Người đàn ông sống lại sau 25 năm bị chôn vùi dưới băng

Người đàn ông sống lại sau 25 năm bị chôn vùi dưới băng

Một vận động viên leo núi gặp nạn, bị chôn vùi dưới đống tuyết lở suốt 25 năm đã tình cờ được phát hiện và cứu sống kỳ diệu.

Vụ việc hy hữu nói trên xảy ra với anh Vail người Thụy Sĩ. Cụ thể, năm 1962, anh Vail cùng đoàn thám hiểm leo núi ở dãy Alps thì gặp tai nạn và bị chôn vùi dưới đống tuyết lở suốt 25 năm.

Mãi tới năm 1987, một nhóm thám hiểm tình cờ phát hiện cơ thể đóng băng của Vail, và đưa về Viện nghiên cứu y học Nise (Pháp).

Người phụ trách dự án nghiên cứu này tiến sĩ Dandume cho biết: “Ban đầu chúng tôi không có ý định cứu sống anh ta, nhưng chúng tôi thấy mọi chức năng trên cơ thể Vail​ đã được bảo quản một cách hoàn hảo. Thế là chúng tôi mạnh dạn thử nghiệm”.

Tiến sĩ Dandume cùng với cộng sự tiến hành giã đông cơ thể Vail, sau đó hút máu để làm nóng rồi lại bơm vào.

Chỉ vài ngày sau, mạch Vail bắt đầu đập một cách yếu ớt, rồi não bộ cũng dần dần phục hồi hoạt động. Vail đã sống lại một cách kỳ diệu sau 25 năm chôn vùi dưới băng.

Hiện tại, anh đã 52 tuổi nhưng vẫn trẻ trung như hồi 27 tuổi.

Theo Khoevadep

VN ‘cần đổi thể chế’ để mua vũ khí?

VN ‘cần đổi thể chế’ để mua vũ khí?

Bộ trưởng Ngoại giao VN nói về quan hệ Mỹ – Việt tại Asia Society, New York hôm 24/9

Trước chuyến thăm của Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, ông Phạm Bình Minh tới Hoa Kỳ, một báo Mỹ viết về khả năng giải quyết vấn đề bán vũ khí sát thương cho Việt Nam nếu nước này ‘cải tổ thể chế’.

Nhưng điều được cho là gắn kết và thúc đẩy quan hệ Mỹ – Việt là cách nhìn chiến lược về an ninh khu vực.

Bài của John Grady trên trang USNI hôm 1/10/2014 trích lời ông Chris Borse, cố vấn an ninh quốc gia cho Thượng nghị sỹ John McCain nói rằng:

“Quyền lợi chiến lược trực tiếp của hai nước là an ninh hàng hải,”

Bài báo cũng trích lời ông Borse cho rằng Quốc hội Hoa Kỳ sẵn sàng làm việc với bên Hành pháp để thông qua nghị quyết bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam nếu Việt Nam “chứng tỏ cho thấy thay đổi về cơ chế” và ý chí “xóa bỏ việc sử dùng quyền lực tùy tiện” chống lại các nhà bất đồng chính kiến.

Nhu cầu cải cách hệ thống tư pháp cũng là một trong những yêu cầu Hoa Kỳ đặt ra với Việt Nam.

Việt Nam cần chứng tỏ cho thấy thay đổi về cơ chế và có ý chí xóa bỏ việc sử dùng quyền lực tùy tiện chống lại các nhà bất đồng chính kiến

Bài báo cũng nhắc lại lời Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh phát biểu tại Viện nghiên cứu CSIS hôm thứ Tư ở Washington DC rằng “Chưa có hai quốc gia nào nỗ lực hơn Hoa Kỳ và Việt Nam để khắc phục các khác biệt”.

Nhắc lại các ưu điểm của Việt Nam và quan hệ ngày càng tiến triển với Hoa Kỳ kể từ khi quan hệ ngoại giao song phương được thiết lập năm 1995, ông Phạm Bình Minh cũng nói các ký kết với Mỹ “không làm tổn hại quan hệ của Việt Nam với các nước khác, gồm cả Trung Quốc”, theo bài báo.

Tác giả John Grady cũng đưa tin rằng theo giới quan sát tại Mỹ, việc bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam không phụ thuộc vào chuyệ̉n ‘một đổi một’ về con số cụ thể bao nhiêu nhà bất đồng chính kiến được Hà Nội thả, hay bao nhiêu vũ khí sẽ được bán, mà vào tiến triển chung về nhân quyền.

Ông Phạm Bình Minh dự kiến có cuộc hội đàm với ông John Kerry

Trong chuyến thăm từ cuối tháng 9 sang Bắc Mỹ, ông Phạm Bình Minh đã nói nước ông “hoan nghênh các bước đi của Mỹ tiến tới chấm dứt lệnh cấm vận vũ khí đối với Việt Nam”, theo các báo Việt Nam.

Hôm 24/9, ông đã đọc diễn văn tại Asia Society nói về các nét chính trong quan hệ Mỹ – Việt và mở đầu cuộc vận động nhằm để Washington bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.

Sau khi phát biểu tại Liên hiệp quốc hôm 27/9 ở New York và có các cuộc họp cao cấp, ông Phạm Bình Minh thăm Canada.

Ông đã trở lại Washington DC, Hoa Kỳ, nơi ông dự kiến có hội đàm với người tương nhiệm Mỹ John Kerry vào tuần này.

Lãnh đạo HK yêu cầu dẹp đường

Lãnh đạo HK yêu cầu dẹp đường

Chia sẻ

 

Cảnh sát Hong Kong đã được lệnh làm sao để công sở mở cửa trở lại

Xô xát đã xảy ra giữa những người biểu tình đòi dân chủ hiện đang chiếm giữ trung tâm Hong Kong và cảnh sát chống bạo động trong lúc cuộc phản kháng ở Hong Kong đã bước sang tuần thứ hai.

Hàng ngàn người đã tập hợp qua đêm bất chấp cảnh báo của chính quyền Hong Kong do Bắc Kinh hậu thuẫn mặc dù đến sáng Chủ nhật ngày 5/10 nhiều người biểu tình đã về nhà.

Hôm thứ Bảy ngày 4/10, nhà lãnh đạo Hong Kong đã nói rằng cảnh sát phải đảm bảo cho các công sở và trường học mở cửa trở lại vào thứ Hai ngày 6/10.

Kiên trì

Trong đêm thứ Bảy ngày 4/10, hàng ngàn người hô vang: “Dân chủ ngay! Dân chủ cho Hong Kong!” trong lúc các diễn giả kêu gọi người biểu tình kiên trì đến cùng, hãng tin AP tường thuật.

Vụ xô xát xảy ra vào sáng sớm ngày 5/10 ở quận Mong Kok khi cảnh sát xịt tiêu cay vào một số người biểu tình.

Đặc khu trưởng Lương Chấn Anh đã lên tiếng sau khi xảy ra xung đột khiến cuộc đàm phán giữa chính quyền và người biểu tình bị hoãn lại.

Ông Lương nói ông ‘cực lực lên án’ bạo lực nhưng cảnh báo rằng bạo lực có thể tiếp diễn trừ phi ‘trật tự xã hội được khôi phục’.

Ông Lương còn nói rằng ‘việc khẩn cấp nhất’ là người biểu tình để cho các viên chức nhà nước quay trở lại làm việc và giải phóng các tuyến đường chính để học sinh có thể đi học lại vào sáng thứ Hai tới.

“Chính quyền và cảnh sát có trách nhiệm và quyết tâm làm mọi việc cần thiết để khôi phục trật tự xã hội

Lương Chấn Anh, đặc khu trưởng Hong Kong”

Theo phóng viên BBC John Sudworth ở Hong Kong thì mặc dù ông Lương không đe dọa thẳng thừng là sẽ dùng vũ lực để giải tán đám đông nhưng những gì ông nói nghe giống như là tối hậu thư.

Liên đoàn Sinh viên Hong Kong đã rút lui khỏi cuộc đàm phán được dự định diễn ra vào ngày 3/10 và cáo buộc chính quyền cho xã hội đen tấn công người biểu tình – điều mà cảnh sát Hong Kong bác bỏ.

Hôm 4/10, cảnh sát Hong Kong thông báo họ đã bắt giữ 19 người có liên quan đến vụ ẩu đả với người biểu tình và cho biết tám trong số này ‘có liên hệ với Hội Tam Hoàng’.

Theo các phóng viên ở Hong Kong thì Hội Tam Hoàng thường có những hoạt động như buôn bán ma túy, điều hành các mạng lưới mại dâm và tống tiền nhưng trong những năm gần đây họ đã tham gia vào những thương vụ hợp pháp như xây dựng bất động sản và đầu tư tài chính.

Một số thành viên Hội Tam Hoàng còn được cho là có liên hệ với giới chính trị dẫn đến cáo buộc cho rằng chính quyền đã cho tiền để họ phá rối người biểu tình.

Bây giờ đã đến Tháng Mười .

Bây giờ đã đến Tháng Mười .

Tác giả: Đỗ Công Minh

Người ta kể lại rằng, trên một chuyến xe lửa về Paris, một chàng sinh viên ngồi cạnh một cụ già. Anh ngạc nhiên vì thấy giữa kinh thành Paris tráng lệ, giữa thời buổi hiện đại  mà vẫn còn có người  còn lâm râm lần hạt mân côi. Chờ đến lúc xe lửa ghé một ga trên đường, hành khách lên xuống ồn ào khiến cụ ông cũng ngưng cầu kinh, anh  hàn huyên với cụ.: “Cụ ơi, thời buổi này mà cụ còn lạc hậu quá. Có ai lần hạt nữa đâu?  Bây giờ chỉ còn mấy người nhà quê, thất học mới lần hạt như cụ thôi !” Cụ ông quay sang  chàng trai trẻ từ tốn trả lời :” Không phải thế đâu cháu, hãy khiêm tốn một chút đi. Cháu đang còn đi học à ?” . “Dạ phải, Cháu đang học đại học Paris “. Chàng thanh niên vẻ tự hào trả lời. Cậu còn hỏi địa chỉ và số điện thoại của người đồng hành để về sau có dịp nào đó ghé thăm và trò chuyện. Cụ ông vui vẻ gửi cho cậu tấm danh thiếp vừa đúng lúc cụ rời chuyến xe với cái bắt tay thân thiện. Chàng thanh niên không màng đứng lên tiễn chân , thản nhiên nhìn. Tấm danh thiếp có ghi hàng chữ LOUIS PASTEUR – Viện sĩ – Hàn Lâm Viện Paris. Câu chuyện không thấy ghi tiếp về tâm tình, thái độ của chàng thanh niên  sau đó thế nào.  Chuyện có thật và đã được chính nhà bác học kể lại .

Tháng 10, Tháng Mân côi. Tháng mừng kính Mẹ Maria. Giáo hội dành cả một tháng không phải chỉ là để con người chúc mừng Mẹ, bởi Mẹ, một con người trần gian tuyệt hảo, đấng hiệp công cứu chuộc nhân loại cùng Chúa Giêsu, đã được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác mà là để con cái có dịp chạy đến cùng Mẹ, xin ơn cứu giúp. Đức Maria, một con người có lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa.  Là người trần gian, khi được Thiên sứ viếng thăm và loan báo chương trình cứu độ của Thiên Chúa: tuyển chọn đấng  cưu mang Chúa Giêsu, Mẹ đã từ tốn khiêm cung nêu thắc mắc của mình :”Việc đó xảy ra thế nào được , vì tôi không nghĩ đến việc vợ chồng “. Nhưng khi được sứ thần giải thích, Mẹ đã thưa : “Xin Chúa thực hiện nơi tôi điều Ngài muốn “. Kể từ lời Xin Vâng ấy  mà Mẹ đã trở thành Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của nhân loại. Tháng Mân Côi là tháng  Giáo hội nhắc nhở con cái mình luôn biết chạy đến cùng Mẹ để“Đến với Chúa Giêsu nhờ Mẹ Maria “ (Ad Jesum per Mariam )  và chính phương thế gần gũi dễ dàng nhất  là tràng chuỗi Mân côi. Mỗi người chúng con mượn lời Sứ Thần kính mừng Mẹ, qua đó xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng con lúc này và trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời trần gian. Lần hạt không phải là lặp đi lặp lại những điệp khúc của một câu ca, nhưng là những lời tuyên xưng của chúng con,  mỗi khi suy niệm mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa đến với nhân loại.

Ngày hôm nay, không ít người có thái độ như chàng thanh niên trong mẩu chuyện nói trên, trong đó có con. Nhiều lúc con cũng nhìn anh chị em con lần hạt Mân côi rồi biện minh cho sự lười biếng, khô khan của mình. Nào là : không có thời gian. Rồi còn viện dẫn Lời Chúa, không nên đọc nhiều vì Chúa cũng dạy “không nên thờ Ta bằng môi bằng miệng “ hoặc “ Không phải cứ thưa Lạy Cha, Lạy Cha mà được vào nước trời “

Lạy Chúa! Xin tha thứ vì thái độ không đúng của con. Xin Chúa giúp con nhận ra Tràng chuỗi Mân Côi với các mầu nhiệm suy gẫm chính là  sách Tin Mừng thu gọn. Lần chuỗi nếu không thể một lúc 50 kinh, con có thể đọc 10, 20 kinh Mân côi với lòng thành tín nguyện xin, chính là con đang học và sống Lời Chúa mỗi ngày. AMEN .

Fx Đỗ Công Minh

Đi thăm nước Mỹ

Đi thăm nước Mỹ

Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Dương

Image result for golden gate bridge

Ông Sĩ ngồi ở bàn, bên ấm chè nóng, ông đang tra thuốc vào chiếc điếu cày và châm lửa hít một hơi, xong khoan khoái ngửa mặt ra thả một làn khói bay mù mịt. Bà Sĩ ngồi dưới đất, cạnh bàn, đang lo gói ghém lại các món qùa trước khi bỏ vào túi xách cho chồng. Bà hài lòng khoe:

–         Toàn là cây nhà lá vườn ông nhá, long nhãn khô, măng khô, bột sắn giây, tự tay tôi làm cả…Những thức này nghe nói ở bên Mỹ quý hiếm lắm, tìm không có, đào không ra đâu…

Ông Sĩ ra vẻ hiểu biết:

–         Thiếu giống gì, hàng của ta xuất khẩu sang Mỹ nhiều lắm, đến củ giềng ăn thịt chó cũng có nữa là. Để sang Mỹ tôi sẽ ăn thịt chó Mỹ xem có béo không? Chó tư bản nhà giàu mà.

Ông Sĩ hớp một ngụm chè để vài giây cho thấm thía mới gật gù:

–         Chè mộc Thái Nguyên ngon thật. Bà có mua chè này mang sang Mỹ làm quà  không, hử?

–         Sao không chứ. Những gì ông dặn tôi mua tất….

Bà Sĩ đứng lên, phủi bụi quần và ân cần bảo chồng:

–         Xong hết cả rồi, ông đi ngủ sớm mai còn ra phi trường Nội Bài, mai tôi cũng dậy sớm nấu cho ông nắm cơm nếp ăn đi đường.

–         Gớm, bà cứ làm như ngày xưa lúc tiễn tôi lên đường trở về đơn vị sau lần tôi hiếm hoi về phép thăm nhà không bằng. Nhưng mà đi xuất cảnh sang Mỹ ai lại mang món cơm nếp nhà quê này chứ?

Bà Sĩ âu yếm gắt:

–         Ăn cho nó chắc bụng, không gì bằng cơm nhà quà vợ.  Ông đừng có mà sĩ diện.

Suốt mấy ngày nay, biết tin ông Sĩ sắp đi Mỹ du lịch, họ hàng, làng xóm đã thăm hỏi, chúc mừng không ngớt, và nội bộ nhà ông cũng bận rộn tíu tít, lo sửa soạn hành lý và …tâm lý không ngớt.

Đời cứ như là mơ, ông Tượng, người em của ông Sĩ di cư vào Nam từ năm 1954 và di tản sang Mỹ năm 1975 đã mời ông Sĩ chuyến đi du lịch này.

Ngày di cư ấy bố ông đã dẫn thằng em 12 tuổi vào Nam trước, ông Sĩ ở nhà với mẹ, sẽ vào Nam sau. Nhưng chuyến đi Nam ấy không thực hiện được, gây ra cảnh chia lìa một gia đình 4 người mà nửa Nam nửa Bắc. Ông Tượng quyết không bao giờ trở về Việt Nam nếu đất nước còn chế độ cộng sản, ông chỉ liên hệ với người anh duy nhất của mình qua thư từ hay điện thoại và thỉnh thoảng gởi tiền về giúp anh chị. Ông Tượng mời anh sang Mỹ chơi, coi như một món quà hào hiệp tặng anh, trước là thăm thân nhân sau là đi cho biết đó biết đây.

Hai anh em hai lý tưởng khác nhau, ông Sĩ đi bộ đội miền Bắc suốt một thời tuổi trẻ để giải phóng miền Nam cho đến khi đúng tuổi giải ngũ. Ông Tượng là lính miền Nam , chiến đấu chống lại quân đội Bắc Việt. Sau chiến tranh hai anh em đều sống sót, nhà ông may mắn thế, nhưng biết đâu có những nhà khác, anh em, cha con hay chú cháu đã đối diện nhau nơi chiến trường, xả súng vào nhau để giành phần chiến thắng mà nào hay tình máu mủ liên hệ…

Cha mẹ đều lần lượt qua đời mà chẳng thấy mặt nhau sau lần chia ly vì thời cuộc ấy, chỉ còn hai anh em nên ông Sĩ háo hức muốn gặp lại thằng Tượng em ruột của mình lắm..

Ngày xưa bố ông rất mê chơi cờ tướng, nên đặt tên các con theo từng quân cờ, người anh cả mang tên Nguyễn vănTướng qua đời khi lên 3 tuổi vì một cơn bạo bệnh, người con thứ hai là ông Sĩ và người kế tiếp là Tượng thì mẹ ông phát bệnh gì đó mà không thể sinh đẻ được nữa, nếu không thì anh em ông còn …kéo dài thêm mấy quân cờ nữa như Xe, Pháo Mã, Tốt, vì thuở ấy nhà nào cũng bảy, tám đứa con là chuyện thường. Ông Sĩ cũng háo hức muốn biết mặt mũi nước Mỹ nó ra làm sao mà ghê gớm thế, có thể làm ảnh hưởng cả thế giới và một thời đã xâm chiếm miền Nam Việt Nam để miền Bắc của ông phải vất vả, bao nhiêu thanh niên nam nữ lên đường thi hành nghĩa vụ quân sự và bao nhiêu người đã gởi thây nơi rừng núi chiến trường miền Nam, mất xác, mất tăm tích cho đến tận bây giờ.

Tất cả chi phí chuyến du lịch qua Mỹ dĩ nhiên đều do người em lo. Nhà nghèo xác nghèo xơ, chuyện đi Tây đi Mỹ du lịch là một giấc mơ vĩ đại cả đời ông không dám nghĩ tới, thì bây giờ cơ hội trong bàn tay dại gì ông từ chối.

Sáng hôm sau ông Sĩ thức dậy sớm, nhưng bà đã dậy sớm hơn ông từ lúc nào, cơm  nếp nấu xong bà gói trong lá chuối, với một gói muối vừng để tiện mở ra ăn. Đám con cháu  cũng lần lượt đến tiễn ông Sĩ lên đường. Thằng con trai cả sẽ làm nhiệm vụ chở bố ra phi trường Nội Bài. Từ quê ông ra Hà Nội mất gần 1 tiếng, từ Hà Nội ra phi trường Nội Bài mất thêm khoảng 40 phút nữa.

Hai bố con đến phi trường Nội Bài, bố con dặn dò nhau xong thì ông Sĩ bước vào trong, ông hoa mắt vì lần đầu tiên trong đời mới được biết  phi trường là gì. Ông cầm cuốn hộ chiếu chìa ra để trình bày và hỏi thăm, người ta chỉ cho ông chỗ xét gởi hành lý trước..

Cô hải quan đanh đá thô bạo đưa tay bới túi hành lý, cô định mở từng bọc một thì ông Sĩ biết điều móc túi ra, ông tần ngần suy nghĩ, nó trông phong lưu và đẹp người thế, trong khung cảnh phi trường hoành tráng thế, mà đưa tiền ít chắc không xứng đáng lại thêm rắc rối?

Ông đành lấy ra 5 trăm ngàn đồng Việt Nam dúi vào tay cô, kẻo cô mở tung toé ra thì giờ đâu ông xếp lại cho được :

–         Chẳng có gì đâu, ít thực phẩm khô làm quà thôi mà…

Nhận được tiền, cô hải quan dịu dàng, tươi tỉnh ngay:

–         Thế mà bác không nói cho cháu biết trước. Thôi, bác yên chí, hành lý này sẽ chuyển lên chuyến bay với bác.

Kinh nghiệm lo xa của ông thật hữu ích, ông đã bảo bà để một số tiền mặt cho ông “đi đường”, hễ có giao thiệp với bất cứ nhân viên cấp nào, ngành nghề nào phải có tiền mới giải quyết được sự việc. Tiền có sức mạnh ghê gớm, tiền cất tiếng nói thay người.

Xong việc ký gởi hành lý, ông Sĩ thảnh thơi ôm cái xách tay và lại hỏi thăm chỗ đăng ký lên máy bay, lại hết chỗ nọ đến chỗ kia, cuối cùng ông đã tìm ra đúng chỗ, ông đang ngơ ngác chưa biết phải làm gì thì bị anh hải quan ngồi sau chiếc bàn dài, mặt non choẹt, quát xa xả:

–         Ông kia, đưa giấy tờ đây, làm mất cả thì giờ của người khác!!

–         Vâng ạ, có hộ chiếu xuất cảnh đầy đủ đây ạ…người xuất cảnh là tôi Nguyễn Văn Sĩ, sinh năm.…

Anh Hải Quan bực mình ngắt ngang:

–         Khi nào cần tôi hỏi, ông không phải khai. Giấy nhập cảnh nữa, xuất khỏi đây ông sẽ đến đâu. Đấy là thủ tục.

Ông lại móc túi quần qua hai ba lớp gói, lớp bọc để lôi ra giấy nhập cảnh trân trọng đặt lên mặt quầy cho anh hải quan. Tướng tá sang cả và mặt anh ta lạnh lùng càng làm ông Sĩ cảm thấy mình thấp hèn và hồi hộp như một kẻ đang đợi được ban ơn:

–         Thưa anh, thế đủ chưa ạ ? cần gì nữa không ạ?

Anh hải quan lại quát:

–         Ông ạ, ạ..gì mà lắm thế? có im đi không cho người ta làm việc.

Ông Sĩ im ngay tức khắc, liếc nhìn sang anh hải quan bên cạnh đang “làm việc” với một người nước ngoài, nhã nhặn, lịch sự, ông ngạc nhiên tự hỏi :” Hai anh hải quan này cùng làm một việc, nhưng tính khí khác nhau? hay chắc tại mình và ông nước ngoài kia khác nhau?  mà hai cảnh đối xử một trời một vực thế nhỉ?”

Anh hải quan của ông đã xét giấy tờ xong, anh ta đẩy mạnh mớ giấy tờ về phía ông, suýt nữa thì cuốn sổ hộ chiếu quá đà rơi xuống đất nếu ông Sĩ không nhanh tay đỡ kịp. Anh hải quan không thèm nói một câu, nhưng ông biết là đã xong, vội thu gom giấy tờ của mình bỏ vào bọc, vào túi và bước theo lối có mũi tên chỉ dẫn để ra chỗ cổng vào máy bay, để nhường chỗ cho người khác tiến lên.

Tới đây tưởng đã được yên thân, nhưng khi ông cẩn thận và thân ái hỏi một cô mặc đồng phục nhân viên phi trường đang ngược chiều đi đến :

– Có phải lối này ra chỗ máy bay không cháu?

Thay vì trả lời 3 chữ “vâng đúng rồi” để tiết kiệm năng lượng trong người, cô gái tốn công cau có, gắt gỏng bằng một câu dài hơn:

– Có một lối này ông còn hỏi gì nữa…?

Ông Sĩ bất chấp lối ăn nói “sinh sự” ấy,  vẫn tươi cười và thân ái:

– Thế hả, bác cám ơn cháu.

Vừa trả lời ông Sĩ vừa rảo bước thật nhanh, kịp lúc người ta đang gọi loa mời hành khách lên máy bay.

Vào trong máy bay gặp các cô tiếp viên Việt Nam, ông Sĩ lại…giật mình vì cảm thấy chưa thoát nạn, nhưng ông tự trấn an :  “Đã ngồi vào trong máy bay là chắc ăn rồi, có bị chúng nó gắt gỏng nữa cũng không thành vấn đề”.

Các cô tiếp viên hàng không Việt Nam trông ai cũng sáng sủa, trẻ đẹp và sang cả như mấy người  hải quan lúc nãy, ông Sĩ tự kết luận phi trường là chỗ làm việc của những đứa con nhà giàu quyền thế, khác hẳn với mấy đứa cùng trang lứa ở quê ông, mặt mày tối tăm, ngu dốt và đáng thương như miếng thịt ôi trên phản thịt chợ chiều 30 Tết.

Các cô tiếp viên hàng không đẹp mà kiêu kỳ xa cách quá, ông lại tưởng như mình không phải là hành khách trên chuyến bay, mà đang đi nhờ họ thì đúng hơn, nên ông không dám làm phiền, biết thân biết phận ngồi gọn gàng và im thin thít tại chỗ, dù có nhiều thứ lạ, ông muốn cất tiếng hỏi han lắm, nhưng chẳng dại gì mở miệng để bị mắng như lúc nãy hỏi đường cô nhân viên..

Máy bay rời Việt Nam đến phi trường Nhật Bản, ông lại lạc vào mê cung lần nữa, kinh hoàng hơn vì chung quanh không còn nhiều người Việt Nam . Thà bị mắng, bị gắt như ở phi trường Nội Bài còn là đất nước Việt Nam, con người Việt Nam, còn dễ dàng hỏi thăm, đằng này xứ lạ quê người. Nhưng khi ông chìa vé, chìa hộ chiếu ra chẳng biết nói câu tiếng Nhật nào mà cũng được người ta giúp đỡ rất tận tình, dẫn tay ông ra tận chỗ cổng máy bay mà ông cần. Thế là ông nhẹ cả lòng, ngồi tại chỗ quyết không đi đâu xa, sợ lạc mất cái cổng máy bay này. Bây giờ ông Sĩ mới thong thả mở gói cơm nếp của bà vợ ra ăn trong thời gian chờ máy bay mấy tiếng đồng hồ. Từ phi trường Nội Bài gặp các sự sách nhiễu vô lý, ông thấy gói cơm nếp của vợ thật có lý, có tình.

Lên chuyến bay ở Nhật, từ Nhật cách Việt Nam chẳng bao xa, mà không khí, con người đã khác nhau xa, nhân viên trên máy bay ân cần giúp đỡ ông tìm ghế ngồi, chỉ cách cài dây an toàn, và giúp ông để túi hành lý vào khoang tàu với nụ cười và nét mặt tươi tắn..

Tiếp viên hàng không Nhật nổi tiếng khắp thế giới về việc phục vụ lịch thiệp, nhã nhặn, chu đáo đối với hành khách trên các chuyến bay. Họ quả là những người có giáo dục rất tốt, rất đáng khâm phục !

Lần này ông ngồi gần khung cửa sổ và tâm hồn tự tin thanh thản hơn nên tha hồ làm chủ tình hình, ông ngả đầu ra ghế để nhìn ngắm bên ngoài, từ lúc máy bay từ từ lăn bánh, rồi lấy đà cất cánh lên cao dần, thành phố càng lúc càng xa ở phía dưới, ông sợ lắm, nhưng cũng thú vị lắm, không ngờ trong đời mình có lúc được đặt chân vào phi trường để xuất ngoại, được “đi mây về gió” thế này.

Các cô tiếp viên Nhật Bản cũng xinh đẹp, lịch lãm, cao sang không thua gì các cô tiếp viên hàng không Việt Nam nhưng họ thật là thân thiện, họ mỉm cười kiên nhẫn nhìn ông ra dấu chỉ trỏ các món thức ăn, nước uống nào mà ông muốn trên suốt chuyến bay dài từ Nhật đến  nước Mỹ xa xôi. Bây giờ ông thật sự là một hành khách được phục vụ tận tình và trân trọng.

Ông náo nức nghĩ đến nước Mỹ, nghĩ đến thằng em và đám con cháu nhà nó, cũng như họ hàng làng nước mà ông có thể sẽ gặp trong thời gian thăm viếng .

Xuống tới phi trường Los Angeles tiểu bang California lúc 12 giờ trưa hôm sau, ông Sĩ thêm một phen choáng váng đến hoang mang, phi trường to lớn và náo nhiệt như cả thế giới, toàn thể nhân loại đều tụ họp ở đây, người ta nói đủ thứ tiếng làm ông nghe mà điếc cả tai.

Ông lắng tìm nghe tiếng Việt Nam , nhìn khuôn mặt Việt Nam và đi theo họ cho chắc ăn, ông chỉ có một túi hành lý ký gởi nên hải quan Mỹ làm rất nhanh chóng. Họ hỏi, thì có người hành khách Việt Nam bên cạnh dịch lại cho ông, ông trả lời không mang thực phẩm có thịt, cá . Thế là anh hải quan xét hàng tin ngay, chẳng buồn mở ra kiểm tra ông nói thật hay không. Người Mỹ sao mà dễ tin người thế chứ.

Xong ông xếp hàng dài chờ trình giấy tờ nhập cảnh vào Mỹ mà lòng vẫn chưa hết kinh ngạc vì anh hải quan Mỹ xét hàng vừa rồi, ông vui lây và tự hào vì đã được người ta tin tưởng vào lời nói của mình.

Người này tử tế bao nhiêu ông lại nghĩ đến người kia bấy nhiêu, nét mặt câng câng đáng ghét của cô hải quan xét hàng hóa ở phi trường Nội Bài khi lục mở túi hành lý của ông, và bộ mặt ấy bỗng biến thành tươi cười hơn hớn khi nhận được tiền ông đút lót.

Bây giờ so sánh hai sự khác biệt, ông mới thấy đau đớn vì tiếc tiền, ông lẩm bẩm chửi  khẽ:

–  Tiên sư con quạ mổ! Tiên nhân con nặc nô ! làm tao mất toi năm trăm nghìn đồng bạc.

Đến lượt ông Sĩ đối diện với ông hải quan Mỹ, ông nộp giấy xuất nhập cảnh ra, nhìn ông hải quan Mỹ to béo kềnh càng, ông Sĩ khiếp vía, ông Mỹ chưa quát tháo gì mà ông Sĩ đã hồi hộp, mồ hôi như rịn cả ra dù trong điều kiện không khí mát lạnh.

Xem xong các giấy tờ một cách thành thạo và nhanh chóng, ông hải quan Mỹ nhìn ông Sĩ và nói:

–         Welcome to USA .

Golden Gate Bridge seen from Lincoln Park

Ông Sĩ chẳng hiểu gì, hồn vía lên mây, vội vàng lục túi áo, túi quần, thì chị Việt Nam đứng cạnh bên ngạc nhiên hỏi:

–         Bác tìm gì thế?

Ông ghé tai chị Việt Nam nói nhỏ:

–         Chẳng biết ông hải quan Mỹ hạch họe gì, giấy tờ tôi đủ cả, thôi cứ biếu tiền cho xong chuyện. Ở đây họ có tiêu tiền Việt Nam không?

Chị Việt Nam bật cười như vừa bị ai thọc vào nách:

–         Bác ơi là bác, ai hoạch họe gì bác, ông hải quan nói lời chào mừng bác vào đất nước Mỹ đấy.

Ông Sĩ ngạc nhiên kêu lên:

–         Thế à? Ai quen biết gì nhà ông ấy mà chào mừng nhỉ …

–         Thì họ lịch sự xã giao mà bác.

Giây phút này ông Sĩ nhớ ngay đến bộ mặt trơ trơ lạnh lùng và cách ăn nói hỗn hào, trịch thượng của anh hải quan ở phi trường Nội Bài, anh ta là người Việt Nam, đáng tuổi con cháu ông mà cư xử với ông còn thua ông hải quan người Mỹ khác giòng, khác giống này nữa.

Chị Việt Nam giục:

–         Thôi bác cất giấy tờ kẻo rơi mất và ra ngoài đi, chắc người nhà bác đang đợi bên ngoài đấy…

Ông Sĩ hớn hở khóac túi xách lên vai, tay còn lại xách cái túi lớn và đi theo dòng người ra ngoài…

Ông đi từ ngơ ngác này đến ngơ ngác kia khi nhìn cảnh và người xung quanh, cho đến khi cả đám thân nhân chạy ùa ra đón ông:

–         Anh Sĩ đấy à? Em là Nguyễn văn Tượng đây…

–         Chào bác Sĩ, chúng cháu là con ông Tượng.

Ông không thể nào nhận ra thằng Tượng em ông ngày xưa, ông từng cõng nó trên vai dù hai anh em suýt soát tuổi nhau, bây giờ nó bệ vệ hồng hào, khiến ông phải thốt lên:

–         Giời ạ, chú Tượng mà tôi cứ tưởng ai, dù nhìn hình rồi mà tôi vẫn không nhận  ra chú, trông cứ như tổng giám đốc hay thủ trưởng cơ quan ở thủ đô Hà Nội. Nhưng sao chú vẫn nhận ra tôi, hở?

Ông Tượng thành thật:

–         Dĩ nhiên là qua hình anh gởi, nhưng nhìn thấy một ông Bắc kỳ ngơ ngác giữa phi trường Los. này thì không ai ngoài anh.

Ông Sĩ vẫn chưa tỉnh cơn mê:

–  Người ở đâu mà lắm thế ! cứ ồn ào và nhốn nháo như tôm tươi nhảy trong rổ …

Mọi người lên xe hơi để về nhà, vì con cháu ông Tượng ra đón đông nên phải đi làm ba xe làm ông Sĩ thầm thán phục khi biết chúng nó đứa nào cũng có ô tô riêng. Ông chợt nhớ ra vội dặn dò con ông Tượng:

–         Này các cháu, chạy xe cẩn thận nhé kẻo xe  bốc cháy như ở Việt Nam đấy.

Ông Tượng trấn an lại ông anh:

–  Anh đừng lo, hiện tượng xe gắn máy và xe hơi bốc cháy chỉ có ở Việt Nam , chắc vì xăng dầu bị pha chế do lòng tham của con người mà ra thôi.

Xe hơi chở ông Sĩ từ phi trường Los Angeles đi vù vù qua những con đường, lên đến highway 405 song song là 6 hàng xe làm ông Sĩ không tin vào mắt mình, ông cẩn thận đếm đi đếm lại mấy lần. Trên đầu ông cũng là cầu highway, ông nhìn phía trước, những đường cầu highway chạy dài chồng chất hai ba tầng, tạo thành những đường cong uốn lượn, chỗ cao chỗ thấp vừa hoa mỹ vừa hiện đại với dòng xe cộ nườm nượp mà chóng cả mặt.

Đường xá ở Mỹ sao mà cao siêu và vĩ đại thế, nơi đâu cũng toàn xe là xe, đông như đi chảy hội, mà tuyệt nhiên ông Sĩ không nghe một tiếng còi xe nào, chả bù cho tại Việt Nam, chỉ phố huyện của ông thôi mà xe cộ ngược xuôi, xe nọ qua mặt xe kia, bất chấp ai trước ai sau và còi xe thì luôn kêu inh ỏi để người ta biết mà tránh né nhau, chứ đèn đường hay dấu hiệu luật lệ giao thông chẳng hiệu quả gì, hình như chỉ để phô trương và triển lãm, đến nỗi người ta có cảm tưởng rằng nếu xe không có còi thì đừng hòng ra đường.

Ông Sĩ phải thốt lên:

– Sao mà nhiều cầu vượt đến thế, sao mà nhiều xe cộ đến thế? chỉ riêng nước Mỹ này đã ngốn hết bao nhiêu xăng dầu của thế giới rồi còn gì !

Los Angeles

Qua khỏi cầu highway 405, xe chở ông Sĩ đang đi vào một thành phố, rồi đến những khu đường vắng vẻ dần, khi xe dừng lại trước một bảng hiệu stop màu đỏ khá lâu thì ông Sĩ ngạc nhiên hỏi ông Tượng:

–         Sao ngừng lâu thế?

–         Bảng “Stop” là phải ngừng hẳn xe anh ạ.

–         Ối giời, bảng gì thì bảng, nhưng chỗ này vắng vẻ không có ai thì ta cứ linh động mà đi chứ ngừng làm gì cho phí thì giờ?

–         Luật lệ ở Mỹ ai cũng phải tôn trọng, dù là lúc nửa đêm không một bóng người cũng vậy.

Ông Sĩ gật gù khen:

–   Ở Mỹ thật là tự giác, chả bù cho ở Việt Nam ta cứ làm liều cho đến khi bị phát giác.…

Những khu nhà cư dân hiện ra, ông Sĩ thất vọng khi nghĩ nhà em trai mình ở một nơi vắng vẻ như thế này chắc không khá giả gì. Ông Tượng như đọc được ý tưởng trong đầu ông anh, bèn giải thích:

–         Nhà em ở trong khu này, một trong những khu vực nhà cửa có giá của California

Ông Sĩ hỏi lại:

–         Ở nơi hiu quạnh thế này mà lại đắt đỏ thế kia à?

–         Vâng, ăn thua địa thế, nhà trên đồi, trên núi còn đắt hơn nhà dưới mặt đất. Chỉ những ai tiền triệu trở lên mới mua nổi nhà trên ấy thôi.

–         Lạ nhỉ, ở Mỹ cái gì cũng ngược đời, ở quê mình, đồi núi bỏ không, làng xã phải khuyến khích người dân lên phát quang làm rẫy trồng khoai sắn tăng gia vì lúa gạo không đủ ăn, chứ làm gì có chuyện dọn lên đồi, lên núi mà ở cho hoang lạnh lẻ loi.

Ông Tượng kể thêm:

–         Nhà ở càng gần biển càng đắt, nhất là những căn nhà sát ngay bờ biển.

–         Ối giời, ở Việt Nam chỉ những nhà nghèo mới ở sát biển, đối diện với sóng gío làm hao mòn nhà cửa, biển lấn đất liền có ngày nuốt chửng cả nhà và người chứ qúy hóa gì.

Ông Tượng hỏi thăm sang chuyện nhà :

–         Nghe nói thằng út nhà anh làm việc ở công ty gì trên huyện, có khá không ?

–         Chỉ “túc tắc” thôi. Được mỗi ưu điểm là khỏi chân lấm tay bùn như làm ruộng.

Ông Tượng ngạc nhiên:

–         Anh nói “túc tắc” là gì? Em không hiểu…

–         Là công việc lằng nhằng tạm đủ sống qua ngày. Trước anh có cho nó học tiếng Trung mà không xin được việc làm ở thành phố đành về làm công nhân phố huyện vậy.

Ông Tượng lại hỏi và chép miệng than thở:

–         Tiếng Trung là gì? Việt Nam bây giờ nói nhiều từ lạ qúa em không hiểu nổi…

Ông Sĩ giải thích:

–         Cuộc sống tất bật qúa nên người ta phải nói tắt và hình tượng cho nhanh hiểu chú ạ. Tiếng Trung là Trung quốc, còn Singapore thì gọi là “Sing” cho ngắn gọn, chú hơi đâu mà lăn tăn. À, hai từ “Lăn tăn” là hình tượng đấy, nghĩa là chú cứ để tâm hồn thanh thản như dòng nước bình lặng, đừng suy nghĩ, thắc mắc như khi dòng nước gợn sóng lăn tăn. Hiểu chưa?

Ông Tượng trả lời mà nét mặt vẫn còn hoang mang:

–         Vâng, em sẽ cố gắng hiểu.

Về đến nhà, sau vài phút chào mừng thăm hỏi nhau rối rít, ông  Sĩ lại lục đục với mớ hành lý, lôi ra giấy tờ và nghiêm chỉnh nói với em:

–         Chú đưa anh  ra công an khu vực khai tạm trú cho xong việc đã….

Ông Tượng bật cười không khác gì chị Việt Nam lúc nãy ở phi trường Los Angeles :

–         Ở Mỹ không ai xét hỏi giấy tờ anh đâu.

Ông Sĩ không tin:

–         Chú nói thế nào?  Nếu công an khu vực không xét giấy tờ, thì chú cứ dẫn anh ra chào họ một tiếng cho phải lẽ, sau này họ không kiếm cớ bắt bẻ, làm tiền mình chú ạ…với lại chị có dự trù sẵn một ký chè Thái Nguyên để biếu họ đây.

Ông Tượng ngưng cười, cũng nghiêm chỉnh để giải thích:

–         Nước Mỹ không có anh công an khu vực, không ai phải khai tạm trú tạm vắng. Họ đã xét giấy nhập cảnh của anh ở cửa  khẩu phi trường, thế là xong.

–         Thế anh đi ngoài đường họ có xét hỏi giấy tờ không?

–         Không tin ngay bây giờ anh cứ ra đường đi khơi khơi xem có ai biết anh mới vừa đến Mỹ không? Ngay cả người hàng xóm bên cạnh cũng không hề biết nữa là…

Ông Sĩ vẫn ngơ ngác:

– Thật thế ư? Chẳng lẽ người Mỹ lại sơ hở thế? quản lý đất nước và con người lỏng lẻo đến thế?

Ông Sĩ  ngồi thừ người vì chưa hết sửng sốt, cả đời ông quen thuộc với nếp sống xã hội chủ nghĩa, đã ngấm vào thịt da xương tủy ông những thủ tục, luật lệ, nên ông tưởng nó theo ông dù ông đi đâu, đến đâu.

Hôm nay, ông là một cựu chiến binh cộng sản, cựu kẻ thù của Mỹ, kẻ đã một thời từng mong tiêu diệt những lính Mỹ trên quê hương Việt Nam, theo đúng câu tuyên truyền “Đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào” đang chễm chệ ngồi ngay trong lòng nước Mỹ, vậy mà không hề bị họ để ý, nghi ngờ hay làm khó khăn gì cả, quả là chuyện lạ lùng.

Buổi chiều, ông Sĩ ăn cơm cùng gia đình ông Tượng, có cả các con ông Tượng ở gần đấy sang chơi, trò chuyện đủ thứ. Gia đình ông Tượng bàn nhau kế hoạch sẽ đưa ông Sĩ đi chơi những nơi trong thành phố, rồi đi thăm thân nhân khác, tại những thành phố hay tiểu bang khác. Thật là nồng nhiệt, thân tình và vui vẻ.

Tối hôm đầu tiên nằm ngủ ở Mỹ, trong nhà của em trai mình, trong một căn phòng riêng sạch sẽ đầy đủ tiện nghi, giường nệm, chăn gối thơm tho, phòng tắm, cầu tiêu ngay bên cạnh, ông Sĩ tưởng như mình lạc vào cõi mộng nào.

Bao nhiêu năm đời bộ đội nằm bờ bụi, đói khổ, hết chiến tranh thì về quê, cảnh nhà nghèo nàn túng thiếu, ông nào biết có những cảnh đời tiện nghi sung sướng như thế này, ông Sĩ ao ước giá mà bà vợ cùng đi với ông để cùng được hưởng, vì mai kia ông có kể lại chắc gì bà ấy hình dung ra được .

Ông thao thức mãi chưa ngủ được, phần vì thay đổi giờ giấc, phần vì lạ nhà, lạ cảnh. Ông lan man nhớ lại lúc ở phi trường Los. Anh hải quan đã tin cậy lời ông, một người xa lạ, mới gặp lần đầu một cách dễ dàng mà không xét hỏi thêm gì về hành lý của ông cả.

Ông chạnh lòng nhớ đến chuyện xa hơn, sau ngày đất nước hoà bình, ông Sĩ làm đơn xin hưởng lương hưu cựu chiến bình. Từ làng xã, đến các đơn vị đều biết ông bao năm đi bộ đội, vậy mà  người ta hành hạ ông phải chạy từ quê lên huyện, lên thành phố, trở về đơn vị cũ, gặp thủ trưởng xưa, xin bao nhiêu chữ ký, bao nhiêu thứ xác nhận chòng chéo, vòng vo đến dư thừa thì họ mới cho hoàn tất hồ sơ.

Bao nhiêu công lao và xương máu của ông đã đổ ra trong chiến tranh, mà chút quyền lợi đền bù cho ông sao nhiêu khê, khó khăn đến thế !

Lòng ông  lại chập chờn những nỗi vui buồn, vui vì anh em ông có ngày đoàn tụ nhìn thấy nhau, ông sẽ có mấy tháng rong chơi ở nước Mỹ to đẹp này, buồn vì ông thấy hai cảnh đời khác biệt.

Gia đình ông Tượng sang Mỹ, 3 đứa con đều ăn học thành tài cả, đứa nào cũng có bằng cấp đại học trở lên, có nhà cửa riêng, còn gia đình ông Sĩ cũng 3 đứa con thì 2 đứa lớn theo nghiệp cha ông làm ruộng, cuộc sống nghèo nàn lam lũ chẳng biết đời nào mới ngóc đầu lên nổi, thằng út đậu xong cái bằng phổ thông trung học, ông đã tìm cách cho nó thoát ly cảnh đồng ruộng, để cuộc đời đỡ vất vả, xin làm công nhân ở một hãng sản xuất đồ gốm trên huyện mà cũng tốn bao nhiêu công phu nhờ cậy giới thiệu và đút lót qùa cáp mới được nhận vào.

Ông ngậm ngùi thầm trách bố ông sao ngày xưa không đem cả vợ con đi, mà kẻ trước người sau cho mộng đời dang dở, thì ngày nay cha con ông chắc cũng chẳng thua kém gì cha con ông Tượng.

Bố ông yêu thích môn cờ tướng, chơi cờ tướng giỏi, vậy mà ván cờ cuộc đời ông chỉ tính sai một nước cờ mà thiệt thòi cả mấy đời người.

Hết nghĩ chuyện nọ đến chuyện kia, ông Sĩ bỗng lo xa khi nghĩ đến 3 tháng du lịch ở Mỹ rồi sẽ trôi qua, ông sẽ trở lại Việt Nam, đối diện với cảnh sống nghèo nàn thường lệ, và  trước mắt là đối diện với cuộc hành trình trở về từ Mỹ. Xưa nay ông đã quen bị đối xử bất công trong mọi tình huống của cuộc sống rồi, có bị quát, bị mắng cũng chai đá rồi. Nhưng từ phi trường ở Nhật Bản đến phi trường ở Mỹ ông đã được đối xử một cách công bằng, lịch sự, hoàn toàn khác biệt ở phi trường Nội Bài, ông chợt thấy một thế giới khác tử tế hơn nơi ông sinh ra và lớn lên cho đến bây giờ.

Trời ơi, lượt về ông sẽ gặp lại những bộ mặt từ chuyến bay hãng hàng không Việt Nam ấy, đến phi trường Nội Bài gặp mấy đứa hải quan ấy, mà ông thêm ngao ngán…

Ông chỉ muốn chúng nó biến mất trong đầu óc ông để ông ngủ yên tối nay và thoải mái tận hưởng những ngày du lịch một đất nước lạ đời và thăm lại các người thân sau bao nhiêu năm dài xa cách.

Nguyễn Thị Thanh Dương

Biểu tình ở Hong Kong: Khi bọn chim mồi hô khẩu hiệu

Biểu tình ở Hong Kong: Khi bọn chim mồi hô khẩu hiệu
October 04, 2014

Nguoiviet.com

Trần Tiến Dũng (Từ Sài Gòn)

Từ Hong Kong, diễn biến chuyện tấn công người biểu tình và thái độ người không ủng hộ biểu tình ôn hòa cho thấy, giá trị đấu tranh đòi quyền dân chủ đã đứng trước kẻ thù mới, tuy không lạ nhưng nguy hiểm không kém gì chuyện công an  Hong Kong-Trung Quốc dùng bạo lực đàn áp biểu tình.

Thái độ hung hãn của những ‘con chim mồi’ phản biểu tình ở Hồng Kông. (Hình: Getty Images)

Những kẻ tấn công biểu tình và những kẻ chống biểu tình muốn sống ngoan- ổn đinh theo khung chuồng chuyên chế áp đặt của Trung Quốc đã ném ra loại vũ khí tối thượng của họ: “Người Hong Kong cần làm việc kiếm tiền, Người Hong Kong cần phải ăn.”

Người Trung Quốc hiện nay không bị nạn đói như các thế kỷ trước đây và không có dịch đói như một số vùng ở Châu Phi. Người Hong Kong, kể cả dân mới nhập cư từ lục địa có mức sống hơn hẳn nhiều quốc gia kém phát triển. Và một điều căn bản là họ chưa bao giờ không ăn và mất miếng ăn dù chỉ một bữa.

Vậy thì, họ trưng ra cái vũ khí. Cần kiếm tiền, cần ăn để làm gì. Họ chính xác là những con chim mồi cùng với chủ chuồng chim trưng ra miếng ăn để nhốt hốt sự ý thức tự do.

Như những sinh viên Hong Kong đang biểu tình đang chứng minh là cha ông họ đến Hong Kong và xây dựng Hương Cảng, chấm dứt ám ảnh đói nghèo và nay họ muốn xây dựng Hong Kong cho lúc này và tương lai chấm dứt nỗi ám ảnh trở thành nô lệ cho tập đoàn chuyên chế độc tài Bắc Kinh.

Không có bọn làm nhiệm vụ những con chim mồi thì Bắc Kinh không thể nhốt vào cái lồng lớn hơn một tỉ người Trung Hoa. Việt Nam, Cu Ba, Bắc Triều Tiên bầy đàn người làm chim mồi cũng không thiếu.

Nhưng lịch sử chứng minh chưa bao giờ bọn chim mồi và thế lực độc tài có thể nhốt hốt hết những trái tim và ý thức đấu tranh cho quyền con người trong ánh sáng tự do-dân chủ.

Những chiếc dù trên đầu và những cánh nơ vàng trên ngực các công dân trẻ và già của Hong Kong hôm nay sẽ là con đường lớn, không chỉ riệng cho họ mà còn là đích đến tương lai những dân tộc đang sống dưới tai họa độc tài.

Báo chí nóng tin Hong Kong: một lá bài mới

Báo chí nóng tin Hong Kong: một lá bài mới

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-10-03

vn-hk-305.jpg

Tin tức về biểu tình ở Hong Kong đăng tải trên báo VNExpress hôm 3/10/2014.

Screen capture

Thay đổi cách ứng xử?

Báo chí Việt Nam được rộng cửa đưa tin bài và hình ảnh về các cuộc biểu tình đòi dân chủ ở Hong Kong. Điều này trái với thông lệ trong quá khứ là không đưa tin nhạy cảm mà Bắc Kinh không hài lòng. Phải chăng Chính quyền thay đổi cách ứng xử và cũng đủ tự tin vì đã kiểm soát chặt chẽ giới thanh niên sinh viên học sinh.

Có gì bất thường qua sự kiện báo chí Việt Nam sôi nổi với phong trào dân chủ Hong Kong và những hình ảnh đầy ấn tượng của cuộc “cách mạng cây dù,” hàng chục ngàn người biểu tình chiếm lĩnh khu trung tâm Hong Kong và họ đã dương cao những chiếc ô để chống lựu đạn cay khỏi rơi trúng đầu hoặc để cản hơi cay, hơi hồ tiêu khi cảnh sát xịt thẳng vào đám đông. Trả lời câu hỏi này, TS Nguyễn Quang A nhà hoạt động xã hội dân sự từ Hà Nội nhận định:

“Không phải là bất thường nếu xét tới những sự thay đổi trong 4-5 tháng vừa qua. Tôi nghĩ nếu so với thời gian trước kia thì có thể coi là bất thường bởi vì người ta tránh đụng tới chuyện mà Trung Quốc và nhà cầm quyền Bắc Kinh coi là nhạy cảm trong báo chí Việt Nam. Nhưng từ tháng 5 đến giờ tình hình đã khác xa rồi.”

Nếu so với thời gian trước kia thì có thể coi là bất thường bởi vì người ta tránh đụng tới chuyện mà TQ và nhà cầm quyền Bắc Kinh coi là nhạy cảm trong báo chí VN.
-TS Nguyễn Quang A

Ông Nguyễn Quốc Thái, nguyên Tổng thư Ký Báo Doanh Nghiệp, một người có nhiều kinh nghiệm hoạt động báo chí, từ Saigon nhận định:

“Không có tờ báo nào ở Việt Nam là của tư nhân cả, tất cả báo đều là của một đoàn thể nào đó và do nhà nước chỉ đạo. Vì thế hiện tượng báo chí đưa tin Hong Kong như vậy nếu không được sự đồng ý của lãnh đạo cụ thể là Ban Văn hóa Tư tưởng thì không một tờ báo nào được đưa tin một cách rộng rãi như vậy đâu.”

Trong khi đó nhà báo Phạm Thành ở Hà Nội, người từng nhiều năm phục vụ truyền thông nhà nước có cách nhìn nhận khác về báo chí lề phải và tình hình Hong Kong. Ông nói:

“Một số báo nhà nước đưa tin dè dặt, đưa tin trong tình trạng lương tri của các nhà báo, của những người quản lý tờ báo được thức tỉnh, cộng với việc không có chỉ đạo của Ban Tuyên giáo là cấm đưa tin về biểu tình ở Hong Kong…”

vn-hk-400.jpg

Tin tức về ẩu đả giữa người biểu tình và chống biểu tình ở Hồng Kông trên báo Thanh Niên hôm 3/10/2014. Screen capture.

Phần lớn các báo lề phải do nhà nước quản lý đều có tin bài về phong trào đòi dân chủ trong bầu cử ở Hong Kong, từ các tờ báo hoạt động tự túc ngân sách cho đến Thông tấn xã Nhà nước, thể hiện qua trang mạng truy cập miễn phí là Vietnam Plus. Trang mạng VnExpress là một điển hình về đưa tin và hình ảnh nhanh chóng về phong trào dân chủ Hong Kong. Ngay từ ngày 22/9 trang mạng này đã có những tin bài và hình ảnh về cuộc biểu tình của hàng ngàn sinh viên học sinh ở khu Trung Hoàn và sau đó là sự tiếp sức của Phong trào Ocuppy Central đưa qui mô cuộc biểu tình kéo dài nhiều ngày lên hàng chục ngàn người với đủ mọi thành phần dân chúng tham gia.

Thanh Niên, một tờ báo của Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam vừa có bản in và bản điện tử, có vẻ là tờ báo đi đầu trong phong trào Hong Kong đòi dân chủ với nhiều tin bài, hình ảnh nhưng ở đỉnh điểm ngày 2/10, tờ báo có bài tường trình tại chổ “ Tường thuật từ điểm nóng Hồng Kông” với nhà báo Nguyễn Thành Trung. Blog Quê Choa khi đưa lại tin này đã có lời dẫn của chủ blog nhà báo, nhà văn Nguyễn Quang Lập, xin trích nguyên văn : “Hoan hô báo Thanh Niên! Thế mới gọi là làm báo. Ngồi thúc thủ trong lô cốt, nhặt nhạnh thông tin từ FB và ngửa mặt chờ chỉ thị của Ban Tuyên giáo…thì đó không phải là làm báo mà là đi ăn mày.”

“Tự do báo chí”

Trong câu chuyện với chúng tôi, liên quan đến vấn nhà nước Việt Nam dựa vào đâu mà không ngại phong trào đòi hỏi dân chủ ở Hong Kong có thể gây ảnh hưởng đến giới trẻ trong nước. TS Nguyễn Quang A nhận định:

Nhà nước phải biết rằng không phải những điều diễn ra ở Hong Kong sinh viên học sinh Việt Nam họ không nhìn thấy, họ không suy nghĩ hay không có ý tưởng của họ.
-Nguyễn Quốc Thái

“Tình hình của Việt Nam và Hong Kong là khác, cũng giống hệt như tình hình của Hồng Kông với tình hình của Đại lục là khác nhau một trời một vực. Ở Hong Kong giới sinh viên ít ra cũng đã được hưởng một mức độ tự do đáng kể, do chế độ thuộc địa của Anh để lại và trong thời gian vừa qua với chính sách một nước hai chế độ thì người dân vẫn được hưởng tự do gấp rất nhiều lần người dân Việt Nam ở đây cũng như người dân Trung Quốc ở Đại lục. Cả ở Trung Quốc lẫn ở Việt nam này Đảng Cộng sản kiểm soát rất chặt chẽ, họ có những mạng lưới vô cùng tinh vi và rộng khắp để quản lý giới học sinh sinh viên. Tôi nói ở đây không chỉ nói đến các tổ chức Đảng, không chỉ nói đến Đoàn Thanh niên Cộng sản, đến Hiệp hội Sinh viên mà đến rất nhiều thứ khác đụng đến khả năng học hành của các bạn trẻ, đụng đến khả năng kiếm việc, khả năng thăng tiến của các bạn trẻ. Tất cả những mối dây trói buộc ấy được siết rất là chặt đối với giới sinh viên. Tôi nghĩ họ có lo chứ không phải không lo giới sinh viên Việt Nam rồi cũng sẽ được gây cảm hứng của sinh viên Hong Kong đòi cái này cái kia…”

Theo TS Nguyễn Quang A nhà nước có lực lượng công an hùng hậu và mạng lưới kiểm soát chằng chịt, tuy họ có quan ngại nhưng mọi việc đối với họ vẫn ở trong vòng kiểm soát và họ để cho báo chí tương đối thoải mái về tình hình Hong Kong. Và cũng có thể đây là một tính toán của họ để cho quốc tế thấy rằng Việt Nam cũng có tự do báo chí. Đây là thứ tự do báo chí mà TS Nguyễn Quang A nói là cần đặt trong ngoặc kép.

vn-hk-2-400.jpg

Tin tức về biểu tình ở Hồng Kông đăng trên báo Tuổi Trẻ hôm 3/10/2014. Screen capture.

Phải chăng tất cả những rào chắn của chế độ toàn trị đã làm thui chột khát vọng dân chủ của giới trẻ Việt Nam. Thực tế cho thấy những nhà hoạt động trẻ ra công khai chỉ đếm trên đầu ngón tay và dễ dàng bị chính quyền kiểm soát hay đàn áp thẳng tay. Nhà báo Nguyễn Quốc Thái nhận định:

“Nhà nước kiểm soát rất chặt và sẽ còn kiểm soát rất chặt, sự khao khát dân chủ của sinh viên học sinh không phải không tiềm ẩn trong con người của họ. Nhưng không phải không có sợ hãi, ngăn trở, không phải không có những đe dọa. Trong hoàn cảnh nào đó sự ngăn cản, sự sợ hãi đó có thể chấp nhận được. Nhưng đến một lúc không thể chấp nhận được nữa thì mọi chuyện sẽ xảy ra. Nhà nước phải biết rằng không phải những điều diễn ra ở Hong Kong sinh viên học sinh Việt Nam họ không nhìn thấy, họ không suy nghĩ hay không có ý tưởng của họ…trong hoàn cảnh bị ràng buộc bị che chắn bởi nhiều thứ, kể cả sự sợ hãi của một số đông. Nhưng chuyện gì cũng có thể xảy ra được, nếu tất cả những điều đó nó ở trong một hoàn cảnh thích hợp phù hợp với những nguyện vọng tha thiết của họ.”

Chúng tôi ghi nhận một luồng ý kiến cho rằng, trong giai đoạn này chuyện gì làm Trung Quốc nhức đầu thì Việt Nam sẽ tận dụng bằng cách này hay cách khác. Nhà báo Nguyễn Quốc Thái trình bày ý kiến của ông:

“Chắc ông có đọc truyện Kim Dung, có một miếng võ của nhà Cô Tô Mộ Dung là ‘gậy ông đập lưng ông’. Tôi nghĩ đây cũng có thể là một thăm dò, thực sự chuyện hôm nay và ngày mai ở Việt Nam, hôm nay nói thế này ngày mai nói khác xảy ra bình thường; bạn đọc họ cũng thấy chuyện đó là bình thường. Có thể là vài ngày nữa thì những luận điểm về Hong Kong trên báo chí Việt Nam sẽ khác đi chăng?”

Tính đến ngày 2/10 biểu tình đòi dân chủ trong bầu cử ở Hong Kong đã được hai tuần khởi đầu từ cuộc bãi khóa ngày 22/9 của hàng nghìn sinh viên. Theo ghi nhận của Đài chúng tôi một số sinh viên Việt nam đang du học ở Hong Kong đã tham gia các cuộc biểu tình. Theo VnExpress, trong cuộc họp báo chiều 2/10/2014 tại Hà Nội, Bộ Ngoại giao khuyến cáo công dân Việt Nam đang ở Hong Kong tránh nơi có biểu tình để tránh tình huống phức tạp. Về mặt chính thức người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình nhấn mạnh: “Đây là công việc nội bộ của Trung Quốc, hy vọng phiá Hong Kong sẽ có biện pháp cần thiết và tích cực để bảo vệ người và tài sản của công dân Việt Nam đang ở Hong Kong.”

Có những ý kiến cho rằng, trong những ngày qua báo chí Việt Nam đã tận dụng được cơ hội thoải mái đưa tin biểu tình đòi dân chủ ở Hong Kong. Các nhà báo đã làm hết sức mình chỉ tránh một vấn đề duy nhất không nói tới. Đó là việc giới trẻ thanh niên, sinh viên, học sinh Việt Nam cũng tiềm ẩn những khát vọng dân chủ của thế giới văn minh. Nhưng những khát vọng này chưa có cơ hội để biểu tỏ hay nói cách khác là vẫn còn bị đè nén và che dấu.

Buôn bán tượng Lenin và kỷ vật Liên Xô

Buôn bán tượng Lenin và kỷ vật Liên Xô

Nguyễn Giang bbcvietnamese.com

  • 3 tháng 10 2014

Tượng Lenin trong một buổi bán đấu giá ở Hungary hồi 2010

Chỉ một ngày sau khi pho tượng lớn của Lenin ở trung tâm Kharkiv bị kéo đổ hôm 28/9, tôi đã được các đồng nghiệp từ BBC Tiếng Ukraine cho hay có người rao bán các mảnh của tượng.

Được biết chỉ mảnh tai không thôi đã nặng 35 kilogram và mũi Lenin cũng bị đem bán.

Bức hình nhóm người dùng búa đập rồi đục đẽo, cắt nát tác phẩm bằng đồng này gợi ra với tôi một hình ảnh không đẹp về mặt văn hóa.

Ta có thể hiểu rằng bối cảnh tranh chấp quân sự hai phe gần như nội chiến ở Ukraine nên vụ đập tượng này trông rất bạo lực.

Còn tại các nước có chuyển đổi thể chế ôn hòa như Ba Lan, Hungary, Tiệp Khắc sau năm 1989 tượng cựu lãnh tụ thường được di dời vào bảo tàng hay vườn lưu niệm chứ không bị dân tự phát đập rồi đem bán.

Hồi 2013, một hãng điện thoại di động Ba Lan còn dùng hình Lenin để quảng cáo và sau phải bỏ đi vì bị phản đối.

Nhưng chuyện không ưa Lenin chỉ dừng lại ở đó, không xảy ra điều gì bạo lực.

Mặt khác, hình tượng Lenin đã thuộc về một quá khứ và rơi vào nhóm sản phẩm đồ lưu niệm của Liên Xô, Đức và nhiều quốc gia Đông Âu khác sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã.

Hồi ở Ba Lan, sau năm 1991, tôi đã thấy nhiều khu chợ trời bán huân huy chương Liên Xô, kể cả các bằng khen, phần thưởng có ngôi sao đỏ, hình tượng búa liềm.

Những người bán hàng đa số là dân Nga hoặc từ vùng thuộc Liên Xô cũ.

Họ đội mũ lông có ngôi sao Hồng quân màu đỏ thắm, đứng dậm chận trong tuyết cho ấm, miệng ngậm thuốc lá, tay cầm cốc trà bốc khói để chống lại cái giá rét ngoài trời.

Có người rao bán các mảnh của tượng Lenin ở Ukraine trên trang đấu giá

Trên tấ́m nilon trải dưới đất là thôi rồi đủ thứ kỷ vật của thời Liên Xô, từ huy chương, huy hiệu, quân phục Xô – Viết, mũ mãng, thắt lưng, bao da túi sách.

Nghe nói nếu hỏi kỹ và sẵn sàng trả tiền, người bán hàng có thể dẫn bạn đến người bán có hàng là súng AK-47 hoặc lựu đạn chưa hề rút chốt.

Ở Ba Lan vào thập niên 1990, tôi không hiểu người ta mua làm gì mấy thứ hàng ‘Made in USSR’ hoặc còn nguyên tiếng Nga là CCCP.

Nhưng sang Anh năm 1999, khi ở nhờ nhà một anh bạn Ba Lan, tôi mới biết nhiều người Đông Âu đóng thùng mang sang Tây Âu hàng lưu niệm Liên Xô, từ tượng Lenin tới huân huy chương Lenin, và các giấy tờ thời Chiến tranh Lạnh.

Hóa ra ở Anh, Pháp, Đức và cả Mỹ, Canada, Israel có cả một thị trường tiêu thụ khá lớn.

Vì ở Nga thời hậu cộng sản, giao dịch trên Internet chưa phát triển nên những người Ba Lan ‘khôn ngoan’ đã dùng hệ thống bưu chính Anh và Đức để bán hàng đi khắp thế giới.

Người mua có hai loại, theo như anh bạn tôi, Krystian giải thích.

Một là giới sưu tập chuyên nghiệp mua để giữ giá rồi bán lại vào các bảo tàng hoặc trên thị trường cổ vật.

Hai là giới amateur, tức là hiếu kỳ thì mua về để trong nhà vì ưa của lạ.

Nhưng còn nhóm thứ ba, đông hơn, ít tiền hơn nhưng mua kỷ vật vì có liên hệ tình cảm gì đó với khối cộng sản cũ.

Cũng không lạ, vì vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến, hàng cả triệu người từ phía Đông của châu Âu di cư, chạy loạn sang phía Tây trong khi thân nhân của họ ở lại bên kia Bức màn sắt.

Không tính Đức bị chia cắt mà rất nhiều công dân Anh, Mỹ, Canada, Israel đều có bà con họ hàng hoặc tổ tiên ở Ba Lan, Nga, Ukraine, Bulgaria, Hungary, Tiệp Khắc…

Có người tìm mua cả những tài liệu, bản đồ, sách báo về các thành phố cụ thể ở khắp vùng Liên Xô cũ.

Một quảng cáo điện thoại ở Ba Lan hồi 2013 dùng hình Lenin

Có người ưa tìm đồ quân sự cũ (militaria) và có ông là lính Bạch Vệ nhưng lại tìm mua những thứ của phe Hồng quân.

Và khác với các vật phẩm của Đức Quốc xã (Nazi) bị cấm buôn bán, ‘hàng đỏ’ từ Liên Xô được mua đi bán lại thoải mái.

Giá thị trường

Nhưng gần đây, khi hỏi lại người bạn Ba Lan về chuyện buôn bán huân huy chương của thời cộng sản Đông Âu mà anh cũng có tham gia ít nhiều thì tôi được nghe là thị trường này đã hoàn toàn ế ẩm.

Mấy năm gần đây, các trang chuyên kinh doanh cổ vật, đồ sưu tập bằng tiếng Anh đã mở chi nhánh ngay tại Nga và vùng thuộc Liên Xô cũ, và người ta mua bán trao đổi trực tiếp, không cần mấy người Ba Lan làm trung gian.

Nhưng cũng vì Liên Xô đã đúc ra quá nhiều tượng Lenin, dập ra quá nhiều huân chương các loại nên hàng này cũng bắt đầu bị ế thảm hại.

Nhà anh bạn Ba Lan của tôi còn vài ký lô huy chương mang hình Lenin, nay để xó nhà.

Vào kiểm các trang đấu giá như eBay hay www.invaluable.co.uk tại Anh tuần này, tôi thấy giá tượng bán thân hoặc tượng chân dung (chỉ có đầu) của Lenin được rao bán (bidding) chỉ từ khoảng 118 tới 149 bảng.

Thậm chí tại Mông Cổ, theo trang www.paulfrasercollectibles.com hồi 2012, sau khi bức tượng Lenin 58 tuổi ở Ulan Bator bị kéo đổ, giá rao bán của nó chỉ bắt đầu ở mức 300 USD.

Khác với tranh thánh của đạo Chính Thống (chủ yếu ở Nga và Bulgaria) vốn ngày càng trở nên hiếm hoi nên luôn được giá, nay chỉ những vật phẩm gì có ý nghĩa lịch sử cụ thể mới có khách mua.

Tài liệu và huy chương Lenin trưng bày tại Bulgaria sau thời cộng sản

Chẳng hạn một lá thư từ năm 1915 do Lenin ký tên nói về một hội nghị của đảng Xã hội Nga đã được bá́n trên mạng đấu giá ở Hoa Kỳ năm 2010 với giá 12500 USD.

Gần đây, một huy chương nạm vàng do cơ quan công an khét tiếng NKVD của Liên Xô cũ trao tặng cho một sỹ quan an ninh nhân kỷ niệm 10 năm cách mạng Nga, được rao bán với giá 19 nghìn USD ở Mỹ.

Hàng lạ, như một tấm huy chương Liên Xô đúc năm 1992 (sau khi quốc gia này tan rã năm 1991 nhưng nhà máy vẫn tiếp tục sản xuất) lại có giá hơn huy chương đúc ra đúng kỳ hạn.

Thị trường hóa ra chỉ cần ‘của hiếm’, gắn liền với những sự kiện lịch sử hay cá nhân cụ thể.

Điều nghịch lý là Lenin khi sống đã cố gắng xóa các tôn giáo nhưng sau khi chết lại bị Liên Xô biến thành một thứ ngẫu tượng để tôn thờ và tạo ra nạn lạm phát hình tượng của ông.

Xét cho cùng, dù có những ở người Việt Nam vẫn kính trọng Lenin nhưng cả họ và ông đều không thắng được những quy luật của lịch sử và nguyên tắc thị trường.

Những biểu tượng Lenin để lại đã nói lên một thời vinh quang và tàn khốc của Liên Xô, và cũng chỉ một thời mà thôi.

 

KINH KÍNH MỪNG – LỜI KINH CẦU CHO HÒA BÌNH

KINH KÍNH MỪNG – LỜI KINH CẦU CHO HÒA BÌNH

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

1. Kinh Kính Mừng

Kính mừng Maria đầy ơn phúc

Đó là câu đầu tiên trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn thường xuyên đọc nhất là trong tháng Mười. Nhưng nguồn gốc của lời Kinh này phát xuất từ miệng sứ thần Gabriel khi chào kính Đức Maria lúc truyền tin (Lc1,28). Đức Maria là Đấng đầy ơn phúc như lời sứ thần nói, vì có Thiên Chúa ở cùng. Phúc của Mẹ thật cao với khôn sánh, lời bà Ê-li-sa-bet xác nhận : ” Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc“. Ai có Thiên Chúa ở cùng, người ấy được đầy ơn phúc. Đức Maria là người diễm phúc không chỉ Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, mà Mẹ còn cưu mang Thiên Chúa ngay trong lòng mình nữa.

Những lời của sứ thần Gabriel và của bà Ê-li-sa-bet trên đây đã được Giáo hội dùng để chúc tụng ngợi khen Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Đồng thời Giáo hội thêm vào đó lời cầu khẩn Mẹ thương nâng đỡ phù trì “Thánh Maria ĐứcMẹ Chúa Trời… và trong giờ lâm tử”.

Phụng vụ mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay, dựa trên trang Tin Mừng (Lc 1,26-38) lại dìu ta về với “Đức Maria đầy ơn phúc“. Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, và Con lòng Mẹ gồm phúc lạ. Thế nên Giáo hội không ngớt lời lặp đi lặp lại danh xưng hạnh phúc này : “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” để tôn vinh Mẹ Maria. Đức Maria là người hạnh phúc vì Mẹ đã đón nhận hồng phúc, được tuyển chọn để cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Đấng Cứu Thế, là Mẹ Thiên Chúa. Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Maria cũng rất hạnh phúc khi được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa.

Mẹ được đầy ơn phúc, Mẹ cũng muốn cho con cái mình hạnh phúc, vì mẹ nào mẹ chẳng thương con. Nên khi con cái lầm đường lạc lối, sa lầy trong tội, Mẹ đã mở rộng vòng tay, dẫn lối chỉ đường cho con người đạt tới hạnh phúc với lời nhắn nhủ : “Hãy ăn năn đền tội, hãy năng lần hạt Mân Côi“. Làm theo lời dặn dò của Mẹ, Hội Thánh đã thoát nhiều cơn giông tố hiểm nguy xác hồn, phá tan được bao bè rối, mang lại bình an trong tâm hồn.

2. Ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng

Chính Mẹ đã dạy chân-phước Alanô : “Bất-cứ ai trung thành đọc Kinh Mân Côi và suy ngắm những Mầu Nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết“.

Thánh Bênađô nói : “Kinh Kính Mừng làm cho Quỉ Dữ trốn chạy, Hỏa Ngục run sợ“.

Còn thánh Bônaventura nói : “Mẹ Maria chúc phúc cho những ai đọc Kinh Kính Mừng“.

Theo thánh Montfort “Những người rối đạo, những người vô tín ngưỡng, những người kiêu căng chê ghét hay khinh thị Kinh Kính Mừng, là những người có dấu bị trầm luân Hỏa-Ngục. Không có gì có hiệu-lực được lên Nước Thiên Chúa bằng đọc Kinh Mân Côi“.

Thánh Anphongsô “Nhờ Kinh Mân Côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trên đường trọn lành. Biết bao người được ơn chết lành và hưởng phúc Thiên đàng“.

Kinh Mân côi là kinh chính Ðức Trinh Nữ đã khuyến khích khi hiện ra với Cô Bernardette ở Lộ đức (1858) cũng như trong các lần hiện ra với ba em mục đồng Lucia, Phanxicô và Giaxinta 6 lần từ 13 tháng 5 tới 13 tháng 10 năm 1917. Cả 6 lần Đức-Mẹ đều thúc-dục : “Các con hãy tiếp tục đọc Kinh Mân Côi hằng ngày“. Và nhất là : “Các con hãy đọc kinh Mân côi để cầu nguyện cho hòa bình“.

3. Lời kinh cầu cho hòa bình

Chúng ta đang sống trong một tình hình quốc tế đầy những căng thẳng, càng ngày càng gia tăng, khiến ngày mùng 07 tháng 9 năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô phải mời gọi cả Hội Thánh ăn chay cầu nguyện cho hòa bình tại Syria và những nơi bạo lực đang hoành hành. Lời cầu của Hội Thánh đã được nhận lời, chiến tranh đe dọa Damacus đang qua đi, nhưng tại Trung Đông, Ai Cập, Triều Tiên và cả Thánh Địa xem ra Hòa Binh vẫn vắng bóng. Năm nay, năm 2014, Đức Thánh Cha đã kêu gọi thế giới nhiều lần cầu nguyện cho Irắc, không những kêu gọi cầu nguyện cho hòa bình tại Israel và Palestin mà còn tổ chức cầu nguyện với nguyên thủ quốc gia cả hai nước. Trong tình hình hiện nay, chỉ biết chạy đến với Thiên Chúa, để khẩn xin hòa bình cho thế giới và. Việc làm trong tháng này là hãy lần hát Mân Côi, như Giáo hội vẫn thường làm trong các cơn túng cực. Vì chỉ có lời cầu nguyện mới vượt  qua được các biên giới các quốc gia và các ngăn cách của thù ghét cũng như không hiểu nhau, mới đem lại bình an cho nhân loại. Chúng ta hướng về Ðức Maria, Nữ vương hòa bình, và khẳng định rằng, nơi nào thiếu hòa bình, nơi nào con người tỏ ra bất lực hay không muốn dẹp đi mầm mống thù ghét và chết chóc, thì việc trợ giúp phải đến từ Trời. Chính Ðức Maria, Nữ vương hòa bình, Ðấng đem chúng ta trở lại với Chúa Cha.

Trước những thế lực mạnh hơn, chúng ta thường cảm thấy bất lực. Khi nghĩ đến sức mạnh của những thế lực trên trái đất này định đoạt số phận của nhân loại, chúng ta cảm thấy bị giới hạn và bất lực, chúng ta chỉ biết tin tưởng vào lời cầu nguyện mà thôi, chúng ta tin cậy vào một sức mạnh lớn hơn, là Thiên Chúa. Ðức Maria, như gương mẫu của sự phó thác hoàn toàn cho thánh ý Chúa. Và với tình mẫu tử, Mẹ sẽ dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Kitô, theo dõi chúng ta trên đường đến với Chúa Cha, Ðấng có thể cải hóa và làm cho các tâm hồn con người tùng phục thánh ý của Người.

Vậy kinh Mân Côi càng có lý do hơn nữa để xúc tiến hòa bình, một hoà bình cho tới nay vẫn chưa trở lại. Với lời Mẹ Maria dạy và kinh nghiệm của các thánh về ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng, chúng ta hãy sốt sáng đọc kinh Mân Côi, để cầu nguyện cho bản thân, cho gia đình, cho Giáo hội, cho quê hương và cho toàn thế giới.

Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi, cầu cho chúng con.

Nữ Vương bình an, cầu cho chúng con. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

THÁNH PHANXICÔ ASSISI, SỨ GIẢ HÒA BÌNH

THÁNH PHANXICÔ ASSISI, SỨ GIẢ HÒA BÌNH

Ngày 04-10 hàng năm, Giáo Hội kính nhớ một vị thánh được nhắc nhớ, yêu mến và tôn kính nhiều nhất, đó là Thánh Phanxicô Assisi, vị sứ giả hoà bình.  Cuộc sống của ngài thật đơn sơ thanh thoát, sống hòa bình, thực thi hòa giải, đã trở thành lý tưởng cho con người của mọi thời đại.

1. Thánh Phanxicô chọn nếp sống nghèo khó

Phanxicô chào đời vào khoảng cuối năm 1182, tại thành Assisi phía bắc Rôma.  Cha của ngài là ông Phêrô Bênađônê, một thương gia chuyên nghề bán len dạ.  Mẹ là bà Pica, một phụ nữ hiền đức.  Cậu Phanxicô rất hào hoa, lại được gia đình giàu có nuông chiều, nên mặc sức ăn chơi phung phí.  Mộng công danh thôi thúc, Phanxicô theo bá tước Gauthie de Brienneur đi chinh phục vùng Apulia, gần thành Assisi.  Nhưng ý Chúa nhiệm mầu đã khiến Phanxicô đau nặng và bắt buộc phải trở về quê hương.  Lần này, tuy vẫn ăn chơi như trước, nhưng Phanxicô cảm thấy những thú vui xưa kia dần dần mất hết ý nghĩa.  Thế rồi Phanxicô đi tìm lý tưởng cao đẹp hơn.  Một hôm, lúc đang cầu nguyện trong nguyện đường Đamianô nhỏ bé, Phanxicô nghe tiếng Chúa phán ra từ cây Thánh Giá: “Phanxicô, con hãy đi sửa lại ngôi đền thờ của ta đang đổ nát!”  Phanxicô hiểu câu nói này cách nông cạn, nên tình nguyện đi xin từng viên đá đem về sửa lại các Nhà thờ cạnh Assisi.  Trong hai năm, ngài đi hành khất, sống ẩn dật và sửa sang ba nhà thờ đổ nát trong miền Assisi: nhà thờ Thánh Đamianô, nhà thờ Thánh Phêrô và nhà thờ Đức Bà Porziuncula.  Phanxicô chưa hiểu rằng, ngôi đền thờ mà Chúa muốn nói chính là Hội Thánh.

Ngày 24-2-1208, đang dự lễ, Phanxicô nghe được đoạn Phúc Âm: “Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng… Các con đừng mang theo tiền bạc, bao gậy…” (Mt 10, 10).   Phanxicô nhận ra tiếng gọi của Chúa, nên quyết tâm triệt để sống khó nghèo và theo Chúa trên con đường Thập Giá (Mt 19, 21 ; Lc 9, 1-6 ; Mt 16, 24).   Phanxicô công khai từ bỏ cha ruột của mình để thuộc trọn về Chúa.  Ngài từ bỏ những cuộc vui chơi tiệc tùng với bạn bè để đi giúp những người phung cùi, những kẻ vô gia cư và những người bị xã hội khai trừ.  Với tình yêu sự khó nghèo, Phanxicô yêu những người nghèo, những bệnh nhân.  Ngài nhìn thấy Chúa Giêsu ở nơi họ.  Ngài chỉ muốn giống Chúa Giêsu cách trọn vẹn trong khó nghèo, trong tình yêu, trong sự giảng dạy và trong đau khổ.

Lối sống của ngài thu hút trước tiên hai anh bạn đồng hương: anh Bernađô Cantavalê giàu có và anh Phêrô Catanê, nhà giáo luật.  Tiếp đó có 9 anh khác nhập đoàn.  Họ trở thành 12 “người đền tội” và lữ hành, không nhà cửa hoặc nơi cư trú cố định.  Lúc đầu Phanxicô soạn một ít quy luật sống và đã được Đức Giáo Hoàng Innôxentê III chấp thuận bằng miệng; cuối cùng, ngài viết ra bản Luật Dòng Anh em Hèn mọn và đã được Đức Giáo Hoàng Hônôriô III phê chuẩn năm 1223 bằng sắc dụ.

Phanxicô bị giằng co giữa một đời sống tận hiến cho sự cầu nguyện và một đời sống tích cực rao giảng Tin Mừng.  Và ngài đã quyết định theo đuổi đường lối sau, nhưng luôn luôn trở về sự tĩnh mịch bất cứ khi nào có cơ hội.  Ngài muốn đến truyền giáo ở Syria và Phi Châu, nhưng trong cả hai trường hợp ngài đều bị đắm tàu và đau nặng.  Ngài cũng cố gắng hoán cải các vua Hồi Giáo ở Ai Cập trong lần Thập Tự Chinh thứ năm.

Trong những năm cuối cùng của cuộc đời ngắn ngủi (ngài từ trần khi 44 tuổi) ngài gần như mù và đau nặng.  Hai năm trước khi chết, ngài được in năm dấu thánh, là những vết thương của Ðức Kitô ở tay chân và cạnh sườn của ngài. Trong giờ phút cuối cùng, ngài lập đi lập lại phần phụ thêm của Bài Ca Anh Mặt Trời, “Ôi lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì người Chị Tử Thần.”  Ngài hát Thánh Vịnh 141, và khi đã đến giờ lìa đời, ngài xin cha bề trên cho ngài cởi quần áo ra để nằm chết trần truồng trên mặt đất, giống như Ðức Giêsu Kitô.  Ngài qua đời vào tối ngày 3-10-1226.  Đức Giáo Hoàng Grêgôriô IX đã phong ngài lên bậc hiển thánh vào ngày 16-7-1228.

2. Thánh Phanxicô được nhận Năm Dấu Thánh

“Sáng tinh sương ngày 14 tháng 9 năm 1224, tức là ngày lễ Suy tôn Thánh giá, trên đỉnh Alverna đã xảy ra một phép lạ tân kỳ.  Lúc mặt trời gần dãi lên nền trời những tia sáng vàng tươi, Phanxicô quì tựa lưng vào một tảng đá, hướng về phương đông, mắt tuôn đôi hàng lệ, ngài than thở: “Lạy Chúa, trước lúc qua khỏi đời này, con chỉ xin Chúa ban cho con hai ơn: một là, xin Chúa cho tâm hồn cũng như thể xác con cảm thông hết nỗi đau đến thê thảm Chúa chịu trong giờ tử nạn; hai là, xưa kia khi Chúa tử nạn, Chúa yêu loài người tội lỗi chúng con đến độ nào, thì xin cho lòng con cũng được yêu Chúa đến độ ấy.”  Bỗng vụt như làn chớp, một thiên thần Chí ái tự trời bay xuống.  Sáu cánh chói loà.  Hai cánh phủ đầu, hai cánh dương bay và hai cánh khép che toàn thân.  Thiên thần hiện xuống đứng trên phiến đá, rõ hình một người chịu đóng đinh vào thánh giá.  Thiên thần ấy chính là Chúa Giêsu tử nạn, mặc hình người hiện đến với Phanxicô.  Ngài nhìn Phanxicô, đôi mắt như thiết tha, như thiêu cháy cả tâm hồn rồi vụt biến.  Phanxicô quỵ xuống, ngất đi.  Khi bừng tỉnh dậy, ngài thấy tay chân đã bị đinh đóng thâu qua.  Đầu đinh tròn và đen nổi rõ giữa lòng bàn tay và trên mặt bàn chân.  Đinh đóng thâu qua tay chân, mũi đinh quắp lại trên lưng bàn tay và giữa gan bàn chân.  Ngực bên phải, cạnh trái tim, dấu một lưỡi đòng đâm qua còn nguyên nét, máu chảy rìn rịt thấm ướt đến tận lớp áo ngoài.”

Phép lạ Năm Dấu là lời đáp trả ân cần của Chúa cho bao nỗi khao khát và bao nỗ lực của Phanxicô để được nên giống với Người trong cuộc thương khó.

Nhìn lên huy hiệu và khẩu hiệu của Dòng Anh Em Hèn Mọn, người ta có thể biết phần nào nền linh đạo Phan sinh.  Khẩu hiệu đó là: Caritas (Tình yêu) và huy hiệu là một thập giá với hai cánh tay bắc chéo nhau, một của Chúa Kitô và một của Thánh Phanxicô sau ngày lãnh Năm Dấu.  Nghèo khó, khiêm hạ, phục vụ vô điều kiện, yêu mến cách riêng những người nghèo khổ bé mọn … là hậu quả tất nhiên của việc thường xuyên chiêm ngưỡng thánh giá và lòng yêu mến Chúa Giêsu chịu đóng đinh. (Lm Nguyễn Hồng Giáo. ofm)

3. Phanxicô, sứ giả hoà bình

Khi thánh Phanxicô cư ngụ tại Agodio, có một con chó sói hung dữ đã xuất hiện, quấy nhiễu và gieo rắc tai họa cho mọi người.  Mỗi lần đi ra ngoài, ai ai cũng phải trang bị khí giới sẳn sàng giao chiến với con thú dữ, có người sợ đến nỗi không dám ra khỏi nhà.  Thấy vậy, ngày nọ thánh nhân quyết định đến chạm chán với con thú dữ, Ngài làm dấu thánh giá, đặt tất cả tin tưởng vào Chúa, rồi tiến thẳng đến trước mặt con vật.  Vừa thấy thánh nhân, con vật nhe răng và chuẩn bị tấn công, nhưng thánh nhân không lùi bước.  Ngài tiến lại gần, làm dấu thánh giá và gọi nó lại.  Ngài nói với nó như trò chuyện với một con người: Này anh sói, anh lại đây, nhân danh Chúa Kitô tôi truyền cho anh đừng hãm hại ai nữa.”

Như một phép lạ, con chó sói hung dữ ngoan ngoãn khép miệng lại và quấn quýt bên thánh nhân, thánh nhân lại tiếp tục bài giảng: “Này anh sói, anh đã gây ra không biết bao thiệt hại cho vùng này, anh giết hại những tạo vật của Chúa mà không có phép Ngài, anh không những sát hại súc vật mà còn giết hại cả loài người là hình ảnh của Thiên Chúa nữa, anh đáng bị trừng phạt vì tội giết người, ai cũng ca thán kêu ca vì anh.  Nhưng tôi, tôi muốn giảng hoà giữa anh và họ để anh không còn hãm hại ai nữa.”

Thánh nhân vừa nói xong những lời đó thì con sói vặn mình ra chiều sám hối và chấp nhận đề nghị của Ngài, thánh nhân nói tiếp:  “Này anh sói, hẳn anh thích được làm hoà với mọi người.  Tôi hứa rằng: bao lâu anh còn sống anh sẽ không bị đói khát nữa, anh có hứa với tôi là sẽ không hãm hại bất cứ người và vật nào nữa không?  Con vật cúi đầu như đoan hứa, thánh nhân đặt tay trên nó và đại diện cho thị dân Agodio long trọng cam kết những lời Ngài vừa hứa với con chó sói.”

Con chó sói đã được sống 2 năm tại Agodio, ngày ngày ra vào bất cứ nhà nào như chính nhà của nó, nó không làm hại ai mà cũng chẳng ai hãm hại nó, sau 2 năm, con vật qua đời giữa tiếng thương khóc của dân Agodio.

Giai thoại về con chó sói Agodio và bài ca vạn vật của thánh Phanxicô chứng minh ngài là hiện thân của hoà bình, là sứ giả của bất bạo động.  Ngài giao hòa với vạn vật, với thiên nhiên, với chim trời, với núi rừng, với không khí, với nước non.  Chỉ với một tâm hồn thanh thản và hài hoà với thiên nhiên với con người như thế mới có thể xây dựng hoà bình.  Thánh Phanxicô chính là vị sứ giả hoà bình.

Tình huynh đệ của Phanxicô không dừng lại nơi loài người, nhưng còn nới rộng ra tới mọi tạo vật, sống động cũng như vô tri vô giác trong vũ trụ.  Ngài không coi tạo vật là xấu xa, nguy hiểm phải đề phòng.  Ngài cũng không có thái độ chủ nhân ông, nhìn tạo vật chỉ là đối tượng cho mình khai thác tùy thích.  Nhưng ngài thiết lập một mối quan hệ thân ái, hài hòa với mọi vật.  Ngài đã sáng tác “Bài ca vạn vật” để ca ngợi mọi công trình tạo dựng của Thiên Chúa: mặt trời, mặt trăng, tinh tú, gió, nước, lửa, trái đất với ngàn hoa, cây cỏ và trái trăng.  Ngài gọi tạo vật là anh, chị: anh Cá, anh Chim, chị Trăng, chị Nước… không chỉ theo nghĩa thi phú, mà theo một cảm nghiệm sâu xa rằng tất cả đều là công trình của Cha trên trời và mang dấu ấn của tình thương.

Phanxicô muốn người ta quí chuộng thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên; ngài dạy các môn đệ mình khi đốn cây sử dụng theo nhu cầu, thì đừng chặt tận gốc, để cây còn có thể đâm chồi mới.  Con người thời đại chúng ta có thể học biết bao nhiêu điều nơi thái độ của thánh nhân.  Chắc chắn Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nghĩ như thế khi ban Tông Thư ngày 29-9-1979 công bố thánh Phanxicô là bổn mạng các nhà môi sinh học.  Suốt cuộc đời, Thánh Phanxicô luôn quan niệm sống là sống với, sống chung chan hòa với con người và muôn tạo vật.

Lạy Chúa, nhờ lời cầu bầu của thánh Phanxicô, xin cho chúng con biết yêu chuộng hoà bình, hòa bình với mọi người và nhất là với những người đối nghịch với chúng con. Xin cho lời kinh Hoà Bình mà thánh Phanxicô để lại được thấm vào tim, vào phổi, vào khối óc của chúng con biến chúng con thành người sứ giả hoà bình của Chúa. Amen.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

 

Mây, sao còn bay mãi không quay về đây?

“Mây, sao còn bay mãi không quay về đây?”
“Sao còn lờ lững che ngang, rừng cây.
Sao còn hờ hững với tôi, từng giây.
Hay còn mơ nghĩ đến ai nào đây”?

(Nhạc Ngoại Quốc – Lời Việt: Mây Lang Thang do Nam Lộc viết)

(1Cor 15: 10-11)

Trần Ngọc Mười Hai

Mây bay mãi, không quay về đây, điều đó thật dễ hiểu. Nhưng nếu hỏi mây: “Sao còn hờ hững với tôi từng giây, hay còn mơ nghĩ đến ai nào đây?” thì bố ai mà trả lời cho đúng được. Còn khó hơn cả cái trò “Đố vui để …chọc” nữa, nếu bạn lại cứ hát và cứ hỏi những câu nghe phát khiếp, như sau:

“Mây, xin dừng chân đến bên tôi, một đêm.

Xin đừng bay chốn môi hôn, thật êm.

Xin đừng nghe gió dâng lên, thật cao.

Xin đừng ân ái với muôn, vì sao”.

(Nam Lộc – bđd)

Hát như thế, kể cũng khá ư là lấn cấn. Lấn và cấn hơn nữa, vẫn là câu hát đầy những xót xa suốt một đời, chỉ vì yêu! Thôi thì, hỡi bạn và hỡi tôi, ta cứ nghe xong bài hát đã, rồi sẽ biết.

“Đời tôi đã, xót xa nhiều cũng vì yêu!

Niềm thương nhớ, biết đến bao giờ làm mây quên lãng!

Chào mây nhé, mây bay về, về phía trời cao!

Ôi niềm ao ước, mối tình tha thướt, như làn mây lướt!”

(Nam Lộc – bđd)

Chao ôi, những lời là lời và cũng là lời lẽ, rất tiếng Việt! Lời Việt, nhiều lúc cũng thấy nói: “xót xa một đời, cũng vì yêu!” Ôi chao! nhạc và lời. Nhạc và lời đây, muốn nói lên một nhận-định gồm những nhắn nhủ gửi đến mọi người, mỗi khi yêu.

Vâng. Có thể là như thế. Như thế, tức: nghệ-sĩ đời, nay vẫn cứ là hay hát những lời tình-tứ rất nhiều tình-tự như “lang thang” nhiều mây xám, xót xa nhiều, chỉ vì yêu! Ấy vậy mà, mây mưa vần vũ lại vẫn yêu hoài và yêu mãi, rất lang thang/lảng vảng giống như mây! Vâng. Một khi đã có tình-tự đầy những mây mưa, trăng gió, với bão lòng, thì nghệ sĩ nhà mình còn muốn hát, thêm một câu như sau:

“Mây, mây buồn mây khóc mỗi khi vào mưa.

Hay là mây nhớ mối duyên tình xưa.

Khi tình chưa biết đớn đau là chi,

Khi dòng nước mắt chưa hoen vào mi.”

(Nam Lộc – bđd)

Mây mà cũng biết buồn biết khóc sao? Biết cả đến nói đùa như những điều tai nghe mắt thấy được cả những chuyện tưởng như thật. Thật ra thì, không chỉ mỗi người nghe và người thấy là biết được điều ấy mà thôi, nhưng cả người hát những lời như thế đấy, cũng thấy thoải mái với những lời từ đấng bậc vị vọng ở trên cao, rất Giáo-hội! Những lời lẽ rất hài-hước rất đáng cười rộ như sau:

“Hôm ấy, ngày Tình-nhân năm 2014, Đức Giáo Hoàng Phanxicô có bài nói chuyện với các cặp vợ chồng, nam nữ thứ thiệt. Rồi, trong một thoáng rất nhanh, hầu như để minh-hoạ cho những điều tốt/xấu gặp phải trong đời chồng/vợ, Đức Phanxicô bèn có lời nhắn với người nghe như một sự thật, rằng: Anh chị em, đừng tỏ ra hãi sợ khi phải giáp mặt với các khó khăn trong đời vợ/chồng…

Mọi người chúng ta đều đã biết: chẳng bao giờ có cái-gọi-là gia-đình trọn-hảo hết. Cũng chẳng khi nào lại có cái-gọi-là người-chồng-lý-tưởng, hết. Người chồng hoặc người vợ lý-tưởng, chẳng bao giờ xuất hiện trên cõi đời này… Nói đến đây, Đức Giáo Hoàng bèn ứng-khẩu bằng câu nói: ‘Tôi đây, dù cũng có mẹ/có cha nhưng chả bao giờ có cái-gọi-là “bà già vợ” hết, nhưng trong suốt đời mình, tôi cũng từng chiến đấu không ngừng nghỉ với những Satan, rất đầy mình… giống như thế. Nói đến đây, tôi sực nhớ đến câu hỏi: có gì khác biệt giữa cái mà bên tiếng Anh người ta gọi là “Out-laws” (tức: những người sống ngoài vòng pháp-luật) và “In-laws” (tức: “xuôi-gia” hoặc “oan-gia” bên tiếng Việt). Nhưng, thực tế vẫn có câu: “The outlaws are always wanted, but not in-laws”.. (tức: người sống ngoài vòng pháp-luật luôn được chiếu-cố vẫn rất muốn, còn hai bên xuôi-gia thì không!). Nói đến đây, Đức Giáo Hoàng bèn nhớ lại câu chuyện khá buồn cười về các bà mẹ vợ/mẹ chồng rất “in-laws”, bèn kể lại như sau:

Có lần đi sở thú để tham quan/thư giãn, tôi chợt thấy tự dưng có người đàn ông cứ hớt-hơ hớt-hải chạy đến chỗ tôi yêu cầu một điều gì xem chừng quan-trọng lắm. Không để cho người này kịp phân-trần, tôi bèn hỏi trước:

-Chuyện gì thế anh?

-Dạ thưa cha. Cũng vẫn chuyện bà má vợ của con mà ra thôi!

-Cha chả, chắc anh đây lại gặp rắc rối với bà má vợ rồi phải không?

-Dạ không phải thế đâu, thưa Cha. Chả là: bà má vợ của con sơ ý thế nào đó, té ngay xuống chuồng nuôi nhốt mấy chú cá sấu ở đằng đó, mà thôi!…

-Thế, anh muốn tôi làm gì cho anh đây? Nhảy xuống đó để cứu cụ bà má vợ anh hả?

-Dạ, không dám đâu. Con chỉ xin Cha cầu nguyện nhiều cho mấy cá sấu đáng thương ấy, thôi!”

(Truyện kể trên mạng: Pope Francis meets lovers for St Valentine’s jokes about mother-in-laws, Philip Putella 14/2/2014)

Quả là, Tây với Ta hay Tầu, đâu cũng có khác-biệt trong đối-xử với xui-gia hoặc oan-gia, có bà má chồng/má vợ, ở nhà. Với người Việt, thì chỉ “bà mẹ chồng” mới thành chuyện. Còn bên Tây, người ta chỉ “ái-ngại” mỗi “Bà dzà dzợ” thứ thiệt, chứ chẳng chơi.

Lại cũng thế, điều khác-biệt giữa người thường ngoài đời và đấng bậc ở trong Đạo, là như câu hát: “Đời tôi đã xót xa nhiều, cũng vì yêu” thấy cũng “sợ”. Sợ ở đây, không chỉ mấy chú cá sấu dữ-tợn đang đói bụng, mà là: sợ ai đó chỉ vì mỗi chữ “yêu” hoặc “ghét”, thôi! Cũng vì, quá yêu vợ/yêu chồng, nên mới sợ?

Sợ hay không, những ai có kinh-nghiệm từng-trải về chuyện yêu-đương hay đương yêu, mới biết được. Sợ ở đây, thật ra cũng chẳng là sợ “sự-thật-mất-lòng”, ai nào biết.  Thôi thì, hôm nay, đề-nghị bạn/đề-nghị tôi, ta cứ để đó mọi chuyện, hạ hồi phân-giải. Nay, hãy đi vào phần “phiếm loạn” cho mọi người nhờ.  Nhưng, trước khi đi vào đoạn “phiếm” khá tương-đối, lại cũng xin đề-nghị bạn/đề-nghị tôi, ta nghe thêm đôi câu hát để nghĩ tiếp:

“Mây, mây còn phiêu lãng đến bao giờ đây?

Mây còn ngơ ngác lang thang về đâu?

Xin dừng chân nói với nhau một câu.

Xin đừng câm nín vơi nhau dài lâu”.

(Nam Lộc – bđd)

Vâng đúng thế. “Xin đừng câm nín với nhau dài lâu” nhưng hãy cứ phiếm. Phiếm, bằng sự thể kể ra đây đôi điều vẫn cần bàn, ở chốn thị thành, như sau:

“Anh chị em thân mến,

Hôm nay tôi viết thư này gửi đến anh chị em nhân ngày lễ Đức Mẹ Dâng Chúa Vào Đền thờ. Thánh-sử Luca cho ta biết: đã từ lâu, Đức Mẹ và thánh Giuse vẫn tuân-giữ luật Môsê, nên đã quyết-định đem Hài Nhi Giêsu vào Đền thờ mà dâng Ngài lên Thiên-Chúa. Và khi ấy, có người đàn ông tên Simêôn, là người công-chính, mộ-đạo và có cả bà Anna được Thánh Thần Chúa thúc đẩy đã ra đi gặp các ngài, nên nhận ra được Hài Nhi Giêsu đích-thực là Đấng Thiên-Sai, Chúa gửi đến. Ông Simêôn lúc ấy đã xin bồng/ẵm Hài Nhi trên tay mà chúc tụng Thiên-Chúa rồi nói: cuối cùng thì ông cũng đã “thấy” được ơn cứu-chuộc tỏ ánh vinh-quang trên dân Người.

Và thánh Anna, dù đang ở tuổi cao niên, cũng thấy được nguồn sinh-lực mới giúp bà khởi sự nói cho mọi người biết về Hài Nhi Đức Chúa. Đây là hình-ảnh tuyệt đẹp: bậc cha mẹ trẻ hiệp cùng với hai vị cao niên được Chúa run rủi để gặp gỡ nhau. Hài Nhi Đức Chúa là Đấng đem mọi người đến với nhau và nối-kết mọi thế-hệ được hiệp-thông yêu thương lẫn nhau. Ngài là suối-nguồn tình-yêu đã vượt qua mọi giai-đoạn tự lôi kéo mọi sự về mình, bứt phá tâm-trạng lẻ loi, buồn bã. Bằng vào hành-trình rong ruổi theo cách của gia-đình đùm bọc, anh chị em vẫn cùng nhau san sẻ nhiều thời-khắc quý-báu trong đời, như: cùng ăn uống, ngơi nghỉ, làm việc lao động, giải-trí cũng như cầu-nguyện hoặc đi hành hương đây đó, vẫn là những giờ phút hỗ trợ nhau.

Đàng khác, nơi nào không có tình yêu-thương, ở đó chẳng bao giờ có niềm an vui,êm ấm. Và tình-yêu đích-thực chỉ đến với ta từ Đức GIêsu mà thôi. Ngài phú-ban cho ta lời lẽ chiếu sáng con đường ta rong ruổi trên đường đời và Ngài còn ban cả Bánh sự sống phụ giúp ta trong chuỗi ngày rong ruổi đường dài ấy.

Anh chị em trong các Gia đình thân mến,

Lời lẽ và tâm tình anh chị em nguyện cầu cho Thượng Hội Đồng Giám mục sắp diễn ra nơi đây, sẽ là thứ vàng bạc/châu báu làm giàu Hội thánh ta. Tôi xin gửi lời cảm tạ và cũng xin anh chị em thêm lời cầu nguyện cho tôi , để tôi có sức phục vụ dân con của Chúa trong sự thật và tình thương-yêu. Cũng xin Mẹ rất thánh và thánh Giuse luôn tháp-tùng tất cả anh chị em và giúp anh chị em vững bước trong yêu-thương và chăm sóc, đùm bọc lẫn nhau. Giờ này đây, tôi thật lòng khẩn nài Thiên Chúa đầy lòng xót thương đổ muôn ơn lành thánh xuống tất cả mọi gia-đình”. (x. tập san The Majellan Family số tháng 7-9/2014, trích dẫn thư Đức Giáo Hoàng Phanxicô gửi hết mọi gia-đình, tr. 1-3).

Thế đó, là lời lẽ của đấng bậc ở tít trên cao toà nhà Hội thánh diễn tả về tình gia-đình, và tình mọi người cần có với gia-đình và với nhau. Dù, người đó có là “mẹ chồng” hay “mẹ vợ”, cũng vẫn tốt. Miễn sao tình thương-yêu lành-thánh cứ đổ tràn lan sang với mọi người.

Thế đó, là tình-yêu vẫn được ấp-ủ trong gia đình. Gia đình sẽ không là gì cả, nếu không có tình-yêu. Bởi tình-yêu, là cột-trụ chống đỡ và gìn giữ mọi thứ tình của người đời. Cả với bạn bè/người thân. Cả với chòm xóm, nhóm-hội đoàn thể trong xã hội hoặc Giáo-hội.

Tình gia-đình trước hết và trên hết, vẫn được bậc mẹ cha trân-trọng và duy-trì bất chấp mọi hoàn-cảnh đau-đớn, khó-khăn có thể có. Điều này, được người viết không ghi danh viết xuống thành thơ, thành văn rất tâm-tình, như truyện kể nhè nhẹ, ở bên dưới:

“Truyện rằng:

Cái nghèo cái đói thường trực trong ngôi nhà nhỏ này, nhưng dường như, nỗi cơ cực bần hàn ấy không buông tha họ. Cậu con bắt đầu cắp sách đến trường cũng là lúc nỗi mất mát lớn bỗng nhiên đổ ập xuống đầu họ. Cha qua đời vì cơn bạo bệnh. Hai mẹ con tự tay mình mai táng cho người chồng, người cha vắn số.

Người mẹ góa bụa ở vậy, chị quyết không đi bước nữa. Chị biết, bây giờ chị là chỗ dựa duy nhất cho con trai mình. Chị cặm cụi,chăm chỉ gieo trồng trên thửa ruộng chật hẹp, tài sản quý giá nhất của hai mẹ con chị. Ngày qua ngày, năm nối năm, những tấm giấy khen của cậu con trai hiếu học dán kín cả bức tường vôi nham nhở. Nhìn con trai ngày một lớn lên, ngoan ngoãn, học hành giỏi giang, nước mắt bỗng lăn trên gò má chị.

Học hết cấp hai, cậu thi đậu vào trường cấp ba trọng điểm của thành phố. Gánh nặng lại oàn lên vai người mẹ. Thế nhưng không may thay, khi giấy báo trúng tuyển về đến tay cậu cũng là lúc mẹ cậu ngã bệnh. Căn bệnh quái ác làm chị liệt nửa chi dưới. Vốn là lao động chính của gia đình, giờ chị chẳng thể đi lại bình thường như xưa nữa nói chi đến chuyện làm nông. Cậu bé vốn hiểu chuyện, thương mẹ vất vả, cậu xin nghỉ học:

– Mẹ này, con nghỉ học thôi, ở nhà làm ruộng thay mẹ. Đi học, tiền đâu mà đóng học phí, tiền sinh hoạt phí, lại còn mỗi tháng nộp 15 cân gạo nữa, nhà mình biết lấy đâu ra số gạo đó.
– Có thế nào con cũng không được bỏ học. Con là niềm tự hào của mẹ.Chỉ cần con chăm chỉ học hành, còn những việc khác, con không phải bận tâm.

Hai mẹ con tranh luận rất lâu, cậu kiên quyết không đi học nữa vì không muốn mẹ mình khổ. Cậu trở nên ngang bướng và lì lợm. Phải đến khi nóng nảy quá không kiềm chế được, mẹ cậu giơ tay tát cậu một cái vào má, cậu mới sững người lại.Đây là cái tát đầu tiên trong đời cậu con trai mười sáu tuổi. Mẹ cậu ngồi thụp xuống đất và khóc nức nỡ…

Nghe mẹ, cậu khăn gói vào trường nhập học. Lòng cậu nặng trĩu. Người mẹ đứng lặng hồi lâu, nhìn bóng con trai khuất dần… Ít lâu sau, có một người mẹ lặc lè vác bao tải dứa, chân thấp chân cao đến phòng giáo vụ. Chị nộp gạo cho con trai. Chị là người đến muộn nhất. Đặt bao gạo xuống đất, chị đứng thở hổn hển một hồi lâu rồi nem nép đi vào.

Thầy Hùng phòng giáo vụ nhìn chị, nói:

-Chị đặt lên cân đi. Mở túi gạo ra cho tôi kiểm tra.

Chị cẩn thận tháo túi. Liếc qua túi gạo, hàng lông mày của thầy khẽ cau lại, giọng lạnh băng:
-Thật chẳng biết nên nói thế nào. Tôi không hiểu sao các vị phụ huynh cứ thích mua thứ gạo rẻ tiền đến thế cho con mình ăn. Đấy, chị xem. Gạo của chị lẫn lộn đủ thứ, vừa có gạo trắng vừa có gạo lức lẫn gạo mốc xanh đỏ, cả cám gạo nữa, đây còn có cả ngô nữa… Thử hỏi, gạo thế này, chúng tôi làm sao mà nấu cho các em ăn được. Thầy vừa nói vừa lắc đầu.

-Nhận vào! Thầy nói, không ngẩng đầu lên, đánh dấu vào bảng tên của học sinh. Mặt người mẹ đỏ ửng lên. Chị khẽ đến bên thầy nói:

-Tôi có 5 đồng, thầy có thể bổ sung vào thêm cho cháu để phụ tiền sinh hoạt phí được không thưa thầy?

-Thôi, chị cầm lấy để đi đường uống nước. Thầy nói và vẫn không ngẩng đầu lên nhìn người phụ nữ tội nghiệp đang loay hoay, khổ sở, mặt đỏ ửng, chân tay thừa thải vì chẳng biết làm thế nào. Chị chào thầy rồi lại bước thấp bước cao ra về.

Đầu tháng sau, chị lại đến nộp gạo cho con trai. Thầy lại mở túi gạo ra kiểm tra rồi lại cau mày, lắc đầu. Thầy có vẻ lạnh lùng, ác cảm:

– Chị lại nộp loại gạo như thế này sao? Tôi đã nói phụ huynh nộp gạo gì, chúng tôi cũng nhận, nhưng làm ơn phân loại ra, đừng trộn chung như thế này. Chúng tôi làm sao mà nấu cơm cho ngon để các em ăn được? Chị nghĩ thử xem, với loại gạo hổ lốn thế này, liệu chúng tôi có thể nấu cơm chín được không? Phụ huynh như các chị không thấy thương con mình sao?
– Thầy thông cảm. Thầy nhận cho, ruộng nhà tôi trồng được chỉ có thế! Người phụ nữ bối rối.
– Thật buồn cười cái nhà chị này! Một mảnh ruộng nhà chị có thể trồng đến hàng trăm thứ lúa thế sao? Nhận vào! Giọng thầy gằn từng tiếng và vẫn không ngẩng đầu lên nhìn chị.
Người mẹ im bặt, mặt chị trở nên trắng bệt, nhợt nhạt. Chị lí nhí cảm ơn thầy rồi lại lặng lẽ bước thấp, bước cao ra về. Dáng chị liêu xiêu, đổ vẹo trong cái nắng trưa hầm hập như đổ lửa.

Lại sang đầu tháng thứ ba của kỳ nộp gạo. Chị lại đến. Vẫn dáng đi xiêu vẹo, mồ hôi mướt mải trên trán, ướt đẫm lưng áo của người mẹ trẻ. Bao gạo nặng dường như quá sức với chị.
Thầy lại đích thân mở túi gạo ra kiểm tra. Lần này, nét giận dữ in hằn trên mặt thầy. Thầy rành rọt từng tiếng một như nhắc để người phụ nữ ấy nhớ:

– Tôi đã nói với chị thế nào. Lần này tôi quyết không nhân nhượng chị nữa. Chị làm mẹ mà sao ngoan cố không thay đổi gì thế này. Chị mang về đi. Tôi không nhận!

Người mẹ thả phịch bao gạo xuống đất. Dường như bao nỗi ấm ức, đau khổ và bất lực bị dồn nén bao ngày đột nhiên bừng phát. Chị khóc. Hai hàng nước mắt nóng hổi, chan chứa trên gương mặt sớm hằn lên nét cam chịu và cùng quẫn. Có lẽ, chị khóc vì tủi thân và xấu hổ. Khóc vì lực bất tòng tâm.

Thầy Hùng kinh ngạc, không hiểu đã nói gì quá lời khiến cho người phụ nữ trẻ khóc tấm tức đến thế. Chị kéo ống quần lên để lộ ra đôi chân dị dạng. Một bên chân quắt queo lại rồi nói:
– Thưa với thầy, gạo này là do tôi… Tôi đi ăn xin, gom góp lại bao ngày mới có được. Chẳng giấu gì thầy, chân cẳng tôi thế này, tôi làm ruộng thế nào được nữa. Cháu nó sớm hiểu chuyện, đòi bỏ học ở nhà giúp mẹ làm ruộng. Thế nhưng tôi kiên quyết không cho, kiên quyết không để con tôi thất học. Có học mới mong thoát khỏi cảnh cơ cực này. Nhà chỉ có hai mẹ con, cha cháu mất sớm… Thầy thương tình, thầy nhận giúp cho. Không nộp gạo, con tôi thất học mất!

Người mẹ trẻ này đều đặn ngày nào cũng thế. Trời còn tờ mờ, khi xóm làng còn chưa thức giấc, chị đã lặng lẽ chống gậy, lê mình rời khỏi thôn. Chị đi khắp hang cùng ngõ hẻm bên xóm khác xin gạo. Đi mãi đến tối mịt mới âm thầm trở về. Chị không muốn cho mọi người trong thôn biết.

Lần này người bị xúc động mạnh lại là thầy Hùng. Thầy đứng lặng hồi lâu rôi nhẹ nhàng đỡ chị đứng lên. Giọng thầy nhỏ nhẹ:

– Chị đứng lên đi, người mẹ trẻ! chị làm tôi thực sự bất ngờ. Tôi đã có lời không phải với chị. Thôi thế này, tôi nhận. Tôi sẽ thông báo với trường về hoàn cảnh của em học sinh này, để trường có chế độ học bổng hổ trợ cho học sinh vượt khó.

Người mẹ trẻ đột nhiên trở nên cuống quýt và hoảng hốt. Chị gần như chắp tay lạy thầy. Giọng chị van lơn:

– Xin thầy. Tôi có thể lo cho cháu, dù không đầy đủ như các bạn nhưng tôi lo được. Khổ mấy, vất vả mấy tôi cũng chịu được. Chỉ xin thầy đừng cho cháu hay chuyện này. Đây là bí mật của tôi, mong thầy giữ kín giùm cho.

Chị kính cẩn cúi đầu chào thầy như người mà chị mang một hàm ơn lớn, đưa tay quệt mắt rồi lại nặng nhọc, liêu xiêu ra về. Lòng thầy xót xa. Thầy Hùng đem câu chuyện cảm động này báo với hiệu trưởng. Ban giám hiệu trường giữ bí mật này tuyệt đối. Nhà trường miễn phí toàn bộ học phí và sinh hoạt phí cho cậu học sinh có hoàn cảnh đặc biệt này. Ngoài ra, học lực của cậu rất khá, đủ tiêu chuẩn nhận được học bổng của trường.

Cuối cấp, cậu dẫn đầu trong danh sách những học sinh xuất sắc của trường. Cậu thi đậu vào trường đại học danh tiếng nhất của thủ đô. Trong lễ vinh danh học sinh ưu tú, khi tên cậu được xướng lên đầu tiên, mẹ cậu lặng lẽ đứng ở một góc khuất, mỉm cười sung sướng.

Có điều rất lạ, là: trên sân khấu hôm ấy, có ba bao tải dứa sù sì được đặt trang trọng ở một góc phía ngoài cùng, nơi mọi người có thể dể dàng nhìn thấy nhất. Ai cũng thắc mắc, không hiểu bên trong ấy chứa thứ gì.

Trong bầu khí trang nghiêm buổi lễ ấy, thầy hiệu trưởng rất xúc động và kể lại câu chuyện người mẹ trẻ đi ăn xin nuôi con học thành tài. Cả trường lặng đi vì xúc động.Thầy hiệu trưởng ra dấu cho thầy Hùng phòng giáo vụ đến mở ba bao tải ấy ra. Đó là ba bao gạo mà người mẹ với đôi chân tật nguyền lặn lội khắp nơi xin về. Thầy nói:

– Đây là những hạt gạo mang nặng mồ hôi và nặng tình của người mẹ yêu con hết mực. Những hạt gạo đáng quý này, Tiền, vàng cũng không thể mua nổi. Sau đây, chúng tôi kính mời người mẹ vĩ đại ấy lên sân khấu.

Cả trường lại một lần nữa lặng người đi vì kinh ngạc. Cả trường dồn mắt về phía người phụ nữ chân chất, quê mùa đang được thầy Hùng dìu tùng bước khó nhọc bước lên sân khấu. Cậu con trai cũng quay đầu nhìn lại. Cậu há hốc miệng kinh ngạc. Cậu không thể ngờ rằng người mẹ vĩ đại ấy không ai khác chính là người mẹ thân yêu của cậu.

– Chúng tôi biết, kể ra câu chuyện này sẽ khiến cậu học sinh ưu tú nhất trường bị chấn động rất mạnh về tâm lý. Thế nhưng, chúng tôi cũng mạn phép được nói ra vì đó là tấm gương sáng, tấm lòng yêu thương con vô bờ bến của người mẹ. Điều đó hết sức đáng quý và đáng được trân trọng. Chúng tôi muốn thông qua câu chuyện cảm động này, giáo dục các em học sinh thân yêu của chúng ta về đạo đức và lối sống, về tình người và những nghĩa cử cao đẹp. Hôm nay, một lần nữa chúng ta vinh danh những người cha, người mẹ đã cống hiến, hy sinh cả đời mình vì tương lai con em…

Giọng thầy hiệu trưởng đều đều, ấm áp và hết sức xúc động. Tai cậu ù đi, cậu chẳng nghe thấy gì nữa cả, mắt cậu nhòe nước. Mẹ cậu đứng đó, gầy gò, khắc khổ, mái tóc đã sớm điểm bạc, mắt bà cũng chan chứa niềm hạnh phúc và ánh mắt ấm áp, yêu thương ấy đang hướng về phía cậu với cái nhìn trìu mến.

Người phụ nữ ấy run run vì chưa bao giờ đứng trước đám đông. Run run, vì những lời tốt đẹp mà thầy hiệu trưởng đã giành cho mình. Với chị, đơn giản tất cả chỉ xuất phát từ tình yêu bao la mà chị giành cho con trai. Chị không nghĩ được thế nào là sự hy sinh hay đạo lý lớn lao ấy.
Cậu con trai cao lớn đứng vụt dậy, chạy lên ôm chầm lấy mẹ mà mếu máo khóc thành tiếng:

-Mẹ ơi ! Mẹ của con…(Linh Đan dịch từ truyện ngắn khuyết danh của Trung Quốc)

Dịch từ bản nào cũng là dịch. Diễn từ bài ở đâu, cũng là diễn. Miễn là, văn bản và bài bản đều diễn-tả tình thương yêu từ người này đem đến cho người khác. Có thể, tình thương yêu đó do từ người mẹ. Cũng có thể từ người thầy, người cha tinh-thần ở chốn cao, nơi Hội thánh. Tất cả đều nói lên thứ tình cần cần diễn-đạt, như đấng thánh hiền-lành khi xưa từng ghi rõ, cho mọi người:

“Nhưng tôi có là gì,

cũng là nhờ ơn Thiên Chúa,

và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu;

trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác,

nhưng không phải tôi,

mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi.

Tóm lại, dù tôi hay các vị khác rao giảng,

thì chúng tôi đều rao giảng như thế,

và anh em đã tin như vậy.”

(1Cor 15: 10-11)

Quả có thế. Không có Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu đến với mọi người, thì bạn và tôi, ta có làm gì đi nữa cũng không xong.  Nghĩ thế rồi, hỡi bạn và tôi, ta cứ hát lên lời ca đầy tình-tứ có làn mây vẫn tràn đầy yêu-thương như tự bao giờ:

“Mây, mây còn phiêu lãng đến bao giờ đây?

Mây còn ngơ ngác lang thang về đâu?

Xin dừng chân nói với nhau một câu.

Xin đừng câm nín vơi nhau dài lâu”.

(Nam Lộc – bđd)

Hát thế rồi, xin bạn và xin tôi từ nay đừng âm-thầm, câm nín như mây bay lơ lửng khắp tầng trời. Nhưng hát nói lên, hát lên những lời tình-tứ đầy tình-tự yêu thương, nồng thắm, khắp muôn nơi.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những đám mây vô tình

Cứ quanh quẩn bên mình

Suốt nhiều ngày.

Không chịu bay.

Em tự ngàn xưa chuyển buớc về,

“Em tự ngàn xưa chuyển buớc về,”

“Thuyền trao sông mắt dẫn trăng đi”.

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mt 22: 1-14

Lm Richard Leonard, sj

Mai Tá lược dịch.

Chuyển bước về, người người đều chuyển từ thuyền, từ sông nước có gió ngàn lồng lộng, rất trăng sao. Chuyển bước thời hôm nay, nhà Đạo mình cũng cứ chuyển, nhưng vẫn mang nặng một tình-tự thân-thương, đằm thắm của nhiều người.

Thời buổi hôm nay, nhiều người vẫn chuyển cho nhau những tình-tự thân thương như tình vợ chồng trẻ cứ muốn cho con cái mình kinh qua hành-trình lĩnh-nhận Thanh Tẩy, vì nhiều lý do rày rất khác. Với một số người thời Hội thánh tiên khởi, rõ ràng Thanh Tẩy là nghi-thức chú-trọng nhiều đến việc đặt tên, nêu tuổi.

Cũng có người quan-niệm đây là nghi-tiết khởi đầu, để rồi sẽ có buổi vui ăn uống, mừng em bé. Người khác hỏi đến, cũng chẳng biết rõ tại sao mình lại muốn thế. Tuy nhiên, họ vẫn nghĩ: có làm thế, mới đúng phép Đạo, như mọi người. Với một số cha mẹ khác, thì họ nay hiểu rõ nguồn-gốc mọi chuyện, nên muốn truyền lại cho con, những gì mình học hỏi, đó là sự sống của Đức Chúa.

Mỗi khi cử-hành nghi-thức thanh-tẩy, tôi thường giải-thích cho mọi người hiểu rõ rằng: ở 3 thế kỷ đầu đời của Giáo-Hội, bí-tích thanh-tẩy được thực-hiện vào lúc trời tờ mờ sáng, sau lễ Phục Sinh. Làm thế, không chỉ để ăn-khớp với lễ Phục-Sinh của Chúa cho đồng bộ, mà vì muốn giữ kín sự việc con dân lĩnh-nhận Thanh-tẩy, cho an-toàn.

Ròng rã hơn 300 năm trước, tín-hữu Chúa nhận thanh-tẩy vào buổi sáng, còn để các vị có thể đi vào cõi chết, giấc buổi trưa. Với họ, thanh-tẩy không có nghĩa đi ra ngoài để sinh-hoạt, mà là có sự sống và có cả sự chết nữa.

Qua dụ-ngôn tham-dự Tiệc, Đức Giêsu muốn mọi người biết, rằng: có những người cứ tưởng mình đương-nhiên sẽ trở-thành tín-hữu, nên đã khước-từ. Ngược lại, cũng có người trong Đạo, lại tưởng rằng mình sẽ chẳng bao giờ đáp-ứng được lời gọi mời của Chúa, nên vẫn gia-nhập chiên đàn Hội-thánh, rất hăng say.

Vào những ngày đầu, khi đề-cập đến Tiệc cưới, Giáo-hội Chúa đều ám-chỉ hai việc: một, Tiệc Thánh là Tiệc Lòng Mến. Tiệc, cuộc sống vĩnh-cửu. Lạ thay, khi dùng ảnh-hình của buổi Tiệc có ăn và có uống, dụ-ngôn Chúa kể đưa ra, ít nói đến thịt thà – thức ăn, nhưng lại cứ nói đến cảnh người ra/kẻ vào, trong thánh lễ. Tại sao thế?

Điều này, cho thấy: thái-độ của người được mời đã bỏ lỡ cơ-hội đến với Tiệc cưới của Hoàng-gia, là điều ít thấy xảy ra, nơi thế-trần. Điều thường thấy hơn, là thái-độ của dân con bần-hàn, đã nhận ra món quà quí giá, được ban phát.

Nhận ra, cả người ban tặng, nên họ mới “ăn vận” cho đúng cách và biết rõ nơi mình sẽ đến, là nơi đâu/chốn nào. Ngược lại, cũng có người không biết cách xử-thế cho đúng với hoàn- cảnh/địa-vị của mình, nên đã không nói thành lời, khi được mời.

Những người theo cách-thế thứ hai, là cộng-đoàn dân Chúa vào thời đầu. Là, những vị dám lĩnh-nhận nguồn nước thanh-tẩy. Nhưng sau lại gian-dối, bội-phản cộng-đoàn các thánh, vào thời bách hại. Khi các thánh khám-phá ra chuyện đó, đều thấy rằng: thực-khách theo cách thứ hai, không có đủ tư-cách tham gia, nên đã bị loại trừ.

Nơi cộng-đoàn thời thánh-sử Mát-thêu, thì: hầu hết những người gian-dối đều phải trả giá rất cao, bằng chính cuộc sống của mình. Bởi thế nên, sự việc hồi-hướng trở về với Đạo của Chúa, cũng trở-thành sự-kiện cần đắn đo, suy-nghĩ.

Thời hôm nay, chuyện dụ-ngôn ghi ở trên, có ý-nghĩa gì đối với mỗi người chúng ta? Chắc chắn, Tin Mừng không đặt vấn-đề bảo rằng: ta nên ăn vận thế nào cho phải phép, khi đi tham-dự thánh-lễ của Lòng Mến. Cũng chẳng ai hỏi: ta có thái-độ sống ra sao, khi mọi người đều nghĩ về đời sau, chốn vĩnh hằng là nơi mình đạt đến mãi sau này.

Dụ ngôn hôm nay, không cốt ý nói đến những hãi hùng/lo sợ mỗi khi ta ra trước toà án để chịu cuộc phán xét mà người xưa gọi là “trả lẽ”, sẽ phải xử-sự thế nào? Ăn làm sao nói làm sao?

Nhưng, điều mà dụ-ngôn muốn nêu thành vấn-đề, chính là: ta phải trở thành  người khó-nghèo, bần hàn cho đủ hoặc đúng cách, mới nhận ra được quà tặng Chúa phú ban, khi Ngài mời gọi ta gia-nhập cộng-đoàn niềm-tin mà Hội-thánh vẫn đời chờ. Có là người rộng lượng đủ, ta mới có thể đáp-ứng lại lời kêu mời, khẩn thiết của Đức Chúa.

Bởi một lẽ, khi nêu vần-đề như thế, là để ta nghiêm-chỉnh xét và xem những gì mình sẽ ăn nói và hành-động. Để rồi, ta sẽ có thái độ đúng đắn, hầu đem các giá-trị của những hành-xử ta từng có và vẫn có trong đời mình cả vào lúc mình ở nhà hay đang lao-động tại sở làm cũng như ở chốn vui chơi, giải-trí cho khuây khoả và cũng để xét lại xem cung-cách mình đối xử với nhau lâu nay ra thế nào.

Chính những điều như thế, mới chứng-tỏ ý-nghĩa của việc ta bày-tỏ bằng hành-động. Và bằng vào những cử-chỉ như thế, người khác mới đánh giá là: ta có thực sự là người chân phương, tử tế, ý-nhị về niềm tin hay không? Hoặc, ta cũng chỉ là kẻ dối-gian/bội phản như bất cứ người nào khác; hoặc, ta lại cũng không biết cách ăn vận, xử thế và nói năng cho hiền-từ, tử tế, thế thôi.

Tựa như tín-hữu thời tiên-khởi ngày nay ta cũng ăn vận mầu trắng rất “trinh trong” mỗi khi ta nhận ơn thanh-tẩy từ Đạo Chúa. Trinh trong mầu tiệc cưới rất trắng tinh, là sắc mầu thích-hợp với nghi-tiết thanh tẩy của Giáo-hội.

Cũng tựa như người thời trước, vào những tháng ngày ta nhận-lĩnh ơn thanh-tẩy, ngày nay không có nghi thức đặt tên, nêu tuổi như trước nữa. Và, cũng chẳng phải là nghi tiết giao tế xã hội, để mà ăn uống.

Hôm nay đây, chỉ là ngày thường trong tuần tựa hồ như khi ta nhận thiệp hồng từ bà con/bạn bè vẫn muốn mời chào ta tham-dự tiệc cưới, mỗi thế thôi. Nhận thiệp mời ngày thanh-tẩy hay lễ cưới, tức là ta được nhắn hãy tham-dự lễ-hội vui-tươi của cuộc sống, có Chúa cùng tham-dự.

Vào các tiệc-tùng buổi ấy, mọi người đều xử-sự theo đúng cung-cách họ tuyên-tín. Ở nơi đó, kẻ dối-gian/bội phản đều đã cao bay xa chạy, cả trăm dặm. Họ đâu còn bận tâm gì nữa mà ngoái cổ quay đầu lại, để làm chi.

Tiệc cưới cuộc sống hôm nay, còn là tiệc ngàn đời có Chúa/có ta, có cả cộng-đoàn thân-thương, lành thánh rất Nước Trời là như thế.

Trong tinh-thần nghiệm-sinh tiệc ngàn đời luôn có Chúa, tưởng cũng nên ngâm nga lời thơ ở đời vẫn còn hát, rằng:

“Em tự ngàn xưa chuyển buớc về,

Thuyền trao sông mắt dẫn trăng đi.

Những giòng chữ lạ buồn không nói,

Nét lửa bay dài, giấc ngủ mê.

(Đinh Hùng – Gặp Em Huyền Diệu)

Gặp em hay gặp Chúa, vẫn cứ thất “nét lửa bay dài, giấc ngủ mê”. Ngủ có mê, cũng đừng “chuyển bước về” ngàn xưa ấy. Để rồi, em với tôi , ta cùng về chốn Huyền Diệu của tình yêu-thương Chúa vẫn gửi đến mỗi người trong ta. Ngài gửi, để ta vui sống mãi chốn Nước Trời hiền-hoà, rất hôm nay.

Lm Richard Leonard, sj

Mai Tá lược dịch.