Đi cùng Thánh Giá sang phía Tự Do – Kỷ Niệm 60 Năm Di Cư

Đi cùng Thánh Giá sang phía Tự Do – Kỷ Niệm 60 Năm Di Cư

Hà Giang (tổng hợp)

Ngày 21 Tháng Bảy, 1954, nhật báo The Los Angeles Times đi tin lớn: “Armistice signed ending fighting in Indo-China, Vietnam to be split in 2 Zones” (Hiệp định đình chiến được ký kết, chấm dứt chiến tranh Ðông Dương, Việt Nam bị chia đôi).

Trang đầu nhật báo The Los Angeles Times số ra ngày 21 Tháng Bảy, 1954, với bản tin lớn nhất có tựa đề: “Armistice signed ending fighting in Indo-China, Vietnam to be split in 2 Zones.” (Hình: Hà Giang/Người Việt)

Nhật báo The New York Times cũng đi tin lớn: “Indochina armistice is signed; Vietnam split at 17th parallel; US finds it can “respect” pact” (Hiệp Ðịnh Ðình Chiến đã được ký kết, Việt Nam chia đôi ở vĩ tuyến 17, Hoa Kỳ tôn trọng thỏa thuận.)

Tại Pháp, đài phát thanh Hirondelle của quân đội Pháp vang lên lời loan báo: “Hiệp Ðịnh Ðình Chiến đã được ký kết.” Tờ báo của quân đội Pháp cũng đăng nguyên câu ấy trên trang nhất bằng chữ lớn.

Mọi người bàng hoàng dù biết trước thế nào việc này cũng sẽ đến.

Thôi, thế là không còn gì để phải băn khoăn về tình hình đất nước!

Giờ đây, điều khẩn cấp nhất mà nhiều người cần quyết định là ở lại đất Bắc hay đưa gia đình vào Nam. Và nếu đi, thì phải làm gì cho kịp thời hạn. Hà Nội có 80 ngày, Hải Dương có 100 ngày, còn Hải Phòng thì có 300 ngày cho mọi người di tản.

Người muốn di cư vào Nam thường là vì lý do chính trị, kinh tế, hay những kinh nghiệm đau thương từng có với Việt Minh – tức Cộng Sản. Họ thuộc nhiều thành phần khác nhau trong xã hội.

Hãm hại người Công Giáo muốn ra đi

Giới tư sản lo gia tài của họ có nguy cơ bị tịch thu. Thành phần trí thức không thích Chủ Nghĩa Cộng Sản. Người theo đạo Công Giáo thấy rằng không thể tiếp tục sống nơi họ không được thờ phượng Chúa.

Cũng có người từng là nạn nhân trực tiếp, hay có người thân bị đấu tố, tài sản bị tước hết trong cuộc cải cách ruộng đất từ năm 1953. Cả những đồng bào Thượng ở vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, trước đây theo quân đội Pháp chống Việt Minh cũng tràn về Hà Nội để tìm đường vào Nam lánh nạn.

Ký giả Gertrude Samuels, trong bài “Passage to Freedom in Vietnam,” đăng trên ấn bản Tháng Sáu, 1955 của The National Geographic, viết về trường hợp của ông Ngô Văn Hội, một người mà ông mô tả là “còm cõi trong chiếc áo rách nát và quần cụt đen,” như sau: “Gia đình tôi có nhiều người bị giết, cả vì bom của Pháp lẫn vì bị Việt Minh sát hại. Chúng tôi còn bị cộng sản cấm đi nhà thờ.”

Và kết luận: “Ðó là lý do tại sao ông Hộ mang vợ và 7 con đến nhà thờ Hưng Yên, nơi ông cùng nhiều người khác trong cùng xứ đạo, bắt đầu cuộc hành trình hơn 1,600 cây số đi tìm tự do.”

Theo ghi chép của ông Ðức Khương, trong tài liệu “Người Công Giáo di cư, khúc quanh lịch sử,” Giáo Phận Thái Bình có 80,000 giáo dân cùng hơn 60 linh mục đi theo làn sóng di cư.

Trong khi đó, cũng trong tài liệu này, sổ tay của ông ÐÐK, một người Công Giáo Thái Bình, sau này định cư tại Hố Nai, ghi lại: “Sáng ngày 27 Tháng Bảy 1954, cha Chánh Xứ Ðaminh Ðỗ Ðức Thụ cùng toàn thể dân xứ hiệp dâng Thánh lễ cuối cùng tại nhà thờ nhà xứ Lai Ổn để xin ơn bình an cho cuộc lữ hành. Sau Thánh lễ, cha xứ bùi ngùi lên tiếng từ giã thầy xứ và những giáo dân ở lại, từ giã ngôi thánh đường thân yêu, giã từ quê hương yêu dấu là nơi tổ tiên đang an nghỉ, làm nhiều người mủi lòng và khóc nức nở.”

“Ðúng 13 giờ cùng ngày, cha xứ dẫn đoàn chiên lên đường, đoàn người lũ lượt theo nhau, tay xách, nách mang ra đi trong thinh lặng buồn bã. Họ bỏ lại sau lưng tất cả nhà cửa, trâu bò, ruộng vườn, mồ mả tổ tiên. Hành trang quý nhất họ mang theo là một “niềm tin.” Thỉnh thoảng, người ta ngoảnh đầu lại ngắm nhìn làng xã thân yêu mỗi lúc một xa dần, rồi mất hút. Sau ba cây số, qua sông Luộc rồi họ nghỉ đêm tại Phụ Dực. Sáng ngày, một đoàn xe đến chở dân xứ sang An Thổ, nghỉ lại đây một đêm, cha xứ cho giết con ngựa quý của mình đãi giáo dân một bữa tiệc.”

“Ngày hôm sau, đoàn xe lại đến chở dân xứ ra Xuân Sơn (Kiến An), nghỉ lại đây 25 ngày tại giáo xứ Liễu Dinh để chờ đón những người trong xứ đi sau. Ở đây, tất cả mọi người đều được chích ngừa và chủng đậu. Ngày thứ 25, xe lại đến chuyển dân xứ ra Hải Phòng tá túc qua đêm. Sáng sớm hôm sau, dưới cơn mưa dầm, đoàn xe tiếp tục chuyển bánh ra bờ biển, sau đó mọi người được hướng dẫn xuống tàu ‘há mồm.'”

Ký giả Gertrude Samuels, theo sát cuộc di cư kéo dài gần một năm, cho biết, ở nhiều nơi, cả làng kéo nhau đi, và câu hỏi chung của ông với nhiều người “tại sao lại bỏ hết để đi vào Nam,” đã được đáp lại bằng những câu trả lời tương tự:

“Vì chúng tôi muốn sống tự do.”

“Vì chúng tôi sợ chủ nghĩa Cộng Sản!”

“Vì muốn con cái chúng tôi được tự do theo Ðạo.”

“Vì chúng tôi bị bắt phải bỏ Ðạo.”

Nhiều tài liệu, tuy đưa ra những con số khác nhau, đều cho rằng việc cấm Ðạo là nguyên nhân khiến phần lớn người Bắc di cư vào Nam là tín đồ Công Giáo.

Trang đầu nhật báo The New York Times số ra ngày 21 Tháng Bảy, 1954 nói về Hiệp Ðịnh Geneva: “Indochina armistice is signed; Vietnam split at 17th parallel; US finds it can “respect” pact.” (Hình: Hà Giang/Người Việt)

Bác Sĩ Tom Dooley, viết về thời gian phục vụ trên chiến hạm USS Montague trong công tác đưa người di cư vào Nam trong cuốn “Deliver Us From Evil” (Xin Cứu Chúng Con Khỏi Mọi Sự Dữ), xuất bản năm 1961, kể lại một chuyện đàn áp tôn giáo hãi hùng. Ông viết: “Một hôm người ta đưa đến trại tị nạn (ở Hải Phòng) bảy em trai bị thương ở hai tai, máu chảy lênh láng, và một người đàn ông miệng bê bết máu đã ngất xỉu, để xin cấp cứu.”

“Tôi đã dùng thuốc trụ sinh, và mọi phương tiện khó khăn lúc đó, để cứu sống những nạn nhân này, nhưng họ vẫn bị tàn tật suốt đời.”

“Một người được chứng kiến câu chuyện, sau đó kể cho chúng tôi biết là, hôm đó Việt Minh kéo vào làng, họ đến ngôi trường mà một thầy giáo bị tố cáo là đã lén lút tổ chức những lớp học giáo lý vào buổi tối.”

“Bảy học sinh và thầy giáo bị lôi ra khỏi lớp. Tất cả bị bắt ngồi xuống đất và hai tay bị trói ra đằng sau.”

“Hai người công an đi đến từng đứa trẻ. Một người dùng hai tay nắm chặt lấy đầu đứa bé. Người kia lấy một chiếc đũa bằng tre chọc mạnh sâu vào cả hai đôi tai, máu các em chảy ròng ròng, và cả làng có thể nghe thấy tiếng kêu hét kinh hoàng của những nạn nhân khốn khổ.”

“Sau khi đã phải chứng kiến cảnh từng học trò của mình bị chọc hỏng tai, thầy giáo bị trừng phạt bằng một hình phạt nặng nề hơn. Một công an nắm chặt đầu ông, còn người kia banh miệng ông ra, dùng kéo cắt đi chiếc lưỡi đã dám rao giảng những giáo điều đi ngược với chính sách của đảng. Những em học trò này từ nay không thể nghe được lời rao giảng nào nữa, và thầy giáo bị câm thì không còn bao giờ nói được những điều bị cấm.”

Bác Sĩ Tom Dooley tâm sự: “Lúc đó tôi mới chỉ là một bác sĩ giải phẫu còn non tay nghề, nhưng đã phải đối phó với nhiều trường hợp mà sách vở nhà trường chưa bao giờ nói đến: chẳng hạn phải làm gì cho trẻ em đã bị chọc đũa vào lỗ tai, cho các bà cụ mà xương cổ vốn đã xốp còn bị đập giập vì báng súng, và cho một linh mục bị đóng đinh vào đầu, vì bị Việt Minh chế nhạo việc chúa Giê Su bị đội vòng gai trên đầu khi chịu chết trên Thánh Giá.”

Lập thành trì chống Cộng tại miền Nam

Có nhiều con số khác nhau liên quan đến số người Công Giáo di cư từ Bắc vào Nam.

Theo bản tường trình 14 trang về tình hình người tị nạn ở Bắc Việt của Giám Mục Phạm Ngọc Chi (địa phận Bùi Chu), gửi Bộ Truyền Giáo Roma, tháng 10, 1955, thì trong tổng số 860,206 người di cư vào Nam, có 676,348 giáo dân.

Tác giả Jean Marvier trong cuốn “Les combattants de Dieu” cho rằng 100% người di cư là người Công Giáo.

Theo tác giả Piero Ghedo, trong cuốn “Catholiques et bouddhistes au VietNam,” xuất bản năm 1970, thì thống kê của Giám Ðốc Ủy Ban Tị Nạn Sài Gòn cho rằng có tổng số 928,152 người di cư, trong đó 794, 876 là người Công Giáo.

Tác giả Chester Cooper trong “The lost crusade, America in VietNam,” đưa ra con số 85% người Bắc di cư là người Công Giáo.

Hai tác giả J. Buttinger trong “VietNam, a dragon embattled,” và Bernard Fall trong “Les deux VietNam,” cùng đưa ra con số là 65% hay khoảng 650,000 trong 1 triệu người di cư là người Công Giáo.

Dù con số là bao nhiêu, 65%, 78% hay 85%, không ai có thể phủ nhận vai trò quan trọng của người Công Giáo trong cuộc di cư của gần 1 triệu người Bắc vào Nam cách đây 60 năm.

Và khẳng định mạnh mẽ nhất vai trò then chốt này của người Công Giáo trong việc di cư, không ai khác hơn, lại chính là Việt Minh, thông qua thực tế là họ tìm đủ mọi cách ngăn cản người Công Giáo đồng loạt theo nhau vào Nam vào thời gian ấy.

Tập tài liệu lưu trữ tại Bộ Ngoại Giao Ba Lan, có tên “Tường trình về hoạt động của phái đoàn Công Giáo tại Việt Nam từ ngày 13 Tháng Tư đến ngày 30 Tháng Năm, 1955, Hà Nội,” mang chữ ký của Wojciech Ketrzynski, cho chúng ta thêm nhiều chứng cớ về tầm quan trọng của việc người Công Giáo di cư, đối với Việt Minh.

Tập tài liệu nói trên do Tiến Sĩ Trần Thị Liên, tiến sĩ sử học tại Pháp, dịch và phổ biến năm 2005. Ngay từ đầu, tài liệu đã hé lộ cho thấy ngay sau khi Hiệp Ðịnh Genève được ký kết, nước Cộng Hòa Nhân Dân Ba Lan đã được phía Việt Minh yêu cầu giúp giải quyết vấn đề người Công Giáo ồ ạt di cư vào Nam.

Là một thành viên phái đoàn Công Giáo Ba Lan được Việt Nam mời qua thăm vào mùa Xuân 1955, ông Wojciech Ketrzynski kết luận bản tường trình nói trên bằng câu: “Trong tổng thể các vấn đề chính trị của Việt Nam, yếu tố Công Giáo tuy không giữ vai trò quan yếu nhất, nhưng vì là nhóm tôn giáo có tổ chức, thuần nhất và lớn mạnh nhất, Công Giáo có một trọng lượng nhất định trong cán cân quyền lực chung.”

Trước cuộc di cư, dân số miền Bắc khoảng 12 triệu người, so với dân số khoảng 11 triệu người ở miền Nam. Con số 1 triệu người di cư vào Nam, với Việt Minh, vừa là một sự mất mặt, vừa là một đe dọa lớn.

Một mặt họ đàn áp người Công Giáo, vì chống đối họ, mặt khác lại tìm đủ mọi cách để đe dọa, ngăn cản, thậm chí hãm hại người Công Giáo tìm cách di cư vào Nam, vì không thể đứng yên nhìn cán cân quyền lực nghiêng về phía đối phương.

Người Công Giáo di cư còn đóng vai trò lớn vì họ không chỉ đi từng người, từng nhà, mà là đi từng làng một. Việc họ đi theo các vị linh mục, lãnh đạo tinh thần, và chăm lo cho cả đời sống xã hội của họ, là một điều hết sức tự nhiên. Thái độ tôn kính và vâng lời gần như tuyệt đối của con chiên với các cha, các giám mục của cộng đồng người Công Giáo miền Bắc cũng gây một ảnh hưởng lớn trong việc tái định cư và hòa nhập của người Bắc di cư vào xã hội miền Nam.

Nhiều thống kê cho thấy, ngoại trừ Hà Nội là một trong 2 điểm tập trung cho quá trình di cư, giáo phận nào có giám mục chọn ra đi thì số linh mục và giáo dân cũng ra đi đông đảo; ngược lại giáo phận nào mà giám mục chọn ở lại thì số ra đi cũng ít hơn.

Khi đã vào Nam rồi, người Công Giáo lại tiếp tục sống quây quần sinh hoạt với nhau trong những giáo xứ, giáo phận, tạo thành một cộng đồng có bản sắc riêng, và tạo nên những thành trì chống Cộng vững chắc cho miền Nam. (H.G.)

Giàu có trong nỗi bồn chồn: Tiền bạc và đạo lý của giới đại gia mới nổi tại Trung Quốc

Giàu có trong nỗi bồn chồn: Tiền bạc và đạo lý của giới đại gia mới nổi tại Trung Quốc

Andrew J. Nathan, Foreign Affairs, số tháng Năm/ tháng Sáu, 2014

Trần Ngọc Cư dịch

Một bài điểm sách cực ngắn xuất hiện trên Foreign Affairs, cho chúng ta vài nét chấm phá về của cải và đạo lý tiêu biểu cho giới đại gia mới nổi tại Trung Quốc. Và ở Việt Nam chắc cũng chẳng khác gì.

Người dịch

clip_image002

Tham nhũng tại Trung Quốc cần lắm công phu. Osburg, một nhà nhân học Mỹ, đã dành nhiều thì giờ để tiếp xúc và quan sát giới doanh nhân Trung Quốc tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên. Những người này gần như dành hết thì giờ để vun xới quan hệ với các quan chức chính phủ và các đầu nậu băng đảng tại các trà đình tửu điếm, các phòng ca nhạc karaoke, và các câu lạc bộ của giới ăn nhậu. Họ thể hiện các cung cách gắn bó giữa nam giới với nhau, việc này đòi hỏi phải chơi trội trong việc sử dụng các loại xe đắt tiền, các đồ ăn thức uống ngoại lai, và các dịch vụ tính dục. Những hoạt động qua lại này đang biến các quan hệ có giá trị công cụ thành tình bạn, các món hối lộ thành quà tặng, và các phạm nhân hình sự thành những kẻ tình nguyện giúp cảnh sát duy trì trật tự xã hội. Phụ nữ có chức năng làm người chiêu đãi, làm đối tác tính dục được trả tiền, làm biểu tượng địa vị, và đôi khi làm người đồng lõa trong các âm mưu của đàn ông. Những đại gia mới nổi, đối tượng nghiên cứu của Osburg, đang bị bóp nghẹt giữa nỗi sợ hãi là các địch thủ của mình có quan hệ với giới chức quyền thế hơn và cái cảm thức là mình đang gắn bó với một hệ thống chính trị đang trên đường đi đến sụp đổ. Họ cảm thấy mình bị kẹt vào trong một lối sống làm kiệt sức và lắm lúc chán phè, mặc dù phần còn lại của xã hội coi họ là những tấm gương thành công. Cách ứng xử của họ đang làm gia tăng một cảm thức phổ biến về tình trạng suy đồi đạo lý trong xã hội Trung Quốc đương đại.

A. J. N.

Bài học từ Hiệp định Geneva 1954

Bài học từ Hiệp định Geneva 1954

Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ RFA
2014-07-19

giaminh_07192014.mp3

geneva1954-305.jpg

Ông Tạ Quang Bửu, trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại buổi ký Hiệp định Genève 1954.

Photo courtesy of wikipedia

Hiệp định Geneva năm 1954 được ký kết nhằm giúp chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam và cả Đông Dương. Thế nhưng mục tiêu đó đã không đạt được; trái lại chiến tranh lại diễn ra suốt trong mấy mươi năm sau đó, ngăn chặn sự phát triển của Việt Nam về mọi mặt.

TQ nhượng bộ Pháp và miền Nam?

Gia Minh hỏi chuyện sử gia Phạm Cao Dương hiện ngụ tại California, Hoa Kỳ về những điểm đáng chú ý của Hiệp định Geneva 1954 và bài học cần rút ra. Trước hết ông cho biết:

Phạm Cao Dương: Trước hết Hội nghị Geneva năm 1954 không phải được nhóm họp sau ngày sự kiện Điện Biên Phủ chấm dứt, mà nó đã được triệu tập từ trước rồi (từ ngày 26 tháng 4). Mục tiêu của hội nghị ban đầu không phải bàn về Việt Nam mà bàn về chiến tranh Cao Ly (Triều Tiên). Việc bàn về Việt Nam vào ngày 8 tháng 5 mới bắt đầu và không phải là chính. Nhưng vì tình hình tại Việt Nam thay đổi: biến cố, trận chiến Điện Biên Phủ chấm dứt nên người ta họp vào ngày đó.

Thứ hai, sách trong nước thường ca ngợi đó là chiến thắng của phía Việt Minh. Điều đó không hoàn toàn đúng, vì nếu chúng ta theo dõi những gì xảy ra trước đó khi ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp sang họp với Chu Ân Lai ở Liễu Châu, người ta thấy phía Việt Minh tức tối lắm. Sau này ông Võ Nguyên Giáp có nói rằng khi ông thuyết trình thì bản đồ đưa ra ‘đỏ’ hết tất cả; nhưng đến khi Chu Ân Lai thuyết trình thì theo lời ông Võ Nguyên Giáp ‘Bác và tôi rất ngỡ ngàng’ vì sự nhượng bộ mà Chu Ân Lai dành cho phía Pháp và miền Nam.

Cần phải để ý là Trung Quốc trong thời điểm đó mới làm chủ được lục địa Trung Hoa và chưa có vai trò quốc tế nào nên họ muốn vai trò nào đó, và Hội nghị Geneva là cơ hội để họ đóng vai trò đó.
-Sử gia Phạm Cao Dương

Lý do hai ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp không vừa ý vì hai ông tin tưởng được nhiều lợi thế hơn những gì mà phía Chu Ân Lai và Molotov (ngoại trưởng Nga lúc đó) buộc phía Việt Minh phải chấp nhận. Trước hết là sự hiện diện của bộ đội Việt Minh ở Miên và Lào. Chủ trương của Việt Minh hồi đó là muốn nâng đỡ hai tổ chức cộng sản bên Miên và Lào (Pathet Lào và Khmer Issarak). Phía đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa luôn phủ nhận không có sự hiện diện của bộ đội bên hai nước đó, nhưng cuối cùng Chu Ân Lai và Molotov ép buộc Việt Minh phải phần nào chấp nhận điều đó, và sau đó chấp nhận luôn. Có nghĩa chấp nhận đã rút rồi nhưng vẫn còn một phần ở lại bên Miên và Lào. Do vậy Pháp và phía Miên, Lào không chấp nhận nên cuối cùng chấp nhận ‘nếu còn sẽ rút đi’.

Điểm nữa về phân chia lãnh thổ. Khi có sự chia đôi, bên phía người Pháp đề nghị vĩ tuyến 19 và phía Việt Minh muốn vĩ tuyến 13 hay ít ra là vĩ tuyến 16; nhưng cuối cùng cũng hai ông Chu Ân Lai, Molotov và phía người Pháp – Mendes France, thỏa thuận vĩ tuyến 17.

Đến chuyện ngày bầu cử thống nhất, đầu tiên Phạm Văn Đồng muốn 6 tháng, nhưng sau đó lên 1 năm và 2 năm. Quyết định cuối cùng là năm 1956, tức 2 năm sau.

Cần phải để ý là Trung Quốc trong thời điểm đó mới làm chủ được lục địa Trung Hoa và chưa có vai trò quốc tế nào nên họ muốn vai trò nào đó, và Hội nghị Geneva là cơ hội để họ đóng vai trò đó.

Gia Minh: Việc tuyển cử như ông nói được thống nhất vào năm 1956, sau đó Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa có đề nghị với phía miền Nam, nhưng miền Nam từ chối. Lý do vì sao thưa ông?

Phạm Cao Dương: Thực ra phía miền Nam mà buổi đầu là Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và sau này là Việt Nam Cộng Hòa của ông Ngô Đình Diệm, không chấp nhận bản Tuyên bố Cuối cùng. Chúng ta nên nhớ sự thỏa thuận ở Geneva gồm hai phần: phần thứ nhất là đình chiến và phần thứ hai là chính trị. Phần đình chiến được ký kết hẳn hoi, có nhiều bản thỏa ước; còn phần chính trị không có bản thỏa ước được ký kết mà chỉ là Bản Tuyên bố Cuối cùng được các bên chấp nhận bằng miệng mà thôi.

Phía Quốc gia Việt Nam lúc đó và sau này là Việt Nam Cộng Hòa thì không chấp nhận Bản Tuyên bố Cuối cùng đó. Phía Mỹ cũng không chấp nhận. Nên nếu không chấp nhận thi hành cuộc bầu cử đó chẳng qua vì họ không bị ràng buộc về phương diện pháp lý.

Thứ hai nữa, nếu có bầu cử phải cần những điều kiện tối thiểu để có sự công bằng. Đằng này chưa chắc có sự công bằng đó, thành ra miền Nam không chấp nhận cũng có lý của họ.

Bài học kinh nghiệm

Trong những hoạt động bang giao quốc tế, các quốc gia luôn đặt quyền lợi của mình lên trên, kể cả đồng minh cũng đứng hàng thứ không quan trọng.
-Sử gia Phạm Cao Dương

Gia Minh: Sau 60 năm rồi, ông thấy có những bài học gì?

Phạm Cao Dương: Trong những hoạt động bang giao quốc tế, các quốc gia luôn đặt quyền lợi của mình lên trên, kể cả đồng minh cũng đứng hàng thứ không quan trọng. Nếu bên Trung Quốc vì quyền lợi riêng mà hy sinh đồng minh là Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa thì đó cũng là điều tự nhiên mà thôi. Nhưng Hà Nội không thấy điều đó!

Thứ hai nếu nhìn vào thế giới trong thời gian đó và những năm tiếp theo, không phải chỉ có Việt Nam bị chia đôi. Còn nhiều nước khác bị chia đôi nữa nhưng không có nước nào dùng võ lực để tiến chiếm nước kia. Còn Việt Nam thì chuyện đó đã xảy ra.

Nhưng hậu quả là Hà Nội không có đủ thực lực để tự mình đánh xuống miền Nam nên phải dựa vào thế của Trung Quốc; Hà Nội và cả miền Nam đều không nhận ra điều, không biết đánh lá bài của Trung Quốc. Vì hồi đó Trung Quốc không muốn người Mỹ vào miền Nam và hiện diện tại miền Nam, họ muốn dùng người Pháp để giữ không cho Mỹ can thiệp vào Việt Nam.

Gia Minh: Cám ơn sử gia Phạm Cao Dương.

Nghiện internet

Nghiện internet

Chuacuuthe.com

VRNs (22.07.2014) – Sài Gòn – Cái gì cũng có thể gây nghiện: Nghiện đường, nghiện ma túy, nghiện cờ bạc, nghiện tình dục, nghiện phim (dù trắng hay đen), nghiện rượu, nghiện thuốc lá,… Thời @ có điều lưu ý khác: Hãy coi chừng chứng nghiện Internet!

Nếu bạn là game thủ hoặc nghiện game, bạn sẽ không thích bản tường trình tại cuộc họp thường niên của Hội Tâm Lý Hoa Kỳ năm 2014. Bản tường trình cho biết rằng những người nghiện Internet bị chứng rối loạn nghiện Internet (IAD – Internet Addiction Disorder), nhất là những người nghiện game, và bị chứng não bất thường.

Nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy rằng những người nghiện Internet dễ bị trầm cảm, tự tử, rối loạn ăn uống, rối loạn ám ảnh, và các chứng khác. Giới trẻ Mỹ nghiện Internet (26.3%) hơn nghiện ma túy và rượu. Các thiếu niên nghiện Internet có nguy cơ cao bị trầm cảm và tự tử.

140721005

Đây là bốn phát hiện về chứng nghiện Internet:

LƯỢNG MÁU

Việc nghiện Internet liên quan việc thay đổi lượng máu trong não. Khi hưng phấn, lượng máu TĂNG xung quanh trung tâm não, nhưng lượng máu GIẢM xung quanh vùng xử lý thính thị (nghe và nhìn).

DOPAMINE

Việc nghiện Internet liên quan mức dopamine thay đổi trong não. Mê Internet có thể làm giảm mức chuyển đổi dopamine, một trạng thái xảy ra ở những người nghiện.

MƠ HỒ

Mê Internet cũng có thể khiến mất cảm giác về cơ thể và trạng thái mơ hồ.

LÃNH CẢM

Mê Internet có thể khiến bạn cảm thấy hờ hững với cách cư xử của người khác, và bạn còn cảm thấy “nuối tiếc” vì tốn tiền tốn bạc do mê game.

Cần nghiên cứu thêm để biết chính xác về chứng nghiện Internet, nhưng thực tế đã và đang cho chúng ta thấy các hậu quả của Internet, dù Internet vẫn có những giá trị tích cực. Chứng nghiện làm teo não, vì thế mà các “con nghiện” không bỏ được loại hình mà họ mê đắm – dù đó là chứng nghiện gì!

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Internet Addiction Changes the Brain)

 

Phe ly khai trao chiếc hộp đen chuyến bay MH17 cho Malaysia

Phe ly khai trao chiếc hộp đen chuyến bay MH17 cho Malaysia

Một người của nhóm nổi dậy đặt chiếc hộp đen của chiếc máy bay bị bắn rơi lên bàn để giao cho các đại diện của Malaysia, 22/7/14

Một người của nhóm nổi dậy đặt chiếc hộp đen của chiếc máy bay bị bắn rơi lên bàn để giao cho các đại diện của Malaysia, 22/7/14

21.07.2014

Nhóm thân Nga nổi dậy ở miền đông Ukraine đã trao cho các chuyên viên Malaysia thiết bị ghi dữ liệu của chiếc máy bay của hãng hàng không Malaysia Airlines bị bắn rơi

Việc chuyển giao diễn ra vào tối thứ Hai tại một cuộc họp ở thành phố Donets, miền đông Ukraine, chỉ vài giờ sau khi Thủ tướng Malaysia Najib Razak nói chuyện qua điện thoại với thủ lãnh nhóm nổi dậy Alexander Borodai.

Đại tá Malaysia Mohamed Sakri nói rằng các chiếc hộp bị một vài hư hại, tuy nhiên còn nguyên vẹn và trong tình trạng tốt.

Trước đó, hôm thứ Hai Hội đồng Bảo an đã nhất trí thông qua nghị quyết lên án vụ bắn hạ chiếc phi cơ. Nghị quyết cũng yêu cầu phe ly khai thân Nga đang kiểm soát địa điểm phi cơ bị rơi để cho các nhà điều tra tự do đi lại nơi này.

Các giới chức Ukraine, Hoa Kỳ, Liên hiệp châu Âu nói rằng phi cơ bị trúng một phi đạn địa đối không trong khi bay qua miền đông Ukraine hôm thứ Nam 17 tháng 7 với 298 người trên chuyến bay.

VN khó cấm bán rượu bia sau 10 giờ tối?

VN khó cấm bán rượu bia sau 10 giờ tối?

Thứ hai, 21 tháng 7, 2014

Những cảnh này rất thường gặp ở khắp nơi ở Việt Nam

Đề xuất cấm bán bia rượu sau 10h tối ở Việt Nam hiện đang nhận được nhiều ý kiến trái chiều, trong đó phần đông cho rằng lệnh cấm này sẽ không khả thi.

Một nhà xã hội học trong nước nói với BBC rằng chính quyền nên thúc đẩy việc tuyên truyền nhằm thay đổi ý thức của người dân hơn là cấm đoán.

Theo báo chí trong nước thì mới đây Bộ Y tế đang soạn thảo một dự luật về phòng chống tác hại của việc lạm dụng rượu bia trong đó có quy định các nơi phải dừng việc bán rượu bia sau 10h tối.

‘Có thể làm được’

Nói với BBC, Tiến sỹ Nguyễn Đức Truyền thuộc Viện Xã hội học, Đại học Khoa học Xã hội nhân văn Hà Nội, tỏ vẻ nghi ngờ tính khả thi của điều luật này ở Việt Nam mặc dù ông cho rằng ‘vẫn có thể làm được’.

“Người dân cũng có thể dễ chấp nhận như cấm đốt pháo chẳng hạn,” ông nói, “Dù là truyền thống lâu đời nhưng vẫn cấm được.”

“Tuy nhiên đốt pháo chỉ tập trung trong vòng mấy ngày Tết,” ông nói thêm.

“Ở những chỗ tập trung đông người thì dễ làm (cấm bán rượu bia), còn những chỗ khác không kiểm soát được thì khó.”

“Có thể họ vẫn cứ bán như thường nhưng có thể che đậy bề ngoài đi,” ông giải thích.

Theo Tiến sỹ Truyền thì việc ăn uống là sinh hoạt ‘cũng mang tính chất cộng đồng của người Việt Nam’.

“Nếu không ngồi được với nhau, không uống được chén rượu cốc bia với nhau thì quan hệ sẽ hời hợt lắm.”

Tiến sỹ Nguyễn Đức Truyền, Viện Xã hội học VIệt Nam

“Nếu không ngồi được với nhau, không uống được chén rượu cốc bia với nhau thì quan hệ sẽ hời hợt lắm,” ông nói.

Ông Truyền nhận định mặc dù việc bia rượu là phổ biến ở nhiều nước trên thế giới nhưng ở Việt Nam tình trạng bia rượu có phần vượt xa các nước khác là do hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam.

“Ở đất nước chưa trải qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa, tổ chức xã hội chưa mang tính chất định chế hóa mà chỉ dựa trên phong tục tập quán hay sinh hoạt cộng đồng,” ông giải thích.

“Ở các nước văn minh họ phát triển rồi nên định chế hóa bằng những ràng buộc.”

Tuy nhiên, trong điều kiện Việt Nam, theo ông Truyền, để hạn chế tác hại của rượu bia mấu chốt không phải là ban hành lệnh cấm mà ‘phải tuyên truyền’.

“Khi người hiểu được thì không cần phải cấm,” ông nói và cho biết bản thân ông ủng hộ điều luật mà Bộ Y tế đang cân nhắc để ‘tránh xảy ra sự quá đà’.

Không khả thi?

Trên diễn đàn của BBC Việt ngữ, một số bạn đọc đã bày tỏ sự ủng hộ đối với lệnh cấm này.

“Đồng ý với quyết định cấm bán bia sau 10h tối. Còn ai muốn uống cho đã thì về nhà uống. Để xã hội bớt tệ nạn vì rượu bia. Cái gì mà vui cũng nhậu đã đành, mà buồn cũng nhậu, đủ lý do để nhậu,” Nguyễn Văn Toàn viết.

Một bạn khác có tên là Thùy Dương Vũ bình luận: “Ủng hộ nhiệt tình. Vì rượu bia mà bao nhiêu thảm cảnh đã xảy ra.”

““Cấm được mới sợ,” ”

Ngọc Thụ Lâm Phong viết trên Facebook của BBC Việt ngữ

Tuy nhiên, rất nhiều độc giả BBC cho rằng lệnh cấm này sẽ không thể đi vào đời sống được.

“Biết là tốt, nhưng nhưng đối với một quốc gia luôn lấy hai chữ ‘xã giao’ lên hàng đầu thì dự luật này coi vẻ xem ra không khả thi lắm,” Võ Điện chia sẻ.

“Cấm được mới sợ,” Ngọc Thụ Lâm Phong nghi ngờ.

Còn bạn Sakura Suri thì yêu cầu ‘phải có chế tài nghiêm chỉnh may ra dẹp được chứ đừng thực hiện nửa vời’.

Cũng có người chỉ trích ý tưởng này một cách thẳng thừng.

“Ngày làm vất vả tối xả stress thì lại cấm. Không hợp lý hợp tình,” một bạn có tên là Hien Phuong PT viết.

“Những người hay uống đồ cồn họ có thể mua trước 10h rồi uống sau. Có chăng luật này ra để những cửa hàng nào chưa nắm được luật thì bị phạt hoặc hối lộ cho lực lượng chức năng địa phương thôi. Rõ là trò trẻ con, bắt cóc bỏ đĩa,” Truy Mộng chỉ trích.

Đức tin và việc làm

Đức tin và việc làm

Một chiếc đồng hồ bằng vàng mà không chỉ đúng giờ thì vô ích.

Một cây xum xuê cành lá mà không có trái thì cũng vô ích.

Một chiếc đèn cẩn đầy kim cương mà không cháy sáng được thì cũng vô ích.

Cho nên Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”.

Linh Đạo Người Tông Đồ:

Hoa trái của thinh lặng là cầu nguyện

Hoa trái của cầu nguyện là đức tin

Hoa trái của đức tin là tình yêu

Hoa trái của tình yêu là phục vụ

Hoa trái của phục vụ là bình an

Hoa trái của bình an là bác ái.

Mẹ Têrêsa Calcutta

Sưu tầm.

TÀU CỘNG: KẺ THÙ RẤT NGUY HIỂM CỦA NHÂN LOẠI VĂN MINH TIẾN BỘ

TÀU CỘNG: KẺ THÙ RẤT NGUY HIỂM CỦA NHÂN LOẠI VĂN MINH TIẾN BỘ !

(Tin lan truyền trên Internet. Tin hay không tùy bạn!) 

Bài dài, ráng đọc, rất quan trọng vì ảnh hưởng đến mạng sống chúng ta!

TRUNG CỘNG ĐẦU ĐỘC CẢ THẾ GIỚI VỚI NHỮNG SẢN PHẨM NGUY HIỂM.

Để trả lời câu hỏi: “Nhưng chết dưới tay Trung Cộng như thế nào?” Tiến sĩ Peter Navarro nói: “Nhiều cách lắm, bằng hàng hóa độc hại, bằng cạnh tranh bất chánh, bằng cách cướp công ăn việc làm của nhiều quốc gia, bằng các hoạt động gián điệp, chiếm tài nguyên thiên nhiên của các nước láng giềng, chiếm lãnh nhiều thuộc địa bằng mặt trận kinh tế, đánh cắp bí mật quốc phòng và tăng đầu tư vào quân đội toàn là những thủ đoạn hiểm độc.”

Câu hỏi khác: “Có biện pháp nào để tránh hiểm họa “Chết dưới tay Trung Cộngkhông?” Tiến sĩ Peter Navarro đáp: “Có chứ! Nhưng, nó đòi hỏi Hoa Kỳ phải có một chánh sách khác và người dân Hoa Kỳ phải hiểu rõ thảm họa lớn nhất thế giới nầy!”. Trong cuốn “Death By China” (Chết vì Tàu cộng) đưa ra một số thống kê tiêu biểu: 1) Trung Cộng hiện cung cấp cho Hoa Kỳ 60% nước táo đặc, 50% tỏi, 70% thuốc trụ sinh Penicillin, 50% aspirin, 33% thuốc, Tylenol và 99% vitamin C; 2) Vật liệu xây dựng “drywall” của Trung Cộng chứa chất Sulfurous gas bốc mùi trứng thối làm cho người cư ngụ bị sưng phổi, ngứa cổ, nghẹt thở mà còn làm hư hỏng các ống nước làm hệ thống HVAC như máy lạnh, máy sưởi không làm việc được. Mỗi năm, hàng ngàn căn nhà của dân Mỹ phải tốn tiền sửa chửa khoảng 15 tỉ USD; 3) Về mặt gián điệp, “Death by China” cảnh báo rằng: mỗi năm có khoảng 750.000 người Hoa ngành tình báo vào Hoa Kỳđánh cắp kỹ thuật quốc phòng đưa về Hoa Lục.

IV. VŨ KHÍ SINH HỌC DƯỚI HÌNH THỨC HÀNG ĐỘC:
Rõ ràng Trung cộng đã và đang dùng “vũ khí sinh học” dưới hình thức “hàng độc” để đầu độc nhân loại và dân chúng Hoa Kỳ, đó là loại vũ khí hủy diệt con người một cách tiệm tiến. Hiện nay, ngành công nghệ sinh học đang nở rộ tại Trung Hoa Lục Địa và phát triển nhanh chóng, các sản phẩm độc hại được xuất khẩu ồ ạt, tràn ngập trên khắp thế giới.

Xin liệt kê vài hàng độc đã được tìm thấy THUỐC TÂY GIẢ:

– Tại PANAMA, hơn 300 người tử vong vì uống thuốc ho Made in China có độc tố gây bệnh là một loại độc tố cao, thường tìm thấy trong nước chống đông đặc của xe hơi.

– Tại HAITI: trên 76 trẻ em, phần lớn dưới 5 tuổi chết vì thận bị hủy hoại một cách kỳ lạ giống như nạn nhân ở Panama. Nhờ sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, người ta khám phá ra nạn nhân tử vong vì thuốc trị sốt cho trẻ em có độc chất “Diethylene Glycol” phát xuất từ Xingang và qua công ty giao dịch SinochemInternational.

– Không chỉ trong dược phẩm có chất Diethylene GlycolTàu cộng còn đưa độc chất nầy vào kem giả mạo dưới nhãn hiệu Colgate. Chính quyền Canada khuyến cáo dân chúng ngưng sử dụng kem đánh răng giả mạo độc hại Made in China.Dưới chủ đề “TRUY LÙNG THUỐC CỦA TỬ THẦN”, phóng viên của tạp chí Le Nouvel Observateur kể lại cuộc điều tra của một nhân viên bào chế dược phẩm Thụy Sĩ, hầu tóm cổ những kẻ sát nhân đã giết hại hàng ngàn bệnh nhân bằng thuốc giả đến từ Trung cộng. Cuộc săn lùng chỉ trên địa bàn các quốc gia Cận Đông: Ai Cập, Jordanie, Syrie.Mở đầu bài viết, phóng viên Jean Paul Mari kể lại câu chuyện của ADEL, một người Palestine: Vợ của anh bị ung thư vú, nhờ biết bệnh rất sớm và các bác sỹ lạc quan sẽ chữa được bệnh. Vấn đề là thuốc “Imanitib” rất đắt, giá hộp. Để chữa trị cho vợ, Adel đã huy động gia đình bạn bè giúp đỡ đưa vợ sang Israel điều trị. Thời gian đầu, bệnh của vợ anh có vẻ ổn định. Sau đó, anh đưa vợ trở lại Palestine vào bệnh viện tối tân ở Ramallah. Bác sỹ Baker sử dụng loại thuốc Imanitib nhưng giá thành chỉ bằng một nửa thôi. Sáu tháng sau, vợ của Adel chết vì thuốc sử dụng tại đây là thuốc giả được pha chế chỉ có nước, pha với một ít đường, phẩm màu và một ít aspirine. Giá thành của mỗi họp thuốc nầy là 2 USD.
Điều nầy đã thúc giục JEAN LUC mở cuộc điều tra. Nhân vật trung tâm mạng lưới mà Jean Luc tìm ra được tên WAJEE ABU ODEH, một người Jordanie đến từ Thẩm Quyến Hoa Lục. Tại vùng Cận Đông, mạng lưới do Wajee Abu Odeh điều khiển, chuyên cung cấp thuốc giả cho Jordanie, Ai Cập, Syrie… Họ cung cấp thuốc giả tới 50% thuốc chữa trị ung thư. Không kể các loại thuốc giả chết người nầy tràn lan ở những vùng ngoại ô nghèo và qua nhiều môi giới, nó hiện diện tại những bệnh viện có uy tín ở thủ đô.

. 

TRÀ TÀU TẨM CHẤT ĐỘC CHÌ:
Theo The New Chenese Take Out, Michael E. Telzrow cho biết: Kỹ nghệ sấy khô lá trà tại Trung cộng đã đạt tới trình độ tinh vi chưa từng có: Các hãng sản xuất trà dùng khí thải từ xe ô tô để làm khô lá trà nhanh chóng bằng cách trải lá trà tươi trên sàn của nhà kho rồi lái những xe vận tải vào trong, nổ máy để khí thải từ ống khói xe làm khô lá trà. Vấn đề là xăng pha chì và những chất chì độc hại thoát ra theo khói xe bám trên lá trà. Chất độc chì sẽ ngấm dần dẫn đến việc hủy hoại thận và còn nhiều nguy cơ khác.

NƯỚC TƯƠNG LÀM BẰNG TÓC:Bài viết nầy của GS Tse-Yan Lee, B.H.Sci nhằm trình bày cho độc giả biết về một loại nước tương được sản xuất tại Hoa Lục không an toàn và được bày bán khắp nơi tại Hoa Lục và trên thế giới. Nước tương được chế biến từ đậu nành, gồm có hợp chất protein,carbohydrate không chất béo, dồi dào chất riboflavin (B2) và các chất khoáng như sodium, calcium, phosphorus, sắt, selenium và chất kẽm. Hàng năm, trên khắp thế giới, người ta đã sản xuất ra hàng ngàn triệu tấn nước tương để cung ứng cho thị trường tiêu thụ.
 

Vào năm 2003, tại Trung cộng, người ta sản xuất hàng loạt nước tương mang nhãn hiệu “HONG SHUAI SOY SAUCE”, áp dụng theo phương pháp sinh hóa và kỹ thuật tân tiến bởi một nhà máy chế biến thực phẩm gia vị không theo phương pháp chế biến cổ điển bằng đậu nành và lúa mì nên giá thành rất rẻ và được các nhà hàng và nhà trường sử dụng rất nhiều. Tháng giêng năm 2004, viên quản lý cho một nhóm ký giả của chương trình TV “Weekly Quality Report” biết thành phần của nước tương gồm có “amino acid”, “sodiumhydroxide”, “hydrochloric acid” và mật đường (loại dung dịch phế thải sau khi đã quay ly tâm thành đường cát trắng) và vài chất hóa học khác hòa tan với nước. Nhu cầu chế biến nước tương, hàng tháng nhà máy phải sử dụng đến hàng chục ngàn tấn “amino acid” dưới dạng bột từ một nhà máy sản xuất hóa chất khác. Sau đó các ký giả đã tìm ra nguyên liệu để bào chế ra loại xi-rô amino acid này tại một nhà máy sinh hóa ở tỉnh Hồ Bắc. Họ trả lời các ký giả rằng “amino acid” chủ yếu chế biến từ tóc con người, thu nhặt được từ các tiệm hớt, uốn tóc và từ các đống rác thải ra ở các bệnh viện khắp nơi trong nước rất dơ bẩn và mang nhiều loại vi khuẩn gây nhiều mầm bệnh khác nhau. Tóc con người chứa nhiều loại hóa chất độc hại như thạch tín “arsenic” và chì “lead” sẽ gây phương hại trầm trọng đến hệ thống tiêu hóa, gan, thận, tim mạch, hệ thần kinh và sinh dục. Sau khi tin tức ghê tởm nầy được phổ biến trên toàn thế giới khiến Hiệp Hội Các Quốc Gia Châu Âu, HongKong, Đài Loan, Nhật, Hoa Kỳ,… đã từ chối nhập cảng một số hiệu nước tương và nhiều loại thực phẩm khác sản xuất từ Trung Hoa Lục Địa vì lý do an toàn cho sức khỏe dân chúng.

TỎI BỘT, ỚT BỘT NHIỄM PHÓNG XẠ: Do khả năng công nghệ bảo quản thực phẩm quá kém nên tỏi bột và ớt bột là sản phẩm nổi tiếng của quận Qixian, tỉnh Henan do cơ xưởng Limin sản xuất phải sử dụng chất phóng xạ Cobalt-60 để giữ lâu cho tỏi bột và ớt bột khỏi bị hư hỏng. Ngày 7/6/ 2009, chất Cobalt-60 bị rò rỉ thấm qua quần áo bảo hộ của công nhân và chất phóng xạ Cobalt-60 tuôn ra ngoài không khí, xưởng Limin bị phát hỏa, gây chết chóc cho nhiều người. Có khoảng 800.000 người trong vòng bán kính 50 km đã bỏ của chạy lấy thân. Hàng quán tại Qixian đóng cửa, đường xá vắng tanh như một thành phố chết.

HOA KỲ BÁO ĐỘNG NHIỀU MẶT HÀNG NHẬP TỪ HOA LỤC CÓ CHẤT ĐỘC:
Hoa Kỳ liên tiếp báo động về hàng hóa nhập cảng từ Trung cộng có chứa kim loại Cadmium độc hại tiềm ẩn trong những kiểu trang sức thời trang. Quốc Hội Mỹ đã cấm các sản phẩm chứa chì nhập cảng vào Mỹ dưới dạng nữ trang cho trẻ em nhưng cadmium còn độc hại hơn chì nhiều. Cadmium có thể gây bệnh ung thư. Thượng Nghị Sĩ MarkPryor báo động: “Sẽ có nhiều phụ huynh tức giận khi biết nữ trang nhập cảng như thế có thể làm tổn hại sức khỏe con em họ.”Nhiều sản phẩm may mặc dành cho trẻ em không bảo đảm an toàn, chứa nhiều hóa chất “formaldehyde”, “cadmium” và “chromium” độc hại vượt mức cho phép, gây nhiễm trùng da và đường hô hấp cho trẻ em. Trong khuôn khổ bài báo nầy, chỉ liệt kê những mặt hàng độc có tính cách tượng trưng mà thôi, còn nhiều mặt hàng độc khác như trái cây có tẩm hóa chất bảo quản Carbendazim hoặc còn dính thuốc trừ sâu, đũa ngâm hóa chất…Một khi các hóa chất độc hại nầy bám vào các bộ phận trong cơ thể con người sẽ công phá tiến trình thoái hóa và tăng trưởng tế bào tự nhiên mà sinh ra nhiều TẾ BÀO DỊ HÌNH không cần thiết, dư thừa, đan kết vào nhau, tích tụ lại làm thành bướu độc, cục u… là tiến trình của nguy cơ dẫn đến nhiều căn bệnh ung thư.

 

 

 

Vì thế, tất cả mặt hàng tươi, khô, đông lạnh hoặc đóng gói mang nhãn hiệu MADE IN CHINA là người tiêu thụ rùng mình kinh sợ. Trung cộng thay đổi chiến lược để lừa người tiêu thụ bằng cách thay thế nhãn hiệuMade in Chinabằng nhãn hiệu mới trên các bao bì của thực phẩm hàng hóa là MADE IN P.R.C – viết tắt cụm từ “People Republic of China” (Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc).

Nhưng, nhãn hiệu “Made in P.R.C” đánh lừa giới tiêu thụ không được bao lâu thì bị phát giác làm mức tiêu thụ hàng hóa Trung cộng lại bị thế giới tẩy chaytụt dốc thê thảm. Trung cộng lại giở thói gian manh, tiếp tục đánh lừa người tiêu thụ, không nhận diện được các mặt hàng độc của Trung cộng bằng những phương cách xảo quyệt khác. Một thí dụ điễn hình: WAL-MART là một trong những siêu thị lớn nhất nước Mỹ. Nếu nhập hàng từ Trung cộng do công ty Wal-Mart đặt mua, Trung cộng sẽ ghi “MADE FOR WAL-MART USA” hoặc “PACKAGED IN USA”.Hàng hóa nhập từ Trung Cộng bằng những kiện hàng lớn, được ghi rõ ràng xuất xứ “Made in China” đúng theo qui định của chánh phủ Hoa Kỳ nhưng khi những kiện hàng được tháo ra bán lẽ trên các quày hàng thì mang nhãn hiệu khác như “MADE FOR WALMART USA” hoặc “PACKAGED IN USA” và hàng chữ nhỏ li ti như “Made in China” hoặc “Made in P.R.C” nằm ở góc nào đó rất khó nhìn thấy. Xin hãy cẩn thận khi mua hàng để đừng bị Trung cộng lừa bằng những mánh khóe bẩn thỉu nầy.

BÀI HỌC CỦA ĐÀI LOAN TẨY CHAY HÀNG ĐỘC CỦA TRUNG CỘNG: Một thành phố Đài Loan, thị trấn Chitung, nơi trận bão Morakot ập vào làm 500 người chết trong một vụ lở đất lớn và 700 người phải di tản sau cơn bão nhiệt đới tồi tệ nhất trong vòng 50 năm qua đã xảy ra vào ngày 8/8/ 2009. Chánh quyền địa phương đã từ chối nhận 100 “nhà lưu động” lấp ráp nhanh do Trung Cộng viện trợ vì lo sợ hóa chất độc hại vì những căn nhà nầy có chứa chất “formali”, một loại hóa chất nguy hiểm. Phó Quan Hành Chánh quận tên Chung Chia nói: “Mặc dầu những ngôi nhà là trợ giúp nhân đạo nhưng chúng tôi cần phải đặt an toàn làm ưu tiên hàng đầu.” Ngoài ra, họ cũng từ chối hàng viện trợ của Trung cộng gồm: 10.000 túi ngủ, 10.000 chăn đấp cùng với 176 triệu nhân tệ (26 triệu USD).

 

Người dân Đài Loan đã mất tin tưởng vào hàng hóa Trung cộng từ năm trước khi sản phẩm sữa bột của Trung cộng của một số hãng Trung cộng bị tìm thấy nhiễm melamine làm chết ít nhất 6 trẻ em và khiến hàng chục nghìn trẻ em lâm trọng bệnh. Đây là một cái tát vào mặt bọn lãnh đạo Trung Nam Hải.

V. VIỆT NAM LÀ THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ HÀNG ĐỘC CỦA TRUNG CỘNG

Tất cả mặt hàng độc chết người do Trung Cộng sản xuất bị thế giới tẩy chay vứt vào thùng rác. Những con chó lãnh đạo Trung Nam Hải dùng Việt Nam làm thị trường tiêu thụ những hàng độc nầy vừa để thu lợi nhuận và vừa dùng nó làm vũ khí giết người thầm lặng, không tiếng súng để giết dân Việt Nam chết dần chết mòn. Sách lược dã man nầy được Trung cộng chia ra làm hai giai đoạn:

GIAI ĐOẠN I:Ngày 30 tháng 6 vừa qua, nhiều tờ báo trong nước đồng loạt lên tiếng báo động về hiện tượng nầy, từng đoàn doanh nhân Tàu Cộng vượt biên giới bỏ ngỏ, ào ạt sang Việt Nam từ Bắc vào Nam, tung tiền mua giá cao, vơ vét hàng nông sản, thu hút hàng sạch nhu yếu phẩm từ thủy sản, đường cát, heo, gà, vịt, trứng gà, vịt cũng bị thu mua chất hàng đống. Đặc biệt là vịt sống là sản phẩm bị chiếu cố tận tình nhất, khiến giá mỗi con từ 60.000 đồng/con, tăng vọt lên 120.000 đồng, tức là tăng gấp đôi. Cho đến nay, chiến dịch vét hàng đã lên đến cao điểm nhưng chưa biết chừng nào mới chấm dứt. Hiện tượng nầy khiến vật giá trong nước tăng tốc leo thang không ngừng vì thiếu hàng để bán, làm dân nghèo khốn đốn. Theo nhận định của bà Nguyễn thị Thu Sắc, Phó chủ tịch Hiệp hội Hàng Xuất Cảng Thủy Hải Sản VN (VASEP) nói rằng: những năm trước thương gia Tàu sang Việt Nam thu mua tôm trực tiếp từ các trại nuôi tôm của người Việt mình. Còn bây giờ, họ ra tận bến cá, đón tàu đánh cá vừa từ ngoài khơi vào, tung tiền thu mua trực tiếp, gom sạch các loại hải sản. Các công ty Việt Nam chế biến thủy sản và hải sản thiếu hàng xuất cảng, nâng giá mua lên để cạnh tranh mà vẫn chào thua các doanh nhân Tàu cộng lắm tiền nhiều bạc nầy. Tại miền Trung, các tay thương gia Tàu cộng nầy chiếu cố tận tình. Hậu quả, là giá tôm trắng hồi nằm ngoái chỉ có 57.000 đồng/kí bây giờ vọt lên 90.000 đồng/kí. Bà Sắc báo động: Tình trạng nầy sẽ giết các công ty xuất cảng thủy sản và hải sản trong nước. Từ đầu năm đến giờ đã có 147 công ty loại nầy ở VN đã phải đóng cửa vì không mua được hàng. Bà Sắc cho biết đã đến lúc chánh phủ VN nên bắt chước Indonesia vì quốc gia nầy đã cấm xuất cảng nguyên liệu thủy, hải sản kiểu đó. Việt Nam cần phải bảo vệ thị trường nội địa nhưng, biết bao giờ Đảng và nhà nước CSVN học được bài học khôn nầy?Ngoài ra, các tên thương gia trọc phú nầy còn nhắm vào hồ tiêu. Theo lời ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp Hội Tiêu VN (VPN), cho biết: Đã có 20% toàn bộ sản lượng tiêu VN bị thương lái Tàu Cộng thu vét. Cao su cũng vậy, có đến 70% số cao su làm ra ở VN đã vượt biên vào Hoa Lục.

GIAI ĐOẠN II: Sau khi hút hết “HÀNG SẠCH” của thị trường Việt Nam, bọn Trung Nam Hải cho các thương buôn Tàu cộng tuôn “HÀNG ĐỘC” vượt qua biên giới vào Việt Nam bán với giá rẻ mạt vừa túi tiền của đại đa số đồng bào lao động để đầu độc dân Việt Nam trên qui mô cả nước, gây ra hiện tượng “GIÀU ĂN SẠCH, NGHÈO ĂN ĐỘC”. Xin liệt kê một số hàng độc của Trung cộng tượng trưng:

GẠO NHỰA TÀU: Sau khi tung tiền vơ vét cả triệu tấn gạo của VN chở sang Tàu, liền sau đó, “gạo nhựa Tàu” được Trung cộng tung vào VN đã xuất hiện trên thị trường, đó là một loại giả làm bằng khoai lang /khoai tây xay nhuyển rồi trộn với bột nhựa (resin). Gạo nhựa Tàu nấu trên 30 tiếng vẫn không làm hạt gạo nát nhừ, hột cơm vẫn nguyên vẹn và không dính vào nhau. Tất cả các gạo nhựa Tàu đều 

cùng kích thước và màu sắc giống nhau.

 

SỮA ĐỘC MELAMINE: Melamine là hóa chất dùng để sản xuất nhựa, được trộn vào các sản phẩm sữa để chúng trông giàu protein hơn nhằm dánh lừa thị giác giới tiêu thụ khiến các em nhỏ uống vào sẽ mắc bệnh “sạn thận”. Các hãng thông tấn nước ngoài đưa tin scandal về sữa độc melamine làm tử vong 4 em bé và làm hơn hàng trăm ngàn trẻ em khác bị bệnh vào năm 2008. Sau đó, chánh quyền Trung cộng đã tìm thấy và tịch thu 170 tấn sữa bột độc hại nầy. Số 170 tấn sữa độc melamine không được Trung Cộng thiêu hủy và tái phối trí để đưa vào thị trường Việt Nam tiêu thụ với giá rẻ khoảng 62.000 đồng/ký so với sữa bột Tân Tây Lan (New Zealand) rẻ hơn 20.000 đồng /ký. Nguồn tin cho biết, sữa độc melamine tràn ngập ở các chợ biên giới phía Bắc, đưa vào bán ở các chợ đầu mối tại Sài Gòn như chợ Kim Biên, Bình Tây và các đại lý chuyên doanh phân phối thực phẩm.