành thật tâm sự, tôi chỉ muốn làm một người bình thường, không muốn ngông nghêng chơi nổi lựa đề tài nhạy cảm lấy tiếng ngu. Thực tế đời thường chứng thật cho thấy kẻ xin thì nhiều nhưng ngửa tay đón nhận quá ít. Nếu bạn kể một trường hợp ai đó cầu xin được nhận lời, tôi có thể trương ra hàng trăm người nhăn nhó khốn khó trở về tay không.

Thời Đức Quốc Xã, hàng triệu người Do Thái trần như nhộng tiến vào phòng hơi ngạt, miệng hát Thánh Vịnh: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng sợ gì… Ngài dẫn tôi qua những cánh đồng xanh… Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng tôi…” Họ cầu nguyện Thượng Đế để được cứu sống, đáp trả lời nguyện cầu rất tha thiết trước giờ tử sinh: tất cả những người đó đã đi vào cõi chết không bao giờ trở lại.

Ngày những công dân Việt yêu nước đấu tranh cho tự do dân chủ bị kết án ngồi tù, biết bao ngọn nến được thắp lên, nào ai đếm hết những giọt nước mắt tuôn tràn trong lời kinh tiếng hát vang thức tỉnh hồn thiêng sông núi, hiện nay họ đang ở đâu ? Đã về chưa ? Tôi không bao giờ quên được họ. Lưỡi lê – nòng súng mạnh hơn những lời cầu nguyện: quê hương tôi vẫn còn đang quằn quại dưới ách ngoại xâm kềm kẹp rất êm dịu từ từ nuốt trửng của người anh em 16 chữ vàng.

Bảo hiểm an toàn, giàu có no ấm của ma đạo xem ra hiển linh và hiệu quả hơn… chính đạo !?! Chú tôi đi học tập cải tạo, bị khám thấy có tràng hạt dấu trong chỗ nằm, quản giáo tống chú vào biệt giam cắt khẩu phần. Sau một tuần, chú còn bị đem ra đấu tố, bắt diễn lại hoạt cảnh Ngôn Sứ Êlia và các giáo sĩ thần Baal trên núi Carmelô để làm gương. Chú tôi và một vài trại viên “học tập tốt” dàn thành hai hàng đối mặt nhau trước toàn trại. Phía bên kia kêu cầu danh Bác và Đảng: thức ăn ngon liền được mang đến. Chú tôi cổ đeo tràng hạt, cũng kêu cầu nhưng không thần thánh nào đáp lại, nằm bẹp xó nhà bụng o o đầy bọt khí réo gọi trong cơn đói khốn cùng.

Trong xã hội Cộng Sản vô thần, rõ ràng có Đức Tin là một thiệt thòi rất lớn. Tôi có hai người bạn có đạo cùng thi vào Đại Học, một khai trong lý lịch: vô thần, một khai: Công Giáo. Chị “vô thần” trúng tuyển, trước đây thuộc một Dòng nữ, sau 1975 bố mẹ mang bàn thờ Đức Mẹ ra đầu ngõ đập biểu diễn, được cất nhắc vào Đoàn, Đảng, gia đình phú quý hiển vang, hiện tại là Hiệu Trưởng trường cấp II Phổ Thông Cơ Sở, anh ruột là Chủ Tịch một quận lớn thuộc Sàigòn, bố làm Chủ Tịch phường nay đã hạ cánh an toàn. Anh bạn Công Giáo của tôi dù học giỏi vẫn rớt, cuộc đời từ đó đi xuống không có điểm dừng, vợ con ly tán. Thượng Đế vẫn… im lặng không can thiệp !

Vài bậc đạo đức cắt nghĩa: “Xin không được là vì xin không thích hợp, không đúng lúc, không tha thiết đủ độ, Chúa có lý do để không nhận lời, phải khiêm tốn khi xin, cần bền đỗ như bà góa trong Kinh Thánh… cứ đứng gõ và gõ mãi cho đến khi chủ nhà bực tức phải cho để bà đi khuất mắt… đôi khi phải mất nhiều năm, nhiều thế hệ thay nhau, nối tiếp nhau gõ cửa…”

Hóa ra không chỉ đơn thuần “cứ xin thì sẽ được” mà còn phải có điều kiện.

Tôi chẳng hiểu thế nào là đúng, là sai, là tha thiết, bền đỗ cho đủ… Đói xin cơm ăn, nguy hiểm mạng sống xin được cứu thoát… Xu thế nhu cầu, phản xạ tự nhiên con người đòi hỏi như thế, sao lại bảo là xin không đúng loại, không đúng mức ? Thời còn chiến tranh, nhiều anh lính cầu nguyện trước khi lao vùng lửa đạn… Khi vượt biên, nhiều phụ nữ Việt bị đám hải tặc Thái hãm hiếp, cổ họ đeo tràng hạt, miệng run rẩy cầu kinh: họ vẫn bị làm nhục ! Có lời cầu nào tha thiết bằng tiếng kêu họ lúc này ? Mệt quá Chúa ơi ! Con đang đói, con đang bị hại… biết khi nào thì đúng lúc, lý do gì để được Chúa nhận lời ?

Bạn thân mến,

Có một ai đó nói rằng: “Bất cứ một lực nào ép xuống, tung vào một đối tuợng, một điểm, lập tức sẽ tạo ra một lực phản chiều tương tự”. Tôi thích hình ảnh dễ hiễu hơn: nếu ta ném trái banh tennis vào tuờng, nó sẽ dội lại. Ném quá mạnh có khi nó đập vào mặt người ném, tránh không kịp. Đã một thời tôi có những trăn trở duy lý như vừa viết ở trên, chính những suy nghĩ ấy dội ngược lại, đã tạo cho đời tôi những gập ghềnh bất an. Tôi đã ngã xuống, dại khờ lạc lối, đã mất Đức Tin…

Cho đến ngày một biến cố xảy đến trong đời tôi:

Tháng 10 năm 2003, cả gia đình tôi đi hành hương Lộ Đức ( Lourdes ) với mục đích để cầu nguyện cho đứa con trai bị bệnh. Lộ Đức là một vùng quê nghèo, bé nhỏ thuộc tỉnh Hautes-Pyrénées miền Tây-Nam nước Pháp, sát ranh giới phía Bắc Tây Ban Nha. Tôi đáp xe tốc hành TGV ( Train à Grande Vitesse ) từ Paris đến Lộ Đức. Chiếc xe lửa dài dẫn tôi rời bỏ thủ đô ồn ào náo nhiệt, len lỏi từ những hẻm núi, thung lũng thăm thẳm đến những đồng bằng miền quê thanh bình. Suốt đoạn đường dài hơn 800 cây số, thời gian 6 giờ, tôi luôn ghé mắt nhìn qua khung cửa sổ để thấy những cánh đồng nho trải dài không bờ bến, nông dân hiền lành, đàn bò gặm cỏ thung lũng đồng xanh…

Tâm hồn tôi hân hoan vì biết mình đang tìm về chốn xưa Mẹ đã hiện ra 18 lần với Bernadette, cô bé 14 tuổi chăn chiên, chưa bao giờ đến trường, gia đình nghèo gồm 6 người tạm trú ở một nơi trước kia làm nhà tù. Lộ Đức thanh bình thánh thiện, tôi hạnh phúc cầu nguyện mỗi đêm cho đến khi không còn bóng người đến cầu nguyện, tâm tư mê mẩn phiêu linh ngắm nhìn Mẹ từ hang đá Massabiell môi lay động dịu dàng xác định Tín Điều Vatican II: “QUE SOY ERA IMMACULADA COUNCEPTIOU” ( “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội” ). Tôi tin Đức Mẹ đã hiện ra ở chốn này khi hàng đêm đi theo đoàn rước kiệu kính Mẹ với hàng ngàn chiếc xe lăn không biết từ đâu kéo đến. Phải về tận đây mới cảm nhận hết tấm lòng con người đối với Mẹ. Phải về đây mới hiểu tình yêu của mẹ đối với nhân loại.

Khi trở lại Paris rồi đến Brussels ( Bỉ ), đứa con tôi vẫn không thuyên giảm, nhưng vào lúc chiều tối trước khi trở lại Hoa Kỳ sáng hôm sau, đứa bé đột ngột biến chứng chưa từng có: mắt trợn ngược, co giật liên hồi, sau đó tim ngừng đập. Lần đầu tiên trực tiếp đối diện với thần chết tôi thấy mình quá nhỏ bé và bất lực, tất cả chỉ là không: danh vọng, tài sản, bằng cấp… Một con số không rất to tôi chưa bao giờ chạm mặt. Ngồi trong xe cứu thương với đứa con chắc mẩm đã chết tôi xin nguyện đổi tất cả mọi thứ đang có để con tôi được sống. Sau ba ngày sống trong lo lắng, cuối cùng khi bác sĩ loan báo cháu đã được cứu sống cũng là lúc tôi trở thành một con người mới, Đức Tin của tôi phục hồi toàn diện.

Trở lại Boston, trước ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, người Mẹ tha thiết mến yêu, tôi dâng lời nguyện duy nhất: “Mong ước sau cuộc sống này sẽ gặp lại Chúa Giêsu và Mẹ Maria, sẵn lòng chịu bất cứ điều gì”.

Bạn biết không: lời cầu nguyện của tôi đã được nhận lời.

Làm sao biết được ? Trong đời tôi luôn xảy ra những việc trái ngược điều mình mong ước. Mong nắng nhận mưa, mong về đúng giờ lại gặp kẹt xe… triền miên thất nghiệp, các hãng tôi đã làm đều thay phiên nhau đóng cửa dù lịch sử đã có hàng trăm năm trước. Đang làm văn phòng ký quyết định các bản vẽ, đến bây giờ job assembler cũng không vững, lúc nào cũng chỉ tạm thời.

Hãng hiện nay tôi đang làm khi ký nhận mướn, người phỏng vấn bảo: “Anh bảo ba hãng trước nơi anh làm đều đã đóng cửa, nay tôi mướn anh xem hãng này có như vậy hay không…”

Quả nhiên, hãng này cũng đang chuẩn bị bán lại cho người khác. Họ may mắn có được người như tôi, nhiều kinh nghiệm lau chùi dọn dẹp trước khi… sang tay cho chủ mới.

Anh tôi từ ngày đến Mỹ không đi học, cười bảo: “Chú đi học bằng cấp nhiều mà bây giờ lương còn kém tôi !” Tôi không buồn vì cuộc đời tôi đã có định hướng Đức Tin.

Một lần ông chủ hãng gọi tôi đến bảo hôm nay sẽ là ngày cuối cùng của tôi ở trong hãng. Tôi cảm tạ ơn Chúa. Người con trai của ông chủ đứng gần đó thấy lạ hỏi: “Tại sao lại cảm ơn Chúa ?” – “Tôi cũng không biết nữa, có thể là nếu ở lại thêm sẽ có tai nạn xảy đến cho tôi chăng ?!?”

Lời cầu nguyện bây giờ của tôi chỉ còn là tạ ơn Chúa và Mẹ Maria trong tất cả các biến cố xẩy đến. Dù bệnh tật hay thất nghiệp hay điều gì chăng nữa tôi đều tạ ơn vì xác quyết rằng đó là những gì tốt đẹp nhất các Ngài lựa chọn phù hợp với khả năng chịu đựng của tôi.

Em gái tôi rất tin ở Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp và thường hay xin được ơn như ý nhắc tôi đến xin việc với Đức Mẹ. Tôi chỉ cười thầm vì nghĩ rằng: mình vẫn hay hát Thánh Vịnh: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng còn thiếu thốn gì…” nay lại xin điều này thứ nọ hóa ra chỉ hát chơi cho vui sao ? Nếu người ta biết cách dùng trí khôn để khéo léo trong lời xin, thì những trẻ câm không thể nói, thiểu năng, mất trí… biết đường nào mà xin nhỉ ? Tôi nghĩ với những người khuyết tật dù không biết xin điều gì, Thiên Chúa và Đức Mẹ sẽ thu xếp ban cho mọi thứ cần thiết mà cả trí khôn loài người cộng lại cũng không xin được.

Tôi có cảm nghiệm điều Chúa và Đức Mẹ đáp trả lời cầu xin rất khác với những gì ta mong được đón nhận. Con người giống như một đứa trẻ chỉ biết hài lòng với viên kẹo tầm thường mà vứt đi hạt kim cương rất quý báu. Đối với thế gian, hàng triệu người Do Thái hát Thánh Vịnh đi vào cõi chết nhưng có biết đâu với sự Phục Sinh của Đức Giêsu, sự chết chính là cánh cửa tuyệt hảo để bước vào cõi trường sinh.

Nếu như bạn đau khổ vẫn chưa hài lòng với câu hỏi: “Tại sao tôi xin mà không được ?”, tôi không biết trả lời ra sao ngoài việc mời bạn nhìn lên Thánh Giá và hỏi: Tại sao một Thượng Đế quyền năng tốt lành như thế mà lại phải chết trong đau khổ ? Tại sao chính Đấng đã phán “Hãy xin thì sẽ được” đã phải thốt lên trong tuyệt vọng: “Cha ơi ! Sau nỡ bỏ con ?”

Bạn mến, nếu muốn giọt nước mắt bạn không bị khô đi, hãy đặt nó vào biển cả. Nếu muốn bớt đi sự đau khổ, hãy nhìn lên Thánh Giá và tạ ơn: “Sao Ngài lại chịu đau khổ thay cho con ?”

NGƯỜI TÔI TỚ VÔ DỤNG, Boston

 

Những Già Đô Mới

Những Già Đô Mới

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Nói tóm lại, và nói một cách ví von: Già Đô là một Nguyễn Mạnh Tường của giới công nhân nhưng trung vận (cũng như hậu vận) đen đủi hơn nhiều. Tuy không chết rục trong tù nhưng Già Đô cũng sống không nổi trong lòng cách mạng.

“Văn mình vợ người” là chuyện đúng với tất cả mọi người, trừ Vũ Thư Hiên. Mỗi lần có dịp gặp ông, tôi đều nghe tác giả này hăng hái bàn về tác phẩm và nhân vật của … một nhà văn khác:

– Dứt khoát là phải làm một cuốn phim về cuộc đời của Già Đô thôi.

– Dạ vâng!

Tôi cứ “vâng, dạ” đều đều (và nhẹ hều) như vậy vì đã nghe ông lập đi lập lại câu nói trên dễ cũng đã hơn chục lần rồi. Già Đô là một nhân vật trong Chuyện Kể Năm Hai Ngàn của Bùi Ngọc Tấn:

Già là một lính thợ Pháp quốc trong đại chiến thế giới thứ hai. Từ Pháp già đã tới Algérie, Maroc (cái lý lịch ấy thật tai vạ cho già). Già đã là thợ đốt lò dưới con tàu Commerce Maritimes thuộc hãng Đầu Ngựa. Hải Phòng – Marseille là hành trình những năm tuổi trẻ của già. Làm được hai năm già thôi việc. Chỉ vì già không chịu được những lời mắng nhiếc của chủ …

Già bỏ tàu lên thành phố Marseille. Vào quán rượu quen. Uống. Uống nhiều. Và không trở về tàu nữa. Lang thang ở Marseille cho đến đồng frăng cuối cùng, già tìm được việc làm trong một xưởng sửa chữa xe có động cơ. Từ xe gắn máy, các loại ô-tô tới xe nâng, cần cẩu. Tại đây già bị động viên vào một đơn vị cơ giới. Già sang Maroc, Algérie, vẫn làm nhiệm vụ sửa xe.

Đại chiến thế giới thứ hai kết thúc. Già trở về Marseille. Trở về xưởng cũ. Lấy vợ. Cô Jeannette bán hoa quả ở gần bến cảng lớn bổng lên khiến già ngỡ ngàng, xao xuyến. Hai vợ chồng vay vốn mở một tiệm rượu nhỏ. Khách là những người phu pooc-tê, những thuỷ thủ, những người thợ nhan nhản ở thành phố Marseille.

Rồi già biết quê nhà đã được độc lập. Niềm sung sướng lớn lao và nỗi nhớ quê hương, nỗi sầu biệt xứ bỗng cồn cào trong lòng không chịu nổi. Càng không chịu nổi khi biết tin hiệp nghị Genève đã ký kết. Một nửa đất nước được độc lập. Lại thêm thôi thúc vì chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh đạo đất nước là người từng lâu năm ở Pháp, cũng từng là một mạch-lô.

Già về nước. Khi đó bà Jeannette đã sinh cho già một cô con gái xinh đẹp, có nước da trắng của bà, có mái tóc và đôi mắt đen của già Đô. Mặc bà vợ khóc can ngăn, già nhất định về nước. Rồi già sẽ sang đón bà về. Độc lập rồi, xây dựng sẽ rất nhanh. Đất nước sẽ phát triển rất nhanh. Dân tộc ta thông minh, cần cù, chiu khó lại được bao nước giúp đỡ. Đất nước đang cần những bàn tay như già…” (Bùi Ngọc Tấn. Chuyện Kể Năm 2000, tập II. CLB Tuổi Xanh, Westminster, CA: 2000).

Nói tóm lại, và nói một cách ví von: Già Đô là một Nguyễn Mạnh Tường của giới công nhân nhưng trung vận (cũng như hậu vận) đen đủi hơn nhiều. Tuy không chết rục trong tù nhưng Già Đô cũng sống không nổi trong lòng Cách Mạng, vẫn theo như lời của Bùi Ngọc Tấn:

Khoảng một tháng sau, già Đô trở lại nhà hắn. ở nhà hắn đi ra như thế nào, già trở lại cũng y như vậy. Một Vitali cô đơn, bị bọc, rách rưới, mang xách, nặng mùi. Có một điều khác: Tàn tạ hơn, mệt mỏi hơn, nhưng ẩn một tia hy vọng vì đã tìm ra lối thoát.

Già hỏi hắn: “Cụ có giấy bút không? “Và nhanh nhẹn đỡ lấy những thứ đó từ tay hắn. Già đeo kính.Cái kỉnh lão mắt tròn tròn cổ lỗ hồi đầu thế kỷ, một mắt lại vỡ rạn hẳn là quá nhẹ với già, nên già phải ngửa đầu ra phía sau mà nhìn vào tờ giấy. Già viết rất khó khăn. Bé Dương lại sán đến để chạm tay vào chòm râu rễ tre, cuồn cuộn của già, nhưng già khẽ khàng bảo nó:

– Đi chơi, để bác làm nhé.

Nó đi ra chỗ bố. Thì đành đứng đó nhìn chòm râu già vậy.

Bỗng già buông bút, nhìn hắn:

– Hay là cụ viết giúp tôi.

Hắn vui vẻ nhận lời. Già đọc:

– Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.

Kính gửi Sở Công an.

-À, gượm đã. Hay là kính gửi Ban giám thị trại VQ nhỉ?

– Nhưng mà nội dung đơn là gì cơ?

– Tôi xin trở lại trong ấy.

Hắn choáng người, đặt bút xuống, nhìn già chăm chăm.

– Tôi suy nghĩ kỹ rồi, cụ ạ. Ở trong ấy tốt hơn.

Già chớp chớp mắt:

– Đời tôi là không gia đình. Ở đâu cũng vậy thôi.

Hắn hiểu. Cuộc sống trong tù đối với già dễ chịu hơn rất nhiều. Nhưng phải chết ở trong ấy. Già không sợ nữa sao?

– Ở ngoài này tôi không chịu đựng nổi nữa rồi.

Hắn cảm thấy già có lý: Với già sống ở ngoài đời đáng sợ hơn chết ở trong tù nhiều lắm.

– Thế thì phải làm đơn gửi Sở Công an. Trại người ta không nhận đâu. Phải là từ Sở đưa lên. Trại đã xuất kho mình rồi, ai người ta nhập kho mình nữa.

– Ý tứ thế. Cụ viết giúp tôi.

Hắn viết. Già ngồi im lặng. Hắn bảo già:

– Cụ nghe tôi đọc lại nhé.

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.

Đơn xin vào lại trại cải tạo…

Già nghe, gật gù… “Được. Được”. “Già ký vào đây”. Già ký. Ký xong vẻ mặt già bỗng thay đổi. Từ hy vọng chuyển sang lo lắng. Không biết người ta có nhận đơn không? Già bảo hắn, giọng bi quan:

– Làm đơn thì làm, chứ chưa chắc đã ăn thua gì đâu, cụ ạ.

Đó là lần cuối cùng già lại nhà hắn. Việc nộp đơn xin vào trại của già không được chấp nhận…

Sau đó:

“Già đi bới rác. Già lê la ở các cửa hàng mậu dịch, khách sạn. Dồn dịch những bát phở, vét đĩa, nhặt những mẫu bánh mì thừa… Rồi đến một ngày già không đi được nữa. Già thấy mình đang phiêu diêu…

Già chọn cho mình chỗ nằm để phiêu diêu: Một ngôi đình đổ nát và bị bỏ quên… Ngôi đình hoàn toàn hoang phế. Không một dấu vết thờ phượng. .. Thực là một chỗ nằm yên tĩnh lý tưởng để phiêu diêu. Chẳng ai quấy rầy già. Phiêu diêu là một cảm giác sung sướng lạ lùng. Chẳng nhớ được một điều gì, chỉ thấy mình đang tan đi và đang bay…

Đó là mùa xuân năm 1975, cũng đang mùa mưa dầm, hắn đã ra tù được hai năm, đã được gặp ông Trần và quân ta ta sắp đánh Buôn Mê Thuột mở đầu công cuộc giải phóng toàn thể miền Nam, thu giang sơn về một mối.” (sđd 224-226).

Lần cuối tôi có dịp nói chuyện với nhà văn Vũ Thư Hiên, cũng vào mùa xuân –  đầu xuân năm 2013. Gần bốn mươi năm đã qua nhưng cái quyết định “dứt khoát là phải làm một cuốn phim về cuộc đời Già Đô” thì vẫn còn nằm trong … dự tính:

– Dè sẻn lắm cũng phải có ngót nghét trăm triệu đô thì mới thực hiện một cuốn phim hoành tráng. Đã không làm thì thôi mà làm thì phải đâu ra đó mới được.

– Dạ, vâng.

Tôi tán thành với ít nhiều dè dặt. Sự dè dặt mà tiếc thay tôi đã không có được trong những lúc trà dư tửu hậu (khi rượu vào lời ra) vào những năm về trước. Trước đó, tôi hào phóng và quả cảm hơn nhiều:

– Hơn trăm triệu Mỹ Kim cũng không thành vấn đề. Hễ cứ trúng số, dù  mấy trăm chăng nữa, em cũng đưa anh tất.

– Đám cưới của Già Đô với bà Jeanette, cũng như lúc gia đình chia tay tất nhiên phải quay ngay tại Marseille cơ. Dựng lại nguyên cảnh cái bến cảng này, hồi giữa thế kỷ trước, tốn kém lắm – hiểu chưa?

– Dạ hiểu.

Tôi không thuộc loại người chậm hiểu hay bội hứa chỉ có điều đáng tiếc (khiến ai cũng phải phàn nàn) là tôi chả trúng số bao giờ. Cuốn phim Già Đô, vì thế, vẫn cứ còn phải nằm chờ nhưng thời gian thì đâu có chịu đợi ai. Ở Việt Nam đã xuất hiện những Già Đô mới, cũng rất đậm nét bi hài, và có “nguy cơ” làm mờ nhạt nhân vật Già Đô của Bùi Ngọc Tấn – theo như tường thuật của biên tập viên Mặc Lâm:

Vào thời khắc gần đón giao thừa năm Giáp Ngọ, công an bao vây nhà bà Bùi Thị Minh Hằng đe dọa chủ nhà không được chứa chấp hai người tù vừa được trả tự do là hai anh em Huỳnh Anh Tú và Huỳnh Minh Trí.”

Hai hôm sau, ký giả Trương Minh Đức cho biết thêm:

Hơn 20 công an đã ập vào nhà tôi (Trương Minh Đức) tại đường N3 khu phố 04 thị trấn Mỹ Phước 1, huyện Bến Cát Tỉnh Bình Dương kiểm tra hộ khẩu vào lúc 0 giờ 55 phút, rạng sáng ngày mồng 03 tết (02/01/2014) trong lúc kiểm tra có hai anh Huỳnh Anh Tú và Huỳnh anh Trí vừa ghé qua thăm gia đình tôi vào lúc 21 giờ, vì đêm quá tối nên hai anh đã nghĩ lại qua đêm.”

Nhửng mẩu tin trên dễ khiến độc giả của Chuyện Kể Năm 2000 thốt nhớ đến tình cảnh của Già Đô, khi mới ra tù, lúc đang sống chui rúc và lén lút tại căn nhà (20 mét vuông) của người bạn cùng tù Bùi Ngọc Tấn:

Khi hắn chợp được một lúc mà hắn tưởng như đã lâu lắm rồi, có tiếng đập cửa và tiếng gọi to như ra lệnh:

– Mở cửa nhé! Kiểm tra hộ khẩu đây.

Đó là điều hắn vẫn chờ đợi. Và hắn đã chuẩn bị sẵn câu trả lời. Hắn bật điện, mở cửa…

– Ai kia?

Cái nhìn hướng vào lùm chăn ở góc nhà, góc trong cùng cạnh chỗ thằng Hiệp. Cái chăn lùng nhùng cọ quậy và một người ngồi nhỏm dậy. Già Đô râu dài, tóc xoã, dăn deo, sợ sệt, mắt nheo nheo vì chói ánh đèn.

Người ta nhìn vào hắn. Ngọc cũng đã ngồi dậy. Nàng cố chỉnh đốn y phục, vuốt tóc tai cho đỡ bù xù, bước ra:.

Dạ thưa các anh, đây là bạn nhà tôi ạ.

– Có đăng ký tạm trú không?

….

– Dạ, chưa ạ.

– Bác khách có giấy tờ gì không?

Già Đô hất hẳn chiếc chăn bông ra. Già tìm trong đống bùng nhùng chăn màn, áo, túi, lấy ra một tờ giấy. Đó là tờ lệnh tha… (sđd, trang  219-220).

Nhà nước hôm nay hung hãn hơn xưa thấy rõ. Tuy thế, chuyện săn lùng và đe doạ  người dân (xem chừng) không còn dễ dàng như trước nữa.

Bà Bùi Minh Hằng, và ông Trương Minh Đức – ngó bộ – đều không hiền lành như ông bà Bùi Ngọc Tấn ngày nào. Họ không ngại “ăn thua đủ” với lực lượng công an để bảo vệ hai người bạn tù vừa mới được tha: Huỳnh Anh Tú và Huỳnh Anh Trí.

Hai nhân vật này, rõ ràng, cũng không dễ “nuốt” như Già Đô xưa cũ. Thay vì làm đơn xin trở lại tù, ngày 13 tháng 2 năm 2014, họ đã cùng nhiều nhân vật khác (của Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị & Tôn Giáo Việt Nam)đứng tên dưới một Kháng Thư phản đối “việc Công An Đồng Tháp vi phạm pháp luật khi bắt giam người tùy tiện, vi phạm công ước chống tra tấn của Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam vừa tham gia ký kết.”

 

Bỉ nhất thời dã. Thử nhất thời dã. Hồi đó là một thời. Bây giờ là một thời (đã) khác.Cái thời mà Đảng và Nhà Nước có thể giết chết Già Đô, hay chôn sống Nguyễn Mạnh Tường bằng sổ gạo và tem phiếu – vĩnh viễn – đã qua rồi.

Thời của những Già Đô Mới hứa hẹn nhiều biến động hơn và, nếu làm thành phim, chắc chắn (sẽ) hấp dẫn hơn.