TIN MỪNG Y KHOA THẾ GIỚI : THUỐC TRỊ UNG THƯ “THẦN KỲ” -2

TIN MỪNG Y KHOA THẾ GIỚI : THUỐC TRỊ UNG THƯ “THẦN KỲ” -2

 Trong một thử nghiệm thuốc gây sốc, ung thư biến mất ở tất cả các bệnh nhân tham gia.

Trong một bước ngoặt đáng kinh ngạc từ Trung tâm Ung thư Memorial Sloan Kettering ở Manhattan, một thử nghiệm thuốc mới đã đạt được điều mà nhiều người trong cộng đồng y tế gọi là kỳ tích y học : Ung thư biến mất hoàn toàn ở tất cả các bệnh nhân tham gia. Thử nghiệm nhỏ nhưng chưa từng có này đã tạo ra một làn sóng lạc quan và sự tò mò trên toàn cầu, khi thuốc dostarlimab cho thấy tiềm năng có thể định nghĩa lại các tiêu chuẩn điều trị ung thư. Điều này có ý nghĩa gì đối với tương lai của ung thư học và những bệnh nhân đối mặt với căn bệnh tàn phá này

 Tóm tắt thử nghiệm

Trong một diễn biến bất ngờ, một thử nghiệm thuốc tại Trung tâm Ung thư Memorial Sloan Kettering danh tiếng đã khiến cả giới y học xôn xao. Thử nghiệm này tập trung vào dostarlimab, một loại thuốc ức chế điểm kiểm soát mới, và liên quan đến một nhóm nhỏ bệnh nhân ung thư trực tràng. Đáng chú ý, mỗi bệnh nhân đều đạt được sự thuyên giảm hoàn toàn—một hiện tượng hiếm hoi trong lĩnh vực ung thư học.

Nghiên cứu này nhỏ nhưng được lập kế hoạch tỉ mỉ, chỉ có 12 bệnh nhân bị ung thư trực tràng tiến triển tại chỗ. Những bệnh nhân này được chọn lọc dựa trên các tiêu chí cụ thể có khả năng đáp ứng với phương pháp điều trị mới, căn cứ vào mức độ và vị trí của ung thư.

Dostarlimab được tiêm mỗi ba tuần trong suốt sáu tháng. Phác đồ này được thiết kế để thử nghiệm hiệu quả của thuốc trong việc “lột mặt nạ” tế bào ung thư, giúp hệ miễn dịch nhận diện và tiêu diệt chúng. 

Hiệu quả điều trị được đánh giá nghiêm ngặt bằng cách sử dụng một kết hợp các xét nghiệm thể chất, nội soi, chụp cắt lớp positron (PET) và cộng hưởng từ (MRI). Kết quả thống nhất—khối u hoàn toàn biến mất—đã gây sốc và khiến đội ngũ y tế cùng cộng đồng ung thư học vô cùng phấn khích. 

        Trải nghiệm của bệnh nhân

Trước khi tham gia thử nghiệm, nhiều bệnh nhân đã phải trải qua các phương pháp điều trị tốn kém và mệt mỏi, bao gồm hóa trị và xạ trị, không chỉ không loại bỏ được ung thư mà còn làm gia tăng đau đớn với các tác dụng phụ nghiêm trọng. “Bệnh nhân gần như đã từ bỏ hy vọng sau khi không thể hồi phục sau các đợt hóa trị và xạ trị khắc nghiệt”, Tiến sĩ Andrea Cercek, bác sĩ ung thư tại Memorial Sloan Kettering và là đồng tác giả của nghiên cứu, cho biết. Một số bệnh nhân thậm chí còn đối mặt với khả năng phải trải qua các ca phẫu thuật “thay đổi cả cuộc đời”, có thể dẫn đến những thay đổi vĩnh viễn trong chức năng cơ thể.

Tuy nhiên, khi được tiêm dostarlimab, mọi thứ đã thay đổi. Các bệnh nhân ngỡ ngàng khi được thông báo rằng các khối u của họ đã biến mất và không cần phải tiếp tục các phương pháp điều trị xâm lấn. Tiến sĩ Cercek nhớ lại khoảnh khắc tiết lộ này, miêu tả đó là thời điểm “nước mắt vui mừng”. Tác động tình cảm của tin tức này không thể xem nhẹ, vì nó không chỉ là sự giải thoát về thể chất mà còn là một sự thay đổi lớn trong tâm lý và tinh thần của bệnh nhân.

Các bệnh nhân được theo dõi chặt chẽ để phát hiện dấu hiệu tái phát thông qua các lần tái khám định kỳ với các kỹ thuật hình ảnh tiên tiến. Đáng kinh ngạc, không có dấu hiệu ung thư quay lại sau 25 tháng kể từ khi kết thúc thử nghiệm. Sự thuyên giảm kéo dài này mang lại một cảm giác nhẹ nhõm sâu sắc và một cái nhìn lạc quan thận trọng về tương lai.

Một bệnh nhân chia sẻ về trải nghiệm của mình : “Không mong đợi các khối u ung thư của mình sẽ biến mất, họ đã đồng ý tham gia thử nghiệm dostarlimab. Nhưng thật bất ngờ, họ được thông báo sẽ không phải tiếp tục các đợt hóa trị và xạ trị đau đớn nữa, và cũng không cần phải trải qua phẫu thuat

 Cơ chế hoạt động của Dostarlimab

Dostarlimab đại diện cho một bước tiến quan trọng trong lĩnh vực ung thư học, đặc biệt là trong lĩnh vực liệu pháp miễn dịch. Là một chất ức chế điểm kiểm soát, cơ chế của thuốc nhắm vào khả năng của hệ miễn dịch nhận diện và tiêu diệt tế bào ung thư, một quá trình thường bị cản trở bởi chính các tế bào ung thư.

Tế bào ung thư có khả năng xảo quyệt để ẩn mình khỏi hệ miễn dịch bằng cách lợi dụng một số protein đóng vai trò như các điểm kiểm soát. Những điểm kiểm soát này thường được cơ thể sử dụng để ngăn hệ miễn dịch tấn công các tế bào của chính mình. Tuy nhiên, dostarlimab hoạt động bằng cách chặn các protein điểm kiểm soát này, qua đó loại bỏ “áo choàng vô hình” mà tế bào ung thư sử dụng để che chắn mình khỏi sự tấn công của hệ miễn dịch. Hành động này cho phép các tế bào T, “sát thủ tự nhiên” của cơ thể, nhận diện và tiêu diệt tế bào ung thư.

Các thuốc ức chế điểm kiểm soát như dostarlimab là một phần của nhóm thuốc rộng lớn đã cách mạng hóa điều trị ung thư trong những năm gần đây. Chúng đặc biệt hiệu quả đối với các loại ung thư có tỷ lệ đột biến cao, khiến chúng dễ dàng bị hệ miễn dịch nhận diện khi các điểm kiểm soát bị ức chế. Dostarlimab nhắm vào con đường PD-1/PD-L1, một yếu tố quan trọng trong chiến lược lẩn trốn hệ miễn dịch của nhiều khối u.

Trong thử nghiệm tại Memorial Sloan Kettering, dostarlimab được tiêm mỗi ba tuần trong sáu tháng, và phác đồ này đã chứng tỏ hiệu quả rõ rệt mà không có các tác dụng phụ nghiêm trọng thường gặp với các phương pháp điều trị ung thư thông thường như hóa trị. “Các thuốc này, được gọi là “chất ức chế điểm kiểm soát”, thường có phản ứng phụ ở 20% bệnh nhân điều trị. Gần 60% bệnh nhân gặp các biến chứng nghiêm trọng, bao gồm yếu cơ. Tuy nhiên, không có phản ứng tiêu cực nào được ghi nhận ở các bệnh nhân tham gia nghiên cứu dostarlimab, báo cáo nghiên cứu nêu rõ.

Hồ sơ an toàn thuận lợi này, kết hợp với hiệu quả của thuốc trong việc tạo ra phản ứng hoàn toàn ở các bệnh nhân thử nghiệm, cho thấy tiềm năng của dostarlimab không chỉ trong điều trị ung thư trực tràng mà có thể mở rộng sang các loại ung thư khác có các dấu hiệu sinh học tương tự.

                     Kết quả chưa từng có

Truyền thống, phương pháp điều trị ung thư chủ yếu bao gồm sự kết hợp giữa phẫu thuật, hóa trị và xạ trị. Các phương pháp này, mặc dù hiệu quả đối với nhiều người, nhưng thường đi kèm với các tác dụng phụ tàn phá và ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. 

Sự thuyên giảm hoàn toàn ung thư ở tất cả các bệnh nhân tham gia thử nghiệm với dostarlimab gợi ý một sự chuyển mình hướng tới các phương pháp điều trị ít xâm lấn hơn. Điều này có thể có nghĩa là ít phẫu thuật hơn và giảm sự phụ thuộc vào các phương pháp hóa trị và xạ trị khắc nghiệt, đặc biệt đối với những ung thư có thể điều trị bằng liệu pháp miễn dịch.

Thử nghiệm này nhấn mạnh tầm quan trọng của y học cá thể hóa trong điều trị ung thư. Bằng cách nhắm vào các dấu hiệu di truyền và con đường sinh học cụ thể, các phương pháp điều trị như dostarlimab có thể được điều chỉnh cho phù hợp với từng bệnh nhân, tăng cường hiệu quả và giảm thiểu tác dụng phụ không mong muốn. Cách tiếp cận này đặc biệt hứa hẹn đối với các loại ung thư vốn khó điều trị bằng các phương pháp truyền thống. Khi nghiên cứu di truyền và dấu hiệu sinh học tiến bộ, liệu pháp miễn dịch cá thể hóa có thể trở thành chuẩn mực thay vì ngoại lệ.

                                  KẾT LUẬN 

  Một bình minh mới trong chăm sóc ung thư

Kết quả thành công của thử nghiệm dostarlimab tại Memorial Sloan Kettering không chỉ là một bước đột phá y học ; nó còn báo hiệu một sự thay đổi lớn trong cách chúng ta tiếp cận và điều trị ung thư. Thử nghiệm này không chỉ chứng tỏ thành công chưa từng có trong việc tiêu diệt ung thư ở tất cả các bệnh nhân tham gia mà còn làm nổi bật khả năng vô cùng to lớn mà khoa học hiện đại có thể mang lại trong việc thay đổi cuộc đời của những người mắc phải căn bệnh này. 

Nhìn về tương lai, điều quan trọng là tiếp tục hỗ trợ nghiên cứu nghiêm ngặt để xác thực và mở rộng những phát hiện này. Cũng cần xây dựng một môi trường chăm sóc sức khỏe khuyến khích tiếp cận công bằng đối với các liệu pháp cứu sống này, đảm bảo tất cả bệnh nhân, bất kể hoàn cảnh kinh tế hay địa lý, đều có thể hưởng lợi từ những tiến bộ mới nhất trong khoa học y tế.

Lời hứa hẹn từ dostarlimab là một tia hy vọng—không chỉ cho những người đang chiến đấu với ung thư ngày hôm nay mà còn cho các thế hệ tương lai có thể phải đối mặt với căn bệnh này 

https://spiritsciencecentral.com/in-a-shocking-drug-trial-cancer-vanishes-in-all-participating-patients/?fbclid=IwY2xjawIWcPVleHRuA2FlbQIxMQABHf9vT2t7UNsVw75rI0jqyuB8JkPUHWQwrPhZiWnBnP9pR0RoQImrv9e2aQ_aem_1Hlfe5UuZi1qnlYRH7snmQ

Theo Fb Chau Doan

 From: haiphuoc47 & NguyenNThu


 

LÒNG NHÂN LÀNH CỦA ĐỨC MẸ FATIMA – Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 Tôi – phụ nữ Đức – kết hôn với một tín hữu Công Giáo Bồ Đào Nha.  Sau khi hiền phu qua đời, bà con bên chồng mời tôi mang đứa con gái nhỏ 5 tuổi, trở về Bồ Đào Nha, để cô bé học biết ngôn ngữ của thân phụ.  Tôi hân hoan chấp nhận lời mời.

Tại quê chồng, tôi được gia đình tử tước De Caleiro tiếp đón nồng hậu trong dinh thự ở Donro.  Bà chị họ chồng tôi có 4 đứa con – tuổi tác suýt soát con gái nhỏ tôi – nên cô bé học tiếng Bồ rất nhanh, nhờ chơi đùa với mấy anh chị em họ.  Nhưng cuộc sống êm đềm tốt đẹp không kéo dài lâu.  Bệnh đậu lào đổ ập trên vùng, gieo chết chóc trong các gia đình.

Dinh thự gia đình chúng tôi xem ra an toàn cho đến ngày đứa con gái nhỏ của tôi mắc chứng bệnh khủng khiếp ấy.  Chúng tôi tức tốc dời cô bé đến căn phòng biệt lập gần nhà nguyện của dinh thự.  Không thể nào tìm ra y tá, vì ai ai cũng sợ lây phải chứng bệnh hiểm nghèo!  Tôi đành một mình săn sóc cho con, túc trực ngày đêm bên giường con.  Nhờ ơn THIÊN CHÚA, tôi không ngã bệnh.  Con bé mỗi ngày một kiệt sức.  Bằng mọi cách, tôi phải cứu sống con.  Tôi cho mời một bác sĩ trẻ tuổi nhưng nổi tiếng người Pháp, từ thủ đô Paris đến.

Bà chị họ nói với tôi là chị cùng mấy đứa con làm tuần chín ngày kính Đức Mẹ Fatima, xin Đức Mẹ MARIA cứu sống con bé.  Chị mời tôi cùng hiệp ý với gia đình chị.  Tôi không tin mà cũng không hề để ý đến Đức Mẹ Fatima, nhưng tôi chấp nhận đề nghị và bằng lòng làm tuần chín ngày nơi nhà nguyện cạnh phòng con tôi.  Trong khi đó thì sức khoẻ của con bé bước vào tình trạng vô cùng tuyệt vọng.  Các ngón tay đã tím xanh.  Con bé không ăn uống gì và nằm im bất động.  Cả hai bác sĩ chữa chạy cho cô bé cũng bó tay và khuyên tôi chuẩn bị đón nhận một thử thách nặng nề.  Trước khi từ biệt, cả hai vị hứa sẽ trở lại sáng hôm sau, nhưng không chắc cô bé có qua khỏi đêm nay không!

Quý vị có thể đoán được tâm tình rối loạn của tôi khi nghe câu tuyên bố này!  Tôi đã mất một người chồng yêu dấu, một người chồng có quả tim vàng!  Giờ đây đứa con gái duy nhất – bảo ảnh, bảo chứng tình yêu của chồng – đang lâm nguy!  Trong cơn tuyệt vọng, tôi liền chạy đến nhà nguyện.  Bấy giờ là mùa đông.  Tôi quỳ sụp xuống và tha thiết kêu xin Đức Mẹ MARIA cứu đứa con gái nhỏ.  Tôi hứa với Đức Mẹ là nếu con bé khỏi bệnh, tôi sẽ dâng hiến con cho Đức Mẹ và sẽ đi hành hương về đồi Cova-da-Ira, nơi Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ chăn chiên làng Fatima.  Tôi ở lại nhà nguyện thật lâu, không biết mấy tiếng đồng hồ, cho đến khi toàn thân rã rời thấm lạnh, tôi mới rời nhà nguyện.

 Tôi trở về phòng của con.  Vừa mở cửa phòng, tôi ngạc nhiên thấy con bé đang nhảy nhót trên giường.  Con bé nói:

– Má đi đâu mà lâu dữ vậy?  Con đói quá, Má cho con cái gì để ăn đi!

Tôi tìm cách đặt con bé nằm xuống, bụng nghĩ thầm:

– Con bé gần chết nên nói sảng đây!

Nhưng con bé tiếp tục nói:

– Con lành bệnh rồi!  “Mẹ THIÊN CHÚA Fatima” bảo con như thế!

Sáng hôm sau, tôi nhờ bà chị họ mời hai bác sĩ đến.  Vừa trông thấy họ, Margarida – tên con gái tôi – vui vẻ chào hai người, đặc biệt, cô bé nói với vị bác sĩ của gia đình:

– Bây giờ Bác nhớ cho cháu con búp bê mà Bác hứa, nếu cháu lành bệnh.  Cháu muốn đi chơi với mấy anh chị em họ của cháu.  Cháu khỏi bệnh rồi.  “Mẹ THIÊN CHÚA Fatima” nói với cháu như thế, khi Má cháu bỏ cháu một mình trong phòng.

Vị bác sĩ già nghiêm khắc nhìn tôi và nói:

– Bà phải nói thật bà đã làm gì cho con bé đêm vừa rồi?  Bà mời một tên phù thủy đến chữa bệnh phải không?

Nghe thế, tôi nổi giận hét lớn:

– Sao bác sĩ lại có tư tưởng lạ kỳ đối với một người Đức như tôi?  Những người Bồ Đào Nha đồng hương của bác sĩ, có bao giờ ngây thơ đến độ đi cầu cứu với các tên phù thủy không?  Hẳn là không, phải không?

Vị bác sĩ lão thành lắc đầu nói:

– Con của bà hấp hối, giờ đây bỗng dưng trở lại bình thường.  Một sự kiện không thể giải thích theo khoa học!

Nghe thế, tôi kể lại tất cả những gì xảy ra trong đêm vừa qua.  Nghe xong, vị bác sĩ già, quỳ sụp xuống, vừa khóc vừa nói:

– Một phép lạ cả thể đã xảy ra.  Chúng ta hãy cùng dâng lên Đức Mẹ Fatima lòng biết ơn sâu xa của chúng ta!

… “Đức Chúa là Vua, là Đấng cứu chuộc Israel, và là Đức Chúa các đạo binh, Người phán thế nầy: Ta là khởi nguyên, Ta là cùng tận; chẳng có thần nào hết, ngoại trừ Ta.  Ai được như Ta, người ấy cứ lên tiếng, cứ kể ra và trình bày cho Ta xem những gì đã xảy ra từ thời cổ đại, khi Ta tạo dựng loài người.  Và những gì sẽ xảy đến, cứ kể ra đi.  Đừng run, đừng sợ.  Ta đã chẳng cho ngươi nghe từ thưở nào, đã chẳng báo cho ngươi biết đó sao?  Chính các ngươi là nhân chứng của Ta.  Hỏi có thần nào khác, hỏi có núi đá nào khác, ngoại trừ Ta?  Ta biết chắc là không” (Isaia 44,6-8)….

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

(Albert Pfleger, ”FIORETTI DE LA VIERGE MARIE”, Mambré Editeur, Paris 1992, trang 41-44)

From: Langthangchieutim

 Nhật Bản Và Việt Nam XHCN – Thái Hạo

BẢO TỒN TIẾNG VIỆT

   Nhật Bản Và Việt Nam XHCN – Thái Hạo

Cách đây mấy ngày thấy có tờ báo đăng tin 2 thanh niên Nhật Bản bị bắt vì tội…dùng đũa cá nhân để gắp gừng trong chiếc lọ đựng gia vị trên bàn ăn của một nhà hàng, rồi quay clip và post lên mạng xã hội. Chủ quán báo cảnh sát, vì hành động “mất vệ sinh” này làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của họ! Thôi, chắc không cần bình luận nữa về sự nghiêm ngặt của luật pháp xứ ấy.

Tình cờ là cũng hôm trước, tôi có mấy người bạn ghé chơi, trong đó có 2 người mới từ Nhật về nước. Một ông nói, đi 7 năm, về VN 2 tháng rồi nhưng vẫn bị “sốc nhiệt”. Tôi hỏi vì sao bên đó đang làm ăn ngon lành thế mà lại về làm gì.

– Bị đuổi về. Vi phạm pháp luật.

Anh ta kể rằng buôn xe ô tô, mua phải một chiếc xe ăn cắp, bị bắt và giam 15 ngày, sau khi điều tra, kết luận đúng là mua nhầm chứ không phải tự mình ăn cắp, thì được thả nhưng trục xuất luôn.

Lạ là, dù bị bắt tạm giam, nhưng việc đầu tiên là cảnh sát hỏi về thực đơn và thói quen ăn uống của mình, thích ăn những món gì, khẩu vị ra sao…, có nhu cầu gì thay đổi về đồ ăn thì cứ “yêu cầu”, họ phải đáp ứng hết. Bị giam nhưng nhiều lúc quên mất là mình đang phạm tội, vì nào là kêu bật điều hòa, tăng nhiệt độ, giảm nhiệt độ, rồi nói đi mua thứ này, đi lấy thứ kia…, cảnh sát chỉ việc “ngoan ngoãn” làm theo yêu cầu. Không bao giờ có chuyện to tiếng hay tỏ thái độ bất lịch sự với mình, chỉ một lòng cúc cung “phục vụ”.

“Hết 15 ngày sau khi đã có kết luận thì được thả, về Đại sứ quán đang chuẩn bị lên đường hồi hương theo lệnh của chính quyền Nhật thì có người của sở cảnh sát tới, mang theo một chiếc áo. Chiếc áo này tôi bỏ quên ở chỗ giam giữ. Mà thực ra cũng chẳng phải bỏ quên, áo rẻ tiền, lại cũ rồi, vứt đi chứ lấy làm gì. Nhưng họ phái 3 cảnh sát mang tới tận nơi, hỏi có phải áo của anh không, giao lại đường hoàng rồi mới đi”.

Ở Nhật, nếu vì lý do nào đó mà anh “ngủ bờ ngủ bụi” thì sẽ có cảnh sát đứng canh cho ngủ, không để ai làm phiền, khi nào anh tỉnh dậy họ có làm gì mới làm, tuyệt đối không quấy rầy giấc ngủ của anh, chỉ tận tụy đứng đó, giữ đồ và “canh giấc ngủ” cho anh!

Ông bạn này còn kể, có một ông già độc thân, cứ thỉnh thoảng lại ăn trộm ít trái cây trong vườn nhà hàng xóm, để được đi tù! Thế là cứ ra tù là lại liền ăn trộm, vì ở trong tù sướng hơn ở ngoài nhiều. Trong đó, được chăm sóc tận tình và đối xử tử tế. Ở Nhật, cảnh sát và người nhà nước đúng nghĩa là “đầy tớ” luôn. Thử vi phạm giao thông mà xem, cứ ngồi trong xe bật điều hòa mát, họ tới ăn nói lễ phép, chỉ thiếu khúm núm xin được kiểm tra nữa thôi. Không bao giờ có chuyện hách dịch kiểu như ở VN chứ đừng nói chuyện vòi tiền…

Anh ta nói, ở Nhật đúng là có hơi “phát xít” thật, vì quy tắc rất nghiêm, cái gì cũng phải nhất nhất tuân thủ, nhưng quyền con người cao lắm, không ai được nhân danh nhà nước để xúc phạm hay đối xử thô bạo với anh, dù anh có phạm tội gì đi chăng nữa.

Còn một chuyện lạ đời này nữa: ví dụ, người dân trồng vài cây trái trong vườn nhưng chủ yếu để cho đẹp chứ rất ít khi ăn, thường để rụng đầy gốc, rồi ra siêu thị mua về dùng. Lý do là cây trái tự mình trồng thật đấy, nhưng vẫn không “chắc ăn”, cứ ra cửa hàng hay siêu thị mua về, ăn nếu lỡ có vấn đề gì thì có chỗ mà bắt đền. Thực phẩm trên thị trường Nhật gần như tuyệt đối an toàn, và nếu có nơi nào bán đồ mà ăn vào “có vấn đề gì” thì chỗ đó chỉ có điêu đứng. Oái oăm thay, ở ta mà muốn bán được hàng thì phải kèm theo câu “nhà làm”…

Những chuyện lan man không đầu không đuôi như thế nhưng cứ làm hiện dần lên hình ảnh của 2 đất nước, như thuộc về hai cõi khác nhau. Đến bao giờ chúng ta mới có được một xã hội vừa nghiêm khắc nhưng lại cũng rất tự do và nhân văn, không còn coi “Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay”* mà vụ án cô giáo Dung vừa minh họa một cách hùng hồn?

Ông bạn bảo, 200 năm nữa, may ra…

*Lời thơ cô giáo Trần Thị Lam:

“Đất nước mình lạ quá phải không anh

Những chiếc bánh chưng vô cùng kỳ vĩ

Những dự án và tượng đài nghìn tỷ

Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay…”

Thái Hạo


 

LÃNG QUÊN HỒNG ÂN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Còn chín người kia đâu?”.

Chuyện kể về một bà mẹ quê, 85 tuổi, hiền hậu mà sâu sắc. Một chiều, con trai bà gọi điện thăm; như bao lần, trước khi gác máy, bà không quên nói, “Cám ơn con!”. Ai ngờ, ba tiếng “Cám ơn con” hôm ấy lại là lời cuối bà dành cho đứa con yêu. Từ ngày mẹ mất, người ấy không bao giờ quên nhẩm tên thánh song thân mỗi khi dâng lễ. Công bằng thôi! Một Linh mục đã được mẹ dạy luôn biết nói “cám ơn”, nghĩa là không để mình lãng quên hồng ân!

Kính thưa Anh Chị em,

‘Lãng quên hồng ân’ – cũng là điều Lời Chúa hôm nay cảnh tỉnh chúng ta. Bởi lắm lúc, chúng ta nhìn mọi sự “chúng ta có”, “chúng ta là” như là điều hiển nhiên. Ấy thế, trong cuộc đời, chẳng có gì là hiển nhiên; tất cả là hồng ân!

Người ta thường viết trên cát những ân phúc, còn những xúi quẩy thì khắc vào cẩm thạch! Chúng ta dễ than phiền về những thiếu thốn hơn là tạ ơn vì những gì đã nhận được. Thật xót xa, nhưng đó là thực tế của căn bệnh ‘lãng quên hồng ân’. Đó cũng là căn bệnh của chín người phong cùi trong Tin Mừng. Trước sự vô tình của họ, Chúa Giêsu ngạc nhiên, “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu?”. “Chúng ta thường xem là hiển nhiên chính những điều đáng được biết ơn nhất!” – Cynthia Ozick.

Chín người ấy được lành bên ngoài nhưng chưa được chữa lành bên trong. Họ có thể đã trở lại nếp cũ, thói cũ, và thái độ cũ. Họ không rút ra được bài học nào từ những năm tháng đớn đau – và đó mới là căn bệnh thật, bệnh vô ơn! “Ai không học được gì từ đau khổ sẽ bị kết án phải lặp lại nó!” – G. Santayana. Ngược lại, người Samari ngoại giáo, và như tướng Naaman trong bài đọc một, đã quay lại tôn vinh và tạ ơn Thiên Chúa. Họ không chỉ được lành thể xác, mà còn được cứu độ linh hồn.

“Sự vô ơn là bức tường ngăn cách giữa Thiên Chúa và các tạo vật, là đập ngăn chặn suối nguồn với dòng sông” – thánh Bênađô. Và thật vậy, “những lời ca tụng của chúng ta không thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại ơn cứu độ cho chúng ta”, vì chúng nuôi dưỡng lòng biết ơn. Càng sống tâm tình tạ ơn, chúng ta càng được Chúa tuôn đổ hồng ân. Và xét cho cùng, vô thần cũng chỉ là một hình thức vô ơn – hậu quả của ‘lãng quên hồng ân!’.

Anh Chị em,

“Còn chín người kia đâu?”. Câu hỏi ấy vẫn vang vọng. Nếu hai tiếng “cám ơn” đã trở nên hiếm hoi trên môi miệng chúng ta, thì đó hẳn là một dấu báo động: sự khô cạn tình Chúa, lạnh lùng tình người. Khi ơn nghĩa bị chối bỏ, tình liên đới trở nên mong manh, và niềm tin chỉ còn là lớp sương mờ bên lề cuộc sống. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta biết ơn trời, biết ơn người, và đừng để mình ‘lãng quên hồng ân!’. Giữa muôn ân phúc, hành động tạ ơn tuyệt vời nhất là tham dự Thánh Lễ – Hy Tế Tạ Ơn – nơi chúng ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì mọi ơn lành, đặc biệt là quà tặng Giêsu, Con Một Ngài, và những gì tuôn chảy từ đó.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, vô ơn là chiếc bóng của vô thần – khép lòng con trước ánh sáng. Xin dạy con luôn biết tạ ơn, và không bao giờ ‘lãng quên hồng ân!’”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***********************************************

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN, NĂM C

Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 17,11-19

11 Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê. 12 Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa 13 và kêu lớn tiếng : “Lạy thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi !” 14 Thấy vậy, Đức Giê-su bảo họ : “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Đang khi đi thì họ được sạch. 15 Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. 16 Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri. 17 Đức Giê-su mới nói : “Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Thế thì chín người kia đâu ? 18 Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?” 19 Rồi Người nói với anh ta : “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”


 

TẠI SAO NHỮNG CA KHÚC TRƯỚC NĂM 1975 VẪN ĐƯỢC ƯA CHUỘNG? – Nguyễn Văn Tuấn

Kimtrong Lam

Nguyễn Văn Tuấn

Hôm nọ, có nghe ông Nguyễn Phú Trọng phàn nàn là Việt Nam không có những bài hát hay. Tôi thì nghĩ khác ông ta, vì Việt Nam có những bài hát hay, có thể ông chưa nghe đó thôi. Chúng ta thử tìm về nhạc thời trước 1975 ở miền Nam xem, có nhiều bài hay lắm chứ, và vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay dù nó bị vùi dập nhiều lần …

Câu hỏi đặt ra là tại sao những bài ca đã được sáng tác hơn nửa thế kỷ trước mà đến nay vẫn còn được giới thưởng ngoạn, từ bình dân đến lịch lãm, đều ưa thích. Tôi nghĩ đến 4 lý do và cũng là đặc điểm của những ca khúc trước 1975 ở miền Nam: tính nhân văn, tự do tư tưởng, tính phong phú, và giàu chất nghệ thuật.

NHÂN VĂN

Thứ nhất là đậm chất nhân văn. Nếu nhìn lại những bài ca trước 1975 ở miền Nam và so sánh với những sáng tác ở miền Bắc, tôi nghĩ ít ai có thể bác bỏ tính nhân văn trong các sáng tác ở trong Nam. Khi nói “nhân văn”, tôi không chỉ nói đến những sáng tác về thân phận con người, mà còn kể cả những sáng tác thuộc dòng nhạc lãng mạn, trữ tình, nói lên cảm xúc của con người trước thời cuộc.

Người ta thường phân nhóm những sáng tác của Trịnh Công Sơn thành hai nhóm tình yêu và thân phận, nhưng tôi nghĩ cách phân nhóm đó cũng có thể áp dụng cho nhiều nhạc sĩ khác như Từ Công Phụng chẳng hạn. Tình yêu không chỉ là tình yêu đôi lứa, mà còn tình yêu quê hương đất nước (“Tôi đi xem để thấy những gì yêu dấu Việt Nam”) và giữa người với người “Tôi yêu bác nông phu đội sương nắng bên bờ ruộng sâu”).

Thỉnh thoảng cũng có một vài bài có chất “máu” (như câu “nhưng thép súng đang còn say máu thù” trong bài “Lính xa nhà”), nhưng cho dù như thế thì câu kết vẫn có hậu “Hẹn em khi khắp trời nở đầy hoa có tôi về”. Có thể nói rằng cái đặc tính nhân văn và nhân bản của những ca khúc trước 1975 ở miền Nam là yếu tố mạnh nhất để phân biệt so với các ca khúc cùng thời ngoài Bắc, vốn lúc nào cũng có nhiều mùi máu và súng đạn.

NGHỆ THUẬT

Cái đặc điểm nổi bật thứ hai là tính nghệ thuật trong các ca khúc. Khi nói “nghệ thuật” tôi muốn nói đến những lời ca đẹp, giàu chất thơ, và những giai điệu đẹp. Những bài ca mà ngay cả từ cái tựa đề đã đẹp. Những Dấu tình sầu, Giáng ngọc, Mùa thu cho em, Nghìn trùng xa cách, Tuổi biết buồn, Thà như giọt mưa, Giọt mưa trên lá, Hạ trắng, Diễm xưa, Ướt mi, và biết bao tựa đề có ý thơ và sâu lắng như thế đã đi vào lòng người thưởng ngoạn.

Thử so sánh những tựa đề của các sáng tác cùng thời ngoài Bắc như Bài ca năm tấn, Em đi làm tín dụng, Chào anh giải phóng quân, chào mùa xuân đại thắng, Người mẹ miền Nam tay không thắng giặc, v.v… thì chúng ta dễ dàng nhận ra sự khác biệt.

Lời ca trong những ca khúc trước 1975 ở miền Nam cũng là những lời đẹp. Tôi thán phục những nhạc sĩ như Phạm Duy, Trầm Tử Thiêng, Hoài Linh [không phải anh hề], Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên (và nhiều nữa) đã viết ra những lời ca đi vào lòng người. Không phải chỉ đơn giản nhân văn theo kiểu những ý tưởng trừu tượng trong sáng tác của Trịnh Công Sơn (ví dụ như “hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi”, hay “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”), nhưng có khi đi thẳng vào vấn đề như Phạm Duy (“Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời”).

Còn nhiều nhiều bài đã đi vào lòng người qua những lời ca đẹp và giản dị: “Hôm xưa tay nắm tay nhau anh hỏi tôi rằng: ‘Những gì trong đời ta ghi sâu vào tâm tư / Không tan theo cùng hư vô, không theo tháng năm phai mờ / Tình nào tha thiết anh ơi?”.

Có những lời ca mà tôi nghĩ giới trẻ ngày nay có thể mỉa mai cười khẩy nói sến, nhưng tuổi trẻ thì thường chưa đủ lớn để cảm những câu như “Phút ban đầu ấy / Thư xanh màu giấy viết nhưng chưa gởi em / Ngõ đi chung một lối / Đôi khi định nói với em một lời.”

Không biết từ thuở nào mà tôi đã mê bài Trộm nhìn nhau và đã từng dự báo rằng bài này có ngày sẽ nổi tiếng. Thời đó, tôi mới về thăm nhà sau 20 năm xa cách, và nhìn người xưa, tôi thấy những câu “Ðôi khi trộm nhìn em / Xem dung nhan đó bây giờ ra sao / Em có còn đôi má đào như ngày nào” sao mà hay quá, hợp cảnh quá. Chỉ trộm nhìn thôi. Lời nhạc rất thơ.

Mà, thật vậy, đa số những lời ca trong các sáng tác trước 1975 được viết ra như vẫn vần thơ hoặc phổ từ thơ. Người phổ thơ thành nhạc hay nhất là Nhạc sĩ Phạm Duy, được xem như là một “phù thủy âm nhạc”. Chính vì thế mà âm nhạc trước 1975 có những lời ca sang trọng. Thời nay, trong môi trường những ca khúc dung tục, rất hiếm thấy những ca khúc có những lời ca đẹp như trước.

Lạ một điều là cũng là nhạc tuyên truyền (ở ngoài Bắc gọi vậy) hay nhạc tâm lý chiến (cách gọi trong Nam), nhưng những sáng tác trong Nam thì lại được người dân nhớ và xưng tụng. Sau cuộc chiến, những bài gọi là “nhạc đỏ”, dù được sự ưu ái của nhà cầm quyền văn hóa, chẳng ai nhớ hay muốn nhớ đến chúng.

Ngược lại, những sáng tác về người lính ở trong Nam thời trước 1975 thì lại còn lưu truyền và nuôi dưỡng trong lòng dân, dù nhà cầm quyền ra sức cấm đoán! Ngay cả những người lính miền Bắc cũng thích những bài hát về lính của các nhạc sĩ trong Nam. Tại sao vậy ? Tôi nghĩ tại vì tính nghệ thuật và nhân bản trong những sáng tác ở miền Nam. Người lính, cho dù là lính cộng sản hay cộng hòa, thì vẫn cảm được những câu “Con biết xuân này mẹ chờ tin con / Khi thấy mai đào nở vàng bên nương” hay “Thư của lính, ba lô làm bàn nên nét chữ không ngay”. Những lời ca đó không có biên giới chính trị.

TỰ DO

Đặc điểm thứ ba là tự do. Dù có kiểm duyệt, nhưng nói chung các nghệ sĩ trước 1975 ở miền Nam có tự do sáng tác. Không ai cấm họ nói lên nỗi đau và những mất mát của chiến tranh. Không ai “đặt hàng” họ viết những bài ca tụng lãnh đạo như ngoài Bắc. Thật vậy, nhìn lại dòng nhạc thời đó, chẳng có một ca khúc nào ca tụng ông Nguyễn Văn Thiệu cả. Có một bài ca tụng ông Ngô Đình Diệm, nhưng cũng chẳng ai ca vì nó được dùng trong mấy rạp chiếu bóng là chính. Thay vì ca ngợi “lãnh tụ” dòng nhạc miền Nam ca ngợi con người và dân tộc, nhưng cũng đồng thời nói lên nỗi đau của chiến tranh.

Trịnh Công Sơn viết hẳn một loạt “Ca khúc Da Vàng” (mà hình như cho đến nay vẫn chưa được phép phổ biến). Trong thời chiến mà họ vẫn có thể phổ biến những sáng tác không có lợi cho chính quyền. Những ca khúc như “Dù anh trở về trên đôi nạng gỗ/ Dù anh trở về bằng chiếc xe lăn” chắc chắn không có cơ may xuất hiện trong âm nhạc miền Bắc thời đó (và ngay cả sau này).

Một trong những ca khúc nổi tiếng nhất trong thời chiến có lẽ là bài “Kỷ vật cho em” (phổ thơ của Linh Phương) với những lời ca ray rứt, bi thảm: “Anh trở lại có thể bằng chiến thắng Pleime/ Hay Đức Cơ, Đồng Xoài, Bình Giã/ Anh trở về anh trở về hàng cây nghiêng ngả/ Anh trở về, có khi là hòm gỗ cài hoa/ Anh trở về bằng chiếc băng ca/ Trên trực thăng sơn màu tang trắng.” Nghe nói ca khúc này đã làm cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa rất khó chịu với nhạc sĩ.

Tiêu biểu cho tinh thần tự do sáng tác có lẽ là tự sự của Phạm Duy: “Tôi đưa ra một câu nói thôi: ‘Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi’ đất nước bơ vơ, nó rối bù đi thì tôi phải khóc thôi. Lúc nào mà đoàn kết thì tôi cười theo. Khóc cười theo mệnh nước. Cái xã hội mình nó rối tung lên như vậy thì làm sao mà mình … Thành thử tôi nghĩ rằng vấn đề là … Các anh yêu tôi thì nói là tôi có sự nghiệp hơi đầy đủ, hơi lớn một tí đấy, nhưng mà riêng tôi thì tôi thấy cho đến giờ phút này thì tôi hoàn toàn thất bại. Bởi vì đất nước đã thống nhất rồi mà lòng người thì không thống nhất, thành thử đại khái nếu mà tôi có chết đi thì tôi hãy còn gần như là tôi không được thỏa mãn.”

Cái tính tự do còn thể hiện qua một thực tế là chính quyền thời đó không cấm đoán việc phổ biến các nhạc sĩ còn ở ngoài Bắc. Những sáng tác của Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Đoàn Chuẩn – Từ Linh, v.v…đều được phổ biến thoải mái trong Nam. Ngay cả bài quốc ca mà chính quyền vẫn sử dụng bài “Tiếng gọi thanh niên” của Lưu Hữu Phước vốn là một người cộng sản. Ngược lại, nhà cầm quyền ngoài Bắc thì lại cấm, không cho phổ biến các sáng tác của các nhạc sĩ trong Nam hay đã vào Nam sinh sống.

ĐA DẠNG

Đặc điểm thứ tư của âm nhạc ngày xưa là tính phong phú về chủ đề. Khác với nhạc ngoài Bắc cùng thời tất cả dồn cho tuyên truyền và kêu gọi chiến tranh, các sáng tác trong Nam không kêu gọi chiến tranh nhưng yêu thương kẻ thù. Nhạc thời đó đáp ứng cho mọi nhu cầu của giới bình dân đến người trí thức, từ người dân đến người lính, từ trẻ em đến người lớn quan tâm đến thời cuộc, từ tình yêu lãng mạn đến triết lýhiện sinh, từ tục ca đến đạo ca, từ nhạc trẻ đến nhạc “tiền chiến”, từ nhạc tâm lý chiến (tuyên truyền) đến nhạc chống chiến tranh, nói chung là đủ cả. Không chỉ sáng tác bằng tiếng Việt mà còn trước tác hay dịch từ các ca khúc nổi tiếng ở nước ngoài để giới thiệu cho công chúng Việt Nam.

Tôi nghĩ bốn đặc điểm đó có thể giải thích tại sao những ca khúc dù đã sáng tác hơn nửa thế kỷ trước mà vẫn còn phổ biến và được yêu chuộng cho đến ngày nay. Mai kia mốt nọ, nếu có người viết lại lịch sử âm nhạc, tôi nghĩ họ sẽ ghi nhận những sáng tác thời trước 1975 ở miền Nam là một kho tàng vàng son của âm nhạc Việt Nam. Như là một quy luật, những bài hát tuyên truyền thô kệch và nhồi sọ, những bài ca sắt máu, những sáng tác kêu gọi giết chóc và hận thù sẽ bị đào thải, và thực tế đã chứng minh điều đó. Ngược lại, chỉ có những sáng tác đậm tính nhân văn, giàu chất nghệ thuật, và phong phú xuất phát từ tinh thần tự do, thì mới tồn tại theo thời gian.

Nguyễn Văn Tuấn.


 

Sao ông Trump không được giải Nobel Hòa Bình?- Hiếu Chân/Người Việt

Ba’o Nguoi-Viet

October 10, 2025

Hiếu Chân/Người Việt

Cuộc tranh luận sôi nổi chung quanh triển vọng đoạt giải Nobel Hòa Bình 2025 của Tổng Thống Mỹ Donald Trump đã ngã ngũ vào rạng sáng Thứ Sáu, 10 Tháng Mười, sau khi Uỷ Ban Nobel Hòa Bình Na Uy (Norwegian Nobel Committee – NNC) công bố quyết định trao giải thưởng cho bà Maria Corina Machado – người lãnh đạo phe đối lập chống độc tài ở Venezuela. Toà Bạch Ốc ngay lập tức ra thông báo lên án NNC “đặt chính trị trên hoà bình.”

Tổng Thống Donald Trump. (Hình: Andrew Caballero-Reynolds/AFP via Getty Images)

Bất ngờ đến phút cuối

Sự kiện ông Trump không được nhận giải năm nay gây bất ngờ lớn cho nhiều người đã chắc mẩm thế nào giải năm nay cũng sẽ về tay nhà lãnh đạo dân tuý “do Chúa chọn” mà họ ủng hộ hết mình, dù bản thân ông Trump có lần bộc lộ một cách cay đắng rằng: “Họ sẽ không bao giờ trao cho tôi giải Nobel Hòa Bình. Thật đáng tiếc. Tôi xứng đáng, nhưng họ sẽ không bao giờ trao cho tôi.”

Vì nghĩ mình xứng đáng nên ông Trump đã nhiều lần yêu cầu chính phủ Na Uy trao giải cho mình, viện dẫn ông có công dàn xếp bảy cuộc xung đột lớn trên thế giới; thậm chí chính quyền của ông lặng lẽ gây áp lực đối với chính phủ Na Uy, buộc họ phải chọn ông để trao giải. Ông là ứng viên duy nhất làm như vậy do ông không nhận ra hoặc phớt lờ sự thật rằng NNC do Quốc Hội Na Uy bổ nhiệm nhưng hoạt động độc lập, không chịu sự chỉ đạo hay can thiệp của chính phủ; chính tính độc lập và khách quan của Ủy Ban Nobel là yếu tố tạo nên uy tín và danh giá của giải thưởng này. Đi xa hơn, trong cuộc “huấn thị” các tướng lãnh quân đội Hoa Kỳ hôm 30 Tháng Chín, ông Trump nói nếu ông không được giải Nobel Hòa Bình năm nay thì đó là “sự lăng nhục nước Mỹ” (!).

Ông Trump cũng là người duy nhất được nhiều nhà lãnh đạo quốc gia đề cử, hầu hết là những nhà độc tài, từ Pakistan, Azerbaijan, đến Cambodia và Israel. Có điều, sự đề cử của các nhà lãnh đạo này gần như chỉ là tâng bốc để ông Trump ban phát đặc ân cho họ mà không hoàn toàn dựa trên thành tích của ông hoặc dựa vào các tiêu chuẩn của giải Nobel. Tuyên bố của ông Trump trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc rằng ông có công dàn xếp bảy cuộc xung đột bị coi là một lời phóng đại, khoe khoang thành tích xa rời thực tế. Thủ Tướng Ấn Độ Narendra Modi chẳng hạn đã phủ nhận “công lao” của ông Trump dàn xếp vụ ngừng bắn giữa Ấn Độ và Pakistan mới đây khiến ông nổi giận và đánh thuế trừng phạt 50% đối hàng hóa Ấn Độ.

Công chúng thế giới dường như có cái nhìn khác với các chính trị gia. Ở mục theo dõi giải Nobel Hòa Bình 2025, trang mạng chuyên dự đoán (prediction) nổi tiếng Polymarket.com ghi nhận, trong ngày Thứ Năm, 9 Tháng Mười – một ngày trước khi công bố kết quả – tỷ lệ đặt cược vào các ứng viên hàng đầu thay đổi chóng mặt. Vào lúc 3 giờ 40 phút chiều, bà Yulia Navalnaya (vợ góa nhà đấu tranh dân chủ Alexei Navalny của Nga) dẫn đầu với 9%, tiếp theo là ông Donald Trump 4.5%, trên cả bà Maria Corina Machado 3.6%, và Đức Giáo Hoàng Leo XIV 0.3%. Nhưng tình hình thay đổi rất nhanh, đến 4 giờ 5 phút chiều, bà Maria Corina Machado vượt lên dẫn đầu với 43.4%, ông Trump xếp thứ hai với 4.8%, vượt qua bà Yulia 4.5%. Nửa giờ sau, lúc 4 giờ 30 phút, cơ hội để bà Maria giành giải Nobel tăng vọt lên 65.2% trong khi các ứng viên còn lại bị giảm, bà Yulia còn 3.5% và ông Trump chỉ còn 2.3% – và dao động quanh tỷ lệ này cho đến lúc NNC xướng danh người thắng giải vào lúc 11 giờ sáng ngày 10 Tháng Mười, giờ Na Uy.

Vì sao ông Trump không xứng đáng được giải?

Không thể phủ nhận Tổng Thống Trump có vai trò quan trọng thúc đẩy Israel và Hamas ký kết thỏa thuận ngừng bắn, trao đổi con tin và tù nhân sau hai năm chiến tranh đẫm máu ở dải Gaza. Chúng tôi đã có bài phân tích vai trò của ông Trump và kế hoạch hòa bình Gaza 20 điểm của ông trên trang báo này. Nhưng ngừng bắn chưa hẳn là hoà bình vĩnh viễn, và không ai dám đoan chắc thỏa thuận ngừng bắn vừa ký kết giữa Israel và Hamas sẽ chấm dứt xung đột. Trong lịch sử, người ta thấy sau Hiệp Định Paris vào Tháng Giêng, 1973 chấm dứt chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, giải Nobel Hòa Bình 1973 được trao cho hai ông Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, cuộc chiến vẫn tiếp tục diễn ra ác liệt dẫn tới sự sụp đổ của chính thể VNCH chỉ hai năm sau đó.

Công lao của ông Trump ở Gaza là rất đáng tuyên dương nhưng đóng góp muộn màng ấy không đủ để xóa đi tác động mà những chính sách gây tranh cãi của chính quyền Trump gây ra cho nước Mỹ và cộng đồng quốc tế. Và đây chính là lý do mà ông Trump chưa được trao giải Nobel, chưa được có tên trên bảng vàng danh dự những người đóng góp lớn cho hòa bình thế giới.

Ngay sau khi kết quả xét chọn giải Nobel Hòa Bình 2025 được công bố, trên trang Foreign Policy In Focus (FPIF), ông Clarence Lusane, giáo sư khoa chính trị học kiêm giám đốc chương trình nghiên cứu quốc tế của đại học Howard University ở thủ đô Washington, DC, đã viết một bài dài chỉ ra 10 lý do khiến ông Trump không xứng đáng với giải thưởng cao quý đó.

Theo Giáo Sư Lusane, ông Trump đã có các chính sách phản hòa bình như ân xá cho 1,500 tù nhân gây ra vụ bạo loạn ngày 6 Tháng Giêng, 2021, chiến dịch chống người nhập cư tàn bạo, đóng cửa cơ quan viện trợ phát triển USAID, đưa Vệ Binh Quốc Gia và quân đội đến các thành phố, đe doạ xâm chiếm Canada, Greenland, và kinh đào Panama, trừng phạt Brazil và Tòa Hình Sự Quốc Tế vì “tội” truy tố các đồng minh chính trị của ông, ném bom cơ sở nguyên tử của Iran và rút Mỹ ra khỏi các tổ chức quốc tế quan trọng; chưa kể việc tấn công giết người mà không xét xử, không có chứng cứ tội phạm trên vùng biển quốc tế gần Venezuela mới đây.

“Chính sách chuyên chế của ông ấy nhằm định hình lại nước Mỹ và hạ thấp tất cả các định chế chính quyền, xã hội, tài chính, và văn hóa, tự nó là một mối đe doạ hòa bình”… “Chính sách cai trị độc tài và phản dân chủ của ông ngày càng trở nên nguy hiểm và tai hại hơn, không chỉ đối với Hoa Kỳ mà còn đối với toàn bộ cộng đồng quốc tế,” Giáo Sư Lusane viết và cho rằng ông Trump chẳng những không đủ tiêu chuẩn để được giải mà còn “đáng bị loại khỏi danh sách đề cử.”

Một cuộc thăm dò của Washington Post-Ipsos cho thấy 76% người Mỹ không cho rằng ông Trump xứng đáng với giải thưởng Nobel, bao gồm 49% người Cộng Hòa.

Dân chủ là điều kiện của hoà bình

Uỷ Ban Nobel Hòa Bình, trong thông cáo báo chí phát hành cùng với việc xướng danh người được giải, nhận định: “Dân chủ là điều kiện tiên quyết của hòa bình bền vững. Nhưng chúng ta đang sống trong một thế giới mà dân chủ đang thoái trào, ngày càng nhiều các chế độ chuyên chế thách thức các quy tắc và lạm dụng bạo lực… Chúng ta đang chứng kiến một xu hướng toàn cầu: Pháp quyền bị các nhà cai trị lạm dụng, truyền thông tự do bị bịt miệng, người phản biện bị cầm tù và các xã hội bị đẩy về hướng chuyên chế, quân sự hóa.”
Bà Maria Corina Machado, 58 tuổi, hiện đang phải lẩn trốn sự truy lùng của nhà cầm quyền của Tổng Thóng Nicolas Maduro, được cho là người “đang đấu tranh không mệt mỏi để thúc đẩy các quyền dân chủ cho người dân Venezuela và cho sự chuyển tiếp hòa bình từ độc tài sang dân chủ.” Trao giải Nobel cho bà, NNC muốn “giữ ngọn lửa dân chủ cháy sáng trong bóng tối ngày càng dày đặc,” thông cáo viết.

Xem ra, với NNC, hòa bình gắn liền với dân chủ, chỉ thể chế dân chủ mới bảo đảm mối quan hệ hòa bình giữa các dân tộc; ngược lại, các thể chế độc tài thường sử dụng bạo lực để tranh đoạt và duy trì quyền lực. Chiến tranh xâm lược của Nga tại Ukraine, vụ tấn công hèn hạ và dã man của tổ chức Hamas vào Israel cũng như vụ trả đũa tàn khốc vào người Palestine của chính quyền cực hữu Do Thái cho thấy ở đâu thiếu vắng dân chủ thì bạo lực lộng hành và hòa bình bị thủ tiêu trong bom đạn.

Cần tôn vinh những người bảo vệ dân chủ

“Khi các nhà chuyên chế nắm quyền lực, điều cấp bách là phải công nhận những người bảo vệ dũng cảm của tự do, những người đứng lên và phản kháng. Dân chủ phụ thuộc vào những người không chấp nhận im lặng, những người dám tiến về phía trước bất chấp rủi ro sinh tử, và những người nhắc nhở chúng ta rằng tự do không bao giờ là thứ mặc nhiên được hưởng mà phải luôn được bảo vệ – bằng ngôn từ, với lòng can đảm và cương quyết,” thông cáo của NNC khẳng định.

Quan điểm về hòa bình, dân chủ, tự do như vậy đã là nền tảng tư tưởng để NNC trao giải Nobel Hòa Bình cho các nhà đấu tranh dân chủ như Nelson Mandela của Nam Phi, Martin Luther King Jr. của Mỹ, Aung San Suu Kyi của Miến Điện, Lưu Hiểu Ba của Trung Quốc, và mới đây là Malala Yousafzai của Afghanistan (2014). Việc trao giải cho bà Maria Corina Machado năm nay tiếp tục xu thế đó.

Uỷ Ban Nobel không nhắc tới ông Trump và các ứng viên khác, nhưng rõ ràng quan điểm lựa chọn của họ hoàn toàn trái ngược với ông Trump, với đường lối mà ông đang thực hiện ở Mỹ theo hướng ngày càng độc tài chuyên chế, xa rời các chuẩn mực dân chủ, pháp quyền. Nếu ông Trump không thay đổi chính sách thì không chỉ năm nay mà trong nhiều năm tới, ông vẫn chưa thể chạm tay vào giải Nobel Hòa Bình danh giá dù ông có khao khát đến đâu. Một cuộc khảo sát dư luận của YouGov UK công bố sáng 10 Tháng Mười ghi nhận có tới 69% người Anh cho rằng trong tương lai, ông Donald Trump không nên được trao giải Nobel Hòa Bình, chỉ có 14% cho rằng ông xứng đáng, và 17% không có ý kiến. [đ.d.]


 

Sự sống vĩnh hằng là gì?- Cha Vuong

Tạ ơn Chúa đã ban cho bạn một ngày mới để đổi mới đời mình trong mối tình không đổi thay của Chúa. Hãy nhớ cầu nguyện cho nhau nhé.

Thư 7: 11/10/2025. t3-22

GIÁO LÝ: Sự sống vĩnh hằng là gì? Sự Sống vĩnh hằng đã khởi đầu khi ta lãnh Bí tích Rửa tội. Nó tiếp tục sau khi chết và nó sẽ vô cùng tận. (YouCat, số 156)

SUY NIỆM: Những người yêu nhau có kinh nghiệm rằng: họ muốn cho chuyện tình của họ không ngừng lại bao giờ. Thiên Chúa là tình yêu, thư thứ nhất của thánh Gioan nói thế (1Ga 4:16). Thư thứ nhất gửi Côrintô nói đức ái không bao giờ mất được (1Cr 13:8). Thiên Chúa thì vĩnh hằng vì Người là tình yêu và tình yêu thì vĩnh hằng bởi vì tình yêu là thần thiêng. Khi ta sống trong tình yêu, là ta đi vào hiện tại vĩnh viễn của Thiên Chúa. Anh em thân mến, một điều duy nhất, xin anh em đừng quên, đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. (2 Pr 3:8) (YouCat, số 156 t.t.)

❦ Thời gian để tìm Chúa, đó là sống. Thời gian để tìm được Chúa, đó là chết. Thời gian để có được Chúa là đời đời. (Thánh Phanxicô Salêdiô)

LẮNG NGHE: Phúc thay người lắng nghe ta dạy, ngày ngày canh thức trước cửa nhà ta, túc trực ở ngay lối ra vào. Vì gặp được ta là gặp sự sống, và hưởng ân lộc ĐỨC CHÚA ban cho. (Cn 8:34-35)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, hạnh phúc tuyệt đối và trường cửu là của Chúa. Xin  cho con biết dành thời giờ Chúa ban để kết hiệp với Chúa qua việc tích cực tham dự các Bí Tích và sống Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh của đời con.

THỰC HÀNH: Khi tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật, bạn cảm thấy thế nào khi tuyên xưng “Tôi tin hằng sống vậy.”? 

From Do Dzung

************************

Đời Vui Mấy Khi Con Cần Chúa – Thánh Ca Công Giáo 2024

Bà Maria Corina Machado thắng giải Nobel Hòa bình 2025 và ý nghĩa của sự kiện

Nguyễn Phan

Bà Maria Corina Machado thắng giải Nobel Hòa bình 2025 và ý nghĩa của sự kiện

Khoảng 60 phút trước có tin bà Maria Corina Machado thắng giải giải Nobel Hòa bình năm nay vì những nỗ lực không ngừng nghỉ trong việc thúc đẩy dân chủ và nhân quyền tại Venezuela, bất chấp nguy hiểm cá nhân và áp lực chính trị.

Bà Machado, sinh năm 1967 tại Venezuela, là một kỹ sư và chuyên gia tài chính, đồng thời là một trong những khuôn mặt đối lập nổi bật nhất trên chính trường Venezuela hiện tại. Bà khởi đầu sự nghiệp xã hội vào năm 1992 khi sáng lập Quỹ Atenea, tổ chức hỗ trợ trẻ em đường phố tại thủ đô Caracas. Năm 2002, bà cùng các cộng sự thành lập Súmate, một tổ chức phi chính phủ chuyên giám sát bầu cử và vận động cho các cuộc bầu cử tự do, công bằng. Những hoạt động này đã đặt nền móng cho vai trò chính trị của bà trong những năm sau đó.

Năm 2010, bà Machado được bầu vào Quốc hội Venezuela với số phiếu kỷ lục, thể hiện sự ủng hộ rộng rãi từ công chúng. Tuy nhiên, đến năm 2014, bà bị chính quyền trục xuất khỏi Quốc hội, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đấu tranh dân chủ của bà. Không chùn bước, bà tiếp tục lãnh đạo đảng đối lập Vente Venezuela và đồng sáng lập liên minh Soy Venezuela vào năm 2017, với mục tiêu thống nhất các lực lượng dân chủ trong nước vốn chia rẽ khá nặng nề.

Năm 2023, bà tuyên bố tranh cử tổng thống cho kỳ bầu cử năm 2024, nhưng bị chính quyền cấm tham gia. Thay vì rút lui, bà ủng hộ ứng viên thay thế Edmundo González Urrutia, giúp phe đối lập duy trì sự đoàn kết và tiếp tục cuộc vận động dân chủ. Dù chính quyền tuyên bố chiến thắng, phe đối lập đã thu thập bằng chứng cho thấy kết quả bị thao túng, và bà Machado vẫn kiên trì ở lại trong nước, bất chấp các mối đe dọa đến tính mạng.

Ủy ban Nobel Na Uy đã vinh danh bà với giải Nobel Hòa bình 2025 vì “những nỗ lực không mệt mỏi trong việc thúc đẩy quyền dân chủ cho người dân Venezuela và cuộc đấu tranh nhằm đạt được một quá trình chuyển đổi công bằng và hòa bình từ chế độ độc tài sang dân chủ”. Chủ tịch Ủy ban, ông Jørgen Watne Frydnes, gọi bà là “nhân vật thống nhất chủ chốt trong một phe đối lập từng chia rẽ sâu sắc”, người đã giúp các lực lượng dân chủ tìm được tiếng nói chung trong yêu cầu về bầu cử tự do và chính quyền đại diện.

Giải thưởng này không chỉ là sự ghi nhận cá nhân mà còn mang tính biểu tượng cho phong trào dân chủ tại Mỹ Latinh. Trong bối cảnh dân chủ toàn cầu đang bị thách thức nghiêm trọng, việc trao giải cho bà Maria Corina Machado là lời khẳng định mạnh mẽ rằng cuộc đấu tranh vì quyền tự do, nhân phẩm và công lý luôn được cộng đồng quốc tế trân trọng và bảo vệ.

Dù có lúc giải Nobel hòa bình được trao không đúng người như trường hợp Kissinger và Lê Đức Thọ vào năm 1973, nhưng giải cho bà Machado thì rất hợp lý cho một người phụ nữ mạnh mẽ, dám hy sinh cho xã hội trong nhiều năm trời.

PS: Thủ tướng Đức Friedrich Merz vừa lên tiếng chúc mừng bà Machado và nói: “Những cá nhân can đảm nuôi sống nền dân chủ” để ngợi khen sự can trường của bà trước bạo lực của chế độ độc tài Venezuela.


 

NGƯỜI ANH HÙNG TRÊN CON TÀU ĐỊNH MỆNH KG 3640

Tỵ Nạn Bidong 

NGƯỜI ANH HÙNG TRÊN CON TÀU ĐỊNH MỆNH KG 3640

(Kỷ niệm về một người lính Thủy Quân Lục Chiến VNCH – anh Tài Công)

Kỷ niệm không thể phai

Nếu ai hỏi tôi, kỷ niệm nào sâu đậm nhất trong hành trình vượt biển tìm tự do – trước khi đặt chân lên đảo Pulau Bidong, tôi sẽ không ngần ngại mà nói:

“Đó là hình ảnh anh Tài Công, người Thủy Quân Lục Chiến của tàu chúng tôi – KG 3640, số thứ tự 367.”

Giữa biển trời sinh tử

Hôm ấy, con tàu ọp ẹp chở đầy những người bỏ xứ ra đi, dập dềnh giữa trùng khơi mênh mông. Nước tràn dần vào khoang, thân tàu rệu rã.

Trước mặt chúng tôi là đất liền Mã Lai – chỉ hơn hai trăm mét, gần trong tầm mắt mà xa như cõi mơ.

Bất ngờ, tiếng quát tháo và súng nổ vang lên từ phía bờ.

Bọn lính Mã Lai đứng thành hàng, nòng súng chĩa thẳng ra khơi, xua đuổi con tàu nhỏ bé đang thoi thóp.

Những phát đạn thị uy rít lên trên mặt sóng, tiếng gió hòa cùng tiếng khóc của phụ nữ, tiếng nức nở của trẻ em. Không khí trên tàu bao trùm nỗi tuyệt vọng.

Khoảnh khắc người lính bước ra ánh sáng

Giữa giây phút ấy, anh Tài Công – cựu sinh viên Đại học Phú Thọ, người lính Thủy Quân Lục Chiến VNCH – đứng bật dậy.

Gương mặt sạm nắng, đôi mắt sáng quắc, anh bước ra mũi tàu.

Không một lời hô hào, anh nhảy xuống biển, bơi thẳng vào bờ, giữa làn đạn rít và sóng dữ.

Trước những nòng súng lạnh lùng đang chĩa thẳng vào mình, anh không hề run sợ.

Giữa gió biển và tiếng sóng, anh cất cao giọng – tiếng Anh vang dội, mạnh mẽ và đầy khí phách:

“Con tàu này đã thủng đáy, không thể ra khơi nữa!

Trên tàu là những con người vô tội – phụ nữ, trẻ em, người già.

Các anh có thể nhẫn tâm xua họ đi vào chỗ chết sao?”

Giọng anh vang lên như tiếng sét giữa biển trời, làm khựng lại những bước chân đang hung hăng.

Ánh mắt anh sáng rực, cứng rắn mà nhân hậu – ánh mắt của người lính từng quen nhìn thẳng vào cái chết, nhưng vẫn chọn cứu người.

Khi lòng can đảm lay động bạo lực

Toán lính Mã Lai, thoáng chốc lúng túng.

Rồi, như bị khuất phục bởi khí phách và lẽ phải, họ hạ súng, ra hiệu cho con tàu được phép tiến gần bờ.

Lúc ấy, tàu đã nghiêng ngả, thân tàu vỡ toác.

Mọi người dìu dắt nhau, bồng bế trẻ em, lội dần vào đất liền trong nước mắt, giữa tiếng gió và tiếng cầu nguyện.

Những bước chân yếu ớt nhưng chan chứa niềm tin vào sự sống –

và trong tim tất cả, hình ảnh người lính ấy hiên ngang, bất khuất, nhân từ.

Sau bốn mươi lăm năm nhìn lại

Đã hơn bốn mươi lăm năm trôi qua…

Nhưng trong ký ức tôi, hình ảnh anh Tài Công – người lính Thủy Quân Lục Chiến VNCH trên con tàu KG 3640 vẫn còn nguyên vẹn.

Anh – người đã dám đứng lên, dám bước ra khỏi cái chết, để mở đường sống cho đồng bào mình.

Không ai phong anh là anh hùng.

Nhưng trong lòng chúng tôi – những người sống sót – anh mãi là người anh hùng vô danh của biển cả, người đã viết nên một trang sáng chói trong hành trình thuyền nhân vượt biển tìm tự do.

Lời gọi hồn biển

Giờ đây, giữa cuộc sống bình yên nơi đất mới, đôi khi tôi vẫn tự hỏi:

“Anh ở đâu, anh Tài Công của con tàu KG 3640?

Anh còn nhớ chuyến tàu định mệnh năm ấy chăng?”

Nếu một mai có dịp gặp lại, tôi chỉ muốn cúi đầu nói một lời:

“Cảm ơn anh – người lính Thủy Quân Lục Chiến của quê hương tôi.”

Những người muôn năm cũ – Hồn ở đâu bây giờ?

Xin nguyện thắp nén hương lòng,

Tưởng nhớ và tri ân anh – người anh hùng giữa lòng biển lớn.


 

LŨ LỤT LỊCH SỬ, THÁI NGUYÊN THIỆT HẠI 4.000 TỶ ĐỒNG – BBC

BBC News Tiếng Việt

 LŨ LỤT LỊCH SỬ, THÁI NGUYÊN THIỆT HẠI 4.000 TỶ ĐỒNG

Theo Cục Quản lý đê điều và Phòng chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), lũ lụt lịch sử những ngày qua gây thiệt hại kinh tế cho ba tỉnh Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn ước khoảng 7.050 tỷ đồng, theo số liệu được đưa ra vào sáng ngày 11/10.

Con số này vào chiều 10/10 là 5.450 tỷ đồng.

Trong hơn 7.000 tỷ đồng thiệt hại nói trên, Thái Nguyên bị nặng nề nhất với 4.000 tỷ đồng, trong khi Cao Bằng 2.000 tỷ đồng và Lạng Sơn 1.050 tỷ đồng.

Bên cạnh đó, đã có 230.200 căn nhà bị ngập, chủ yếu ở Thái Nguyên, Bắc Ninh, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Nội, Tuyên Quang, Sơn La. Thái Nguyên tiếp tục là tỉnh gánh chịu nhiều thiệt hại nhất khi có đến khoảng 200.000 căn nhà bị ngập.

Tính đến 6 giờ sáng ngày 11/10, tổng cộng vẫn còn gần 13.000 căn nhà bị ngập.

Mưa lũ cũng gây mất điện ở nhiều tỉnh thành.

Vào hôm 7/10, Đập thủy điện Bắc Khê 1 ở Lạng Sơn đã bị vỡ do lưu lượng nước lũ về hồ tăng nhanh.

Nhiều tuyến đê tại các tỉnh thành như Thái Nguyên, Hà Nội, Bắc Ninh đã phải gia cố để chống tràn trên phạm vi lớn.

Theo Cục Quản lý đê điều và Phòng chống thiên tai, các địa phương đang tiếp tục rà soát, thống kê thiệt hại.

VGP/ Công an Thái Nguyên

#BBCNewsTiengViet

#Thientai

#Lulut


 

CÁCH TA CÚI XUỐNG

U 70 LVC.

Thầy Lê Văn Thông

 CÁCH TA CÚI XUỐNG

Buổi trưa, khu vườn nhỏ trước tòa nhà lớn ngập nắng. Một người phụ nữ sang trọng cùng cậu con trai nhỏ ngồi trên ghế đá. Họ vừa ăn, vừa trò chuyện vui vẻ. Rồi người phụ nữ tiện tay ném tờ giấy gói xuống đất.

Một ông lão mặc bộ đồ làm vườn cũ kỹ, lặng lẽ bước đến nhặt, bỏ vào thùng rác. Bà ta nhìn thấy, nhưng chẳng mảy may quan tâm. Vài phút sau, hành động ấy lặp lại — rồi lại lặp lại. Ba lần như thế, ông vẫn kiên nhẫn cúi xuống, không nói một lời.

Người phụ nữ khẽ cười với con trai:

— Con nhìn đi, nếu không chịu học, sau này con cũng chỉ có thể làm những việc thấp hèn như ông ấy thôi.

Ông lão dừng tay, giọng trầm nhưng nhẹ:

— Cô vào đây bằng cách nào vậy? Đây là khu riêng của tập đoàn.

Người phụ nữ đáp, vẻ kiêu hãnh:

— Tôi vừa được nhận vào làm ở bộ phận quản lý.

Đúng lúc ấy, một chàng trai trẻ hối hả chạy đến:

— Thưa tổng giám đốc, cuộc họp sắp bắt đầu rồi ạ!

Không khí lặng đi. Người phụ nữ sững sờ, mặt thoáng tái. Ông lão đặt kéo xuống, điềm nhiên nói:

— Hủy quyết định tuyển dụng của cô này.

Rồi ông bước tới bên cậu bé, khẽ vuốt tóc, giọng dịu dàng mà ấm áp:

— Cháu à, học hành là để trở thành người tử tế, chứ không phải để đứng trên ai khác. Không có công việc nào là hèn mọn — chỉ có những con người tự đánh mất phẩm cách mới trở nên nhỏ bé thôi.

Cơn gió chiều lướt qua, làm tà váy người mẹ khẽ run. Cậu bé cúi đầu, ánh mắt bỗng khác đi.

Giữa khu vườn ngập nắng, ông lão lại cúi xuống, tiếp tục tỉa những nhành cây non.

Dáng ông bình dị, nhưng trong từng lần cúi ấy — là cách một con người giữ gìn sự cao quý của chính mình.

(LVT sưu tầm và biên tập lại)


 

VÔ LIÊM SỈ – Chủ biên sách lớp 1 nhưng cho cháu nội mình học bên trời tây.

Xuyên Sơn

VÔ LIÊM SỈ

Sáng mắt ra chưa?

Chủ biên sách lớp 1 nhưng cho cháu nội mình học bên trời tây.

Dân VN quá dễ bị gạt từ anh hốt rác, cô kỹ sư, chị lao công, chú xe ôm, cô bác sĩ, cô/chú giáo viên….. cắm đầu mua sách dỏm cho con mà không dám lên tiếng… họ mới làm vậy được.

Gặp dân giãy chết là bị xách ra luận tội lâu rồi.

Tại sao GS-TS Nguyễn Minh Thuyết không dạy cháu Nội ông bằng chính bộ sách ông biên soạn, mà cho cháu Nội ông đi du học từ cấp I, để tỵ nạn giáo dục, từ tiền chia % bán sách?

Người đàn ông phía dưới là GS-TS Nguyễn Minh Thuyết, từng là đại biểu quốc hội, vừa qua là TỔNG CHỦ BIÊN bộ sách TIẾNG VIỆT 1 đầy tai tiếng mà ông Thuyết biện luận rằng sáng tạo, giáo dục thông minh cho con trẻ….

Ông là GS-TS tổng chủ biên, tại sao ông lại cho cháu nội ông đi tỵ nạn giáo dục từ cấp tiểu học tại Singapore, sau khi hết cấp một ông và gia đình lại cho cháu nội ông du học qua xứ giãy chết.

Tiền đâu các ông có nhiều vậy nếu không phải là do bóp cổ anh công nhân vệ sinh, chị bán hàng xén ký sinh trùng khắp nơi trên dải  đất gian nan khó nhọc hình chữ S này phải chắt chiu từng đồng để mua bộ sách lớp 1 cho ông và ban biên tập của ông ngồi mát, ăn bát vàng và có tiền gửi con cháu tỵ nạn giáo dục ở xứ giãy chết?

Đất nước này nghèo nàn và lạc hậu cũng vì những người như Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Công Khế, Nguyễn Thị Quyết Tâm… nói một đường làm một nẻo như quý vị.

Người dân VN trong nước và ngoài nước  nếu có lương tâm, hãy cùng nhau lên tiếng và đưa ra dư luận những hành động nói một đường làm một nẻo như trên.

PS:

Hình phía dưới ông khoe tiệc sinh nhật của cháu Nội ông ở Singapore trước khi lên đường đi nước khác du học, trong khi một bé gái khác bằng tuổi phải chầu chực bán từng tờ vé số sinh nhai.

KỸ SƯ TRANG.

Nguồn Fb Tấn Trần

Nguồn Nhật ký yêu nước