Luật sư Trần Vũ Hải: Pháp luật Việt Nam không cấm lập đảng

Luật sư Trần Vũ Hải: Pháp luật Việt Nam không cấm lập đảng

Luật sư Trần Vũ Hải.

Luật sư Trần Vũ Hải.

22.08.2013

Một luật sư có tiếng tại Việt Nam khẳng định Hiến pháp và pháp luật Việt Nam không có điều nào cấm công dân thành lập và tham gia một chính đảng khác ngoài đảng cộng sản.

Luật sư Trần Vũ Hải, người tham gia nhiều vụ án chính trị trong nước, nói các văn bản pháp luật hiện hành cho thấy hoạt động thành lập và tham gia đảng phái chính trị không nhằm lật đổ chính quyền nhân dân không bị coi là bất hợp pháp.

Theo nghiên cứu của luật sư Hải, pháp luật Việt Nam quy định đảng phái không phải xin phép thành lập và điều lệ đảng không cần sự công nhận của nhà nước.

Ông đã gửi thư cho Quốc hội và các nhà luật học đề nghị cho ý kiến về vấn đề thành lập và tham gia đảng phái ở Việt Nam trong lúc vấn đề này đang được dư luận trong và ngoài nước quan tâm, giữa những lời kêu gọi thành lập thêm các đảng đối lập với đảng cộng sản Việt Nam để cạnh tranh, kiểm soát lẫn nhau, thúc đẩy dân chủ và phát triển xã hội.

Luật sư Hải kêu gọi nhà chức trách Việt Nam công bố quan điểm rõ ràng về việc có cấm công dân tham gia thành lập đảng phái hay không, nếu không cấm thì cần nêu rõ việc thành lập nên diễn ra thế nào cho phù hợp pháp luật Việt Nam.

Điều 4 Hiến pháp Việt Nam quy định đảng cộng sản nắm quyền độc tôn lãnh đạo đất nước.

Trong cuộc phỏng vấn do PhoBolsaTV đăng tải cuối tháng 7, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam, Nguyễn Thanh Sơn tuyên bố dân chủ không nhất thiết phải đa đảng.

TRƯỚC CỬA THIÊN ĐÀNG

TRƯỚC CỬA THIÊN ĐÀNG

Ở trang trong của một nhật báo xuất bản tại Manila, người ta đã đọc được câu chuyện vui sau đây:

Trước cửa Thiên đàng, linh hồn một nông dân xuất hiện xin Thánh Phêrô cho vào hưởng nhan Thiên Chúa.  Thánh Phêrô nghiêm nghị hỏi:

– “Con đã sống như thế nào trên trần gian mà giờ đây con muốn vào Thiên đàng?”

Linh hồn người nông dân trả lời với hết lòng chân thật:

– “Dạ, thưa Thánh Phêrô, 70 năm qua trên trần gian con đã cần cù làm ăn, tuân giữ mọi điều luật Chúa dạy, không bao giờ phạm tội làm mất lòng Chúa.  Con muốn vào Thiên đàng để được hưởng nhan thánh Chúa đời đời”.

Thánh Phêrô nghiêm nghị trả lời:

“Con đợi ta xem lại các bản phúc trình mà thiên thần bản mệnh của con đã gởi về”.  Trong giây phút im lặng, với vẻ mặt nghiêm nghị, thánh Phêrô lần mở ra kiểm soát thật kỹ những phúc trình về cuộc đời của người nông dân.  Quả thực, đúng như lời ông khai báo.  Thánh Phêrô không tìm thấy bất cứ lỗi nào trong các bản phúc trình ấy cả.  Sau giây phút suy nghĩ, thánh nhân nghiêm nghị trả lời cho linh hồn người nông dân:

– “Con không đủ điều kiện để vào Thiên đàng”.  Thánh Phêrô ôn tồn giải thích lý do: “Con có biết không, trên Thiên đàng nầy, kể cả chính bản thân ta đây nữa, tất cả mọi linh hồn vào đây đều là những linh hồn tội lỗi, đã làm phiền lòng Chúa Giêsu rất nhiều, nhưng đã sám hối ăn năn, được Chúa thứ tha, rồi mới vào đây được.  Còn con thì thật là khác thường.  Con suốt đời không phạm tội gì cả.  Vậy con không đủ điều kiện để vào Thiên đàng.  Ta cho con trở lại trần gian sống thêm ít năm nữa xem sao, để con có điều kiện mà trở lại đây vào Thiên đàng”.

**********************************

Đây là một câu chuyện vui có thể giúp chúng ta nhìn vào cuộc đời quá khứ của mình dưới ánh sáng của Lời Chúa hôm nay.  Nước Trời là của những tâm hồn tội lỗi nhưng đã sám hối ăn năn trở về cùng Chúa.  Nào ai dám tự phụ cho mình đã không bao giờ lầm lỗi, không bao giờ làm phiền lòng Thiên Chúa và xúc phạm đến anh chị em xung chung quanh.  Chúng ta không nên có thái độ giả hình, tự phụ, cho mình là trong sạch, tốt lành hơn kẻ khác, xứng đáng được vào Nước Trời.  Đừng tưởng như những người Do Thái, cứ tưởng là dân riêng của Chúa, là con cháu của Abraham là đương nhiên được bảo đảm chắc chắn được vào Nước Trời.  Vì không phải bất cứ ai thưa: “Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời”, cũng không phải tất cả những ai đã được diễm phúc đồng bàn ăn uống với Chúa Giêsu, được nghe Ngài giảng dạy trên các đường phố của mình, đều là những người có đủ tiêu chuẩn bảo đảm cho một tấm vé vào cửa Thiên đàng!

Vấn đề là phải phấn đấu “vào qua cửa hẹp”, “phải dùng sức mạnh” mới lọt được cửa hẹp dẫn tới bàn tiệc Nước Trời.  Bởi vì, trước cửa Nước Trời, mọi người đều bình đẳng để vào, không có ưu tiên dành cho những người có lý lịch tốt, hay có gốc gác bự, có ô dù…  Cũng không có chuyện dành chỗ trước, cũng chẳng có chuyện chạy chọt đút lót, cậy quyền cậy thế, hoặc dựa vào thành tích quá khứ để đòi hỏi cho mình quyền ưu tiên.  Vả lại, cũng đừng quan niệm bàn tiệc Nước Trời như một tiệc chiêu đãi có tính cách phô trương trình diễn.  Trái lại, đây phải là một bàn tiệc của những người chiến thắng, mà chỉ có những người đã từng chiến đấu, đã chia sẻ những nỗi gian khổ, đã thông phần vào cuộc khổ nạn của Chúa Kitô mới xứng đáng dự phần.

Điều trớ trêu là không phải con cái trong nhà sẽ là những kẻ nhanh chân nhất và được vào bàn ăn.  Trái lại, chính những kẻ ở xa, những kẻ lặn lội từ bốn phương trời mà đến.  Đối với những người Do Thái đang nghe Chúa Giêsu thì những kẻ từ Đông Tây Nam Bắc mà đến chính là các dân ngoại.  Họ sẽ được vào đồng bàn với các Tổ phụ và các Ngôn sứ, trong khi chính những người Do Thái là con cái trong nhà, những kẻ hãnh diện từng ăn uống thường ngày với Chúa, từng được nghe Ngài giảng dạy, lại phải đứng ngoài gõ cửa tuyệt vọng.  Vì vậy có sự đảo ngược thứ tự vào Nước Trời: “Những người trước hết sẽ trở nên cuối hết, còn những người cuối hết sẽ trở nên trước hết”.

Anh chị em thân mến, Thiên Chúa không theo chủ nghĩa lý lịch.  Trước cửa Nước Trời, Ngài không hỏi mọi người: Có chịu phép rửa tội, có theo kitô giáo, có phải là người Công giáo hay không?  Có phải là Tu sĩ, Linh mục, Giám mục, Hồng y hay Giáo Hoàng?  Điều Ngài đặc biệt quan tâm và xét hỏi, đó là đã có làm và sống như Chúa Giêsu đã làm, đã sống, đã dạy hay không?  Vì thế, đừng lầm tưởng rằng: hễ có tên là Kitô hữu, là người Công giáo, là đạo gốc, là đương nhiên được bảo đảm vào Nước Trời, để rồi tự đắc đứng trên nhìn xuống thương hại hay loại trừ những người anh em ngoại giáo, những người không chia sẻ một tôn giáo, một niềm tin với chúng ta.  Bàn tiệc Nước Trời đón nhận tất cả mọi thành tâm thiện chí.  Nếu chúng ta không thực thi Lời Chúa, không đi theo con đường hẹp của Chúa, thì có thể những người anh em ngoại giáo sẽ vào Nước Trời trước chúng ta, đang khi chúng ta, những người được mời gọi trước lại sẽ bị Chúa từ chối, vì chỉ mang cái nhãn hiệu Kitô hữu mà không có một đời sống đức tin, một đời sống Kitô hữu đích thực.

Nếu Chúa Giêsu mượn hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Thiên Chúa thì chính là để diễn tả sự chia sẻ niềm vui, chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa và với anh em.  Bởi thế, Thánh Phaolô đã nói với tín hữu Rôma: “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17).

Bàn tiệc Thánh Thể hôm nay phải là dấu chỉ cụ thể của bàn tiệc Nước Trời, nên những gì chúng ta chia sẻ trên bàn thờ, tức là Mình Máu Thánh Chúa, phải được chia sẻ rộng rãi trong cuộc sống.  Nói khác đi, chúng ta không thể bẻ Bánh Thánh với nhau mà không biết chia cơm sẻ áo cho nhau, nghĩa là cho anh em trong cộng đoàn mà thôi, nhưng còn là cho mọi người anh em đang cần được chúng ta chia sẻ. Thực hiện sự chia sẻ cụ thể đó, chính là phấn đấu đi qua cửa hẹp để dự Bàn Tiệc Nước Trời vậy.

Trích trong “Niềm Vui Chia Sẻ”

Anh chị Thụ & Mai gởi

Hậu quả của “Tư duy ngược”

Hậu quả của “Tư duy ngược”

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2013-08-22

000_Hkg4467982-305.jpg

Một đại biểu với lá phiếu trên tay trong ngày Đại hội toàn quốc lần thứ 11 của Đảng Cộng sản VN tại Hà Nội, 17/1/2011

AFP photo

Ông Lê Phú Khải, tuy là một phóng viên kỳ cựu của Đài truyền hình Trung Ương nhưng không bao giờ gia nhập Đảng Cộng sản mặc dù cả gia đình ông hầu hết là Đảng viên thâm niên. Lý do nào dẫn đến việc từ chối gia nhập Đảng của ông Lê Phú Khải được Mặc Lâm tìm hiểu thêm qua bài phỏng vấn sau đây:

Mặc Lâm: Như chúng tôi được biết ông là một phóng viên kỳ cựu của Đài Truyền hình Trung ương Việt Nam và xuất thân từ một gia đình hầu hết là Đảng viên Đảng Cộng sản nhưng chỉ có ông là không gia nhập Đảng. Xin được hỏi ông lý do nào ông chọn thái độ đứng ngoài Đảng thưa ông?

Ô. Lê Phú Khải: Là vì tôi đọc sách triết học rất nhiều, tôi thấy một xã hội có đối thoại thì mới tiến bộ được. Nếu độc thoại thì không thể nào khá được. Chính vì vậy nhận thấy mình không hợp với một xã hội độc thoại, một Đảng độc thoại như thế.

Đường lối của Đảng phải do đảng viên góp ý thì nó mới thành đường lối. Đàng này đảng viên phải nghe ý kiến nghị quyết của trên xuống và phải chấp hành thì quá phi lý. Đó là tư duy ngược!
– Ô. Lê Phú Khải

Đường lối của Đảng phải do đảng viên góp ý thì nó mới thành đường lối. Đàng này đảng viên phải nghe ý kiến nghị quyết của trên xuống và phải chấp hành thì quá phi lý. Đó là tư duy ngược! Ví dụ như báo Nhân dân nói “đưa nghị quyết đảng vào cuộc sống” như vậy là nghị quyết đảng từ trên trời rơi xuống à? Phải nói là đưa cuộc sống vào nghị quyết đảng mới đúng, để từ đó mới trở thành nghị quyết của Đảng. Đó chính là “Nhận thức luận”  của Lenin đấy. “Từ trực quan sinh động tới tư duy trừu tuợng”.

Tôi có anh bạn ở Cà Mau ra Bắc tập kết sau này anh ấy làm chức cũng lớn. Một lần anh ấy về quê anh ấy bảo: “má ơi nhà mình xa quá”. Bà má nổi đóa bả chửi: “chỉ có mày đi xa chứ nhà mình đâu có xa!” như vậy là tư duy ngược rồi còn gì nữa?

Mặc Lâm: Thưa ông, tuy nhiên có một nghịch lý là từ đó đến nay đã gần 70 năm, số lượng đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tăng không ngừng, cho đến nay đã có hơn ba triệu Đảng viên so với ngày đầu là 5.000 người. Câu hỏi đặt ra là tại sao số luợng cứ tăng mặc dù sai lầm vẫn rõ ràng như vậy?

Ô. Lê Phú Khải: Chính vì nó tăng như thế cho nên nó mới sai lầm! Bởi vì người ta cần chất lượng chứ không ai cần số lượng. Anh càng tăng bao nhiêu thì chứng tỏ cái chất lượng của anh bấy nhiêu. Số lượng không nói lên điều gì cả khi ngày xưa chỉ có 5.000 đảng viên nguời ta vẫn làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám. Bây giờ kết nạp cả học sinh, sinh viên vào Đảng nữa. Đảng lãnh đạo tuyệt đối thế thì học sinh lãnh đạo thầy à? Nó phi lý ở chỗ đó.

LPK-250.jpg

Ông Lê Phú Khải

Như trong bài viết của anh Lê Hiếu Đằng tôi thấy anh ấy viết rất đúng. Trong trường phổ thông cũng kết nạp học sinh vào đảng, thế thì cái thằng học sinh trong lớp nó còn coi thầy ra cái gì nữa? Vì nó là Đảng cơ mà! còn thầy là nguời ngoài đảng thì làm sao thầy dạy được? như thế có phải là tư duy ngược hay không?

Tôi không phải là đảng viên cũng không phải là nguời cách mạng nhưng tôi là nguời tư duy, và tôi thấy như thế là tư duy ngược cho nên dứt khoát tôi không vào Đảng. Tôi không thể chấp nhận cái tư duy ngược như vậy.

Mặc Lâm: Chúng tôi được biết ông là một phóng viên kỳ cựu của đài Truyền hình Trung Ương và từng có dịp gặp gỡ các nhân vật cao cấp trong chính phủ trong đó có Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Ông từng nói Thủ tướng Đồng là người có thái độ “kiêu ngạo cộng sản”. Theo ông thì đây là bản tính cá nhân hay nảy sinh từ hệ thống Đảng Cộng sản khiến cho Đảng viên thâm nhiễm cá tính này?

Ô. Lê Phú Khải: Không phải riêng ông Đồng đâu, rất nhiều người có chức có quyền như vậy. Do họ không đối thoại mà chỉ độc thoại nên họ rất chủ quan. Họ chỉ cho ý kiến của mình là đúng mà thôi.

Tôi nhớ ngày xưa khi ông nội tôi làm thư ký cho Toàn quyền Đông Duơng thì ông nội tôi kể khi đi đâu thì Toàn quyền cũng mang theo kỹ sư hay các nhà chuyên môn để nghiên cứu việc trồng cây gì nuôi con gì… Toàn quyền Đông Dương không có “quyết”. Chính anh kỹ sư phải xem phải suy nghĩ để “quyết” sau đó có biên bản đàng hoàng. Anh quyết, anh tham mưu sau này có chuyện gì tôi lôi cổ anh ra, như thế mới là khoa học.

Đây là cơ may cho ĐCS vì bây giờ có những người ôn hòa, nhiệt huyết, tâm huyết trong những vấn đề của đất nước, góp ý với Đảng để cùng với Đảng đối lập về tư duy để có đường lối đúng xây dựng đất nước.
– Ô. Lê Phú Khải

Còn bây giờ, một ông lớn xuống. Cây gì ổng thích thì bảo trồng cây đó và không ai được cãi cả. Nay trồng cây này, mai trồng cây kia mà không thăm hỏi gì cả thì chết dân!

Không thể nào tư duy xuôi chiều được mà phải tư duy nhiều chiều và có đối thoại thì mới tìm ra chân lý. Điều đó là quá rõ ràng, là ABC về triết học.

Tôi là một công dân, tôi sống trong chế độ Đảng cầm quyền thì tôi phải chấp nhận vì trước hết tôi phải sống đã. Tuy nhiên tôi không vào Đảng vì lý do đó.

Mặc Lâm: Trước tình cảnh mà ông gọi là tư duy ngược ấy thì đề nghị của ông Lê Hiếu Đằng như ông đã biết là thành lập Đảng Dân chủ Xã hội để đối trọng với Đảng Cộng sản Việt Nam phải chăng là cơ hội để Đảng Cộng sản có dịp tự thay đổi tư duy của mình qua phản biện của Đảng kia hay không?

Ô. Lê Phú Khải: Tôi thấy là quá đúng rồi chứ gì nữa? Đây là cơ may cho Đảng Cộng sản vì bây giờ có những người ôn hòa, nhiệt huyết, tâm huyết… rất nhiệt huyết trong những vấn đề của đất nước thì người ta góp ý với Đảng để cùng với Đảng đối lập về tư duy để có đường lối đúng xây dựng đất nước. Đây là cơ may của Đảng Cộng sản.

Những người này đều có “lý lịch” cùng chung với Đảng Cộng sản và đó là những người yêu nước chân thành. Họ chủ truơng ôn hòa từ trước tới giờ và rất đứng đắn.

Mặc Lâm: Một lần nữa xin được cảm ơn ông.

Đức Thánh Cha Bênêdictô giải thích lý do Ngài từ chức.

Đức Thánh Cha Bênêdictô giải thích lý do Ngài từ chức.


Trần Mạnh Trác

8/21/2013

Đức Thánh Cha Bênêdictô đã giải thích lý do tại sao Ngài từ chức một cách đột ngột.

“Thiên Chúa đã nói với tôi như thế,” Ngài nói.

Các hệ thống thông tin đã đồng loạt đưa tin cuả Thông Tấn Xã Zenit (cuả Toà Thánh) về sự tiết lộ này. Sự tiết lộ xảy ra khi Đức Thánh Cha Bênêdictô đã trả lời một câu hỏi cuả một vị khách đến thăm Ngài vài tuần trước đây, vị khách này xin được giấu tên.

Đức Thánh Cha Bênêdictô cho biết Ngài nghe được tiếng nói cuả Thiên Chuá trong một “kinh nghiệm tâm linh” (
tình trạng ngất trí, xuất thần, nhập định?), chứ không phải là được Chuá hiện ra. Qua những “kinh nghiệm tâm linh” trong nhiều tháng trời như thế, Ngài đã cảm nghiệm rõ ràng Thánh ý cuả Chuá là muốn Ngài thực hiện cái “ước muốn tuyệt đối” của mình là được kết hiệp với Thiên Chúa trong lời cầu nguyện riêng tư.

Bây giờ, sau khi chứng kiến “sức thu hút” của vị kế nhiệm, Đức Thánh Cha Bênêdictô nói thêm rằng Ngài còn xác tín hơn nữa rằng việc từ chức quả là “ý định của Thiên Chúa”.

Sự tiết lộ trên rõ ràng làm đảo lộn biến cố và ý nghĩa lịch sử cuả ngày 11 tháng 2 khi Ngài tuyên bố từ chức trước Hồng Y đoàn rằng “Sức khoẻ, tuổi già của tôi không còn phù hợp với những gánh nặng cuả sứ vụ giáo hoàng”.

Cũng hoàn toàn trái ngược với những báo cáo cuả báo chí cho rằng Ngài đã gần như bị điếc, lờ đờ, ốm yếu và “có vẻ kiệt sức.”

Và còn có những tin đồn đãi thất thiệt cho rằng Ngài đã chán nản sau khi người quản gia đáng tin cậy là Paolo Gabriele bị bắt vì tội rì rỏ những thư từ cá nhân.

Rồi làng báo cuả nước Ý còn tung tin đồn nhảm rằng Ngài đã tuyệt vọng trứơc một mạng lưới vững chắc đang lũng đoạn Giáo Triều, đó là mạng lưới hoạt động hành lang cuả các giám mục đồng tính.

Hãng thông tấn Zenit cho hay Đức Thánh Cha Bênêdictô vẫn gắn bó với kế hoạch là sống một cuộc sống ẩn dật, rất ít tiếp khách và chăm lo cầu nguyện ở tu viện trong khuôn viên Vatican, tận hưởng cảnh đẹp cuả thành phố Rome với vùng núi Apennine làm hậu cảnh xa xa.

“Trong các cuộc gặp gỡ, vị cựu giáo hoàng cũng không đưa ra lời bình luận nào, không tiết lộ bí mật nào, không tuyên bố một lập trường nào để tránh việc bị hiểu lầm rằng đó có thể là ‘lời của một vị Giáo Hoàng Khác’. Ngài vẫn còn dè dặt (reserved) giống như trước đây,” theo tin Zenit.

Một mối lo ngại đã được đặt ra là liệu sự có mặt cuà Ngài trong khuôn viên Vatican có ảnh hưởng gì tới vị kế nhiệm đang phải đấu tranh để tìm một thế đứng không? Nhưng sự “mến chuộng” cuả quần chúng dành cho Đức Phanxicô trong những tháng qua, và sự thay đổi về cách giao tiếp bình dân của vị giáo hoàng mới đã làm cho mối lo ngại trên trở thành dư thừa.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô có vẻ thoải mái với sự hiện diện cuả đức Bênêdictô, thậm chí có thể bông đuà với báo chí hồi tháng 7 vừa qua rằng: “đã có thời chúng ta có tới 2 hoặc 3 giáo hoàng cùng một lúc, họ không thèm nói chuyện với nhau mà chỉ lo đấm đá xem ai mới là Giáo Hoàng thật!”

Có Đức Bênêdictô sống ở Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô nói thêm, “là giống như có một người ông – một người ông khôn ngoan – sống ở nhà”

Sự liên hệ giữa 2 vị có vẻ chặt chẽ. Bức tông thư đầu tiên cuả ĐGH Phanxicô, ban hành tháng bảy vừa qua, đã được Đức Bênêdictô khởi sự khi còn tại chức và Đức Phanxicô tiếp nối công việc sau đó. Mới đây trước khi lên đường đi Rio, Đức Phanxicô đã ghé qua nhà Đức Bênêdictô để xin ý kiến.

Đức Phanxicô cho biết Ngài đã khuyên Đức Bênêdictô tiếp khách và xuất hiện thường xuyên hơn, nhưng cho đến nay Đức Bênêdictô mới chỉ xuất hiện 1 lần với Đức Phanxicô trong một buồi lễ bên trong khuôn viên Vatican. Bình luận về sự kiện này, Đức Phanxicô cho rằng Đức Bênêdictô là một con người “thận trọng” (
Prudence)

Có vẻ cuộc sống ẩn dật cuả Đức Bênêdictô đang được cởi mở rộng hơn ra. Ngày Chúa Nhật vừa qua (18-8-13), theo lời khuyên cuả Đức Phanxicô rằng Ngài nên đi nghỉ dưỡng ở Castel Gandolfo như Ngài đã thường làm mọi năm để tránh cái nóng oi ả cuả Roma, Đức Bênêdictô đã lên đường đi hóng mát và nghe trình diễn nhạc cổ điển trước công chúng, nhưng đã trở về tu viện ngay chiều hôm đó.

Xem video Đức Bênêdictô đi nghỉ mát ở Castel Gandolfo

PHÚC CHO NGƯỜI ĐAU KHỔ

PHÚC CHO NGƯỜI ĐAU KHỔ

Lm. Lê văn Quảng

conggiaovietnam.net

Thật là ngược đời và chói tai khi chúng ta nghe những lời chúc phúc của Thiên Chúa: “Phúc cho những người khóc lóc. Phúc cho những người đau khổ” mà không phải phúc cho những người có đời sống vinh hoa phú quí, ngày ngày yến tiệc linh đình…

Câu chuyện sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu được phần nào ý nghĩa của những lời chúc phúc đó:

Jacob, con người giàu có và có nhiều khả năng. Ông có xe và có cả một đoàn súc vật đông đúc. Ông có hai vợ và đông con. Vào một đêm kia, ông có một cảm giác lờ mờ rằng có một cái gì lạ thường sẽ xảy đến cho đời ông, một cái gì đó sẽ đánh dấu ông muôn đời. Nhưng ông không muốn nói với ai ngay cả những bà vợ của ông. Cũng trong đêm đó, ông chổi dậy đưa hai bà vợ, hai nàng hầu và mười một đứa con đi ngang qua vùng đất Tabbok. Ông đã đưa họ đi qua giòng suối cùng với tất cả đoàn súc vật của ông và chỉ còn lại một mình ông bên kia bờ suối. Xảy đến là có một người đến vật lộn với ông cho tới sáng. Chính bên giòng suối ấy, Jacob đã phải vất vả vật lộn suốt một đêm với thiên thần Chúa.

Đây là biểu tượng của một cuộc chiến trường cửu trên trần gian nầy giữa con người và Thiên Chúa. Đây cũng là biểu tượng của những cố gắng của con người để tìm hiểu, để hòa nhập với ý muốn cứu độ thật khó hiểu của Thiên Chúa. Và cuối cùng, đây cũng là biểu tượng của một cuộc chiến đấu gay go của mỗi một người giữa ý muốn của Thiên Chúa và những cám dỗ lôi cuốn của trần thế, của xác thịt.

Thật vậy, con người lúc nào cũng bị giằng co giữa hai điều phải lựa chọn:

– Phục vụ hay quyền bính.

– Chết trên thập giá hay đóng đinh kẻ thù.

Thật không phải dễ để chúng ta có thể tìm ra được một hợp đề giữa những thái cực đó. Có những lúc cái nầy cần phải được ưu tiên hơn cái khác, và nếu có sự ưu tiên thì sự ưu tiên đó phải là sự từ bỏ chính mình, phải là sự tử đạo mà Thiên Chúa Cha đã dành cho chính Con Ngài.

Chúng ta thấy gì trong cuộc chiến giữa Jacob và thiên thần Chúa ? Nhận thấy không thể làm chủ được Jacob, thiên thần Chúa đã đánh vào đùi của ông thật mạnh và thật đau để ông phải đi khập khễnh.

Trong cuộc chiến giữa Thiên Chúa với con người, để chiến thắng Jacob, Thiên Chúa đã đập ông bị thương, đã làm ông nên người tàn tật để ông biết yếu đuối của mình hầu biết tín thác và sống tựa vào Thiên Chúa, cũng như để ông biết sẵn sàng biến đổi thành một con người mới cho một chương trình mới theo ý muốn cứu độ của Thiên Chúa. Ngài muốn đổi tên ông. Ông sẽ không còn là con người cũ Jacob nữa nhưng sẽ trở thành Israel, con người mới của Thiên Chúa.

Israel, con người tàn tật, con người thương vong trong cuộc giao chiến với Thiên Chúa, nhưng bây giờ ông có thể hiểu được ý nghĩa tương quan giữa con người với  Thiên Chúa và giữa con người với nhau.

Trong cái thương vong, cái đau khổ mà ông đã học được từ cuộc chiến ấy, ông hiểu được rằng nhờ đau khổ con người trở nên khiêm tốn, trở nên biết chia xẻ, biết cảm thông với người khác, biết cầu nguyện để xin ơn trên phù giúp, biết cậy trông vào quyền lực của Thiên Chúa chớ không phải cậy trông vào sức mạnh của chính mình.

Quả thật, con người bị khủng hoảng về lý do tại sao đau khổ lại cần phải có, và tự hỏi: không tốt hơn sao nếu có một thế giới không đau khổ, nơi đó không có người tật nguyền, không có kẻ điên, không có người đui, không có kẻ què, không có những chiếc xe lăn, không có những cây nạng gỗ, không có những vành khăn sô…..

Không, không đau khổ, không chiếc băng ca, không vành tang trắng, thế giới nầy sẽ còn nhiều tội lỗi gấp trăm ngàn lần.

Thiên Chúa có thể tạo nên một thế giới không đau khổ. Ngài có thể làm nên một thế giới trong đó mọi người đắm chìm trong hoan lạc. Nhưng không, Ngài đã không làm như thế.

Ngài cho phép chúng ta hưởng một chút niềm vui của cuộc đời nhưng Ngài cũng đòi chúng ta phải làm quen với sự hy tế.

Không cần tưởng tượng đâu xa, hãy nhớ lại những tháng ngày chúng ta còn sống ở Việt nam hay ở bên các trại tỵ nạn. Quanh năm suốt tháng, từ sáng sớm tới chiều tối, trời mưa cũng như trời nắng, chúng ta phải lao động vất vả, cơm không đủ ăn, áo không có mặc, đau không thuốc uống, dẫu thân thể nhọc mệt vì lao lực, nhưng ngày ngày chúng ta vẫn sáng đi lễ, tối đọc kinh, bầu khí gia đình xem ra đạo đức, đầm ấm và hạnh phúc. Bây giờ sống trên những đất nước phù hoa, mọi sự đều sung túc, trời nóng có máy lạnh, trời lạnh có máy sưởi, ra đi có xe cộ, về nhà có truyền thanh truyền hình. Cuối tuần có nhiều thì giờ nghỉ ngơi, có nhiều thì giờ nhậu nhẹt, nhưng người ta không có thì giờ để đi lễ, để thờ phượng Chúa, để cảm tạ muôn hồng ân Chúa đã ban cho cuộc đời may mắn của họ. Và rồi từ đó, hạnh phúc gia đình họ cũng bắt đầu khủng hoảng.

Thật vậy, trong hoan lạc con người sẽ dễ quên mất Thiên Chúa và dễ đi tìm một thần tượng theo sở thích của mình.

Tôi thích lối giải quyết như trong câu chuyện của Jacob. Nó xem ra đơn giản nhưng hữu hiệu. Chính Thiên Chúa đã làm ông đi khập khễnh. Chính Ngài đã gây nên điều đó. Ngài đã để tai ương phá hại mùa màng, để quân thù giết hại dân lành. Ngài có thể can thiệp. Nhưng không, Ngài đã để chúng ta đau khổ.

Nhưng chắn chắn trong khi làm chúng ta đau khổ, Ngài muốn mang lại một cái gì tốt đẹp cho chúng ta từ đó.

Có bị thương vong, chúng ta mới trầm tĩnh con người chúng ta lại. Có khóc, chúng ta mới hiểu được những giọt lệ sầu của những người chung quanh. Có bị giam cầm, chúng ta mới thấy sự quí giá của những tháng ngày được tự do.

Nếu những người Do thái không bị thử thách, không bị đàn áp, không bị bóc lột, không bị khinh khi, không bị nguyền rủa, không bị đánh đập, không bị giết hại, không bị bắt làm thân trâu cày ở miền Aicập, Môisen không thể nào thuyết phục được họ lên đường trở về hứa địa. Nếu sa mạc cũng có đầy những hoa thơm trái ngọt, những giòng suối tươi mát, chắc chắn họ sẽ không thèm trở về đất hứa .

Thật vậy, không có một động lực nào thúc đẩy chúng ta hướng về ngày mai một cách hiệu quả hơn là ĐAU KHỔ. Đó là lý do tại sao thiên thần Chúa đã đánh vào đùi ông Jacob.

Lm. Lê văn Quảng

YÊU THẬT – MẤY AI?

YÊU THẬT – MẤY AI?

Mẩu Bút Chì

(Trích tập san ghxhcg tập 9)

conggiaovietnam.net

Những ngày đầu tháng 7 tại Huế

Xã hội ngày nay tràn ngập sự giả dối: hàng giả, học vị giả, đám cưới giả (chồng giả, vợ giả!); công ty ảo, tài chánh ảo, vinh hoa ảo; sống hình thức bề ngoài, xã giao hình thức bề ngoài, và… xây cất cũng hình thức bề ngoài nốt! Tình hình đó khiến lòng người cứ nơm nớp, hoang mang với hai xu hướng: Một là cảnh giác, e dè, thậm chí sợ hãi sự dối trá lọc lừa; hai là thèm được “gặp” cái thật, “ở chung” với “người thật, việc thật”. Thế nhưng mấy ai quyết chí SỐNG theo sự thật, TÌM KIẾM sự thật và XÂY DỰNG sự thật?

“Mấy ai” nghĩa là vẫn có, vẫn còn những “ai” – dù ít nhưng có. “Mấy ai” ấy phải mang trong mình một tình yêu rất thật, xuất phát từ Đấng Tối Cao, đủ mạnh để vượt qua tuổi tác, khó nghèo, và đủ thứ ngăn trở khác.

Tôi biết một linh mục già, đã quá tuổi “thất thập cổ lai hy” mà vẫn miệt mài ngược xuôi phổ biến giáo huấn xã hội của Giáo Hội, mong muốn xây dựng một xã hội lành mạnh, tôn trọng phẩm giá con người và trật tự luân lý.

Tôi biết một linh mục trẻ, vì nhiệt huyết rao giảng Tin Mừng, đã không ở yên nơi thâm nghiêm kín cổng cao tường mà can trường bước ra chốn đầu sóng ngọn gió, đứng mũi chịu sào.

Tôi còn biết nhiều linh mục khác, có tuổi cũng như trẻ tuổi, thương mến giáo dân vô cùng. Có vị ra tận ngõ đón đợi giáo dân (làm tôi cứ nhớ đến người cha nhân hậu trong dụ ngôn Tin Mừng), để mà truyền dạy hết lòng những bài học quý báu cho dù giữa trưa hè oi ả. Có vị “chẳng có gì làm của” ngoài sự khó nghèo, nhưng hễ được ai biếu món gì ngon lại gói ghém đem cho giáo dân, bề ngoài khiêm nhu hết mực nhưng bề trong lại chứa đựng một ý chí rất kiên cường. Có vị “tuổi đời còn mênh mông” nhưng dấn thân cho công lý, cho người nghèo không hề mệt mỏi, cho dù lắm lúc phải “tróc vẩy, trầy vi”.

Tôi biết có những tu sĩ nam nữ âm thầm trong đời sống khó nghèo, mai danh nhưng không ẩn tích, mà hòa vào dòng đời lắm lúc như những đợt sóng dữ. Ngày ngày la cà ở các bờ kênh hôi thối hay các khu nhà ổ chuột, lân la trò chuyện, đánh bạn với các trẻ đánh giầy hay bán bánh mì, vé số. Các vị ấy cũng làm thân với các cô gái phải bán thân để nuôi gia đình, hoặc những người mang những căn bệnh bị xã hội hất hủi rẻ khinh, để rồi trong ơn Chúa, tìm cách băng bó những mảnh đời bất hạnh, những tâm hồn tan nát ấy.

Đâu đó trong cuộc đời, tôi gặp những con người rất thành đạt, có học vị, có lợi danh. Nhưng họ lại làm tôi ngỡ ngàng, ngạc nhiên quá đỗi khi họ sống quá giản dị, đơn sơ. Họ làm việc hối hả để cống hiến cho đời. Họ như sợ những tháng ngày của đời người lướt qua như bóng câu qua cửa sổ. Và tôi cũng gặp những con người có cuộc sống thật túng thiếu, khó khăn, nhưng trái tim thật quảng đại. Họ như nhận ra Chúa mượn đôi chân họ để đến với tha nhân, mượn đôi tay họ để chăm sóc người nghèo. Đó là những người thật đáng kính trọng!

Sẽ là thiếu sót nếu chỉ thán phục, ngợi  khen những con người đáng mến ấy mà không nhắc đến những bậc làm cha mẹ, những người vợ, người chồng hay những người con đang âm thầm cổ vũ những hành vi đẹp, những hy sinh quên mình cho tha nhân. Họ hết thảy đều mang trong mình một tình yêu rất thật, rất đẹp, lấp lánh dung mạo của Thiên Chúa Tình Yêu.

Chẳng “mấy ai” nhưng nếu có kể cũng không cùng.

Tôi cũng biết một “chuyện tình” giữa những tâm hồn đồng điệu thật đẹp: “Mấy ai” Sài Gòn đi tìm “mấy ai” Huế để nối rộng vòng tay. Chỉ có bấy nhiêu mà sao như cảm thấy cả đất trời và lòng người đều nao nao xúc động.

Cơn mưa Huế bất chợt giữa mùa hè nóng bức như rửa trôi những căng thẳng, lo âu của lòng người, trả lại cho Huế cái nhẹ nhàng, lắng sâu. Cơn mưa như phép màu, như cái ôm hôn nhẹ nhàng của Chúa Cha nhân từ dành cho những đứa con bé nhỏ. Cơn mưa giữ chân người ở lại cùng nhau, để bày tỏ những điều cần thiết, để cởi mở và kết liên.

Rồi bữa cơm chia tay, cơn mưa lại đến, nhũn nhặn, nấn ná, để bầu khí trò chuyện càng thân tình. Bao nhiêu xúc động, suy tư, bao nhiêu trải nghiệm tuôn trào. Huế – Sài Gòn bắt tay nhau, nối kết nên một.

Sống cho sự thật vốn đã khó, yêu thật giữa dòng đời dối trá này lại càng khó hơn. Trong niềm tin tôn giáo, tôi tin tình yêu ấy đến từ trời: Một “tình yêu tay ba mang hình Thập Tự”, như tình yêu giữa Huế – Thiên Chúa – Sài Gòn.

Tôi luôn tin rằng mọi Tình Yêu chân chính bền vững – giữa cá nhân với cá nhân, tập thể với tập thể – đều phải có sự hiện diện của Chúa, Ngài ở giữa. Ngài là chất keo nối kết tuyệt vời.

Tác giả: Mẩu Bút Chì

Chính quyền Miến Điện bị chỉ trích trong vụ xe Liên Hiệp Quốc bị tấn công

Chính quyền Miến Điện bị chỉ trích trong vụ xe Liên Hiệp Quốc bị tấn công

Biểu tình phản đối phái viên đặc biệt Liên hiệp quốc Tomas Ojea Quintana, ở Sittwe, ngày  13,/08/ 2013.

Biểu tình phản đối phái viên đặc biệt Liên hiệp quốc Tomas Ojea Quintana, ở Sittwe, ngày 13,/08/ 2013.

REUTERS/Soe Zeya Tun

Anh Vũ

RFI

Hôm qua 21/8/2013, Phái viên đặc biệt của Liên Hiệp Quốc về nhân quyền Miến Điện Tomas Ojea Quintana chỉ trích chính quyền Miến Điện đã vô trách nhiệm để đoàn xe của tổ chức quốc tế bị tấn công trong khi đang làm nhiệm vụ tại nước này.

Tuần này, trong khi một đoàn xe của Liên Hiệp Quốc cùng phái viên đặc biệt Quintana đang đi thị sát một thành phố miền trung, nơi xảy ra các vụ bạo lực giữa cộng đồng Hồi giáo và Phật giáo hồi tháng ba vừa qua, thì bị một đám đông khoảng 200 người tấn công thô bạo. Họ đập kính xe, tung ra những lời chửi rủa các nhân viên Liên Hiệp Quốc. Dù không xảy ra xô xát lớn nhưng sự cố đã khiến các nhân viên của Liên Hiệp Quốc hoảng sợ.

Theo lời ông Quintana mô tả với báo chí thì ông đã không được cảnh sát bảo vệ gì mặc dù họ không ở cách xa đoàn là mấy. Đặc phái viên Liên Hiệp Quốc suy luận rằng qua vụ việc này ông đã hiểu được nỗi sợ hãi của những người dân bị truy sát trong vụ bạo lực trước đó.

Thành phố mà đoàn xe của phái viên Liên Hiệp Quốc bị đe dọa là Meiktila, nơi hồi tháng Ba, gần 13 nghìn người Hồi giáo, đã bị đuổi ra khỏi nhà phải chạy đến sống trong các trại tỵ nạn.

Sau vụ tấn công trên ông Ojea Quintana đã hủy chuyến thăm một trại đang có 1600 người Hồi giáo trú thân, đồng thời ông yêu cầu chính phủ phải kiềm chế ngay lập tức đám đông.

Đặc phái viên của Liên Hiệp Quốc không phủ nhận những thay đổi tích cực về tình hình nhân quyền tại Miến Điện, nhưng bên cạnh đó ông đánh giá tình hình ở tiểu bang Rakhine, nơi xảy ra các cuộc xung đột giữa cộng đồng Phật giáo với Hồi giáo vẫn là một mảng tối trong bức tranh cải cách của chính phủ Miến Điện hiện nay.

Những nghịch lý của nhà cầm quyền

Những nghịch lý của nhà cầm quyền

Thanh Quang, phóng viên RFA
2013-08-21

RFA

000_Del6229696-305.jpg

Anh Lê Quốc Quyết (trái), em trai của Luật sư Lê Quốc Quân tại một nhà thờ Công giáo tại Hà Nội ngày 07 tháng bảy năm 2013.

AFP photo

Ngay sau khi 2 sinh viên yêu nước Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha được tòa phúc thẩm cho giảm phân nửa án sơ thẩm, thì những người có tâm huyết với quê hương, dân tộc như doanh nhân Lê Quốc Quyết, LS Nguyễn Bắc Truyển, chị Bùi Minh Hằng, chị Trần Thị Nga, nhà báo Trương Minh Đức…bị côn đồ, công an hành hung, giữa lúc công an cấm người dân, phóng viên quay phim, chụp ảnh. Những nghịch lý đó nói lên điều gì ?

Doanh nhân Lê Quốc Quyết, em của LS Lê Quốc Quân đang tù tội, cho biết:

Dạ, thứ nhất là mình không lường được cách hành xử của chế độ độc tài. Tức là nó phi logic lắm. Mình rất khó nói về các diễn biến, bởi vì nó đã có vấn đề rồi, thì nó luôn luôn xảy ra những vấn đề mà mình không lường được. Cho nên, chuyện Nguyễn Phương Uyên được thả thì hết sức vui mừng.

Ban đầu, tôi cảm nhận đây là một tín hiệu tốt cho cái chung, là tiền lệ rất tốt. Tức là lần đầu tiên, một cô bé yêu nước một cách trong sáng, quyết tâm bảo vệ chính kiến của mình cho đến cùng nhưng lại được án treo và được thả ngay tại tòa, thì đây là một tín hiệu rất vui mừng. Cộng với việc xung quanh phiên tòa, lúc đầu người ta bố ráp, bắt bớ, nhưng sau đó họ để cho đi diễu hành như thời cụ Phan bội Châu đòi trả tự do cho người yêu nước. Những người ủng hộ Uyên-Kha diễu hành khắp chợ Tân An như thế thì thấy tưởng như dân chủ bắt đầu lan tỏa khắp nước VN rồi.

Những viên công an mật vụ họ cố tình làm sai trong khi nhà nước này cho nó có quyền lực dường như vô biên vì cái gọi là “an ninh quốc gia”, có khả năng xuyên phá các ngành nghề khác.
– Anh Lê Quốc Quyết

Tuy nhiên, qua chuỗi dài sự đàn áp cùng cách hành xử của giới cầm quyền và công an cho tới giờ cộng với việc những người có được dư luận quốc tế tốt như anh Điếu Cày, anh Lê Quốc Quân cũng chưa có tín hiệu gì tốt lành trong khi người thân bị đàn áp, rồi bao nhiêu bạn bè thân hữu khác tiếp tục bị đàn áp, thì tôi thấy, có thể, trong bộ máy cai trị có vấn đề: Người làm thì ít mà người phá thì nhiều.

Một mặt, những người chủ trương thân phương Tây có những động thái nhằm xoa dịu hình ảnh VN trên trường quốc tế bằng việc xử những án nhẹ đối với người yêu nước, thì ngược lại, những phe khác cố phá mối quan hệ đó bằng cách cho đánh phá, bắt bớ, gây gổ với nhiều người, ảnh hưởng đến hình ảnh của VN.

Thanh Quang: Như vậy thì người dân, nhất là những người có tâm huyết với đất nước, vận nước, quê hương, dân tộc phản ứng như thế nào?

Anh Lê Quốc Quyết: Có lẽ giới cầm quyền đã chọn cái cách là đẩy người dân đến bước đường cùng. Cá nhân chúng tôi là người rất ôn hòa. Đặc biệt khi đối mặt với nhân viên công lực thì tôi hết sức ôn hòa. Nhưng cảnh hành hung của công an, cái hung dữ của họ, họ thật sự là thú tính. Thực ra, những người chưa trải nghiệm này luôn luôn đặt câu hỏi, như sáng nay, những luật sư gọi điện cho tôi hỏi rằng liệu mình có làm cái gì nó không ? Có cái gì đó không mà nó tấn công như thế ? Nhưng đó là những người chưa thực sự trải nghiệm những hành động dã man của cơ quan công lực hoặc những viên mật vụ của VN.

Cá nhân chúng tôi gặp phải những hành động ấy diễn ra hàng ngày, và mình cố giữ hết sức ôn hòa, luôn luôn kêu gọi công an sắc phục can thiệp. Bởi vì những người đánh đập tôi thì tôi nhớ mặt, nhớ biển số xe, và tôi xác định rõ ràng đó là những người theo dõi tôi. Nhưng công an lại đứng thờ ơ. Cho nên, nỗi bức xúc sẽ đẩy người dân đến bước đường cùng, buộc họ phải đối đấu trực diện vì không còn cách nào khác.

Riêng cá nhân tôi, tuy thường xuyên bị tấn công, nhưng tôi thấy rất bình an, kể cả việc tôi có chết trước trụ sở công an TP Bà Rịa thì tôi thấy bình an thôi, vì mình thuộc lẽ phải nên không có gì e ngại cả. Và tôi hy vọng nhiều người dân sẽ cảm nhận được việc này. Và càng ngày họ càng dám dấn thân hơn.

Lá bùa “an ninh quốc gia”

000_Del6229699-250.jpg

Nghệ sĩ Violon Trí Hải trong một buổi cầu nguyện cho LS Lê Quốc Quân hôm 07/7/2013 tại Hà Nội. AFP photo

Thanh Quang: Trước khi trở lại điểm mà anh vừa nói, tức là sự tàn ác của công an hiện nay, thì hành động của công an khiến những người có tâm huyết với đất nước, cũng là nạn nhân của công an, phải phản ứng, chẳng hạn như ghi hình, quay phim về hành động sai trái, tàn ác của công an. Nhưng mới đây, cảnh sát giao thông lại cấm người dân, phóng viên quay phim, chụp ảnh – điều mà LS Trương Anh Tú thuộc Đòan LS TP Hà Nội cho là “trái luật”. Anh nhận xét như thế nào về văn bản của công an cấm người dân quay phim, chụp hình như vậy ?

Anh Lê Quốc Quyết: Tôi nghĩ nếu mình đứng ở góc độ của kẻ cầm quyền, đặc biệt những kẻ cầm quyền độc tài họăc những nhóm quyền lợi, thì những văn bản đó, đương nhiên nó sẽ ra, mà thậm chí còn ra những văn bản hà khắc hơn nữa. Bởi vì xu hướng độc tài, xu hướng họ bảo vệ quyền lợi cho chính họ – tức xu hướng họ sử dụng pháp luật như công cụ để bảo vệ họ, bảo vệ nhóm quyền lợi và chế đố độc tài. Cho nên việc họ ra văn bản ấy thì tôi không ngạc nhiên.

Nhưng tôi chỉ ngạc nhiên về chuyện họ muốn quan hệ hợp tác với nước phương Tây, hợp tác một cách tòan diện, mà họ lại tiếp tục hành vi ngăn cấm dư luận cũng như ra những quyết định, nghị định kỳ quặc như thế thì thấy trái ngược với chủ trương như họ tuyên bố. Tức hành động của họ trái ngược với tuyên bố của họ.

Thanh Quang: Trở lại hành động công an, thưa anh Lê Quốc Quyết, Thiền sư Thích Nhất Hạnh có lần đã nói về xã hội đen và công an rằng họ tuy hai mà là một. Và trong tình hình người dân tiếp tục là nạn nhân ngày càng đáng ngại của công an, thì nhạc sĩ Tô Hải có báo động rằng người dân vào đồn công an còn là người sống nhưng khi ra khỏi đồn công an trở thành người chết. Anh nhận xét vấn đề này, nói chung, như thế nào ?

Anh Lê Quốc Quyết: Thứ nhất, về nhận xét của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, tôi nghĩ, cho đến bây giờ, đầu tiên là ngành ngọai tuyến, tức những viên công an mật vụ, họ cố tình làm sai trong khi nhà nước này cho nó có quyền lực dường như vô biên vì cái gọi là “an ninh quốc gia”, có khả năng xuyên phá các ngành nghề khác.

Qua chuỗi dài sự đàn áp cùng cách hành xử của giới cầm quyền và công an cho tới giờ thì tôi thấy, có thể, trong bộ máy cai trị có vấn đề: Người làm thì ít mà người phá thì nhiều.
– Anh Lê Quốc Quyết

Họ lợi dụng cái cớ “an ninh quốc gia”. Những nhân viên công lực ấy có cái thẻ mà tôi thấy mỗi lần họ bám theo chúng tôi, chẳng hạn như tôi đang đi bằng xe hơi, nó đi xe Honda, khi xuống tầng hầm cấm xe Honda, họ đưa thẻ thì đi qua hết. Họ bám theo chúng tôi xuyên suốt dù có tới tận rừng cao su ở Tây Ninh đi chăng nữa, thì họ vẫn đưa cái thẻ đấy, và tất cả ban ngành đều phải theo lời nó. Họ chỉ dẫn thế nào thì phải làm theo thế đấy. Cho nên nhà cầm quyền cho họ một quyền lực quá sức, dẫn đến việc lạm quyền. Họ lạm quyền lại lôi các ngành nghề khác vào nữa.

Trường hợp như thế, như Thiền Sư Nhất Hạnh đã nói, thì rõ ràng là công an và côn đồ là một. Đặc biệt là lực lượng ngoại tuyến, là lực lượng đã từng đánh đập chúng tôi cũng như những người bạn của chúng tôi. Thì chính họ là côn đồ chứ không phải họ sử dụng côn đồ nữa. Và tôi nhớ mặt họ. Hành vi của họ là côn đồ.

Còn việc bác Tô Hải nói người dân vào đồn công an là người sống mà ra đồn công an là người chết thì thực ra có nhiều trường hợp. Đó là vào đồn công an còn sống, ra đồn công an là chết: chết về mặt thể xác cũng như tâm hồn. Có những người ra khỏi đồn công an, thể xác còn sống nhưng tâm hồn họ bị hỏang lọan hoặc bị tha hóa. Kể cả trong trại giam cũng thế, vào thời điểm này. Nhưng tôi nghĩ nếu trại giam của thời Chí Phèo tha hóa con người thế nào thì xã hội ở thời buổi này, trại giam thời buổi này cũng tha hóa những người tù thường phạm còn thậm tệ gấp 10 lần so với thời Chí Phèo của Nam Cao nữa.

Như vậy rõ ràng là họ chết cả thể xác lẫn tâm hồn. Nhưng đối với cá nhân chúng tôi hoặc những anh em đấu tranh có lý tưởng, thì thực ra, tâm hồn chúng tôi vẫn bình an, và chúng tôi vẫn sống mãnh liệt – càng mãnh liệt hơn.

Thanh Quang: Xin cám ơn anh Lê Quốc Quyết.

BÓNG GIÁO ĐƯỜNG NƠI TRẠI PHONG

BÓNG GIÁO ĐƯỜNG NƠI TRẠI PHONG

Ngày tôi dâng Thánh lễ tạ ơn Linh mục ở quê nhà là một ngày có những kỷ niệm in sâu.  Giữa bao nhiêu khách mời, có một nữ tu đến muộn.  Muộn vì chị ở một nơi xa.  Xa cả khoảng cách không gian, và xa cả khoảng cách tình người.  Chị sống với những người cùi ở Tây Nguyên, nơi con người ngại lui tới.  Chị không gọi họ là “cùi,” chị gọi họ là những người “phong,” để làm dịu đi thực tế của căn bịnh, và làm dịu đi cái ấn tượng về những con người kém may mắn này.

Hơn 30 năm trước, chị dạy tôi giáo lý và cách sống đạo, rồi chị sống những điều chị dạy.  Tha nhân, niềm đau khổ, tình thương, và lòng cảm thông không còn là bài giáo lý trên những trang sách.  Chị biến những trang sách bằng giấy, thành trang sách của tâm hồn.  Rời giáo xứ ấm áp tình người, để đến nơi xa xôi thiếu bước chân con người.  Những hình ảnh tưởng chừng như chỉ có trong tiểu thuyết.

Hôm nay chị ghé qua nơi giáo xứ mà chị đã phục vụ khi tuổi còn thanh xuân, để xem người học trò năm xưa dâng lễ tạ ơn.  Chị không lái xe.  Người tài xế đưa chị bằng xe Honda là một người cùi.  Chị không ngại ngồi bên anh, tình thuơng phục vụ lớn lao hơn sự sợ hãi.  Chị đã lặng lẽ ngồi bên cạnh những người cùi cả một quãng đời dài.

Chị gần họ, hiểu nỗi đau và niềm cô đơn.  Cô đơn trong tình người, và cô đơn giữa những người cùng đạo.  Chị hiểu hơn điều này khi thấy người bạn cùi cùng với chị đến gần với giáo đường hôm nay, nhưng anh thấy mình thật xa lạ.  Anh ngại đứng bên những người lành lặn, nên chọn một góc xa cho riêng mình ở phía cuối cổng giáo đường.  Anh không ngại đứng xa, vì cả cuộc đời, anh đã sống ở một góc xa ở phía cuối cổng cuộc đời.

Anh nhìn những bước chân vội vã của trẻ thơ đi về giáo đường, những chiếc áo dài thướt tha của xóm đạo, những bộ vét sang trọng của người đi tham dự lễ tạ ơn, và cả những chiếc áo dòng bóng bẩy của nhiều tu sĩ trẻ.  “Giáo hội sang trọng quá,” anh thốt lên với người nữ tu khi tan lễ.  Chị cũng tỏ ý đồng tình,  “Ừ, vui hơn ở trong trại cùi.”

Trại cùi có gần một trăm em, không kể người lớn.  Nó ở một nơi hẻo lánh của miền tây nguyên.  Mảnh đất núi đồi, thiếu thốn phương tiện.  Thiếu thốn nhất là nguồn nước, điều kiện cần thiết cho những người bịnh phong tắm rửa mỗi ngày.  Các em sinh ra không có sự chọn lựa cho số phận của mình, vậy thì làm sao có được những bước chân rộn rã như trẻ thơ xóm đạo.  Người nữ tu biết những thánh lễ nơi xóm đạo là vui, nhưng lại chọn đến ở một nơi buồn.

Chị mang hình ảnh giáo đường đến với những con người vì số phận không dám đến với giáo đường.  Trong ý nghĩa sâu xa nhất, chị là hình ảnh của giáo đường.  Thầm lặng, không rộn vang tiếng hát, không có những tà áo dài thiết tha, nhưng có nhịp thở và trái tim rung cảm của cảm thông.

Ở nhiều nơi, giáo đường không có Thánh lễ nên giáo đường trở nên trống trải.  Nhưng có Thánh lễ mà không tiếp tục lễ hy sinh trong cuộc sống thì vẫn chỉ là những nghi lễ hững hờ.  Khi Chúa Giêsu truyền dạy, “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy,” Chúa không chỉ có ý truyền cho giáo hội cử hành Thánh lễ mỗi ngày nơi bàn thờ, mà là truyền dạy sống Bí Tích Thánh Thể qua hành động như Ngài hành động: trở nên bánh và rượu để nuôi dưỡng sự sống cho thế giới.  Mỗi một nghĩa cử yêu thương là bánh, mỗi một chọn lựa hy sinh, dâng hiến là rượu.  Tình yêu trao ban và lòng hy sinh làm nên thánh lễ cuộc đời.  Người mẹ thức khuya lo lắng cho con, người cha lam lũ cho cuộc sống tươi xinh của gia đình, hay như người nữ tu hiến dâng một đời cho những con người bất hạnh, tất cả đang sống mầu nhiệm Thánh Thể. Trở nên bánh và rượu cho anh chị em mình là đang tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô.  Thánh lễ trở nên thiết thực quá, không riêng gì cho Linh mục, nhưng cho tất cả mỗi Kitô hữu, biết sống cho tha nhân.

Khi Thánh lễ Tạ Ơn Linh Mục kết thúc, người nữ tu đến chào.  Ánh mắt chị vui, long lanh, xen nỗi xúc động.  Chị nói, “Chị đến xem em dâng lễ ra sao!  Vui quá”.  Thánh lễ vui thật vì có hoa, có nến, có ca đoàn rộn vang tiếng hát, có tấp nập bước chân, có cả quay phim và tiệc mừng nữa.  Nhưng Thánh lễ vui chỉ là khởi điểm bắt đầu của hy lễ hiến tế.  Để mời gọi sống những Thánh lễ trong cuộc đời có niềm vui xen lẫn nước mắt, có hạnh phúc và đau khổ, có nhận lãnh và mất mát, được yêu thương và có cả phản bội nữa.

Tôi nói với chị, “Thánh lễ em dâng hôm nay có hoa, có nến, có rộn vang tiếng hát, và có ngàn nụ cười trên môi.  Còn thánh lễ chị dâng trong cuộc đời bên những con người đau khổ, thiếu vắng nụ cười, để nuôi dưỡng sức sống và niềm hy vọng cho một phần thân thể đau khổ của Đức Kitô, thật sự là sống trọn vẹn bí tích Thánh thể: trở nên bánh rượu cho thế giới.”

Khi nắng chiều xuống dần, chị theo xe cùng người bạn cùi trở về nơi xa xăm.  Tôi đứng nhìn bóng dáng họ khuất dần theo nắng nhạt.  Ở phía xa, lác đác ánh điện đường bắt đầu sáng.  Xe chị không dừng lại giữa phố phường sáng rực, nhưng lăn lóc qua những làng quê tĩnh lặng, mộc mạc, khuất lấp giữa núi đồi.  Chị mang Thánh Lễ và mang cả bóng Giáo đường đến với nhiều cuộc đời ngổn ngang đang sống ở nơi xa xăm nhất của tình người.  Tôi nhìn bóng dáng chị, rồi nghĩ đến Thánh Lễ đời mình.

Những năm Linh mục qua đi với nhiều Thánh lễ nơi bàn thờ, nhưng lòng vẫn mãi băn khoăn, bao giờ mình mới sống trọn vẹn mầu nhiệm Thánh thể như người nữ tu ấy.  Bao giờ mình mới trở nên bánh rượu đích thực như chính Đức Kitô để nuôi dưỡng sự sống cho thế giới?  Hiến lễ nào cũng có giây phút bắt đầu, nhưng kết thúc lời kinh lại chỉ diễn ra qua những hành động trao ban.  Cuối Thánh Lễ sáng nay, tôi nguyện thầm với Chúa:

Lạy Chúa, xin cho thánh lễ con dâng mỗi ngày giúp biến đổi nghi lễ thành hành động yêu thương.  Xin cho lời truyền của Thầy Chí Thánh “Hãy làm việc này mà nhớ đến thầy” thôi thúc chúng con hành động vì tha nhân, như hình ảnh người nữ tu hao gầy trở nên bánh rượu cho một phần nhân loại khao khát tình người.  Có khi phần nhân loại khao khát ấy lại chính là những con người cụ thể luôn hiện diện trên từng lối đi của đời con.

Nếu lễ dâng được cử hành mỗi ngày nơi giáo đường, thì hành động trao ban của chúng con cũng cần được diễn ra nơi bàn thờ của cuộc sống như một hy lễ nối dài.  Nếu được như thế, Thánh thể sẽ trở thành nguồn sức sống cho gia đình con, cho cộng đoàn, và cho cái thế giới quanh con đang cần được nuôi dưỡng bằng niềm hy vọng.  Những Thánh Lễ ấy, tuy không có tiếng hát, không có hoa, có nến, không có những bài giảng hùng hồn, nhưng lại là những Thánh Lễ mang đến sức sống cho nhiều tâm hồn.  Con không thể mang Giáo đường vào cuộc sống, nhưng xin cho con trở nên bóng giáo đường giữa lòng đời, như người nữ tu hao gầy bé nhỏ, nhưng có một trái tim có khi lớn lao hơn cả những Giáo đường lộng lẫy nhưng thiếu vắng tình thương.

Nguyễn Thảo Nam

From: langthangchieutim@gmail.com &

Anh chi Thu Mai goi

Người con nào thì cũng thương mẹ

Người con nào thì cũng thương mẹ

(Bài ca của người du tử)

Tác Giả : Thái Phương

Tôi đậu cử nhân Luật năm 1971. Ít lâu sau thì xin được vào tập sự tại văn phòng của một vị luật sư khá nổi tiếng bạn thân với bố vợ tôi. Làm luật sư tập sự thì nhàn, đồng lương tương đối cũng khá. Hàng tuần, đi làm về tôi thường tới Trung tâm văn hóa Nhật ở đường Phan Ðình Phùng học thêm tiếng Nhật. Học cho biết vậy thôi, nghề luật sư không đòi hỏi phải biết tiếng Nhật. Sau ba năm tập sự, tôi thi đậu và được Luật sư đoàn công nhận luật sư chính thức, cho phép treo bảng đồng, lập văn phòng riêng.

Chưa đầy một năm sau thì tôi thôi không làm luật sư nữa mà cũng thôi không đi học tiếng Nhật, bởi vì các trung tâm ngoại ngữ đã đóng cửa. Tôi trông nom con cái cho vợ tôi đi dạy, thỉnh thoảng cũng kiếm ăn được chút đỉnh do liên lạc với các trung tâm dịch vụ pháp lý. Người ta đưa các đơn từ, giấy má tiếng Nhật hoặc tiếng Anh đến, chúng tôi dịch phụ. Tiền bạc trung tâm tính toán rất tốt nhưng cũng chẳng được bao nhiêu.

May sao thời kỳ mở cửa, nhờ chút ngoại ngữ tôi nộp đơn xin được vào làm trong một khách sạn kiêm nhà hàng sang trọng. Tôi giữ chân tiếp đón khách, mời họ ngồi vào bàn, ghi những món họ muốn dùng, báo cho nhà bếp biết rồi các cô tiếp viên bưng ra. Tiền lương đỡ lắm, đã vậy mà mỗi cuối tháng chúng tôi còn được thưởng thêm, vợ tôi có vẻ yên tâm lắm.

Một hôm ông giám đốc khách sạn cho người gọi tôi lên văn phòng ở trên lầu. Ông chỉ chiếc ghế trước mặt trong căn phòng lạnh bảo tôi ngồi rồi cầm gói thuốc ba số năm trên bàn mời tôi hút:

– Anh quản lý nói anh biết nói tiếng Nhật ?

– Vâng. Thưa ông giám đốc, ngày trước tôi có học tại trung tâm Nhật ngữ vài năm, giao dịch cũng đỡ nhưng bỏ lâu không xài nên đã quên nhiều.

– Bây giờ còn sử dụng được chứ ?

– Vâng, có lẽ tạm được.

– Vậy thì tốt. Công việc tôi cần nhờ anh là thế này anh Trình ạ…

Ông ngắt ngang câu chuyện, với tay lên chiếc giá ở phía bên cạnh lấy hai chiếc cốc cao cẳng bằng pha lê rồi mở một chai Champagne của Pháp, rót ra hai ly, đặt trước mặt tôi một ly: Mời anh !

– Xin cám ơn ông giám đốc.

– Cứ uống đi mà. Chúng ta làm hết chai này, vừa uống vừa nói chuyện…

Ông này là tay sành sỏi, điệu nghệ. Bây giờ ông mới mở cái món bài tủ là rút trong ngăn kéo ra một gói Dunhill ‘black label’ mới tinh còn nguyên xi chưa bóc giấy bóng, gỡ giấy kiếng, bảo tôi dụi điếu thuốc ‘ba số’ vào chiếc gạt tàn rồi lịch sự cầm cả gói chìa về phía tôi, mời tôi hút.

– Champagne Pháp phải đi đôi với thuốc Ăng-lê mới tốt !

– Vâng, thưa ông giám đốc.

– Nào, mời anh !

– Không dám, mời ông giám đốc.

Chúng tôi nâng ly. Khốn khổ, rượu Champagne dù loại ‘chính hiệu’ của Pháp hoặc thuốc lá Dunhill ‘black label’ đi nữa đối với một luật sư như tôi cũng đâu có lạ. Vậy mà bây giờ sao tôi thấy nó ngon thế, cứ mát cả ruột! Nhưng cũng sờ sợ, phải có chuyện gì ông giám đốc mới ‘ưu ái’ với tôi đến thế !

– Bên công ty du lịch họ báo cho chúng ta biết khách sạn chúng ta sắp đón một vị khách quan trọng. Ông này người Nhật, muốn đích thân sang xem xét, ký kết hợp đồng về các máy móc điện tử hay chế tạo linh kiện điện tử gì đó tôi không biết rõ. Họ nhờ chúng ta… Nói thật ra là họ chỉ thị chúng ta phải biệt đãi với khách. Phải dùng mọi cách làm thế nào khách được vừa lòng.

– Thưa ông giám đốc, chúng tôi vẫn tiếp đãi hết sức lịch sự vói mọi khách hàng.
– Ðúng thế, tôi hiểu. Nhưng theo tôi biết, ông giám đốc này hình như hơi già nên rất khó tính. Ví dụ trên công ty họ báo ông ta chỉ dùng tiếng Nhật, không dùng bất cứ một thứ tiếng nào khác. Ngoài ra, có lẽ cũng vì tuổi tác, tính nết ông ta cố chấp, khắc khổ, không thích giao thiệp với mọi người.

Xương sống lưng tôi lạnh toát. Tôi hiểu ông giám đốc khách sạn đang muốn đề cập chuyện gì. Quả nhiên, ông ta kết luận: – Tôi đã bàn tính với ông quản lý. Trường hợp này ta phải dùng tới một người tương đối lớn tuổi, có căn bản học vấn – nghĩa là dùng người trí thức đàng hoàng chứ không thể đưa ra mấy cô chiêu đãi viên trẻ đẹp hoặc vài nhân viên thông dịch tiếng Anh tiếng Nhật bình thường. Anh đồng ý với tôi chứ ?

Ðồng ý cái khỉ khô! Tôi là anh bồi khách sạn chứ là cái quái gì mà đồng ý với không đồng ý.

– Thưa ông giám đốc, tôi nghĩ cũng đúng.

– Xét trong khách sạn, anh phù hợp với các điều kiện đó. Tôi chỉ định cho anh làm công tác mới giúp đỡ khách sạn. Nếu anh tranh thủ được cảm tình của ông ta, chẳng những khách sạn có hoa hồng riêng cho anh mà bên đầu tư cũng có phần thưởng. Họ hứa như vậy. Còn nếu không tranh thủ được…

Ông ta bỏ lửng song tôi hiểu. Có thưởng thì phải có phạt. Nếu tôi loạng quạng, không làm nên cơm cháo sẽ b mất vic, ở nhà nấu cho vợ dễ như chơi. Tình hình như vậy, biết nói cách nào bây giờ ?

– Thưa ông giám đốc, tôi không giám nghĩ tới việc được thưởng nhưng sợ tiếng Nhật lâu không xài, tôi quên mất nhiều…

– Ðược, nhớ tới đâu dùng tới đó. Anh cứ yên tâm, tôi sẽ đích thân trông coi việc này và sẵn sàng cung cấp cho anh mọi phương tiện, kể cả tài xế và nhân viên khuân vác hành lý cho khách nếu cần. Dứt khoác chúng ta phải tranh thủ bằng được cảm tình của ông ta.

– Vâng, thưa ông giám đốc, tôi sẽ cố gắng.

Tôi dợm đứng dậy. Ông giám đốc ngăn lại, lục các giấy tờ trên bàn: – À này, họ cho tôi biết tên ông ta là Kwann Tae Palms… Quái, cái giấy tôi bỏ đâu mất rồi?.. À đây… Anh nhớ cho rõ, chỗ nào tôi cũng ghim sẵn người của ta, sẵn sàng hậu thuẫn cho anh một cách tốt đẹp. Anh đã có đồ vét, cravát… chưa nhỉ ?

– Thưa có.

– Vậy thì tốt. Anh cầm giấy này xuống phòng kế toán bảo cô thủ quỹ tôi quyết định ứng trước cho anh hai tháng lương. Ðây, giấy tạm ứng đây. Nếu công việc tốt đẹp sẽ tính vào tiền thưởng.

– Vâng, cám ơn ông giám đốc.

Tôi đi, tay cầm mảnh giấy. Kỳ lạ, tại sao ông ta lại tên Kwann Tae Palms, chẳng giống với Nhật chẳng giống với Tàu? – Riêng cái họ – Palms – thì giống với Mỹ. Theo tôi hiểu, người Nhật tên họ thường là Watanabe, Saburo, Yamamoto, Fuda, Fudo, Honda, Yamaha, Suzuki .v.v… Ngay đến cái tên cũng khó hiểu thế chẳng trách ông ta già, khó tính, lẩm cẩm, cố chấp, chỉ nói tiếng Nhật, không thèm nói tiếng Anh tiếng Pháp. Ôi, tôi mất việc dễ như chơi!

Hôm sau, tôi và anh phụ tá được chiếc xe du lịch màu trắng mới tinh gắn máy lạnh đưa ra phi cảng, đón ông giám đốc Nhật tận chân cầu thang máy bay. Ðây là ngoại lệ. Theo tôi hiểu, đáng lẽ chúng tôi chỉ được đón ở phía trong, sau khi ông ta đã làm thủ tục, khám xét, trình các giấy tờ.

Sau cái liếc mắt ‘ra hiệu ngầm’ của cô tiếp viên phi cảng, tôi sửng sốt: ông giám đốc Nhật trông còn trẻ, chỉ trạc ngoài bốn mươi ngang với tuổi tôi, nét mặt già dặn có thể nói là rất có duyên, nước da ngăm ngăm đen, mắt hai mí trông nhanh nhẹn tháo vát chứ không ‘một mí’ như mắt người Nhật hay người Ðại Hàn. Ðặc biệt, ông ta ăn mặc theo kiểu khách du lịch, áo sơ mi ca rô sọc chìm, quần jean, áo bỏ trong quần với sợi dây xanh tuya to bản bằng da cá sấu, giầy Adidas màu trắng. Chà chà, tôi thấy ông ta đẹp trai quá, không già lão, ‘khó tính’ một chút nào hết.

Anh phụ tá đỡ giùm chiếc va ly trong khi tôi cúi đầu thật thấp theo kiểu người Nhật, nghĩa là cứng đong đong như khúc gỗ bị bẻ gẫy, chắp tay trước ngực và cố ‘nặn’ ra từng tiếng Nhật: – Kôn ni chi wa, y ô ku i ras shai ma shi ta. Hi ji ma shi te ? (Xin kính chào ngài, chúng tôi rất vui mừng được tiếp đón ngài. Thưa ngài đi đường bình an chứ ạ?)

Ông ta ngớ người nhìn tôi, nhíu mày suy nghĩ như cố nhớ lại điều gì. Sau đó ông ta nhún vai, quyết định trao chiếc cặp Xăm-xô-nai cho cô tiếp viên xách giúp, rồi cũng chắp tay, cúi đầu thật thấp chào lại: – Kônnichiwa! Yôku irasshaima****a! (Xin kính chào ông! Tôi rất vui mừng được gặp gỡ ông!)

Giọng ông ta nhanh và mạnh, tất nhiên thông thạo như… tiếng mẹ đẻ chứ không ỳ ạch như tôi. Tôi đoán rằng tôi nói ‘hay’ quá nên thấy ánh mắt ông ta có gì vui vẻ, tinh nghịch pha lẫn nụ cười. Tôi lại hăng hái ‘nặn’ tiếp và tự giới thiệu: – Wa ta shi wa Trinh de su, ho te ru Y… y a dô zo yo ro shi ku! (Thưa ngài, tôi tên là Trình, nhân viên khách sạn Y… rất sung sướng được cử đến đây đón tiếp ngài !)

Nét mặt ông giám đốc Nhật vui hẳn lên, ông mỉm cười nhìn tôi sau đó cũng tự giới thiệu: Watashi wa ‘Kwann’ desu, dôzoyoroshiku! (Thưa ông tôi tên là Kwann, rất sung sướng được cử đến đây gặp ông)

Tiếng Nhật dùng ý giống như tiếng Việt hay tiếng Tàu, nhân xưng đại danh từ ‘tôi’ và ‘chúng tôi’ nhiều khi dùng chung với nhau, những tiếng như ‘irasshaima****a’‘yoroshiku’ vừa có nghĩa là đón tiếp lại vừa có nghĩa là gặp gỡ, tùy câu sử dụng. Hừ, lạ thật, tôi là anh bồi khách sạn chứ có phải là một VIP nào đâu mà ông ta nói rất sung sướng được ‘cử’ đến đây ‘gặp’ tôi? Ngoài ra tôi để ý thấy những câu ông ta dùng đều… bắt chước tôi y chang nhưng thu gọn lại, nhanh và thông thạo hơn. Tại sao ông ta chọc ghẹo tôi với ánh mắt hóm hỉnh như vậy? Tôi nói tiếng Nhật có gì sai sót chăng?

Kiểm tra và làm thủ tục tại khu hải quan tương đối đơn giản do có ‘người của ta’ xong, chúng tôi ra xe. Ông giám đốc Nhật đi lầm lối khác, tôi đưa tay lễ phép: Kô chi ra e dô zô! (Xin mời ngài đi lối này!) Ông khách giật mình ngửng lên, vui vẻ: – Arigatô, zogaimasu! (Vâng, xin cám ơn)

A, bây giờ thì ông ta không ‘bắt chước’ tôi nữa. Tôi thấy có cảm tình với ông ta. Rõ ràng là ông ta mau mắn, lịch duyệt, không già nua, khắc khổ như ông giám đốc khách sạn đã cho biết.

Anh tài xế đã đợi sẵn bên cạnh chiếc xe, vội vàng mở rộng các cửa mời mọi người lên và xếp va ly vào phía đằng sau. Ông giám đốc ra hiệu cho tôi ngồi bên cạnh ông ta, anh phụ tá ngồi bên trên với tài xế, sau đó xe chuyển bánh lướt êm, máy lạnh mát rượi.
Xe chạy qua cổng Phi Long, vị khách luôn luôn nhíu mày nhìn những tấm bảng quảng cáo ‘vĩ đại’ có vẻ suy nghĩ.. Cặp mắt ông ta đăm chiêu, tò mò nhìn từng gốc cây, từng ngôi nhà lớn hiện đang xây cất ở hai bên đường Nam kỳ khởi nghĩa tức Công Lý cũ, không hiểu ông ta thấy nó thế nào so với bên Nhật.

Tôi nhẹ nhàng lấy gói ba số 5 và chiếc hộp quẹt ga mới tinh mang dấu hiệu Công ty du lịch Việt Nam, lễ độ mời khách:- Ip pon i ka ga de su ka ? (Xin kính mời ngài hút thuốc ?)

Ông ta giựt mình quay lại, nhíu mày khe khẽ lắc đầu: – Kekhô desu, arigatô! (Không, tôi không muốn hút, xin cám ơn!) Ðoạn, không hiểu nghĩ sao, ông ta cầm gói thuốc, ngắm nghía hồi lâu rồi bỗng ngửng lên nhìn tôi:- Do you usually smoke this kind of Three Fives cigarette?

Ôi chao, vậy thì ông ta cũng nói tiếng Anh chứ đâu phải chỉ dùng tiếng Nhật một cách cố chấp? Tôi sung sướng quá bèn khẽ lắc đầu, buột miệng nói như cái máy: – Oh no, sir, we don’t.

Ông ta hỏi tại sao, tôi đáp ‘because… ‘rồi cũng chẳng biết because… như thế nào nữa, bèn trả lời thành tht:- Because this kind of cigarette is more and more expensive than our salary, out of our ability.

Vị khách bật cười, rồi tự nhiên ông ta cười lớn khẽ vỗ vai tôi thân mật như một người bạn. Tiếng Anh ông ta dùng còn thông thạo hơn cả tiếng Nhật mẹ đẻ của ông ta: ‘Ồ, ông bạn thân mến, ông bạn nghèo lắm phải không?’. Tôi lắc đầu: ‘Không, tôi không quá nghèo nhưng cũng không nghĩ rằng tôi giàu. Chúng tôi tiết kiệm tiền bạc’. Vị khách trẻ gật đầu lia lịa:

‘Vâng, vâng, tôi hiểu. Tôi cũng có một vài người bạn Việt Nam ở hoàn cảnh của ông. Thỉnh thoảng tôi có gửi quà sang tặng họ’.

Chà, tay này được quá, người Nhật mà biết hoàn cảnh của người Việt Nam, thỉnh thoảng gửi tiền sang tặng, thật đúng kẻ có lòng.

Xe chạy ngang qua cửa Nhà khách Thống Nhất, bên trái là Nhà thờ Ðức Bà. Vị khách ngắm nghía ngôi nhà thờ lớn nhất miền Nam, gật đầu có vẻ vừa lòng. Sau đó tự nhiên ông ta hỏi tôi: ‘Tôi đoán trước năm bảy lăm ông bạn là một luật sư?’. Tôi giật mình kinh ngạc: ‘Vâng, trước đây tôi theo ngành luật. Nhưng tại sao ngài lại biết điều đó?’. Ông ta cười trả lời: ‘Tôi biết những điều người khác không biết’.

Xe về tới đường Ðồng Khởi và từ từ táp vào lề trước khách sạn. Các cô tiếp viên ra đón, xách giùm va ly cho khách. Ðích thân ông giám đốc cùng nhiều người khác dẫn vị quý khách lên lầu, giới thiệu từng ưu điểm của căn phòng hạng nhất, sang trọng.

Lúc tôi xuống, ông giám đốc đứng nán lại chờ ở chân cầu thang, thân mật vỗ vai tôi: – Khá quá, cậu được việc quá. Tôi đã nghe báo cáo đầy đủ. Từ nay tôi cử cậu đặc trách bám sát ông ta. Công việc đâu đấy xong xuôi, tốt đẹp tôi sẽ trích số tiền hoa hồng thưởng cho cậu và cả bên công ty đầu tư nữa. Tôi không quên đâu.

Vâng, xin cám ơn ông giám đốc.

Kể từ hôm ấy, tôi luôn luôn đi kèm với vị khách Nhật. Hình như đối với tôi, ông ta cũng có chút biệt đãi. Mỗi lần tới công ty đầu tư hoặc thăm các cơ sở, máy móc thiết bị của người Nhật, gặp gỡ ban giám đốc các cơ quan, lẽ ra tôi phải ngồi phía sau lưng như một thông dịch viên, ông ta giới thiệu tôi là một người bạn luật sư, bảo tôi ngồi bên cạnh và luôn luôn xem xét, bàn bạc với tôi. Người nước ngoài họ khôn lắm, dưới con mắt của một luật sư, tôi thấy rõ có những điều mới nhìn mình tưởng họ dại, sự thực họ nhường một bước để nhảy mt trăm bước. Trong khi đó, về phía bên mình, tôi không nói rằng họ dại nhưng tôi nói họ lanh. Lanh một cách khôn ngoan vặt, tiến một bước theo kiểu ‘thắng lợi tinh thần’ trong A.Q. Chính Truyện của Lỗ Tấn, sau này sẽ thiệt một trăm bước hay nhiều hơn. Toàn những ông thầy dùi cấp dưới, láu cá vặt mà cứ tưởng mình thông minh làm ‘cố vấn’ mà thôi. Quan hệ quốc tế không thể dùng các bộ óc láu cá vặt. Phải có kiến thức, phải có trí tuệ. Nếu không, được lợi về sợi dây thong thì sẽ mất cả con trâu. Gặp trường hợp đó tôi chỉ im lặng. Tôi không có quyền được góp ý kiến. Tất cả đều biết tôi chỉ là anh bồi khách sạn, nể khách nên họ cho tôi được ngồi cùng bàn một cách khiêm tốn, tất nhiên không được quyền góp ý kiến.

Một lần thấy họ ‘khôn ngoan’ quá, tôi kể cho vị khách nghe một đoạn trong Tam Quốc Chí – một tác phẩm cổ điển lớn của Trung Quốc rất quen thuộc với người Việt Nam: Tào Tháo dàn gần một triệu quân trên sông Trường Giang định chiếm Ðông Ngô. Chu Du, đại tướng Ðông Ngô muốn dùng hỏa công để phá quân Tào nhưng lại sợ các chiến thuyền Tào rời rạc, chạy kịp, đốt không hết được; bèn nhờ Bàng Thống xúi cho thuyền Tào kết lại với nhau. Giữa lúc ấy, quân Tào không quen thủy thổ, say sóng. Tào Tháo hỏi kế. Bàng Thống ‘xúi khôn’ là nên dùng vòng sắt kết các thuyền lại từng mảng, lót ván bên trên người ngựa đi được, quân sẽ hết bệnh. Tháo mừng lắm, nghe lời. Ra tới bờ sông, Thống bị một người nắm áo giữ lại: ‘À anh này gớm thật, dám xúi Tào Tháo kết thuyền cho Chu Du đốt! Tháo nó ngu, bộ anh tưởng chúng ta hết người không ai biết mưu kế của anh hay sao?’ Bàng Thống giựt mình nhìn lên, thấy đó là Từ Thứ. Rồi tôi kết luận: – Ðất nào cũng có kẻ sĩ. nước nào cũng có kẻ sĩ. Chẳng qua chúng tôi không được sử dụng phù hợp khả năng như bên các ông. Xin ông đừng nghĩ chúng tôi hết người.

Ông ta nhíu mày: Có, tôi hiểu. Và tôi nghĩ đó là một trong những điều đáng buồn. Chúng tôi muốn làm ăn một cách cân xứng, không muốn ‘đốt’ ai cả. Nhưng quy luật làm ăn, nếu họ tự đốt thì họ phải chịu.

Vị khách lâu nay gần như chỉ nói tiếng Anh, không nói tiếng Nhật.

Một lần khác, ông ta mua tặng tôi một chiếc đồng hồ Seiko five giá bốn mươi lăm đô, tức gần năm trăm ngàn đồng Việt Nam. Tôi cười nói đùa: – Ðây là ‘phần thưởng’ cho sự im lặng của tôi?

Ông ta cũng cười, lắc đầu: – Không đúng. Dù không thưởng thì các ông vẫn đứng ngoài rìa, giữ vai trò của người im lặng, không cần phải thưởng.

– Vậy thì tôi đã có đồng hồ của tôi rồi.

Nó đã cũ, nên dùng đồng hồ mới. Hãy tặng chiếc cũ cho một người bạn nào nghèo của ông nếu họ cần tới.

– Vâng, xin cám ơn, tôi sẽ làm như vậy.

Công việc ký kết hợp đồng tiến triển tốt đẹp. Tôi nhận được phong bì ‘ứng trước’ do ông giám đốc khách sạn trao. Ông bảo tiền hoa hồng dành cho tôi khá hơn, tính theo ngoại tệ, ông ứng trước một phần để tôi xây xài. Trên nguyên tắc, nếu chúng tôi giới thiệu được khách cho khách sạn thì được hưởng năm phần trăm, kêu là tiền huê hồng, tính theo tổng số tiền phòng các ngày khách đã ở trong khách sạn. Ðằng này tôi không giới thiệu nhưng ông giám đốc cũng tính theo tỷ lệ đó, coi như tiền thưởng. Làm ở những chỗ có đô la ra vô thì sướng thế đấy, toàn những món bất ngờ mà mình được hưởng chứ tôi có công gì đâu. Ðồng thời ông cũng cho tôi, biết còn hai ngày nữa, tức sáng thứ Hai, ông khách sẽ lên máy bay về nước.

Hôm đó là chiều thứ Bảy, một buổi chiều thành phố thật đẹp. Mọi việc đã xong xuôi, vị khách Nhật hình như hơi rảnh. Ông nhìn qua khung cửa kính, có vẻ suy nghĩ và bảo tôi:

Ông bạn luật sư thân mến – ông vẫn nói tiếng Anh, không dùng tiếng Nhật – Tôi sắp về nước. Tôi nghe nói người Việt Nam có món ‘thịt cầy’ (dog meat) ngon lắm. Nếu ông bạn vui lòng hướng dẫn tôi đi thưởng thức được thì tôi rất lấy làm sung sướng.

Tôi ngạc nhiên trợn tròn mắt: – Dog meat? Theo.. theo ý ông nói, đó…đó là món..’Thịt của con chó ?’

Ông ta mỉm cười:- Ðúng vậy, ‘thịt của con chó’, nếu tôi không lầm.

Ðoạn, ông ta nói tiếp: – Theo tôi hiểu, nhà văn Trung Quốc Lin Yuyang (Lâm Ngữ Ðường) có lẽ cũng thích món ‘thịt của con chó’ nên ông ta viết một truyện ngắn rất nổi tiếng lấy tên ‘Tướng Quân Thịt Chó’, tôi có đọc qua.

Ối giời ơi, thế này thì chết. Tôi như từ trên trời rơi xuống đất. Mặc dầu gốc dân Thái bình Thái lọ, rất khoái cái món ‘nai đồng quê’ nhưng tôi giải thích cho ông khách oái oăm biết rằng thường thường các quán ‘nai đồng quê’ không phải là những nhà hàng sang trọng, nếu chúng tôi dẫn khách đến đấy, lỡ có chuyện gì xảy ra thì sẽ bị cho nghỉ việc.

– Tất nhiên, ngoài món ‘dog meat’, chúng tôi còn có các đặc sản khác như ếch chiên bơ, cua rang muối, rắn xào lăn v.v… rất ngon, chúng ta nên đến đấy thì tốt hơn.

Ông ta gật đầu: – Cũng được. Nhưng chỉ có ông với tôi đi thôi. Và tôi lái xe.

Ối giời đất ơi, lại nguy hiểm nữa. Tôi báo cáo với ban giám đốc. Ông quản lý lắc đầu lè lưỡi: – Chết, ông ấy có biết đường đâu mà lái ? Người nước ngoài mà lái xe trên đường phố Sài Gòn thì coi như tiêu luôn sinh mạng. Thôi, ông Trình cố nói kheo khéo giành lấy tay lái.

Tôi lái xe. Ông giám đốc Nhật ngồi bên cạnh cứ tủm tỉm cười vì nghe tôi kể lại những lời của ông quản lý. Chúng tôi tới quán Thanh Sơn ở đường Nguyễn Cư Trinh. Ðây là hậu thân của quán Ba Thừa ở đường Bùi Viện ngày trước. Thanh Hải, Ba Thừa trước đây thường rất nổi tiếng với món la-de đặc – la-de ướp lạnh đến mức tự nó đông lại, phải vỗ vỗ đáy chai cho chảy ra, không phải bỏ đá – và những món đặc biệt miền Nam như cua rang muối, ếch chiên bơ như đã kể trên.

Chúng tôi đang ăn, ông khách Nhật luôn luôn gật đầu tấm tắc khen ngon thì bọn trẻ bán thuốc lá, bán vé số nghe tiếng nước ngoài bèn bu lại mời mua. Ông ta lấy một gói ‘ba số’ và đưa tờ năm đô la.

Nô, nô, cái này năm chục ngàn, cái này có mười mấy ngàn, hổng đủ tiền thối !

Ông ra hiệu cho cả, tụi nó mừng rỡ ‘thánh kiu’ rối rít rồi kéo nhau đi. Một đứa khác tới trễ không được chia phần bèn để cả xấp vé trước mặt ông, tý tay như nằm nửa người trên bàn mời mua bằng được. Ông lắc đầu.

– Ông này sắp về nước không mua vé số đâu em ạ.

Cậu thanh niên chạy bàn hình như con trai ông bà chủ tiệm đi ngang bèn ‘bợp’ nhẹ cho nó một cái, đuổi nó ra ngoài. Ối cha, lúc nó đứng dậy, khuỷu tay loạng quạng thế nào đụng phải đĩa lươn um, hất ráo xuống quần tôi. Nóng thì không nóng nhưng bẩn. Nhòe nhoẹt. Tôi bực quá đâm gắt:

– Thấy mẹ người ta..Ðã bảo mà ! Làm thế nào bây giờ ?

Nhà hàng đem thau nước ra lau giùm. Xong, ông khách mỉm cười, im lặng ngồi hút thuốc lá. Cái mặt tôi lúc đó chắc ‘dễ thương’ quá. Ông hỏi:

– Bạn vừa mới nói ‘th-ay me’ (thấy mẹ). Vậy ‘th-ay me’ là gì ? Một tiếng lóng hay một câu chửi ?

Trời đất, đang bực, đến bố tôi cũng không biết ‘thấy mẹ’ là một tiếng lóng hay một câu chửi. Tôi trả lời đại ‘thấy mẹ’ là… ‘see mother !

Ông ta lắc đầu: – No, it isn’t. In Vietnamese, ‘thấy mẹ’, it means…

Tôi giật mình. Hai tiếng ‘thấy mẹ’ ông ta phát âm tiếng Việt rất chuẩn… y như người Việt. Tôi ngạc nhiên: – Do you understand Vietnamese ?

Ông ta mỉm cười, gật đầu: Yes, I know very well. Because

Rồi như không nín cười được nữa, ông ta bỗng cười sằng sặc và… tuôn ra một tràng tiếng Việt pha lẫn tiếng chửi:

– Bởi vì tao là một thằng người Việt trăm phần trăm không có tí ti máu nước ngoài nào hết. Cái thằng ngốc ! Tao với mày học với nhau hằng bao nhiêu năm ở Chu Văn An mà máy không nhận ra tao. Rõ thật !…

Một tia sáng chợt thoáng qua trong óc tôi:

– Cậu… cậu là thằng Quân đen ?

– Chứ còn đứa nào vào đây nữa!

– Hèn chi…

– Hèn chi cái gì ?

– Tớ hơi ngờ ngợ, trông cậu quen quá, ngay từ lúc đầu mới gặp cậu ở chân cầu thang máy bay.Thì ra…

– Thì ra ‘cố nhơn’ phải không? Còn tớ, vừa trông thấy cậu tớ nhận được liền.
– Xin lỗi, tại tớ yên trí cậu là một tay giám đốc người Nhật. Hơn nữa cậu lấy tên Kwann Tae Palms…

– Dễ lắm, cậu nhớ tên tớ là gì không ? – Phạm Thế Quân. Lúc nhập quốc tịch Mỹ tớ đùa nghịch đổi cái tên Quân Thế Phạm thành Kwann Tae Palms chơi chơi cho vui, chỉ có vậy thôi không có gì khó.

– Cậu quốc tịch Mỹ, không phải quốc tịch Nhật ?

– Ừ. Vợ tớ người Nhật.

Quân kể cho tôi nghe: Hồi đó học xong Kỹ sư Phú Thọ, hắn được bổ đi làm kỹ sư công chánh tại một tỉnh miền Trung xa lắc. Ngày 30 tháng 4, gặp tàu, hắn nhảy sang Mỹ, vừa đi làm vừa cố gắng học về ngành điện tử. Trong trường hắn học có một cô nữ sinh viên người Nhật, hai bên quen nhau, thương nhau, sau khi tốt nghiệp bèn làm đám cưới. Hắn leo dần lên được chức phó giám đốc của một công ty Mỹ. Vợ chồng hắn có đứa con gái đầu lòng, bố mẹ vợ hắn viết thư giục thu xếp đem con về chơi bên Nhật. Té ra bố vợ hắn là một nhà tư bản, tổng giám đốc một công ty lớn có nhiều chi nhánh ở Nhật cũng chuyên về điện tử. Bây giờ vợ chồng hắn đã có đứa con thứ hai – con trai – rất xinh và hiện hắn đang làm giám đốc một công ty chi nhánh cũng nằm dưới quyền ông già…

– Ông bố vợ tớ lớn tuổi nên cẩn thận lắm cậu ạ. Cử tớ sang Việt Nam nhưng lại sợ tớ người Việt, phía bên này sẽ ỷ y, bởi vậy ông ra lệnh cho tớ phải nói toàn tiếng Nhật và đánh tiếng rằng ‘ông giám đốc’ đã già nên rất khó tánh.

– Tớ hiểu. Người nước ngoài họ vẫn thận trọng như vậy.

Hắn cười hề hề:- Tiếng Nhật thì tớ cũng tà tà như cậu vậy thôi, do vợ tớ dạy. Sang bên này gặp cậu, tớ mừng lắm. Không ngờ sau bao nhiêu năm, hai thằng chó chết tụi mình gặp nhau…

– Cậu tạo sự nghiệp bằng hai bàn tay, không phải là một thằng chó chết.

– Chó chết chứ sao lại không chó chết ? Một đời du tử…

Gương mặt hắn hơi buồn. Hắn khẽ thở dài:Tớ xin lỗi cậu về việc làm mặt xa lạ, bữa nay mới bày chuyện ‘dog meat’ để gặp riêng cậu. Từ hôm gặp cậu tớ rất mừng, đinh ninh thế nào cũng sẽ nhờ cậu một việc…

– Chuyện gì ? Tớ sẵn lòng.

– Như cậu biết đấy, tớ còn một bà mẹ già. Năm nay bà cụ tớ đã tám mươi mốt tuổi, đôi mắt đã lòa, ở với ông anh cả tớ ở Nam Ðịnh ngoài Bắc. Tớ thương mẹ tớ lắm.

– Có, tớ hiểu. Làm con thì ai cũng thương cha mẹ.

– Cám ơn cậu. Ngày trước gia đình tớ cũng nghèo như gia đình cậu. Bà cụ tớ thắt lưng buộc bụng, lai xai lưới xưới buôn bán mấy trái cam trái quýt với đứa em gái tớ ở chợ Bà Chiểu, nuôi tớ ăn học. Tớ mới tốt nghiệp, có thể nói là chưa báo hiếu gì được, đến lúc hữu sự thì lại nhảy đi sống lấy một mình không biết gì đến mẹ. Ðiều đó tớ rất ân hận. Cách đây mấy năm tớ có viết thư về quê liên lạc được với ông anh cả tớ. Từ đấy tớ luôn gửi quà và tiền về để gia đình ông anh có phương tiện phụng dưỡng mẹ tớ. Nhưng tiền bạc là một chuyện mà tình cảm gia đình lại là một chuyện khác.

– Cậu nghĩ rất đúng. Rồi sao nữa ?

– Tớ định nhờ cậu đem một món tiền khá lớn ra Bắc đưa cho ông anh tớ, giúp đỡ ý kiến ông ấy sửa sang nhà cửa, xây lại ngôi từ đường khang trang đẹp đẽ theo ý muốn của bà cụ, và nói với cụ rằng tớ hứa nội trong năm tới thế nào cũng thu xếp đem vợ con về Việt Nam thăm mẹ.

– Ðược.

– Tớ đã nói với tay giám đốc khách sạn là nhờ cậu ra Hà Nội xem xét giùm tớ tình hình giấy tờ ngoài ấy ra sao, có cần gì sửa chữa không. Tay giám đốc rất đồng ý. Việc đó rất dễ, với con mắt một luật sư cậu chỉ liếc qua là biết liền có khi còn hơn tớ nữa. Rồi cậu sẽ liên lạc với tớ sau. Nhưng chuyện chính là về Nam Ðịnh, tớ giữ kín không cho ai biết. Khoảng chín giờ sáng mai tớ đem tiền đến nhà cậu, ở chơi một ngày, tụi mình chuyện trò thật kỹ. Cậu nắm vững mọi việc rồi là sáng thứ Hai tớ lên máy bay về Nhật. Bà cụ cậu vẫn khỏe chứ ?
– Cám ơn cậu, bà cụ tớ còn nhưng năm nay đã bảy mươi chín, kém bà cụ cậu hai tuổi, không được khỏe lắm. Thỉnh thoảng cụ vẫn nhắc cậu Quân không biết bây giờ ở đâu, tớ nói có lẽ bên Mỹ.

– Thế này nhé, lát về cậu đưa tớ ghé vào chào cụ một chút rồi mai tớ đến. Cậu vẫn ở Tân Ðịnh?

– Ừ.

Hôm sau hắn tới. Buổi chiều, ăn cơm xong, hắn ngồi một mình ngoài hiên trên lầu bên thành lan can. Nhà tôi vắt hai ly cam tươi bưng ra. Hắn mỉm cười nhìn tôi, khe khẽ lắc đầu:

– Chị cẩn thận giống hệt nhà tôi ở bên Nhật… À này, Trình, cậu còn nhớ bài ‘Du tử ngâm’ của Mạnh Giao ngày trước cụ Tú Anh dạy tụi mình hồi lớp Ðệ thất Ðệ lục ở Chu Văn An không nhỉ ?

Tôi cười: – Nhớ chứ ! Không thuộc, không viết ra chữ, cụ mắng muốn chết. Ðứa nào mà chẳng nhớ…

Tay hắn đang cầm cây que. Hắn gõ nhè nhẹ lên chiếc song sắt trên thành lan can và đọc khe khẽ:

Từ mẫu thủ trung tuyến

Du tử thân thượng y

Lâm hành mật mật phùng

Ý khủng trì trì quy

Thùy ngôn thốn thảo tâm

Báo đắc tam xuân huy

 

(Sợi chỉ trong tay mẹ hiền

May thành chiếc áo trên thân người con du tử

Lúc con ra đi mẹ khâu thật kỹ

Vì sợ lâu ngày con chậm trở về

Nào ai dám nói một tấc lòng của cỏ

Có thể báo đáp được ánh dương của ba tháng xuân ?)

– Mỗi lần nhớ tới bài thơ ấy tớ lại ứa nước mắt, cậu ạ.

– Chuyện, thơ Ðường. Ngay đến cụ Nguyễn Du cũng còn phải mượn ý viết thành câu thơ trong truyện Kiều: ‘Dám đem tấc cỏ báo đền ba xuân’ huống chi tụi mình !

Hắn thở dài:

– Ở bên Nhật, hễ bận thì thôi, cứ lúc nào rảnh đầu óc tớ lại miên man nghĩ tới hình ảnh ba mẹ con tớ lúc mới di cư vào Nam. Ông cụ tớ mất sớm hồi gia đình còn ở ngoài Bắc. Mẹ tớ một thân một mình tần tảo nuôi tớ ăn học. Con Chi, em gái tớ (chắc cậu đã biết), lúc ấy hãy còn nhỏ mới lên bốn; còn tớ lên sáu. Khổ lắm. Mẹ tớ trước bán bánh cuốn, sau bán trái cây ở chợ Bà Chiểu. Lúc tớ thi đậu vào lớp đệ thất trường Chu Văn An là lúc mẹ tớ đã dành dụm được chút đỉnh, không phải bữa đói bữa no vậy mà như cậu thấy, trong túi tụi mình hàng ngày đi học chẳng có đứa nào có lấy một xu. Thỉnh thoảng bà cụ tớ hay bà cụ cậu cho một đồng thì hai đứa mình chia nhau uống chung một ly nước mía. Bà cụ tớ quý cậu lắm. Nay hai mắt cụ đã lòa…

– Có, tớ biết. Hôm ông anh cả vào chơi đón cụ ra Bắc, tớ có đi tiễn. Ông anh mua vé tàu hỏa Thống Nhất, ghế ngồi, bảo sẽ xuống ga Nam Ðịnh. Thấy đông người quá, trong tàu chật như nêm cối, ghế cứng mà lại phải ngồi ba ngày ba đêm không được nhúc nhích, tớ chảy nước mắt. Cụ cũng khóc, đưa hai tay quờ quạng sờ mặt tớ và nói sẽ chẳng bao giờ có dịp gặp lại…

Quân chớp mắt, hắn cúi mặt như cố che giấu một cái gì đó đang dâng lên trong cổ họng, sau khẽ thở dài nói nhỏ với tôi:

Tớ chỉ lo mẹ tớ mất trước khi tớ về, cậu ạ. Ra ngoài ấy cậu nhớ lạy mẹ tớ một lạy, xin cụ tha thứ cho tớ và nói, năm tới thế nào tớ cũng về thăm mẹ, càng sớm càng tốt.

– Ðược, cậu cứ yên tâm.

– Ðược ngồi ăn cơm với cụ và vợ chồng cậu tớ cảm động lắm. Tớ mong được tự tay xé thịt gà để riêng ra đĩa, tiếp vào bát cho bà cụ tớ cũng giống như cậu. Mẹ tớ hai mắt đã lòa…

Thế rồi sáng thứ Hai, hắn lên máy bay về Nhật thì sáng thứ Ba tôi ra Hà Nội. Tôi đi xe lửa, vé nằm, loại tàu nhanh hai ngày hai đêm, không đi máy bay vì tính tôi quen tiết kiệm. Những lúc ngồi bên cửa sổ ngắm cảnh núi non hùng vĩ của vùng đèo Hải Vân , đèo Ngang, đầu óc tôi cứ vương mang nghĩ tới hình ảnh lúc hắn lên máy bay.

Chúng tôi đưa tiễn, hắn giơ tay chào tạm biệt ‘Sayônara !’. Rồi trong lúc mọi người không để ý, hắn kín đáo chắp tay lạy về phía tôi một lạy. Tôi hiểu ý nghĩa của cái lạy đó nên chỉ gật đầu cho hắn yên tâm và giơ tay chào tạm biệt: ‘Sayônara!’. Bây giờ tôi có bổn phận đem cái lạy đó ra Bắc, cùng với lời dặn hắn sẽ trở về. Và đầu óc tôi cứ miên man nghĩ đến bài ca của người du tử:

Từ mẫu thủ trung tuyến

Du tử thân thượng y…

Người con nào thì cũng thương mẹ. Tôi yêu bài thơ đó lắm.

Tác Giả : Thái Phương

Anh chị Thụ & Mai gởi