Những nghiên cứu khoa học xác nhận: Thiện – ác tất có báo ứng

Khoa học đã chứng minh, những người lương thiện, thích giúp đỡ người khác có đời sống hạnh phúc và tuổi thọ lâu hơn. Những người trong tâm chứa đầy oán hận, làm việc ác thì dễ sinh các bệnh tật và “ra đi” sớm hơn. Điều này đã minh chứng cho câu nói “thiện ác hữu báo” thật sự tồn tại.

M.TRITHUCVN.NET

Những nghiên cứu khoa học xác nhận: Thiện – ác tất có báo ứng – Trí Thức VN

Nhiều nghiên cứu ngày nay cũng đã xác nhận rằng thiện và ác thật sự có ảnh hưởng đến cơ thể và làm những việc tốt có thể kéo dài tuổi thọ của một người.

Vài trường hợp ác giả ác báo trong lịch sử

Cổ nhân giảng: “Không quên việc trước, dùng đó làm tấm gương cho việc sau”, lịch sử không chỉ truyền lại văn hóa mà còn cho hậu thế hiểu thế nào là thiện là ác. “Đường sơ quan tu sử thư” lại ghi: “Trừng trị cái ác khuyến khích cái thiện, ghi lại nhiều chuyện đời xưa, lấy đó làm gương cho hậu thế”. Xưa cũng có câu rằng: “Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà không lọt”, “thiện ác đều có báo ứng, chỉ là sớm hay muộn mà thôi.” Những câu này đều để răn đe kẻ ác là làm việc ác tất sẽ bị báo ứng. Nhìn vào sử sách với một tâm thuần tịnh, không khó để mặc khải ra đạo lý ác giả ác báo này.

ác báo
(Hình minh họa: Qua ent.sina)

Liên tiếp ba viên quan hại người gặp ác báo

Thời Võ Tắc Thiên nắm quyền, có một vị quan tên là Sách Nguyên Lễ thành danh bằng cách tố cáo vu oan giá họa người khác, hại người nhiều vô kể.

Sau này nhiều người tố cáo Sách Nguyên Lễ âm mưu tạo phản nên ông ta bị tống vào nhà lao. Lúc ấy, quan xét xử Sách Nguyên Lễ lại chính là thuộc hạ của ông ta. Thấy Sách Nguyên Lễ không chịu nhận tội, vị quan xét xử này lạnh lùng nói: “Mang cái lồng sắt của Sách công ra đây!”

Vừa nghe thấy câu này, Sách Nguyên Lễ đã toàn thân run rẩy, lập tức cúi đầu nhận tội. Cuối cùng ông ta đã bị chết thảm trong nhà lao.

Một vị quan khác là Chu Hưng dưới thời Võ Tắc Thiên cũng thành danh nhờ ngụy tạo án oan “mưu phản”. Khi ông ta đương chức cũng dùng cách bức cung nhục hình tàn khốc, gây ra vô số án oan, hàng ngàn người bị ông ta hãm hại. Sau này Chu Hưng cũng lại bị kẻ khác tố cáo “tạo phản”.

Người xét xử Chu Hưng là một vị quan khác, tên là Tuấn Thần. Trước đây trong một dịp Tuấn Thần ngồi ăn cùng Chu Hưng có thỉnh giáo Chu Hưng về phương pháp ép phạm nhân nhận tội.

Chu Hưng hãnh diện nói: “Việc này không khó, chỉ cần đệ bỏ phạm nhân vào cái chum to rồi châm lửa đốt xung quanh thì lo gì hắn không nhận tội!”

Sau này khi đến lượt Tuấn Thần xét xử Chu Hưng, ông ta đã nói: “Đệ phụng theo mật chỉ, nói có người tố cáo huynh mưu phản, mời huynh vào chum đi!”

Chu Hưng vừa nghe bốn chữ “mời huynh vào chum” thì hồn bay phách lạc, toàn thân mềm nhũn, liên tục rập đầu nhận tội.

Về sau, Tuấn Thần cũng không thoát khỏi kết cục bị ác báo bi thảm. Thời gian tại vị ông ta cũng làm quá nhiều việc ác, dùng nhục hình giết hại vô số người.

Khi Tuấn Thần tra khảo thì không kể nặng nhẹ đều đổ nước muối vào lỗ mũi để bắt họ nhận tội. Ông ta còn đào đất làm nhà lao dưới nước để ngâm phạm nhân vào trong nước hành hạ, còn bỏ đói không cho ăn khiến phạm nhân vì đói mà phải nuốt y phục thay lương thực. Nói chung, phương sách của Tuấn Thần là chưa chết thì chưa chịu buông tha.

Đến năm 697, Tuấn Thần 47 tuổi cũng bị người tố cáo phạm vào tội danh “mưu phản”. Sau đó không lâu, ông ta bị đưa lên pháp trường xử trảm. Những người căm hận ông ta nghe tin này đều tới pháp trường chứng kiến và tranh nhau xẻ thịt ông ta, chỉ trong ít phút, xác Tuấn Thần đã tan nát.

Bất kính với Thần linh, bạo quân bị sét đánh

Bậc quân vương thời cổ đại muốn được lòng dân để có thể giữ giang sơn yên bình vững vàng, thì đều chú ý làm lễ tế trời, cầu xin Thần linh che chở. Thế nhưng trong lịch sử cũng có những bạo quân bất kính với Trời Đất. Trong “Sử ký – Ân bản kỷ” ghi lại một sự kiện như sau:

Vua Võ Ất nhà Ân là vị vua bạo ngược vô đạo, kiêu căng ngông cuồng, bất kính với trời đất. Ông ta từng cho thợ làm tượng gỗ rồi gọi đó là “thiên thần”. Võ Ất còn sai người đóng vai “thiên thần” để cùng nhau chơi cờ phân thắng bại với mình, hoặc bắt người và “thiên thần” giả đánh nhau. Nếu “thiên thần” thua, Võ Ất sẽ bắt mọi người tra tấn và làm nhục “thiên thần”. Ngoài ra, Võ Ất còn làm một cái túi da cho đầy máu vào trong, treo lên cao và giương cung bắn rồi nói rằng đây là ta đang “bắn trời”.

Võ Ất tại vị được 5 năm. Trong một lần đi săn đến chỗ sông Vị Thủy, Hoàng Hà, thì bỗng nhiên sấm sét nổi lên, đánh chết ông ta. Sử sách ghi chép rằng, Võ Ất chết vô cùng thê thảm.

Nhiều vị quân chủ đời sau luôn lấy chuyện này làm tấm gương cho mình. Họ cũng rất coi trọng việc tôn kính Trời Đất, không dám làm việc càn quấy vì sợ bị quả báo giống như Võ Ất.

An Hòa

CHUYỆN TÙ “CẢI TẠO” CỦA PHÓ TỔNG THANH TRA NGÂN HÀNG QUỐC GIA VNCH – TRẦN ĐỖ CUNG

CHUYỆN TÙ “CẢI TẠO” CỦA PHÓ TỔNG THANH TRA NGÂN HÀNG 

QUỐC GIA VNCH – TRẦN ĐỖ CUNG

 “…Phí phạm “chất xám” như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu. Bây giờ kêu gọi trí thức và “chất xám” trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và có tin được chăng?…”

Một bạn thân ở Montréal Canada vừa gửi cho tôi cuốn Pháp ngữ Souvenirs et Pensées, viết bởi Bà Bác Sỹ Nguyễn Thị Đảnh và được Bác Sỹ Từ Uyên chuyển qua Việt Ngữ. Bạn lại khuyến khích tôi nếu có thì giờ thì chuyển qua Anh Ngữ theo sự mong muốn của tác giả. Sau khi đọc tôi thấy đặc biệt ở chỗ tù cải tạo này là một chuyên viên tài chính ngân hàng, khác hẳn trường hợp thường thấy của các sỹ quan trong quân lực. Ông Thảo bị đầy đọa sáu năm rưỡi trời để hy vọng moi các hiểu biết của ông về tài sản Ngân Hàng Quốc Gia.

Bà Bác Sỹ Đảnh nay định cư tại Oslo Na Uy là một phụ nữ miền Nam, Tây học. Phu quân Đỗ Văn Thảo cũng là người Nam, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1927 tại Gò Công. Sau khi tốt nghiệp Đại Học tại Pháp ông Thảo đã về làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam từ tháng Tư năm 1955. Ông đã giữ chức Giám Đốc Nha Ngoại Viện rồi Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng  Quốc Gia cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975. Ông bị đi tù cải tạo tháng 6 năm 1975 rồi bị lưu đầy ra Bắc cho đến tháng 9 năm 1980. Đến tỵ nạn chính trị tại Bergen, Na Uy tháng 12 năm 1981, ông tạ thế tháng Giêng năm 2001 tại Oslo, Na Uy vì trụy tim.

Câu chuyện Bà Bác Sỹ Đảnh kể lại về sự tù tội Việt Cộng của đức lang quân cho thấy đặc biệt có ba khía cạnh. Là người Nam thuần túy, là chuyên viên được huấn luyện công phu và chưa bao giờ liên quan đến quân đội. Nhưng Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam đã hành xử như quân xâm lăng, cầm tù những chuyên viên rồi vơ vét của cải đem về như Phát Xít Đức Quốc Xã khi tiến vào Paris. Sự thiển cận của họ đã đưa đến sự kiệt quệ tột cùng cho đến bây giờ vẫn chưa ngóc đầu lên ngang hàng với các nước lân bang. Nay mở miệng mời chào người Việt nước ngoài trở về đem chất xám giúp nước thì thử hỏi có nghe được không?

Câu chuyện do bà Đảnh kể lại trong thời kỳ gia đình bị kẹt vì lỡ chuyến ra đi của tầu Việt Nam Thương Tín. Những ôn tưởng chỉ được ông Thảo thỉnh thoảng nhắc đến vì ông không muốn trải qua một lần nữa những hình ảnh dã man mà ông đã trải qua. Bà hết sức căm nước Pháp đã hùa theo Việt Cộng chỉ vì thù Mỹ đã không giúp họ xâm chiếm lại xứ Việt Nam trù phú sau khi Thế Chiến II chấm dứt. Bất hạnh cho Việt Nam, trong khi cộng sản Nga Hoa chỉ ngầm giúp Hà Nội thì Mỹ ồn ào đổ quân vào làm mất chính nghĩa của chúng ta đã bị nhóm thiên tả và CS cơ hội bóp méo thành chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Bà viết để vinh danh những ai đã trải qua địa ngục trần gian tù cải tạo Việt Cộng. Và cũng để nói lên lời an ủi tới những ai đã bị phân tán ra bốn phương trời, làm cho không những mất gốc  mà còn mất cả cá tính nữa.

Bà cùng gia đình bị kẹt lại trong cư xá sang trọng của Ngân Hàng nằm trên đường nhỏ hướng ra cầu xa lộ mới. Bà thấy rõ sự chiến đấu dũng cảm của một Trung Đội Nhẩy Dù với 20 binh sĩ chỉ huy bởi một Thiếu Úy trẻ măng có vẻ mới ra trường. Nhìn các quân nhân rắn chắc, nét mặt kiêu hùng và người chỉ huy Thiếu Úy trẻ nhưng chững chạc, bà đã chia xẻ đồ ăn với họ và có cảm tưởng đã cùng họ chiến đấu. Cuối cùng tất cả quân sỹ đã bị hy sinh một cách tức tưởi.

Bà nói: “Ai dám bảo là quân ta không chịu chiến đấu”? Trong khi ấy những phát súng lẻ tẻ của du kích Mặt Trận Giải Phóng quấy rối giữa những tiếng nổ đại pháo. Ngoài đường một sự hỗn loạn không tưởng tượng được khi bọn hôi của nhào vào các nhà vắng chủ và du kích Việt Cộng ngày càng hung hăng tàn ác.

Rồi ông Thảo phải ra trình diện theo lệnh của quân quản Sài Gòn. Ông  thật thà nghĩ rằng vì vợ chồng ông là các chuyên gia thuần túy nên chính thể mới sẽ cần đến những bàn tay xây dựng lại quốc gia. Ông nói với vợ rằng: “Nếu họ không ưa chúng ta thì họ cũng không thể xử tệ với chúng ta. Họ không thể giết hết tất cả”. Một Pol Pot đã làm như vậy, nhưng họ đã thấy là không có lợi gì hết. Tuy nhiên Việt Cộng đã làm những việc tệ hại hơn nhiều. “Chúng tôi không hiểu rõ cái thực tế của cộng sản.

Chúng tôi đã nuôi ảo tưởng rằng cộng sản là một xác tín cao đẹp. Song  đem cái xác tín ấy vào đời sống con người bằng võ lực đã làm mất hào quang lý tưởng và thơ mộng. Và như vậy nó trở nên tầm thường, bẩn thỉu, ích kỷ và man rợ”.

Ngày 15 tháng Sáu năm 1975 bà Đảnh đã chở ông Thảo và các con trên chiếc xe VW Variant đến một ngôi trường bỏ không gần Sở Thú. Ông gập một bạn cũ cùng đi trình diện nên thấy đỡ cô đơn hơn. “Khi chia tay tôi nhìn thấy trong ánh mắt anh ấy sự tiếc nuối, lo âu và tình yêu đằm thắm. Anh chưa biết rằng sự chia tay này kéo giài cả hơn sáu năm rưỡi trời. Ánh mắt sâu thẳm ấy theo tôi mãi mãi ngày đêm và không bao giờ tôi quên được. Hầu hết các gia đình đều chịu hoàn cảnh như vậy, không cha, không chồng. Tôi may mắn thuộc thành phần không làm điều gì sai quấy và được đồng sự mến, không phải loại có nợ máu lớn với nhân dân, nên được gọi đi cải tạo trong một tuần lễ”.

Rồi xảy ra việc vơ vét toàn diện. Tại Bộ Giáo Dục cũ không một cái gì là bị bỏ sót, cục tẩy, cái bút BIC, giấy, tập vở đều bị thu gom chở về Bắc trên các xe vận tải nhà binh đầy ắp. Những cán bộ miền Nam thấy bất bình, “Chúng ta bây giờ thống nhất vậy của cải miền Nam phải được để lại miền Nam vì ở đây cũng cần các phương tiện để xây dựng lại chớ”? Bà nói: “Khi tôi nghĩ dến những đứa con miền Nam đã gia nhập MTGPMN tôi không khỏi khinh bỉ và tội nghiệp. Một số ít có thể là những người yêu nước thật sự tuy nuôi một lý tưởng ngu đần để bị VC xập bẫy. Họ đã làm gì để giúp đỡ quê cha đất tổ? Hay là giúp tay xa lìa sự trù phú, sự phồn thịnh và cả tự do nữa”?

Các cán bộ cộng sản thường vào tư gia mượn những thứ cần dùng. Họ được đối xử tử tế nhã nhặn. Nhưng một hôm một cấp chỉ huy vào nhà. Bà lịch sự rót một cốc nước mát mời thì ông ta túm lấy vai đứa con trai nhỏ bắt húp một ngụm trước. “Tôi đâu có ngu gì mà đầu độc họ ngay tại nhà tôi? Họ ra vào nhiều lần và tôi cảm thấy họ muốn cái gì, có lẽ muốn cái nhà của tôi? Ý tưởng đào thoát manh nha trong đầu tôi. Với sự hiện diện của báo chí và những quan sát viên, nên VC còn tỏ ra dè dặt, không dám ra mặt tham lam áp chế dân chúng. Cũng may là chẳng bao lâu sau cả đoàn quân CS bị chuyển qua Cao Mên”.

Một tháng sau khi trình diện học tập cải tạo không thấy một ai được về nhà. Cậu con trai lớn luôn luôn đạp xe quanh ngôi trường mà cha cậu trình diện thì thấy vắng tanh. Khi đem người trưởng gia đình đi thì tạo ra một không khí bất an và đạt được hai mục đích, vô hiệu hóa người chồng người cha và cùng một lúc kiểm soát được mọi người trong gia đình. Nhiều gia đình chỉ trông cậy vào đồng lương cha chồng đem về hàng tháng thì bây giờ túng quẫn. Và sau hai lần đổi tiền, những người giầu có nay thành nghèo và những ai đã nghèo nay lại càng xơ xác. Sau một tháng quy định chẳng ai được trở về. Thỉnh thoảng có một vài người có lẽ thuộc loại có móc nối hay không nợ máu thấy lẻ tẻ trở về. Một người quen cho biết là chồng bà bị chuyển tới trại Long Thành.

Một loạt xe vận tải nhà binh đến chở các tù nhân đi. Họ không biết là đi tới đâu. Trong đêm tối đến một khu rừng mà họ không biết là Long Thành và bị lùa vào mấy gian trại bằng tre lá và lèn chặt như cá hộp. Ngay sáng hôm sau tù phải bắt tay xây cất các trại giam khác cho những người tới sau. Có cảm tưởng là Việt Cộng không có kế hoạch gì cả, chỉ thực hiện theo nhu cầu xẩy đến và tù nhân phải dựng lấy trại giam cho mình. Mục tiêu quan trọng lúc đó là gom lại và vô hiệu hóa các thành viên của chế độ cũ. Mục đích thứ hai là cách ly quân đội với hành chính. Các cấp hành chính do cán bộ canh giữ còn các quân nhân bị đặt dưới bộ đội và các sỹ quan Việt Cộng canh chừng. Chỗ nào cũng là rừng nên không ai biết được bao nhiêu trại tù rải rác ở đâu.

Mỗi nhà giam có thể lèn chừng 50 tù, mỗi người có được chừng 80 phân để nằm ngủ ngay trên mặt đất. Về đêm phải chịu hơi lạnh của núi rừng và khi mưa phải chịu ướt át. Bà hỏi chồng có nhớ đến cái mùng mà anh cẩn thận gói theo.

Anh nói, “Trong hoàn cảnh ấy mùng đâu có ích gì và một anh bạn khéo tay đã giúp cắt ra may thành một áo trấn thủ dầy dặn với nhiều lớp vải mùng khiến cho anh qua được cảnh rét mướt”! Mỗi đêm có điểm danh trước khi cho vào đi ngủ sau khi cán bộ đã khóa chặt nhà tù.

Đồ ăn thật đơn sơ nhưng còn có gạo nên không bị đói. Cơm được nấu trong các chảo to nên có nhiều cháy là một món ngon mà đứa bé con cô cán bộ nhà bếp luôn luôn chầu chực. “Nhà tôi sực nhớ đến đứa con nhỏ ở nhà mà lòng bồi hồi xúc động”! Vấn đề nước khó khăn hơn vì chỉ có mỗi một cái giếng và khi lao động về phải sắp hàng tắm rửa. Những người lớn tuổi chậm chân nên đến lượt mình thì đã tới giờ điểm danh trở về phòng nên không bao giờ được dùng nước.

Tù phải viết bản báo cáo mỗi ngày, nói rõ những gì bản thân họ đã phạm trước kia và những gì cha hay thân nhân họ đã làm. Nay mới thấy sự ích lợi của các cây bút BIC. Các bản báo cáo trở thành ác mộng của tù nhân. Viết ít chừng nào tốt chừng ấy và phải nhớ những gì đã viết để có thể viết lại những báo cáo sau. Ý đồ của quản trại là bắt tù từ bỏ niềm tin, chối bỏ lý tưởng và gia đình, khinh rẻ chế độ cũ và chửi rủa các cấp lãnh đạo cũ. Thật là khó khăn cho những ai thẳng thắn với những nguyên tắc có sẵn hay những người bản chất hiền hòa không biết chửi bậy. Song viết ngắn quá cũng bị nghi ngờ là thiếu thành thật và tù bị gọi lên hạch hỏi đủ điều, chữa đi chữa lại. Kết quả là tù phạm tội nặng hơn để rơi vào bẫy sửa sai không ra thoát.

Có lệnh cho đi thăm tù. Những người như bà Đảnh là công nhân viên phải có giấy phép của cơ quan ghi rõ lý do nghỉ phép. Và chỉ được đem theo tối đa 5 kí thực phẩm và mỗi gia đình chỉ có ba người được đi thăm. Với bốn đứa con, đem đứa nào đi, để đứa nào lại? Trong khi thăm chồng phải ngồi hai bên bàn dài cùng những người khác, có cán bộ đứng đàu bàn lắng nghe. Phải nói to, không được dùng ngoại ngữ. Vợ chồng trao đổi những vấn đề sức khỏe và kinh tế gia đình, bán chác quần áo cho các bà miền Bắc bây giờ ham chưng diện lắm. Khi hết giờ thăm, tù đứng giậy nhặt gói quà trở về nhà giam. Có người còn bị mắng vì ôm hôn người thân hay căn dặn thêm vài điều. Trong phòng những tiếng òa khóc nổi lên như sóng gió trong cơn mưa bão. “Tôi cố nhịn khóc nhưng khi về đến nhà vào phòng tôi bật khóc lệ tràn như suối”.

Từ tháng 10/11, 1976 bà Đảnh không nhận được thư nào của chồng nữa và biết là chồng không còn ở Long Thành. Từ nay gửi thư cho anh phải qua một địa chỉ mới tại hòm thư A-40 khám Chí Hòa. Thư từ quà bánh tối đa 3-5 kí phải gửi qua một địa điểm ở một ngôi trường không xử dụng nữa. Hai đứa con lớn phải đi thi hành các nghĩa vụ công ích không lương, tối phải tạm trú tại những chỗ nào tạm che mưa nắng. Đã có dấu hiệu chống đối ngầm trong giới trẻ. Nhưng chúng bị răn đe, phải cố gắng theo chỉ thị thì cha anh mới được mau chóng tha về. Thật là xảo trá, lợi dụng lòng thương xót cha anh để ép chúng phục vụ.

Một ngày đen tối nhất của tháng 10 năm 1976, các tù được lệnh đổi trại giam. Đây là lúc cán bộ lục lọi khám xét thủ tiêu mọi chuyện. “Chồng tôi ghi chép nhật ký trong một cuốn sổ tay nhỏ hầu mong kể lại cho con những điều đã trải qua. Anh đã vội vã thủ tiêu cuốn sổ”. Tù đươc chất trên các xe vận tải, tay xích người nọ với người kia. Sau hàng giờ đi vòng vo họ bi lùa xuống hầm tầu thủy và chân bắt đầu bị khóa.Tầu đi ngang qua một khu mà nhìn qua lỗ hổng hầm tầu anh nhận ra cây cầu gần nhà, nơi đây vợ con đang ở, rất gần anh nhưng xa, xa lắm. Nước mắt anh dâng trào, không biết đang đi về đâu, xa Sài Gòn vì đây là Tân Cảng.

Chừng 7 tháng sau cái địa chỉ kỳ quái Chí Hòa, có một người tới gập bà Đảnh nhưng không dám vào nhà. Ngó trước ngó sau, phải trái, rồi anh vội nói, “Chồng chị đang bị giam tại miền cực Bắc. Tôi cũng bị giam ở đó nhưng vì vợ tôi là người Đức nên đã nhờ tòa Đại Sứ Tây Đức can thiệp”. Mắt tràn lệ, anh nói tiếp, “Chị biết chúng bắt tôi và anh làm gì không? Ngày ngày gánh phân bón rau và đó là việc nhẹ dành cho người yếu sức”! Bà bật khóc thảm thiết, ngồi bệt xuống vệ đường rồi anh bạn bỏ đi thật nhanh để khỏi bị nhòm ngó.

“Chồng tôi chẳng phải là một ông lớn tại miền Nam mà cũng không phải là các Tướng Lãnh uy quyền. Nhưng anh thuộc loại có thể khai thác được. Họ muốn biết vàng, đô la hay các kho tàng của miền Nam chôn dấu ở đâu. Họ hạch hỏi khai thác bắt làm việc đều đều, nhưng cho là không thành khẩn khai báo nên đầy ra miền Bắc cộng sản”.

Hầm tầu chật chội với các chất thải vệ sinh của tù nên tạo ra một mùi hôi hám khủng khiếp không tả nổi. Hành trình rất dài không ai nhớ rõ. Sau cùng cũng tới hình như Hải Phòng và chuyển lên các xe tải, chân vẫn xiềng xích. Xe chạy qua một số làng xóm, dân làng đua nhau la ó chửi bới và mọi người biết đây là đất địch. Có các bà chửi, “Đồ Tàu Phù khốn kiếp”! Thì ra họ tưởng là tù binh Trung Quốc.

Cán bộ la to, “Đây không phải là tù binh Trung Quốc”. Nhưng họ cũng không dám bảo là tù miến Nam vì họ sợ phản ứng của dân quê thật thà, thương hại hay cùng chia xẻ nỗi đau buồn. Đêm tới thì đến một ven rừng bát ngát. Tù được tháo cùm và lùa sâu vào rừng rậm, đi bộ dăm bẩy cây số và đến một hàng rào bao quanh một số trại. Các cán bộ vào trại, để mặc tù lo liệu chỗ ngủ qua đêm. Sáng hôm sau tù bỏ tay vào xây cất lấy trại tù cho chính mình.

Đúng 31 tháng Chạp Dương Lịch các gia đình tù nhận được một món quà chính thức cuối năm, một lá thư của thân nhân đang bị giam tại trại Bắc Thái. Ông Thảo không gập lại những bạn tù Long Thành và phải bắt đầu làm quen với các bạn tù mới. Tù được lệnh trao cho một cán bộ gái tất cả tài sản, đồng hồ, bút máy, nhẫn vòng tay, dây chuyền và tiền mặt để được liệt vào một cuốn sổ ghi tên sở hữu. Ông Thảo nhất định không đưa chiếc nhẫn cưới với lý do vì lâu ngày không kéo ra được. Sau khi dùng xà bông mà cũng không xong thì họ văng tục và thôi không thử tháo nữa. Ông nói dù họ có cố rút ra nhưng nếu ông cố ý giữ thì cũng vô hiệu vì ông nhất định không rời cái nhẫn cưới mà ông coi là tượng trưng quý báu.

Ban quản trại đều là người Bắc khắc nghiệt và khó tính. Tù thấy luôn luôn bị theo rõi sát nút. Báo cáo hằng ngày bị phân tách kỹ lưỡng, thảo luận và bị phê bình. Các cán bộ hung dữ và lộng quyền, không ngớt tỏ ra là người chiến thắng. Nhưng đừng lầm tưởng họ thèm muốn những gì chúng ta có, họ thấy chúng ta giỏi hơn họ trên mọi phương diện. Họ luôn khiêu khích, nói xiên nói xỏ, đả kích chê bai và phê bình. Và đây là tình trạng khủng bố tinh thần kinh khủng.

Về phương diện vật chất vì quá đông người nên trong phòng một tiếng động nhỏ cũng vang âm. Một tiếng ho, một cái hắt xì cũng khiến một số tù nhân thức giấc. Nhiều bạn tù trong cơn ác mộng đã rên la, gào khóc. Không ai quên được một bạn già cỡ sáu chục, góa vợ với đứa con thơ dại nên đêm đêm nức nở khi đi ngủ thương xót đứa con bỏ lại miền Nam không ai săn sóc. Giếng nước duy nhất rất gần trại nên phải nấu sôi để uống. “Chồng tôi làm công tác hôi thối gánh phân nên cần tắm rửa mỗi chiều tối. Nhưng nước lạnh cóng khi xối lên người thi da đỏ ửng. Anh còn đùa rằng, “thật may là da và phổi còn tốt”.

Nhưng cái đói thật là kinh khủng. Khi còn ở miền Nam thì nắm cơm còn thực là nắm cơm đầy đủ gạo. Ở đây, cơm phải trộn những hạt bo bo vỏ thật cứng thường phải xay ra để cho súc vật ăn. Một số lớn không muốn hy sinh bộ răng cấm nên phải ngồi nhặt các hột bo bo ra để chỉ còn lại được một muỗng cơm trong bát cơm độn. Nhiều người bị lủng củng tiêu hóa và bị tháo dạ. Cái đói thật khủng khiếp ngày đêm làm cho con người bớt sáng suốt, dảm ý chí và mất óc phán đoán.

“May mắn là cả bốn đội trưởng đều là bạn thân của em tôi. Nếu không nhờ các bạn đó và các y sĩ đồng nghiệp của tôi giúp đỡ thì chắc gì anh đã sống đến ngày được thả”!

“Tôi cố tìm hiểu vì sao mà anh bị giam giữ lâu thế? Phải chăng anh được nhiều bạn tù cảm mến nên anh bị giữ lâu? Anh luôn luôn được gọi lên yêu cầu hợp tác để giúp trại sinh hoạt tốt. Nếu nhận lời thì sẽ được cấp phần ăn như cán bộ, được miễn lao động và hưởng nhiều ưu đãi. Nhưng anh đã từ chối và bị giam giữ lâu hơn”.

Đầu tháng 9 năm 1978 ông Thảo gửi thư về cho biết quản trại đã phổ biến tin cho thân nhân đi thăm và tù được nhận thực phẩm. Ông cũng dặn nếu muốn ra Bắc thì liên lạc với một bà gốc Bắc có chồng cùng bị giam giữ với ông. Bà này biết rành Ha Nội và biết rõ manh mối chạy chọt giấy tờ di chuyển và cũng biết cách xoay xở vé xe lửa khứ hồi. Và từ nay bà Thảo biết các mánh khóe luồn lọt thật mất thì giờ, khó khăn và tế nhị. Tất cả các sự việc đều có thể mua bằng tiền, chạy đúng chỗ và không để lộ ra vì hối lộ là một trọng tội. Đối với bà lại còn khó khăn hơn vì trước kia đã phục vụ ngụy quyền và chồng đang bị tù cải tạo.

Mãi mới xin được giấy phép nghỉ nhưng chưa biết cách nào đi. May thay có một ông bạn có cô em trước làm tiếp viên phi hành cho Air Vietnam cũ và nay còn được lưu dụng bởi hãng Vietnam Airlines mới chưa có ai đủ khả năng thay thế. Cô này rất tháo vát và đã kiếm cho bà một vé máy bay vào tháng 11. Khi ra máy bay với xách đồ ăn khô cô ta đã giới thiệu là dì ruột và đưa bà lên máy bay, căn dặn là đừng tỏ ra sợ sệt quá. “Khi đã lên máy bay, không ai biết được là mình không có quyền xử dụng máy bay và khi về thì đã có người cho phép đi nên không có ai dám cản trở về”.

Khi đến phi trường Gia Lâm nhỏ xíu bà lên xe quân sự chờ đón khách. Bà gọi một xe xích lô đạp về nhà cán bộ giáo dục trẻ Sơn mà bà được bà thủ trưởng Sâm giới thiệu. Cha mẹ Sơn đều là giáo sư Đại Học tiếp bà ân cần và thông cảm. Họ được ở ngôi biệt thự cũ gần hồ Hoàn Kiếm tuy chỉ dược xử dụng có một căn phòng với một cầu tiêu lối cổ. Ông đã cơi lên một gác xép làm chỗ ngủ cho ông và con trai. “Tối đến họ dẹp bàn ghế vào tường và trải một chiếc chiếu rộng dưới sàn cho bà mẹ, cô chị dâu, cháu gái nhỏ và tôi nằm. Trong khi tôi thao thức vì sắp gập chồng sau hơn hai năm xa cách thì ai cũng ngủ ngon lành”.

Khi đợi người hướng dẫn đến bằng xe lửa phải mất ba tuần lễ, bà Đảnh ra phố quan sát thấy các nhóm người bán đồ lậu. Cái gì họ cũng có, phần nhiều là các gói nhỏ đường, trà, cà phê, bao thuốc lá và các thỏi chocolat nhỏ đựng trong các túi xách. Bà mua các gói kẹo chocolat vì mang từ Sài Gòn ra không tiện. Họ nói mua gì cũng có trữ tại nhà vả trả tiền xong là hôm sau họ sẽ giao. Người hướng dẫn cho bà đến nhập bọn ngủ dêm để sáng hôm sau ra ga lúc 5 giờ cho kịp chuyến xe lửa Đông Bắc.

Người đông như kiến, chen lấn lộn xộn và “tôi cùng bà chiếm được hai chỗ trên bực ngoài toa cho đến sau khi qua nhiều ga xép mới mò vào được bên trong để ngồi xệp xuống sàn tầu đầy rác, đỡ nạn bụi khói và mưa phùn giá lạnh”.

Từ trạm xe lửa đi đến vùng Bắc Thái phải dùng xe bò. May thay bà hướng dẫn đã nhanh nhẩu quá giang được một xe chở dầu nhà binh với tiền thù lao nhỏ 20 đồng. Đến ven rừng phải thuê một xe bò tới trại giam qua một con đường gập ghềnh với giá 15 đ một người. Tới cổng trại, một căn nhà lợp tranh thì cán bộ xét giấy và cho hai người một vào ngồi đợi ở một cái bàn nhỏ chữ nhật. Hai mưoi phút sau thân nhân được dẫn ra, yếu ớt, thân hình tiều tụy xác xơ trông thật đau lòng. Cán bộ đứng ở đầu bàn và phải nói to cũng như không được dùng ngoại ngữ. “Tôi không biết được gập anh bao lâu nhưng mục đích tôi là xin phép anh đưa các con trốn khỏi nước. Tôi có bổn phận báo cho anh biết là phải liều lĩnh như tự sát vì chừng 50% đến được bến tự do”. Nhưng làm sao để không cho cán bộ biết?

“Tôi nghĩ cách nói là mẹ con muốn đi vùng kinh tế mới”, thi anh xúc động hỏi lại, “Bộ chúng không đủ ăn sao”? Bà chậm rãi trả lời, “Chúng muốn làm lại cuộc đời mới và gập lại hai bà gì đã đến đó trước rồi”. Ông Thảo suy nghĩ rồi chợt hiểu là chị và em tôi đã định cư ở Âu Châu từ lâu và dặn dò, “Đừng để cho các con bơ vơ, em phải đi với các con còn quá nhỏ”! “Chúng tôi chuyện trò đủ chuyện Sài Gòn trước đây, nhà cửa, tình trạng gia đình thân nhân nội ngoại và anh không thổ lộ gì về hoàn cảnh của anh và số phận hiện tại”.

Sau một giờ thì cán bộ thổi còi chấm dứt thăm nuôi. Các tù nhân đứng lên lượm gói quà và sắp hàng về phòng giam. “Chồng tôi ôm tôi và thì thầm, em phải đi với các con và như vậy trong tương lai có thể dễ tìm lại nhau”. Lần thăm nuôi chỉ có bốn người đi thăm khốn khổ. Không một lời phản kháng hay thất vọng. Nước mắt có chảy cũng trong thầm lặng. Nơi đây hy vọng còn ít hơn ở Long Thành. “Rã rời tôi có cảm tưởng như sống những giây phút cuối cùng và tôi không còn biết tôi là ai nữa. Nếu tôi ra đi cùng các con thì rồi đây ai săn sóc anh, và biết có gặp lại nữa không”?

Chiều về tới Hà Nội, tôi e họ sẽ không cho tôi ghi vé trở về. Cha anh Sơn chở tôi bằng xe đạp ra trạm hàng không. Họ hỏi tôi đủ điều, lý do đi thăm, trú ngụ ở đâu, thấy thủ đô ra sao và đã đi thăm lăng Hồ Chủ Tịch chưa? “Tôi phải vui vẻ tỏ ra mãn nguyện và phải chấp nhận bất cứ cách giả dối nào để về với các con tôi. Tôi đã thành công và được về trên chuyến bay hai ngày sau”. Còn hơn một ngày tôi mướn một xe xích lô đi một vòng quanh Hồ Gươm. Hồ quá nhỏ, nước đen ngòm mà mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Không thấy dấu hiệu hư hại vì oanh tạc chỉ có cây cầu Doumer và đôi chút ở một bệnh viện mặc dầu họ tuyên truyền ầm ĩ là bị phi cơ hủy hoại. Tôi đã nói dối ở trạm hàng không. Tôi đã không đi thăm lăng chủ tịch mà chỉ đi xích lô phớt qua. Không có gì đặc sắc, chỉ là một kiến trúc lạc loài bê tông cốt sắt với các cột lạnh lẽo như trong thời cổ. Nhưng nếu tôi vào trong để nhìn thấy con người mà họ cho là thần thánh thì tôi đã ớn lạnh về sự lọc lừa phản bội của ông ta đã đưa nước nhà vào một cuộc chiến tàn khốc, tạo nên mối chia rẽ toàn dân và cả nước”!

Hà Nội một thành phố cổ kính thì nay đã tiều tụy, không được coi như một bà già mà là một đứa con nít thiếu dinh dưỡng lâu ngày, bụng ỏng, đít eo, chân tay khẳng khiu mang chứng bệnh còm cõi và già nua sớm không phương cứu chữa. “Tôi không muốn những ai đã rời Hà Nội năm 1954 trở lại để thấy sự điêu tàn khắc nghiệt vì tiền của nhân lực đều xung vào chiến tranh. Cha mẹ Sơn cũng như người hướng dẫn tôi đều hình như thổ lộ là họ đã sống qua ngày hướng về miền Nam. Nhưng nay miền Nam đã xụp đổ, thế là hết cả. Cuôc viếng thăm rất có kết quả vì tôi đã nói được với nhà tôi một điều cần thiết. Và tinh thần nhà tôi hình như đã vững hơn, bắt đầu yêu đời hơn và thấy hy vọng”.

Bà Đảnh đã đưa bốn đứa con vượt biển ngày 1 tháng 5 năm 1979 lợi dụng sơ hở vì mải liên hoan ngày lễ. Cả gia đình lênh đênh trên biển cả thì gặp một chiếc tầu chờ dầu Na Uy vớt. Vì vậy khi ông Thảo được thả về thì nhà đã mất và phải tạm trú nhà bà chị. Ông bị các đè ép từ các cơ quan công an phường, quận. Không có hộ khẩu nghĩa là không được phiếu mua thực phẩm và các đồ lặt vặt như thuốc đánh răng. Phải luôn luôn trình diện và đẩy  đi vùng kinh tế mới. Nhưng nếu xa Sài Gòn thì làm sao có được tin tức nên ông đã chán nản nghĩ liều đi trốn. Bà Đảnh phải nhắn về xin yên tâm đừng liều mạng vì đã có chương trình bảo lãnh và Cao Ủy tị nạn đã đặt thêm một văn phòng ở Sài Gòn.

Bà gửi về các giấy tờ cho nhiều nơi để khỏi thất lạc.

Cuối cùng, sau nhiều lần chạy chọt khó khăn và nhiêu khê, ông Thảo đã được giấy phép xuất cảnh. Bà Đảnh nói, “Không chối cãi việc Việt Cộng đã trả lại người thân cho chúng tôi. Nhưng họ đã ra sao khi được thả? Một số đông đã chết như anh đội trưởng giúp đỡ  tận tình bạn tù. Anh chết tức tưởi trong tuổi hoa niên của cuộc đời. Qua hành hạ thể xác độc địa nhằm triệt tiêu nhân phẩm, Việt Cộng không tàn phá nổi thể xác nhưng đã để lại trong tâm hồn tù nhân nhiều rạn nứt in hằn. Lập trường chính trị, tín ngưỡng, lòng yêu nước không bao giờ xóa tẩy được”. Bà Đảnh kết luận, “Tôi chấm dứt bằng một câu xúc tích của chồng tôi khi anh đặt chân xuống đất Na Uy”: “Chúng tôi vẫn sống, hy vọng của chúng tôi đã đạt được. Tôi đã có vợ con quanh tôi, hạnh phúc tôi tràn đầy. Từ nay các con tôi được bảo đảm tương lai trên một đất nước cao đẹp, tự do như Na Uy mà chúng tôi coi là miền đất hứa”.

tu_caitao3

 

Vài cảm nghĩ.- Cộng sản Việt Nam sùng bái Hồ Chí Minh như thánh sống. Ai cũng biết là họ Hồ mạo danh nhóm ái quốc ở Paris khi viết báo Le Paria đã dùng tên chung Nguyễn Ái Quốc (Nguyen le Patriot). Hồ đã từng nộp đơn xin làm việc với Bộ Thuộc Địa rồi đi theo cộng sản Nga để được huấn luyện thành cán bộ Đông Dương Cộng Sản. Khi qua Tầu lại lấy danh tính một người chết để thành Hồ Chí Minh. Không có lấy cái bằng sơ học,  chỉ lặp lại những danh từ Xô Viết rồi Tầu Mao, lợi dụng khí thế ái quốc chống Pháp để đổi Việt Minh thành đảng Lao Động Cộng Sản và hãm hại các người yêu nước cũng như nhiều người trong vụ đấu tố.

Ông ta đã học thuộc lòng câu “Hồng hơn Chuyên” của Mao nên cũng nói “Trí Thức là Cục Phân” cho nên khi chiếm Sài Gòn chính trị bộ Hà Nội đã bỏ tù các chuyên viên của miền Nam mà huấn luyện mất bao nhiêu thời gian và công của. Hệt như “bước nhẩy vọt” của Tầu Mao trong kế hoạch sản xuất thép tiểu công trong các làng xã phí phạm bao nhiêu nhân lực đưa đến phá sản kinh tế và môi trường. Cho nên ta thấy các Y Khoa Bác Sỹ phải đi quét chợ và chuyên viên kinh tài như ông Đỗ Văn Thảo bị giam cầm trong nhiều năm. Phí phạm “chất xám” như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu. Bây giờ kêu gọi trí thức và “chất xám” trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và có tin được chăng?

Trần Đỗ Cung
Nguồn: hon-viet.co.uk/TranDoCung

Bắt cựu Tổng Giám đốc và cựu Kế toán trưởng Tổng Công ty Dầu Việt Nam

Hai người này bị bắt, khởi tố về tội Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.

Tổng Công ty Dầu Việt Nam, PVOil, OceanBank
Bị can Nguyễn Xuân Sơn (trái) và Vũ Trọng Hải. (Ảnh: bocongan.gov.vn)

 

Căn cứ tài liệu, kết quả điều tra, ngày 7/4, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã ra quyết định khởi tố vụ án “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” xảy ra tại Tổng Công ty Dầu Việt Nam (PVOil) và Ngân hàng OceanBank.

Đồng thời, C03 đã ra quyết định khởi tố bị can, lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh khám xét về tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” theo Điều 355 Bộ luật Hình sự đối với 2 bị can, gồm:

  • Nguyễn Xuân Sơn, SN 1959 – nguyên Tổng Giám đốc Tổng Công ty Dầu Việt Nam (PVOil);
  • Vũ Trọng Hải, SN 1968, nguyên Kế toán trưởng Tổng Công ty Dầu Việt Nam (PVOil).

Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đang làm rõ vụ việc.

Phạm Toàn

Tại sao có Sự Dữ và Đau Khổ trong đời sống? LM Mathêu Nguyễn Khắc Hy PSS

Tại sao có Sự Dữ và Đau Khổ trong đời sống?

 LM Mathêu Nguyễn Khắc Hy PSS

 06/Apr/2020

I.Giới Thiệu                                                                                                       

   Nạn đại dịch covid-19, bắt nguồn từ Vũ Hán, Trung Quốc, đã lan tràn ra khắp thế giới, và đe dọa mạng sống con người khiến cuộc sống thường ngày của hầu hết mọi người bị đảo lộn. Riêng với người Công Giáo, Tuần Thánh năm nay có lẽ là lần đầu tiên trong lịch sử mà giáo dân phải tham dự thánh lễ “từ xa” qua hệ thống kỹ thuật truyền thông hiện đại. Trong bối cảnh đối diện với đai dịch, và người Kitô hữu đồng hành với Đức Giêsu Kitô trong tuần thánh để cảm nghiệm Cuộc Thương Khó, Sự Chết và Sự Sống Lại của Ngài, tôi muốn dùng cơ hội này để ôn lại giáo lý Công Giáo dạy gì về những sự dữ và đau khổ xảy ra trong đời sống con người, và làm thế nào để qua những hiểu biết này, chúng ta tăng thêm đức tin vào Thiên Chúa toàn năng và nhân từ.Câu hỏi: Tại sao Thiên Chúa để có đại dịch covid-19 khiến hơn 1.2 triệu người nhiễm, và hơn 67 ngàn người tử vong? [1] Tại sao ông A bị ung thư? Tại sao bà B bị chết khi đang đi hành hương hay đang cầu nguyện? Tại sao anh C đang làm việc cho cộng đoàn lại bị xe tông và thành bất toại? Hay trên bình diện lớn hơn: Tại sao có chiến tranh gây thiệt mạng hàng triệu người? Khi Hitler giết sáu triệu người Do thái trong các lò hơi ngạt, Thiên Chúa ở đâu? Và hằng ngày, những người bị tù tội oan ức, Thiên Chúa ở đâu? Công bằng ở đâu?

Giáo Lý Công Giáo số 309 dạy “Nếu Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Ðấng Sáng Tạo nên thế giới có trật tự và tốt lành, chăm sóc hết mọi thụ tạo, tại sao có sự dữ?… Không thể có một câu trả lời ngắn gọn mà đầy đủ được.”

Sự hiện diện của sự dữ trong cuộc sống đã quá rõ ràng. Vì thế, đối diện với đau khổ là vấn nạn căn bản và cũng là mầu nhiệm phức tạp đầu tiên con người tiếp cận khi tìm hiểu đức tin họ đặt vào Thiên Chúa.

Những bất công, bệnh tật, chết chóc, đau khổ v.v… là một phần hiện thực của sự dữ (sự ác) được triết học và thần học quan tâm và tìm cách giải thích cho hợp lý. Câu hỏi ‘tại sao và làm cách nào sự dữ xâm nhập vào thế giới được Thiên Chúa tạo dựng’ vẫn chứa đựng bí ẩn thắc mắc nhiều hơn là câu trả lời.

Với đức tin Công Giáo, chúng ta hiểu gì mầu nhiệm này? Trước khi tìm hiểu thêm sâu rộng thêm về đề tài này, chúng ta cần phân biệt hai hình thức sự dữ được nói đến: một là sự dữ luân lý, hai là sự dữ tự nhiên. Sự dữ luân lý thường là hệ quả của việc con người sử dụng tự do (ví dụ như trộm cắp, giết người, cướp của, hãm hại nhau…). Sự dữ tự nhiên (như động đất, lụt lội, núi lửa, bệnh tật…) không là lựa chọn của con người nhưng họ lãnh hậu quả.

Dĩ nhiên không phải mọi kết quả sự dữ đều dễ nhận dạng theo hai hình thức trên, vì tính phức tạp của thực tế. Ví dụ như sập chiếc cầu Cần Thơ năm 2007 làm chết hơn 50 người, liệu đây là do sự dữ tự nhiên (cầu sập đè chết người) hay sự dữ luân lý khi con người làm lỗi (vì thiết kế cẩu thả, ăn cắp vật liệu, gian dối trong thi công…) gây sập cầu. Dịch Covid-19 là do sự dữ tự nhiên (con người vô tình lây lan từ một virus đang có trong động vật???…) hay sự dữ luân lý (vì con người muốn chế tạo để hại nhau, nhưng sai lầm trong kiềm chế kiểm soát khiến virus bị lọt ra ngoài??). Ngay cả với yếu tố sự dữ tự nhiên, việc lây lan nhanh chóng và quá rộng rãi trên thế giới có thể một phần do sự dữ luân lý khi con người che giấu sự thật về tình trạng nguy hiểm của virus này không?

Điều quan trọng là cho dù sự dữ luân lý hay tự nhiên, chúng ta cũng không dễ dàng tìm ra câu trả lời tại sao lại xảy ra như vậy.

Và tất cả những gì tôi chia sẻ dưới đây là tập hợp của những lý thuyết trong lịch sử tìm cách giải đáp thắc mắc này, nhưng không một giải đáp nào thỏa mãn được mọi thắc mắc của chúng ta. Dù sao, những tổng hợp vắn tắt này cho chúng ta một cái nhìn khái quát phức tạp về vấn nạn sự dữ và đau khổ trong cuộc sống, và giúp chúng ta cẩn thận hơn khi giảng dạy, thay vì cung cấp những câu trả lời đơn giản nhưng chứa đựng nhiều sai lầm.

II. Lịch sử tranh luận về sự dữ

Triết lý và thần học có cùng một câu hỏi, nhưng cách giải thích có nhiều khác nhau. Với triết lý, lý luận logic là nguyên tắc chính. Với thần học Kitô giáo, làm sao để bảo vệ được Một Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, Toàn Thiện mà không thể bỏ qua sự hiện diện của sự dữ trong đời.

Thế kỷ thứ 4 trước công nguyên, triết gia Epicurus (341-270 BC) đã đặt câu hỏi tương quan giữa Triết học và Thần học khi ông hỏi về nguyên nhân của sự dữ, và được David Hume (1711-1776) lặp lại trong một lý luận ngắn gọn: “Có phải Thiên Chúa muốn ngăn ngừa sự dữ nhưng Ngài không có thể? Vậy, Ngài không Toàn Năng. Nếu Ngài có thể, nhưng Ngài không ước muốn ngăn ngừa? Vậy Ngài không Toàn Thiện. Nếu Ngài vừa có khả năng và vừa ước muốn làm việc đó, vậy tại sao sự dữ lại có mặt trong đời sống?”

1. Triết lý và các thuyết giải thích

Triết lý tìm cách giải thích sự hiện diện của sự dữ mà không nhất thiết phải tin là có Một Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng vũ trụ. Vì thế, một vài lý luận được ghi lại như sau:

Thứ nhất, chủ nghĩa Nhị Nguyên Thuyết (dualism) cắt nghĩa đơn giản rằng trong vũ trụ tồn tại hai thần lực, Tốt và Xấu. Sự đấu tranh này có thể là tạm thời (nghĩa là đến một lúc nào đó, một trong hai Thần sẽ thắng đối tượng kia), hay có tính cách vĩnh viễn (nghĩa là hai thế lực Tốt-Xấu này tồn tại muôn đời). Như thế, sự dữ trong thế gian là điều tất yếu, vì đó là một phần của thụ tạo trong vũ trụ. [2]

Thứ hai, không hề có hiện thực Tốt hay Xấu mà chỉ là những danh từ con người đặt tên cho những sự kiện xảy ra trong đời. Nói cách khác, “hên” hay “xui” không tùy thuộc vào sự kiện cho bằng tùy thuộc vào người đón nhận. Vì thế, không thể coi sự dữ như là một thực thể, mà tốt hơn là coi nó như một tình trạng tâm lý, hay một tình huống được con người diễn dịch theo ý mình. [3]

Thứ ba, thuyết Bất Khả Tri Luận (agnosticism) cho rằng khả năng con người không thể biết được. Thuyết Bất Khả Tri Luận được nhiều người chấp nhận vì mọi lý lẽ giải thích bí nhiệm sự dữ không thoả mãn được óc tò mò của con người, ngay cả vô thần như Voltaire, trong tác phẩm Candide,Ou L’Optimisme, cũng ủng hộ thuyết này. [4]

Thứ tư, thuyết Nhân Quả cho rằng “gieo gió thì gặp bão.” [5] Xuất phát từ tính dễ hiểu, triết thuyết này rất phổ biến trong đời sống con người, và là nền tảng niềm tin Ấn Độ giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Nho giáo…. Điều khó cắt nghĩa được kể lại trong Tin Mừng Gioan 9:1-12 là tại sao người mù từ khi mới sinh? Tội của anh ta hay của cha mẹ anh ta? Vì mù từ khi mới sinh nên chắc chắn anh ta chưa làm gì nên tội; còn nếu là tội cha mẹ anh thì câu hỏi: tại sao một người làm mà người khác phải chịu? Bên cạnh đó, ta lại còn chứng kiến nhiều người ác sống thảnh thơi trong khi người lành thánh gặp nhiều hoạn nạn. Thuyết Nhân Quả bị sách ông Gióp loại bỏ và cũng bị Chúa Giêsu lên án (John 9:2-3)

2. Triết lý và lý luận logic

Giáo lý Kitô giáo dạy chỉ có Một Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, Toàn Thiện. Vậy sự có mặt của sự dữ không thể dung hoà với những yếu tố trên của đức tin. Lý luận này được tóm gọn như sau:

a. Nếu Thiên Chúa là Đấng Toàn Thiện, Ngài phải tiêu diệt hết mọi sự dữ.
b. Nếu Thiên Chúa Toàn Năng, Ngài có thể tiêu diệt hết mọi sự dữ.
c. Vì thế, sự dữ trên thế gian chứng tỏ không có một Thiên Chúa vừa Toàn Năng – Toàn Thiện như Kitô giáo dạy.

Trước khi đi sâu vào tư tưởng thần học của lý luận này, chúng ta cùng nhau nhìn lại lý luận này theo phương thức logic của triết lý. Khi thách đố trên dựa vào lý luận để kết luận là không có Một Thiên Chúa như đức tin Kitô giáo dạy, thì chìa khóa giải đáp cũng dựa vào lý luận mà thôi.

Khi ta nói: “Thiên Chúa là Đấng toàn năng, làm được mọi sự” , câu này có nghĩa là gì? Có phải Ngài làm gì cũng được hay sao? Thưa không, vì có nhiều điều Thiên Chúa không làm được. Kinh thánh nói “với Thiên Chúa mọi sự đều có thể” (Mt. 19:26), nhưng Kinh thánh cũng dạy là có nhiều điều Thiên Chúa không làm được, như Ngài không thể lừa dối (Titus. 1:2), không thể phạm tội, hay cám dỗ người khác phạm tội (James 1:13). Nghĩa là Thiên Chúa không thể làm điều nghịch lại bản tính Ngài. Và cũng không thể làm điều gì ngoài định luật Ngài đã đặt ra, như không thể tạo ra một hình tam giác có bốn góc, hay làm sai thành đúng, hay người cao lại “ngắn” hơn người lùn…[6] Với con người, Thiên Chúa không thể cho họ vừa tự do, vừa mất tự do.

Vì thế, lý luận logictrên không thật sự cho chúng ta một thực thể nhưng cho ta một logic lập luận về từ ngữ mà thôi.

Nên trong thần học, chúng ta vẫn tuyên xưng Thiên Chúa Toàn Năng và Toàn Thiện, và dĩ nhiên Ngài có khả năng loại bỏ sự dữ, nhưng Ngài không thể làm mà không huỷ hoại tự do con người.

Còn với sự dữ tự nhiên (như động đất, lụt, bệnh tật…) thì sao? Lý luận trên cũng giúp ta hiểu rằng chúng ta không thể sống theo ý định Thiên Chúa muốn ta sống, nếu ta không có môi trường như ta đang có hiện tại. Nói cách khác, điều kiện sống hiện tại, dù có nhiều sự dữ, nhưng bảo đảm cho ta được tự do, và là điều kiện tốt nhất Thiên Chúa dành cho con người.

3. Sự dữ trong thần học truyền thống

Trong truyền thống thần học Kitô giáo, có vài hình thức giải thích được xem là phổ biến.

Trước hết là không thể hiểu được. Chúng ta không hiểu tại sao có sự dữ trên thế gian, nhưng chúng ta vẫn tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng đời mình, và con người cần kiên nhẫn trong đời sống đức tin. Cách hiểu này được kể lại trong sách ông Gióp khi cắt nghĩa rằng con người không thể hiếu được chương trình bí nhiệm của Thiên Chúa Toàn Năng (xem Job 38-41). Nên nhớ rằng chỉ vì ta không hiểu được lý do nào Thiên Chúa để cho sự dữ xảy ra, không có nghĩa là Thiên Chúa không có lý do để làm chuyện đó. Một em bé không luôn luôn hiểu hết những lý do đằng sau những việc bố mẹ làm cho mình, nhưng không phải vì thế mà bố mẹ không có lý do để cấm đoán hay khuyến khích em làm những gì bố mẹ muốn cho em. Vì thế, là con người mà đòi hỏi hiểu hết mọi mầu nhiệm của Thiên Chúa là điều không thể được, vì ngay cả biết bao điều chung quanh chúng ta mà ta còn chưa hiểu như sức ly tâm, sức hút trái đất, nguyên tử v.v…

Thứ hailà thanh luyện. Cách giải thích này là Thiên Chúa dùng đau khổ, sự dữ để thanh luyện con người ngày càng lớn mạnh hơn.[7] Tư tưởng này khá phổ biến trong thần học các giáo phụ, và ta có thể tìm thấy trong thần học thánh Phaolô, như trong thư gửi tín hữu Roma: “Thật vậy, tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta.” (Rom 8:18). Dĩ nhiên tư tưởng thánh Phaolô nhắc ở đây là những đau khổ con người chịu vì danh Đức Giêsu Kitô, chứ không là những đau khổ đến từ những điều kiện mà con người có thể loại bỏ hay thay đổi. Nghĩa là, đừng hiểu lầm rằng thánh Phaolô muốn con người sống thụ động trước đau khổ, nhưng Ngài muốn dạy rằng Thiên Chúa sẽ không để những đau khổ con người chịu đựng vì danh Ngài trở nên vô ích. Với những người chống lại lối giải thích này, họ hỏi rằng: liệu Thiên Chúa còn phải tôi luyện con người đến mức nào? Bao nhiêu thử thách đau khổ xảy ra mới đủ?

Thánh Irenaeus (thế kỷ 2) cho rằng sự dữ đơn giản là một phần của thụ tạo được dựng nên, và là điều kiện cần thiết để con người có thể sử dụng tự do chọn điều Tốt. Chỉ khi có sự dữ như một lựa chọn, con người mới thật sự hiểu tự do là gì khi chọn điều tốt – xấu cho mình. Và khi chọn điều tốt để làm và loại bỏ điều xấu, con người trưởng thành. Như vậy, sự dữ là điều kiện cần thiết để con người được tôi luyện và trưởng thành.[8]

Thứ ba là phó thác theo ý Chúa. Lối giải thích này cho rằng không việc gì xảy ra mà không theo ý Thiên Chúa, nghĩa là, mọi việc xảy ra dù Thiên Chúa cho phép xảy ra hay Thiên Chúa muốn nó xảy ra đều do Thiên Chúa định đoạt. Lối giải thích này cũng không quên nhấn mạnh rằng ý định cuối cùng của Thiên Chúa luôn luôn muốn sự tốt đẹp cho con người, vì những gì không tốt đẹp đều không hợp với bản tính tốt lành, yêu thương và khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì thế, Thiên Chúa chắc chắn phải có lý do chính đáng khi để những sự dữ xảy ra. Nói cách khác, Thiên Chúa sẽ đem về những kết quả tốt đẹp đến từ đau khổ, và dùng sự dữ như phương tiện để thực hiện mục đích Ngài. Vậy, Thiên Chúa muốn có sự dữ, vì nếu Ngài không muốn thì nó không thể hiện hữu được. Điều đáng chú ý (về thần học) là liệu ước muốn có sự dữ trên thế gian có thuộc về bản tính Thiên Chúa không? Vì theo giáo lý Công Giáo, Thiên Chúa luôn luôn ước muốn điều thiện hảo? Tóm lại, lối giải thích này từ chối công nhận rằng sự dữ là một vấn nạn, và khuyên Kitô hữu chỉ cần phó thác theo ý Thiên Chúa là đủ.

Thứ tư là vũ trụ đang tiến hóa. Một quan điểm khác cho là những sự dữ trong đời như bệnh tật, già nua, thất bại… là một phần của tiến trình tiến hoá trong vũ trụ (như đau khi mọc răng là một phần của sự lớn mạnh của con người). Tựu trung, vũ trụ đang tiến hoá. Và bão tố, động đất… là một phần của tiến trình này. Cha Pierre Teilhard de Chardin, thần học gia người Pháp, là người cổ võ cho tư tưởng này. Hiểu cách này, tất cả những gì xảy ra trên thế giới được coi là chức năng của đời sống vũ trụ. Đây là nghĩa sâu nhất của danh từ “tiến hoá”. Thuyết này có ưu điểm là giải thích những sự dữ tự nhiên (động đất, lụt lội, núi lửa…) là bản năng tiến hoá. Vì thế, sự dữ không là một sản phẩm có mặt ngay từ khi tạo dựng vũ trụ, và vì thế, không là một sản phẩm Thiên Chúa dựng nên. Do dó, sự dữ trong thuyết này không có từ đầu, và sau này cũng biến mất khi vũ trụ hoàn hảo, hết tiến hoá.[9]

4. Thánh Augustine và sự dữ

Thánh Augustine (354-430) được coi là thần học gia tiên phong có những giải đáp khá thỏa đáng liên quan đến câu hỏi này.[10] Lời giải thích của thánh nhân dựa trên đức tin căn bản: Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng (Ngài làm được mọi sự) và Toàn Thiện (Ngài luôn yêu điều thiện, không làm điều ác).[11] Lối giải thích của Ngài thực tế, đáng tin, giải đáp được những hi vọng của Kitô hữu, và giúp những gì ta đang làm có ý nghĩa.

Trước hết, Thiên Chúa tạo dựng nên mọi sự từ hư không, và mọi sự đều tốt đẹp. Vì thế, sự dữ không thể là một sản phẩm (thụ tạo) của Thiên Chúa toàn thiện được, vì Ngài không dựng nên sự dữ.[12] Vậy nếu không là một thụ tạo, sự dữ từ đâu đến? Thánh Augustine giải thích rằng sự dữ tự nó không hiện hữu được, vì Thiên Chúa không dựng nên nó, nhưng sự dữ là do vắng bóng sự thiện mà thôi.[13] Thánh Augustine cũng giải thích thêm rằng vì sự dữ tự nó không tồn tại như một thụ tạo, vì thế con người không chọn sự dữ như một đối tượng (vì không có thực để con người chọn). Nhưng khi con người từ chối và quay mặt lại với sự thiện, hay khi chọn lựa cái kém hơn sự thiện, con người đến với sự dữ. Và thánh Augustine kết luận rằng nguồn gốc của sự dữ nằm ở tự do của con người khi họ lựa chọn điều kém hơn sự thiện.[14]

5. Thần học hiện đại và cái nhìn mới về sự dữ

Từ sau Thế Chiến Thứ Hai, với hơn sáu triệu người Do Thái bị Đức Quốc Xã giết chỉ vì họ là người Do Thái, thần học nhìn về sự dữ thay đổi rất nhiều. Nhiều thần học gia phê bình lối giải thích của thánh Augustine hay lối hiểu trong thần học cũ vì tính không thực tế, xa vời, và không giải thích được vai trò Thiên Chúa trong đời sống con người. Họ đề nghị cần phải có một cái nhìn mới trong vấn đề này. Lối giải thích của những thần học mới này cũng mang theo những yếu tố sau:

Thứ nhất là chất vấn tính toàn thiện của Thiên Chúa. Sự dữ ngày càng nhiều trên thế gian khiến con người mất tin tưởng vào Một Thiên Chúa Là Tình Yêu, như Thánh Kinh dạy. Như vậy không có nghĩa là họ từ chối Thiên Chúa toàn thiện, nhưng họ đặt câu hỏi để “xét xử” Thiên Chúa hơn là luôn bênh vực Thiên Chúa như trong thần học truyền thống.

Thứ hai là quy trách nhiệm gián tiếp cho Thiên Chúa khi để sự dữ hiện diện trong thế gian. Vì Thiên Chúa cho con người tự do, và họ đã làm điều xấu (cướp của, giết người…) mà Thiên Chúa không ngăn cản được, nên Thiên Chúa chịu trách nhiệm gián tiếp cho hành động con người gây ra sự dữ. Dù Thiên Chúa luôn ước mong những gì tốt đẹp nhất cho con người, và không muốn họ đau khổ, nhưng Ngài phải chịu một phần trách nhiệm trong thế giới Tốt-Xấu lẫn lộn này.

Thứ ba là con người trưởng thành và hoàn hảo qua chính những lựa chọn của mình. Lối giải thích này cho rằng mỗi con người sinh ra đều có một mục đích mong đạt được. Không như Augustine cho rằng sự dữ là kết quả của tội lỗi, hay như thánh Irenaeus cho rằng sự dữ tôi luyện đời sống đức tin, John Hick (người đại diện cho lối hiểu này) cho rằng chính sự dữ giúp con người có kinh nghiệm khi có những quyết định đúng đắn để xây dựng tư cách của mình. Chính những quyết định đúng đắn hằng ngày giúp ta sống trọn vẹn, đúng nghĩa Thiên Chúa đã ước định cho ta.

Cuối cùng là thần học giải phóng nhắm đến giải thoát con người khỏi những bất công hiện tại. Chính bất công gây ra nghèo đói, tội ác… và những đàn áp, bóc lột là hiện thân của sự dữ. Lối giải thích này không cắt nghĩa nguyên nhân sự dữ, nhưng mời gọi con người thông phần với Đức Kitô là nạn nhân của xã hội bất công, và luôn nhớ rằng Sự Sống Lại là chiến thắng của Thiên Chúa trên sự dữ.

III. Giáo lý Công Giáo và thần học về sự dữ

Trong sách giáo lý Công Giáo, Giáo Hội luôn khẳng định rằng sự dữ (kết quả dẫn đến đau khổ) trong đời sống con người luôn luôn là một mầu nhiệm. Vì thế, Giáo Hội không cho ta một câu trả lời rõ ràng, rành mạch theo lý luận bình thường cho câu hỏi “Tại sao Một Thiên Chúa toàn năng, toàn thiện lại để cho sự dữ hoành hành trong đời sống con người”. Dù công nhận là một mầu nhiệm, Giáo Hội cũng đưa ra nhiều giải thích để chúng ta có thể hiểu và sống có ý nghĩa khi đương đầu với sự dữ. Một vài tư tưởng hiện tại:

Trước hếtvũ trụ và con người đang trong qúa trình tiến hoá. Giáo lý số 310 dạy: “Tại sao Thiên Chúa không tạo dựng một thế giới thật hoàn hảo để không có một sự dữ nào xuất hiện?” Giáo hội trả lời là cho dù Thiên Chúa quyền năng vô biên có thể làm được việc này, nhưng Ngài đã không làm, mà tạo dựng một thế giới “trong tình trạng lên đường” hướng về sự hoàn hảo sau cùng. Nghĩa là cả vũ trụ đang tiến triển, lớn mạnh để đi đến hoàn hảo. Vì thế, sự lớn mạnh khi “cái này xuất hiện, cái kia biến đi” (như núi lửa xuất hiện tạo nên núi mới trong khi núi già biến đi) là quá trình tiến hoá của mọi loài. Giáo hội kết luận: “Vì vậy bao lâu mà công trình tạo dựng chưa đạt được mức trọn hảo của nó, thì cùng với điều tốt thể lý, cũng có sự dữ thể lý.” Nói cách khác, lớn mạnh để đi đến hoàn hảo đòi hỏi thay đổi, thay đổi đòi hỏi nhiều đau khổ mà ta gọi là sự dữ[15].

Thứ haitự do là nguyên nhân gây sự dữ. Và dù Thiên Chúa không tạo dựng sự dữ, Ngài cho phép sự dữ xâm nhập thế gian. Giáo lý số 311: “Thiên thần và con người có tự do…trong thực tế, họ đã phạm tội… Tuy nhiên, vì tôn trọng tự do của thụ tạo, Người để nó xảy ra, và một cách mầu nhiệm, Người biết cách rút lấy điều lành từ sự dữ.” [16] Giáo hội khẳng định “Thiên Chúa không bao giờ, bằng bất cứ cách nào, trực tiếp hay gián tiếp, là nguyên nhân của sự dữ luân lý.” Nhưng trong và qua sự dữ, Thiên Chúa biến nó thành những gì lợi ích cho con người. Giáo lý 313 dạy: “Mọi sự đều sinh lợi ích cho ai yêu mến Thiên Chúa” (Rm 8, 28). Và giáo lý 312 khẳng định: “Thiên Chúa dẫn đưa ta tới điều thiện hảo từ những hậu quả của sự dữ.”

Thứ baThiên Chúa sẽ toàn thắng. Sách giáo lý số 314 dạy rằng hiện tại chúng ta không hiểu được mầu nhiệm đau khổ, nhưng ta tin rằng Thiên Chúa sẽ toàn thắng mọi sự trong ngày sau hết. Trong ngày “mặt đối mặt” đó (1 Cor 13:12), chúng ta hiểu trọn vẹn đường lối Thiên Chúa dẫn con người qua những thảm kịch của sự dữ và tội lỗi. Nói cách khác, cuối cùng ta sẽ hiểu trọn vẹn. Vì thế hãy cứ vững lòng tin.

IV. Kết Luận

Đau khổ mà thế giới đang gánh chịu vì nạn đại dịch Covid-19 khiến mọi người đặt câu hỏi về sự hiện diện của sự dữ, và câu hỏi này chắc chắn vẫn còn là vấn nạn ngàn đời cho mọi người. Là những Kitô hữu, dù chúng ta không biết tại sao mình bị đau khổ hay tại sao sự dữ khống chế cuộc sống, nhưng chúng ta tin những đau khổ mình chịu không vô nghĩa, vì chính Đức Giêsu Kitô đã chịu đau khổ cách bất công. Điều chúng ta TIN chắc chắn là Thiên Chúa luôn yêu thương con người, và Ngài đã tạo dựng một thế giới tốt nhất có thể được, để con người sinh hoạt.

Tôi mượn lời dạy của giáo lý Công Giáo số 324 để tóm kết: “Việc Thiên Chúa cho phép có sự dữ thể lý và sự dữ luân lý là một huyền nhiệm mà Thiên Chúa làm sáng tỏ nhờ Con của Ngài là Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã chết và sống lại để chiến thắng sự dữ. Ðức tin giúp chúng ta xác tín rằng, Thiên Chúa đã không cho phép sự dữ xuất hiện, nếu Ngài không làm phát sinh điều thiện hảo từ chính sự dữ đó, bằng những đường lối mà chúng ta chỉ biết được trọn vẹn trong đời sống vĩnh cửu.”

——————-

Chú thích:
[1] Con số tính đến ngày 5-4-2020.
[2] Nhiều Kitô hữu nhầm lẫn cho rằng Nhị Nguyên Thuyết đến từ Kinh thánh, nhưng thực ra thuyết này đến từ Gnosticism (Vô Ngộ Thuyết) và Manichaeism (Thuyết Mani). Thuyết Nhị Nguyên được tìm thấy sớm nhất được tìm thấy trong lời dạy của Zarathustra (thể kỷ 6 trước công nguyên) và được Mani (chết 276) khai thác thêm. Thuyết này chủ trương vũ trụ tồn tại có Bóng Tối – Ánh Sáng, Trắng-Đen, Nóng-Lạnh…
[3] Lý luận này được triết gia Baruch Spinoza (1632-1677) cổ động và được gọi là Duy Danh Luận Chủ Nghĩa (nominalisticism).
[4] Triết gia Gottfried W. Leibnitz lý luận rằng thế giới hiện tại là chọn lựa tốt nhất mà Thiên Chúa đã dựng nên cho dù có sự hiện diện của Sự Dữ. Lý luận này nhằm đáp lại logic của triết lý mà nhiều người nói là câu trả lời của Leibnitz cho Descartes. Nhưng Voltaire, trong tác phẩm Candide,Ou L’Optimisme, đã bắt đầu với lời lẽ ủng hộ quan niệm của Leibniz về cách giải thích hiện hữu của sự dữ cho rằng vũ trụ này là chọn lựa tốt nhất mà Thiên Chúa có thể làm ra. Nhưng cuối tác phẩm, ông kết thúc bằng lời lẽ cổ võ cho thuyết Bất Khả Tri Luận, cho rằng bí nhiệm này vượt trên khả năng con người.
[5] Thuyết Nhân Qủa được người Do Thái chấp nhận vì tính dễ hiểu của nó. Gioan 9:1-2 kể chuyện khi gặp người mù từ khi mới sinh, một số môn đệ Chúa Giêsu cho là do tội của anh ta hay của cha mẹ anh ta. Chúa Giêsu dùng cơ hội này để sửa sai niềm tin của họ. Kitô giáo chưa bao giờ chính thức dùng thuyết Nhân Qủa để cắt nghĩa nguồn gốc sự dữ, nhưng nhiều người hiểu lầm lời dạy cho rằng sự trừng phạt Thiên Chúa áp đặt trên Adam và Eva vì bất tuân là hình thức Nhân Quả (xem Gen 3:16-18). Dù giáo lý Giáo Hội dạy rằng đau khổ là kết quả của tội lỗi, nhưng luôn nhắc nhở đây là một mầu nhiệm hơn là một sự kiện được cắt nghĩa cách đơn giản theo thuyết Nhân Quả.
[6] Đừng lầm tưởng lý luận “toàn năng” này với phép lạ. Dĩ nhiên Thiên Chúa có thể làm cho đá nổi trên mặt nước, hay cho trâu bò bay nhanh hơn chim, nhưng khi đã là phép lạ, thì thực chất của hiện vật thay đổi, nghĩa là, đá được phép “nhẹ” hơn nước, hay trâu bò được phép “bay” nhanh hơn chim. Điều Thiên Chúa không thể làm được là khi tốc độ bay 50 km/giờ lại nhanh hơn 100 km/giờ, hay 10 kg lại nhẹ hơn 5 kg. Tất cả những định luật tự nhiên này được chính Thiên Chúa định đoạt.
[7] Giáo phụ Origen, thế kỷ 3, giải thích rằng những thử thách là để ta được tôi luyện và lớn lên (xem De principiis, sách I, V,1). Thể xác con người như phương tiện qua đó ta được “huấn luyện và hướng dẫn” để được ơn cứu chuộc (xem De principiis, sách I, V,3). Sự Dữ bài học Thiên Chúa dạy con người.
[8] John Hick, một học giả nổi tiếng hiện đại của thế kỷ 20, khai thác tư tưởng này của thánh Ireneaus trong cuốn Evil and the God of Love (San Francisco: Harper San Francisco, 1978).
[9] Xem Pierre Teilhard de Chardin, The Future of Man, New York: Harper & Row Publisher, 1964, p. 261.
[10] Cho đến cuối đời thánh Augustine vẫn còn tranh luận vấn đề này với Julian. Xem John M. Rist, Augustine (New York: Cambridge University press, 1994) p. 261.
[11] Khi còn trẻ, Augustine theo nhóm Manichean chủ trương Nhị Nguyên Thuyết, cho là vũ trụ có Tốt-Xấu cùng tồn tại. Sau khi đã trở nên Kitô hữu, Augustine chống lại lạc thuyết này trong những bài viết của Ngài.
[12] Xem De Civitate Dei, ch. xII.
[13] Xem Augustine, De Civitate Dei, XI, CHAP. 9, và Confessiones, VII: [XII] 18. Thánh Augustine sửa đổi một phần tư tưởng của Hậu Plato (Neo-Platonism) khi trường phái này nhấn mạnh rằng sự dữ không là hữu thể tự hữu nhưng là vắng bóng của Sự Thiện.
[14] Xem Augustine, De Civitate Dei, XII, CHAP. 6, và Confessiones, VII: [III] 5.
[15] Giáo lý Công Giáo 310 – Tại sao Thiên Chúa không tạo dựng một thế giới thật hoàn hảo để không có một sự dữ nào xuất hiện? Xét theo quyền năng vô biên Thiên Chúa vẫn có thể tạo dựng được điều tốt hơn (x. T. Tôma Aquinô tổng luận 1, 25, 6). Nhưng trong sự khôn ngoan và nhân hậu vô biên của Ngừơi, Thiên Chúa đã tự ý sáng tạo một thế giới trong “tiến trình” hướng về sự trọn hảo tối hậu. Theo ý định của Thiên Chúa, sự tiến hóa này gồm có việc vật này xuất hiện và vật khác biến đi, có cái hoàn hảo hơn và có cái kém hơn, có xây đắp và cũng có tàn phá trong thiên nhiên. Vì vậy bao lâu mà cuộc sáng tạo chưa đạt được sự trọn hảo của nó, thì cùng với điều tốt thể lý, cũng có sự dữ thể lý (x. T. Tôma Aquinô, s. gent 3. 71).
[16] Giáo lý Công Giáo 311 – Thiên thần và con người là những thụ tạo thông minh và tự do, nên phải tiến về cùng đích bằng một sự lựa chọn tự do và yêu chọn cái tốt hơn. Do đó họ có thể lầm lạc. Trong thực tế, họ đã phạm tội. Như vậy, sự dữ luân lý, vô cùng nghiêm trọng hơn so với sự dữ thể lý, đã xâm nhập vào thế giới. Thiên Chúa không bao giờ là nguyên nhân của sự dữ luân lý, cho dù trực tiếp hay gián tiếp (x. T. Âu-tinh, lib 1, 1, 1; Th. Tôma Aqu, s. th, 1-2, 79, 1). Tuy nhiên, vì tôn trọng tự do của thụ tạo, Người để nó xảy ra, và một cách mầu nhiệm, Người biết cách rút lấy điều lành từ sự dữ.

LM Mathêu Nguyễn Khắc Hy PSS

Cô giáo Mỹ chia sẻ quá trình gần một tháng điều trị Covid-19

Cô giáo Mỹ chia sẻ quá trình gần một tháng điều trị Covid-19

By  Tạp Chí Hoa Kỳ

6 April, 2020

Đang bình phục sau khi nhiễm nCoV, Maureen Boland, 52 tuổi, giáo viên tiếng Anh trường trung học Abington, không thể quên cơn ác mộng khi nằm viện.

Cô Maureen Boland chia sẻ quá trình điều trị nCoV trong gần một tháng. 

Tuần trước, khi nằm trên giường bệnh trong tình trạng khó thở, tôi vô tình thấy mình xuất hiện trong một bài báo của tờ ABC6 ngày 23/3 với tiêu đề: “Xác nhận ca nhiễm Covid-19 tại bang Pennsylvania là bác sĩ gây mê và giáo viên”. Nếu có thể, tôi muốn đổi tiêu đề thành: “Tôi là một trong những bệnh nhân may mắn”.

Tôi có kết quả dương tính với nCoV, chỉ số men gan tăng cao, phải đặt ống thở vì không thể tự thở nhưng tôi đã chiến thắng tử thần. Hiện tại, tôi dần bình phục nhưng cơn ác mộng về những ngày nằm viện khiến tôi không thể yên giấc. Tôi vẫn đang chiến đấu để hồi phục cả thể chất lẫn tinh thần sau Covid-19.

Ngày 13/3, sau khi trường trung học đóng cửa theo lệnh của chính quyền địa phương, tôi bắt đầu xuất hiện triệu chứng bệnh. Khi đang cùng con gái Julia dắt chó đi dạo, tôi cảm thấy mệt mỏi, hụt hơi. Tôi quay sang nói với con rằng không chắc có thể tự quay về nhà, nhưng tôi đã cố gắng bước từng bước trở về.

Chiều hôm đó, tôi lên cơn sốt với những tràng ho không dứt, những cơn ớn lạnh khắp thân thể còn mình mẩy thì đau nhức. Vì đã tìm hiểu triệu chứng của Covid-19 trên Internet, tôi tin chắc mình đã nhiễm bệnh.

Ngày hôm sau, tôi gọi điện cho bác sĩ riêng nhưng ông ấy nói tôi sẽ không được xét nghiệm nếu chỉ với những triệu chứng kể trên. Thân nhiệt không vượt quá 37,8 độ C, tôi có thể tự thở dù phải chịu đựng sốt và ho.

Tôi đã liên lạc lại với bác sĩ vào ngày 16/3 nhưng vẫn câu trả lời ấy. Tôi sẽ không được xét nghiệm, thậm chí không được nằm viện trừ khi có kết quả dương tính với nCoV. Hôm sau, cơn sốt vẫn không có dấu hiệu suy giảm. May mắn thay, bác sĩ đã gọi điện lại thông báo tôi có thể được xét nghiệm. Mọi vấn đề thay đổi chỉ trong một đêm vì tôi đã 52 tuổi và có tiền sử hen suyễn.

Cô Maureen Boland, 52 tuổi, giáo viên tiếng Anh, đã trải qua một tháng điều trị nCoV. Ảnh: Tyger Williams.

Sáng 18/3, tôi lái xe đến khu vực xét nghiệm Covid-19 tại địa phương. Một nhân viên y tế mặc đầy đủ đồ bảo hộ đã lấy mẫu xét nghiệm dịch mũi và nghe phổi của tôi. Sau khi khám, anh nhìn thẳng vào mắt tôi, bảo đừng quá lo lắng và kê thuốc kháng viêm Prednisone. Kết quả xét nghiệm dự tính có sau bốn ngày.

Tôi đã nghe theo lời khuyên của nhân viên y tế nhưng ngày hôm sau hơi thở trở nên nặng nề, mọi thứ dần tồi tệ. Tôi buồn nôn, mất vị giác và khứu giác. Điều đáng chú ý nhất trong thời gian này là triệu chứng bệnh liên tục biến đổi.

Mỗi buổi tối, tôi thấy tin tức phát trực tiếp về số người nhập viện và số người qua đời tăng cao. Julia gợi ý tôi nên nhập viện. Tôi có thể thấy nỗi hoang mang trong ánh mắt con gái, nó làm tôi sợ hãi tột độ. Bất chấp những lời khẩn nài của người thân, tôi kiên quyết không đến bệnh viện vì sợ những điều đã thấy trên tin tức sẽ ứng nghiệm.

Sáng 21/3, một tuần sau khi bị bệnh, tôi liên lạc cho bác sĩ riêng. Tình hình trở nên nghiêm trọng, tôi gần như không thể nói và thở. Lúc này, bác sĩ nói rằng tôi phải nhập viện cấp cứu.

Chồng tôi, Scott, chở tôi vào một bệnh viện địa phương và tôi phải cách ly ngay. Tôi được dẫn vào căn phòng nhỏ. Nhân viên y tế dùng kim tiêm chọc vào người tôi hết lần này đến lần khác để làm các xét nghiệm và kiểm tra huyết áp. Họ đeo cho tôi máy khí dung và chụp X-quang phổi. Khi bác sĩ hỏi thăm tình trạng, tôi nói mình sợ và không thể thở được. Dù nhân viên y tế làm việc thuần thục bên cạnh, tôi vẫn cảm nhận rằng loại virus mới này chưa được y học khám phá.

Cắm đủ loại dây trên người, tôi nằm đợi kết quả xét nghiệm trong phòng kín trước khi chuyển vào phòng bệnh chính thức. Khi muốn đi vệ sinh, tôi phải nghiên cứu kỹ càng cách cắm các loại dây để có thể cắm chúng trở lại. Tôi xin một chiếc gối nhưng nhân viên y tế bảo không có. Không TV, không đồ ăn, nước uống, cánh cửa thì luôn đóng khiến tôi cảm thấy rất ngột ngạt.

Khi bác sĩ quay lại đem theo kết quả xét nghiệm, anh ấy bảo tôi chính thức được nhập viện. Với tôi, đây không phải tín hiệu tốt. Tôi tưởng suốt thời gian qua đã chống lại nCoV nhưng rồi nhận ra cuộc chiến thực sự mới bắt đầu.

Tất cả năm tháng kiên trì tập thể dục, không hút thuốc, ăn chay, uống vitamin cũng không thể ngăn chặn sự tấn công của loại virus mới. Nghĩ về gia đình, tôi cảm thấy ghét bỏ cơ thể mình vì đã chịu thất bại trước dịch bệnh.

Sau 10 tiếng chờ đợi, tôi được chuyển đến khoa tim mạch, nơi tôi được kiểm tra nhiều hơn. Chỉ số men gan không ngừng tăng cao. Ảnh chụp X-quang cho thấy phổi trái của tôi bị tổn thương nặng. 4h ngày 22/3, tôi có kết quả xét nghiệm dương tính với nCoV. Vì là giáo viên, tiếp xúc với nhiều học sinh, tôi đã gửi email báo cáo cho trường học để phụ huynh chú ý đến sức khỏe của con.

Bác sĩ khoa Hô hấp và khoa Truyền nhiễm cho biết đang theo dõi chặt chẽ tình hình bệnh và cân nhắc chuyển tôi đến khoa hồi sức tích cực (ICU), nơi tôi có thể được đặt máy thở. Là người mắc bệnh hen suyễn, một trong những nỗi sợ lớn nhất của tôi là không thể tự thở. Khi nghe bác sĩ thông báo, tôi cảm thấy sợ hãi, chỉ muốn tháo tung các dây dợ trên tay để bỏ trốn.

Maureen Boland chụp ảnh cùng chồng, Scott và hai con gái Julia và Caitlin. Ảnh: Maureen Boland.

Gia đình tôi rơi vào trạng thái căng thẳng. Mọi người muốn chuyển tôi đến bệnh viện thuộc Đại học Pennsylvania vì có khu vực riêng điều trị Covid-19. Tuy nhiên, hai bệnh viện đều từ chối do tình trạng của tôi sẽ nguy hiểm hơn nếu di chuyển.

Chồng vẫn bình tĩnh động viên tôi. Con gái, anh rể, cháu gái của tôi về nhà chuẩn bị đồ dùng cần thiết để mang vào viện. Mặc dù tôi biết nhân viên y tế và gia đình đang cố gắng hết sức, tôi vẫn cảm thấy đơn độc trong cuộc chiến chống lại Covid-19.

Nằm trong phòng bệnh, tôi tưởng như đang ở trong bể cá. Tôi có thể thấy bác sĩ và nhân viên y tế thảo luận về bệnh tình của mình qua lớp kính. Chúng tôi liên lạc bằng chiếc điện thoại đặt cạnh giường. Khi vào phòng, bác sĩ đeo khẩu trang, kính và quần áo bảo hộ.

Phần đáng sợ nhất là phương pháp điều trị liên tục phải thay đổi vì không ai hiểu rõ về Covid-19. Ban đầu, tôi được cho sử dụng steroid để ngừa viêm nhiễm, rồi bị loại bỏ vì Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC) cảnh báo steroid không thể ngăn Covid-19. Tôi được cho dùng máy khí dung để thở tốt hơn nhưng rồi lại bị loại bỏ vì nó không phù hợp.

Gia đình tranh luận với bác sĩ việc có nên cho tôi dùng thuốc hydroxychloroquine, loại thuốc được cho có tiềm năng điều trị Covid-19. Một ngày sau khi phối hợp dùng với kháng sinh, tình hình của tôi đã chuyển biến tích cực. Tôi có thể thở tốt hơn, chỉ số chức năng gan trở lại bình thường. Tôi đã thoát khỏi cửa tử trong gang tấc.

Tối 2/4, tôi được về nhà tự điều trị. Cơ thể tím bầm, bốc mùi sau nhiều ngày không tắm. Tôi đang từ từ hồi phục trong khi ngoài kia số ca qua đời không ngừng tăng. Giờ đây, tôi tự hỏi các bệnh nhân khác trên thế giới liệu có được tiếp cận với y tế và may mắn như mình hay không. Những vết thâm tím trên tay và bụng do kim và tiêm tĩnh mạch IV gây nên nhắc nhở tôi rằng việc được chăm sóc y tế là rất quan trọng và chúng ta thật mong manh tại thời điểm này.

Tú Anh (Theo The Philadelphia Inquirer)

Thánh ca:Thập Giá Đẫm Nước Mắt Trời Cao (khóc vì đại dịch corona)

httpv://www.youtube.com/watch?v=Il7SazWdmK0

Thánh ca:Thập Giá Đẫm Nước Mắt Trời Cao (khóc vì đại dịch corona)

Bước vào tuần Thương Khó của Chúa Giêsu (tuần thánh).

Xin chia sẻ với quí vị video ca khúc: Thập Giá Đẫm Nước Mắt Trời Cao

 – Khóc vì bệnh nhân trong giờ hấp hối mà không có người thân bên cạnh.

– Khóc vì những nhân y tế vì lây nhiễm mà chết vì phục vụ.

– Khóc vì thương nhân loại đang đau khổ vì đại dịch.

 Kính chúc quí vị tuần thánh bằng an và thánh thiện.

Phạm Trung

Nhóm phụ nữ gốc Việt may khẩu trang cho bệnh viện chống dịch Covid

VOA Tiếng Việt

Một nhóm phụ nữ gốc Việt ở bang Washington có sáng kiến may khẩu trang và gửi tặng cho nhân viên y tế ở các bệnh viện trước trình trạng khẩu trang khan hiếm giữa đại dịch Covid-19 đang bùng phát dữ dội.

Chỉ trong vòng 3 tuần, nhóm với hơn mười phụ nữ Việt Nam đang sinh sống ở các thành phố Tocoma, Spanaway, Seattle, Bellevue, Federal Way, Renton … đã may hơn 10.000 chiếc khẩu trang để hỗ trợ cho các y bác sĩ ở tuyến đầu trong cuộc chiến chống dịch bệnh.

Bà Ngô Thị Thanh Loan ngụ ở thành phố Seattle chia sẻ trăn trở của bà khi đại dịch xảy ra trong khi ngành y tế Hoa Kỳ lại thiếu khẩu trang. Bà nói: “Mình phải làm cái gì đó để chia sẻ nỗi đau này của nhân loại, bất kể màu da hay sắc tộc.” Bà nói thêm với VOA:

“Cơn dịch này bùng phát cả thế giới, bản thân tôi còn khỏe mạnh thì tôi nghĩ tôi nên giúp cho các bệnh nhân, nhất là các y bác sĩ. Tôi thấy họ làm việc trong điều kiện như thế thì hết sức thương tâm, thấy mà muốn khóc. Mình còn khỏe mạnh thì mình cứ giúp. Nhìn thấy vậy làm sao mà bỏ qua được!”

Bà Loan kể rằng khi trên đường giao khẩu trang cho bệnh viện, bà chứng kiến cảnh hàng chục xe cứu thương lần lượt ra vào vào bệnh Valley Medical Center ở thành phố Renton, bà không an lòng. Bà kể: “Đau lòng quá, ngồi trong xe mà khóc thôi….Chưa bao giờ thấy một bệnh viện mà xe cứu thương chở bệnh nhân đi hàng loạt như vậy. Ôm xấp khẩu trang trong tay mà khóc.”

Trước đó, bà Loan chia sẻ rằng bà đã giao hàng trăm chiếc khẩu trang cho bệnh viện Evergreen Heath Center ở thành phố Kirkland, và được các nhân viên y tế trân trọng đón nhận.

Cũng từ Seattle, chị Mỹ An Lâm, đã cùng người hàng xóm của mình, may hàng trăm chiếc khẩu trang tặng cho bệnh viện Highline Medical Center.

“Tôi thấy một nhóm các chị trên Facebook ở nhà may khẩu trang. Tôi nghĩ mình giúp được gì thì giúp họ thôi. Tôi liên lạc với chị trưởng nhóm để lãnh vải về may. Khi họ xài những chiếc khẩu trang do mình làm ra, tôi cảm thấy rất vui.”

“Tôi bắt đầu may từ hôm thứ Bảy (28/3). Tôi và người hàng xóm may được hơn hai trăm chiếc. Chúng tôi sẽ gửi cho bệnh viện Highline Medical Center ở phía nam Seattle. Giặt và ủi xong thì ngày mai tôi sẽ giao cho họ.”

Tinh thần tương thân tương ái và sức mạnh của đôi bàn tay nhỏ bé của các phụ nữ gốc Việt ở bang Washington tiếp tục lan tỏa, nhân rộng. Các chị cho biết ý tưởng này do bà Kati Nguyễn, một thợ may ở thành phố Spanaway, khởi xướng và vận động.

Bà Kati Nguyễn nói với VOA:

“Trước đây mọi người đến đây để may, cũng có người đến nhận vải về, có người đến đây học may rồi tự đi mua vải, có người may xong thì đến đây giao, có người may xong thì trực tiếp đang đến bệnh viện.”

Hàng ngày bà Thanh Loan không ngại lái xe đi một quảng đường xa từ Seattle xuống nhà bà Kati ở Spanaway để may khẩu trang. Bà Loan nói:

“Mấy chị em (khi bang Washington chưa có ban hành lệnh ở nhà) tập trung ở nhà chị Kati, người thì cắt vải, người cắt dây thun, người thì may, người thì ủi, người cho vào bao. Sau đó chúng tôi nhận về nhà làm.”

Bà Kati chia sẻ:

“Chúng tôi chỉ tặng cho các bệnh viện, phòng khám, viện dưỡng lão … là những nơi rất cần. Họ nhắn tin nói là họ thiếu trầm trọng, có người khóc luôn.

“Các bệnh viện nói họ rất mừng khi được tặng khẩu trang. Họ nói cứ cho bao nhiêu thì cho…500, 800, 1.000… chiếc đều nhận cả.

“Khẩu trang vải có lợi cho hoàn cảnh hiện nay vì mình có thể giặt được, chứ còn khẩu trang giấy thì chỉ sử dụng một lần.

“Họ kể rằng một chiếc khẩu trang giấy mà họ xài đi xài lại 3 ngày. Thấy vậy tội lắm!”

Từ cuối tháng 3 và đầu tháng 4, nhóm đã không còn tập trung tại một nơi nữa vì thực hiện lệnh tránh lây nhiễm bệnh trong cộng đồng. Tuy nhiên, các thành viên vẫn tiếp tục tự may khẩu trang tại nơi ở của mình và đích thân mang đến giao cho bệnh viện.

Bà Kati nói:

“Nhóm của chúng tôi sẽ duy trì may cho đến khi nào bệnh viện nhận được nguồn khẩu trang do chính phủ nhập về. Hiện bây giờ nếu còn nguồn vải, còn nguồn tài trợ vải thì chúng tôi vẫn còn may.”

Vừa trả lời phỏng vấn của VOA qua điện thoại, chị Mỹ An Lâm vừa điều khiển chiếc máy may chạy liên tục mong cho kịp đợt giao khẩu trang ngày mai, còn bà Thanh Loan thì nhắn tin cho hay “lại có thêm nhiều xe cứu thương phía bên trong bệnh viện” và “không rõ người nằm bên trong còn hay mất!”

(Nếu không vào được VOA, xin hãy dùng đường link voaviet2019.com hoặc vn3000.info để vượt tường lửa)

 

VOATIENGVIET.COM
Chỉ trong vòng 3 tuần, nhóm với hơn mười phụ nữ Việt Nam đang sinh sống ở các thành phố Tocoma, Spanaway, Seattle, Bellevue, Federal Way, Renton … đã may hơn 10.000 chiếc khẩu trang để hỗ trợ cho các y bác sĩ ở tuyến đầu trong cuộc chiến chố…

Ông Trump nói sẽ điều tra việc WHO thân Trung Quốc

Image may contain: 1 person
Trí thức Việt Nam

Ông Trump nói sẽ điều tra việc WHO thân Trung Quốc

Hôm 7/4, Tổng thống Mỹ Donald Trump viết trên Twitter:

“WHO thực sự đã thất bại thảm hại. Vì lý do nào đó, mặc dù họ chủ yếu hoạt động bằng tiền của Mỹ nhưng lại rất thân Trung Quốc. Chúng tôi sẽ nghiên cứu kỹ chuyện này. May mắn là tôi đã bỏ qua khuyến cáo của họ về việc duy trì biên giới mở với Trung Quốc từ sớm. Tại sao họ lại đưa cho chúng ta một đề nghị đầy khuyết điểm như vậy?”

Ông Trump ra lệnh cấm biên với người Trung Quốc và người nước ngoài mới tới Trung Quốc vào cuối tháng Một, sau khi WHO tuyên bố dịch virus corona mới là “tình trạng khẩn cấp sức khỏe toàn cầu”. Tuy nhiên WHO khẳng định việc hạn chế đi lại và thương mại với Trung Quốc là không cần thiết. Ngay sau đó, đại diện của WHO cũng chỉ trích các biện pháp cấm biên mà Mỹ và một số nước khác đi theo bước chân của Mỹ áp đặt với Trung Quốc là gây “phản tác dụng”.

Vũ Khí Sinh Học Của Tàu Xâm Lăng Thế Giới

Image may contain: one or more people and closeup

Kimtrong Lam

Vũ Khí Sinh Học Của Tàu Xâm Lăng Thế Giới

 

Saturday, April 04, 2020 Bình Luận , Bùi Phạm Thành , ĐSLV

Bắt đầu từ tháng 12 năm 2019, một số tin tức và video clip về nạn dịch cảm cúm có thể biến chứng gây viêm phổi làm chết người ở Wuhan (Vũ Hán – thủ đô của tỉnh Hồ Bắc, Hubei, có dân số trên 11 triệu) bên Tàu khiến nhà cầm quyền Tàu ra lệnh quản chế, giam lỏng cả tỉnh Hồ Bắc, dân số trên 58 triệu, “trong không được ra, ngoài không được vào”, nhà kín cửa, phố im lìm, đường xá vắng tanh như thành phố ma. Thế giới đã quá quen thuộc với dịch cảm cúm hàng năm, nên không lấy gì làm lạ và đã gửi lời chúc lành đến dân chúng Vũ Hán. “Cháy nhà hàng xóm, bình chân như vại”, vì chuyện xảy ra ở một tỉnh mãi tận bên Tàu, và như thường lệ, người dân Vũ Hán và người Tàu ở khắp nơi trên thế giới cứ thản nhiên “về quê ăn Tết”. Rồi sau Tết thì cũng thản nhiên trở lại với công ăn việc làm, trong nước cũng như ngoại quốc, không biết rằng họ đã được “gài bom vi trùng” trong người.

Đó là một bi kịch được dàn cảnh tuyệt vời bởi nhà cầm quyền Tàu cộng để thế giới nghĩ rằng cảm cúm là chuyện bình thường vẫn xảy ra hàng năm, và năm nay nước Tàu bị nặng. Tuy nhiên, sau khi dân Tàu đã bung ra tứ tán trên thế giới thì nhà cầm quyền Tàu cộng mới tuyên bố đây là một bệnh dịch do một loại siêu vi khuẩn mới gây cảm cúm và viêm phổi. Trong khi dân Tàu, mang coronavirus đi khắp thế giới thì người đứng đầu WHO vẫn “nể tình” Tàu cộng nên vẫn chưa chịu tuyên bố tình trạng đại dịch. Cho đến khi các nhân viên xưởng may Tàu ở Ý đã phát tán virus khiến dân Ý chết hàng loạt thì ngày 11 tháng 3 năm 2020, WHO mới tuyên bố đó là đại dịch. Nhưng đã quá trễ, con coronavirus đã được dân Tàu đem đi khắp thế giới từ hơn 2 tháng qua (sau Tết âm lịch) và số quốc gia bị lây nhiễm đã là 114 quốc gia với hơn 4 ngàn người chết.

Một quả bom tự sát của chiến binh quá khích Hồi giáo có thể giết hàng chục người, thế nhưng một “quả bom vi trùng” được cấy vào người dân Tàu để đem đi khắp nơi trên thế giới thì hậu quả thật khó lường.

Thành ngữ Việt có câu “chỗ nào có khói là có Tàu”, do đó nỗi kinh hoàng đã tràn lan khắp thế giới, kinh tế đình trệ và khắp nơi vắng tanh vì hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đóng cửa biên giới cũng như giới hạn dân chúng trong nước về vấn đề di chuyển.

Khi kinh hoàng đã bao trùm thế giới thì chính quyền Tàu cộng tuyên bố họ đã ngăn cản được nạn dịch trên lục địa Tàu. Tiếp theo đó là “mở rộng vòng tay” cứu trợ các quốc gia nghèo ở Đông Âu và ngay cả nước Ý, quốc gia đã mở cửa đón hàng chục ngàn nhân công Tàu vào làm ở các hãng xưởng may quần áo đã bị thương gia Tàu dùng tiền lũng đoạn hoặc mua đứt. Đồng thời bắt chẹt Hoa Kỳ về thuốc men và dụng cụ y khoa, vì tất cả những thứ này đều đã được các hãng xưởng của Hoa Kỳ đem qua Tàu để chế tạo vì nhân công rẻ.

Quả bom vi trùng cấy vào dân Tàu là một dàn dựng tinh vi và khủng khiếp nhất trong lịch sử của nhân loại.Chỉ với những quả “bom sinh học – quả bom vi trùng” gài vào dân Tàu rồi tung ra khắp nơi, trong ba tháng đầu năm 2020, Tàu cộng đã đánh gục toàn thế giới, kể cả Hoa Kỳ, một quốc gia có nền kinh tế và văn minh đứng đầu thế giới. Hiển nhiên, đây là một dàn dựng tinh vi và khủng khiếp nhất trong lịch sử của nhân loại. Như thế thì làm sao Tàu cộng tránh khỏi sự trả đũa của tây phương?

Việc đầu tiên là áp dụng theo sách vở tuyên truyền của Nga Xô là “tung hoả mù”, đưa ra những tin đồn đoán, những giả thuyết (conspiracy theory) để đánh lừa dư luận.

Đảng Cộng sản Tàu đã dành cả tuần lễ của đầu tháng Ba để đưa ra những giả thuyết nhằm gây nghi ngờ về nguồn gốc của coronavirus, và do đó làm chệch hướng sự chỉ trích về việc Tàu cộng che dấu và gian dối về dịch coronavirus, lúc này được biết đến với tên COVID-19.

Đây là một chiến lược rõ ràng được phát xuất và điều khiển bởi Bắc Kinh như những lần trước, đồng thời báo hiệu cho những hành động tích cực để đánh lạc hướng nghi ngờ nguồn gốc và nguy hiểm của bệnh dịch, đồng thời duy trì ảnh hưởng của Tàu trên chính trường quốc tế.

Tàu cộng đã dùng phương tiện thông tin xã hội Twitter để tung ra những giả thuyết về nguồn gốc của coronavirus.

Một giả thuyết, được tweet nhiều lần liên tiếp bởi phụ tá của phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Tàu là Zhao Lijian, được tiếp tay bởi giới truyền thông của chính phủ Tàu, rằng coronavirus có thể bắt nguồn từ một phòng thí nghiệm của quân đội Hoa Kỳ.
Một giả thuyết khác cho rằng bệnh dịch bắt đầu vào tháng 11 năm 2019 ở Ý, rồi được công nhân Tàu đem về Vũ Hán.
Nhiều lời đồn đoán và giả thuyết khác từ các nhân viên trong chính phủ Tàu cho rằng coronavirus không bắt nguồn từ thành phố Vũ Hán của Hồ Bắc.

Trên thực tế thì các khoa học gia cho biết coronavirus không bắt nguồn từ phòng thí nghiệm, mà là từ thiên nhiên, do các động vật hoang dã truyền qua người, bắt đầu được phát hiện từ các chợ bán thịt thú rừng ở Hồ Bắc.

Những nhà nghiên cứu chính trị cho biết những giả thuyết và đồn đoán được tung ra từ phía Tàu cộng là rập khuôn theo “sách vở” tuyên truyền của đảng cộng sản Nga nhằm mục đích gây hoang mang, hỗn loạn và bất hoà trong dân chúng qua việc truyền bá các giả thuyết trên các phương tiện truyền thông:

Tung ra nhiều giả thuyết mâu thuẫn nhau.
Phổ biến rộng rãi, khuếch đại, các giả thuyết trên bằng phương tiện truyền thông xã hội qua mạng lưới internet toàn cầu. Đồng thời mua chuộc giới truyền thông không có cảm tình với chính phủ tây phương, như các giới truyền thông thiên về đảng Dân Chủ ở Hoa Kỳ, để đẩy mạnh những giả thuyết và đồn đoán.
Phối hợp việc sử dụng phương tiện ngoại giao, sứ quán, và phương tiện truyền thông được nhà nước tài trợ để đẩy mạnh các giả thuyết nói trên.

Song song với việc “tung hoả mù”, Tàu cộng và Nga đã bắt tay vào một chiến dịch được khua chiêng, gióng trống, tuyên bố rầm rộ về việc trợ giúp các quốc gia châu Âu và đông Âu với các vật dụng y tế để phòng chống coronavirus. Hành động này, cộng với những lời tuyên truyền là Liên hiệp Âu châu không giúp đỡ các quốc gia nghèo trong liên hiệp, khiến các quốc gia này ngả về phía Tàu cộng và chỉ trích Liên hiệp Âu châu, đặt mầm mống cho sự tan vỡ, hay ít ra cũng suy yếu, của Liên hiệp Âu châu.

Tuy nhiên các nhà phân tích cho rằng Tàu cộng chỉ gây được ảnh hưởng với các quốc gia trong Liên hiệp Âu châu khi họ đang ở trong tình trạng khó khăn nhất thời hoặc trong trường hợp không thể ngăn chặn sự tàn phá của coronavirus.

Trường hợp của Anh quốc, một bài viết trên trang báo Sydney Morning Herald cảnh cáo Tàu cộng sẽ phải đối diện với chính phủ Anh về sự “tính toán” liên hệ với coronavirus, sau khi thủ tướng Anh, ông Boris Johnson, được khám nghiệm và chẩn đoán là đã bị nhiễm COVID-19.

Khối bảo thủ của Anh cho rằng Tàu cộng là kẻ tội phạm trong việc reo rắc dịch coronavirus trên khắp thế giới, đồng thời lên tiếng nghi ngờ về con số lây nhiễm và chết của dân Tàu do nhà cầm quyền Tàu cộng công bố. Ông Boris Johnson ngỏ ý sẽ xem xét lại dự án 5G với công ty Huawei của Tàu.

Cho dù thế giới gọi tên đại dịch coronavirus là COVID-19, Wuhanvirus, Chinavirus hay Tàu cộng có đưa ra bao nhiêu giả thuyết hoặc tung tiền cứu trợ để mua chuộc Âu châu thì chắc cũng khó có thể thay đổi được cái nhìn đầy ác cảm của Hoa Kỳ và một số cường quốc của Âu châu như Anh, Pháp và Đức. Có lẽ như thế cũng đủ để có một liên minh chống lại sự bành trướng của Tàu cộng, nhất là tìm ra thủ phạm đã phát tán coronavirus, gây hoảng loạn và xụp đổ kinh tế trên toàn thế giới. “Trong cái rủi có cái may” chắc là như thế.

Bùi Phạm Thành
(Đặc San Lâm Viên)

Hạt lúa và khẩu trang

Tony Ton
Hạt lúa và khẩu trang

Tú Kép
– Sách Đông Châu liệt quốc là một bộ tiểu thuyết lịch sử Tàu viết về chuyện hoàng đế nhà Châu và nhiều nhứt là chuyện vua các nước nhỏ (tiểu quốc) là chư hầu của hoàng đế nhà Châu, trong thời kỳ phong kiến Đông Châu, từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, gồm có 108 hồi (ngày nay gọi là chương). Phong kiến là phong hầu kiến địa. Hoàng đế nhà Châu ở trung ương, dưới hoàng đế là vua các nước nhỏ, trên danh nghĩa thần thuộc hoàng đế nhà Châu.

Các hồi từ 80 đến 82 viết về việc vua nước Việt là Câu Tiễn trả thù vua nước Ngô là Phù Sai. Xin chú ý là nước Việt nầy không phải là Việt Nam chúng ta ngày nay. Nước Việt của Câu Tiễn nằm ở vùng Triết Giang bên Trung Hoa.

Câu chuyện như sau: Việt vương Câu Tiễn bị Ngô vương Phù Sai bắt cầm tù và hành hạ khổ sở. Khi được thả về nước, Câu Tiễn nuôi chí phục thù, âm thần rèn luyện binh mã. Nhân một năm mất mùa, đại phu nước Việt là Văn Chủng đề nghị vua Việt Câu Tiễn cử người qua xin Ngô Phù Sai giúp lúa cho dân Việt ăn. Chính Văn Chủng cầm đầu đoàn sứ giả đi mượn lúa.

Triều đình nước Ngô không đồng ý, nhưng Ngô Phù Sai nghĩ rằng Câu Tiễn trung thành với mình, nên vẫn quyết định cho nước Việt mượn lúa. Nhờ thế dân nước Việt vượt qua được nạn đói năm đó. Năm sau, nước Ngô bị mất mùa, dân tình đói kém. Trong khi nước Việt của Câu Tiễn lại được mùa và bội thu. Việt vương Câu Tiễn dự tính đem trả lại số lúa vay mượn để đền ơn đáp nghĩa.

Đại phu nước Việt là Văn Chủng lúc đó mới bày mưu, đề nghị mượn bao nhiêu thì trả bấy nhiêu, lựa lúa hạt tốt và to mà trả, nhưng trước khi trả, thì đem luộc hết số lúa đó, để dân nước Ngô không trồng lại lúa được. Thấy lúa hạt to, giống tốt, vua Ngô Phù Sai phát cho dân nước Ngô dùng làm giống gieo trồng.

Những hạt lúa do Câu Tiễn trả lại đã bị luộc chín, nên không mọc được. Năm đó nước Ngô mất mùa, mà không biết lý do vì sao lúa không mọc được. Dân Ngô lại thêm đói kém. Về sau, nước Ngô bị Câu Tiễn thôn tính để trả thù. Ngô Phù Sai tự tử.

Trên đây là sơ lược câu chuyện theo Đông Châu liệt quốc của Phùng Mộng Long, do Nguyễn Đỗ Mục dịch, các hồi 80 đến 82. Chắc chắn tóm lược nầy còn thiếu sót nhiều chi tiết. Khi đọc chuyện nầy, ai cũng nghĩ rằng đây chỉ là chuyện tiểu thuyết bên Tàu cổ xưa về âm mưu trả lúa đã luộc chín, nhằm hại người của Câu Tiễn để trả thù.

Ngày nay, từ cuối năm ngoái, đầu năm nầy, xuất hiện đại dịch tại Vũ Hán, thủ phủ tỉnh Hồ Bắc (Trung Cộng). Đại dịch Vũ Hán nhanh chóng lan truyền khắp thế giới. Vị bác sĩ phát hiện ra dịch nầy tại Vũ Hán lên tiếng báo động, liền bị nhà cầm quyền Trung cộng bịt miệng ngay.

Thiên hạ đồn rằng đây chính là chiến tranh tranh sinh học do Trung Cộng phát động, nhưng vì nhân viên nghiên cứu của Trung Cộng bất cẩn, làm sẩy ra con virus nầy ngay tại Vũ Hán, khiến cho người Tàu bị nạn trước, rồi mới truyền ra khắp thế giới và làm cho thế giới hỗn loạn.

Trên tạp chí National Review số ngày 3-4-2020, có bài của tác giả Bruno Macaes nhan đề “China Wants to Use the Coronavirus to Take Over the World” (Tạm dịch: “Trung Quốc muốn sử dụng siêu vi khuẩn Corona để nắm quyền kiểm soát thế giới”), đã tố cáo rằng “the medical equipment provided by Chinese companies and even the Chinese state turned out to be faulty”. [tạm dịch: “những dụng cụ trang bị y khoa do các công ty Trung Quốc và ngay cả của nhà cầm quyền Trung Quốc sản xuất đều hư hỏng.”] (Vào Google, chữ khóa: “China Wants to Use the Coronavirus to Take Over the World”.)

Sự tố cáo nầy hữu lý ở chỗ chẳng những Trung Cộng bịt ngay tiếng nói trung thực của vị lương y trên đây, mà Trung Cộng còn tính trước rằng các nước trên thế giới sẽ rất cần các thiết bị y tế chống virus corona, như khẩu trang, bộ thử vi khuẩn cho kết quả nhanh để chống dịch, nên Trung Cộng tích trữ sẵn khẩu trang, sản xuất sẫn thiết bị y tế để thử nhanh virus Vũ Hán, hoặc thuốc trị virus Vũ Hán là chloroquine, vốn được dùng để trị bệnh sốt rét.

Khi dịch virus Vũ Hán lan tràn khắp thế giới, thiên hạ chạy đôn chạy đáo tìm kiếm khẩu trang ngừa bệnh. Thế là Trung Cộng tung khẩu trang do Trung Cộng sản xuất ra bán với giá rẻ. Ai lại không ham rẻ, liền đặt mua hàng. Tuy nhiên, sau đó tin tức các hãng thông tấn quốc tế nhanh chóng loan tin rằng Hòa Lan thu hồi 600,000 khẩu trang do Trung Cộng bán, vì hoạt động không đúng cách, mặc dầu có ghi nhãn hiệu đúng tiêu chuẩn chất lượng. Còn các nước Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Tiệp Khắc thì phàn nàn rằng 80% các dụng cụ xét nghiệm virus Vũ Hán của Trung Cộng cho kết quả nhanh sai.

Thế là thế nào? Trong vụ nầy, có người nghĩ rằng thông thường hàng rẻ là hàng dỏm, hay Trung Cộng thường sản xuất hàng nhại nên rẻ tiền và xấu? Tuy nhiên cũng có người cho rằng chính Trung Cộng chủ ý cung cấp hàng không đúng chất lượng để làm cho bệnh dịch càng dễ lây lan nhanh chóng, vì đây là chủ ý của ông chủ của con virus khó trị nầy? Để tăng cường phát tán virus Corona nhanh hơn, nhiều hơn, Trung Cộng bán hàng dỏm cho thiên hạ dùng để bệnh càng tăng, như chuyện Câu Tiễn trả lúa đã luộc rồi cho Phù Sai để dân Ngô càng đói?

Trong bài viết kể trên, tác giả Bruno Macaes nhắc lại câu nói của Mao Trạch Đông “[When] everything under heaven is in utter chaos, the situation is excellent.” (Tạm dịch: “Khi mọi thứ dưới bầu trời nầy hoàn toàn hỗn loạn, hoàn cảnh thật tuyệt vời.”] Đó là cơ hội tuyệt vời bằng vàng để cho Trung Cộng lợi dụng nước đục thả câu, khuynh đảo thiên hạ. Phải chăng Trung Cộng muốn phát tán con Virus Corona để làm thế giới xáo trộn, theo lý thuyết của Mao Trạch Đông, tạo cơ hội cho Trung Công thoát khỏi thế bí hiện nay do chiến tranh thương mại với Hoa Kỳ đưa đến?

Nếu như vậy thì độc quá, quá độc, quá ác. “Sông sâu còn có kẻ dò, / Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng.” (Ca dao Việt) Đúng là theo thuyết âm mưu bí hiểm không phải chỉ chuyện Câu Tiễn, mà nhan nhãn trong truyện Đông Châu liệt quốc, hay trong truyện Tam quốc. Không biết thiên hạ sáng mắt chưa? Từ nay phải canh chừng hàng hóa Trung Cộng, sụp bẫy khi nào không hay. Thật khó biết được! Hãy coi chừng!!!

NGÀY THỨ SÁU TUẦN THÁNH CỦA RIÊNG CHÚNG TA

NGÀY THỨ SÁU TUẦN THÁNH CỦA RIÊNG CHÚNG TA

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Khi người Rôma thiết lập đóng đinh thập giá là phương thức tử hình, họ không chỉ nghĩ đến việc giết một ai đó.  Họ muốn đạt được một điều khác nữa, cụ thể là khiến cái chết này thật ghê gớm để làm nhụt chí người ta, khiến bất kỳ ai chứng kiến nó sẽ phải nghĩ lại về chuyện phạm cùng tội như tội của người đang bị đóng đinh đó.

Thế nên, đóng đinh thập giá được thiết kế để làm vài điều khác nữa, chứ không chỉ giết ai đó.  Nó được thiết kế để gây ra đau đớn ghê gớm nhất mà thân thể con người có thể chịu nổi.  Do đó, đôi khi họ cho người bị hành hình thuốc an thần, không phải để đỡ đau, mà để người đó tỉnh táo nhằm phải chịu nhiều đau đớn hơn nữa.  Có lẽ điều tàn ác nhất, là đóng đinh thập giá được thiết kế để sỉ nhục tận cùng thân thể của người bị đóng đinh.  Người đó bị lột trần, những phần phải giấu kín giờ phơi ra hết, và khi cơ thể co thắt chắc chắn bộ ruột của người đó sẽ phơi rõ toàn bộ.  Còn sự sỉ nhục nào tệ hơn thế?

Tôi tin là có những đau khổ của con người gần hoặc tương đương như thế, và đáng buồn là những thứ này ngày càng phổ biến.  Những trường hợp bạo lực xảy ra hằng ngày trong thế giới chúng ta (bạo hành gia đình, bạo lực tình dục, tra tấn, bắt nạt nhẫn tâm, và tương tự thế) đang bắt chước sự sỉ nhục của thập giá.  Và đôi khi, chúng ta thấy dạng sỉ nhục thân thể này nơi những người chết vì ung thư, và những chứng bệnh gây suy kiệt khác.  Người đó không chỉ chết, mà còn chết trong đau đớn, thân thể bị sỉ nhục, phẩm giá bị xói mòn, những gì phải giấu kín giờ bị phơi bày, hệt như Chúa Giêsu khi chết trên thập giá.

Tôi ngờ rằng đây là lý do Thiên Chúa để cho (dù không dự tính) Chúa Giêsu chịu đựng đau khổ và sỉ nhục như thế trong giờ chết.  Nhìn cách Chúa Giêsu chết, thật khó để ai đó nói: “Quá dễ cho Ngài, Ngài đâu có chịu đau khổ như tôi!”  Sự sỉ nhục của thập giá khiến Chúa Giêsu đồng cảnh ngộ với tất cả những ai từng biết đến đau khổ và nỗi hổ thẹn khi bị sỉ nhục.

Nhưng hoa trái của việc Chúa Giêsu đồng cảnh ngộ với chúng ta không chỉ là sự an ủi khi biết rằng chính Chúa Giêsu đã chịu đau khổ trước, nhưng nó còn cho chúng ta chia sẻ những gì diễn ra sau khi đóng đinh thập giá, cụ thể là theo lời Thánh kinh, chia sẻ sự an ủi với Ngài.  Những lời thật không dễ nghe.  Có sự an ủi khi bị sỉ nhục chứ?  Được gì khi phải chịu đau đớn tủi hổ như thế?  Nói đơn giản, điều ta đạt được là sự sâu sắc của linh hồn.

Không gì, tuyệt đối không điều gì, thúc đẩy chúng ta đi vào chiều sâu của tâm hồn và linh hồn cho bằng sự sỉ nhục.  Cứ hỏi mình câu này đi: Điều gì cho tôi chiều sâu cá tính?  Điều gì cho tôi chiều sâu tâm hồn con người?  Điều gì cho tôi nhận thức sâu sắc hơn?  Tôi ngờ rằng, câu trả lời trong mọi trường hợp là một điều gì đó mà bạn hổ thẹn không dám nhắc đến, một sự sỉ nhục nhức nhối với nỗi đau và nỗi xấu hổ của nó đẩy bạn vào chốn thâm sâu hơn trong lòng.

Tôi tin rằng, các Tin mừng dạy chúng ta điều đó.  Ví dụ như, khi hai tông đồ Giacôbê và Gioan đến với Chúa Giêsu và hỏi xem liệu khi đến ngày vinh quang họ có thể được ngồi bên tả và bên hữu Ngài hay không, Chúa Giêsu đã không nhân cơ hội đó mà dạy họ về sự khiêm nhượng.  Thay vào đó, Ngài dạy họ rằng họ thiếu hiểu biết về ý nghĩa của vinh quang và con đường dẫn đến vinh quang.  Dĩ nhiên, họ đã nhầm lẫn khái niệm về vinh quang là mọi thứ đối ngược với sự sỉ nhục, yếu đuối và đồng cảnh ngộ.  Với họ, và tôi cho rằng với tất cả chúng ta nữa, vinh quang được xem là tách biệt với quần chúng, vượt trên quần chúng, được là cầu thủ xuất sắc nhất, là giành giải Nobel, là ngôi sao điện ảnh mà ai cũng ghen tị, là người hấp dẫn không dễ gì bị sỉ nhục, là người vượt trên muôn người.  Và Chúa Giêsu hỏi Giacôbê và Gioan xem họ có thể “uống chén đắng”, và chén đó như chúng ta đã thấy nơi cuộc đấu tranh của Chúa Giêsu trong Vườn Giếtsêmani, chính là chén sỉ nhục.

Theo Chúa Giêsu và theo những gì chân thật nhất trong cảm nghiệm của chính chúng ta, uống chén sỉ nhục, chấp nhận thập giá, chính là những gì cho chúng ta vinh quang, cụ thể là, chiều sâu tâm hồn, chiều sâu linh hồn và chiều sâu nhận thức và cảm thông.  Tuy nhiên, như Chúa Giêsu đã cảnh báo, uống chén sỉ nhục này, dù nó tự động cho chúng ta chiều sâu, nhưng không tự động bảo đảm cho chúng ta vinh quang (như Chúa Giêsu đã nói, “vinh quang đó ta không ban cho được”).  Sự sỉ nhục cho chúng ta chiều sâu, nhưng nó không cho chúng ta chiều sâu theo cách đúng đắn.  Nó cũng có thể cho chúng ta tác động ngược lại.

Đây chính là phép tính cho chúng ta: Như Chúa Giêsu, chúng ta đều sẽ chịu sỉ nhục trong đời, chúng ta đều sẽ uống chén đắng, và nó sẽ cho chúng ta chiều sâu, nhưng rồi chúng ta phải có một lựa chọn: Sự sỉ nhục này sẽ cho chúng ta sâu sắc trong sự cảm thương và thông hiểu, hay nó sẽ khiến chúng ta sâu sắc trong giận dữ và cay đắng.  Đây quả thật là lựa chọn luân lý cao nhất mà ta đối diện trong đời, không phải chỉ là trong giờ chết mà là vô số lần trong đời.  Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, và những gì nó đòi buộc nơi chúng ta, là điều mà chúng ta phải đương đầu hằng ngày.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim