Hạt Bụi Mùa Chay

Hạt Bụi Mùa Chay

Nguyễn Trung Tây, SVD

Mùa Chay khởi đi với thứ Tư Lễ Tro, người người tín hữu trên khắp năm châu cúi đầu nhận hình thánh giá bằng dấu tro ghi trên trán. Mùa Chay cũng nhắc nhở người tín hữu, dưới lăng kính màu tím, thân phận tro than của con người, có đó rồi mất đó, tương tự như hoa Quỳnh Hương khuya nở sớm tàn. Nhưng nhìn dưới lăng kính màu hồng, Mùa Chay cũng gợi nhớ mối liên hệ phụ mẫu tử giữa trời cao và đất thấp, bởi vì “Chúa ơi, con chẳng là chi, chỉ là hạt bụi, mà sao Chúa lại yêu con vô cùng?”. Mùa Chay, hơn thế nữa, kêu gọi người tín hữu bóc lột miếng vỏ cũ, khoác vào tấm áo mới, một dạng thay đổi, một cuộc đổi thay để thôi không làm trứng, làm sâu, làm nhộng, nhưng vươn mình triển nở hóa ra cánh bướm tô thêm đậm đặc màu xanh thiên đàng ngay trên cõi trần gian.

Những hạt bụi tro Mùa Chay ghi trên trán có thể được ví với những vị thuốc diệu kỳ có khả năng chữa trị những căn bệnh của nhân loại. Từ những thời kỳ đầu tiên khi trái đất cất tiếng khóc oe oe chào đời, kéo xuống tới ngày người ta chà đạp đá sỏi kinh thành kéo vào Vườn Cây Dầu trói chặt Đức Giêsu mang đi, cho tới thời kỳ của bây giờ và hôm nay, đã bao nhiêu bàn chân bước đạp giẫm lên trên mặt đất đen của trái địa cầu, đã bao nhiêu linh hồn từng ghé xuống cõi trần rong chơi một khoảng, đã bao nhiêu hình hài nghiêng đổ bóng dài xuống cõi nhân gian? Ai ngồi tính toán cho ra? Cuộc sống tiếp tục xoay vần, Sinh! Bệnh! Lão! Tử! Con người nhịp nhàng xoay tròn quỹ đạo trăm năm. Tiếp nối trăm năm vẫn chưa là gì ngoại trừ tro bụi. Trong vòng quay cuốn hút của sinh, bệnh, lão, tử, người người vẫn cứ thường thường quên đi là một ngày sẽ tới, khi đó tôi sẽ hóa ra tro bụi của hình hài nguyên thủy mà tôi đang mang trên vầng trán vào ngày thứ Tư của Mùa Chay. Khi nhớ lại thân phận con người là hữu hạn, là tro bụi, tôi sẽ bớt, thôi, không khóc lóc, hoặc là bớt, thôi, không than thở, hoặc là bớt, thôi, không khó chịu với cuộc đời, khi những phiền toái của cuộc sống đè nặng trên đôi vai nhỏ bé của tôi. Khi nhận ra cuộc sống đang được đếm từng ngày từng tháng, cho nên một giây không nên bỏ phí, một phút chớ nên bỏ quên, tôi sẽ dễ dàng gạt bỏ đi, bớt, thôi, không dõi nhìn những lăng kiếng khá tiêu cực của thường tình nhân gian.

Những hạt bụi màu đen của Mùa Chay cũng nhắc nhở tôi về liên hệ phụ mẫu tử của thiên đàng và trần gian. Thiên Chúa biết tôi là hạt cát, hạt bụi, thế mà tại sao Ngài lại yêu hại cát, hat bụi là tôi đến thế nhỉ? Đã bao nhiêu lần khi tôi bước chân lên bãi cãi dài vô tận của đại dương, bao nhiêu hạt cát đã lọt qua những kẻ chân hoặc bị tôi dẵm dí, chà đạp lên trên, nhưng có hạt cát nào đủ sức mời gọi tôi dừng bước kiên nhẫn cúi nhìn tìm kiếm sắc hình? Đã bao nhiêu lần khi tôi bước dẵm đạp lên trên những hạt bụi của sàn nhà, hạt bụi nào đủ ma lực kêu mời để tôi cúi xuống phân biệt bụi này bụi đỏ, bụi kia bụi tro? Hạt bụi nào? Chẳng có hạt bụi nào cả. Thế mà thiên đàng xa thẳm vẫn cứ tiếp tục từ trên trời cao vén mây kiếm tìm hạt bụi lạc loài trên trần gian là tôi. Đã từ bao lâu nay, vĩnh hằng vĩnh cửu vẫn cứ loay hoay đi ra đi vô than ngắn thở dài bên song cửa, bởi vì Phụ Mẫu thiên đàng vẫn chưa nhìn thấy bóng dáng hạt bụi trần gian quay về nơi căn nhà xưa. Lạ nhi? Hay ghê? Nhìn tôi trong kiếng, ngắm mình trong gương, tôi vẫn thấy mình nguyên vẹn hình hài của một hạt cát, hạt bụi. “Thế mà vĩnh hằng thiên đàng ơi, con vẫn không hiểu tại sao Ngài lại yêu con đến như thế?”.

Mùa Chay cũng gợi lại trong tôi nhạc phẩm, “Kià con bướm vàng…” của một thời ấu thơ. Đã có một thời của Lớp Mẫu Giáo, Lớp Một, tôi mê nhìn những cánh bướm màu sắc rực rỡ bay lượn trên những cánh đồng. Vào một khoảng của thơ ấu, đã biết bao lần tôi mơ làm bướm vàng bay xa bay cao vào trong bầu trời rực rỡ. Thời của ngây thơ đơn giản hóa vấn đề không bao giờ đặt trong tôi câu hỏi về mối tương quan và sợi giây liên hệ giữa trái trứng lốm đốm trên mặt lá xanh với con sâu lông lá xấu ơi là xấu, với con nhộng nằm chết héo khô lặng lẽ treo trên nhánh cây, và với chú bướm vàng đẹp đẽ bay lượn trong bầu trời. Thơ ấu trôi xa vào quá khứ để lại giọng khàn vỡ đục của tuổi bắt đầu làm người lớn cho tôi lại thêm một lần nữa hiểu biết và kinh nghiệm về đổi thay của trứng bướm, của con sâu, của con nhộng, và của con bướm. Nếu không thay đổi, tôi sẽ tiếp tục nằm chết trong quả trứng bướm, một quả trứng hư, trứng ung, trứng thối. Nếu tôi đổi thay chuyển động lắc mình, mầm trứng nhúc nhích biến hình đổi dạng, khiến tôi nứt vỏ trứng, mở mắt ngỡ ngàng hé nhìn thế gian. Nhưng thay đổi từ trứng sang sâu vẫn chưa đủ, bởi nếu tôi vỡ trứng hóa ra con sâu lông lá xấu xí, khắp cùng thiên hạ đều sẽ gớm ghét, tránh xa khi họ đối diện tôi. Mà có quý chi một kiếp sâu, bởi con sâu cũng chỉ làm tôi nổi bật hóa ra mồi thơm cho chim trời bay lượn trên không dừng lại một nhịp cánh, bay xuống nuốt trôi tôi vào vực thẳm tối tăm. Là con sâu, tôi cũng chỉ tiếp tục cong người trườn bò đi dưới mặt đất. Nếu thiên hạ giơ chân đạp xuống, thế là thân phận con sâu cái kiến biến dạng trên mặt đất. Nhưng thay đổi từ sâu sang nhộng vẫn chưa đủ, bởi nếu tôi chịu nhả tơ làm kén, hóa thành nhộng, thì tôi cũng vẫn tiếp tục lặng lẽ chết đi trong kén. Nếu vậy, cuộc đời cũng chẳng có chi gọi là khá hơn. Đáng giá gì một sợi tơ tằm? Lụa nào kết nối chỉ bởi một đường tơ? Con nhộng, hình hài của thây ma xác chết, ai xót thương, ai nhỏ lệ cho một chú nhộng?

Đổi thay, thương hải biến vi tang điền, biển cả (đổi thay) biến thành ruộng dâu.

Thay đổi, hạt lúa gieo vào đất đen đổi thay nảy mầm vươn cao biến thành cây mạ xanh non.

Đổi thay, thay đổi, khi vươn vai phá rách bốn bức tường bao bọc phận kén, tôi nhẹ mình bay bổng vào cõi trời xanh trong của rực rỡ hương hoa thiên đàng.

Mùa Chay, mùa để tôi thay đổi, tôi không dự tính, lên kế hoạch, vẽ họa đồ đổi thay ai khác nhưng chính tôi, hạt bụi trần gian.

Tôi đang ngồi đếm trứng bướm trên mặt lá của cuộc đời vào những ngày đầu tiên của Mùa Chay. Tôi thắc mắc không biết trái trứng nào cần phải chuyển mình nứt vỏ nhường lại cho tôi một đời sống mới của con bướm vàng. Nếu chưa biết, tôi sẽ hỏi,

— Chúa ơi, xin chỉ cho con biết con sẽ phải chết đi thói hư tật xấu nào trong Mùa Chay này?

□ Nguyễn Trung Tây, SVD
www.nguyentrungtay.com

 

Lịch sử Mùa Chay Thánh

Lịch sử Mùa Chay Thánh

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

2/27/2014

Tứ thời bát tiết Xuân, Hạ, Thu, Đông, thay đổi tuần hoàn luân vòng chuyển đổi. Niên lịch phụng vụ của Giáo Hội Công Giáo cũng nằm trong chu kỳ ấy.

Phụng vụ Giáo Hội cũng có bốn Mùa như : Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh qua đi, Mùa Thường niên tiếp nối, chúng ta chuẩn bị bước vào Mùa Chay Thánh, cao điểm là Tuần Thánh và Đêm Vọng Phục Sinh. Vậy Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu ? Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay có ý nghĩa thế nào ? Mùa Chay đến rồi lại đi, chúng ta làm gì để Mùa Chay không trở nên nhàm chán và có ý nghĩa ?

Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu ?

Vào những thế kỷ đầu Kitô giáo, để sống đạo và thực hành đạo, các kitô hữu tiên khởi đã quan sát những người chung quanh xem họ sống đạo và thực hành đạo thế nào, cụ thể như việc người Dothái giữ ngày Sabát, hay lên Đền thờ cầu nguyện. Tuy các kitô hữu tiên khởi họp nhau thành một cộng đoàn tế tự, cử hành phép rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần theo một công thức tuyên xưng đức tin. Nhưng khi cử hành các ngày đại lễ như lễ Vượt Qua, lễ Năm Mươi, dù vẫn giữ nguyên những ngày lễ của người Dothái nhưng lại mặc cho các ngày lễ ấy một ý nghĩa mới, chẳng hạn : khi cử hành, họ không chỉ nhắc lại các biến cố Xuất Hành Cựu Ước, mà còn tưởng nhớ cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, cũng như việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông đồ.

Mãi đến thế kỷ thứ IV, trong Giáo Hội mới nảy sinh những ý kiến khác nhau như : liệu có cử hành lễ Phục Sinh vào ngày lễ Vượt Qua của người Dothái không ? Tại các Giáo đoàn thuộc Tiểu Á, họ vẫn giữ nghi lễ chiên vượt qua. Riêng Giáo đoàn Antiokia lại ấn định lễ Phục Sinh vào ngày Chúa Nhật sau lễ Vượt Qua của người Dothái, trong khi đó, các kitô hữu tại Alexandria do các nhà chiêm tinh tính toán nên đã chuyển rời lễ Phục Sinh vào dịp phân xuân.

Cho dù có sự khác nhau về ngày cử hành các ngày lễ, nhưng lễ Phục Sinh vẫn là lễ chung của toàn thể cộng đoàn Kitô giáo, vì lễ Phục Sinh dựa trên nền tảng đức tin, trước lễ Phục Sinh, có một thời gian chuẩn bị tương đối dài gọi là Mùa Chay hay « 40 ngày », tưởng nhớ 40 Chúa Giêsu ở trong hoang địa 40 đêm ngày.

Việc thực hành Mùa Chay đã có từ thời thì đầu Kitô giáo, nhưng trải qua những bước thăng trầm, mãi tới thế kỷ thứ II, thời thánh Irênê, giám mục thành Lyon, việc giữ chay ngắn hạn từ hai đến ba ngày, không ăn bất kỳ thức ăn nào mới được phổ biến. Sang kỷ thứ III tại Alexandria, người ta kéo dài việc ăn chay ra hết một tuần. Những dấu tích của Mùa Chay hay « 40 ngày » được tìm thấy ở thế kỷ thứ IV, trong lễ qui của Công Đồng Nicêa. Đây là thời gian chuẩn bị mừng lễ, nhưng ưu tiên vẫn là việc giúp các người dự tòng chuẩn bị lãnh Phép Rửa Tội và Đêm Vọng Phục Sinh.

Cuối thế kỷ thứ IV, Giáo đoàn tại Giêrusalem bắt đầu giữ chay 40 ngày hay còn gọi là Mùa Chay 8 tuần, người ta ăn chay suốt thời gian này, trừ thứ Bẩy và Chúa Nhật. Sang thế kỷ thứ V, tại Aicập người ta cũng giữ chay, tiếp đến là xứ Gôlơ, người ta ăn chay ngày thứ Bẩy và thứ Sáu tuần trong Mùa Chay. Trong khi giữ chay, các kitô hữu chỉ ăn một bữa mỗi ngày, thức ăn gồm có bánh, rau và nước. Giữ nghiêm ngặt nhất là ngày Thứ Sáu và Thứ Bẩy Tuần Thánh, người ta không ăn một chút thức ăn nào. Giờ ăn chay được qui định tùy theo sự khác nhau của mỗi giáo đoàn. Vì mùa chay gồm 6 tuần không thể tương ứng với 40 ngày được. Nên sang thế kỷ thứ VII, người ta đã lùi về trước Mùa Chay mấy ngày, cụ thể như bắt đầu từ ngày thứ Tư cho đến ngày thứ Bẩy tuần trước khi bước vào Mùa Chay, ngày mà hôm nay chúng ta gọi là Thứ Tư Lễ Tro, ngày ăn chay. Đồng thời, ba Chúa Nhật trước Mùa chay, là gồm tóm thời gian chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh, cách lễ Phục Sinh chín tuần. Việc giữ chay ngày càng đòi hỏi nghiêm ngặt hơn, chẳng hạn như buộc chỉ ăn bữa tối. Nhưng đến thế kỷ thứ VIII, việc giữ chay được nới rộng ra, nghĩa là cho phép những người ốm đau bệnh tật được ăn chứng, bơ, sữa, cá và cả rượu nữa. Sang thế kỷ XII và XIII, bữa ăn ngày chay được ấn định là trước giờ trưa 3 giờ tức 9 chín giờ sáng, tiếp theo được ăn « bữa ăn nhẹ » vào buổi tối. Sang thế kỷ XVII việc ăn chay giảm dần và Giáo Hội cho phép được ăn cháo, sữa và cá nhỏ. Trong ngày chay, tại các hoàng gia, nhà bếp thi nhau trổ tài làm ăn với những thực đơn sao cho dồi dào phong phú hơn ngày thường.

Một cảnh chợ cá ngày Thứ Tư Lễ Tro

Từ năm 1949, Giáo Hội Công Giáo qui định việc giữ chay và kiêng thịt là ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh mà thôi. Lý do vì hai ngày đó là ngày tưởng nhớ sự chết : ngày thứ tư lễ Tro, linh mục chính thức làm phép tro được đốt từ những cành lá đã làm phép vào ngày Lễ Lá năm trước rồi vẽ hình thánh giá trên trán người nhận tro và nhắc lại rằng « ngươi là tro bụi, và người sẽ trở về tro bụi », nhắc lại cái chết của mỗi người chúng ta, tiếp đến, ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá.

Trong phụng vụ của Giáo Hội Chính Thống, thời gian chuẩn bị bước vào Mùa Chay kéo dài năm tuần liền, mỗi tuần đọc một đoạn Tim Mừng riêng, với cách thức sám hối sâu xa. Tuần thứ bốn, được ấn định là ngày kiên thịt và ăn chay trong toàn Giáo Hội. Chúa Nhật thứ năm được gọi là Chúa Nhật Hòa giải, mỗi người hòa giải với người bên cạnh trước khi toàn thể cộng đoàn xin lỗi Chúa.

Cảm tưởng chung là một bầu không khí « vui và buồn ». Mỗi tín hữu, với sự hiểu biết có giới hạn và khác nhau về phụng vụ, nên khi bước vào nhà thờ với các kinh nguyện của Mùa Chay, mỗi người mỗi cảm tưởng khác nhau. Một phần vì những lời kinh tiếng hát mang đậm nét buồn, màu áo tím, những bài đọc dài hơn, đơn điệu hơn ngày thường, và hầu như không có nét vui tươi. Một nét đẹp nội tâm rực sáng, tựa như ánh sáng ban mai chiếu rọi từ thung lũng tối tăm lên tận đỉnh cao của núi đồi.

Niềm vui âm thầm, êm dịu và toàn bộ các bài Sách thánh trong Mùa Chay nghe thật đơn điệu cho thấy sự bình an đã dẫn đưa người ta tới những điệp ca hòa tấu Allêluia trong Đêm Vọng Phục Sinh.

Chúa Nhật lễ Lá là thời gian không còn dành riêng cho việc tưởng niệm cuộc khổ nạn nữa, bước vào một Tuần Thánh, với những bài đọc nhắc lại những ngày sau hết của Chúa Kitô trên trần gian và sự Phục Sinh của Ngài.

Tại sao lại gọi là 40 ngày chay thánh ?

Từ « Mùa Chay » là một từ tương phản với từ gốc latinh là « quadragesima » có nghĩa là 40. Trong Kinh thánh, con số 40 có ý diễn tả một khoảng thời gian chờ đợi, một quá trình, tượng trưng cho việc chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa. Số 40 còn diễn tả hành trình trong sa mạc trên đường về Đất hứa của Dân Dothái kéo dài 40 năm. Ông Môisen đã ở trên núi Chúa 40 ngày (x. Xh 24,18; 34,28). Những người trinh sát đã ở trong vùng đấy 40 ngày (x. Ds 13, 25). Elia đã đi 40 ngày trước khi tới được hang ở đó Ngài được thị kiến (x. 1V 19,8). Ninivê đã được cho 40 ngày để sám hối (x. Gn 3,4). Và quan trọng nhất là Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy vào trong hoang địa 40 ngày để ăn chay cầu nguyện trước khi thi hành sứ vụ công khai (x. Mt 4,2).

Như vậy Mùa Chay là mùa nhắc nhớ 40 năm hành trình trong sa mạc của dân Dothái, 40 ngày trong hoang địa của Chúa Giêsu. Con số 40 ngày, là thời gian đi vào hoang địa của cõi lòng, thinh lặng để chuẩn bị gặp gỡ Chúa. Đây là thời gian phụng vụ cao điểm thuân tiện thích hợp cho các kitô hữu noi gương Đức Kitô dùng 40 ngày để ăn năn đền tội và dấn thân phục vụ anh chị em. Và bằng 40 ngày long trọng của Mùa Chay, mỗi người được liên kết mật thiết hơn với các Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu, Đấng đang tiến đến cái chết và sự sống lại.

Mùa chay mang lại cho chúng ta điều gì?

Phần lớn người kitô hữu không thực hành việc ăn chay, nguyện ngắm, nên Mùa Chay không có ảnh hưởng tới đời sống của họ là bao? Khi nói về Mùa Chay, người ta thường hiểu một cách không tích cực lắm. Đại đa số dân chúng cho rằng trong Mùa Chay việc kiêng ăn, kiêng uống giữ chay chiếm vị trí hàng đầu.

Tuy nhiên điều đáng lưu ý là đại đa số người kitô hữu không thực hành đạo trong đời sống nhưng họ vẫn đến nhận tro vào Thứ Tư Lễ Tro. Đây là một nghi thức giầu tính biểu tượng, nó tác động đến tận đáy lòng con người, nhắc nhớ người ta suy nghĩ về thân phận của mình khi nhận tro và mời gọi con người trở về với Chúa. Vì nhiều khi con người quên đi thân phận yếu hèn, mỏng giòn của mình, dẫn đến đau thương và đổ vỡ. Bi kịch cuộc đời con người đều từ đó mà ra. Con người phạm tội, tội cắt đứt sự hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa, làm cho con người mất đi hạnh phúc, phải đau khổ và phải chết. Chuyện sa ngã của Nguyên tổ đã chứng minh điều đó. Lịch sử cứ độ của Dân Chúa, tội thì Chúa phạt, hối cải thì Chúa tha và cứu. Nên mỗi khi lâm vào hoàn cảnh bi đát đau thương hay thất vọng, Dân Chúa đều nhận ra rằng cần phải sám hối trở về giao hòa với Thiên Chúa để được chữa lành. Mùa Chay là mùa sám hỗi, chúng ta hãy ra sức làm những việc cần thiết để được giao hòa và hiệp thông với Chúa, hầu được Chúa ban ơn.

Trong đời sống người kitô hữu, nhiều khi lắng nghe lời Chúa xong, chúng ta đã có quyết tâm đi xưng tội, làm việc đền tội, nhưng rồi kết quả không mấy khả quan, thì Mùa Chay là cơ hội rất thuận lợi. Thư thánh Phaolô nói với chúng ta : « Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ» (2 Cr 6,2). Đây là thời gian khẩn trương trong năm phụng vụ, thời gian thuận tiện được ban cho chúng ta để đẩy mạnh quyết tâm hoán cải, tăng cường việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, thực hành khổ chế một cách quảng đại hơn, để đi tới và giúp đỡ tha nhân đang túng thiếu: đó là một hành trình tinh thần giúp chúng ta chuẩn bị sống Mầu Nhiệm Phục Sinh. Vậy chúng ta hãy tin tưởng điều đó và bước vào Mùa Chay Thánh.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Mỹ phản đối bản án của Trương Duy Nhất

Mỹ phản đối bản án của Trương Duy Nhất

Thứ ba, 4 tháng 3, 2014

Ông Trương Duy Nhất từng được Ban Tuyên giáo tuyên dương

Tòa án Nhân dân TP Đà Nẵng vừa tuyên án nhà báo Trương Duy Nhất 2 năm tù giam trong phiên xử ngắn ngủi vào sáng thứ Ba ngày 4/3.

Sứ quán Hoa Kỳ ở Hà Nội ra thông cáo nói: “Chúng tôi quan ngại sâu sắc bởi việc Toà án Việt Nam kết án Trương Duy Nhất.”

“Chúng tôi kêu gọi chính phủ Việt Nam trả tự do cho Trương Duy Nhất và các tù nhân lương tâm đồng thời cho phép người Việt Nam bày tỏ quan điểm chính trị của họ một cách ôn hòa.”

Tuyên bố này cho biết: “Thứ trưởng Ngoại giao Wendy Sherman đã nêu vấn đề nhân quyền với chính phủ Việt Nam trong chuyến thăm đến Hà Nội ngày 4/3.”

Tòa này đã xét xử ông Nhất về tội ‘Lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của tổ chức và công dân’ theo Điều 258 Bộ Luật hình sự.

Bằng chứng chống lại ông Nhất là 11 bài viết của ông Nhất và một bài của tác giả khác do ông Nhất đưa lên trang blog cá nhân của ông có tựa đề ‘Một góc nhìn khác’.

Tuy nhiên, luật sư của ông Nhất nói ông vẫn khẳng định mình ‘vô tội’ trước bản án.

Mức án nhẹ?

Theo cáo trạng tại tòa thì các bài viết trên blog của ông Trương Duy Nhất “đã làm mất lòng tin của nhân dân vào Đảng, chính quyền và làm mất uy tín cá nhân các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam”.

Mức án 2 năm này là mức thấp nhất trong khung hình phạt từ 2 đến 7 năm được quy định trong khoản 2, Điều 258 – tức là trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng – mà ông Nhất bị truy tố.

“Uy tín của lãnh đạo không phải được xây nên bằng những lời phê phán của người khác mà chính bằng hành động và lời nói và kết quả làm việc của các vị đó.”

Luật sư Trần Vũ Hải

Tuy nhiên luật sư bào chữa nói rằng ông không hài lòng với bản án và thân chủ của ông ‘phải được tuyên vô tội và được trả tự do tại Tòa’.

Nói với BBC sau khi kết thúc phiên tòa, ông Trần Vũ Hải, luật sư bào chữa của ông Nhất giải thích rằng Tòa đã cân nhắc những tình tiết giảm nhẹ như gia đình ông Nhất có công với cách mạng và đã từng viết những bài báo được Ban Tuyên giáo tuyên dương.

Ngoài ra, theo ông Hải, trước sự đấu tranh của luật sư thì Tòa đã bỏ cáo buộc ông Nhất ‘xâm phạm lợi ích của tổ chức và cá nhân’ và chỉ còn giữ cáo buộc ‘xâm phạm lợi ích của Nhà nước’.

“Uy tín của lãnh đạo không phải được xây nên bằng những lời phê phán của người khác mà chính bằng hành động và lời nói và kết quả làm việc của các vị đó,” ông Hải giải thích.

Còn việc ông Nhất ‘chấm điểm thủ tướng’ hay yêu cầu ‘tổng bí thư phải ra đi’ thì Luật sư Hải lập luận rằng ‘đó là quyền đương nhiên của nền dân chủ’.

“Quyền của nhân dân là giám sát, trong giám sát phải được nhận xét, trong nhận xét có nhận xét tốt và chưa tốt,” ông nói thêm.

An ninh được thắt chặt quanh Tòa án Đà Nẵng

Riêng về cáo buộc ông Nhất ‘xâm phạm lợi ích của Nhà nước’, ông Hải cũng không đồng tình.

Ông dẫn Hiến pháp năm 2014 rằng ‘Nhà nước Việt Nam của dân, do dân, vì dân’ để lập luận rằng ‘Nhà nước không có lợi ích là bảo vệ uy tín lãnh đạo Đảng và đường lối của Nhà nước’.

Luật sư Hải cũng phản bác cáo trạng cho rằng thân chủ ông ‘bôi nhọ’ các vị lãnh đạo.

“Nếu bôi nhọ thì người đầu tiên cảm nhận là các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước,” ông nói, “Chúng tôi đã gửi thư xin ý kiến các vị đấy là có cảm thấy bị xâm phạm quyền và lợi ích hay không và chúng tôi chưa thấy có câu trả lời.”

Theo nhìn nhận của Luật sư Hải thì bản án có thể là sự dung hòa sự ‘chỉ đạo ở đâu đó’ với ý kiến của công luận mà ông cho là ‘đã có những tác động nhất định’.

‘Sẽ kháng cáo’

Về phần Trương Duy Nhất, ông Hải cho rằng ông thừa nhận có viết 11 bài như cáo trạng nêu nhưng ông cho rằng ông không ‘xâm phạm quyền và lợi ích’ của tổ chức hay cá nhân nào cả mà chỉ ‘chỉ ra những khuyết điểm, sai lầm, những hiện tượng chưa đúng’ với hy vọng ‘lãnh đạo Đảng và Nhà nước sẽ thấy ra, khắc phục, sửa chữa và rút kinh nghiệm’.

“Có những loại tù mà người ta cảm thấy ân hận hay xấu hổ, nhưng trường hợp của tôi thì tôi thấy tự hào.”

Trương Duy Nhất nói trước Tòa

“Thậm chí ông Nhất còn cho rằng ông ấy còn có công đã chỉ ra những điểm ấy để cho các lãnh đạo và Nhà nước Việt Nam tốt hơn,” ông Hải nói.

Trong lời cuối cùng trước khi Tòa tuyên án được ông Hải thuật lại, ông Nhất khẳng định ông ‘vô tội’.

“Với tư cách nhà báo tự do tôi góp phần cho không khí dân chủ ở Việt Nam, góp phần giúp các nhà lãnh đạo Việt Nam nhận thức được những vấn đề của đất nước, những suy nghĩ của người dân,” ông Nhất được dẫn lời nói.

“Có những loại tù mà người ta cảm thấy ân hận hay xấu hổ, nhưng trường hợp của tôi thì tôi thấy tự hào.”

“Chừng nào tôi chưa được tự do mà còn bị còn kết tội thì tôi còn đấu tranh cho đến khi được xóa bỏ tội danh.”

Xin xem thêm:

Phản ứng sau phiên xử blogger Trương Duy Nhất   (RFA)

Blogger Huỳnh Ngọc Chênh:”Xử tù Trương Duy Nhất không răn đe được ai” (RFI)

Tuổi Trẻ

Tui Tr

Samuel Ullman (1840-1925)

Tui tr không phi là vn đ thi gian sng; nó là vn đ thuc cái Tâm; không phi là vn đ má còn hng, môi còn thm và gi còn mm; nó là vn đ ca ý chí, kh năng tưởng tượng, ca nhng xúc cm mnh m; nó là s tươi mát ca mch sng.

Tui tr có nghĩa là tính khí can đm đè nén được s rt rè thèm khát, phiêu lưu vào tình yêu d dãi. Điu này ch la tui sáu mươi hơn là la tui hai mươi. Không mt ai tr nên già ch vì tui tác. Chúng ta già ch vì chúng ta b rơi nhng lý tưởng.

Năm tháng có th làm cho da nhăn, nhưng không th làm nhăn nhúm tinh thn chúng ta. Lo âu, s hãi, mt t tin s b gy trái tim và biến tinh thn thành tro bi.

Sáu mươi hay mười sáu, trong mi con người đu có s cám d ca nhng gì kỳ o, s ham mun ging như tr con thèm khát mun biết cái gì sp xy ra và vui thích trò chơi ca cuc đi. Ngay gia trái tim tôi và bn là mt trm vô tuyến; chng nào nó còn nhn được nhng tín hiu đp, hy vng, vui v và  mnh m t người khác và t vô tn, lúc đó bn còn tr.

Khi bu tri h thp và tinh thn bn vây ph bi tuyết hòai nghi và băng bi quan thì bn tr nên già, dù bn đang tui hai mươi, nhưng khi nào bu tri ca bn dâng cao, bt được làm sóng lc quan, thì có hy vng bn chết tr tui tám mươi.

Bn dch ca Đào Văn Bình

Youth

Youth is not a time of life; it is a state of mind; it is not a matter of rosy cheeks, red lips and supple knees; it is a matter of the will, a quality of the imagination, a vigor of the emotions; it is the freshness of the deep spring of life.

Youth is a temperamental predominance of courage over timidity of the appetite, for the adventure over the love of ease. This often exists in a man sixty more than a body of twelve. Nobody grows old  merely by a  number of years. We grow old by deserting our ideals.

Years may wrinkle the skin, but to give up enthusiasm wrinkles the soul. Worry, fear, self distrust bows the heart and turns the spirit back to dust.

Sixty or sixteen, there is in every human being’s heart the lure of wonder, the unfailing child-like appetite of what’s next, and the joy of the game of living. In the center of your heart, there is a wireless station; so long as it receives message of beauty, hope, cheer, courage and power form men and from the infinite, so long are you young.

When the aerials are down, and your spirit is covered with snows of cynicism and the ice of pessimism, then you are grow old, even at twenty, but as long as your aerials are up, to catch the waves of optimism, there is hope you may die young at eighty.

Samuel Ullman (1840-1925)

Vài Nét V Cuc Đi ca Samuel Ullman:

Theo Wikipedia, ông là mt nhà doanh thương, mt nhà thơ Hoa Kỳ và là người theo ch nghĩa nhân đo (Humanitarian). Ông được nh ti ngày hôm nay là vì bài thơ “Youth” (Tui Tr) rt được Thng Tướng McArthur ái m. Tướng McArthur đã  cho treo bài thơ trong văn phòng ti Tokyo khi ông tr thành Tư Lnh Đng Minh Ti Cao ti Nht Bn. Ngoài ra ông thường trích dn mt vài đan ca bài thơ trong các bài din văn khiến cho bài thơ ni tiếng Nht Bn hơn là Hoa Kỳ.

CHÚNG TÔI RAO GIẢNG MỘT ĐẤNG KITÔ BỊ ĐÓNG ĐINH

CHÚNG TÔI RAO GIẢNG MỘT ĐẤNG KITÔ BỊ ĐÓNG ĐINH

Tác giả: Sr. Minh Nguyệt

Cha René-Luc 48 tuổi là Linh Mục thuộc giáo phận Montpellier ở miền Nam nước Pháp. Vốn là con hoang không cha, được một tên vô-lại nuôi dưỡng, sau một thời thơ ấu bầm-dập rách-nát, Cha may mắn gặp gỡ THIÊN CHÚA và dâng hiến trọn cuộc đời cho Ngài. Xin ghi lại chứng từ Cha trình bày trước cử tọa gồm khoảng hơn một ngàn học sinh trung học của hai trường tư thục Công Giáo ở Roche-sur-Yon.

Với nụ cười thẳng thắn và đoan hậu, với thân hình lực sĩ cao lớn và bằng giọng nói dõng dạc trầm lắng, Cha René-Luc mở đầu buổi nói chuyện như sau.

Điều Cha sắp kể cho các con nghe không phải là chuyện phim mà là chuyện thật cuộc đời Cha. Và Cha muốn nói ngay với các con rằng, ngay cả khi bị tuột dốc chúng ta vẫn luôn luôn tìm ra một lối thoát. Cha chào đời tại Nimes, có hai anh trai và hai em gái trong một gia đình vắng bóng thân phụ. Thân mẫu Cha một mình dưỡng dục các con. Năm Cha 10 tuổi, thân mẫu Cha gặp một người đàn ông tên Martial và chung sống với ông. Cứ tưởng cuộc sống gia đình giờ đây sẽ tươi sáng hơn, nào ngờ, mọi sự nhanh chóng đổi chiều. Bởi vì, ông Martial nghiện rượu và là một tên trộm cướp từng bị cảnh sát theo đuổi. Cuộc sống gia đình biến thành địa ngục. Không biết bao nhiêu lần thân mẫu dẫn Cha trốn chạy nhưng ông Martial luôn luôn tìm ra chỗ trú ẩn nên bắt cả hai mẹ con đem trở về nhà.

Mãi cho đến một buổi chiều trong tháng 11 năm 1979, ông Martial tự bắn một phát súng vào ngực và kết liễu cuộc đời. Năm ấy Cha 13 tuổi. Chứng kiến thảm trạng cuộc đời, lòng Cha bỗng nổi loạn và khởi đầu một cuộc sống ăn chơi trộm cắp và bạo hành ngay cả với thân mẫu Cha.

May mắn thay vào năm 1980 thân mẫu Cha gặp bà Marie-Do một tín hữu Công Giáo nhiệt thành. Bà mời cả hai mẹ con đến tham dự buổi thuyết trình của mục sư tin lành Nicky Cruz, một cựu thành viên băng đảng bất-lương ở thành phố New-York. Trước một cử tọa gồm 2 ngàn người, vị mục sư làm chứng rằng chính cuộc gặp gỡ với THIÊN CHÚA đã thay đổi toàn vẹn cuộc đời ông.

Chứng từ của mục sư Nicky Cruz đã đi vào tận cõi thâm sâu linh hồn Cha. Cha rất xúc động và nước mắt tuôn trào. Ngày hôm ấy, quả thật Cha đã sống kinh nghiệm câu kinh thánh nơi sách tiên tri Êdêkien: ”Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các con và sẽ ban tặng các con một quả tim bằng thịt” (36,26).

Chưa hết. Bà Marie-Do giúp Cha khám phá Đức Tin Công Giáo dưới những chiều kích sống động và mới mẻ. Rồi bà đưa Cha đi hành hương Lộ Đức. Chính tại Trung Tâm Thánh Mẫu Lộ Đức mà Cha đã quyết định dâng hiến cuộc đời cho Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng Cứu Độ nhân loại. Cha gia nhập Chủng Viện năm 20 tuổi và thụ phong Linh Mục năm 27 tuổi. Từ đó đến nay hơn 20 năm trôi qua, Cha du hành khắp nước Pháp để làm chứng về Tình Yêu THIÊN CHÚA cũng như làm chứng về niềm vui được trở thành Linh Mục. Độc thân không phải là một trạng thái bệnh-hoạn ẻo-lã. Trái lại, độc thân giúp trái tim được hoàn toàn tự do và có thể quảng đại yêu thương mọi người, không trừ ai.

Vào năm 13 tuổi Cha biết rằng thân phụ Cha là một người Đức và ông đã bỏ rơi thân mẫu Cha chỉ vỏn vẹn sau ba tháng chung sống, khiến Cha trở thành một đứa con hoang, một đứa trẻ không cha!

Thế rồi một ngày, người cha ruột này tìm kiếm và muốn gặp Cha. Thân phụ liên lạc được với Cha vào chính buổi chiều trước khi Cha thi vấn đáp môn Đức ngữ. Sau đó hai cha con tạo cơ hội gặp nhau và chính thân phụ ngỏ lời xin Cha tha lỗi. Sau đó cả hai cha con cùng đi ra tòa thị chính để làm giấy chứng thực về tờ khai sinh. Năm ấy Cha 37 tuổi và sống kinh nghiệm đầu tiên về lòng tha thứ cũng như hưởng nếm tình phụ tử bao la.

Một bạn trẻ nêu câu hỏi:

– Làm thế nào mà Cha có thể đặt trọn niềm tin tưởng nơi THIÊN CHÚA khi cuộc đời chỉ cống hiến toàn những gian trá đáng nghi ngờ?

Cha René-Luc cẩn thận trả lời bằng cách dùng một hình ảnh. Cha nói.

Các con cứ tưởng tượng có một ngôi nhà bị bỏ hoang. THIÊN CHÚA đứng trước nhà và gõ cửa. Đàng sau nhà có các cánh cửa khác mở ra bên ngoài: cho thể thao, cho chia sẻ và có lẽ cho cả ích kỷ nữa .. Trong khi cánh cửa THIÊN CHÚA đang đứng đã không bao giờ được mở ra. Nhưng khi quan sát thật gần người ta mới thấy rằng cánh cửa này không có nắm-cửa ở bên ngoài mà chỉ có ở bên trong. Vậy thì THIÊN CHÚA không thể nào mở được cánh cửa lòng các con. Ngài chỉ gõ và đứng đó chờ đợi. Chính các con mới là những người duy nhất có thể quyết định mở hay không mở cánh cửa này. Vậy thì, Cha xin cầu chúc cho mỗi người trong các con, một ngày nào đó, hãy mở cánh cửa lòng mình để đón tiếp THIÊN CHÚA Nhân Lành ngự vào.

… ”Thật thế, lời rao giảng về Thánh Giá là một sự điên rồ đối với những kẻ trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của THIÊN CHÚA. Vì có lời chép rằng: ”Ta sẽ hủy diệt sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan, và sẽ vứt bỏ sự thông thái của người thông thái. Người khôn ngoan đâu? Người học thức đâu?” Người lý sự của thời này đâu? THIÊN CHÚA lại đã không để cho sự khôn ngoan của thế gian ra điên rồ đó sao? Thật vậy, thế gian đã không dùng sự khôn ngoan mà nhận biết THIÊN CHÚA ở những nơi THIÊN CHÚA biểu lộ sự khôn ngoan của Người. Cho nên THIÊN CHÚA đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin. Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng KITÔ bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được THIÊN CHÚA kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Chúa GIÊSU KITÔ, sức mạnh và sự khôn ngoan của THIÊN CHÚA. Vì cái điên rồ của THIÊN CHÚA còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của THIÊN CHÚA còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Côrintô 1,18-25).

(”Catholiques en Vendée”, La Vie de l’Église de Luçon, n.89, 13 Novembre 2013, trang 28)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Nguồn : vietvatican.net

 

Điều nghịch lý của hạnh phúc

Điều nghịch lý của hạnh phúc

Có câu truyện về một người cỡi một con ngựa đang phi như bay trên đường.  Khi anh và con ngựa chạy ngang qua một khu phố, có vài người đứng bên đường thấy vậy gọi với theo, “Anh kia có việc gì phải đi đâu mà vội vã thế?”  Anh ta ngoái đầu lại và nói lớn, “Tôi cũng không biết nữa, hỏi con ngựa kìa!”  Sự tiến bộ trong xả hội của chúng ta ngày nay cũng được ví giống như con ngựa trong câu truyện ấy, chúng ta đang phi như bay nhưng có biết mình đang đi về đâu chăng?

Theo tôi nghĩ thì những phát minh, sáng tạo mới của khoa học giúp cho cuộc đời bớt đi những tật bệnh, làm vơi bớt khổ đau là một điều rất tuyệt vời và vô cùng quý báu cho nhân loại.  Nhưng chúng ta cũng đừng quên đi những nguyên nhân sâu xa của khổ đau.

Nếu như những “tiến bộ” ấy lại vô tình khiến ta tách rời xa sự tốt lành tự nhiên, thì ta cũng cần nên phải thận trọng.  Ông Bob Moorehead, một tiến sĩ về thần học ở Hoa kỳ có những nhận xét như sau, về những điều nghịch lý của thời đại ngày nay,

“Điều nghịch lý của thời đại ngày nay là chúng ta có những toà nhà cao hơn nhưng sự kiên nhẫn lại ngắn hơn, ta có những xa lộ rộng lớn hơn nhưng cái nhìn lại nhỏ hẹp hơn. Chúng ta tiêu xài nhiều hơn nhưng có được ít hơn, mua sắm nhiều hơn nhưng thưởng thức lại kém hơn. Ta có căn nhà to rộng hơn nhưng gia đình nhỏ bé hơn; có nhiều tiện nghi hơn nhưng thời giờ ít ỏi hơn. Chúng ta có nhiều bằng cấp hơn nhưng hiểu biết lại giảm đi, ta dư thừa kiến thức nhưng lại thiếu sự xét suy; ta có thêm nhiều nhà chuyên môn nhưng cũng thêm biết bao nhiêu là vấn đề, có thêm thuốc men nhưng sự lành mạnh lại càng sụt giảm.

Thời đại ngày nay chúng ta uống rượu và hút thuốc quá nhiều, tiêu pha không tiếc nuối, thiếu vắng tiếng cười, lái xe quá nhanh, nóng giận rất dễ, thức rất khuya, dậy mệt mỏi, đọc sách rất ít, xem ti vi quá nhiều, và hiếm khi ta biết ngồi lại trong tĩnh lặng! Tài sản của ta tăng lên gấp bội phần, nhưng giá trị chúng ta cũng sụt giảm đi. Chúng ta nói quá nhiều, thương yêu quá ít, và thù ghét thì lại quá thường.

Chúng ta biết cách kiếm sống, nhưng không mấy ai biết sống. Chúng ta cộng thêm năm tháng vào đời mình, nhưng chỉ là năm tháng mà thôi. Chúng ta đã lên đến mặt trăng và trở về trái đất, nhưng rất khó bước qua bên kia đường để chào người hàng xóm mới. Ta chinh phục được thế giới bên ngoài nhưng không biết gì về thế giới bên trong. Chúng ta đã làm được rất nhiều việc lớn lao, nhưng rất ít việc tốt lành.

Chúng ta làm trong sạch không khí chung quanh, nhưng lại làm ô nhiễm tâm hồn mình. Chúng ta chia cắt được một hạt nguyên tử, nhưng chưa phá được thành kiến của chính mình. Chúng ta chia sẻ nhiều hơn, nhưng học được ít hơn. Chúng ta có nhiều dự án hơn, nhưng hoàn tất ít hơn. Chúng ta biết cách làm việc nhanh chóng, nhưng không biết cách đợi chờ; có nhiều người quen, nhưng ít ai là bè bạn. Chúng ta thiết kế thêm nhiều máy điện toán, chứa thêm nhiều dữ kiện, in ra thật nhiều tài liệu, nhưng sự truyền thông giữa con người mỗi ngày lại càng ít đi.

Ngày nay là thời đại của mì ăn liền, tiêu hoá chậm, con người to lớn nhưng chí khí rất nhỏ, lợi nhuận thì rất sâu mà tình người thì rất cạn.  Thời đại của hòa bình thế giới, mà nội chiến trong gia đình.

Đây là thời đại của gia đình với hai đầu lương nhưng trăm ngàn ly dị, nhà cửa khang trang nhưng hạnh phúc đổ vỡ. Đây là thời đại của những chuyến đi ngắn vội vàng, đồ xài chỉ một lần, đạo đức vứt bỏ, và những viên thuốc giải quyết cho mọi vấn đề, từ hưng phấn, đến lắng dịu, đến cái chết.

Đây là thời đại của những mặt hàng trưng bày ngoài cửa tiệm thì rất nhiều, nhưng trong nhà kho lại trống không. Đây là thời đại mà công nghệ có thể mang lá thư này đến thẳng với bạn và bạn cũng hoàn toàn tự do để chọn đọc nó hay xoá bỏ đi…

Nhưng xin bạn hãy nhớ bỏ thì giờ ra với người thương, vì họ sẽ không có mặt với ta mãi mãi. Hãy nhớ chọn những lời dễ thương với những ai đang ngước nhìn bạn nhiều ngưỡng phục, vì cô hay cậu bé đó rồi cũng sẽ lớn lên và rời xa ta.

Hãy nhớ ôm chặt người gần bên, vì đó là một món quà vô giá mà ta có thể ban tặng cho người khác, khi nó được xuất phát từ đáy tim mình, mà không tốn một xu nào.

Hãy nhớ nói lời thương yêu với những người thân yêu, và phải hết sức thật lòng mình. Một nụ hôn, một vòng tay ôm, sẽ chữa lành hết mọi vết thương khi nó phát xuất từ chính con tim.

Hãy nhớ nắm tay nhau và trân quý phút giây này, vì biết rằng tất cả sẽ không ở với ta mãi mãi. Hãy có thì giờ để thương nhau, để lắng nghe nhau, và nhất là hãy chia sẻ với nhau những ý tưởng đẹp nhất trong tâm mình.

Và nhất là bạn hãy luôn nhớ rằng, cuộc sống không phải được đo lường bằng con số hơi thở của mình, mà bằng những giây phút kỳ diệu trong cuộc đời đã mang hơi thở ấy bay cao.”

Lấy từ Internet

 

THIÊN CHÚA QUAN PHÒNG

THIÊN CHÚA QUAN PHÒNG

Có một nhà hiền triết quan sát cơn gió thổi qua đồng cỏ.  Khi cơn gió nổi lên, cây cỏ đều ngả theo chiều của gió.  Khi cơn gió tạm ngưng thì cây cỏ lại ngóc đầu lên.  Khi con gió đổi chiều, thì cây cỏ cũng đổi chiều

Thấy vậy, nhà hiền triết bèn nói: Cây cỏ là chúng ta, còn cơn gió là số mệnh.  Số mệnh không bao giờ để cho chúng ta nghỉ yên, nó thổi tung và thổi tung mãi, khi thì thổi bên trái, lúc thì thổi bên phải.  Điều quan trọng là phải biết nương theo chiều gió.  Đừng chống cự, đừng phản kháng, nhưng hãy biết gắn bó với số mệnh của mình, bởi vì số mệnh là chính Thiên Chúa, là thánh ý của Ngài.

Từ đồng cỏ, nhà hiền triết ghé thăm một người bạn quen.  Thoạt khi tới cửa, thì con chó sủa vang, đứa bé đang chơi ngoài sân, nhìn thấy người lạ, bèn chạy đi nép mình vào vòng tay người mẹ.  Nhà hiền triết càng tiến tới, thì đứa trẻ níu chặt lấy đôi tay người mẹ.

Thấy vậy, nhà hiền triết bèn nói: Đứa trẻ sợ hãi là chúng ta.  Người lạ mặt là số mệnh, còn vòng tay chở che là Thiên Chúa.  Số mệnh nhiều khi âm thầm từng bước tiến lại gần, khiến chúng ta sợ hãi, thế nhưng điều khôn ngoan là hãy noi gương bắt chước đứa trẻ, biết nép mình vào vòng tay uy quyền của Thiên Chúa.   Tương lai càng đen tối, chúng ta lại càng phải níu chặt bàn tay của Thiên Chúa.  Sống dưới cái nhìn trìu mến của Ngài, chúng ta sẽ không còn sợ hãi.  Nếu đứa trẻ nhận ra tôi là một người quen, thì nó sẽ vui mừng chạy ra và ôm lấy.  Cũng vậy, số mệnh dù có bẽ bàng thì cũng là thánh ý của Thiên Chúa.  Nếu chúng ta có một đức tin mạnh mẽ, chúng ta sẽ sẵn sàng đón nhận không kêu ca oán trách.

Thế nhưng có một người đàn bà đã lên tiếng phản đối: Làm sao tôi có thể giơ tay đón nhận số mệnh, vì nó như những ngọn roi quất vào cuộc đời tôi.  Chồng tôi bị chết trong chiến tranh, và bây giờ, mười mấy năm sau, đứa con trai tôi cũng lại chết trong chiến tranh.

Nhà hiền triết thông cảm với những đau khổ ấy, nhưng rồi ông đã trả lời bằng một giọng đầy an ủi khích lệ:  Tôi biết, rất có thể chúng ta sẽ phải khóc dưới sức nặng của thập giá, nhưng chúng ta không có quyền chất vấn Thiên Chúa.  Chúng ta phải tin rằng Đấng đã dựng nên những bông hoa xinh tươi, những trái cây ngon ngọt, Đấng đã cẩn thận sắp xếp từng nguyên tử của vật chất, thì Ngài sẽ chẳng để cuộc sống con người bị bất ổn.

************************

Con người đau khổ, đó là điều dĩ nhiên.  Nhưng đau khổ không phải là một cái gì thừa thãi và vô ích, chính Chúa Giêsu cũng đã từng chịu đau khổ, nhưng Ngài đã mặc cho những đau khổ ấy một giá trị tuyệt vời và đã dùng những đau khổ ấy để cứu chuộc chúng ta.  Rồi Ngài lại phán: Phúc cho những ai than khóc vì Nước Trời là của họ.  Vậy thì chị là người đang đau khổ, Nước Trời là của chị đó.  Nếu không có Nước Trời, thì tôi sẽ lên tiếng kêu gọi mọi người đau khổ hãy đoàn kết, chống lại số mệnh, chống lại Thiên Chúa.  Nhưng Nước Trời còn đó, và Thiên Chúa đang chờ đón chúng ta.  Hãy để Ngài tẩy rửa và thanh luyện chúng ta nên xứng đáng với hạnh phúc tuyệt vời ấy.

Đừng hỏi tại sao Thiên Chúa lại dựng nên bông hồng có những gai nhọn, Ngài có chương trình của Ngài.  Hãy để cho Ngài uốn nắn và hành động.  Thái độ khôn ngoan nhất là biết nép mình vào bàn tay Chúa.  Nếu cây cối chống trả với ngọn gió, nó sẽ bị gẫy đổ, nếu chúng ta chống trả với Thiên Chúa, đời chúng ta sẽ chồng chất thêm nhiều khổ đau, dù cuộc đời chúng ta có sóng gió, thì cũng hãy tin tưởng vào Thiên Chúa vì trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đáng giá hơn chim trời và hơn hoa cỏ đồng nội rất nhiều.

************************

Lời Kinh Của Người Đau Khổ

Lạy Chúa,
Con cầu xin ơn mạnh mẽ
để thành đạt trong cuộc đời,
Chúa lại làm cho con ra yếu ớt
để biết vâng lời khiêm hạ…

Con cầu xin có sức khỏe
để mong thực hiện những công trình lớn lao,
Chúa lại cho con chịu tàn tật
để chỉ làm những việc nhỏ tốt lành…

Con cầu xin được giàu sang
để sống sung sướng thoải mái,
Chúa lại cho con nghèo nàn
để học biết thế nào là khôn ngoan…

Con cầu xin được có uy quyền
để mọi người phải kính nể ca ngợi,
Chúa lại cho con sự thấp hèn
để con biết con cần Chúa…

Con xin gì cũng chẳng được theo ý muốn.
Nhưng những điều con đáng phải mơ ước,
Mà con không hề biết thốt lên lời cầu xin,
Thì Chúa lại đã ban cho con
thật dư đầy từ lâu…

Lạy Chúa,
Hóa ra, con lại là người hơn hết trên đời này,
Bởi con đã nhận được ơn Chúa vô vàn…

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

 

Xin và tin thì được: Đức Mẹ ban ơn qua thánh Tượng ở một nhà thương tại Sài gòn

Xin và tin thì được: Đức Mẹ ban ơn qua thánh Tượng ở một nhà thương tại Sài gòn

PayPal - The safer, easier way to pay online!

(UCA): Anh Nguyễn Duy Khoa, một bệnh nhân 22 tuổi,không Công Giáo.  Anh hiện đang được điều trị trong nhà thương của quận 5 Sài gòn.

Tại sân nhà thương, có một Thánh Tượng Đức Mẹ cao 2 mét (hình bên), và anh thường đến để cầu nguyện với Đức Mẹ.  Anh nói với thông tấn xã UCA rằng, anh đã rời phòng bệnh để “tới và thưa chuyện với Đức Mẹ về những lo âu của tôi”.

Anh Khoa, một chuyên viên máy vi tính, được điều trị bệnh viêm gan loại B, là một trong số người tuyên bố Đức Mẹ đã nhận lời cầu xin, khi họ đến đây để cầu nguyện.

Anh Khoa khẳng định: “Sau khi thưa chuyện với Đức Mẹ, tôi cảm thấy yên hàn hơn”.  Anh nói, anh biết về Đức Mẹ Maria, vì anh thường đi dự Thánh Lễ với một vài người bạn Công Giáo.

Ông Giuse Nguyễn Luân, 53 tuổi, người làm việc tại bệnh viện này từ năm 1984 và là người chăm sóc Thánh Tượng, ông nói, nhiều người tin tưởng vào Đức Mẹ, vì Người “nâng đỡ họ về mặt tinh thần, cũng như ban cho họ nghị lực để lướt thắng bệnh tật”.

Ông nói, các người Công Giáo đem hoa, nhang và nến tới dâng kính Đức Mẹ, trong khi những người của các tôn giáo khác dâng trái cây, thức ăn và hương nhang cho Đức Mẹ.  Một vài bệnh nhân đã dâng tặng những chiếc ghế bằng xi măng, để tỏ lòng biết ơn Đức Mẹ, vì Người đã nhận lời chữa lành bệnh cho họ.

Ông Luân nói rằng, những người không phải là bệnh nhân của nhà thương cũng đến với Thánh Tượng để cầu nguyện.  Ông nêu ra thí dụ về một cặp vợ chồng đã cưới nhau 21 năm.  Sau một vài lần chữa trị về thai sản không thành công tại nhiều trung tâm Y tế, họ đến cầu nguyện trước Thánh Tượng Đức Mẹ.  Cuối cùng , cặp vợ chồng này đã có con.  Giờ đây, họ tới kính viếng Đức Mẹ hàng năm.

Căn cứ theo lời của ông Luân, Thánh Tượng Đức Mẹ đã được một số nhân viên Công Giáo làm việc trong nhà thương dựng lên, và được Linh Mục Phaolô Hồ Văn Lành làm phép ngày 15.8.1974, dịp lễ Đức Mẹ Lên Trời.  Chín tháng sau đó, cộng sản miền Bắc cưỡng chiến miền Nam, thống nhất Nam Bắc.

Có một câu ghi trên bệ Đức Mẹ như sau: “Xin Mẹ Maria chúc lành cho những người chăm sóc bệnh nhân.  Ôi lạy Mẹ, xin hãy an ủi và thánh hóa các bệnh nhân”.

Người công nhân làm việc lâu năm tại nhà thương nói, các Tu sĩ Việt Nam và người Đại Hàn đã dựng lên nhà thương này năm 1973 để cung cấp các dịch vụ chăm sóc cho người cùi.  Sau 1975, chính quyền cộng sản tịch thu nhà thương.

Khi ông đang nói, thì có một phụ nữ dắt cháu gái tới bên đài Đức Mẹ.  Người phụ nữ 39 tuổi này nói, họ muốn tạ ơn Đức Mẹ vì Người đã chữa lành bệnh cho con gái bà.  Bà nói: bà và chồng bà đã tới đây liên tiếp ba tuần lễ đề cầu nguyện cho con gái họ.  Bà nói thêm: “Bất cứ khi nào chúng tôi cảm thấy buồn khổ nhất, chúng tôi chạy đến với Đức Mẹ, và Người luôn cứu giúp chúng tôi.”.

Một người khác, bà Maria Phạm Thị Yến, cùng đi với mẹ già 92 tuổi và con gái 27 tuổi tới tạ ơn Đức Mẹ cho sự bình phục mau chóng của con gái bà.

Những người khác mà thông tấn xã UCA phỏng vấn, đã nói rằng, họ đến để cầu nguyện, vì “đây là tượng Đức Mẹ duy nhất trong thành phố được đặt tại nhà thương, do nhà nước điều hành”.

Để tỏ lòng biết ơn và tôn kính, người ta đã đem hoa, nến, nhang, trái cây tới đặt dưới chân Đức Mẹ.  Một phụ nữ mang trái cây, hoa và nhang tới dâng kính Đức Mẹ, đã nói với thông tấn xã UCA rằng, bà là một Phật tử. Bà nói:

“Là người Công Giáo hay không, điều đó không quan trọng.  Điều quan trọng là bạn phải đặt tin tưởng nơi Đức Mẹ Maria”.  Trường hợp của bà, bà nói:

“Tôi đã cầu nguyện với Đức Mẹ Maria cho sự bình phục của con trai tôi, và Đức Mẹ Maria đã chữa khỏi cho con tôi”.

 

THỰC TẾ

THỰC TẾ

Một người mê cờ bạc, ngày kia nói với Minh Sư: “Hôm qua người ta bắt gặp con chơi cờ gian bạc lận nên những người chung sòng đã cho con một trận nên thân  và họ đã liệng con qua cửa sổ. Thầy thấy con phải làm gì đây?”

Minh Sư nhìn thẳng vào mắt anh ta rồi nói: “Nếu tôi ở vào trường hơp của anh, từ rày về sau, tôi sẽ chơi bài ở tầng trệt.”

Các đệ tử giật mình nên hỏi: “Sao thầy không khuyên bảo anh ta đừng chơi bài nữa.?”

Minh Sư trả lời một cách ngắn gọn và đầy ý nghĩa như sau: “Bởi vì thầy biết có khuyên như thế cũng chỉ bằng thừa mà thôi.”

Anthony de Mello, S.J.

Sách  “Một Phút Minh Triết”

Vạn vật đều có tánh linh

Vạn vật đều có tánh linh

Tôi đã từng chứng kiến một cảnh chết rất bi tráng. Cái chết đó làm rung động cỏi lòng sâu thẳm của tôi. Từ đó tôi nguyện suốt đời không làm tổn hại bất cứ một sanh mạng cho dù là bé nhỏ…

Một lần nọ đi săn Linh dương, chúng tôi được chứng kiến đời sống và bản chất của chúng.

Linh dương có hình dạng giống sơn dương nhưng có khiếu nhảy rất giỏi, mỗi con trưởng thành nặng khoảng 30 kg ,tính tình thuần hậu , là loại động vật mà bọn thợ săn thích nhất. Lúc đó đội săn bắn chúng tôi bí mật bao vây khắp vùng nơi một đàn linh dương đang cư trú, áp hơn 60 con linh dương vào mõm đá trên vách núi cao, nghĩ rằng như thế sẽ làm cho chúng rơi hết xuống mà chết cho đở lãng phí cung tên.

Nhưng không ngờ, khoảng 30 phút sau, một con linh dương đực đột nhiên kêu lên một tiếng. Tất cả linh dương lập tức phân thành hai nhóm: môt nhóm già và một nhóm trẻ.Tôi nhìn rất rõ nhưng không hiểu vì sao chúng lại phân theo già trẻ như vậy. Lúc đó, một con linh dương đực từ trong nhóm già đi ra, con này lông dài xuống ngực, trên mặt có nhiều nếp nhăn ngang dọc, hai cái sừng bị mòn đi. Vừa nhìn tôi đã biết con linh dương này già lắm rồi. Nó đi ra đứng phía trước, nhìn về hướng nhóm trẻ kêu một tiếng “be”. Một con linh dương trẻ liền bước ra. Một già một trẻ của hai nhóm đi đến vách núi đoạn mệnh. Sau đó lui lại vài bước, đột nhiên con linh dương trẻ hướng về trước chạy như bay, liên tiếp linh dương già cũng chạy theo. Con trẻ chạy đến ranh giới của vách đá, rùng mình một cái, hướng về phía khe suối đối diện mà nhảy. Con già liền kế theo sau cũng từ vách núi đá mà nhảy. Cứ một trẻ một già thời gian nhảy có trước sau một chút, tư thế nhảy cũng có khác. Con già nhảy thấp hơn , có nghĩa là có trước có sau, có cao có thấp.Tôi rất kinh ngạc, lẽ nào chết cũng phải từng đôi sao? Tôi nghĩ những con linh dương này trừ khi có ráp cánh mới nhảy qua được vách núi bên kia. Đúng vậy, con trẻ vừa nhảy được khoảng 5,6 mét thì rớt xuống ,trên không trung vẽ ra một đường cong rất đáng sợ. Tôi nghĩ nhiều nhất là vài giây nó sẽ rơi vào trong sâu thẳm. Đột nhiên một việc lạ xuất hiện. Con linh dương già nhờ vào kỷ thuật thành thạo của mình, tại chổ con trẻ từ điểm cao nhất trong nháy mắt nhảy xuống và toàn thân xuất hiện ở dưới móng của con trẻ, những con linh dương trong nhóm già nắm thời gian rất chính xác, ngay lúc mà toàn thân xuất hiện ở dưới móng của con trẻ thì cũng đúng lúc thời điểm cao nhất của đường cong nhảy, giống như hai chiếc tàu vũ trụ ở trên không trung hoàn thành nhiệm vụ tiếp nhận, bốn móng chân của nhóm trẻ đạp mạnh trên lưng của những con già, giống như nhờ vào cái cầu để nhảy qua vậy, nó ở trên không trung lại nhún một lần nữa và rơi xuống đất lại một lần nữa dồng lên cao. Mà các con linh dương trong nhóm già giống như xác phế của tên lửa đã di chuyển hết chất đốt sau đó tự động rời khỏi tàu vũ trụ,thậm chí nó càng bi thảm hơn xác phế tên lửa,sức mạnh của những con linh dương trẻ đạp nhún xuống giống như đôi cánh của con chim bị gãy ngang rớt thẳng xuống đất. Nhưng sức của những con trẻ nhảy lần thứ hai không xa như lần thứ nhất Độ cao cũng chỉ bằng nữa lần trước nhưng cũng đủ để vượt qua khoảng cách hai mét cuối cùng.Trong nháy mắt chỉ thấy những con linh dương trẻ rơi xuống ngọn núi đối diện thích thú kêu lên một tiếng “be” quay qua tảng đá đằng sau khuất dạng, cú nhảy đã thành công.

Lúc gấp gáp từng đôi từng đôi từ trên cao vòi vọi nhảy xuống, vùng cao trên khe suối như vẽ ra những đường cong làm người ta rối tung, thì từng con linh dương già đã rơi xuống thịt nát xương tan.

Tôi không ngờ đến giờ phút đồng loại sắp tuyệt diệt thì đàn linh dương đã nghĩ ra biện pháp hy sinh một nữa để giành lại một nữa cơ hội sanh tồn cho đồng loại.Tôi càng không nghĩ đến những con linh dương già sao mà ung dung khoan hồng chọn lấy cái chết, cam tâm tình nguyện, bỏ thân mệnh mình mở ra một con đường sống còn cho đời sau. Tôi vì thế mà cảm động nên từ đó về sau thề không sát hại. Do tận mắt nhìn thấy một cảnh chết vô cùng bi tráng làm rung động lòng tôi. Tôi cảm thấy rất xấu hổ. Từ đó về sau, nguyện không sát hại bất cứ một sanh mạng nào dù là rất nhỏ.

Vạn vật đều có tánh linh

Một buổi tối cuối thế kỷ 20, lúc ở trường đại học Hồ Nam khi xem một màn ảnh làm cảm động trời đất, tôi không cầm lòng được khóc ré lên!

Tỉnh Thanh Hải có một vùng sa mạc thiếu nước trầm trọng, mỗi người một ngày chỉ dùng 2 lít nước do đội quân đóng quân ở rất xa vận chuyển lại. Hai lít nước không chỉ dùng để uống, mà còn vo gạo, rữa rau… còn phải cho gia súc kéo uống, gia súc kéo thiếu nước không thể được, khát à!…

Có một ngày, bổng ở đâu hiện ra một con bò già, mà được mọi người cho là nó rất trung thành và thật thà. Nó quá khát giẫy giụa tuột ra khỏi dây cương mạnh mẽ xông vào con đường trong sa mạc mà đoàn xe chuyển nước đi qua, đợi một hồi đợi đoàn xe chuyển nước đến, nó chạy nhanh đến đứng sững giữa đường. Các chiến sĩ chuyển nước trước đây cũng đã gặp qua tình hình chặn đường của những con gia súc như vậy nhưng những con động vật trước không buất khuất kiên cường như con bò này.

Đoàn vận chuyển nước có quy định. Xe chuyển nước giữa đường không để mất đi một giọt, càng không thể tuỳ tiện cho nước. Những quy định này xem ra cũng thật khắt khe nhưng vì bất đắc dĩ. Từng giọt nước này đều là khẩu phần của mỗi người rồi.

Trong sa mạc người và vật đều như vậy, nó đứng đó một hồi lâu như vậy , thậm chí làm tắt đường, các tài xế phía sau bắt đầu chưởi rũa. Có vài tài xế tính tình nóng nảy dùng dầu châm đốt con bò tội nghiệp đó nhưng nó vẫn không động đậy, kiên cố như núi Thái, không chịu dùn bước. Đến khi chủ nó tìm đến, ông ta rất hổ thẹn nắm một cây roi dài quất lên trên thân yếu ớt của nó. Toàn thân như nát nhừ, không thể đi được, cây roi cũng nhuốm đỏ màu máu, nhuốm đỏ thân nó, nhuốm đỏ cả một vùng cát vàng sa mạc và nhuốm đỏ cả một buổi chiều tà. Nó kêu lên một tiếng thảm thiết hoà với tiếng gió tàn khồc u ám lạnh lẻo của sa mạc hiện ra cảnh tượng sao mà bi tráng. Người tráng sĩ đứng kế bên bật khóc, người tài xế bị cản xe cũng oà lên khóc. Cuối cùng, người tráng sĩ nói: “thôi, để tôi vi phạm luật lệ vậy. Tôi chấp nhận xử phạt”. Anh ta cầm bát của mình lấy khoảng 2 lít nước trong xe để trước mặt con bò, nhưng nó không uống bát nước trước mặt mà nó đã cực khổ có được, nó ngước mặt lên trời rống lên một tiếng dài, dường như nó đang kêu gọi.Trong ráng chiều, không xa từ phía sau đống cát chạy ra một con bò con. Con bò mẹ bị thương nặng nhìn con bò con tham lam uống sạch bát nước, le lưỡi ra liếm liếm đôi mắt đáng thương của bò con. Con nghé cũng liếm mắt mẹ. Mọi người lẳng lặng nhìn. Những giọt nước mắt chảy dài của tình mẫu tử lăn xuống .

Tia nắng cuối ngày đã tắt, hai mẹ con không đợi chủ gọi, lặng lẻ cùng chúng tôi đi về. Một buổi tối của cuối thế kỷ 20, khi tôi xem cảnh này trên ti vi, tôi hiểu ra cái khổ của mẫu thân. Tôi và vô số những người đang ngồi trước ti vi đã bật khóc, những giọt nước mắt nóng hổi cuồn cuộn trào ra.

Vì thế, tôi thành kính khẩn cầu quý vị xem xong mẩu chuyện này nên đối xử tốt với tất cả những sanh mệnh dù lớn hay nhỏ xung quanh ta bởi vì chúng đều có tính linh, đều có cha mẹ, con cháu, gia đình của chúng. Chúng cũng như con người chúng ta, đều có khát vọng được vui vẽ, hạnh phúc. Chúng ta thế nào đành lòng làm tổn hại chúng ư? Lại cầu mong bạn hãy đối xử tốt với mẹ, bởi vì đối với chúng ta, mỗi người mẹ đều có tình thương đậm đà và thắm thiết hơn con bò mẹ kia rất nhiều!…Xin thành tâm, thành tâm khẩn cầu tất cả đều biết yêu thương và tôn trọng mạng sống lẫn nhau để có một cuộc sống thật bình yên. Xin kính chúc tất cả quý vị đều hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc của cuộc sống.

Trích Internet- Như Nguyện dịch

 

AI ĐANG THỐNG TRỊ TÂM HỒN TÔI?

AI ĐANG THỐNG TRỊ TÂM HỒN TÔI?

Tác giả: Lm. Inhaxio Trần Ngà

Suy niệm Tin Mừng Mat-thêu (6, 24-34)

Lòng tham lên ngôi thống trị

Ai đang điều khiển bản thân ta? Đó là một câu hỏi không dễ trả lời.

Khi vừa mới nghe qua câu hỏi nầy, nhiều người sẽ vội đáp: Tất nhiên là lương tri tôi, lý trí tôi đang điều khiển tôi. Tuy nhiên, thực tế cho thấy là không hẳn như thế.

Có nhiều thứ quyền lực đang thống trị và điều khiển bản thân ta mà chính ta cũng không hay biết.

Nơi người nầy, có thể là những ham muốn nhục dục đang thống trị; nơi người kia, có thể là sự khao khát danh vọng đang nắm quyền chỉ huy…

Nhưng có lẽ quyền lực lớn lao và mạnh mẽ hơn hết đang thống trị nhiều người, đó là lòng tham lam.

Khi lòng tham đã lên ngôi, đã nắm quyền thống trị ai, thì lý trí, lương tri của người đó mất hết quyền chỉ huy bản thân mình.

Một số bác sĩ thừa biết thế nào là “lương y như từ mẫu”, nhưng lòng tham đang ngự trị trong tâm hồn các vị nầy đã thôi thúc các vị thực hiện những hành vi man trá (như nhân bản xét nghiệm chẳng hạn) tác hại đến sức khoẻ bệnh nhân để trục lợi hoặc từ chối cấp cứu nạn nhân không tiền đang lúc nguy kịch, khiến họ phải chết cách oan ức.

Không ít thầy cô thừa biết thế nào là đạo đức nhà giáo, nhưng lòng tham đang thống trị trong lòng một số thầy cô đã chỉ đạo cho các vị nầy bắt học sinh phải học thêm liên tục, để tăng thêm thu nhập cho mình, bất chấp các em phải học ngày học đêm, vừa cạn kiệt túi tiền, vừa khiến cho đầu óc tê liệt, thân xác rã rời!

Không ít vị lãnh đạo (như Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang gọi là cả một bầy sâu) thừa biết rằng tham ô là quốc nạn, là tội ác đối với dân tộc, nhưng lòng tham đang ngự trị trong tâm hồn những vị nầy sai khiến họ phải tiếp tục vơ vét không biết điểm dừng.

Nói chung, lòng tham đang thống trị trong tâm hồn con người đã xui khiến, xô đẩy người ta thực hành đủ mọi hình thức tham ô, trấn lột, chiếm đoạt, cướp bóc, giành giựt, xâm lấn, lường gạt, giết người cướp của, kể cả buôn người xuyên biên giới… để thu lợi về cho mình, bất chấp thiệt thòi, mất mát, đau thương, khốn cùng… của bao nhiêu người khác.

Điều đáng sợ là trong xã hội ngày nay, lòng tham ngày càng thắng thế. Lòng tham từng bước truất phế lương tri, lý trí, lòng đạo đức nơi rất nhiều người để chiếm lấy vị trí thống trị trong tâm hồn và đời sống của họ; và điều đáng sợ hơn nữa là hầu như không có một quyền lực nào – ngoại trừ quyền lực của Tin Mừng, của điều thiện – có thể lật đổ, truất phế lòng tham để cho lòng đạo đức và lương tri được lên ngôi.

Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su cảnh báo rằng nếu chúng ta để cho lòng tham thống trị là chúng ta đã truất phế Chúa ra khỏi tâm hồn và khỏi cuộc đời mình. Ngài nói: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.” (Mat-thêu 6,24)
Một khi đã truất phế Thiên Chúa, lật đổ chân thiện mỹ, để cho lòng tham lên ngôi, thì cuộc sống con người sẽ sa đoạ và đau thương.

Chúa Giê-su kêu gọi truất phế lòng tham.

Chúa Giê-su khuyến khích nhân loại đừng vơ vét tài sản vật chất khi Ngài tuyên bố: “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó” (Mt 5,3) và đừng tích trữ “kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm cho hư nát, nơi kẻ trộm khoét vách lấy đi, nhưng hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời…” (Mt 6, 19)

Chúa Giê-su hô hào nhân loại lật đổ, truất phế sự thống trị của lòng tham khi Ngài răn dạy: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam…” (Lc 12, 15); khi Ngài cảnh báo người phú hộ chỉ biết lo tích luỹ của cải đời nầy mà không biết chia sẻ cho tha nhân rằng: “Đồ ngốc! Nội đêm nay ta đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi tích trữ sẽ về tay ai?” (Lc 12,20)

Chúa Giê-su hô hào nhân loại lật đổ, truất phế sự thống trị của lòng tham khi Ngài kết án những người sống xa hoa như ông nhà giàu chỉ biết vui hưởng của cải dư dật của mình mà không chia sớt cho La-da-rô nghèo khổ (trong Tin Mừng Luca 16, 19-26) thì sẽ phải chịu cực hình đời đời trong hoả ngục.

Và đặc biệt, Chúa Giê-su kêu mời mọi người hãy đánh đổi, đổi một lấy trăm triệu lần hơn, bằng cách chia sớt tài sản đời nầy cho người nghèo khổ để mai sau được vui hưởng hạnh phúc thiên đàng, qua lời Ngài nói: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm cho mình những những túi tiền, những kho tàng bất hoại trên trời…” (Lc 12,33)

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con kiên quyết lật đổ lòng tham, không để nó thống trị tâm hồn và cuộc sống chúng con và dứt khoát tôn Chúa lên làm vua thống trị đời mình, biết vâng lời Chúa dạy để tích luỹ kho tàng trên trời bằng cách rộng tay chia sẻ những gì mình có với anh chị em chung quanh. Amen.

Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà