NGÀY ÂÝ … BÂY GIỜ …

NGÀY ÂÝ … BÂY GIỜ …

Anmai, CSsR

Thời gian ơi xin dừng lại

Thời gian ơi xin dừng lại

Cho đôi tình nhân

Yêu trong muộn màng

Đừng khóc ly tan …

(Ai đưa em về –
Nguyễn Ánh 9)

Thời gian trôi qua thật mau để rồi người ta cứ muốn kéo thời gian lại nhưng ai
nào kéo thời gian được đâu ?

Chỉ cần một giây trôi qua thôi thì mọi sự đã có thể thay đổi chứ huống hồ chi
một phút, một giờ, một năm.

Dẫu biết thời gian là như thế, con người vẫn muốn thời gian dừng lại để thừa
hưởng, để giữ lại cái vinh quang của tuổi xuân, của thời son trẻ nhưng nào ai
có giữ được. Tất cả đều nằm ngoài bàn tay với.

Danh, phận, sắc, … và tiền bạc cũng thế, tất cả đều trôi theo thời gian. Tiền
và danh cũng như bạc có lúc lên rồi có lúc xuống nhưng cuối cùng cũng trắng
tay. Cách riêng là nhan sắc, dù có cố giữ đi chăng nữa cuối cùng cũng chẳng còn
chi khi bóng ngã chiều tà.

Mới đây, có người cất công đi tìm hiểu về cuộc đời của vai diễn Tam Nương trong
phim ‘Người đẹp Bình Dương’, nữ diễn viên này mang luôn biệt danh này nhờ sự ái
mộ của công chúng. Bà cũng được coi là biểu tượng nhan sắc phụ nữ một thời ở
Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung.

Với nhan sắc mà người ta gọi là trời phú cho bà, bà được thừa hưởng quá nhiều
vinh quang của cuộc đời. Thế nhưng, tất cả những vinh quang đó lui lại ở quá
khứ. Tiền bạc, tài sản, danh vọng bà cũng có đó nhưng những ngày luống tuổi, bà
cùng chồng – là người cũng ở trên đỉnh của vinh quang – lại cùng nhau dắt díu
nhau trở về vùng ven của chốn đô thị để tìm lại những ngày còn lại trong cõi
lặng của đời người.

Sau khi trở thành ngôi sao tỏa sáng làng điện ảnh, bà được các hãng phim lúc bấy giờ mời vào vai chính liên tục. Bà đóng rất nhiều phim (khoảng 60 phim) và trở thành nữ minh tinh số 1 với tiền cát-xê 1 triệu đồng cho một vai diễn (tương đương 1 kg vàng 9999 thời bấy giờ).

Có thể nói giai đoạn rực rỡ nhất của bà là khoảng thời gian 1965 – 1972, phim nào có bà đóng cũng đạt doanh thu rất cao. Năm 1969, bà đứng ra thành lập hãng phim riêng mang chính tên của bà là hãng phim mang chính tên của bà.

Không chỉ hợp tác làm phim, đóng phim ở nước ngoài mà đi đâu, dự bất cứ cuộc liên hoan phim nào, bà cũng đều được trọng vọng, sánh ngang hàng với các diễn viên nổi tiếng nước ngoài. Bà là một trường hợp đặc biệt, hiếm có. Đặc biệt, những ân sủng này chính là nhờ sự nổi tiếng, nhan sắc và tài năng của bà. Đồng thời những năm đó, không chỉ tham gia đóng phim tình cảm tâm lý xã hội, bà cũng bước sang lĩnh vực phim hài và phim kinh dị như. Hầu như ở lĩnh vực nào, bà cũng thành công.

Không có gì tồn tại mãi trên cõi đời này, mà điều phù du nhất chính là nhan sắc. Nhưng ở đời không ai được hưởng trọn vẹn may mắn, hạnh phúc luôn tiềm ẩn sự rủi ro, thậm chí cả bi kịch. Những ai hiểu được điều này sẽ đồng cảm hơn với cuộc đời của người phụ nữ nổi tiếng này.

Sau những năm tháng của hào quang, những ngày này, bà tu tại gia, nghiên cứu
Thiền học, làm từ thiện, hầu như ít tiếp xúc bên ngoài. Cuộc đời của một “minh
tinh màn bạc”, một phụ nữ “sắc nước hương trời”, sự nghiệp nghệ thuật lẫy lừng
đã kết thúc với số phận nghiệt ngã. Có lẽ, bà sẽ sống yên ổn với huyền thoại và
hào quang cũ khi đi ra đường bao người ngưỡng mộ kéo nhau theo phía sau để nhìn
mặt và xin chữ ký.

Có lẽ, bà cũng chỉ là một trong nhiều người đã, đang, từng và sẽ nổi tiếng và
thành công bởi sắc đẹp, bởi tài năng, bởi khả năng của mình trong những ngày ấy
nhưng cuối cùng cũng phải đối diện với cái hiện tại, cái thời khắc bây giờ.

Thánh vịnh 90 gửi gấm tâm tình thật hay :

Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,

ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.

Không phải là bi quan, không phải là yếm thế, không phải là không còn lý tưởng để sống nhưng Thánh Vịnh nói “xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống” để chúng ta biết và nhắc nhớ với nhau rằng :

Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng,

như cỏ đồng trổi mọc ban mai,

nở hoa vươn mạnh sớm ngày,

chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.

Nhắc với nhau như thế để chúng ta vẫn sống trong cuộc lữ hành trần thế, ai ai trong chúng ta cũng cần chút tiền chút bạc để trang trải cuộc sống; ai ai trong chúng ta cũng cần một chút danh để lại với đời; ai ai trong chúng ta cũng cần chút sắc đẹp để phô diễn cho trần gian … nhưng cùng đích, căn cốt của con người vẫn là ơn cứu độ.

Sống trên đời này, chuyện quan trọng không phải là giàu hay nghèo, sang hay hèn, đẹp hay xấu nhưng cuối cùng làm sao đạt được Ơn Cứu Độ mà con người ngày đêm vẫn ngóng trông. Thật luống công vô bổ khi ta quá đẹp, ta quá sang, ta quá giàu, ta quyền cao chức trọng nhưng “bây giờ”, giờ ta nhắm mắt xuôi tay ta chẳng được gì. Có chăng được bộ đồ còn lại mặc trong người khi khâm liệm, mà bi đát nhất là cả cái nút áo người ta cũng cắt lại không để mang đi.

Đừng mãi hoài niệm cái “ngày ấy” xa xưa mà quên đi cái thực tại không chừng quá bi đát của “bây giờ” khi không còn chức còn quyền và dung nhan tàn tạ.

Vẫn có quyền hoài niệm một chút về “ngày ấy” nhưng hãy sống sao chọ đẹp phút “bây giờ” và quan trọng nhất là ngay “bây giờ” ta có phải ra đi ta hoàn toàn bình an và thanh thản vì ta đã ôm trọn Ơn Cứu Độ trong tay và vui vẻ thốt lên như cụ già Simêon :

Muôn lạy Chúa, giờ đây

theo lời Ngài đã hứa,

xin để tôi tớ này được an bình ra đi.

Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ

Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:

Ðó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,

là vinh quang của Israel Dân Ngài. (Lc 2, 29-32)

Anmai, CSsR

Nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Tình hình tại Syria hiện nay giống như cách đây hơn 4.000 năm

Tình hình tại Syria hiện nay giống như cách đây hơn 4.000 năm

Tình trạng Syria hiện nay giống tình trạng hơn bốn thiên niên kỉ trước.
26.12.2012
nguồn: VOA
Hạn hán, thành thị suy tàn, và chính phủ sụp đổ chấm dứt vai trò kinh tế trung tâm của Syria trong Vùng Trung Đông 4.200 năm trước.
Cuộc khảo cứu của trường đại học Sheffield ở Anh nêu lên những điểm tương đồng
quan trọng giữa một Syria bị chiến tranh tàn phá hiện nay với vụ đảo lộn thời
đế quốc Mesopotamia được biết tới với tên Akkadia vào thời kỳ đồ đồng.
Ellery Frahm, thuộc khoa khảo cổ của trường này tìm thấy những liên hệ bằng
cách nghiên cứu vấn đề thương mại tại Osidia trong trung tâm thương mại đô thị
của Urkesh, nơi bây giờ là miền đông bắc Syria.
Kính núi lửa được dùng để chế tạo dụng cụ sắc như dao cạo lấy từ sáu núi lửa
khác nhau trước khi xảy ra vụ sụp đổ của đế quốc Akkadia trải dài tới nước Iraq
hiện tại.
Khi tuyến đường thương mại và các chính phủ trong vùng sụp đổ trong thời kỳ mà
một số sử gia nói là giai đoạn gia tăng chế độ quân phiệt và bạo động, thành
phố này chỉ có thể mua osidian từ hai nguồn cung cấp kế cận, cho thấy ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng đối với sự lưu thông của người và hàng hóa.
Thêm nữa, ông Frahm nói canh nông vào thời đó cũng như bây giờ chủ yếu dựa vào
nước mưa thay vì thủy lợi,và các vụ mùa ở Akkadia không thể đáp ứng trước tình
trạng gia tăng dân số trong vùng.
Ông nói thêm với tình trạng biến đổi khí hậu hiện nay gây ra thêm nhiều khô
hạn, và với dân số đông hơn bao giờ hết, nông nghiệp hiện đại của Syria cũng không
thể bền vững được.
Ông Frahm khẳng định rằng công việc của ông không thể rọi ánh sáng vào tình
hình bạo động hiện nay ở Syria, thay vào đó nó đem lại một phương cách để hiểu
về những gì trước mắt, bằng cách tìm hiểu phương cách mà các bậc tiền bối phản
ứng trước các cuộc khủng hoảng của chính họ và của nước ngoài.

Nói cho con người: Lm. Chân Tín (25)

Nói cho con người: Lm. Chân Tín (25)

Đăng bởi lúc 1:55 Sáng 27/12/12
nguồn: Chuacuuthe.com

VRNs (27.12.2012) – Sàigòn –

Nhận định:

Bài nói của ông Đỗ Mười

tại Hội nghị Cán bộ, ngày 3/3/1994

Trong tình hình Mỹ bỏ cấm vận, mở cửa kinh tế theo thị trường tự do của các nước tư bản, với ‘diễn biến hòa bình’, trong và ngoài nước, ông Đỗ Mười kêu gọi đảng viên “trước hết phải đứng vững trên quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp”.

Giai cấp nào đây? Đây là vấn đề then chốt: Giai cấp những người lao động nghèo đói bị bóc lột ngày hôm nay trên Đất nước này, hay ‘giai cấp công nhân’ không có gì là công nhân, nhưng là giai cấp của các ‘quan cách mạng’, ‘giai cấp mới’ bóc lột nhân dân lao động đến xương tủy. Đấu tranh giai cấp để giai cấp thống trị hiện nay mãi độc quyền, độc tôn, nắm toàn quyền kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục, y tế vv…

Để bảo đảm độc quyền của ‘giai cấp mới’ phải nô lệ hóa nhân dân, phải đạp lên con người, đạp lên trên những quyền căn bản nhất của con người. Con người có tự do, không ai có quyền tước đoạt tự do của con người, bằng cách lập luận “mỗi nước có đặc thù, có  truyền thống, có luật pháp của mình”. Truyền thống hay luật pháp bất công, đàn áp con người, thì truyền thống đó, luật pháp đó, phải bị hủy bỏ.

Nhân loại càng thông minh càng phải làm cách mạng hủy bỏ cái truyền thống, cái luật pháp bất công đó. Ông Đỗ Mười nêu lên truyền thống độc quyền, luật pháp vi hiến, chống lại bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền mà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam  đã đặt bút ký với các dân tộc văn minh.

Ông Đỗ Mười nói đến công lao của Đảng Cộng sản Việt Nam đã “giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động, xóa bỏ ách thống trị, bóc lột, áp bức bất công, mang tự do, hạnh phúc cho mọi người”. Có phải vậy không? Công nhân thứ thiệt vẫn nghèo đói, vẫn bị bóc lột, vẫn bị áp bức còn hơn thời thực dân. Chỉ có một nhóm người nhỏ tự cho mình là ‘giai cấp công nhân’ mới được giàu có, quyền chức, sống trên đầu trên cổ của người lao động nghèo, những công nhân sống với đồng lương chết đói. Họ xóa bỏ ách thống trị thực dân, để áp một ách thống trị nặng nề hơn, khắc nghiệt hơn.
Lịch sử 73 năm chế độ cộng sản ở Liên Xô và 45 năm ở Đông Âu, và nay ở Trung
Quốc, Bắc Triều Tiên, Cu Ba và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cũng đủ để
chứng minh cái ách thống trị độc tôn, độc đảng, độc quyền đó. Ngày nay bóc lột,
áp bức, bất công càng lớn hơn tất cả các chế độ thực dân phong kiến xưa nay.
Thời phong kiến ngày xưa là phong kiến tự phát nơi này nơi khác không có tổ
chức, không để cho nô lệ thiếu đói, chết bệnh, không bắt nô lệ ca ngợi mình.
Ngày nay chế độ cộng sản là một tập đoàn phong kiến có tổ chức: mất hết tự do,
không có hạnh phúc mà người dân phải nói mình có hạnh phúc, mình tự do, mình
sống trong chế độ dân chủ hơn cả triệu lần dân chủ tư bản.

Về đấu tranh tư tưởng, tôi nghĩ những Hà Sĩ Phu, những Nguyễn Hộ, những Phan Đình Diệu, những Bùi  Tín, những Lữ Phương là những đảng viên có cỡ đã nói quá nhiều về sự lỗi thời, sự lạc hậu, sự tàn lụi của chủ nghĩa Mác-Lê.

Ông Đỗ Mười, để ca ngợi chủ nghĩa Mác-Lê, chỉ lặp lại bài học cũ kỹ: Mác Anghen, Lênin đã phân tích sâu sắc bản chất chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, chỉ ra con đường đấu tranh để giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, giải phóng dân tộc, xóa bỏ ách thống trị, bóc lột, áp bức, bất công, mang tự do hạnh phúc cho mọi người. Ông Đỗ Mười nói thuộc lòng bài học đã nhét vào đầu từ khi mới vào Đảng. Lý thuyết là thế, mà sự thực trái ngược, như mọi người dân hôm nay đều thấy, các
nhà trí thức, các nhà khoa học lên án nặng nề chủ nghĩa xã hội và chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô. Ở Việt Nam, ông Đỗ Mười nổi sùng đập bàn bảo “cán bộ trong
các viện nghiên cứu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, các nhà chính trị,
các nhà văn hóa phải có thái độ, phải lên tiếng. Tại sao ta lại ngồi yên, ở thế
bị động suốt mấy năm nay. Sắp tới ta còn bị động nữa…” Ông Đỗ Mười kêu gào
“đừng để chúng vừa ăn cướp, giết người, vừa la làng”. Ai la làng đây? Tước hết
nhân quyền và dân quyền của người dân, rồi bảo chế độ ta dân chủ hơn cả triệu
lần. chỉ một điểm chính yếu đó cũng đủ biết ai la làng.

Ông Đỗ Mười bảo: “Một số  phần tử xấu nói thể kỷ XX là thế kỷ cộng sản giết người lớn nhất trong lịch sử, nên phải chôn vùi nó”. Chủ nghĩa cộng sản, chế độ cộng sản chỉ tồn tại hơn 70 năm trên đất nước Liên Xô, 45 năm trên Đông Âu, 40 năm ở Việt Nam, thế mà bao cuộc tàn sát của Stalin, thủ tiêu hàng triệu sinh mạng vì họ là những người vô
tội, bất đồng chứng kiến. Ngay ở Việt Nam bao nhiêu người chết vì bị đấu tố để
cướp đất đai của dân, những cuộc thanh trừng các nhà văn, nhà trí thức, cách riêng
thời ‘nhân văn giai phẩm’, bao nhiêu người bị tù đày, thanh toán vì nói ngược
Đảng. Ở Liên Xô từ ngày có phong trào dân chủ, người ta vạch trần thời ghê rợn
của chế độ cộng sản ở Liên Xô. Vụ hàng ngàn sĩ quan Ba Lan bị tàn sát tại
Katyn, trước kia Liên Xô đổ cho Đức quốc xã, nhưng nay được chứng minh là chính
Liên Xô đã tàn sát một năm trước khi Đức quốc xã đến.

Ông Đỗ Mười hỏi: “Ai gây ra chiến tranh thế giới lần thứ hai, làm thiệt mạng mấy chục triệu người?” Ông không nhớ rằng chiến tranh đó Đức quốc xã khởi sự chiến tranh với sự đồng lõa của Liên Xô vào những năm đầu của chiến tranh thế giới thứ hai. Những hàng triệu người chết vì bom đạn của chiến tranh, khác với việc cố tình tàn sát hàng
triệu người vô tội không cầm khí giới chỉ vì họ bất đồng chính kiến với Đảng
cộng sản.

Ông Đỗ Mười tố “các thế lực thù địch vu cáo Đảng ta độc tài, không có dân chủ”. Người ta nói vậy không đúng hay sao? Hay phải gọi độc tài là dân chủ, dân chủ là độc tài? Các chế độ khác có những hạn chế trong một vài lãnh vực, và dân chủ trong nhiều lãnh vực. Ở Việt Nam, độc tài trên mọi lãnh vực: không tự do tư tưởng, tự do báo chí, tự do phát biểu ý kiến, không có tự do tôn giáo cho các giáo hội tổ chức nội bộ,
đặt chức sắc, in ấn sách vở tôn giáo, không được tự do đi lại, cư trú, cái hộ
khẩu nhân dân gọi là ‘hậu khổ’ một tờ giấy cầm tù tại gia. Muốn ở chỗ khác phải
xin phép mà các cơ quan cách mạng tự do từ chối. Còn bầu cử tự do, phải có ứng
cử tự do. Tại Việt Nam chả có ứng cử tự do, hay có để người ứng cử tự do cho có
hình thức, họ cũng bị loại trước khi bầu cử, hoặc làm cò mồi để lót đường cho
các quan cách mạng được Đảng chọn qua cái gọi là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Sự
thật như thế mà gọi là dân chủ, là không độc tài? Là dân chủ hơn cả triệu lần?
Người ta ăn nói mà không ngượng miệng. Người ta coi nhân dân là đám con nít hay
là đám nô lệ cúi đầu chịu, khi Đảng bảo cái đen là trắng thì cố dạ dạ vâng vâng
bảo là trắng. Khổ và nhục cho dân Việt có bốn ngàn năm văn hiến.

Về nhân quyền, ông Đỗ  Mười bảo “Điều thứ nhất trong Công ước của Liên Hiệp Quốc là tôn trọng độc lập, chủ quyền và quyền tự quyết của các dân tộc”. Nhưng độc lập, chủ quyền, tự quyết để làm gì? Là để đem tự do, hạnh phúc cho người dân, nhưng nếu độc lập, để cô lập đất nước bằng một chế độ hà khắc, không muốn ai can thiệp để bảo vệ
con người, thì độc lập đó có lợi ích gì cho con người, cho người dân? Nếu tự
quyết do một đảng phái áp đặt một hệ thống cai trị ngược lại với các quyền căn
bản của con người, thì tự quyết đó không phải là của nhân dân. Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn nói nhân dân chọn chủ nghĩa xã hội, nhân dân nào đây? Một nhóm
người rồi bảo nhân dân. Đảng cộng sản thử làm một cuộc trưng cầu ý dân tự do để
coi được mấy người ủng hộ chủ nghĩa xã hội và chế độ xã hội chủ nghĩa hôm nay
trên đất nước. Chắc chắn là ĐCS không dám rồi.

Về kinh tế, ông Đỗ Mười nói “ta đã đi vào thị trường”. Thị trường gì đây? Thị trường tự do với luật lệ hẳn hoi có kỷ cương luật hay là thị trường hỗn loạn, không có luật lệ rõ ràng, tình trạng buôn lậu (người người buôn lậu, nhà nhà buôn lậu, cơ quan nhà nước buôn lậu, kể cả Ủy ban Nhân dân và Đảng bộ như vụ Đỉnh Họt), tình trạng tham
nhũng lan tràn. Kinh tế còn có sự quản lý, can thiệp của Nhà nước, của Đảng như
ông Đỗ Mười nói, kinh tế ấy chỉ làm lợi cho những người có chức, có quyển, có ô
dù, một thứ Mafia được tổ chức khắp nước, khắp tỉnh thành, để làm lợi cho bản
thân họ và cho cả các nước ngoài, để có những hợp đồng sang nhượng đất đai, nhà
cửa, cơ sở với giá thấp. CHXHCN Việt Nam hôm nay, thấy làm ăn quốc doanh lỗ lã,
chạy theo thị trường cách hỗn loạn.

Ông Đỗ Mười nói đến bốn nguy cơ, trong đó có một nguy cơ khách quan và ba nguy cơ chủ quan, đang đe dọa chế độ cộng sản Việt Nam.

Nguy cơ khách quan là các thế lực thù địch muốn lật đổ chế độ: “Chúng đánh ta, ta đánh lại”. Đây chỉ là hoang tưởng. Thời nay là thời mà Đảng gọi là ‘diễn biến hòa bình’. Đảng Cộng sản hôm nay rất sợ diễn biến hòa bình. Vác súng đánh giặt, thì Đảng có nhiều kinh nghiệm. Coi như Cộng sản Việt Nam không ngán chiến tranh, nhưng lại ngán hòa bình. Diễn biến hòa bình, thì ai làm tốt, ai đem tự do, hạnh phúc cho dân
thì dân theo. Nếu ĐCS đem tự do, hạnh phúc no ấm hơn ai hết, thì có gì Đảng
phải sợ ‘diễn biến hòa bình’?

Còn ba nguy cơ chủ quan, ông Đỗ Mười đưa ra trước hết ‘nguy cơ chệch hướng’. Hướng nào đây? Hướng của dân hay của Đảng? Hướng của dân là tự do, là dân chủ, là tôn trọng nhân phẩm, nhân quyền, dân quyền. đúng là Đảng đi ‘lệch hướng’ của nhân dân và ông Đỗ Mười gọi cái hướng của nhân dân là cái hướng lệch, phải áp đặt thêm nữa hướng độc tài, độc tôn của Đảng. Chính đây là cái nguy cơ chệch hướng đã lâu rồi và Đảng chưa đổi hướng cho đúng hướng của dân.

Nguyễn Trãi nói: “Chở thuyển là dân mà lật thuyền cũng là dân”. Đừng sợ kẻ thù lật thuyền. Khuyên ông Đỗ Mười đổi hướng cho đúng hướng của người dân.

Về nguy cơ tham nhũng, ông Đỗ Mười tự an ủi là thời nào cũng có tham nhũng, nước nào cũng có tham  nhũng. Tham nhũng của các nước dân chủ có giới hạn và bị phanh phui và đưa ra tòa kể cả Tổng thống, Thủ tướng. Ở đất nước này, tham nhũng tràn lan khắp nơi, khắp mọi lãnh vực, mọi cấp bậc. Có bắt tham nhũng cũng ở cấp nào đó, còn mấy “quan cách mạng” cao cấp lắm ô dù cho tay chân tham nhũng, buôn lậu thì vẫn yên vị hay còn lên chức.

Còn nguy cơ ‘cơ sở yếu’, thiếu tính chiến đấu: Thượng bất chính, hạ tất loạn. Trên tác oai, tác quái. Cứ đi điều tra các xí nghiệp sẽ thấy, các đảng viên là những kẻ tác oai, tác quái, tổ chức tham nhũng! Như vậy, làm thế nào mà triệt được tham nhũng như ông Đỗ Mười hô hào rát cả cổ. Đảng chống tham nhũng, tham nhũng càng phát triển cách tinh vi hơn, như báo chí của Đảng mới đây có viết.

Nói tóm, bài nói của ông Đỗ Mười không có điểm nào được cả. muốn đổi mới mà cứ các giáo điều cũ. Không nhìn vào thực tế, cứ mãi chủ nghĩa Mác Lê như hồi trước. Các nước cộng sản sụp đổ mới mở mắt đảng viên, để đổi mới cho đúng với hướng nhân dân. Nếu nay mai, Đảng Cộng sản ở Nga và các nước Đông Âu có ảnh hưởng người dân là vì họ đã đổi mới, đã đòi dân chủ, đòi đa nguyên, đa đảng, đòi tự do, đòi nhân quyền cũng như các đảng khác.

 

Lm. Chân Tín


(Tin Nhà số 16, trang 12-13)

 

Tình yêu chân thực

Tình yêu chân thực (Nhận xét của một bác sĩ)

Vào khoảng 8 giờ rưỡi một buổi sáng bận rộn, một ông cụ tuổi ngoài tám mươi đến để người ta rút chỉ khâu vết thương trên ngón tay cái của ông. Ông cụ nói ông vội lắm vì ông có cái hẹn lúc 9 giờ.

Thấy ông cụ có dấu hiệu nôn nóng tôi mời ông ngồi. Tôi biết sẽ phải mất hơn một tiếng đồng hồ nữa trước khi có ai đó có thể chăm sóc cho ông. Tôi nhận thấy ông bồn chồn nhìn đồng hồ và tôi quyết định xem xét vết thương của ông vì lúc ấy tôi không bận gì với bệnh nhân nào khác.

Theo chỗ tôi thấy, vết thương của ông đã khá liền miệng. Thế nên tôi bảo một
trong các bác sĩ mang dụng cụ đến để tôi tháo chỉ và băng lại cho ông ta. Trong
khi tôi chăm sóc vết thương cho ông cụ, hai chúng trôi trò chuyện với nhau. Tôi
hỏi chắc ông có hẹn đến khám nơi một bác sĩ khác hay sao mà vội thế. Ông cụ nói
không, và ông bảo rằng ông cần đến nhà dưỡng lão để ăn sáng cùng với vợ
ông.

Tôi hỏi thăm về sức khỏe bà vợ ông. Ông nói vợ ông đã ở trong viện dưỡng lão từ
lâu rồi vì bà là nạn nhân của bị bệnh Alzheimer (mất trí nhớ).

Tôi hỏi thêm, ông đến hơi trễ chắc bà ấy bực mình lắm nhỉ? Ông đáp rằng bà có
còn nhớ ông là ai đâu, và từ năm năm nay bà không còn nhận ra ông nữa! Tôi ngạc
nhiên hỏi: “Vậy mà sáng nào ông cũng đến đó dù bà ấy không còn nhận ra ông
sao?”

Ông cụ mỉm cười vỗ nhẹ lên bàn tay tôi: “Bà ấy không biết tôi, nhưng tôi vẫn
còn biết bà ấy là ai mà.”

Tôi đã phải cầm nước mắt khi ông cụ bước đi. Cánh tay tôi nổi da gà và tôi
nghĩ: “Đó là thứ tình yêu mà suốt đời tôi mong muốn có”. Tình yêu chân thực
không vì vật chất, cũng chẳng [cần phải] mang tính lãng mạn gì. Tình yêu chân
thực là sự chấp nhận tất cả những gì đang hiện hữu, đã có hay đã không có, sẽ
có hay sẽ không bao giờ có [nơi người mình yêu].

On True Love (a Doctors observation):

It was approximately 8.30 a.m. on a busy morning when an elderly gentleman in
his eighties arrived to have stitches removed from his thumb. He stated that he
was in a hurry as he had an appointment at 9.00 a.m.

I took his vital signs and had him take a seat. I knew it would take more than
an hour before someone would to able to attend to him. I saw him check his
watch anxiously for the time and decided to evaluate his wound, since I was not
busy with another patient.

On examination, the wound was well healed. Hence, I talked to one of the
doctors to get the supplies to remove his sutures and redress his wound. We
began to engage in a conversation, while I was taking care of his wound. I
asked him if he had another doctor’s appointment later as he was in such a
hurry. The gentleman told me no, and said that he needed to go to the nursing
home to have breakfast with his wife.

I inquired about her health. He told me that she had been in the nursing home
for a while as she was a victim of Alzheimer’s disease.

I probed further and asked if she would be upset, if he was slightly late. He
replied that she no longer knew who he was, and that she had not been able to
recognize him since five years ago.

I asked him in surprise, “And you still go every morning, even though she
doesn’t know who you are?”

Then he smiled as he patted my hand and said, “She doesn’t know me, but I
still know who she is!” 😉

I had to hold back my tears as he left. I had goose bumps on my arm, and I
thought, “That is the kind of love I want in my life.” True love is
neither physical, nor romantic. True love is an acceptance of all that is, has
been, was not, will be, and will not ever be…

Anh Nguyễn V.Thập gởi

 

TẾT XỨ NGƯỜI,

TẾT XỨ NGƯỜI,

Ba mươi tết đến trời thêm tối,
Xứ lạ quê người nhớ lắm thôi,
Mình ênh tống cựu buồn da diết,
Đốt nén nhan thơm nước mắt bồi…
Nắng nóng Sài gòn đón tết sang,
Cúc thắm,đào xinh,đóa cúc vàng,
Người người hớn hở mừng xuân đến,
Lặng ngắm miền xa… dạ xốn xang…
Dân ca khúc hát ngày xưa đã,
Vẳng lại đâu đây nỗi nhớ nhà,
Hồn tôi bước chậm về thôn cũ,
Đón tết âm thầm…vạn xót xa…
Liverpool.27/12/2012.
Song Như.

Chúc mừng năm mới LVC.

KHI THIÊN CHÚA BỊ CHỐI TỪ

KHI THIÊN CHÚA BỊ CHỐI TỪ

Vụ bắn giết kinh hoàng vừa xảy ra tại nước Mỹ, trong trường tiểu học Sandy Hook Elementary School ở Newtown, tiểu bang Connecticut, nơi mà một cuộc tàn sát thê thảm đã xẩy ra lúc 9:30 buổi sáng thứ sáu ngày  14/12/2012 đã làm rung động cả thế giới. Tử vong kể cả phạm nhân lên tới 28 người, trong đó có 20 con trẻ lớp 1 tuổi từ 6 cho đến 7, gồm 8 trai 12 gái. Nhiều em là giáo dân cuả giáo xứ St. Rose of Lima.

Adam Lanza, một thanh niên mới 20 tuổi còn ở với mẹ, đã bắt chết mẹ mình rồi vác 3 khẩu súng máy, lái xe tới trường, phá cửa kính xông vào và, không nói một lời, bắn giết 2 lớp học rồi tự sát. Có những thi thể bị bắn tới 11 viên đạn. Cuộc thảm sát xảy ra khi ngày lễ Giáng sinh đã gần kề, những  nạn nhân, phần lớn là các em nhỏ, miệng vẫn còn măng sữa. Sự việc xảy ra, giữa thế kỷ 21, một thế kỷ được cho là thành công của những công nghệ tin học, y học và khoa học. Nhưng tại sao con người lại quá man rợ không khác gì vào những thời nguyên thuỷ, hoang sơ của các bộ lạc khi phải đấu tranh sinh tồn.

Có thể vô vàn những lý do, nhiều những chẩn đoán được đưa ra bàn luận, và cũng có những kết luận. Có thể Adam Lanza là một con người bất bình thường, khi có một hành động gây bao đớn đau cho nhiều người. Nhưng có một điều ít ai để ý: thế giới đang bị huỷ hoại về tình yêu, mà tình yêu đó,  từ nguồn mạch là Thiên Chúa. Thiếu đi nhịp thở yêu thương ấy con người trở nên man rợ đối với anh em đồng loại của mình. Thiên Chúa trong xác thân của một em bé cất tiếng khóc oa oa chào đời cũng đã bị con người khước từ. Thánh Gioan ghi nhận điều này là: “ Ngài đã đến trong nhà ngài, nhưng người nhà đã không tiếp nhận Ngài” (Gá,14).

Khước từ Thiên Chúa, con người không thể chấp nhận tha nhân là anh em mình. Hài Nhi Giê-su đã không có một chỗ nào cho Ngài. Hàng quán, quán trọ, ai cũng hất hủi và Hê-rô-đê thì tìm mọi cách để giết Ngài. Thiên Chúa trong dáng dấp của một bé thơ, vô phương tự vệ, chỉ biết phó thác hoàn toàn cho những sáng kiến của Thánh Giuse, trước sự truy sát của bạo vương Hê-rô-đê. Các trẻ thơ vô tội đã chết trước lòng hận thù trào dâng của con người. Cain giết Aben. Thảm hoạ cho nhân loại khi thế giới vắng bóng Thiên Chúa.

Những trẻ thơ đã tắt thở khi chưa kịp cất tiếng khóc và mở mắt chào đời. Con người không nhận ra trẻ thơ Giê-su chính là Ngôi Hai, con Thiên Chúa đã Giáng sinh trong một con người. Trật tự thế giới rơi vào tình trạng hỗn mang khi Thiên Chúa bị xua đuổi. Nếu xưa trong vười địa đàng, chiều chiều, bước chân Thiên chúa đến dạo chơi cùng con người, thì hôm nay, con người không còn tiếp nhận Ngài đến nữa. Hài nhi Giê-su đến đem bình an, tuổi thơ của Thiên Chúa mang đến cho nhân loại tình thương, sự sống và những ngọt ngào dịu vợi. Sự ác không đến từ Thiên Chúa, chỉ con người một khi nhẫn tâm đẩy Thiên Chúa ra xa lạ, thì tăm tối và tội lỗi sẽ lên ngôi.

Tội nghiệp cho Thiên Chúa, trong một đêm sinh hạ, lẽ ra con người kính thờ Ngài, thì trái lại họ khước từ Ngài. Mãi mãi trong những đêm đông của mùa tuyết rơi, Hài Nhi Giê-su vẫn bị chối từ bởi sự ích kỷ, lòng kiêu căng, thói tự phụ của con người.

Lạy Chúa Hài Đồng, xin mở lòng chúng con để chúng con đón nhận Ngài vào trong cuộc đời của mình, trong đêm Giáng sinh an bình tình yêu.

Lm Giacobe Tạ Chúc

Thế hệ “Bánh Mì Kẹp”

http://lh6.ggpht.com/-EedJRJl6PNg/T9CziYp8EWI/AAAAAAAATEo/xUMCWqUekW0/sandwich%252520generation%2525202_thumb%25255B1%25255D.jpg?imgmax=800
Thế hệ “Bánh Mì Kẹp” (The Sandwich Generation)

Tôi ra đời giữa hai cuộc chiến, giữa một trăm năm đô-hộ giặc Tây và hai mươi năm
nội-chiến từng ngày. Sau đó, tôi được đi du-học và tôi đã sống “vô tư lự” bên
trời Âu sung-túc trong khi khói lửa vẫn ngập trời nơi quê nhà.

http://4.bp.blogspot.com/-n6lhwF_4BP4/T2D9i7hwouI/AAAAAAAAEF8/RZy8MPXGEOE/s320/exodus.jpg

Giờ đây, bom đạn đã ngừng tiếng nhưng một lần nữa, gia-đình tôi đã phải cuốn gói rời bỏ quê-hương và mấy triệu người Việt-Nam bỗng nhiên phải sống tản mác trên toàn thế-giới như những cây bị bật rễ, ở những chốn dung-thân như Mỹ, Gia-Nã-Đại, Pháp, Úc…

Phần mất mát vần còn đó, nguyên vẹn, ít ra đối với bố mẹ chúng tôi và chúng tôi, thế-hệ đầu của những người di-dân. Một thế-hệ “nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi”, lơ lửng giữa không-gian quê hương, chơi vơi giữa thời-gian thế-hệ, lạc lõng trong tâm-tư văn hoá.  Một thế-hệ “bánh mì kẹp”.

Kẹp giữa hai quê-hương
http://4.bp.blogspot.com/-BwdAyzP-2co/T2D9-PSmr9I/AAAAAAAAEGM/dh5RaLa599k/s320/flags-globe-thumb541425.jpg
Những người di-dân này, ngày hôm nay mang sổ thông-hành Mỹ, Pháp, Úc… nhưng vẫn chỉ là Mỹ (Pháp, Úc…) giấy, phần đông tiếng Mỹ (Pháp, Úc…) vẫn còn ba-xí ba-tú, miệng vẫn hôi mùi nước mắm chứ không hôi hamburger hay camembert, vẫn không có bạn bè Mỹ (Pháp, Úc…) mà chỉ sống quanh-quẩn với nhau, tụ-tập nơi những thương-xá, chợ búa Á-Đông, hay rủ nhau “party”, ăn uống, karaoke với nhau.

Những người Mỹ (Pháp, Úc…) gốc Việt này đã đi tìm một nơi nương-tựa để sống “tạm-bợ” nơi xứ người mà trong thâm-tâm còn cố tưởng-tượng như mình đang sống ở quê nhà, và lúc nào có dịp, có phương-tiện là lại vù về Việt-Nam, một số để “hưởng-thụ”, nhưng phần lớn vẫn vì nhớ nhà.
Tôi không nhớ ai đã có nói:  “Ma patrie, c’est là où je suis heureux”
(Quê-hương tôi là nơi chốn nào tôi sống hạnh-phúc)

Tôi muốn tin ông lắm, tôi cũng muốn tự an-ủi mình lắm, nhưng tiếng gọi của cội-nguồn réo rắt lắm, ông ơi. Tôi cứ ngỡ quê-hương là nơi chôn nhau, cắt rốn, là nguồn, là cội, là gốc, là rễ cơ mà ?

Ở hải-ngoại, đương-nhiên chúng tôi được tự-do, phần đông được ăn sung, mặc sướng, đủ tiền mua nhà, chăm lo cho con cái ăn học, đi shopping hay du-ngoạn đây đó… Đời sống này, nhiều đồng-bào ta nơi quê nhà mong mỏi có được, và tôi thừa hiểu chúng tôi « hạnh phúc » hơn rất nhiều người lắm. Tôi không dám than thân, trách phận hay phân-bì với ai cả, chẳng qua nơi đây, tôi chỉ nói lên tâm-sự u-uẩn những người tha-hương chúng tôi mà thôi.
Nhất là trong trường-hợp tôi, hiện đang mang hai quốc-tịch Pháp và Mỹ, sống bên Mỹ nhưng tim vẫn còn « vọng Nam », tâm vẫn còn hướng về Pháp, đôi khi vẫn nhớ về khung trời Bỉ Quốc. Những nơi tôi đã sống, làm sao tôi có thể xóa quên được ?
Quê-hương như người mẹ đã bụng đau, dạ chửa cho tôi ra đời, nuôi-nấng, dậy-dỗ tôi nên người, và quê-hương thứ hai, thứ ba là những bà mẹ đã mở rộng vòng tay, đón-nhận tôi khi tôi không còn chỗ đứng dưới ánh mặt trời.
Ơn-nghĩa này, chúng tôi không quên (từ ngày sang Mỹ, năm 1975, bố mẹ tôi năm nào cũng gửi chút quà giáng-sinh cho gia-đình ông sĩ-quan Mỹ đã giúp nhà tôi sang Mỹ, và sau khi bố tôi mất, mẹ tôi vẫn tiếp-tục gửi, mặc dù người ân-nhân này đã mấy lần đề-nghị nên thôi gửi quà).
Tôi cảm quí những bà « mẹ nuôi » lắm, tôi lại càng xót-thương Mẹ Việt-Nam, quê-hương đau-khổ. Ôi, quê-hương tôi đâu ? Mỹ, Pháp, Úc… ? Hay vẫn là Việt-Nam muôn thuở ?


Kẹp giữa hai nền Văn-hoá

Ngày hôm nay, tôi đã lục-tuần nhưng tôi đã chỉ được sống ở quê nhà có mười tám năm. (Tôi đã mất mát quá nhiều rồi.)

Bao nhiêu năm tháng sống bên Pháp, bên Bỉ, đã rèn đúc tôi với một lối suy-luận, một cách ăn nói, một cách cư-xử xã-giao, một nền văn-hoá mà tôi hãnh-diện mang bên cạnh văn-hoá của mình, Qua bao năm tháng đó, tiếng Pháp đã dần-dà trở thành tiếng tôi thông-dụng nhất, ngay cả để diễn-tả những tâm-trạng sâu-thẳm nhất của mình.

Tuy nhiên, bao nhiêu năm tháng đó chỉ có thể thấm vào cái vỏ bên ngoài, chỉ có thể thay đổi hình-dạng và cử-chỉ của tôi, chỉ có thể tạo nơi tôi những sở-thích ăn mặc, đi đứng, nói chuyện, chỉ có thể tạc lên cái “Tôi” bên ngoài.

Tất cả những năm tháng đó không hề thay đổi nước da hay sắc tóc tôi (tóc tôi chỉ có thể bạc trắng với thời-gian), không hề lay-chuyển âm-điệu tiếng mẹ đẻ của tôi, không hề làm suy-sút kho-tàng văn-hoá tổ-tiên tôi hay nền giáo-dục bố mẹ tôi.

Nước Pháp đã ban thêm cho tôi một nền văn-hoá, nhưng không hề thay-thế nền văn-hoá của tôi.
Nhưng có lẽ đó cũng là nỗi khổ-tâm của tôi, nỗi khổ-tâm của những người di-dân trong thế-hệ đầu? Cây cối làm sao sống thiếu gốc rễ? Con người ta làm sao sống thiếu cội nguồn? Làm sao tôi có thể vui sướng bên ngoài khi bên trong trống vắng?
Tôi có thể thích pot-au-feu hay bouillabaisse nhưng bao giờ tôi cũng vẫn thèm một tô phở đặc-biệt, tái-nạm-gầu-gân-sách-sụn.

Tôi có thể mê một chai Saint Emilion hay một chai Volnay nhưng tôi vẫn nhớ hương-vị mấy chai la-ve “33” của “Brasseries et Glacières d’Indochine” (BGI).
http://2.bp.blogspot.com/-5H1wjVHM2gI/T2D9xlLCOpI/AAAAAAAAEGE/xZl2g3yN12Y/s320/roots.jpg

Tôi có thể thích xem phim “action” Mỹ hay nghe Claude Barzotti hát nhưng tôi vẫn thích xem phim bộ… Đại-Hàn (Việt-Nam tôi làm gì có phim hay?), nhưng tôi vẫn thấy thấm-thía hơn khi tôi nghe nhạc Việt, tôi vẫn truyền-cảm hơn khi hát tiếng Việt.
Tôi có thể ngoảnh lại nhìn một cô đầm tóc vàng, mắt xanh nhưng tôi chỉ có thể hạnh-phúc với người đàn bà gọi tôi bằng “Mình ơi!”.

Chỉ vì đó là văn-hoá dân-tộc nằm trong máu, trong xương-tủy tôi, vì đó là giáo-dục bố mẹ, ông bà tôi đã truyền lại cho tôi, vì đó là vết-tích của mấy ngàn năm
lịch-sử.

Chỉ vì tôi là người Việt-Nam.
Kẹp giữa hai nền văn-hoá.

Kẹp giữa hai thế-hệ

Bố mẹ chúng chúng tôi và chúng tôi cùng một làn sóng di-cư (cho dù trong số chúng tôi có những người đã đi trước) nhưng hai điều khổ-tâm cũng có điều khác-biệt.

Quả thật vậy, chúng tôi vẫn cùng một nền văn-hoá với bố mẹ, cùng một nền giáo-dục do cha ông truyền lại. Bố mẹ chúng tôi vẫn được sống với chúng tôi như lúc còn ở Việt-Nam, với nền-tảng Phật-Lão-Khổng, cùng một nhân-sinh quan, cùng một đạo làm người. Chúng tôi vẫn nói tiếng Việt với bố mẹ, tiếp-tục yêu thương, kính-nể bố mẹ, để tiếp-tục lưu-truyền phong-tục, tập quán.

Trong khi chúng tôi giờ bắt-buộc phải chấp-nhận văn-hoá con cháu chúng tôi như một văn-hoá ít nhiều là ngoại-Việt.

Vì sự lưu-truyền đó sẽ gián-đoạn từ đây. Con cái chúng tôi đã bắt-đầu nói một thứ tiếng khác và những điều chúng tôi cố-gắng răn-dậy con cái khó lọt qua được màng-lưới thế-giới bên ngoài.

Tôi đã được chứng-kiến một cảnh-tượng mà tôi không bao giờ quên được. Hôm đó, một người bạn có tổ-chức một buổi tiệc họp mặt với hơn sáu mươi bạn hữu để ăn uống, hát hò, nhẩy đầm.
Về khuya, chúng tôi tạm ngưng chương-trình để ăn một bát cháo gà cho ấm bụng và lấy sức chơi tiếp. Lúc đó, đứa con trai chủ nhà từ trên lầu đi xuống với mấy đứa bạn, bật máy truyền-hình lên và nằm xem, ngay giữa sàn nhẩy. Chúng tôi đã bị “chiếm đất” và đợi một lúc, không thấy tình-hình biến-chuyển, quan-khách lần-lượt xin kiếu-từ.

Tôi á-khẩu. Làm sao tôi có thể tưởng-tượng được cảnh này, với nền giáo-dục của tôi? Hôm đó, tôi đã chợt hiểu nền “độc-tài” của con trẻ trong cái quốc-gia tự-do nhất thế-giới này. Nhưng điều tôi phân-vân nhất là trong tình-trạng đó, hai vị chủ nhà, nghĩa là bố mẹ cậu trai trẻ đó, không hề lên tiếng can-thiệp, hầu như làm ngơ, không nhìn thấy điều gì cả.
Trong khi tôi, đầu đã bạc phơ mà mỗi lần sang thăm nhà, Mẹ bảo tôi cạo râu hay đi cắt tóc là tôi vui vẻ làm ngay, chỉ để vâng lời Mẹ, để cho Mẹ vui. Ngược lại, bên Mỹ này, con gái mới mười lăm tuổi đã đánh mắt, thoa son đi học, bố mẹ nói gì được khi trong trường, bạn bè chung quanh đều như vậy, vả lại có thầy bà nào cấm cản đâu? Bên này, con cháu đi xâm mình (tattoo) hay đục vòng sắt vào môi, vào mắt (piercing) thì bố mẹ nào, ông bà nào ngăn cản được?
Nhà chúng tôi lúc trước không giầu có gì nên không bao giờ dám phí-phạm bất cứ gì, ăn cơm phải vét sạch từng hạt, trong khi con trẻ bên này lấy cho đầy đĩa nhưng không ngần-ngại đổ tuốt nửa đĩa thức ăn khi chúng cảm thấy no.

Tôi đã tận mắt thấy những bố mẹ phải khóc tức-tưởi khi bị lũ con xúm vào “mắng”. Ngày nay, bố mẹ nào dám đánh con mà không sợ chúng nó gọi “911”?

“Trời làm một trận lăng-nhăng, ông hoá ra thằng, thằng hoá ra ông”. Ngày nay, thế-giới đảo lộn và chúng tôi đi lộn đầu, để con cái trèo đầu, trèo cổ thôi.
Lúc trước còn ở bên Pháp, tôi vẫn cố gắng
mỗi năm lấy máy bay sang thăm bố mẹ, và giờ đây sống bên Mỹ, tôi vẫn đi thăm Mẹ
(vì không cùng tiểu bang) và ngoài ra, còn phải đi Pháp thăm con.

Hoá ra, chúng tôi ở trên thì lo cho bố mẹ, ở dưới thì lo cho con cái (ở bất cứ tuổi nào); ở trên thì bị bố mẹ mắng, ở dưới thì bị con trách !?!
Kẹp giữa hai thế-hệ.

Xung-đột cả thế-hệ lẫn văn-hoá

Nói như vậy không phải để trách mắng con cái. Đâu phải do lỗi chúng nó nếu chúng nó không nói được tiếng mẹ đẻ? Đâu phải do lỗi chúng nó nếu chúng nó sinh sống tại hải-ngoại? Đâu phải do lỗi chúng nó nếu chúng nó hoà mình với môi-trường bên ngoài nhiều hơn là với môi-trường gia-đình (nhất là trong cái tuổi thành-niên này)?

Tôi đã có nghe những đứa trẻ nói với bố mẹ:
“Bố mẹ đừng trông mong chúng con trở thành người Việt. Văn-hoá của bố mẹ không
phải là văn-hoá của chúng con. Chúng con là người Mỹ!” Phũ-phàng thay, đau lòng
thay, nhưng chúng nó làm sao hiểu được văn-hoá chúng ta khi chúng nó sống trong
một thế-giới mà nền-tảng là “tự-do” và “đồng đô-la”? Làm sao chúng nó có thể
nghe lời bố mẹ trong khi sự-thật bên ngoài hầu như khác hẳn?

Có lẽ chính chúng nó có lý. Bổn-phận cha mẹ là giúp con cái thành công cuộc đời chúng nó chứ không phải cuộc đời cha mẹ, giúp chúng nó thành-công ngoài đời, trong môi-trường chúng nó đang sống chứ không phải môi-trường bố mẹ chúng đã sống. Sống ở đâu mà không theo văn-hoá nơi đó thì chỉ có thất bại, mà đâu có cha mẹ nào muốn con mình thất-bại khi ra đời, cho nên đành ngậm cay, nuốt đắng mà thôi.
Đây không phải chỉ là vấn-đề xung-đột thế-hệ (thời-điểm nào chả có vấn-đề này, cho dù không “gây cấn” như vậy), mà còn rắc-rối thêm vấn-đề xung-đột văn-hoá nữa. Làm sao bố mẹ và con cái có thể hiểu nhau và chấp-nhận nhau khi đôi bên không cùng một nền-tảng, cùng những đặc-quan, cùng một nhân-sinh-quan?

Nỗi buồn u-uẩn

Dĩ nhiên tôi không dám vơ đũa cả nắm, không dám nói gia-đình Việt-Nam bên hải-ngoại nào cũng như trên, nhưng có lẽ phần đông là như thế (?)

Nói lên vài điểm cho dễ hiểu, nhưng vấn-đề không giản-dị như vậy và tôi không có khả-năng phân-tích nhiều hơn.
Dù sao đi nữa, đây cũng chỉ là nỗi buồn u-uẩn, ám ảnh tôi từ bao lâu nay, trong mối liên-hệ với tâm-hồn, với văn-hoá, với gốc rễ của mình.

Tôi không tức-giận, không chua chát. Tôi chỉ cảm thấy buồn, tôi không luyến-tiếc quá-khứ, chỉ là tôi cảm thấy buồn.
Vướng mắc giữa hai quê-hương, giữa hai nền văn-hoá, giữa hai thế-hệ, chúng tôi là một thế-hệ “bánh mì kẹp” (đôi khi còn là “bánh bao” nữa). Ngoảnh nhìn lại chỉ còn kỷ-niệm, nhìn về đàng trước thì tương-lai đã bít kín.
Nhưng thôi, đã biết là mình vướng mắc, là mình “chấp ngã” (như lời Phật dậy) thì chỉ còn có nước “phá chấp”, nghĩa là “buông”, là chấp-nhận.
Vả lại, cha mẹ chúng tôi không có vấn-đề này, con cháu chúng tôi không có vấn-đề này, chỉ có chúng tôi mới có vấn-đề này. Ngày nào cái thế-hệ chúng tôi đi hết rồi thì vấn-đề này sẽ không còn ai bàn đến nữa.
Chúng tôi chỉ là một giai-đoạn chuyển-tiếp, một thế-hệ bị mất mát, bị hy-sinh để dân-tộc di-dân chúng tôi có thể lật qua một trang sử mới.
Để đời sau, con cháu chúng tôi có hy-vọng thành-công trên đất người, đi tiếp con đường mà chúng tôi đã không đi hết.

Được như vậy, chúng tôi cũng sẽ mãn-nguyện lắm rồi.

Xin cảm-ơn Trời Phật, xin cảm-ơn phúc-đức ông bà.
Yên Hà

Đêm Thánh

Joyeux Noël

Đêm Thánh

Đêm đông mưa tuyết phủ đường
Tâm tư chùng lắng…xót thương Chúa Trời
Là Vua cao cả sáng ngời
Vì yêu nhân thế làm người trần gian
Sinh trong máng cỏ cơ hàn
Sẻ chia khốn khổ lầm than nhân trần
Con Trời không chốn nương thân
Dạy ta suy niệm đức ân khó nghèo
Dẫu đời bể khổ gieo neo
Tình yêu Thiên Chúa sơn keo vững bền
Giáng Sinh đàn trổi thanh êm
Hân hoan ta đến thánh đền cung nghinh
Sao ngàn tinh tú lung linh
Chúc mừng Con Chúa Thiên Đình cứu nhân
Tầng không hòa tấu thiên thần
Cung âm thánh thót chuông ngân vang lừng
Lòng yêu Thiên Chúa không ngừng
Sao người hờ hững chẳng dừng tôi nhơ
Thành tâm dâng Chúa hồn thơ
Nỗi niềm yêu mến trông chờ hồng ân
Giúp con xa tránh tội trần
Khát khao ước nguyện sống gần Chúa thương.
chúc anh

CHUÔNG MỪNG SINH NHẬT

CHUÔNG MỪNG SINH NHẬT

 

Tiếng chuông mừng Chúa giáng sinh

Ngôi Hai Con Một hiển vinh muôn đời

Xuống trần nhập thể làm người

Sẻ chia số kiếp tơi bời phận thân

Ba năm phục vụ tha nhân

Ngày đêm nào có đo cân bao giờ

Giê-su, thụ tạo tôn thờ

Tri ân Ngài đã bến bờ yêu thương

Trở nên nơi ẩn náu nương

Cho ta trên bước hành hương Quê Trời

Ôi tình huyền nhiệm cao vời

Lặng thầm suy niệm không lời chứa chan

Nô-en hạnh phúc mênh mang

Thanh âm réo rắt, ngân vang cõi lòng!

 

* Nguyễn Sông Núi

(Tv Thánh Gioan Neumann, Dallas, TX, Dec. 23, 2012)

Từ Sơn Nguyễn gởi

GIỌT LỆ ĂN NĂN

GIỌT LỆ ĂN NĂN
Catholic : closeup of a figure of Jesus Christ
Tâu lạy Chúa vì sao đời bể khổ ?

Cõi lòng con tràn ngập nỗi cô đơn
Trong tim con chất chứa vạn tủi hờn
Cùng vô số sợi buồn giăng tâm trí

Không điểm trang để tình Ngài ngự trị
Không lắng nghe lời âu yếm, yêu thương

Không thiết tha tìm bóng Chúa thiên đường
Không ghi nhớ giáo điều Ngài truyền dạy
Con lớn lên trong khó nghèo đâu thấy :
Tia nắng hồng soi chiếu gót chân son,
Ánh trăng thanh sưởi ấm mảnh tâm hồn,
Vầng mây trắng giữa khung trời tuổi ngọc
Con sinh ra, lớn dần trong tang tóc
Trong hoang tàn của cuộc chiến vô tâm
Đường con đi đầy gian khổ, sóng gầm
Thân chĩu nặng vết thương đời rướm máu
Bỗng chợt nghe tiếng chuông chiều vọng thấu
Từ giáo đường, thổn thức trái tim cha
Hằng xót thương – hằng chờ đợi – thứ tha
Mong nhân loại trở về đường công chính
Trong tiềm thức, thoảng vang cung Thánh vịnh
Trọn hồn buồn, lòng thống hối – ăn năn
Nguyện xin Cha thứ tha những lỗi lầm
Thanh tẩy con bằng “Máu đào” cực trọng.

chúc anh