Việt Nam lún sâu vào bãi lầy do Trung Quốc tạo ra

Việt Nam lún sâu vào bãi lầy do Trung Quốc tạo ra

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-06-20

namnguyen06202014.mp3

nguyen-phu-trong-305.jpg

TBT Nguyễn Phú Trọng gặp Ủy Viên Quốc Vụ TQ Dương Khiết Trì tại Hà Nội chiều 18/6/2014.

AFP

Quan điểm khác biệt

Tình hình biển Đông càng nóng hơn sau các cuộc gặp gỡ của ông Dương Khiết Trì Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Phó Thủ tướng Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh. Báo chí trong ngoài nước cho là hai bên giữ nguyên quan điểm khác biệt trong vụ giàn khoan, hay nói cách khác đó là cuộc đối thoại giữa hai người điếc.

TS Phạm Chí Dũng, nhà bình luận độc lập từ Saigon nhận định:

“Tôi cho là đó là cuộc nói chuyện giữa hai người khiếm thính thì đúng hơn, họ nói họ nghe nhưng họ không hiểu nhau và có vẻ như họ cố tình không hiểu nhau. Nếu gọi Việt Nam là kẻ khiếm thính thì Trung Quốc còn có thể đóng trai trò một người câm nữa. Tại vì cho tới ngày hôm nay thì thêm một giàn khoan nữa đã được kéo vào biển Đông Việt Nam đó là giàn khoan Nam Hải 9 và tôi cho là hiện nay ở biển Đông Việt Nam có tới ba giàn khoan. Thứ nhất là Hải Dương 981 thứ hai là Nam Hải 9 và còn một giàn khoan sống đi bằng hai chân mang tên là Dương Khiết Trì tại Hà Nội nữa.”

Tôi cho là đó là cuộc nói chuyện giữa hai người khiếm thính thì đúng hơn, họ nói họ nghe nhưng họ không hiểu nhau và có vẻ như họ cố tình không hiểu nhau.
-TS Phạm Chí Dũng

Theo báo chí tường thuật, hai ông Phạm Bình Minh và Dương Khiết Trì gọi nhau là đồng chí và luôn cùng sử dụng nhóm từ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đảng luôn luôn đứng đầu khi hai ông nêu các quan điểm về vấn đề biển Đông. Có vẻ ý thức hệ Cộng sản vẫn chi phối quan hệ Việt Trung rất sâu đậm. Nhà giáo Đỗ Việt Khoa ở Hà Nội nhận xét:

“Trong quan hệ quốc tế bình thường giữa hai quốc gia, khi xưng hô, người ta sẽ gọi là ông, là ngài, là tôi chứ không thể có chuyện cho đến thời điểm này, cứ gọi nhau là đồng chí như thể ý thức hệ lệ thuộc hay mình là đàn em phải nịnh người ta không bằng. Nó cho thấy kiểu xưng hô khiếp nhược.”

Từng là Đảng viên Đảng Cộng sản cho tới khi xin ra khỏi Đảng hồi gần đây, TS Phạm Chí Dũng có cách nhìn riêng về sự ràng buộc ý thức hệ Việt Nam-Trung Quốc. Theo lời ông, đó là một sự bế tắc cả về mặt xưng hô lẫn từ vựng cũng như văn hóa giữa hai quốc gia. TS Phạm Chí Dũng nhận định:

000_Hkg9950036-250.jpg

Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh (phải) tiếp Ủy viên Quốc vụ viện TQ Dương Khiết Trì tại nhà khách chính phủ ở Hà Nội ngày 18 tháng 6 năm 2014. AFP PHOTO / POOL / LƯƠNG THÁI LINH.

“Nếu tính từ năm 1950 trở lại đây, có thể nói hai quốc gia Việt Nam và Trung Quốc đã từng bế tắc nhiều lần và cứ mỗi lần bế tắc như vậy thì họ lại thay đổi cách xưng hô, đặc biệt từ đồng chí hay là 4 tốt 16 chữ vàng hay là tất cả những từ tương tự như vậy, đều đại diện cho một sự bất nhất mà họ có thể dùng bất cứ lúc nào, nhưng đồng thời cũng phản ánh cho sự trả giá trong nội bộ của họ.

Tôi muốn nói đây là nội bộ giữa Hà Nội và Bắc Kinh vì đồng chí với nhau nhưng không bao giờ là tốt cả. Và khi người ta dùng từ đồng chí thì có thể hiểu người ta đang phê phán nhau, như là truyền thống ở trong các cuộc họp chi bộ. Còn khi người dùng từ anh em thì có thể hiểu là còn có một chút tinh thần môi răng. Nhưng khi ông Phạm Bình Minh dùng từ đồng chí với người Trung Quốc, thì tôi nghĩ là không báo trước một điềm lành gì cả mà điều đó chắc chắn là sẽ dẫn tới những hiểm họa khác và sẽ kéo dài hơn trong thời gian tới. Tóm lại cuộc gặp này không mang lại một kết quả gì khả quan, tốt đẹp hơn mà chỉ làm cho Bộ Chính trị Hà Nội lún sâu hơn vào bãi lầy do Trung Quốc tạo ra.”

Người dân thất vọng?

Trong lúc ông Dương Khiết Trì đang có mặt tại Hà Nội, một tiếng nói đơn độc cất lên từ Quốc hội Việt Nam đề nghị ra nghị quyết về biển Đông. Theo VnExpress và VnEconomy bản tin trên mạng ngày 19/6/2014, Đại biểu TP.HCM Luật sư Trương Trọng Nghĩa nói rằng, nếu lần này Quốc hội không có tuyên bố chính thức hay nghị quyết về biển Đông thì chắc chắn nhân dân rất thất vọng. Được biết Quốc hội Việt Nam chỉ còn 3 ngày làm việc trước khi bế mạc kỳ họp thứ 7 nhưng hoàn toàn không có mục nào dành cho biển Đông.

Đối với sự kiện vừa nêu TS Phạm Chí Dũng nhận định rằng, Quốc hội Việt Nam không có vai trò trong các quyết định quan trọng của quốc gia. Quốc hội được coi là sân sau của Bộ Chính trị và luôn luôn chờ chỉ đạo của Bộ Chính trị. Năm 2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nói Cương lĩnh Đảng cao hơn Hiến Pháp! TS Phạm Chí Dũng phát biểu:

Tôi hoàn toàn không ngạc nhiên về tỷ lệ 1/499 Đại biểu Quốc hội đưa ra vấn đề nghị quyết biển Đông vào thời điểm này.
-TS Phạm Chí Dũng

“Tôi hoàn toàn không ngạc nhiên về tỷ lệ 1/499 Đại biểu Quốc hội đưa ra vấn đề nghị quyết biển Đông vào thời điểm này. Khi mà cuối năm 2013 chỉ có hai người bỏ phiếu không đồng thuận với bản Hiến pháp được sửa đổi. Chúng ta có thấy được là một bản Hiến pháp lạc hậu phản ánh ngược chiều với quyền lợi của nhân dân lại được thông qua với tỷ lệ cao đến áp đảo như thế. Do vậy hoàn toàn không ngạc nhiên khi chỉ có mình ông Trương Trọng Nghĩa đưa ra vấn đề này.”

Khi trả lời báo chí vào sáng 19/6 bên hành lang Quốc hội, theo VnExpress LS Trương Trọng Nghĩa nói rằng, qua Nghị quyết biển Đông Quốc hội phải vạch rõ âm mưu độc chiếm biển Đông, kiểm soát biển Đông của Trung Quốc. Vấn đề không chỉ là một cái giàn khoan, không chỉ là dầu khí. Quốc hội Việt Nam cần tuyên bố với nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới lập trường chính nghĩa của Việt Nam. Lên án hành vi sai trái của Trung Quốc, âm mưu của Bắc Kinh mà LS Trương Trọng Nghĩa mô tả là: “vừa đấm vừa xoa, vừa đánh vừa đàm, vừa ăn cướp vừa la làng.”

000_Hkg9950512-600.jpg

Thủ tướng VN Nguyễn Tấn Dũng (P) tiếp Ủy viên Quốc vụ Viện Trung Quốc Dương Khiết Trì tại Hà Nội hôm 18/6/2014

Vẫn theo LS Trương Trọng Nghĩa, Quốc hội cần lên án hành vi của Trung Quốc đã đi ngược lại tất cả những gì nước này cam kết và thỏa thuận với Việt Nam cũng như các nước ASEAN. Trung Quốc đã chiếm Hoàng Sa và một phần Trường Sa của Việt Nam bằng vũ lực và kéo giàn khoan phi pháp vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam.

Trao đổi với chúng tôi,  Nhà giáo Đỗ Việt Khoa từ Hà Nội nhận định là Trung Quốc vừa ăn cướp vừa la làng, nhưng tuyên truyền có hệ thống nên ngay cả người dân Trung Quốc cũng tin rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của họ. Ngược lại ở Việt Nam những năm qua rất nhiều blogger, nhà báo bị bắt giam, truy tố hay trù dập vì dám nói lên sự thật, Trung Quốc xảo trá cướp đất, cướp biển của Việt Nam. Theo nhà giáo Đỗ Việt Khoa, trước năm 1975 miền Bắc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sai lầm khi có một số văn kiện công nhận chủ quyền Trung Quốc về Hoàng Sa Trường Sa, lúc ấy miền Bắc cho là đất nằm trong tay địch thì Trung Quốc chiếm cũng tốt. Nhà giáo Đỗ Việt Khoa tiếp lời:

“Chúng tôi thế hệ bây giờ cho rằng miền Bắc miền Nam anh em một nhà đánh nhau để cho hàng xóm nó cướp đất. Miền Bắc im lặng thậm chí cổ vũ cho thằng hàng xóm ăn cướp đó thì anh có tội với dân tộc. Nói thẳng ra những người ký văn bản đó là có tội với quốc gia dân tộc, lịch sử sẽ phán xét họ. Tuy nhiên xét về tài liệu cũng như các lý luận khác thì chúng ta có thể khẳng định rằng, từ hàng nghìn năm nay, các văn bản của các triều đại, các chính quyền, chưa bao giờ Hoàng Sa Trường Sa biển Đông lại thuộc về Trung Quốc cả. Họ luôn khẳng định đó là của Việt Nam.”

Sau hội nghị Việt Trung 18-19/6 tại Hà Nội, tất cả báo chí do Nhà nước quản lý đều chạy tít lớn dựa theo phát biểu của các nhà lãnh đạo Việt Nam: “Lập trường của Việt Nam về Hoàng Sa, Trường Sa: Không thay đổi và không thể thay đổi.” Báo chí hiện nay được phép đưa nhiều tin bài với lập luận mạnh mẽ, như phải thoát lệ thuộc Trung Quốc, phản kháng Trung Quốc xâm chiếm biển đảo. Đây là sự kiện đáng ngạc nhiên vì nhiều blogger hiện vẫn đang ngồi tù vì những bài viết trước đây với các nội dung tương tự. Phải chăng chính quyền Việt Nam cởi mở hơn với báo chí, trong khi Đảng và Chính phủ lại vẫn mong muốn cầu hòa với Trung Quốc. TS Phạm Chí Dũng nhận định:

“Tôi cho là không hẳn là vũ khí mà là công cụ hỗ trợ được nhà nước Việt Nam đang dùng đến. Thứ nhất vì tinh thần không thể chủ chiến của họ và thứ hai như người ta nói, không cẩn thận thì Việt Nam sẽ đi bằng đầu gối. Đó là chính sách ngoại giao đầu gối mà một số nước phương tây đã phải dùng để phê phán Việt Nam cho một hành động mà họ gọi là khó có thể nhu nhược hơn.”

Biển Đông sẽ đi về đâu sau cuộc hội đàm Việt Trung không mang lại kết quả. Ngay trong khi Ủy viên Quốc vụ Dương Khiết Trì còn đang có mặt ở Hà Nội thì Trung Quốc đã đẩy mạnh hơn điều gọi là phép thử giàn khoan. Trung Quốc đã tăng cường một giàn khoan mới trên vùng biển gần Việt Nam và có khả năng được đưa vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra Bắc Kinh còn loan báo cấp quyền sử dụng đất cho người Hoa tại quần đảo Hoàng Sa và tất cả các đảo bãi đá ở Trường Sa mà Trung Quốc lấn chiếm bằng vũ lực của Việt Nam. Những dự báo về vấn đề này hoàn toàn không sáng sủa cho chính quyền và người dân Việt Nam.

Một Chút Tình Riêng Về Miền Sơn Cước

Một Chút Tình Riêng Về Miền Sơn Cước

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Chẳng hiểu em nói cái gì
nhìn môi một cụm xuân thì cũng thương
em xinh như đóa hướng dương
mọc hoang theo lối về buôn bản nghèo

‘H ‘ Na Cô Gái Tây Nguyên’

Tác giả những câu thơ vừa dẫn, thi sĩ Phan Ni Tấn, là một người vô cùng may mắn. Vô số kẻ đã đến miền sơn cước nhưng có lẽ chỉ riêng mình thằng chả là có mối duyên tình với nàng sơn nữ (”xinh như một đóa hướng dương”) dù rằng hai bên  – hoàn toàn và tuyệt đối – bất đồng ngôn ngữ.

Tôi biết một nhân vật khác, cũng lặn lội lên đến cao nguyên, và đến nơi rất sớm nhưng không có cái diễm phúc tương tự. Ðó là nhạc sĩ Văn Trí, người viết bản Hoài thu – vào năm 1951.

Ðà Lạt (ở thời điểm này) theo như lời mô tả của tác giả là một nơi “núi rừng thâm xuyên,” với những “bầy nai ngơ ngác, lá vàng rơi đầy miên man,” và… chấm hết! Tuyệt nhiên, không hề thấy bóng dáng bất cứ một cô sơn nữ nào (hết trơn hết trọi) kể cả những cô mà nhan sắc chỉ ở mức trung bình – hoặc dưới trung bình chút xíu – cũng không.

Tôi ra đời sau tác phẩm Hoài thu, và dưới một ngôi sao (vô cùng) xấu. Dù sinh trưởng ở miền sơn cước, tôi chưa bao giờ có hân hạnh được trao (và nhận) những lời yêu thương đến cô gái H’ Na – như Phan Ni Tấn. Tương tư suông, nghĩa là yêu đơn phương, cũng miễn có luôn.

Tôi cũng không được cái vinh dự nhìn thấy nét man dại, trinh nguyên của một vùng đất mới như ông Văn Trí. Sự hoang dã của cao nguyên Lâm Viên, đối với những kẻ sinh sau đẻ muộn như tôi (có chăng) chỉ là dư âm – qua những câu chuyện kể, đại khái như:

“Hồi đó, ở Ðà Lạt, cọp thiếu mẹ gì. Nhiều bữa, con nít đang lơn tơn đến trường bỗng thấy mấy ông cọp bự nằm chơi phơi nắng. Vậy là đám lật đật nín thở, nhè nhẹ quay lưng, và chầm chậm… đi về.”

Khoẻ!

Sự gần gũi (giữa cọp và người) như thế – tiếc thay – không kéo dài luôn, và cũng không kéo dài lâu. Trong những tháng ngày thơ ấu, mỗi sáng đi học, tôi đều cầu nguyện và van xin (Phật, Chúa,Thánh, Thần…) để được nhìn thấy vài ông cọp bự – cũng đang ngồi chơi phơi nắng, giữa đường – như “những ngày xưa thân ái” đó.

Dù tôi hết sức chí tình, sự khẩn cầu này – than ơi – chưa bao giờ ứng nghiệm. Lòng tin của tôi vào các đấng thiêng liêng giảm sút (không ngừng) kể từ thưở ấy.

Khi tôi được “bế” lên Ðà Lạt, vào giữa thập niên 1950, thành phố này đã bị đô thị hóa.Voi, cọp, heo, beo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, chồn… không còn chung sống với người. Người Thượng (nói chung) và những cô sơn nữ (nói riêng) cũng không mấy khi xuất hiện trên đường phố. Họ ở cách xa, nơi những bản làng heo hút.

Văn hóa miền núi, tất nhiên, có nhiều nét dị biệt với miền xuôi; do đó, khi giao tiếp (đôi lúc) giữa người Thượng và người Kinh đã có những hiểu lầm – vô cùng đáng tiếc!

Thuở ấu thơ, tôi đã có lần chứng kiến cảnh một chàng thanh niên từ miền sơn cước xuống chợ miền xuôi, và bị “tiếng sét ái tình” với một cô gái bán hàng. Chàng đứng ngẩn ngơ, chân không thể bước. Trước tình huống đó, có người buột miệng nói đùa:

– Người Kinh không có “bắt chồng” như người Thượng đâu. Muốn “bắt vợ” thì tuần trăng sau phải mang hai con trâu tới đây mới được.

Chàng trai miền núi mừng rỡ gật đầu, hăm hở quay về. Không hiểu phải qua bao nhiêu đường đất, và gặp bao nhiêu khó khăn ở thôn bản của mình nhưng đúng hẹn chàng trở lại. Nhác trông thấy người xưa – dắt theo hai con trâu, như giao ước – cô gái vội vàng bỏ trốn!

Chờ hoài không thấy cố nhân, chàng thẫn thờ (mãi) rồi lặng lẽ dắt trâu đi. Một chuyện tình buồn thảm thiết như thế mà khi kể xong vẫn có người cười. Nói thiệt: sao tôi cười… không nổi! Cách đùa cợt đó, ngay từ khi còn bé, tôi đã cảm thấy có cái gì rất là không ổn. Sau này, lúc đã cắp sách đến trường, cũng đã có lần tôi suýt khóc khi đọc một câu thơ trào phúng :

Xu hào rủng rỉnh Mán ngồi xe!

Tú Xương sinh năm 1870 và mất năm 1907. Câu thơ (thượng dẫn) có thể được viết từ cuối thế kỷ XIX. Vào thời điểm này, khi mà mọi phương tiện truyền thông và giao thông đều vô cùng giới hạn nên cách nhìn lệch lạc của thi sĩ về một người đồng bào miền núi – tôi cố nghĩ – có thể thông cảm được.

Đến đầu thế kỷ XXI, theo bài viết về “Mọi” của Duy Ngọc (đọc được trên talawas, vào hôm 13/07/2009) thì tình cảm của người Việt đối với “những đồng bào thuộc sắc tộc ít người’ (hoàn toàn) không có gì thay đổi: “Thử lên Tây Nguyên sống vài tháng sẽ thấy cái nhìn kỳ thị như thế trong rất nhiều người Kinh đối với các cộng đồng người dân tộc thiểu số vẫn còn nặng nề như thế nào.”

Khỏi phải “thử lên Tây Nguyên sống vài tháng” làm chi, cho má nó khi. Cứ ngồi nhà google vài chữ – “thằng mọi, thằng mán, thằng mường” – là sẽ tìm được vô số định kiến vô cùng đáng tiếc. Tự thâm tâm, có lẽ, những người thuộc dân tộc Kinh ở Việt Nam chưa bao giờ coi đồng bào Thượng là đồng bào (thiệt).

Tòng Thị Phóng (khi còn là Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Dân vận Trung ương) cũng đãlớn tiếng kêu gọi:

Quan tâm đặc biệt đến vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến trước đây; tăng cường cơ sở khám bệnh, cán bộ y tế cho các xã, thôn ấp, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ đồng bào dân tộc thiểu số; khuyến khích trồng và sử dụng các loại thuốc dân gian; từng bước ngăn chận tình trạng suy giảm dân số, suy giảm đời sống của một số dân tộc thiểu số.”

Bà Phóng (cũng) nói cho nó đã miệng vậy thôi chớ sáu năm sau, theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới thì “các sắc dân thiểu số ở Việt Nam có tỉ lệ người nghèo cao hơn 5 lần tỉ lệ của người Kinh.”

Và người Kinh, ở miền xuôi, không ít kẻ đang sống (và chết) dở. Nói chi đến những sắc dân ở những miền núi xa xôi. Cạch đây chưa lâu báo Tiền Phong (buồn bã) loan tin: “THPT Đinh Tiên Hoàng nằm sâu trong hẻm núi xã Sơn Dung, huyện Sơn Tây, nơi phần lớn là người dân tộc K’dong sinh sống, cách thành phố Quảng Ngãi hơn 100 km, không có học sinh nào đậu tốt nghiệp trong kỳ thi vừa qua.”

Nguyên do, theo lời của thầy hiêu trưởng Nguyễn Hải Thịnh: “Đây là hệ quả tất yếu của một hệ thống đào tạo có chất lượng thấp.” Nói cách khác là “gạo nào cơm nấy,” thế thôi.

Còn ông Phạm Tấn Hoàng, chủ tịch UBND huyện, cho biết thêm: “Sơn Tây có 6/6 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn, tỉ lệ nghèo đói còn 78% trên tổng số 3.706 hộ. Do địa bàn cách trở giao thông, điều kiện kinh tế học sinh khó khăn, nơi ăn ở cho học sinh chưa có nên các em không an tâm học tập.”

An tâm gì nổi, hả Trời! Đời sống có những ưu tiên sắp sẵn: ăn – mặc, ăn – học. Cơm áo lo chưa xong, nói chi đến học – mấy cha?

Theo tường trình của Ủy ban Dân tộc thì ”người như PuPéo, Rơ-măm, Brâu chỉ  còn lại… vài trăm!” Nhà văn Nguyên Ngọc, trong bài “Phát triển bền vững ở Tây Nguyên” (đọc được ở diendan.org, ngày 20 tháng 8 năm 2008) cho biết thêm: “Người Châu ở trong thung lũng Mường Hon của núi Ngok Linh, chỉ có khoảng 80…”

Ngoài bờ biển phía Đông ra, phần biên giới còn lại của Việt Nam đều là nơi cư ngụ của những dân tộc thiểu số tự ngàn xưa. Với cuộc sống đơn giản và hài hoà với thiên nhiên, họ đã giữ cho môi trường sinh thái được quân bằng và tạo một “vòng đai xanh” cho cả nước.  Cũng chính họ là những tuyến đầu, và là vòng đai an ninh cho tố quốc. Cớ sao toàn Đảng (cũng như toàn dân) tỏ thái độ khinh thị, và cương quyết tìm mọi cách đẩy họ đến bước đường cùng như thế?

“Khi bọn bành trướng Bắc Kinh tràn sang hồi năm 1979, một bộ phận không nhỏ dân tộc thiểu số, sống ở vùng biên giới, đã đồng loạt ngả theo, làm tay sai cho ngoại bang. Ðó chính là hậu quả của chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” (Lý Hồng Xuân. Nhận diện chân dung nhà văn. Văn Nghệ: California 2000,177).

“Bọn bành trướng Bắc Kinh” (xem chừng) đang sắp sửa muốn tràn sang lần nữa, và “những chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” thì mỗi lúc lại càng tệ hại hơn!

Tưởng Năng Tiến

 

Học sử mà gặp phải thứ sách khốn nạn như thế thì giữ nước thế chó nào được

Học sử mà gặp phải thứ sách khốn nạn như thế thì giữ nước thế chó nào được

của  Bùi Bảo Trúc

Bạn ta,

Tại Việt Nam, một cuốn sách nhan đề Vở Luyện Từ và Câu lớp 3, tập 2 vừa bị thu hồi và tạm ngưng phát hành để chỉnh sửa những sai sót trong sách.

Ở trang 5 của cuốn sách vừa kể có một bài viết tay với tuồng chữ rất chân phương và rất đẹp. Nhưng nội dung của đoạn viết tay đó đã để lại những sai sót tầy đình. Đây là nguyên văn đoạn viết tay ấy :

“Quân Nam Hán đưa một đạo quân rất đông sang đánh nước ta. Lý Thường Kiệt dùng kế chôn cọc gỗ đầu bịt sắt nhọn dưới sông Bạch Đằng . Quân Nam Hán đến cửa sông vào lúc thủy triều lên che lấp các cọc nhọn. Lý Thường Kiệt cho thuyền nhẹ bơi ra khiêu chiến , vừa đánh vừa rút lui nhử cho giặc vào nơi quân ta mai phục. Vừa lúc ấy thủy triều xuống quân mai phục hai bên bờ sông đổ ra đánh rất mạnh. Giặc hốt hoảng quay thuyền chạy thì bị va vào cọc thuyền bị thủng đâm hàng loạt . Cuộc xâm lược của dịch hoàn toàn thất bại. Mùa xuân năm 939 Lý Thường Kiệt lên ngôi vua.”

Cuốn sách này được hình thành bởi 5 người, trong đó có một chủ biên, 4 người kia không biết giữ những công việc và trách nhiệm gì.

Nhưng với 5 người như thế mà vẫn để lại những sai sót vô cùng tệ hại thì quả là bọn biên soạn cuốn sách ngu thật.

Bài viết được giao cho một người có chữ viết rất đẹp để viết làm mẫu cho các học sinh tập viết. Phải nói người viết có nét chữ rất đẹp. Nhưng cũng chính vì đó là chữ viết tay, không phải là được sắp chữ, hay đánh bằng máy điện toán nên không thể nói đó là lỗi typo. Người viết chỉ có nhiệm vụ viết, nhưng ít nhất cũng phải có một chút kiến thức về sử để nhìn ra chi tiết lộn Ngô Quyền thành Lý Thường Kiệt. Nhưng người này đã không thấy được sai sót đó. Viết xong chắc chắn bài viết phải được đọc lại để sửa chữa nếu có chi tiết, chữ nào bị viết sai, thiếu nét, đánh dấu lầm… Nhưng rõ ràng là (những) người đọc lại bản viết cũng không nhìn ra được sai sót nên Lý Thường Kiệt mới được trao cho một công việc khác là đánh quân Nam Hán, để cho Ngô Quyền ở không, ngồi chơi sơi nước.

Trong đoạn văn, quân Nam Hán được nhắc tới hai lần. Lý Thường Kiệt được nhắc tên ba lần. Lý Thường Kiệt cũng được trao cho công việc đóng cọc nhọn trên sông Bạch Đằng, để đánh đoàn chiến thuyền Nam Hán. Việc đó, ai học sử Việt cũng phải biết là việc làm của Ngô Quyền, và sau đó, năm 1288 Hưng Đạo Vương cũng dùng kế đóng cọc nhọn trên sông Bạch Đằng để đánh quân Nguyên.

Lầm Ngô Quyền thành Lý Thường Kiệt mới chỉ là một cái lỗi mà người ta nhìn thấy trong bài viết.

Nhưng thực ra, còn có những lỗi khác nữa thì lại không thấy những độc giả góp ý với tờ Dân Trí nêu ra.

Đó là ở cuối của bài viết, người ta đọc thấy nguyên văn câu này: “Năm 939, Lý Thường Kiệt lên ngôi vua.”

Thực ra thì Ngô Quyền mới là người lên ngôi vua năm 939 tức là năm Kỷ Hợi, đóng đô ở Cổ Loa, thuộc huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên. Ngô Quyền chết năm Giáp Thân (944), thọ 47 tuổi.

Lý Thường Kiệt thì không bao giờ đánh quân Nam Hán. Lý Thường Kiệt là người đánh quân Tống và Chiêm Thành (Phá Tống, Bình Chiêm). Ông đánh Chiêm Thành năm 1075 để trừng phạt việc Chiêm Thành đem quân sang quấy phá Việt Nam. Sau khi đánh Chiêm Thành xong, Lý Thường Kiệt mới quay sang đánh quân Tống.

Đến năm Quí Mùi (1103) ở Diễn Châu có Lý Giác làm phản. Lý Thường Kiệt đem quân đi đánh Lý Giác. Lý Giác chạy sang Chiêm Thành, đem vua Chiêm là Chế Ma Na đánh lấy ba châu của Việt Nam. Năm 1104, Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt đánh Chiêm Thành. Chế Ma Na thua chạy, xin trả lại đất cho Việt Nam.

Lúc ấy, Lý Thường Kiệt đã 70 tuổi. Một năm sau khi đánh Chiêm Thành (năm 1105), Lý Thường Kiệt mất, hưởng thọ 71 tuổi. Đó là dưới triều vua Lý Nhân Tông. Lý Thường Kiệt là tướng tài, không lên ngôi vua ngày nào.

Lộn Ngô Quyền thành Lý Thường Kiệt là một chuyện. Lộn quân Tống thành quân Nam Hán là chuyện thứ hai. Kế hoạch đóng cọc nhọn trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền thì trao cho Lý Thường Kiệt là sai lầm thứ ba.

Lý Thường Kiệt sinh năm 1034, chết năm 1105 thì viết khơi khơi là năm 939, tức là trước khi Lý Thường Kiệt ra đời tới 95 năm, Lý Thường Kiệt đã lên ngôi vua.

Than ôi, một đoạn viết ngắn có 13 dòng viết tay mà để lại một đống lỗi như thế thì dậy dỗ cái con chó gì.

Mẹ kiếp viết lịch sử láo toét như thế, lại bao nhiêu người không nhìn ra những sai sót đó cho nên học sinh mới quá chán học môn sử (như tờ Giáo Dục Việt Nam đã viết hồi tháng trước) là như vậy.

Học sinh học tới lớp 5, sống lù lù ngay ở Hà Nội, mà không biết thủ đô của Việt Nam là gì thì cũng là do mấy thứ ngu dốt đó dậy dỗ.

Đã dốt như thế, lại còn dở trò bóp méo, xuyên tạc lịch sử thì mới có cái thứ chó cái như con nhãi Lê Phong Lan làm loạt phim về Mậu Thân và đổ hết tội cho Hoa kỳ và Việt Nam Cộng Hòa đã giết mấy ngàn người ở Huế.

Mẹ kiếp con nhãi con xuyên tạc lịch sử để tẩy rửa cho các tội ác của Việt Cộng thì cũng hiểu được. Nhưng cướp công của Lý Thường Kiệt từ tay Ngô Quyền và cho Lý Thường Kiệt lên ngôi vua để … nói xấu tổng thống Ngô Đình Diệm (?) vì cùng họ với Ngô Quyền hay sao?

Mà rồi cả đống trong nước cũng không thấy được những sai lầm láo toét như thế nên đất nước mới là không khá được.

Giá chịu khó đọc vài trang trong Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim từ trang 68 đến trang 107 cũng thấy ngay là Ngô Quyền đánh quân Nam Hán, không phải Lý Thường Kiệt chư sao mà lại nhắm mắt nhắm mũi viết bậy như thế! Nhà nước thì mấy tháng sau mới quyết định thu hồi lệnh thu hồi cũng nói là “tạm”. Tại sao lại “tạm thu hồi” mà không đốt cha nó cái đống sách mả mẹ ấy đi cho sạch cái … mình?

Tôi chắc giờ học sử của các em không bao giờ có cảnh như thế này:

Những buổi sáng, vừng hồng le lói chiếu
Trên non sông, làng mạc, ruộng đồng quê
Chúng tôi ngồi yên lặng lắng tai nghe
Tiếng thầy giảng suốt trong giờ quốc sử
Thầy tôi bảo :”Các em nên nhó rõ,”
“Nước chúng ta là một nước vinh quang,”
“Bao anh hùng thuở trước của giang san,”
“Đã đổ máu vì lợi quyền dân tộc.”

…(Đoàn Văn Cừ)

Chứ học sử mà gặp phải thứ sách khốn nạn như thế thì giữ nước thế chó nào được.

(Những bí mật thú vị về) Báo “Nhân Dân” ?

(Những bí mật thú vị về) Báo “Nhân Dân” ?

Sao Hồng:

Với nghề báo và nhà báo đúng nghĩa, viết tự do theo tư duy
của mình và thực tế cuộc sống xã hội thì viết được rất nhanh và sản
phẩm thường hay. Nhưng sẽ rất khó được in, thậm chí có khi còn vô tù
vì một bài báo. Viết theo khuôn khổ đã định hướng thì rất khó viết
được nhanh. Nhưng bài viết rất dễ được in và thường là nhạt nhẽo. Nhân
“89 năm ngày Báo chí Cách mạng”, ngày tờ báo THANH NIÊN của Thanh Niên
Đồng minh Hội ra số đầu tiên (21/6/1925 – 21/6/2014), mình post lại
bài viết năm ngoái về tờ báo Nhân Dân.

1. Ký ức đọc “Nhân Dân”

“Nhân Dân”, (gọi tắt cho nó gọn), đó là tờ báo in mình tiếp xúc đầu
tiên trong “sự nghiệp… đọc báo” của mình.

Những năm 1960s, khi máy bay Mỹ bắt đầu leo thang đánh phá Quảng Bình
– Vĩnh Linh. Nhà mình hay có cán bộ về bám cơ sở. Họ thường có báo
mang theo. Sau hiệp định Paris lại có Tín dụng xã mượn làm “trụ sở”.
Thế là mình được đọc “Nhân Dân” thường xuyên hơn.

Thời ở lính luôn có 30 phút đọc báo mỗi ngày. Nhưng ở bệnh viện tiền
phương cái lệ này có châm chước, vì báo cũng không có thường xuyên cho
các khoa. Muốn đọc mình hay ghé phòng chính trị để mượn. Khi ra quân,
cơ quan mình vẫn còn đọc báo đầu giờ. Đọc tập trung tại mỗi phòng ban.
Cũng chỉ có “nhân dân”, “quân đội nhân dân”.

Về tên báo, tiền thân, vốn là tờ “SỰ THẬT”. Không biết vì sao lại đổi
sang “Nhân Dân’. Có lẽ vì Sự Thật không phản ánh đúng lối phương pháp
tuyên truyền của báo chăng (?). Mình chẳng nhớ từ bao giờ tờ báo in
này treo cái câu dài thòng dưới hai chữ “Nhân Dân”: “cơ quan trung
ương của Đảng Cộng Sản Việt Nam, tiếng nói của đảng, nhà nước và nhân
dân Việt Nam”. Sự ngoa ngôn đó mới nảy nòi đâu gần đây thôi. Chứ hồi
trước chỉ đơn giản là “cơ quan ngôn luận của Đảng Lao động/… trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam” (xem hình 2).

20/3/1979, dưới “Nhân Dân” chỉ một câu ngắn gọn: “CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM” (đổi sang tên “Công Sản” từ ĐH 4 (1976)
Về hình thức, “Nhân Dân” thời trước chỉ “giấy trắng mực đen”. Màu giấy
cũng hun hun không trắng lắm. Tùy trang có từ 4 đến 5 cộtbáo. Thỉnh
thoảng có ảnh hoặc tranh minh họa. Vì đen trắng nên chất lượng ảnhcũng
không như bây giờ. Kiểu chữ nhỏ nhưng khá rõ ràng. Có từ 4 đến 8
trang. Sau này đến thời kỳ “đổi mới” mới tăng dần số trang.

Nội dung thì cũng chỉ đưa tin tức “sản xuất và chiến đấu” của “hậu
phương và tiền tuyến lớn”. Toàn thành tích và chiến thắng; hoặc gương
“người tốt việc tốt”, “hai giỏi”. Luôn luôn có cột xã luận trang nhất
ở cột đầu tiên bên trái. Tranh châm biếm hay đã kích trang cuối. Tuyệt
đối không có mẫu quảng cáo nào. Về nội dung, cho đến bây giờ, Nhân Dân
cũng không thay đổi bao nhiêu so với thời đó.

Về phát hành, “Nhân Dân” được “phát không” cho các tổ chức thuộc hệ
thống “chính quyền nhân dân”. Gọi “phát không”, có nghĩa là dùng ngân
sách nhà nước. Phát hành cũng qua kênh bưu chính nhà nước, nên thường
đến tay bạn đọc rất trễ. Hết cả tính thời sự của báo chí, dù thuộc
diện “ưu tiên hỏa tốc”.

Trước đây, ngày hôm sau hoặc hai ba ngày sau, “Nhân Dân” mới đến tay
cán bộ. Bây giờ tỉnh nào, vùng nào cũng có nhà in kèm “Nhân Dân” và
phát hành trong ngày. Nhưng đến trưa hoặc đầu giờ chiều mới đến tay…
trực cổng. Vẫn rất trễ so với các nhật báo chủ động kinh doanh như
Tuổi Trẻ, Thanh Niên hay Thể Thao Hằng Ngày,… Thực ra, người đọc
“Nhân Dân” rất ít, nên cũng chẳng ai cần sớm làm gì.

Bây giờ, hầu hết các cơ quan doanh nghiệp nhà nước đều mua “Nhân Dân”.
Có cắt giảm chi tiêu thì “Nhân Dân” cũng phải có hàng ngày. Có những
nơi cả năm, chẳng ai sờ tới “Nhân Dân”, vẫn cứ phải mua. Vì “Nhân
Dân”là “ngôn luận của đảng”. Nhiều doanh nhân bỏ tiền túi ra mua “Nhân
Dân” cốt theo dõi tình hình và “định hướng” chủ trương chính sách của
nhà nước. Cũng có thể là lấy le làm đẹp long với nhà nước…

2. Dụng “Nhân Dân” như dụng mộc.

Có hai chuyện mà mình chứng kiến.

Khi ra quân về cơ quan dân sự, mình làm trợ lý giám đốc. Mỗi giao ban
đầu tuần, mình để ý một ông phó phòng dáng rất chỉnh chu hay đến sớm.
Ông rút trong cái cặp ra tờ “Nhân Dân”. Ông vuốt mái tóc ngược ra sau,
rồi vuốt phẳng phiu tờ báo và chăm chú đọc. Có khi đó là số báo của
tuần trước.Trong giờ giao ban, tờ báo để trước mặt, ông chăm chú ghi
ghi chép chép những lời sếp nói. Thỉnh thoảng ông giơ tay xin phát
biểu. Câu mở đầu muôn thuở là “tôi hoàn toàn nhất trí với ý kiến của…”
(ai đó). Sau một hồi, ổng lại đế thêm câu “theo như báo nhân dân
nói…”. Nghĩa là tất tần tật, ông đều lấy “Nhân Dân” làm chuẩn. Nói thế
thì chẳng ai dám bảo là nói sai. Thì đấy, vật chứng “Nhân Dân” nằm
trước mặt ông đó thôi. “Nhân Dân” nói nghĩa là… đảng nói. Cấm có cãi!
He he…

Sau mình mới biết, ổng chẳng phải đảng viên; cũng chẳng có bằng cấp
chuyên môn chi. Chỉ láu cá thế mà “sống lâu lên lão làng”. Vì ông là
tín đồ của… “Nhân Dân”, và lấy “Nhân Dân” làm… le với mọi người.

Về sau, mình lại chứng kiến một sếp dụng “Nhân Dân”như dụng mộc.

Sếp vốn hiếm khi đọc báo, nhưng vì làm sếp không thể không có… “Nhân
Dân” theo mình. Mỗi sáng đến sở làm, văn thư đã đặt “Nhân Dân” lẫn tạp
chí, “công văn đến” trên bàn làm việc. Đến cuối ngày, thậm chí cuối
tuần, “Nhân Dân” vẫn còn “nguyên đai”. Hôm nào có lịch làm việc với
khách tỉnh hoặc thành phố, nhất là khách từ thành ủy, sếp lại lấy
“Nhân Dân” để ngay ngắn trước mặt, phía bên trái. Nếu khách ngồi ngay
đối diện bên phải, “Nhân Dân” vô tình… đập vào tầm mắt của khách. Nếu
ngồi ở bàn nước, “nhân dân” đang ở góc bàn hoặc lăn lóc trên ghế nệm
và đang mở trang nào đó. Trang đó lại có nét bút“vòng tròn đỏ”, đánh
dấu ở cột xã luận hay tiêu đề một bài báo “giật gân” nhất.Y như cái
hình “ông Cụ ngồi ghế mây đọc báo dưới bóng cây”. Ông sếp cũng dùng
“Nhân Dân” làm trang sức để lấy le. Hehe…

3. Mô hình tổng công ty.

Hiện nay, hệ thống “tiếng nói… nhân dân” có đều khắp 63 tỉnh thành.
Ngoài báo in còn có báo mạng (online/điện tử). Đó là những báo địa
phương nhưng có xì-lâu-gân giống hệt nhau và gần giống với “Nhân Dân”
trung ương: “tiếng nói/(cơ quan ngôn luận) của đảng bộ, chính quyền và
nhân dân tỉnh X, Y”.

Nhưng cái tên “Nhân Dân” thì là độc quyền của trung ương thôi. Các
tỉnh thành thì lấy tên địa danh hành chính của mình đặt cho “Nhân Dân”
địa phương. Thế nhưng có hai nơi như muốn “ta đây vẫn có sự khác biệt”
nên có tên hơi khác các tỉnh.

Ví như ở Hà Nội, “tiếng nói của đảng bộ,… & nhân dân” lại có tên là
“Hà Nội Mới”. Vì lỡ mang tên “Hà Nội Mới” nên từ địa giới hành chính
đến chính sách của thủ đô cứ thay đổi xoành xoạch theo từng nhiệm kỳ
của… đảng bộ Hà Nội Mới. Còn thành phố Hồ Chí Minh thì “tiếng nói…
nhân dân” lại là “Sài Gòn Giải Phóng”. Nghĩa là Sài Gòn xưa cứ phải
“giải phóng” dài dài mà chẳng biết bao giờ mới được… giải phóng?!

Hằng năm, “Nhân Dân” trung ương vẫn tổ chức cho“nhân dân địa phương”
các hội nghị dạng “MICE” theo khu vực. Đó là một hình thái “giao ban”
con nhà giàu. Vừa triển khai “chủ đề” vừa vui chơi nghỉ dưỡng có… định
hướng. Để đảm bảo tính “thống nhất”, “tư tưởng chỉ đạo từ trung ương
đến địa phương”.

Mới đây mình xuôi theo Lý Thái Tổ để ra đê Nghi Tàm lên Ha Noi Club
Hotel dự hội thảo. Chạy qua Lò Sũ đến phố gì đó mình thấy cái tên
“Công ty TNHH MTV Nhà in Nhân Dân”.

Hệ thống này đích thị là một “tổng công ty” mang tên “Nhân Dân”. Không
là tên gọi “doanh nghiệp Nhân Dân” hay “tập đoàn truyền thông Nhân
Dân”, nhưng hoạt động như một tổng công ty nhà nước theo mô hình “công
ty mẹ công ty con”. Chỉ có cái khác cơ bản nhất với các tờ báo tự chủ
tài chính và mang tính kinh doanh là ngốn “ngân sách nhà nước” và (để)
đảm bảo “tính đảng” trong sản phẩm của mình.

4. Ai đọc “Nhân Dân”?

Quay trở lại chuyện ai đọc “nhân dân”. Nói gì thì nói, hiện nay ở nông
thôn vẫn còn nhiều người yêu mến “Nhân Dân”. Dĩ nhiên là phải miễn
phí. Chẳng có giáo chức hay cựu chiến binh nào tự trích đồng hưu ít ỏi
của mình ra để mua… “Nhân Dân”. Họ đều quy ra thóc cả. Người mê “Nhân
Dân” có khi chỉ vì có con em, bà con mình đã và đang làm việc tại
“Nhân Dân”. Gì chứ ở quê mà có người bà con làm việc tại “cơ quan ngôn
luận của đảng” là tự hào và hãnh diện lắm.

Làng mình có bà cô vốn là nữ sinh Đồng Khánh đi theo cách mạng rồi trở
thành… cán bộ tiền khỡi nghĩa, ở luôn Hà Nội. Con gái đầu của bà có
thâm niên làm biên tập viên “ngôn luận của đảng”. Chị học MGU về rồi
làm ở đó cho đến lúc hưu. Chức danh cao nhất ngang cấp vụ trưởng là
“Trưởng ban biên tập…”.

Bà con anh em ở quê rất tự hào về chị. Khi có bài của chị là mọi người
ở quê báo cho nhau tìm để đọc. Về sau, sự nóng lạnh của xã hội, kinh
tế, chính trị cũng kéo theo nhiều bức xúc. “Nhân Dân” vẫn được bà con
theo dõi. Những chuyện bức xúc mà chưa thấy “Nhân Dân” lên tiếng là
cậu em họ của chị bốc máy gọi điện ra chất vấn chị. Sao không thấy
“Nhân Dân” lên tiếng? Khổ quá, ngay cả Tổng biên tập cũng phải chờ
“ông chủ” bật đèn xanh mới lên tiếng, chứ chị mình thì làm được gì?

Một lần mình ra Hà Nội đến thắp hương cho bà cô. Mình hỏi ông em rể
của chị, chú T. ở quê có còn gọi điện ra chất vấn “Nhân Dân” nữa
không? “Hết rồi, “Nhân Dân” của cậu hưu rồi. “Nhân dân” mất hết niềm
tìn rồi, chất vấn làm gì nữa”. He he…

5. “Đích” đến cuối cùng của “Nhân Dân”.

Hồi còn ở cơ quan, mình được coi là “mọt sách, mọt báo” vì là người
chăm đọc, chăm đi thư viện. Thư viện cũng chẳng cập nhật gì mới, nhất
là sách, tài liệu chuyên môn. Nhưng từ lâu, mình phát hiện ra nguồn
“tài liệu mới” từ đống báo thải đang chờ… bà “ve chai” ở thư viện cơ
quan.

Hàng tuần, tạp vụ hay văn thư dọn dẹp sách báo từ phòng giám đốc rồi
tống vào thư viện. Trong đống “ve chai” đó, có những bì thư chứa tài
liệu, tạp chí chuyên môn từ nước ngoài gửi cho sếp, chưa hề bóc tem.
Nhiều tập “Nhân Dân” phủ bụi nhưng còn “nguyên đai”, y như khi bưu tá
phát mỗi ngày. Làm sếp nhà nước bây giờ ai rỗi hơi đâu mà đọc “Nhân
Dân”! Lâu dọn dẹp thư viện đống “nhân dân” lại chuyển đổi sở hữu cho
bà ve chai.

Có lần một bạn còm trong status của mìnhrằng: “ông bố em 80 tuổi, lão
thành cách mạng được thành phố cho chọn một trong ba tờ báo miễn phí:
nhân dân, quân đội nhân dân và hà nội mới”. Có lẽ, ngoài được dùng để
lấy le và làm cảnh ở các cơ quan công sở, bạn đọc “Nhân Dân” bây giờ
chỉ còn mấy cụ hưu trí và “lão thành cách mạng” thôi?

Ở phố biển “quê” mình, từ lâu “tiếng nói của đảng bộ và nhân dân… địa
phương” cũng được biếu không cho mỗi đảng viên có danh hiệu 30 tuổi
đảng trở lên. Ở khu mình ở, có một cặp đôi trên 80, con cháu ở riêng,
lại không có thùng thư báo. Mắt mờ chân chậm chẳng đọc được gì, cũng
được phát không hai tờ “nhân dân địa phương”.

Mỗi sáng họ thảy vô thùng báo của mình hai tờ. Các cụ bảo mình giữ một
tờ mà đọc còn một tờ các cụ thỉnh thoảng… trải bàn nước khi đến bữa
ăn.

Rồi các cụ quy tiên mà báo vẫn đến hàng ngày. Thế là mình hưởng hai
suất “40, 50 tuổi đảng” miễn phí đến hơn một năm mới được cho… nghỉ.

Thực ra, địa chỉ nhận cuối cùng của “nhân dân địavphương” là các bà
đồng nát, ve chai! He he…

Sang thế kỷ 21, mới có thêm cái câu dài thòng và ngoa ngôn như thế,
dưới… “Nhân Dân”.

Sao Hồng
Theo FB Sao Hồng

Lâm Kim Trọng gởi

UPR: Việt Nam chấp thuận 182, bác 45 khuyến nghị

UPR: Việt Nam chấp thuận 182, bác 45 khuyến nghị

Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc tại Genève - Wikimedia

Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc tại Genève – Wikimedia

Trọng Thành

Hôm qua, 20/06/2014, trong phiên họp toàn thể của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc tại Genève, trong khuôn khổ Cơ chế Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (viết tắt là UPR) chu kỳ 2 (2014-2018), đại diện chính phủ Việt Nam chính thức thông báo chấp thuận 182 khuyến nghị về cải thiện nhân quyền của các nước, trong tổng số 227 khuyến nghị được các nước đưa ra trong phiên điều trần UPR lần trước, ngày 05/02/2014.

Đại diện Việt Nam cam kết « nghiêm túc triển khai 182 khuyến nghị UPR ». Trong khi đó, một số tổ chức xã hội dân sự quốc tế và Việt Nam bày tỏ sự nghi ngại.

Phiên họp toàn thể của các nước tham gia Cơ chế Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát dưới sự chủ tọa của Hội đồng Nhân quyền diễn ra từ 15 giờ 45 (giờ địa phương) đến 18 giờ. Báo cáo UPR của Việt Nam được thảo luận tiếp theo ba nước khác, Etria, Cộng hòa Cyprus và Cộng hòa Dominica.

Theo báo chí chính thức trong nước, cũng như ghi nhận tại chỗ, đa số đại diện các nước tham dự phiên họp khen ngợi các cam kết và thành tích nhân quyền của Việt Nam, trong khi đó, một số tổ chức dân sự quốc tế như Human Rights Watch, và đại diện các tổ chức dân sự độc lập từ Việt Nam có mặt tại chỗ, bày tỏ sự nghi ngại về thực tâm của chính quyền trong việc thực thi các khuyến nghị. Phái đoàn dân sự độc lập của Việt Nam, lần thứ hai tham dự UPR, xếp thứ 12 trong danh sách phát biểu, nhưng vì không còn đủ thời gian nên không có cơ hội trình bày được ý kiến.

Đại diện của một số tổ chức xã hội dân sự và chính phủ ghi nhận thực tế là trong số 45 khuyến nghị bị chính quyền loại bỏ, có một số khuyến nghị liên quan đến các quyền tự do căn bản, đặc biệt là các quyền chính trị (khuyến nghị 176 của Hy Lạp, 177 của CH Séc), cũng yêu cầu xóa bỏ các điều luật trấn áp nhân quyền đã bị chính phủ Việt Nam loại bỏ (khuyến nghị 157 của Canada). Trong số các khuyến nghị bị loại bỏ còn có nhiều khuyến nghị về hoãn hoặc loại bỏ án tử hình.

Theo Thông tấn xã Việt Nam, Đại sứ Nguyễn Trung Thành, Trưởng Phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam tại Geneva, Trưởng đoàn Việt Nam khẳng định « Việt Nam sẽ nghiêm túc triển khai 182 khuyến nghị UPR cũng như các cam kết tự nguyện khác của Việt Nam, nhấn mạnh tinh thần gương mẫu, trách nhiệm của một nước thành viên Hội đồng Nhân quyền và sự coi trọng của Việt Nam đối với cơ chế UPR ».

Trưởng đoàn Việt Nam nói thêm : « Việt Nam sẽ (…) đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và phi chính phủ để triển khai thắng lợi các khuyến nghị, tăng cường rõ rệt các quyền và tự do cho người dân và đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ, thúc đẩy các quyền con người trên toàn thế giới ».

Ngày 23/06/2014 sắp tới, sẽ có phiên họp thảo luận chung về Cơ chế Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát.

 

Báo TQ: Họ Dương gọi Việt Nam ‘đứa con hoang đàng hãy trở về’

Báo TQ: Họ Dương gọi Việt Nam ‘đứa con hoang đàng hãy trở về’

Việt-Long- theo Shannon Tirzzi- The Diplomat, June 20, 2014
2014-06-20

jie-vn-pm

Thủ tướng Việt Nam thảo luận với Ủy Viên QVV Trung Quốc Dương Khiết-Trì

RFA photo

Không thấy triển vọng

Các cơ quan truyền thông ngoại quốc (kể cả The Diplomat) không thấy nhiều hy vọng về một sự khai thông cho mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong chuyến đi của Ủy viên Quốc Vụ Viện Dương Khiết-Trì sang Hà Nội trong tuần này.

Báo New York Times viết :”Không giảm căng thẳng giữa Việt Nam vá Trung Quốc”. BBC nhấn mạnh “Bế tắc trong đối thoại Trung Quốc-Việt Nam” và đề tựa của Reuters viết “Trung Quốc quở trách Việt Nam thổi phồng cuộc tranh cãi về giàn khoan ở biển Hoa Nam”

Truyền thông Trung Quốc có những phán đoán khác hẳn, nhận định lạc quan hơn nhiều.

Báo chí Trung Quốc: khai thông, thỏa thuận

Tân Hoa, ấn bản Anh ngữ, chạy đề tựa: “Trung Quốc, Việt Nam thỏa thuận giải quyết thích hợp những vấn đề song phương nhạy cảm”. Rồi thì “Bắc Kinh, Hà Nội cam kết có hành động giải quyết va chạm”, tờ Trung Quốc nhật báo nhấn mạnh.  Một đoạn video của CCTV (Truyền hình trung ương Trung Quốc) về chuyến đi của ông Dương chú trọng lời tuyên bố của ông nói rằng dù mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam có xấu hơn hiện nay rất nhiều, hai bên cũng đều phải nghĩ đến môt đường lối nhanh chóng giải quyết vấn đề.

Căn cứ vào bài vở của truyền thông Trung Quốc, có vẻ như những cuộc hội họp của Dương Khiết Trì với các nhà lãnh đạo Việt Nam là một bước tiến chính yếu để giải quyết cuộc khủng hoảng vì giàn khoan.

Điều đó không nói lên rằng Trung Quốc sẵn lòng hòa giải. Ngược lại, mỗi bài báo đều chứa đựng điều xác quyết thông thường của Trung Quốc rằng giàn khoan là việc riêng của Trung Quốc, và Việt Nam nên ngưng lại sự sách nhiễu bất hợp pháp đối với sự vận hành giàn khoan.

Không nói đến Việt Nam đối kháng

jie-vietnm-fm

Ủy viên Dương Khiết-Trì và Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh – Courtesy of asahi.com

Thay vào đó (sự hòa giải của Trung Quốc), báo chí Trung Quốc ngụ ý rằng Hà Nội đã thay đổi lập trường. Không một bài nào loan báo, như truyền thông Việt Nam và phương Tây loan tin, về việc Việt Nam tiếp tục kiên quyết đòi Trung Quốc dỡ bỏ giàn khoan. Những bài vở của Tân Hoa nhấn mạnh rằng Việt Nam và Trung Quốc đã thỏa thuận “giải quyết những vấn đề song phương một cách thích hợp”, không quốc tế hóa cuộc tranh chấp biển Hoa Nam (LND:Việt Nam gọi là biển Đông), và giữ cho tình trạng căng thẳng trên biển không gây trở ngại cho những mối quan hệ song phương rộng lớn hơn.

Tất nhiên, nếu Việt Nam thực sự thỏa thuận “giải quyết thích hợp các vấn đề song phương” theo như định nghĩa của Trung Quốc, thì cuộc khủng hoảng giàn khoan hẳn cũng chấm dứt thực sự. Thay váo đó, Hà Nội có ý kiến rất khác biệt về những gì tạo nên “cách giải quyết thích hợp”.

Theo cách diễn dịch của Việt Nam, Trung Quốc chính là phía xử sự “không thích hợp” khi xâm phạm chủ quyền lãnh hải của Việt Nam.

Đồng thanh giành lẽ phài

Bằng cách bỏ qua không đề cập tới cách diễn dịch nước đôi trong những bài phóng sự của họ, ngành truyền thông Trung Quốc tự đặt mình vào vị trí hô hoán sự phạm luật, sự “chơi xấu”, khi Việt Nam tiếp tục phản đối cái giàn khoan.

Truyền thông Trung Quốc cũng mô tả chuyến đi của họ Dương không những là một thắng lợi ngoại giao, mà còn là một thắng lợi tinh thần. Tân Hoa nhấn mạnh, rằng chuyến đi của họ Dương sang Hà Nội tự nó chứng tỏ rằng Trung Quốc chủ động tìm cách giải quyết vấn đề. Chuyến đi của họ Dương, theo Tân Hoa, là một biểu hiện cho “sự chân thành của Trung Quốc trong việc muốn giải quyết các vấn đề bằng đối thoại và (biểu hiện cho) tính đại lượng của siêu cường (Trung Hoa)”. Truyền hình trung ương Trung Quốc CCTV nói họ Dương đã đi để giúp “sớm đưa mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam vào đường lối thích hợp”

Giông điệu của những bài báo này tô vẽ họ Dương như một người thầy kiên nhẫn đến để xử sự với một học trò cứng đầu cứng cổ. Thái độ này hiển hiện rõ ràng nhất trong cơ quan truyền thông theo chủ nghĩa dân tộc mang tên Hoàn Cầu (viết bằng Hoa ngữ, đối tác của Global Times). Hoàn Cầu mô tả chuyến thăm của họ Dương như một món quà của Trung Quốc, nhằm tặng cho Việt Nam một cơ hội nữa để “tự kiềm chế trước khi quá muộn”. Trách nhiệm của họ Dương tại Hà Nội là để “minh định giới hạn cuối cùng cũng như những điều thuận và bất thuận” của tình hình.

Trịch thượng hết mức

Hoàn Cầu viết: Nói chuyện với Việt Nam, Trung Quốc “thúc giục ‘đứa con hoang đàng hãy trở về nhà’.” Dựa trên sự diễn dịch đó, có vẻ như họ Dương đến Hà Nội không phải để đối thoại thực sự, mà chỉ để giảng bài.

trong-jie

Sự diễn tả của truyền thông Trung Quốc, dù ra vẻ tích cực, thực ra đã được xếp đặt để chuẩn bị đầy đủ cho Bắc Kinh trong trường hợp những mối căng thẳng tiếp tục nung nấu. Mỗi bài đều nhấn mạnh vào sự sách nhiễu của Việt Nam đối với giàn khoan của Trung Quốc, và sự kiên nhẫn cùng tính cách cao thượng, khoan dung của Trung Quốc trong cách xử sự trước những sự khiêu khích ấy, bằng cách phái họ Dương sang Việt Nam để đàm phán.

Những bài báo đó cũng nhấn mạnh sự đồng thuận đạt được trong các hội nghị; những từ ngữ này sẽ được dùng chống lại Hà Nội nếu cuộc khủng hoảng tiếp diễn theo lối hiện nay. Bài vở phóng sự của truyền thông Trung Quốc gửi đi một thông điệp mạnh mẽ rằng nay tất cả tùy thuộc vào Việt Nam để đáp ứng một cách đúng đắn với những đề nghị của Trung quốc bằng cách chấm dứt sự quấy rối và phản kháng đối với giàn khoan của Trung Quốc.

Dựa vào đó, bài của Hoàn Cầu chấm dứt bằng một lời cảnh bào rằng cộng đồng quốc tế sẽ trông chừng xem Việt Nam có làm đúng lời hay không, sau cuộc họp với họ Dương.

Không có nghị quyết, đại biểu Quốc Hội sẽ ú ớ với cử tri

Không có nghị quyết, đại biểu Quốc Hội sẽ ú ớ với cử tri
June 20, 2014

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) Ông Trương Trọng Nghĩa, một luật sư và là đại biểu Quốc Hội của thành phố Sài Gòn, vừa đề nghị Quốc Hội CSVN ra nghị quyết phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở Biển Ðông.

Hôm 20 tháng 6, 2014, trong khi Quốc Hội Hà Nội đang thảo luận về dự luật có tên là Luật Căn Cước, ông Nghĩa đã “mượn” diễn đàn để đưa ra đề nghị vừa kể. Tuy “lạc điệu,” có thể xem là đã “cướp diễn đàn” nhưng rất nhiều người tỏ ra đồng tình với điều ông Nghĩa vừa làm.


Ông Trương Trọng Nghĩa, người yêu cầu Quốc Hội CSVN cần ra một nghị quyết lên án Trung Quốc. (Hình: Tuổi Trẻ)

Theo tường thuật của báo chí Việt Nam, ông Nghĩa xin lỗi vì đã phát biểu lạc đề nhưng theo ông, không có gì quan trọng bằng chủ quyền quốc gia, không có chủ quyền thì các bộ luật đều vô nghĩa.

Ông Nghĩa giải thích, sở dĩ ông phát biểu lạc đề, bởi thời gian họp của Quốc hội còn quá ít, nội dung của toàn bộ kỳ họp, vốn kéo dài trong cả tháng, không đề cập gì đến việc phải bày tỏ thái độ đối với các hành động của Trung Quốc hơn một tháng qua. Trong khi theo ông, cần phải vạch trần âm mưu của Trung Quốc là “vừa đấm, vừa xoa,” “vừa đánh, vừa đàm,” “vừa ăn cướp, vừa la làng.”

Cũng vì vậy, ông Nghĩa đề nghị, Quốc Hội phải nhân danh dân chúng Việt Nam, ra một nghị quyết về biển Ðông. Nghị quyết này cho phép các cơ quan của nhà nước Việt Nam, các lực lượng vũ trang của Việt Nam, thực hiện mọi biện pháp bảo vệ chủ quyền, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, trong đó có khởi kiện Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam bằng vũ lực ra các tổ chức tài phán quốc tế.

Ông Nghĩa nhấn mạnh, trong kỳ họp lần này, nếu Quốc hội không có tuyên bố hay nghị quyết chính thức nào về biển Ðông, chắc chắn “nhân dân sẽ rất hoang mang, thất vọng.” Khi tiếp xúc với cử tri, nếu cử tri chất vấn, các đại biểu Quốc hội sẽ bị “nghẹn.”

Sau khi tàu của Trung Quốc liên tục tấn công, đâm thủng, nhấn chìm cả tàu của cảnh sát biển, tàu của kiểm ngư lẫn tàu của ngư dân Việt Nam, chủ tịch Ủy Ban Ðối Ngoại của Quốc Hội Việt Nam đã từng gửi thư cho nghị viện các quốc gia trên thế giới đề nghị lên án Trung Quốc.

Tuy nhiên, ông Nghĩa nhận định, việc Quốc Hội Việt Nam “im hơi, lặng tiếng,” có thể sẽ khiến cộng đồng quốc tế nghĩ rằng, khi Trung Quốc xâm phạm và đe dọa chủ quyền của Việt Nam trắng trợn đến thế mà Quốc hội Việt Nam vẫn không có phản ứng chính thức nào thì việc gì nghị sĩ và dân chúng các quốc gia khác phải lên tiếng. Ðó cũng có thể sẽ là cớ để Trung Quốc tiến hành những hành động hiếu chiến và nguy hiểm hơn.

Ông Nghĩa đề nghị “lãnh đạo Ðảng, Quốc Hội, Nhà nước xem xét, chấp thuận” kiến nghị của ông. Ông Nghĩa đề nghị lấy ý kiến của các đại biểu về việc đưa ra một tuyên bố chính thức hay một nghị quyết về biển Ðông, “nếu đa số ủng hộ thì làm” và “mong các đại biểu Quốc Hội chia sẻ sự băn khoăn và ủng hộ kiến nghị.”

Trả lời báo giới ở hành lang nghị trường, ông Nghĩa nói thêm, cho đến nay, tại Quốc Hội CSVN, chuyện Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở biển Ðông, chỉ được đưa ra “thảo luận tại tổ và thảo luận ở hội trường riêng, không hề có dự định nào để ra một tuyên bố chính thức hoặc nghị quyết,” bất kể rất nhiều cử tri, từ những người dân bình thường cho đến cán bộ lão thành đều cho rằng, “Quốc Hội không thể không có động thái nào chính thức.”

Cũng cần nói thêm là hồi trung tuần tháng 5, tuy giàn khoan 981 của Trung Quốc đang thăm dò dầu khí trong khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam nhưng khi kết thúc hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng CSVN khóa 11, hội nghị này chỉ ra một nghị quyết về xây dựng và phát triển văn hóa, chuẩn bị cho Ðại hội Ðảng 12, không đề cập gì đến việc Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở biển Ðông.

Tại Ðối thoại Shangri-La diễn ra ở Singapore hồi thượng tuần tháng 6, trong khi đại diện của Nhật và Hoa Kỳ lên án Trung Quốc gây căng thẳng ở biển Ðông thì thay mặt Việt Nam, ông Phùng Quang Thanh, bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam gọi Trung Quốc là “bạn.” Ông Thanh so sánh xung đột chủ quyền Việt-Trung như “mâu thuẫn gia đình.”

Ông Thanh nói rằng: “Quan hệ giữa Việt Nam và ‘nước bạn láng giềng Trung Quốc’ về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển Ðông và đôi khi cũng có những va chạm gây căng thẳng.” Ông Thanh “đề nghị” Trung Quốc rút giàn khoan và cùng Việt Nam đàm phán để giữ được hòa bình ổn định và quan hệ hữu nghị hai nước. (G.Ð)

 

Trung Quốc đưa thêm 4 giàn khoan tới Biển Đông

Trung Quốc đưa thêm 4 giàn khoan tới Biển Đông
June 20, 2014

Nguoi-viet.com

BẮC KINH 20-6 (NV) – Trung Quốc đưa thêm 4 giàn khoan nữa tới tìm dầu khí ở Biển Đông. Một dấu hiệu chứng tỏ Bắc Kinh gia tăng hoạt động này ở vùng đang có nhiều tranh chấp căng thẳng với Việt Nam.

Giàn khoan Hải Dương 981 được Trung Quốc đưa xuống vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam để dò tìm dầu khí. (Hình: Internet)

Lời loan báo được đưa ra khi vụ giàn khoan Hải Dương 981 vẫn còn đang gặp sự chống đối của Việt Nam ở phía nam quần đảo Hoàng Sa. Cuộc họp tại Hà Nội của ông Dương Khiết Trì, thành viên Quốc Vụ Viện Trung Quốc, hồi tuần qua không đưa tới thỏa hiệp nào. Hiển nhiên các nước ở khu vực, đặc biệt là Việt Nam, chú ý theo dõi các động thái của Bắc Kinh.

Tin tức phổ biến trên trang mạng của Cục Hải Sự Trung Quốc cho hay giàn khoan Hải Dương 2 và Hải Dương 5 được kéo tới khu vực giữa tỉnh Quảng Đông và quần đảo Pratas mà Trung Quốc gọi là Đông Sa quần đảo (Dongsha Qundao) hiện đang do Đài Loan tuyên bố chủ quyền. Giàn khoan Hải Dương 4 được kéo tới khu vực gần bờ biển Trung Quốc.

Hai ngày trước, cơ quan nói trên loan báo giàn khoan Hải Dương 9 được kéo tới khu vực rất gần vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, phía ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, khu vực chưa hoàn tất các đàm phán phân chia giữa hai nước. Tuy nhiên, giàn khoan lần này lại còn gần bờ biển Việt Nam hơn so với HD981, gây phẫn nộ cho người Việt Nam. Tin nói rằng HD 9 chỉ cách đảo Lý Sơn của tỉnh Quảng Ngãi 140 hải lý.

Tất cả những giàn khoan nói trên đều là tài sản của công ty dịch vụ dầu khí Trung quốc (COSL), một bộ phận của Tập đoàn Dầu Khí Hải Dương Trung quốc (CNOOC). Khi được phóng viên hãng thông tấn Reuters gọi điện thoại phỏng vấn, viên chức COSL và CNOOC đều từ chối bình luận. Nhưng trên tờ Hoàn Cầu Thời Báo, Trương Quốc Tổ, Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Nam Á tại đại học Hạ Môn, nói rằng việc đưa nhiều giàn khoan tới Biển Đông là “hành động chiến lược” của Trung Quốc.

“Sự gia tăng hiện diện các giàn khoan sẽ làm cho Việt Nam và Philippines căng thẳng tinh thần.” Ông ta nói.

Công ty Dầu Khí Hải Dương Trung Quốc từng loan báo họ có kế hoạch đưa 4 dự án dò tìm dầu khí xuống Biển Đông vào nửa sau của năm 2014. Bởi vậy, tin tức mới loan báo về việc di chuyển 4 giàn khoan nói trên không biết có phải trùng với tin tức cũ hay không. Tuy nhiên, họ từng cho hay cố gắng nâng sản lượng dầu khí qua các hoạt dộng dò tìm và khai thác ở ngoài khơi Trung Quốc.

Trước đây, CNOOC cho hay họ gia tăng đầu tư thêm một phần ba ngân sách cho năm 2014, tức khoảng gần $20 tỷ. Cùng với các giếng dầu khí chính yếu ở ngoài khơi đang khai thác cạn dần ở khu vực vịnh Bột Hải, phía đông Trung Quốc, giới phân tích gia cho rằng việc Bắc Kinh đẩy các giàn khoan xuống phía nam là điều khó tránh.

Từ đầu Tháng 5 vừa qua, Trung Quốc kéo giàn khoan HD981 tới phía nam đảo Tri Tôn trong quần đảo Hoàng Sa mà Việt Nam vẫn tuyên bố chủ quyền để dò tìm dầu khí. Nhà cầm quyền Hà Nội cho một số tàu Cảnh Sát Biển, Kiểm Ngư, tàu cá tới tìm cách ngăn cản nhưng chỉ vòng vòng ở xa vì bị hơn một trăm tàu đủ loại của Trung Quốc chặn đường. (TN)

Xin xem thêm:

Trung Quốc đưa 4 giàn khoan vào Biển Đông ( VOA )

Tàu Cảnh sát biển Trung Quốc gần giàn khoan Hải Dương 981 ở Biển Ðông, khoảng 210 km (130 dặm) ngoài khơi bờ biển Việt Nam, ngày 14/5/2014. Trung Quốc cung cấp cho giàn khoan đầu một đoàn hộ tống gồm 80 tàu dân sự và tuần duyên đến địa điểm nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Tàu Cảnh sát biển Trung Quốc gần giàn khoan Hải Dương 981 ở Biển Ðông, khoảng 210 km (130 dặm) ngoài khơi bờ biển Việt Nam, ngày 14/5/2014. Trung Quốc cung cấp cho giàn khoan đầu một đoàn hộ tống gồm 80 tàu dân sự và tuần duyên đến địa điểm nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Trung Quốc đưa 4 giàn khoan vào Biển Đông

Trần Gia Phụng: ĐÃ ĐẾN LÚC PHẢI DỨT KHOÁT

Trần Gia Phụng: ĐÃ ĐẾN LÚC PHẢI DỨT KHOÁT

Trong cuộc mít-tinh của Hiệp Hội Hữu Nghị Nhân Dân Trung Quốc tại Bắc Kinh ngày 15-5-2014, tổng bí thư đảng Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ) Tập Cẩm Bình tuyên bố rằng: “Không có gene xâm lược trong máu người Trung Quốc”.

Trong khi các báo điện tử trong nước, hoặc các blog tư nhân đưa tin nầy thì nhà nước Cộng Sản Việt Nam (CSVN), các chức sắc, Ban Khoa giáo trung ương đảng, Bộ Thông tin văn hóa, và các chuyên viên của nhà nước CS nín khe. Có lẽ họ cho lời tuyên bố của Tập Cẩm Bình là chuyện nội bộ Trung Quốc, CSVN không xía vào. Họ quên rằng từ khi nước Việt lập quốc, Trung Quốc đã bao lần xâm lược Việt Nam. Hay đó là chuyện thời quân chủ phong kiến, chẳng liên quan gì đến chế độ CS anh em giữa hai nước Việt Nam-Trung Quốc hiện nay? Thế thì người CSVN cố tình quên rằng năm 1979, CSTQ thổi kèn trên thế giới và thổi kèn ngoài mặt trận, tràn quân tàn phá sáu tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam là gì?

Gần đây hơn nữa, ngày 8-6-2014, trang web của Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố năm (05) bằng chứng CSVN đã nhượng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Tài liệu nầy được viết bằng tiếng Anh và được Đài Phát Thanh Quốc Tế Trung Quốc (China Radio International -CRI) dịch qua tiếng Việt. Năm bằng chứng đó là:

1) Ngày 16-5-1956, trong buổi tiếp đại biện lâm thời Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội là Lý Chí Dân, thứ trưởng Ngoại giao Bắc Việt Nam là Ung Văn Khiêm đã nói: “Căn cứ vào những tư liệu của Việt Nam và xét về mặt lịch sử, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa là thuộc về lãnh thổ Trung Quốc“. Vụ trưởng Á châu vụ Bộ Ngoại giao Bắc Việt Nam Lê Lộc còn tiếp lời: “Xét từ lịch sử, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa đã thuộc về Trung Quốc ngay từ đời Nhà Tống”.

2) Công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14-9-1958.

3) Tuyên bố của Bắc Việt Nam ngày 9-5-1965 về việc quân Mỹ lập khu tác chiến ở Việt Nam, có đoạn viết: “Việc Tổng thống Mỹ Giôn-xơn xác định toàn cõi Việt Nam và vùng ngoài bờ biển Việt Nam rộng khoảng 100 hải lý cùng một bộ phận lãnh hải thuộc quần đảo Tây Sa của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoà là khu tác chiến của lực lượng vũ trang Mỹ”, đây là đe dọa trực tiếp “đối với an ninh của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nước láng giềng”.

4) Tập Bản đồ thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng Bắc Việt ấn hành tại Hà Nội năm 1972, ghi tên hai quần đảo quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng hai địa danh do Trung Quốc đặt là Tây Sa và Nam Sa.

5) Cuối cùng là sách Địa lý lớp chín phổ thông toàn tập của nhà xuất bàn Giáo Dục, Hà Nội, 1974, trong chương “Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa”, mục “Điều kiện tự nhiên”, ở trang 4, có đoạn viết: “Vòng cung đảo từ các đảo Nam sa, Tây sa đến các đảo Hải Nam, Đài Loan, quần đảo Hoành bồ, Châu sơn … làm thành một bức “trường thành” bảo vệ lục địa Trung Quốc. (Hiện nay, Đài loan và các đảo xung quanh còn bị đế quốc Hoa kỳ và bọn tay sai Tưởng Giới Thạch chiếm giữ, đấy là một mối đe dọa đối với nền an ninh của Trung quốc, của Viễn đông và miền tây Thái bình dương). (Dân Làm Báo, trích ngày 13-6-2014) (Xin mời vào Google.com, dùng tiếng Việt đánh chữ khóa “Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố 5 bằng chứng về Hoàng Sa và Trường Sa”, thì có nhiều thông tin về vụ việc nầy.)

Việc Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố năm bằng chứng CSVN nhượng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc theo trong kế hoạch từng bước rất lớp lang của đảng CSTQ.

Đầu tiên, sau khi Trung Quốc cắm giàn khoan 981 ở vùng biển Hoàng Sa và bị dân chúng Việt Nam biểu tình dữ dội, đồng thời bị nhà cầm quyền CSVN lên tiếng phản đối, thì CSTQ cho người đưa ra công hàm Phạm Văn Đồng (bước thừ nhứt). Nhà cầm quyền CSVN một mặt cấm biểu tình chống Trung Quốc ở trong nước, một mặt thủ tướng CSVN lên tiếng đòi kiện Trung Quốc để vuốt ve tự ái dân chúng, thì CSTQ đưa ra vụ sách giáo khoa (bước thứ hai). Cộng sản Việt Nam vẫn còn hậm hực, chưa chịu yên, thì bộ Ngoại giao Trung Quốc bồi thêm đòn thứ ba, đưa ra năm bằng chứng kể trên.

Cách thức đe dọa của Trung Quốc từ từ theo liều lượng nặng dần dần, và ngang đây bắt đầu có hiệu lực. Trước những bằng chứng do Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra ngày 8-6-2014, lần nầy Bộ chính trị đảng CSVN đành im lặng, nhà nước CSVN im lặng, quốc hội Việt Nam do đảng CSVN kiểm soát im lặng. Các quan chức cao cấp; tổng bí thư đảng CSVN, chủ tịch nước CSVN, chủ tịch Quốc hội CSVN, thủ tướng CSVN cũng tịnh khẩu, không nói năng thêm gì nữa. Báo chí trong nước và các web trong nước có lẽ được lịnh của nhà nước CS cũng im lặng. Thật là một sự im lặng tuyệt đối từ trên xuống dưới.

Các nhà lãnh đạo đảng CSVN phải im lặng vì há miệng mắc quai, và nếu không im lặng thì CSTQ chắc chắn sẽ tung thêm ngón đòn thứ tư độc địa hơn nữa. Đó là“Kỷ yếu hội nghị đồng thuận bình thường hóa quan hệ hai nước”, ký kết tại Hội nghị Thành Đô (Chengdu), thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên (Sichuan) vào ngày 4-9-1990, giữa đại diện đảng CSVN gồm có Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng và đại diện đảng CSTQ gồm có Giang Trạch Dân (Jiang Zemin) và Lý Bằng (Li Peng).

Hai bên cam kết giữ bí mật nội dung văn bản nầy, nhưng nếu đảng CSVN không tôn trọng những điều đã bí mật cam kết, thì đảng CSTQ không có lý do gì mà giữ bí mật văn bản nầy nữa. Cho đến nay, người Việt Nam chưa biết nội dung văn bản Thành Đô, nhưng chắc chắn đảng CSVN đã cam kết những điều gì đó để được Trung Quốc giúp đỡ nhằm duy trì quyền lực của đảng CSVN, dầu có hại cho đất nước. Đây cũng có thể là một văn tự bán nước sau công hàm Phạm Văn Đồng, vì bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch và thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ đều rất thất vọng, chán nản, nhưng chỉ nói xa nói gần chứ không dám nói thẳng ra. Kết quả là một người bị cất chức, còn người kia xin từ chức vì không muốn liên hệ đến tội phản quốc.

Có một điều lạ nữa là ngay sau công bố ngày 8-6-2014 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, thì khoảng gần 2 giờ sáng ngày 9-6-2014, Xí Nghiệp Bản Đồ Đà Lạt (XNBĐĐL) bị cháy nặng nề, tiêu hủy một phần ba (1/3) tòa nhà đồ sộ làm khu văn phòng, xưởng chế bản, hệ thống máy tính…

Xí Nghiệp Bản Đồ Đà Lạt thuộc Bộ Quốc phòng CSVN, số 14 đường Yersin Đà Lạt. Trụ sở xí nghiệp nầy được xây dựng năm 1939 và hoàn thành năm 1943 thời còn Pháp thuộc, tường dày, rất kiên cố. Trước năm 1975, đây là Nha Địa Dư Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).

Báo chí trong nước đưa tin nầy sáng 9-6-2014, và cho biết thượng tá Vũ Đình Hợi, giám đốc Cục Bản Đồ Đà Lạt, tuyên bố rằng: “Những tài liệu quan trọng liên quan đến chủ quyền, an ninh quốc gia đã được chuyển giao Bộ Quốc phòng quản lý… Sau trận hỏa hoạn mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn. Vị trí xảy ra vụ hỏa hoạn là nơi làm việc của nhân viên, không phải nơi lưu trữ như dư luận đồn đoán…”

Ông giám đốc nói thế là đúng sách vở, chứ không lẽ ông giám đốc lại thú nhận là đã cháy nhiều tài liệu quý hiếm lưu trữ trong XNBĐĐL? Một câu hỏi được đặt ra là tại sao XNBĐĐL lại cháy ngay sau ngày Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố 5 bằng chứng bán nước của đảng CSVN, và cháy vào buổi khuya chẳng có người làm việc? Cháy do tai nạn hay do phá hoại? Ai là kẻ gây ra tai nạn hay chủ mưu phá hoại? Phá hoại để làm gì? Phải chăng phá hoại nhắm tiêu hủy tài liệu gốc về bản đồ? Liệu những tài liệu gốc về bản đồ vùng biên giới Việt Nam Trung Quốc và về bản đồ Hoàng Sa, Trường Sa có bị cháy chưa? Không ai có thể xác minh điều nầy trừ chính đảng CSVN.

Một điều đặc biệt nữa là từ năm 1960, nghĩa là hai năm sau công hàm Phạm Văn Đồng, và cùng một năm đảng Lao Động (tức đảng CSVN) tuyên bố quyết định tấn công VNCH, thì phủ thủ tướng Hà Nội nhận người do Trung Quốc gởi sang làm chuyên gia cho Cục Đo đạc và Bản đồ. Hồ sơ lưu trữ thấy có một người tên là Trương Hồng Kiên làm chuyên gia tại Cục Đo đạc và Bản đồ. Nói cách khác, từ năm 1960, chuyên viên Trung Quốc đã nằm vùng trong Cục Đo Đạc và Bản đồ ở Hà Nội. Sau đây là giấy chứng nhận của phủ thủ tướng Hà Nội:

Sự hiện diện của chuyên gia Trung Quốc tại Cục Đo đạc và Bản đồ có liên hệ gì đến việc thực hiện các bản đồ trong tập Bản đồ thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng Bắc Việt ấn hành tại Hà Nội năm 1972, ghi tên hai quần đảo quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng hai địa danh do Trung Quốc đặt là Tây Sa và Nam Sa? Và có liên hệ gì đến sách Địa lý lớp chín phổ thông toàn tập của nhà xuất bàn Giáo Dục, Hà Nội, 1974 không? Có chuyên viên Trung Quốc khi XNBĐĐL bị cháy sáng sớm 9-6-2014?

Trở lại với công bố ngày 8-6-2014 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, thì chúng ta cần tách bạch làm hai phần rõ rệt: 1) Phải thẩm định lại giá trị của các tài liệu nầy, ví dụ bản công bố nói rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc từ thời nhà Tống là điều hoàn toàn phi lý, vì cho đến năm 1974, VNCH vẫn còn quản lý hai quần đảo nầy. Trung Quốc đem hạm đội đến đánh cướp ngày 19-1-1974. Tập Bản đồ thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng Bắc Việt ấn hành tại Hà Nội năm 1972, và sách Địa lý lớp chin phổ thông toàn tập là của Bắc Việt Nam, chứ không phải của Nam Việt Nam tức VNCH. Trước năm 1974, Hoàng Sa và Trường Sa đều thuộc tổ chức hành chánh của VNCH và không bao giờ có tên Tây Sa và Trường Sa. 2) Dù đúng hay sai, bốn bằng chứng sau do Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra gồm công hàm Phạm Văn Đồng, tuyên bố ngày 9-5-1965 của Bắc Việt cộng sản, tập Bản đồ thế giới năm 1972, và sách Địa lý lớp chín phổ thông toàn tập năm 1974 của Bắc Việt Nam là chuyện giữa nhà nước CSVN Bắc Việt Nam với Trung Quốc, chứ không phải của nhân dân Việt Nam. Phải tách nhân dân Việt Nam ra khỏi chuyện nầy vì nhân dân Việt Nam luôn luôn xem Hoàng Sa và Trường Sa là di sản do tổ tiên để lại, là lãnh thổ Việt Nam.

Bốn bằng chứng nầy cho thấy ĐẢNG CSVN CHỦ TRƯƠNG BÁN NƯỚC CÓ KẾ HOẠCH từ thời Hồ Chí Minh cho đến ngày nay, và cũng cho thấy rằng HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CSVN CHẲNG YÊU NƯỚC mà họ chỉ lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam, hy sinh xương máu của nhân dân Việt Nam nhằm thỏa mãn cuồng vọng quyền lực của đảng CSVN và để phục vụ cho sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản, mà đại diện là Liên Xô và Trung Quốc, như Lê Duẫn đã có lần xác nhận với đám cận thần sau khi cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc”.

Vì vậy, cuộc chiến tranh ba mươi năm (1946-1975) do CSVN hai lần gây ra là cuộc chiến hoàn toàn phi lý, không có chính nghĩa và chỉ là cuộc chiến ý thức hệ để thiết lập một chế độ độc tài toàn trị, và nhất là nhượng đất, nhượng biển cho Trung Quốc. Việc CSVN nhượng đảo, nhượng biển cho Trung Quốc càng làm sáng lên chính nghĩa quốc gia, dân tộc và nhân bản của các chính thể Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa, dầu các chính thể nầy chưa được hoàn hảo, nhưng luôn luôn bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ do tổ tiên để lại.

Trước đây, khi bất cứ ai tố cáo CSVN bán nước thì đảng CSVN, báo chí CSVN, và cả những người thiên tả, những kẻ ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản đều phản bác lại, cho rằng đó là luận điệu tuyên truyền chống nhà nước “cách mạng” CSVN. Bây giớ, với bằng chứng rành rành như thế nầy, thì không còn chối cãi gì nữa. Vì vậy, đã đến lúc toàn dân dân Việt Nam phải có thái độ dứt khoát rõ ràng với chế độ CSVN vì không thể để cho CSVN tiếp tục phản dân hại nước.

Trước hết, là những người yêu nước đã lên đường năm 1945, đi theo “cách mạng” vì lầm tin chủ nghĩa cộng sản, lầm tin vào đảng CSVN, đã trọn đời hy sinh vì một lý tưởng xấu, để rồi cuối cùng bị phản bội một cách trắng trợn. Những tội lỗi của chế độ CSVN có phần trách nhiệm của quý vị vì chính quý vị đã dày công xây dựng chế độ nầy. Xin quý vị ít nhất vào cuối đời, quý vị hãy lên tiếng để bày tỏ cho con cháu biết rõ sự thật, giúp con cháu khỏi bị một lần nữa lầm đường lạc lối như thế hệ quý vị năm 1945.

Những thức giả (chứ không phải là trí thức) dưới chế độ CSVN hiện nay, như những sĩ quan quân đội, những giáo sư đại học, những chuyên viên các ngành, những nhà nghiên cứu, các văn thi sĩ, các nhà bình luận, ký giả báo chí; xưa nay quý vị lơ là với tình hình đất nước, và làm thinh cộng sinh với chế độ CSVN, nay chắc chắn hơn ai hết, quý vị biết rõ CSVN bán nước, hại dân, thì quý vị còn chờ đợi gì nữa mà chưa ly khai với đảng CSVN? Quý vị tiếp tục cộng sinh với đảng CSVN là quý vị tiếp sức cho CSVN gây họa cho tương lai đất nước.

Những sinh viên thiên tả thời VNCH, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, ở Đại học Sài Gòn cũng như Đại học Huế, biểu tình rầm rộ chống chính thể VNCH trong thập niên 60 và 70, nay trước những bằng chứng phản quốc cụ thể của CSVN, sao quý vị không xuống đường như thời VNCH, và quý vị cũng chẳng lên tiếng tý nào, nghĩa là làm sao? Hãy can đảm tiếp nối hành động cuối đời của ông Lê Hiếu Đằng, để chuộc lại những lỗi lầm của quý vị một thời phá hoại nền tự do dân chủ VNCH .

Không ai có thể trách các thế hệ trẻ ngày nay, vì từ năm 1974, các anh chị em đã bị CSVN nhồi sọ rằng Tây Sa và Nam Sa là của Trung Quốc, các anh chị em đâu có biết Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở đâu? Vì vậy giới du học sinh Việt Nam từ trong nước ra ngoài du học, trong các ngày gần đây đi biểu tình chống Trung Quốc sau vụ giàn khoan 981, vì lòng yêu nước của anh chị em, chứ anh chị em đâu có biết chuyện Hoàng Sa và Trường Sa. Các anh chị em cũng không biết là cái lá cờ đỏ mà các anh chị em vác trên vai đi biểu tình chống Trung Quốc, chính là lá cờ của chế độ đã nhượng Hoàng Sa và Trường Sa của tổ quốc cho Trung Quốc từ lâu rồi. Các anh chị em nghĩ sao về các bằng chứng do Bộ Ngoại giao Trung Quốc
đưa ra? Anh chị em hãy thử đặt câu hỏi với các tòa đại sứ CSVN vể các bằng chứng nầy, và thêm một câu hỏi nữa là tại sao trong nước cấm biểu tình chống Trung Quốc mà ở Hải ngoại, các tòa đại sứ CSVN lại ra lịnh du học sinh vác cờ đi biểu tình?

Các anh chị em theo dõi, quan sát sự im lặng nhịn nhục của lãnh đạo đảng CSVN trước công bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 8-6-2014, chắc chắn anh chị em đã hiểu nội tình rồi. Các anh chị em đừng để cho CSVN lợi dụng làm con cờ thí cho CSVN. Các anh chị em là những người ra nước ngoài học hành, hiểu nhiều, biết rộng, vậy hãy thức tỉnh và hãy đoạn tuyệt với CSVN ngay từ bây giờ để sau nầy khỏi hối hận. Các bậc cha chú, các bậc đàn anh của anh chị em đã hy sinh cho một lý tưởng xấu. Các anh chị em đừng phục vụ cho một chế độ xấu.

Tình trạng đảng CSVN ngày nay không còn có thể cứu vãn được nữa. Cứu vãn cũng vô ích. Chủ nghĩa CS đã bị dẹp bỏ từ mấy chục năn nay ở ngay đất nước của Marx, của Lenin, của Stalin. Chủ nghĩa CS bây giờ chỉ là cái vỏ bọc của những chế độ độc tài tàn bạo như Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên. Chủ nghĩa CS bây giờ ở Việt Nam chỉ gồm những tên tay sai của Bắc Kinh từ thời kẻ sáng lập là Hồ Chí Minh. Đã ký văn tự bán nước thì không còn lý do gì mà chống chế với Trung Quốc.

Nếu còn đảng CSVN thì còn làm tay sai cho Trung Quốc, còn những mật ước giữa CSVN với Trung Quốc mà nhân dân Việt Nam không biết đâu mà lường trước được. Việt Nam chúng ta muốn chấm dứt tình trạng nầy, thì nhân dân Việt Nam phải xóa sổ chế độ CSVN, để chấm dứt những cam kết bí mật của chế độ nầy với Trung Quốc.

Khi nhân dân Việt Nam không thừa nhận chế độ CSVN, chứng tỏ nhân dân Việt Nam cũng không thừa nhận những cam kết bán nước của chế độ CSVN. Lúc đó, mới có thể nói chuyện đòi đất, đòi biển trở lại. Đã đến lúc những đảng viện CSVN phải đánh giá lại đảng CSVN và ly khai đảng nầy. Đã đến lúc các thức giả trong nước phải đoạn tuyệt với chế độ CSVN để khỏi mang tội đồng lõa với phản quốc. Đã đến lúc thanh niên sinh viên Việt Nam phải tranh đấu để xóa sổ chế độ CSVN để xây dựng một tương lai tười đẹp hơn. Đã đến lúc nhân dân Việt Nam phải dứt khoát hành động! Nếu không, thời kỳ bắc thuộc đen tối đang chờ đợi Việt Nam.

TRẦNGIAPHỤNG
(Toronto, Canada)

 

TÌM KIẾM MỘT LỜI ĐẦY HIỆN THỰC

TÌM KIẾM MỘT LỜI ĐẦY HIỆN THỰC

Đức tin không phải là điều bạn đạt được.  Nếu bạn cố gắng đóng chặt nó xuống, nó sẽ trỗi dậy và ra đi với chiếc đinh.  Đức tin hoạt động theo cách này: Có lúc bạn đi trên mặt nước, có lúc bạn chìm nghỉm như tảng đá giữa dòng.  Nhà thơ Rumi đã nói, bạn sống với một bí mật sâu thẳm, có lúc bạn biết, có lúc bạn không biết, rồi lại biết.  Đôi khi bạn cảm thấy có một sự hiện diện thật sự, đôi khi bạn thấy trống vắng thật sự.  Tại sao như vậy?

Vì, giống như tình yêu, đức tin là một cuộc hành trình, luôn mãi thăng trầm, với những giai đoạn luân phiên giữa tha thiết và lãnh đạm, với an ủi và cô quạnh, có những lúc cảm nhận ân sủng Thiên Chúa hiện diện hiển nhiên, có lúc như đêm dài tăm tối khi Thiên Chúa vắng mặt.  Đó là một tình trạng lạ lùng: đôi khi bạn thấy mình kết chặt với Chúa, chặt chẽ vô cùng, lúc khác bạn thấy mình như rơi tự do khỏi tất cả những gì an toàn, và rồi khi mọi thứ chạm đáy, một lần nữa, bạn lại cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa.

Tại sao đức tin phải có động lực mơ hồ này?  Không phải là Thiên Chúa ác độc, đang đùa giỡn với chúng ta, muốn thử thách lòng trung tín của chúng ta, hay muốn chúng ta phải làm việc gì đó khó khăn để kiếm được ơn cứu độ.  Không, những thăng trầm đức tin phải đi cùng với nhịp điệu của đời sống bình thường, đặc biệt là nhịp điệu của tình yêu.  Tình yêu cũng như đức tin, có những giai đoạn tha thiết và đêm đen tăm tối.  Tất cả chúng ta đều biết, bên trong giao kết lâu dài nào (hôn nhân, gia đình, tình bạn, hay giáo hội), đều có những ngày, những mùa nào đó, khi tâm hồn và tâm trí chúng ta không còn giữ giao kết đó, dù vẫn ở trong nó.  Tâm trí và tâm hồn của chúng ta phai mờ đi dần, nhưng chúng ta cảm nghiệm tình yêu, xét cho tận cùng, là một điều không dựa vào tâm trí, cái đầu, hay thậm chí là tâm hồn, quả tim.  Có một sự gì đó sâu kín hơn giữ lấy chúng ta, và một lúc nào đó, giữ chúng ta ra ngoài tầm của những suy nghĩ trong tâm trí hay cảm giác trong tâm hồn.

Trong bất kỳ giao kết tình yêu nào được duy trì, thì tâm trí và tâm hồn của chúng ta sẽ phai mờ lúc lên lúc xuống.  Đôi khi tha thiết, đôi khi lạnh nhạt.  Đức tin cũng hoạt động như vậy.  Đôi khi chúng ta cảm nhận và nhận thức thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm trí và tâm hồn, đôi khi cả tâm trí và tâm hồn đều lạnh nhạt và lãnh đạm.  Nhưng đức tin là một cái gì thâm sâu hơn là hình dung hay cảm nhận có sự hiện diện của Thiên Chúa.  Nhưng làm sao chúng ta đạt đến đó?  Chúng ta phải làm gì những khi cảm thấy như thể Thiên Chúa vắng mặt.

Nhà thần nghiệm vĩ đại, Gioan Thánh Giá, đã cho chúng ta lời khuyên này.  Nếu bạn muốn tìm ra sự hiện diện của Thiên Chúa một lần nữa vào những lúc bạn cảm thấy Ngài vắng mặt, thì bạn hãy lắng nghe lời tràn đầy hiện thực và chân lý thâm sâu khôn lường.

Gioan Thánh Giá nói thế nghĩa là gì?  Làm sao lắng nghe được lời tràn đầy hiện thực và chân lý thâm sâu khôn lường?  Làm sao tìm được một lời như thế?  Thành thực mà nói, cho dù lời của ngài bùng lên nhiều ý nghĩa trong đầu tôi, nhưng tôi không hoàn toàn chắc về ý của ngài.  Sẽ dễ giải nghĩa hơn nếu ngài bảo chúng ta hãy tìm kiếm một cảm nghiệm thâm sâu và đầy thực tế, ví dụ việc sinh một đứa trẻ, chết lặng trước vẻ đẹp khôn lường, hay tan vỡ tâm hồn khi mất mát hay đối diện cái chết.  Những dạng cảm nghiệm này có thật, tồn tại thật mà chẳng thể hiểu được, và chúng bật chúng ta vào một nhận thức sâu sắc hơn.  Và như thế, nếu Thiên Chúa để cho con người tìm kiếm, thì chẳng phải sẽ tìm thấy Thiên Chúa chính ở nơi đó hay sao?

Nhưng Gioan không hướng dẫn chúng ta đến với cảm nghiệm thiếu chiều sâu, ngài đang yêu cầu chúng ta tìm kiếm một lời hiện thực và thâm sâu.  Như thế nghĩa là khi chúng ta dao động và hoài nghi, chúng ta phải săn tìm những bản văn (trong kinh thánh, thần học, linh đạo, hay văn học và thơ ca thế tục) nói với chúng ta theo một cách tái truyền thụ cho chúng ta một nhận thức nền tảng rằng Thiên Chúa hiện hữu và yêu thương chúng ta, và do đó, chúng ta phải sống trong yêu thương và hy vọng. Chẳng phải là vậy hay sao?

Tôi nghĩ đây mới chính là ý của ngài.  Thiên Chúa độc nhất, chân thật, tốt lành, và tuyệt mỹ, và như thế lời thật về sự hiệp nhất, sự thật, tốt lành, hay vẻ đẹp phải có sức mạnh giữ vững tâm trí và tâm hồn lay động của chúng ta.  Lời thật có thể khiến Ngôi Lời thành xác phàm lần nữa.

Nhưng những lời nào có sức mạnh như thế cho chúng ta?  Chúng ta tất cả đều khác nhau, và như thế không phải ai cũng tìm thấy sự thật và thâm sâu theo cách giống nhau.  Vì thế, mỗi một người trong chúng ta phải tự thực hiện cuộc tìm kiếm riêng mình, vô cùng riêng của mình.

Về bản thân tôi, có nhiều lời của các tác giả khác nhau đã truyền tải dạng chân lý này cho tôi trong nhiều giai đoạn của cuộc sống.  Quyển Câu chuyện một Linh hồn của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã giữ vững tôi trong những khi tôi nao núng.  Quyển Chùm nho Phẫn nộ của John Steinbeck, có thể tái định hướng tầm nhìn của tôi để nó được phẳng lặng khi nó bị vẩn đục.  Những đoạn văn khác nhau của Karl Rahner, John Shea, Raymond Brown, Henri Nouwen có thể con tàu của tôi được vững vàng khi nó bị chòng chành.  Và một vài lời của Dag Hammarskjold có thể làm cho tôi muốn sống sao để phản ánh lại những điều tốt đẹp trong đời hơn nữa.

Nhưng, bằng cách riêng của mình, mỗi chúng ta cần phải tìm kiếm những lời đầy tràn hiện thực và sự thật khôn dò thấu, để khơi lên cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa.

Fr. Ron Rolheiser

 

Thánh Luy Gonzaga – Tuổi trẻ dâng hiến

Thánh Luy Gonzaga – Tuổi trẻ dâng hiến

(lễ nhớ ngày 21.06)

http://dongten.net/noidung/37102


St. Aloysius Gonzaga

Luy Gonzaga sinh ngày 9 tháng 3 năm 1568, là con trưởng của hầu tước xứ Castiglione, miền bắc nước Ý. Danh tiếng gia đình và kỳ vọng của hầu tước đều được đặt cả vào Luy. Lên bốn tuổi, Luy đã bắt đầu cùng bố sống trong quân đội, cậu mặc đồ lính, đeo súng và học hỏi nghiệp binh đao. Ông hầu tước ắt hẳn hài lòng về những gì cậu quý tử đang theo đuổi và hy vọng cậu sẽ làm rạng danh dòng họ Gonzaga hơn nữa. Lên 9 tuổi, Luy và cậu em Rudolpho được gởi đến cung điện của hầu tước Francesco de’Medici ở Firenze để học hỏi những nghi lễ của lối sống vương giả. Cũng ở nơi ấy, Luy nhìn ra mặt trái của lối sống xa hoa và phóng khoáng; nơi mà người ta luôn có những âm mưu và sẵn sàng lừa gạt nhau, họ giải quyết vấn đề bằng dao và thuốc độc. Nhưng ngay trong môi trường nhiều cạm bẫy đe dọa, bàn tay Chúa bắt đầu hướng dẫn Luy theo con đường yêu thương của Ngài.

Mặc dù cuộc sống bên ngoài của Luy mang nhiều vẻ khác nhau, nội tâm của cậu vẫn hướng về điều thiện bằng việc cầu nguyện và thích thú đọc Thánh vịnh. Nhờ vậy, Luy khám phá ra rằng chỉ còn cách rút lui khỏi những cuộc vui và bàn tiệc để tránh phạm tội. Sau thời gian ở Firenze, Luy được gởi tới Mantua sống với những người họ hàng. Tại đây, cậu tình cờ đọc được cuốn Tóm lược Giáo lý của Cha Phêrô Canisiô, trong đó có cả phần suy niệm. Luy liền dùng tập sách này làm đề tài cầu nguyện hàng ngày và cảm nếm những an ủi lớn lao. Cậu ăn chay 3 ngày mỗi tuần, suy niệm cả ban sáng lẫn ban tối, tham dự thánh lễ hành ngày.

aloysius gonzagas

 

Trong một chuyến đi với gia đình đến Tây Ban Nha, Luy gặp một cha giải tội dòng Tên ở Madrid và cậu ngày càng muốn trở thành Giêsu hữu. Ngày 15 tháng 8 năm 1583, đang khi cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ trong nhà thờ, từ nội tâm, Luy cảm thấy mình được Chúa gọi theo bậc sống tu trì và mong ước gia nhập dòng Tên. Ý đã quyết, Luy nguyện theo đuổi đến cùng ơn gọi của mình.

Tin này đến tai vị hầu tước và ngay lập tức ông nổi trận lôi đình khiển trách Luy nặng lời và tìm đủ mọi cách ngăn cản với hy vọng cậu đổi ý. Nhưng tất cả mọi cách ông hầu tước áp dụng chẳng đem lại thay đổi gì bởi Luy một mực xin được từ bỏ tất cả để gia nhập dòng Tên. Ông hầu tước, mặc dù đặt mọi kỳ vọng vào cậu quý tử sẽ là người thừa kế mình trong gia tộc, đành phải để Luy ra đi. Tròng lòng hầu tước chẳng hề muốn điều này, nhưng vì thương con, ông đành chiều ý cậu. Đối với ông, Luy là “kho tàng quý báu nhất trên cõi đời này”.

Tháng 11 năm 1585, Luy nhường lại ngôi thế tử cho em trai và lên đường hướng về nhà Tập thánh Anrê ở Rôma. Cùng đi với anh là cả một đoàn tuỳ tùng: cha tuyên uý của gia đình, viên thái sư, một tu sĩ, những người hầu cận. Trên đường, nhắc đến chuyện nhường ngôi thế tử, một người trong đoàn tuỳ tùng nói với anh: “Chắc công tử Rudolpho vui lắm”, Luy trả lời:“Tôi còn vui hơn”.

Khi vào nhà Tập, Luy tâm niệm rằng: “Tôi là thanh sắt cong, phải vào nhà Dòng để được uốn lại cho thẳng”. Trong thực tế, Luy nhận thấy rằng nếp sống nhà Tập lại ít đòi hỏi hơn những gì cậu tự đặt ra cho mình khi còn ở nhà. Thực vậy, theo sự hướng dẫn của Cha giám tập, Luy không được tiếp tục việc đánh tội như đã quen làm, cậu cũng không được ăn chay thường xuyên như đã thực hành trước đây. Trên hết, Luy từ bỏ chính mình để tuân thủ cách tỉ mỉ tiến trình đào luyện trở thành Giêsu hữu. Luy bắt đầu tập làm những việc nhỏ nhặt trong nhà như rửa chén, lau nhà, quét mạng nhện… những việc mà trước đây anh chưa từng đụng đến. Hết thời gian nhà Tập, Luy tuyên khấn lần đầu ngày 25 tháng 11 năm 1587 và chuyển đến Đại học Rôma để tiếp tục chương trình thần học.

Đầu năm 1591, nước Ý lâm nạn đói kém và dịch bệnh hoành hành. Cùng với các anh em khác, Luy đi quyên góp thực phẩm, quần áo giúp những bệnh nhân. Luy đưa những người bệnh đang hấp hối ngoài đường phố đến bệnh viện, tắm rửa và cho họ ăn, sau đó chuẩn bị cho họ lãnh nhận các bí tích sau cùng. Một lần sau khi trở về từ bệnh viện, Luy nói với Cha linh hướng Roberto Bellarmino rằng: “Con tin rằng mình chẳng sống thêm bao lâu nữa. Con cảm thấy nơi mình một khao khát mãnh liệt để làm việc và phục vụ Chúa nơi các bệnh nhân. Con nghĩ rằng Chúa đã không cho con cơ hội này nếu Ngài không muốn đưa con về với Ngài.”

Những ngày sau đó, nhiều anh em trẻ bị ngã bệnh, Cha bề trên buộc phải yêu cầu các học viên hạn chế tiếp xúc với người bệnh và chỉ cho phép anh em đến giúp ở bệnh viện Đức Mẹ An Ủi, nơi có những người bệnh nhẹ và ít lây. Một hôm, Luy đến bệnh viện, bế một người bệnh và chăm sóc cẩn thận. Về nhà anh ngã bệnh ngay và nằm liệt giường từ ngày 3 tháng 3 năm 1591.

Những ngày sau đó, Luy đón nhận tất cả những khó chịu thể xác với tâm hồn phó thác kiên vững. Qua cầu nguyện, anh được biết mình sẽ được đưa về với Chúa vào ngày cuối của tuần bát nhật kính Mình Thánh Chúa. Thời gian ấy đến, ngày 21 tháng 6 năm 1591, Luy xin được lãnh các bí tích sau cùng. Vào khoảng 11 giờ, Luy, tay nắm chặt tượng thánh giá, mắt nhìn thẳng vào Chúa Giêsu chịu đóng đinh và môi miệng anh cố gắng thốt lên Danh Thánh Giêsu lần cuối cùng. Anh ra đi trong bình an khi chỉ mới 23 tuổi.

Ngài được Đức Phaolô V tuyên phong chân phước vào ngày 19.10.1605 và được Đức Bênêđictô XIII nâng lên hàng hiển thánh vào ngày 31.12.1726. Anh em Dòng Tên kính nhớ ngài vào ngày 21 tháng 6 hàng năm. Ngài được nhiều người chọn làm đấng cầu bầu cho giới trẻ, sinh viên, những người chăm sóc các bệnh nhân. Anh em Dòng Tên chọn ngài làm đấng cầu bầu cho các học viên thần học.

Thánh Luy Gonzaga là một tấm gương cho chúng ta, nhất là các bạn trẻ, về sự quảng đại từ bỏ vinh hoa phú quý để bước theo Đức Giêsu Kitô nghèo khó, chịu sỉ nhục, khiêm hạ và hiến thân phục vụ cho anh chị em mình.

Cầu nguyện: Lạy Cha, xin giúp chúng con biết noi gương thánh Lu-y Gonzaga, người anh em của chúng con đã từ bỏ vinh hoa phú quý để nên người môn đệ Chúa Giê-su hiền lành và khiêm nhường. Xin đừng để chúng con lây nhiễm tinh thần thế tục, nhưng xin dạy chúng con biết tôn vinh Cha trong mọi sự. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.