Kế hoạch hiện đại hoá quân đội của Việt Nam đang “dậm chân tại chỗ”

Kế hoạch hiện đại hoá quân đội của Việt Nam đang “dậm chân tại chỗ”Ảnh minh họa: Thủ tướng Phạm Minh Chính và các quan chức tham dự triển lãm quốc phòng Vietnam 2022 International Defense Expo ở Hà Nội hôm 8/12/2022.

ảnh của AFP

 

Chi tiêu quốc phòng của Việt Nam được dự kiến là đạt mức hơn 10 tỷ USD vào năm 2029, theo tính toán của Global Data, một công ty chuyên về thống kê và phân tích dữ liệu.

Thông tin trên đã thu hút giới quan sát quân sự ở khu vực, đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng trên khu vực Biển Đông, điển hình là việc Trung Quốc quân sự hoá hàng loạt các thực thể mà họ chiếm đóng. Hành động của Trung Quốc gây nên lo ngại về một cuộc chạy đua vũ trang cấp khu vực.

Tuy nhiên, không phải đến bây giờ Việt Nam mới đẩy mạnh chi tiêu cho quân đội, trên thực tế quá trình hiện đại quá đã được bắt đầu ít nhất trong hai thập kỉ gần đây.

Dậm chân tại chỗ

Mở đầu bằng bản hợp đồng mua hai chiến hạm lớp Gepard của Nga hồi năm 2006, và theo sau là bản hợp đồng bom tấn mua 6 tàu ngầm lớp kilo của Nga hồi năm 2009, Việt Nam sau đó thực hiện thêm các thương vụ mua máy bay chiến đấu, tàu chiến, tên lửa phòng không, và xe tăng.

Với mục tiêu đưa hai quân chủng Hải quân và Phòng không- Không quân “tiến thẳng lên hiện đại”, có thời điểm, quốc gia Đông Nam Á này trở thành tâm điểm của thị trường buôn bán vũ khí thế giới, khi liên tiếp thực hiện các thương vụ lớn.

Những tưởng chương trình hiện đại hoá quân đội của Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì  đà tiến, tuy nhiên, kể từ năm 2016, thời điểm Việt Nam ký mua 64 xe tăng T-90 từ Nga, tình hình trở nên im ắng một cách đột ngột.

Ở chiều ngược lại, Trung Quốc – nước được cho là mối đe doạ số một đối với an ninh của Việt Nam, vẫn không ngừng xuất xưởng các thế hệ vũ khí mới trên quy mô lớn. Chỉ riêng trong năm 2021, Hải quân Trung Quốc đã bổ sung vào biên chế thêm 28 tàu chiến.

Điều này dấy lên lo ngại Trung Quốc sẽ ngày càng bỏ xa Việt Nam về sức mạnh quốc phòng, khiến cho mọi nỗ lực gây dựng năng lực răn đe của Việt Nam trở nên vô nghĩa.

Câu hỏi đặt ra là điều gì đã xảy ra đối với tham vọng hiện đại hoá lực lượng vũ trang của Việt Nam?

Trao đổi với Đài Á châu Tự do, giáo sư Carlyle Thayer, chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh vực quân sự, cho biết nhận định của ông:

“Ngay sau kỳ Đại hội Đảng gần nhất thì Việt Nam đã công bố một chương trình hiện đại hoá quân sự tầm cỡ, với tham vọng hiện đại hoá từ gốc tới ngọn lực lượng quân đội, và thứ tự ưu tiên rõ ràng. Nhưng kế hoạch này hiện giờ đang bị khựng lại. Thay vì tiến lên phía trước thì hiện đang dậm chân tại chỗ.”

Chính trị nội bộ

Trong bài viết được đăng trang web của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, ông Nguyễn Thế Phương, nghiên cứu sinh tiến sĩ chuyên ngành an ninh hàng hải tại trường đại học New South Wales, lý giải rằng sự ra đi của nguyên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là yếu tố chính trị nội bộ ảnh hưởng tới kế hoạch mua sắm quốc phòng của Việt Nam.

Hầu hết các hợp đồng mua vũ khí đáng chú ý nhất của Việt Nam trong hai thập niên vừa qua đều được xúc tiến khi ông Nguyễn Tấn Dũng còn đương chức. Và kể từ khi ông này về hưu vào năm 2016, mà theo đồn đoán là bị hạ bệ bởi đương kim Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, thì hoạt động mua sắm khí tài cũng chùng xuống.

Hàng loạt cuộc điều tra tham nhũng nhắm vào Bộ Quốc phòng cũng xảy ra sau đó, dẫn đến việc hàng chục sĩ quan cấp tướng bị kỷ luật hoặc truy tố.

Một sự thay đổi đáng kể nữa theo ông Nguyễn Thế Phương, đó là nhận thức của giới lãnh đạo Việt Nam về tình hình an ninh khu vực. Trao đổi với phỏng viên đài RFA, ông nói thêm:

“Việt Nam có vẻ như khá tự tin về việc có thể quản lý tranh chấp với Trung Quốc, bởi vì kịch bản xấu nhất mà lãnh đạo quân sự sợ nhất là một cuộc xung đột hạn chế ở Biển Đông, chứ không phải một cuộc xung đột lớn. Và bản thân Việt Nam cũng nghĩ rằng khả năng (xảy ra xung đột) là không cao.”

Sở dĩ giới lãnh đạo Việt Nam đánh cược rằng xung đột với Trung Quốc sẽ không xảy ra, theo ông Phương còn cho biết, là vì đảng Cộng sản Việt Nam tự tin có thể dùng kênh chính trị và ngoại giao để giải quyết tranh chấp với nước đồng chí phía bắc, chứ không cần dùng đến giải pháp quân sự.

Do vậy việc đầu tư quá nhiều vào quân đội là không cấp thiết.

“Với một cái cách đối xử với Trung Quốc và với vấn đề tranh chấp, thông qua việc sử dụng ngoại giao và kênh Đảng, với một sự tự tin như vậy, thì rõ ràng việc hiện đại hoá có gặp một số vấn đề thì vẫn chấp nhận được với Việt Nam ở thời điểm hiện tại.”

Khi đương chức, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là người đã có những phát ngôn cương quyết về vấn đề Biển Đông, điển hình với câu nói “không đánh đổi chủ quyền lấy tình hữu nghị viển vông”. Nhưng kể từ khi ông Dũng xuống, thì những lãnh đạo kế nhiệm ông đã tỏ ra thận trọng hơn.

vu khi b.jpeg
Gian hàng của Công ty vũ khí Nga Rosoboronexport tại Triển lãm Quốc phòng Quốc tế Việt Nam 2022, tại Hà Nội,, ngày 8/12/2023 (ảnh minh họa). Reuters

Tình hình thế giới thay đổi

Do phụ thuộc hoàn toàn vào vũ khí và học thuyết quân sự của Liên Xô trong thời kỳ chiến tranh, quân đội Việt Nam sau này dựa chủ yếu vào Nga, nước thừa hưởng nền công nghiệp quốc phòng của Liên Xô, để tiến hành hiện đại hoá.

Theo thống kê của Viện Nghiên cứu Hoà bình Stockholm thì hơn 80% số vũ khí mà Việt Nam mua trong khoảng từ năm 1995 đến 2021 là từ Nga.

Nguồn cung vũ khí từ Nga bị gián đoạn kể từ khi nước này tiến hành chiếm và sáp nhập bán đảo Crimea của Ukraine vào năm 2014, dẫn đến bị các nước Phương Tây áp đặt hàng loạt lệnh trừng phạt.

Mọi chuyện trở nên trầm trọng hơn khi Nga tiến hành cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine ngày 24 tháng 2 năm 2022. Khiến phương tây triển khai các đòn cấm vận một cách khắc nghiệt hơn.

Không chỉ cấm cửa các công ty Nga khỏi hệ thống thanh toán và các định chế tài chính toàn cầu, phương tây còn đe doạ trừng phạt bất cứ công ty nước ngoài nào làm ăn với Nga. Việc này, theo giới quan sát là đã khiến Việt Nam e ngại.

Cuộc chiến mà Nga gây ra ở Ukraine còn tạo ảnh hưởng sâu rộng hơn đến giới lãnh đạo quân sự Việt Nam, thông qua sự thể hiện của vũ khí Nga trên chiến trường, theo giáo sư Carlyle Thayer:

Trước khi chiến tranh nổ ra thì Việt Nam đã ký hợp đồng mua xe tăng chiến đấu chủ lực T-90 từ Nga. Sau đó, chúng ta chứng kiến cảnh những cỗ xe tăng này bị bắn nổ tung bởi vũ khí chống tăng của Mỹ và đồng minh, ở thời điểm đầu cuộc chiến.

Tiếp theo chúng ta được chứng kiến việc sử dụng drone (phương tiện bay điều khiển từ xa). Rồi tự dưng chúng ta thấy ở ngoài biển thì Ukraine sử dụng xuống cảm tử không người lái đánh chìm tàu chiến Nga.

Quay trở lại với Việt Nam, tôi nghĩ lúc này họ đã nhận ra vấn đề của vũ khí Nga, và hiện đang phải tiến hành xem xét lại nhu cầu.”

vu khi a.jpegLính Việt Nam đứng cạnh các tên lửa được trưng bày tại Triển lãm Quốc phòng Quốc tế 2022 ở Hà Nội hôm 8/12/2022. AFP

Nguy cơ từ việc chậm trễ hiện đại hoá 

Với những tác động từ tình hình thế giới, Việt Nam đang đối diện với việc phải thay đổi chiến lược hiện đại hoá để phù hợp hơn với hoàn cảnh và thực tế mới.

Thế nhưng, theo giáo sư Carlyle Thayer thì vẫn chưa có dấu hiệu gì cho thấy Việt Nam đã tìm ra lời giải:

“Ở thời điểm hiện tại chúng ta không biết là chiến lược mới sẽ trông thế nào và khi nào các quyết định sẽ được đưa ra.”

Và sự dậm chân tại chỗ như hiện nay, theo ông Nguyễn Thế Phương, sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng bảo vệ lợi ích của Việt Nam nếu tình huống xấu

Theo Hãng Thông Tấn Reuters

Việt Nam đang chú ý đến một sự thay đổi lớn về quốc phòng khi nước này tìm cách giảm sự phụ thuộc vào vũ khí của Nga và thúc đẩy xuất khẩu vũ khí sản xuất trong nước, họ muốn bán vũ khí cho những người mua tiềm năng ở Châu Phi, Châu Á – và có khả năng thậm chí cả Matxcơva nữa.

 Việt Nam đang chuyển sang mua vũ khí từ các nhà cung cấp từ châu Âu, Đông Á, Ấn Độ, Israel và Mỹ, các nhà ngoại giao, quan chức và nhà phân tích cho biết. Các nhà phân tích và quan chức cho biết nước này cũng đã thúc đẩy ngành công nghiệp quân sự trong nước với sự hỗ trợ từ Israel và các đối tác khác, đồng thời hy vọng xuất khẩu vũ khí.

Xu hướng giảm nhập khẩu vũ khí của Nga, vốn có giá trị lớn, đã bị giảm xuống chỉ còn 72 triệu USD vào năm ngoái (30% tổng lượng nhập khẩu) từ mức cao nhất năm 2014 là 1 tỷ USD, mà năm đó chiếm gần 90% tổng giá trị, theo SIPRI.

Theo Tạp Chí Quốc Phòng

Hội chợ Triển lãm Quốc phòng Quốc tế Việt Nam, hay VIDEX, diễn ra từ ngày 8 đến ngày 10 tháng 12, 2022 tại Sân bay Gia Lâm ở thủ đô Hà Nội của Việt Nam. Khoảng 170 tổ chức đã tham gia sự kiện này, bao gồm nhà cung cấp dịch vụ viễn thông nhà nước Viettel và chuyên gia công nghệ không người lái RT Robotics có trụ sở tại Hoa Kỳ.

Viettel, do Bộ Quốc phòng Việt Nam điều hành, đã trưng bày nhiều loại vũ khí hạng nhẹ tại gian hàng trong nhà; Màn trình diễn ngoài trời của nó bao gồm một số radar phòng không gắn trên xe cũng như các hệ thống liên lạc và tác chiến điện tử. Chúng bao gồm các radar phòng không băng tần 3D S tầm ngắn và tầm trung và dòng hệ thống tác chiến điện tử AJAS-1000.

Mong muốn của Việt Nam thay thế các thiết bị cũ do Nga chế tạo cũng được thể hiện rõ, với các hệ thống thời Chiến tranh Lạnh – như xe trinh sát BRDM-2 và tên lửa phòng thủ bờ biển 4K44 Redut-M – hiện diện tại các cuộc triển lãm ngoài trời.

Cùng tham gia với các hệ thống vũ khí hiện đại, không phải của Nga được Việt Nam mua trong những năm gần đây, bao gồm máy bay vận tải chiến thuật Airbus C295 của châu Âu cũng như các phiên bản tầm ngắn và tầm trung của hệ thống phòng không Spyder do công ty Rafael Advanced Defense Systems của Israel sản xuất.

Rafael : SPYDER™ FAMILY


 

Được xem 1 lần, bởi 1 Bạn Đọc trong ngày hôm nay