Trời là gì? – Cha Vương

Một ngày an lành trong niềm hy vọng vào Chúa Cứu Thế nhân hậu nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 13/10/2025.  t5-22

GIÁO LÝ: Trời là gì? Trời là thời gian vô tận của tình yêu không bao giờ còn xa cách nữa giữa Thiên Chúa và lình hồn đã yêu mến và tìm kiếm Người suốt đời. Được hiệp nhất với tất cả các thiên thần và tất cả các thánh, linh hồn được vui hưởng hạnh phúc luôn luôn ở gần Chúa và với Chúa. Trời là Thiên đường. (YouCat, số 158)

SUY NIỆM: Đôi bạn trẻ nhìn nhau với đôi mắt tình tứ, một em bé đang bú mẹ tìm đến cái nhìn của mẹ nó, như muốn giữ gìn mỗi nụ cười đó mãi mãi…. đó là những thí dụ có thể cho ta một ý niệm nhỏ về trời hay thiên đường. Được nhìn thấy Thiên Chúa mặt đối mặt là như thời gian độc nhất của tình yêu kéo dài đến vô tận. (YouCat, số 158 t.t.)

❦ Một người có thể mất hết của cải đời này trái với ý muốn của mình, nhưng không bao giờ họ mất của cải đời đời nếu không hoàn toàn do ý muốn của mình. (Thánh Augustinô)

LẮNG NGHE: Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi. (1 Cr 13:12)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, là con người thì có lẽ ai cũng có những lần lo âu xao xuyến, nhất là khi con đang sống trong một thế giới bất ổn, xin Chúa củng cố niềm tin cho con để con luôn xác tín vào lời Chúa dạy: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14:1-3)

THỰC HÀNH: Để hưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa, bạn cần phải sạch tội. Tội nào đang làm bạn xa lìa Chúa? Hãy cố gắng tránh xa dịp tội hôm nay nhé.

From Do Dzung

*********************

Xin Đưa Về Quê Trời – Paul Nguyen, Vincent Cao, R. Zaragoza

Mặt Trời Quay, Một Phép Lạ Vĩ Đại Chưa Từng Xảy Ra Và Không Ai Có Thể Chối Cãi Được!

FATIMA NĂM 1917

Mặt Trời Quay, Một Phép Lạ Vĩ Đại Chưa Từng Xảy Ra Và Không Ai Có Thể Chối Cãi Được!

LM Nguyễn Hữu Thy

Chắc hẳn khi nhắc đến tên Fatima, các bạn đã nghe nói đến phép lạ mặt trời quay?

Nhưng các bạn có biết rằng qua cách thức phép lạ xảy ra, thì đây hẳn là một phép lạ vĩ đại nhất chưa từng xảy ra trong lịch sử Giáo Hội?  Hay: Phải chăng đây là một chuyện thêm thắt và bịa đặt thái quá?

Hy vọng qua những dòng sau đây, các bạn sẽ có được sự nhận định chính xác hơn.

Để mọi người tin

Vào ngày 13.10.1917, tại ngọn đồi Cova da Iria ở Fatima, Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã hiện ra lần thứ sáu với ba trẻ chăn chiên: Lucia (10 tuổi), Francisco (7 tuổi) và Jacinta (6 tuổi).

Nhưng nhiều người cho rằng việc Đức Mẹ hiện ra chỉ là trò hề, do ba đứa trẻ nhà quê bịa đặt ra để gạt gẫm người khác, hay do thủ đoạn của những người lớn đứng phía sau giật dây để nhắm tới một mục đích chính trị hay kinh tế nào đó.

Chính bà mẹ Lucia cũng hoàn toàn nghi ngờ, đến nỗi bà còn đánh đập con gái mình vì cho rằng Lucia nói dối.

Để đánh tan sự nghi ngờ và bất tín của thiên hạ, nhất là để mọi người tin nhận biến cố Fatima là sự thật, trong lần hiện ra vào ngày 13.07.1917, Vị Thiên Nữ đã hứa là vào ngày 13.10.1917, sẽ có một phép lạ vĩ đại xảy ra trước sự chứng kiến của mọi người.

Lời hứa này còn được Vị Thiên Nữ nhắc lại vào ngày 19.08.1917 và vào ngày 13.09.1917.

Vâng, trong lần hiện ra vào ngày 13.09.1917, sự thông báo của Vị Thiên Nữ về một phép lạ vĩ đại sẽ xảy ra vào ngày 13 tháng 10 tới, cũng được ba trẻ nói cho mọi người hay.  Vì thế, đúng vào ngày đó, đã có khoảng từ 50 đến 70.000 người đã tấp nập đổ xô về Fatima, trong số họ, gồm có đủ mọi hạng người, từ các tín hữu, những người tò mò cho đến cả những người nghi ngờ chống đối.

Nhiều phóng viên của những tờ báo lớn ở Bồ Đào Nha cũng đều có mặt trong lần hiện ra hôm đó.  Nhưng có lẽ những phóng viên này chỉ muốn đến để soạn sửa cho bản tin ăn khách sẽ được đăng ở trang nhất trên các tờ báo của họ trong số ra ngày mai với tít lớn: “Sự thất bại ê chề của hiện tượng Fatima,” hay: “Nhân loại văn minh của thế kỷ XX vẫn còn bị những chuyện hoang đường lừa đảo” kèm theo những bài bình luận đầy giọng mỉa mai châm biếm tôn giáo, nếu như phép lạ đã được loan báo trước, không xảy ra.  Nhưng vào ngày 13.10.1917, mọi sự đã xảy ra hoàn toàn khác với ý nghĩ của những nhà báo này: Phép lạ cả thể đã thực sự xảy ra; mặt trời đã quay cuồng trước sự chứng kiến của tất cả mọi người có mặt hôm đó.

Một vị giáo sư là chứng nhân hiện tượng lạ lùng hôm đó 

Ở đây, chúng ta hãy nghe tiến sĩ José Maria Proença de Almeida Garrett, giáo sư môn khoa học tự nhiên đại học Coimbra, kể lại những gì ông đã quan sát thấy ở Fatima hôm đó.  Vì ông là một giáo sư, nên lời tường trình của ông rất khả tín và gây được sự chú ý của mọi người:

“Hôm đó, tôi đến nơi vào giữa trưa.  Cơn mưa tầm tã từ buổi sáng sớm chẳng những không ngớt, mà bây giờ còn bị những trận gió dữ dội thổi ào tới tấp như muốn làm tràn ngập cả cảnh vật.  (…) Lúc đó vào khoảng 2 giờ chiều.  Trong vài giây lát trước đó, mặt trời còn bị che khuất sau đám mây dày đặc, bỗng chốc nó chiếu sáng qua đám mây.  Mọi cặp mắt đều hướng nhìn về phía mặt trời như bị một sức mạnh nam châm vô hình nào đó cuốn hút vậy.  Chính tôi cũng nhìn thẳng vào mặt trời.  Nó trông giống như một cái đĩa sáng rực rỡ, chói lọi, nhưng không làm lóa mắt.  (…) Nhưng mặt trời vào lúc bấy giờ không làm lóa mặt, không giống như khi chúng ta nhìn nó bị che khuất sau một đám mây.  Không, bầu trời lúc bấy giờ hoàn toàn trong sáng, chứ không hề có một vẩn mây nào che khuất mặt trời cả; nó xuất hiện rõ ràng giữa bầu trời.  Cái đĩa sáng chói đầy mầu sắc rực rỡ đó không đứng yên, nhưng chuyển động rất nhanh.  Và đó không phải là những tia sáng lung linh phát ra từ các ngôi sao.  Cái đĩa lửa quay tròn với một tốc độ nhanh khủng khiếp, khiến từ đám đông những người có mặt hôm đó, bỗng chốc vang lên những tiếng kêu la sợ hãi thất thanh.  Mặt trời cứ tiếp tục quay tròn như thế cùng với tốc độ nhanh khủng khiếp tương tự, đồng thời nó tách ra khỏi không trung và tiến đến gần mặt đất với mầu đỏ máu, mọi cảnh vật như đang sắp sửa bị nghiền nát dưới độ quay nhanh khủng khiếp của vòng lửa không lồ.  (…) Tất cả những hiện tượng này, tôi đã bình tĩnh quan sát và trình bày ra đây sự nhận xét khách quan của mình, chứ không do bất cứ sự xúc động nào chi phối cả.  Tôi cũng hoàn toàn chờ đợi sự nhận xét và quan điểm của kẻ khác.”[1]

Phải chăng đám đông bị thôi miên?

Hàng chục ngàn người đều đổ nhìn về phía mặt trời đang quay lộn kỳ lạ.  Về phép lạ mặt trời quay, có lẽ sẽ có người cắt nghĩa ngay rằng vì đã được báo từ trước, và đám đông đã đến Fatima với một tâm trạng quá nóng lòng hồi hộp chờ đợi.  Vì thế, khi có một hiện tượng bất bình thường nào đó nơi mặt trời xảy ra, họ đã vội cho là phép lạ, và rồi sự công nhận đó cứ lan tỏa ra nhanh trong đám đông một cách vô ý thức như một dòng điện vậy, tương tự như phản ứng của các khán giả ngồi xem đá banh trong một sân vận động khi có cầu thủ đá thủng lưới đối phương.

Nhưng sự cắt nghĩa đó sẽ hoàn toàn trở nên buồn cười và không thể đứng vững được khi sự kiện cụ thể xảy ra trong thực tế, đó là người ta có thể quan sát và nhìn thấy được phép lạ mặt trời quay trong chu vi rộng 1550 cây số vuông.

Rất nhiều nhân chứng đã từ xa chứng kiến được phép lạ mặt trời, lại là những người vô tín ngưỡng, những người đã từng phê bình và cười chê những khách đến Fatima hôm đó như những kẻ “nhẹ dạ cả tin.”  Trong số những người quan sát được phép lạ mặt trời từ xa, chứ không có mặt tại Fatima, đã cho ý kiến như sau:

Linh mục Joaquim Lourenco, hiện là nhà giáo luật học của giáo phận Leiria, nhưng vào lúc xảy ra phép lạ, hãy còn là một học trò và cùng người anh và các bạn bè của ngài đang có mặt tại làng Alburitel, cách Fatima vào khoảng 54  km.  Tất cả đều tưởng ngày tận thế đã đến.

Cha Lourenco tường thuật lại như sau: “Tôi nghĩ rằng tôi không đủ khả năng để diễn tả lại những gì chính tôi đã chứng kiến xưa kia.  Tôi nhìn như dán mắt vào mặt trời để quan sát: Mặt trời có màu nhợt, đến nỗi tôi có thể nhìn thẳng vào nó mà không bị đau mắt chút nào cả.  Mặt trời vào lúc bấy giờ trông tựa như một quả bóng bằng tuyết, quay chung quanh cái trục của mình, và bỗng chốc nó như rơi ra khỏi bầu trời, quay lượn ngoằn ngoèo và tiến sát gần mặt đất với vẻ đầy đe dọa.  Vì quá sợ hãi, tôi đã chạy nấp vào phía sau người lớn đang đứng khóc lóc vì tưởng rằng thế giới trong giây lát nữa sẽ bị chấm tận.  Bên ngoài ngôi trường làng của chúng tôi, có một đám đông đang tụ họp lại; còn đám học trò chúng tôi thì xô nhau chạy ra khỏi lớp học và đi xuống đường.  Khi phép lạ bắt đầu xảy ra thì chúng tôi nghe thấy tiếng kêu la của những người đang đứng đầy ngoài đường phía trước cổng trường, đàn ông cũng như đàn bà…

Lúc bấy giờ có một người vô thần, mà cả buổi sáng hôm đó cứ rêu rao lên tiếng chê bai cười nhạo những người tới Fatima là “những kẻ ngu ngốc,” cốt chỉ để xem một đứa bé gái nhà quê.  Nhưng trong suốt lúc xảy ra phép lạ thì ông ta đứng đờ ra như một người bị bất toại cả thân mình và chỉ đưa mắt cắm chặt vào mặt trời.  Ông ta bắt đầu run rẩy cả mình mẩy lẫn chân tay, rồi quỳ xuống trên bùn lầy và giơ hai tay lên trời cầu xin Chúa tha thứ cho mình.”[2]

Một hiện tượng không thể cắt nghĩa được

Qua sự trình bày của tất cả mọi nhân chứng có mắt hôm đó khi xảy ra phép lạ mặt trời quay, người ta có thể nói được rằng phép lạ cả thể đó có bốn đặc điểm khác nhau:

  1. Đám đông đã có thể nhìn thẳng vào một vật sáng chói lọi, mà họ cho là mặt trời, chứ họ không cần phải đeo kính râm hay bất cứ phương tiện bảo vệ mắt nào cả.
  2. Vừng sáng chói lọi đó đã tỏa ra những tia sáng mầu sắc rực rỡ xuống trên mặt đất, đến nỗi mọi cảnh vật đều bị nhuộm mầu hết.
  3. Vừng sáng chói lọi rực rỡ đó rơi xuống trên đám đông.
  4. Chỉ trong vòng mấy phút mà cả vùng đất Fatima đang bùn lầy dơ bẩn, bỗng chốc trở thành khô cứng, và áo quần của đám đông trên dưới 60 ngàn người từng bị cơn mưa cả buổi sáng làm ướt đẫm, cũng hoàn toàn khô ráo bình thường.

Đúng vậy, chỉ trong vòng khoảng 10 phút đồng hồ mà cả mặt đất lầy lội cũng như quần áo ướt át của đám đông bỗng chốc khô ráo hoàn toàn.  Đó quả là một điều đã minh nhiên nói lên rằng ngoài phép lạ siêu nhiên ra, không thể tìm ra được lời giải thích theo phương diện tự nhiên được.

Nỗi lo lắng của Mẹ Maria cho con cái loài người

Nếu thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã từng ước ao là khi được về trên trời, thánh nữ sẽ trở thành tình yêu đầy sáng tạo để cứu giúp mọi người, thì nay Fatima và nhất là phép lạ mặt trời quay, là một bằng chứng hùng hồn của tình yêu đầy sáng tạo của Mẹ Maria đối với con cái loài người chúng ta, dĩ nhiên, trên hết là bằng chứng của tình yêu Thiên Chúa.

Bởi vậy, chúng ta hãy nghiêm chỉnh đón nhận dấu chỉ của sự lo lắng của Mẹ Thiên Chúa; đúng như lời chị Lucia đã cảnh báo: “Fatima luôn luôn mang tính cách thời sự cao điểm của nó.”  Bởi vì, đối với Thiên Chúa, thời giờ là vô tận; nhưng đối với phàm nhân chúng ta, thời giờ luôn có giới hạn của nó.  Và giới hạn đó không ai biết được dài ngắn, lâu mau.  Vì chưa bao giờ có ai biết được mình sẽ được sinh ra lúc nào, và cũng rất ít ai biết được mình sẽ chết lúc nào.  Ngày tận cùng của mỗi người sẽ xảy đến một cách bất chợt, không ngờ trước được, tương tự như một kẻ trộm vậy (x.  Mt 24,37-44).  Do đó, Đức Giêsu đã căn dặn chúng ta: “Các con phải canh chừng, phải tỉnh thức, vì các con không biết khi nào thời ấy đến!” (Mc 13,33).

Nhưng dĩ nhiên, sự tỉnh thức và canh chừng mà Chúa nói đây, không có nghĩa là sự ngồi chờ cách thụ động, vô vi; nhưng là một sự tỉnh thức đầy sáng tạo, nghĩa là một sự tỉnh thức chờ đợi đầy tính năng động mà Mẹ Maria đã chỉ cho chúng ta tại Fatima cách đây đúng 90 năm về trước.  Đó là:

  • Mỗi người phải ăn năn sám hối và cải thiện cuộc sống cá nhân của mình;
  • Hằng ngày hãy siêng năng và sốt sắng lần hạt Mân Côi;
  • Tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ, như Chúa muốn.

Nếu được thế, thế giới sẽ được hòa bình, nhiều dân tộc sẽ tránh khỏi cảnh bị diệt vong và nhiều linh hồn sẽ không bị trầm luân trong hỏa ngục đời đời.

LM Nguyễn Hữu Thy

Nguồn: vietboston.com

 From: suyniemhangngay1& ThuNNguyen


 

Lại nói về sự tha thứ – Tác giả: Phùng Văn Phụng

Phùng Văn Phụng

Đề tài này rất nhiều người đã viết. Tôi cũng có viết đề tài này rồi, tuy nhiên tôi cũng xin thêm vài ý nghĩ về sự tha thứ.

Làm sao tha thứ cho người đã hãm hại mình, đã vu khống, nói xấu mình, có khi còn giết chết mình và gia đình mình. Tha thứ không phải là việc dễ dàng, sự tha thứ nó vượt quá khả năng của con người bình thường. Có thể không nhắc tới, không liên hệ, nhưng nói đến tha thứ kẻ đã gây quá nhiều đau khổ cho mình, cho gia đình mình thì thật là quá khó khăn. Tuy nhiên, tôi xin nêu vài trường hợp đã xảy ra để giúp cho ta suy nghĩ và học hỏi.

Lời nói cuối cùng của Chúa Giê-Su:

Lời cầu xin cho những kẻ hành hạ: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lu-ca 23:34). Đây là một trong những lời nói cuối cùng của Chúa Giê-su trên thập giá, thể hiện lòng thương xót bao la ngay cả đối với những kẻ làm Ngài đau khổ.

 1)   Phó tế Stêphanô.

Phó tế Stephanô là người tử đạo đầu tiên tại Giêrusalem năm 35.

Stêphanô đã tranh luận nhiều lần với người Do Thái cứng lòng, Ngài đã nói lên những lời khôn ngoan, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, khiến đối phương phải im tiếng. Vì thế họ tức giận rồi vu khống cho ngài tội phạm thượng, chống lại Môisen và Thiên Chúa.

Họ đã dẫn Ngài ra ngoài thành rồi ném đá cho đến chết. Nhưng trước khi tắt hơi, thánh Stêphanô còn ngước mắt lên trời xin Chúa tha tội cho những người hành hạ mình. 

https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-26-12-thanh-stephanotu-dao-tien-khoi-43756

 2)   Đức Giáo Hoàng Gioan Phao Lô II

Vào ngày 13 tháng 05 năm 1981 Đức Giáo Hoàng đã bị một người đàn ông Hồi giáo, gốc Thổ Nhĩ Kỳ tên là Mehmet Ali Agca, bắn trọng thương khi Ngài đang đứng trên xe chạy vòng quanh quãng trường thánh Phêrô

Viên đạn xuyên qua ổ ruột, cách động mạch vài ly, dù Ngài bị mất nhiều máu nhưng vẫn được cứu sống kịp thời.

Về phần mình Ngài lại xem đó như một sự can thiệp lạ lùng của Đức Mẹ Maria.

Sau khi hồi phục, Đức Giáo Hoàng đã tuyên bố với mọi người rằng: “Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi, người tôi đã chân thành tha thứ”. Giáo hoàng đã viết thư định gửi cho Ali Agca: “Tại sao anh lại bắn tôi khi mà cả hai chúng ta đều chung đức tin vào Chúa?” Nhưng thay vì gửi bức thư đó, đã quyết định đến gặp Ali Agca.

 Năm 1983, Ngài đến thăm Agca và tha thứ cho việc ám sát ông. Ngài còn cầu khẩn nhà cầm quyền Ý ân xá cho Agca. Ngài đã giữ liên lạc với gia đình của Agca nhiều năm sau đó và đã thăm mẹ Agca năm 1987.

https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_ho%C3%A0ng_Gioan_Phaol%C3%B4_II

 3)   Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận

Đức Hồng Y bị giam 13 năm, 9 năm biệt giam, bị bỏ đói, tưởng chết trong trại kiên giam.  Nhưng Đức Hồng Y không nhắc đến giai đoạn bị đày đoạ, đau khổ tột cùng đó và Ngài vẫn đi rao giảng về yêu thương và tha thứ.

Cáo thỉnh viên Waldery Hilgeman, cáo thỉnh viên phụ trách tiến trình phong thánh cho cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận, nêu nhận định của ông về cố Hồng y:[112]

Điều đánh động tôi trong linh đạo của ngài là tình yêu liên lỉ đối với tha nhân. Ngài bị cầm tù và khi ở trong tù, ngài vẫn không ngừng yêu thương những người bách hại ngài, từ những viên chức cao nhất của chế độ đến anh lính canh thấp bé nhất.

Linh mục Trần Đức Anh, Giám đốc Ban Việt ngữ Đài phát thanh Vatican, đưa ra nhận định:[106]

Bản thân tôi, tôi có dịp được tiếp xúc với Đức Hồng y rất nhiều, và tôi rất khâm phục Ngài ở chỗ không bao giờ Ngài than trách, nói xấu hoặc phê bình những người đã hại Ngài, những người đã tạo đau khổ cho Ngài trong quá khứ. Đó là điều mà tôi rất cảm kích.

https://vi.wikipedia.org/wiki/Phanxic%C3%B4_Xavi%C3%AA_Nguy%E1%BB%85n_V%C4%83n_Thu%E1%BA%ADn

 *******

Đức Hồng Y viết: “

Có một hôm mấy anh gác hỏi tôi:

–          Ông có thương chúng tôi không?

–          Có chứ, tôi yêu thương các anh cách thành thực, không có gì là khách sáo đâu!

–          Kể cả khi người ta giam ông, mất tự do năm này sang năm khác? Không xét xử gì cả.?

–          Anh nghĩ lại bao nhiêu năm ở với nhau. Tôi làm sao giấu được. Tôi thực sự yêu thương các anh.

–          Chừng nào được tự do anh có sai giáo dân của anh trả thù không?

–          Không, tôi vẫn tiếp tục yêu thương, dù các anh có muốn giết tôi.

–          Nhưng tại sao lại yêu kẻ thù hại anh?

–          Vì Chúa Giêsu đã dạy tôi yêu thương; nếu tôi không tuân giữ, tôi không đáng gọi là Kitô hữu nữa.”

(Sách Sách” Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá” trang 76)

  4)Thánh nữ Maria Goretti, đồng trinh, tử đạo

Một di sản đạo đức quý giá khác mà thánh Maria Goretti để lại cho hậu thế đó là lòng từ bi và sự tha thứ. Sự tha thứ mà thánh Maria Goretti dành cho kẻ đã hạ sát mình đã làm trổ sinh hoa trái là sự hoán cải của Alessandro Serenelli, kẻ đã hãm hại và tước đi mạng sống của thánh nữ. Alessandro bị tuyên án 30 năm tù khổ sai lưu đày vì tội cố sát. Sau khi thụ án, anh đã tìm đến nhà Goretti gặp bà Assunta, mẹ của thánh nữ để xin được tha thứ. Anh cũng đã có mặt tại quảng trường thánh Phê-rô tham dự lễ phong thánh của Maria Teresa Goretti cùng với bà Assunta.

Sau đó, anh đến xin làm lao công trong một tu viện dòng Phanxico: để sống cuộc đời hoán cải và đền tội. Có thể thấy rằng, hai phép lạ đã xảy ra khi sự tha thứ làm nảy sinh ơn hoán cải. Khả năng tha thứ xuất phát từ ân sủng của Thiên Chúa và sự quảng đại của một tâm hồn thánh thiện, liêm chính đã thúc đẩy Maria Goretti nói những lời này: ‘Tôi muốn kẻ giết tôi cũng được như tôi trên Thiên Ðàng’.

https://vntaiwan.catholic.org.tw/thuongde/thuongde200.htm

Kết:

Trong suốt giòng lịch sử từ khi Chúa Giê-su chịu tử nạn cho đến ngày hôm nay (2025) vẫn có rất nhiều Kitô hữu là môn đệ của Thầy chí thánh, đã học tập, noi gương Thầy Giê-su đã quãng đại yêu thương và tha thứ đối với những kẻ đã nói xấu, vu khống, hãm hại mình.

Người Kitô hữu thường nhớ và áp dụng lời Chúa Giê-su dạy: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ đã ngược đãi anh em” (Mt 5,44)

Phùng Văn Phụng

12/10/2025

VỰC TỐI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Họ sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna!”.

Một chú mèo rơi xuống một giếng cạn, người ta xúm lại tìm cách cứu nó bằng việc xúc đất lấp giếng. Ai đó lo lắng, “Làm thế, nó sẽ chết!”. Nhưng họ vẫn tiếp tục. Lạ thay, cứ mỗi lần một lớp đất rơi xuống, con mèo lại phủi đất rồi bước lên cao hơn. Cuối cùng, nó ra khỏi giếng – bình an, tự do – dẫu khá lấm lem!

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay cho thấy, như con mèo kia, nhiều khi chúng ta cũng bị vùi lấp giữa những lớp đất của thử thách, tội lỗi hay nỗi sợ. Thế nhưng, chính trong những ‘vực tối’ đó, Thiên Chúa lại tỏ mình cách sâu thẳm nhất.

Bị ném xuống biển sâu, chôn vùi trong bụng cá, nhưng chính ở đó, Giôna bắt đầu trải nghiệm thế nào là bóng tối, thế nào là nổi loạn, là hoán cải; và điều quan trọng là Thiên Chúa có mặt ở đó! Đức Kitô cũng đã bước vào nấm mồ, vực sâu của sự chết, để ở đó, Ngài cũng trải nghiệm thế nào là sự dữ, là tội lỗi, là chết đi để từ đó trỗi dậy và bừng lên ánh sáng phục sinh. Như vậy, Thiên Chúa không ở ngoài vực thẳm u tối; Ngài ở trong đó, để biến ‘vực tối’ thành nôi sự sống. “Khi ta dám bước vào bóng tối của mình, ta khám phá ra rằng Thiên Chúa đã ở đó từ trước!” – Henri Nouwen.

Phaolô cho thấy lý do của mầu nhiệm ấy. Đức Kitô “xuất thân từ dòng dõi Đavít xét như người phàm”, nhưng “đã từ cõi chết sống lại” – bài đọc một. Để cứu con người Con Thiên Chúa phải bước xuống ‘vực tối’ của nó. Nếu Ngài chỉ đứng trên cao, nó sẽ không bao giờ được chạm đến Ngài; nhưng một khi Ngài cúi xuống, Ngài biến vực sâu của nó thành cầu thang dẫn về trời, ban cho nó ơn cứu độ vốn không đến từ bên ngoài, mà đến từ bên trong vực tối nhân sinh. “Bóng tối không phải là kết thúc; nó là lòng mẹ sinh ra sự sống mới!” – Richard Rohr. “Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ!” – Thánh Vịnh đáp ca. Đúng vậy, Thiên Chúa không biểu dương ơn Người cứu độ bằng tiếng sấm trên trời, nhưng bằng thập giá trên đất. Ở nơi tưởng chừng Ngài vắng bóng, Ngài lại hiện diện viên mãn hơn bao giờ hết.

Anh Chị em,

“Họ sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna!”. Nếu Giôna đã gặp Chúa trong bụng cá, nếu Đức Kitô đã tỏ mình trong mồ sâu, thì mọi ‘vực tối’ của chúng ta – tội lỗi, cô đơn, thất bại, sợ hãi – đều có thể trở thành ‘vực gặp gỡ’ Thiên Chúa. “Khi ta dám bước vào bóng tối của mình, ta khám phá ra rằng, Thiên Chúa đã ở đó từ trước!” – Henri Nouwen. Ở đó, Ngài vẫn âm thầm tạo nên ánh sáng như chính Ngài đã làm trong buổi đầu sáng thế. ‘Vực tối’ không kết thúc bằng tuyệt vọng, nếu chúng ta biết phủi bụi và đứng lên. Mỗi lần chúng ta chỗi dậy, mỗi lần bạn và tôi để ánh sáng Chúa chiếu soi, chính là một lần chúng ta bước cao hơn trên con đường phục sinh. ‘Vực tối’ không vắng Chúa, mà chính là nơi Ngài đợi ta!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con sợ vực thẳm đời con; cho con tin rằng, nơi tận cùng yếu đuối và tội lỗi của con, tình yêu Ngài vẫn mạnh mẽ hơn mọi đổ vỡ!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

************************************************

Lời Chúa Thứ Hai Tuần XXVIII Thường Niên, Năm Lẻ

Thế hệ gian ác này sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 11,29-32

29 Khi ấy, dân chúng tụ họp đông đảo, Đức Giê-su bắt đầu nói : “Thế hệ này là một thế hệ gian ác ; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na. 30 Quả thật, ông Giô-na đã là một dấu lạ cho dân thành Ni-ni-vê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy. 31 Trong cuộc Phán Xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn ; mà đây thì còn hơn vua Sa-lô-môn nữa. 32 Trong cuộc Phán Xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng ; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa.”


 

LÃNG QUÊN HỒNG ÂN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Còn chín người kia đâu?”.

Chuyện kể về một bà mẹ quê, 85 tuổi, hiền hậu mà sâu sắc. Một chiều, con trai bà gọi điện thăm; như bao lần, trước khi gác máy, bà không quên nói, “Cám ơn con!”. Ai ngờ, ba tiếng “Cám ơn con” hôm ấy lại là lời cuối bà dành cho đứa con yêu. Từ ngày mẹ mất, người ấy không bao giờ quên nhẩm tên thánh song thân mỗi khi dâng lễ. Công bằng thôi! Một Linh mục đã được mẹ dạy luôn biết nói “cám ơn”, nghĩa là không để mình lãng quên hồng ân!

Kính thưa Anh Chị em,

‘Lãng quên hồng ân’ – cũng là điều Lời Chúa hôm nay cảnh tỉnh chúng ta. Bởi lắm lúc, chúng ta nhìn mọi sự “chúng ta có”, “chúng ta là” như là điều hiển nhiên. Ấy thế, trong cuộc đời, chẳng có gì là hiển nhiên; tất cả là hồng ân!

Người ta thường viết trên cát những ân phúc, còn những xúi quẩy thì khắc vào cẩm thạch! Chúng ta dễ than phiền về những thiếu thốn hơn là tạ ơn vì những gì đã nhận được. Thật xót xa, nhưng đó là thực tế của căn bệnh ‘lãng quên hồng ân’. Đó cũng là căn bệnh của chín người phong cùi trong Tin Mừng. Trước sự vô tình của họ, Chúa Giêsu ngạc nhiên, “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu?”. “Chúng ta thường xem là hiển nhiên chính những điều đáng được biết ơn nhất!” – Cynthia Ozick.

Chín người ấy được lành bên ngoài nhưng chưa được chữa lành bên trong. Họ có thể đã trở lại nếp cũ, thói cũ, và thái độ cũ. Họ không rút ra được bài học nào từ những năm tháng đớn đau – và đó mới là căn bệnh thật, bệnh vô ơn! “Ai không học được gì từ đau khổ sẽ bị kết án phải lặp lại nó!” – G. Santayana. Ngược lại, người Samari ngoại giáo, và như tướng Naaman trong bài đọc một, đã quay lại tôn vinh và tạ ơn Thiên Chúa. Họ không chỉ được lành thể xác, mà còn được cứu độ linh hồn.

“Sự vô ơn là bức tường ngăn cách giữa Thiên Chúa và các tạo vật, là đập ngăn chặn suối nguồn với dòng sông” – thánh Bênađô. Và thật vậy, “những lời ca tụng của chúng ta không thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại ơn cứu độ cho chúng ta”, vì chúng nuôi dưỡng lòng biết ơn. Càng sống tâm tình tạ ơn, chúng ta càng được Chúa tuôn đổ hồng ân. Và xét cho cùng, vô thần cũng chỉ là một hình thức vô ơn – hậu quả của ‘lãng quên hồng ân!’.

Anh Chị em,

“Còn chín người kia đâu?”. Câu hỏi ấy vẫn vang vọng. Nếu hai tiếng “cám ơn” đã trở nên hiếm hoi trên môi miệng chúng ta, thì đó hẳn là một dấu báo động: sự khô cạn tình Chúa, lạnh lùng tình người. Khi ơn nghĩa bị chối bỏ, tình liên đới trở nên mong manh, và niềm tin chỉ còn là lớp sương mờ bên lề cuộc sống. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta biết ơn trời, biết ơn người, và đừng để mình ‘lãng quên hồng ân!’. Giữa muôn ân phúc, hành động tạ ơn tuyệt vời nhất là tham dự Thánh Lễ – Hy Tế Tạ Ơn – nơi chúng ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì mọi ơn lành, đặc biệt là quà tặng Giêsu, Con Một Ngài, và những gì tuôn chảy từ đó.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, vô ơn là chiếc bóng của vô thần – khép lòng con trước ánh sáng. Xin dạy con luôn biết tạ ơn, và không bao giờ ‘lãng quên hồng ân!’”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***********************************************

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN, NĂM C

Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 17,11-19

11 Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê. 12 Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa 13 và kêu lớn tiếng : “Lạy thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi !” 14 Thấy vậy, Đức Giê-su bảo họ : “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Đang khi đi thì họ được sạch. 15 Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. 16 Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri. 17 Đức Giê-su mới nói : “Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Thế thì chín người kia đâu ? 18 Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?” 19 Rồi Người nói với anh ta : “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”


 

Sự sống vĩnh hằng là gì?- Cha Vuong

Tạ ơn Chúa đã ban cho bạn một ngày mới để đổi mới đời mình trong mối tình không đổi thay của Chúa. Hãy nhớ cầu nguyện cho nhau nhé.

Thư 7: 11/10/2025. t3-22

GIÁO LÝ: Sự sống vĩnh hằng là gì? Sự Sống vĩnh hằng đã khởi đầu khi ta lãnh Bí tích Rửa tội. Nó tiếp tục sau khi chết và nó sẽ vô cùng tận. (YouCat, số 156)

SUY NIỆM: Những người yêu nhau có kinh nghiệm rằng: họ muốn cho chuyện tình của họ không ngừng lại bao giờ. Thiên Chúa là tình yêu, thư thứ nhất của thánh Gioan nói thế (1Ga 4:16). Thư thứ nhất gửi Côrintô nói đức ái không bao giờ mất được (1Cr 13:8). Thiên Chúa thì vĩnh hằng vì Người là tình yêu và tình yêu thì vĩnh hằng bởi vì tình yêu là thần thiêng. Khi ta sống trong tình yêu, là ta đi vào hiện tại vĩnh viễn của Thiên Chúa. Anh em thân mến, một điều duy nhất, xin anh em đừng quên, đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. (2 Pr 3:8) (YouCat, số 156 t.t.)

❦ Thời gian để tìm Chúa, đó là sống. Thời gian để tìm được Chúa, đó là chết. Thời gian để có được Chúa là đời đời. (Thánh Phanxicô Salêdiô)

LẮNG NGHE: Phúc thay người lắng nghe ta dạy, ngày ngày canh thức trước cửa nhà ta, túc trực ở ngay lối ra vào. Vì gặp được ta là gặp sự sống, và hưởng ân lộc ĐỨC CHÚA ban cho. (Cn 8:34-35)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, hạnh phúc tuyệt đối và trường cửu là của Chúa. Xin  cho con biết dành thời giờ Chúa ban để kết hiệp với Chúa qua việc tích cực tham dự các Bí Tích và sống Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh của đời con.

THỰC HÀNH: Khi tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật, bạn cảm thấy thế nào khi tuyên xưng “Tôi tin hằng sống vậy.”? 

From Do Dzung

************************

Đời Vui Mấy Khi Con Cần Chúa – Thánh Ca Công Giáo 2024

GIÁO HOÀNG CỦA KINH MÂN CÔI-  Lm Donald Calloway, M.I.C

 Lm Donald Calloway, M.I.C

“Kinh Mân Côi là lời cầu nguyện tuyệt vời nhất và là phương cách hiệu quả nhất để đạt tới sự sống đời đời.  Đó là phương thuốc cho tội lỗi của chúng ta, là nguồn gốc phúc lành của chúng ta.  Không có cách cầu nguyện nào tuyệt vời hơn.” Đó là lời minh định của ĐGH Leo XIII, vị giáo hoàng thứ 256, triều đại từ 1878 tới 1903.

 Ngài là vị giáo hoàng đại thọ nhất trong lịch sử Giáo Hội – qua đời lúc 93 tuổi.  Ngài là ngòi bút sắc bén, thi sĩ thông minh, thần học gia nổi trội, và người sáng lập Viện Giáo Hoàng Thánh Thomas Aquino năm 1879 – nay là Đại Học Giáo Hoàng Thánh Thomas Aquino, hoặc Angelicum.

 Là mục tử và nhà thần bí, ĐGH Leo XIII rất quan tâm các vấn đề xã hội và luân lý, làm cho Giáo Hội có nhiều vũ khí tâm linh để chống lại các vấn đề đó.  Một hôm, khi đang dâng lễ, ngài thị kiến cuộc chiến tâm linh dữ dội và được gợi hứng viết kinh tổng lãnh thiên thần Michael.  Ngài cũng thúc đẩy việc sùng kính Đức Thánh Giuse, tận hiến thế giới cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, thúc đẩy lòng sùng kính Ngày Thứ Sáu, và ấn định tháng Sáu là tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu.  Ngài là vị Giáo Hoàng mà cô bé Teresa 15 tuổi đã xin phép chuẩn vào Dòng Kín khi ngài tới Lisieux.  Ngài là Giáo Hoàng đầu tiên xuất hiện trên phim ảnh và tuyên chân phước cho linh mục Louis de Montfort năm 1888, và ĐGH Piô XII tuyên thánh cho linh mục Louis de Montfort năm 1947.

 1.LÒNG SÙNG KÍNH ĐỨC MẸ

 Từ hồi trẻ, ĐGH Leo XIII đã rất sùng kính Đức Mẹ.  Phát hiện các bài viết về Đức Mẹ của Thánh Louis de Montfort năm 1846, và điều tra các bài viết này vào án phong thánh cho linh mục Montfort, ĐGH Leo XIII đã ảnh hưởng nhiều với tư tưởng của thánh Montfort về Đức Mẹ.  Ngài rất sùng kính Đức Mẹ, ban ân xá cho những người tận hiến cho Đức Mẹ theo cách của Thánh Montfort.  Một nguồn gợi hứng khác về Đức Mẹ đối với ĐGH Leo XIII là công việc của Chân Phước Bartolo Longo ở Pompeii.

 ĐGH Leo XIII cởi mở với các mặc khải tư.  Ngài thúc đẩy việc sùng kính Áo Đức Bà, thiết lập lễ Đức Mẹ Ảnh Phép Lạ (Our Lady of the Miraculous Medal), viết tông thư thức đẩy việc hành hương các Đền Đức Mẹ, đặc biệt là Đức Mẹ Lộ Đức, và công nhận thị kiến Đức Mẹ hiện ra tại La Salette, với hai trẻ Maximin Giraud và Mélanie Calvat.  Ngài yêu mến Đức Mẹ Lộ Đức đến nỗi cho xây dựng một hang Lộ Đức tại vườn Vatican.  Theo ý tưởng của thánh Bernard Clairvaux, ngài nói rằng các Kitô hữu cố gắng sống đức tin mà không có Đức Mẹ cũng như con chim cố gắng bay mà không có đôi cánh.  Trong nhiều bài viết về Đức Mẹ, ngài nhấn mạnh rằng Đức Mẹ có thể làm cho các tín hữu vâng lời Đức Giáo Hoàng.  Ngài là Giáo Hoàng đầu tiên được ghi âm tiếng nói, và khi ghi âm, ngài hát kinh Kính Mừng.

2.  VÔ ĐỊCH KINH MÂN CÔI

 ĐGH Leo XIII là nhà vô địch về kinh Mân Côi.  Ngài viết 11 tông thư về Kinh Mân Côi, và rất nhiều sứ điệp về kinh Mân Côi.  Các tông thư về kinh Mân Côi có phần tóm lược các câu của các vị tiền nhiệm về vai trò của thánh Đa Minh là người khởi xướng kinh Mân Côi và sáng lập hội Mân Côi.  Ngài nói rằng Đức Mẹ đã giao phó Chuỗi Mân Côi cho thánh Đa Minh, so sánh hội Mân Côi của thánh Đa Minh với đạo binh cầu nguyện và cuộc chiến thiêng liêng giành lại các linh hồn cho Đức Kitô.

 ĐGH Leo XIII nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo huấn xã hội Công giáo qua Tông thư Rerum Novarum (Tân Sự – nói về đời sống của giới lao động nghèo), và nói rằng Kinh Mân Côi là một phần giải quyết các vấn đề xã hội thời đó.  Ngài không ngừng nói rằng kinh Mân Côi là phương cách hữu hiệu để mở rộng Vương Quốc của Chúa Giêsu Kitô trên thế gian này, đồng thời hữu ích cho cà cá nhân và xã hội.  Ngài khuyến khích mọi người đọc kinh Mân Côi hằng ngày, đặc biệt khuyến khích các linh mục và các nhà truyền giáo nói về kinh Mân Côi, vì đó là sức mạnh đẩy lui sự ác và chữa lành các vết thương lòng.

 ĐGH Leo XIII ấn định tháng Mười là tháng Mân Côi, ban nhiều ân xá cho người đọc kinh Mân Côi, ủng hộ việc xây dựng Thánh Đường Mân Côi tại Lộ Đức, thêm danh xưng “Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi” vào Kinh Cầu Đức Bà, viết hiến chương cho hội Mân Côi, khuyến khích các tu sĩ Đa Minh truyền bá kinh Mân Côi, và ủng hộ hội Tông Đồ Mân Côi của chân phước Bartolo Longo tại nhà thờ Mân Côi ở Pompeii.  Ngài còn rút gọn kinh tổng lãnh thiên thần Michael mà ngày nay thường đọc khi lần chuỗi xong.  Các bài viết của ĐGH Leo XIII đề cao ơn lành của kinh Mân Côi: đọc kinh Mân Côi là cầu nguyện với các thánh thiên thần, vì chính sứ thần Gabriel là người đầu tiên nói lời kính chào Đức Mẹ.  Mãi mãi ĐGH Leo XIII là vị giáo hoàng của Kinh Mân Côi.

 Lm Donald Calloway, M.I.C

Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

From: ngocnga_12 & NguyenNThu

KIỆT TÁC CỦA MỘT KIỆT TÁC – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!”.

William Hearst, một tỷ phú, đã đầu tư cả gia tài vào các tác phẩm nghệ thuật. Ngày kia, nghe biết một kiệt tác, ông cử đại diện ra nước ngoài săn tìm. Sau nhiều tháng, viên đại diện báo tin về, “Kiệt tác vô giá được cất giữ trong kho của William Hearst!”. Như vậy, ông đã tiêu tốn để tìm kiếm một kho báu mà ông sở hữu!

Kính thưa Anh Chị em,

Như William, nhân loại đã sở hữu “Giêsu”, một ‘Kiệt Tác’; ấy thế, hơn 2.000 năm qua, con người vẫn mải miết đi tìm nó! Lời Chúa hôm nay không chỉ nói đến Kiệt Tác “Giêsu”, nhưng còn nói đến nói đến mẹ Ngài, ‘kiệt tác của một Kiệt Tác’ mà một phụ nữ phát hiện, “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!”.

Sự hiểu biết của phụ nữ này thật sâu sắc! Cô cảm nhận sự vĩ đại của một vị Thầy có tên Giêsu; hầu chắc, cô linh cảm Giêsu, một Messia; và cô e rằng, Ngài còn là một Thiên Chúa làm người! Từ sự vĩ đại của Con, cô suy đoán sự vĩ đại của mẹ. “Phúc đức tại phụ mẫu”. Và cô ấy đúng! Tất cả những gì Mẹ có, Mẹ là, Maria thông chuyển cho Con mình. Đang khi không ai dám nghĩ sự hoàn hảo nơi ‘thần tính’ của Chúa Giêsu phần nào có công nghiệp của Mẹ, thì sẽ rất bất công nếu bảo, Maria chẳng có tác động nào lên sự hoàn hảo nơi ‘nhân tính’ của Chúa Con. Vì thế, Maria là ‘kiệt tác của một Kiệt Tác’ vậy! “Trinh Nữ Maria là kiệt tác của công trình sáng tạo Thiên Chúa và là phản chiếu vẻ đẹp của Ngài!” – Francois de Sale.

Vậy tại sao Maria là một kiệt tác? Sai Con vào trần gian, Chúa Cha muốn Chúa Con có một người mẹ vốn phải tuyệt hảo. Để chuẩn bị, Ngài ban cho Maria đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội hầu gìn giữ Mẹ tinh tuyền. Ai có thể tưởng tượng, một Giêsu trong trắng, được bao bọc trong một thân xác ô nhơ bởi tội lỗi trong chín tháng đầu đời? Liệu một đứa trẻ tinh nguyên như thế đến bao giờ mới có thể ‘ngừng khóc’ khi chịu ‘một tội nhân’ chăm sóc? Vì thế, Chúa Cha đã chuẩn bị cho mẹ của Con Ngài một phép lạ có một không hai. “Maria không chỉ được cứu chuộc, mà còn được cứu chuộc trước – một kiệt tác mà ân sủng hoàn tất trước khi tội lỗi kịp chạm đến!” – Fulton Sheen.

Anh Chị em,

“Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!”. Đó là lời khen người phụ nữ kia đã dành cho kiệt tác Maria; nhưng, thật bất ngờ, Chúa Giêsu nói đến một điều gì đó quý hơn, “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa!”. Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa bằng Maria! Vì thế, Maria có phúc đến hai lần. Và lạ thay, cả chúng ta, nếu nghe và giữ lời Thiên Chúa, cũng là một kiệt tác! Và còn hơn thế, chúng ta sẽ sinh ra những kiệt tác khác cho Chúa bằng sự cộng tác hết mình với ân sủng; nghĩa là, nên thánh và giúp người khác nên thánh. “Mỗi lời ‘xin vâng’ với Lời Chúa là một nét cọ thêm vào kiệt tác linh hồn bạn!” – Gioan Phaolô II.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Mẹ Maria, dạy con để Chúa tự do vẽ lên đời con bằng những nét cọ tình yêu mang dấu đau thương, hầu con cũng trở nên kiệt tác của Ngài như Mẹ!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

***********************************************

Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XXVII Thường Niên, Năm Lẻ

Phúc thay người mẹ đã cưu mang Thầy. Đúng hơn : phúc thay kẻ lắng nghe lời Thiên Chúa.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 11,27-28

27 Khi ấy, Đức Giê-su đang giảng dạy, thì giữa đám đông có một người phụ nữ lên tiếng thưa với Người : “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm !” 28 Nhưng Người đáp lại : “Đúng hơn phải nói rằng : Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.”


 

 Làm thế nào người phạm tội nặng có thể nối kết lại với Chúa được? – Cha Vương

Mến Chúc bạn và gia quyến một ngày bình an trong yêu thương và tha thứ. 

Xin bạn một lời cầu nguyện khẩn thiết cho căn bệnh ung thư bao tử của mình

Cha Vương

Thứ 6: 10/10/2025.  t6-24

GIÁO LÝ: Làm thế nào người phạm tội nặng có thể nối kết lại với Chúa được? Họ có thể làm hòa với Chúa nhờ bí tích sám hối và hòa giải. (YouCat, số 317)

SUY NIỆM: Đức Thánh Cha Pi-ô XII nói (26/10/1946): “Có lẽ tội lỗi lớn nhất trên thế giới hôm nay là con người mất cảm thức về tội lỗi”. Quả thực 78 năm sau, câu nói này vẫn còn nguyên giá trị cho thế giới ngày nay. Xem ra khi xã hội càng thăng tiến về mặt vật chất, con người càng bị ánh sáng trần tục và các hình thức chủ nghĩa vị kỷ làm lóa mắt, họ không còn quan tâm đến tội lỗi, do đó, họ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn miễn là điều đó khuất mắt thiên hạ. Đối với họ chữ “tội lỗi” là cổ lỗ sĩ. Khi con người mất cảm thức về tội lỗi, con người cũng mất cảm thức về căn tính đích thực của mình. Khi con người mất cảm thức về căn tính đích thực của mình, con người cũng mất cảm thức về Thiên Chúa. Khi con người mất cảm thức về Thiên Chúa cũng là khi con người sa vào “bẫy kiêu ngạo” cho rằng con người là trên hết, con người tự làm chủ vận mệnh của mình. Khi con người cho mình là trên hết cũng là khi con người mất định hướng căn bản của cuộc đời, tự hủy hoại chính mình và gây nên thảm họa cho anh chị em đồng loại. 

   Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo định nghĩa, tội trọng là “phá hủy đức mến trong lòng con người do vi phạm nghiêm trọng luật Thiên Chúa. Khi phạm tội, con người quay lưng với Thiên Chúa là cùng đích và chân phúc của mình, bằng cách yêu chuộng một thụ tạo thấp kém hơn” (GLCG 1855). Để được gọi là tội trọng, vốn cắt đứt mối liên hệ của  bạn với Thiên Chúa, nó phải đáp ứng ba tiêu chuẩn cụ thể như Sách Giáo Lý đã nêu.

   “Tội trọng đòi phải có nhận thức đầy đủ và hoàn toàn ưng thuận. Điều này giả thiết người phạm tội phải biết hành vi đó là tội, trái với luật Thiên Chúa. Tội trọng bao hàm một sự ưng thuận có suy nghĩ cặn kẽ để trở thành một lựa chọn cá nhân. Việc thiếu hiểu biết do lỗi mình và lòng chai đá không làm giảm bớt, mà còn gia tăng tính cách cố tình của tội lỗi” (GLCG 1859).

   Tóm tắt ba phẩm chất của tội trọng: một tội là trọng phải 

(1) liên quan đến vấn đề nghiêm trọng, 

(2) vi phạm với sự hiểu biết đầy đủ và 

(3) có sự đồng ý hoàn toàn của người đó.

Nếu trong Hội thánh không có việc tha tội, sẽ không có hi vọng được sống đời đời, và được giải thoát đời đời. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã ban cho Hội thánh ơn lớn lao dường ấy. (Thánh Augustinô) 

LẮNG NGHE: Bấy giờ, Đức Giê-su cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.”  (Lc 23:34a)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin giúp con biết luôn tỉnh thức trước những cám dỗ ngọt ngào của mọi thú vui và sở thích để rồi tránh xa nó. Xin đừng để con phạm tội và làm mất lòng Chúa.

THỰC HÀNH: Cố gắng tìm đủ mọi cách để trở về với Lòng Thương Xót của Chúa nhé. 

From: Do Dzung

**********************

Yeu thuong & Tha Thu

TRUNG LẬP – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ai không đi với tôi, là chống lại tôi!”.

Thời nào cũng thế, luôn có những con người không kiên định trong lập trường, không rõ ràng trong chính kiến, và không dứt khoát trong lựa chọn! Họ tự hào cho mình là ôn hoà, khôn ngoan, trung dung và tự nhận là trung lập. Vậy mà, “Nơi nóng nhất trong hoả ngục thuộc về những người trung lập!” – Dante Alighieri.

Kính thưa Anh Chị em,

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tuyên bố, “Ai không đi với tôi, là chống lại tôi!”. Ngài không muốn các môn đệ của Ngài ‘trung lập’, Ngài muốn họ vượt trên ‘trung lập!’.

Với tuyên bố này, Chúa Giêsu cho biết Ngài không chấp nhận một hạng môn đệ lập lờ! Đây là một thông điệp quan trọng cho những ai sẽ theo Ngài thuộc mọi thời! Vì sẽ đến ngày, “Chúa xét xử thế giới theo lẽ công minh!” – Thánh Vịnh đáp ca – và mọi người sẽ phải trả lẽ trước mặt Ngài, “Ôi, ngày đáng sợ thay!” – bài đọc một.

Ngày nay, thế giới và Giáo Hội đang bị tác động bởi “chủ nghĩa tương đối”, xu hướng thế tục đang gia tăng trong mọi lĩnh vực. Nhiều người nói, tôi chấp nhận bất kỳ tôn giáo nào, lối sống nào, lựa chọn nào. Và dù họ tự cho mình sẵn sàng yêu thương, trân trọng, đón nhận, đối xử với mọi người đúng phẩm giá; nhưng sẽ thật sai lầm khi họ chọn một kiểu sống ‘trung lập’ với những lựa chọn hoàn toàn thế gian. “Giữ trung lập giữa đúng và sai là phục vụ cho điều sai!” – Theodore Roosevelt. ‘Trung lập’ trong lãnh vực đạo đức không phải là khôn ngoan, mà là phản bội chân lý!

“Ai không đi với tôi, là chống lại tôi” cho thấy không ai có thể thờ ơ với giáo huấn của Chúa Kitô mà vẫn sống trong ân sủng Ngài. Ngược lại mới đúng! Không đi với Chúa Kitô là không chấp nhận những gì Ngài dạy – trên thực tế – là chống lại Ngài. ‘Trung lập’ về các vấn đề đức tin và đạo đức thực ra là không ‘trung lập’ chút nào, đó là tách rời chính mình khỏi Chúa Kitô. Ví dụ, ai đó nói, “Tôi tin Chúa Kitô, nhưng không tin Bí tích Thánh Thể!”; thực tế, họ đã chối nhận Ngài và đi ngược đức tin. “Chúa Kitô không thể bị chia cắt; ai chỉ chọn một phần nơi Ngài, là đánh mất toàn thể Ngài!” – Augustinô.

Anh Chị em,

“Ai không đi với tôi, là chống lại tôi!”. Thế giới hôm nay ca ngợi ‘trung lập’ như một đức tính. Vậy mà giữa Chúa Kitô và thế gian không có vùng xám; giữa ánh sáng và bóng tối không có lằn ranh. ‘Trung lập’, thực chất, chỉ là một hình thức trốn tránh; nó khoác chiếc áo khiêm tốn nhưng giấu trong đó nỗi sợ hãi. Vậy mà đức tin không thể sống bằng sự thoả hiệp, và tình yêu không thể tồn tại trong hững hờ. Một Kitô hữu cố đứng giữa Tin Mừng và thế gian, sẽ không giữ được cả hai, mà đánh mất cả hai. “Sự nửa vời là kẻ thù của thánh thiện!” – Phanxicô Salêsiô. Lời Chúa mời gọi chúng ta chọn Chúa Kitô hay từ chối Ngài từ mỗi quyết định lớn nhỏ – trong lời nói, trong hành vi, trong mỗi chọn lựa. Vì tất cả đều là bước về phía ánh sáng hoặc về phía bóng tối!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin cứu con khỏi sự lập lờ – thứ bình an giả tạo – của kẻ hai lòng. Đốt cháy con bằng lửa tình yêu, trước khi con bị thiêu trong lửa dửng dưng!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

**************************************************

Lời Chúa Thứ Sáu Tuần XXVII Thường Niên, Năm Lẻ

Nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 11,15-26

15 Khi ấy, Đức Giê-su trừ một tên quỷ, nhưng có mấy người lại bảo : “Ông ấy dựa thế quỷ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ.” 16 Kẻ khác lại muốn thử Người, nên đã đòi Người một dấu lạ từ trời. 17 Nhưng Người biết tư tưởng của họ, nên nói : “Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nọ đổ xuống nhà kia. 18 Nếu Xa-tan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được ?… bởi lẽ các ông nói tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ. 19 Nếu tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ ? Bởi vậy, chính họ sẽ xét xử các ông. 20 Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông. 21 Khi một người mạnh được vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn. 22 Nhưng nếu có người mạnh thế hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước lấy vũ khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được.

23 “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.

24 “Khi thần ô uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi. Mà vì tìm không ra, nó nói : ‘Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi.’ 25 Khi đến nơi, nó thấy nhà được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi. 26 Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước.”


 

BIẾT ƠN – Lm. Mark Link, S.J. 

Lm. Mark Link, S.J. 

Bà Dorothy Day là một người trở lại Công Giáo khi đã lớn tuổi.  Cuộc đời bà đáng được Hollywood dựng thành phim.  Khi bà từ trần năm 84 tuổi, tờ New York Time đã không do dự gọi bà là người có ảnh hưởng nhiều nhất trong lịch sử Công Giáo Hoa Kỳ.

 Sau cái chết của bà, đã có một phong trào vận động để tuyên thánh cho bà, nhất là vì những gì bà đã làm cho người nghèo và người tuyệt vọng ở Nữu Ước.

 Cách đây không lâu, tờ America đã phỏng vấn bà Eileen Egan, một người bạn thân của bà Dorothy.  Một trong những câu hỏi mà người phóng viên đặt ra với bà Eileen là “Điều gì đặc biệt nhất khi bà nghĩ đến bà Dorothy?” 

Không chút do dự, bà Eileen đáp, “Đó là tinh thần biết ơn.” Và bà đã đưa ra một thí dụ. 

Vào một ngày trời lạnh, cả hai đang ở trên chiếc xà lan.  Bà Dorothy chỉ khoác chiếc áo mỏng.  May mắn, bà có mang theo tờ báo nên bà lấy quấn quanh người bên dưới áo khoác.  Khi làm như vậy, bà mỉm cười và nói, “Tôi cảm ơn những người vô gia cư đã dạy tôi cách này để giữ ấm thân thể.” 

Bà Eileen nói thêm, “Bất cứ ở đâu, bà Dorothy đều tìm lấy lý do nào đó để cảm tạ.  Thí dụ, có lần bà nói, tôi biết ơn Chúa Giêsu đã đến sống trên mặt đất này đến độ đôi khi tôi cảm thấy muốn quỳ xuống hôn đất, chỉ vì chân của Chúa đã chạm đến nó.” 

Trên mộ bia của bà Dorothy ở Staten Island, hai chữ đi liền với tên của bà là: Deo Gratias, đó là “Tạ ơn Chúa.”  Chính bà đã yêu cầu khắc dòng chữ này. 

Câu chuyện của bà Dorothy đã dẫn chúng ta đến câu chuyện của mười người phong hủi trong bài Phúc Âm hôm nay vì câu chuyện của bà nhấn mạnh đến hai điểm quan trọng về sự biết ơn. 

Thứ nhất, nó phải chân thành.  Thứ hai, nó phải được thành tâm bày tỏ.  Thái độ biết ơn người vô gia cư của bà Dorothy vì họ đã dạy bà cách giữ ấm thân thể, và bà biết ơn Chúa Giêsu vì đã xuống thế làm người, cả hai đều chân thành và được thành tâm bày tỏ. 

Trong Phúc Âm hôm nay sự biết ơn của chín người phong hủi không trở lại cám ơn có lẽ thành tâm.  Chúng ta không biết. 

Nhưng chúng ta biết chỉ có một người trở lại bày tỏ sự biết ơn trong một phương cách chân thành.  Ông ta phủ phục dưới chân Chúa Giêsu. 

Một lớp học sinh trung học đang chuẩn bị thảo luận về bài Phúc Âm hôm nay.  Để bắt đầu, thầy giáo yêu cầu họ trả lời trên giấy hai câu hỏi sau:
Thứ nhất, đã bao lâu bạn chưa cám ơn cha mẹ vì điều gì đó?
Thứ hai, bạn cám ơn các đấng vì điều gì? 

Tôi muốn chia sẻ với các bạn hai câu trả lời của hai học sinh.  Câu trả lời thứ nhất viết: 

Lần sau cùng tôi nhớ đã cám ơn cha mẹ vào khoảng một tuần trước đây.  Tôi cám ơn mẹ tôi đã giúp tôi làm bài tập.  Tôi nhớ là bà đã tốn vài giờ đồng hồ.  Một tuần sau khi tôi đã nộp bài, bà còn đem về nhà các tài liệu liên quan đến đề bài và nói, “Những cái này cốt để cho con biết thêm.”

 Câu trả lời của học sinh thứ hai như sau: 

Tôi nhớ lần sau cùng cám ơn cha mẹ thì cách đây vài tuần.  Tôi sửa soạn đi chơi tối thứ Bẩy và để cha tôi ở nhà một mình, vì mẹ tôi đã từ trần hồi mùa hè qua.  Trước khi rời nhà, tôi đến với ông và đặt tay lên vai ông một cách thân mật.  Tôi không nói gì, nhưng tôi biết ông hiểu là tôi cám ơn ông vì đã cho phép tôi đi chơi. 

Tôi không biết các bạn nghĩ sao, nhưng tôi thấy hai câu trả lời này thật cảm động. 

Cả hai trường hợp, sự biết ơn của các học sinh thật chân thành.  Và trong cả hai trường hợp, sự biết ơn được bầy tỏ trong một phương cách nồng hậu và thành tâm. 

Điều đó đưa chúng ta đến việc cử hành Thánh Lễ hôm nay. 

Các câu chuyện của bà Dorothy Day, của các học sinh, và mười người phong hủi đã mời gọi chúng ta kiểm điểm lại thái độ biết ơn của chúng ta và cách bày tỏ sự biết ơn ấy. 

Thí dụ, có một chi tiết đáng kể trong câu chuyện Phúc Âm khiến chúng ta phải để ý.  Đó là nhận xét của Chúa Giêsu về người phong hủi trở lại cám ơn lại là người Samaritan. 

Qua chi tiết này, Chúa Giêsu muốn nói chín người kia là Do Thái.  Có thể nói, họ là người đồng hương của Chúa.  Bạn mong đợi họ tỏ lòng biết ơn nhau, nhưng họ đã không làm như vậy. 

Điều này cũng thường đúng với chúng ta.  Khi cần phải biết ơn gia đình, chúng ta thường cho đó là hành động đương nhiên khỏi phải nói lên.  Và, thật không may, chúng ta cũng thường hành động như vậy khi đối với Thiên Chúa.

 Có người nói khi coi sự biết ơn là đương nhiên – không bày tỏ ra bên ngoài – thì cũng giống như chúng ta nháy mắt ra hiệu cho nhau trong bóng tối.  Bạn biết khi bạn nháy mắt với họ, nhưng họ không thấy điều đó. 

Và vì thế, khi chúng ta trở về với bàn thờ, có lẽ chúng ta cần dành thời giờ để cảm tạ Thiên Chúa vì đã sai Con của Người xuống trần gian. 

Và chúng ta có thể tỏ lòng biết ơn qua việc cử hành Thánh Lễ một cách sốt sắng, một cách thành tâm.

Chúng ta hãy kết thúc bài giảng hôm nay với lời của Ngôn Sứ Isaia:

 “Hãy cảm tạ Thiên Chúa!…
Hãy nói với mọi dân tộc về những điều Người đã thực hiện.
Hãy nói với họ Người thật vĩ đại dường bao!
Hãy hát lên ca tụng Thiên Chúa vì những việc trọng đại Người đã thực hiện.”
Is 12:4-5 

Lm. Mark Link, S.J.

From: Langthangchieutim


 

QUẤY RẦY- Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần!”.

“Hãy cứ gõ cửa, ngay cả khi trời dường như im lặng – đôi khi, im lặng là cách Thiên Chúa mở cửa từ bên trong. Đức tin dám quấy rầy Thiên Chúa là đức tin làm Ngài vui lòng nhất!” – F.B. Meyer.

Kính thưa Anh Chị em,

Như vậy, Thiên Chúa là Đấng thích được quấy rầy? Đúng thế, dụ ngôn Tin Mừng hôm nay chứng thực điều đó: người bạn bị ‘quấy rầy’ giữa đêm khuya chính là Ngài!

Sau khi dạy các môn đệ kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu tiếp tục nhấn mạnh đến niềm tin và sự kiên trì. Dụ ngôn nói lên mức độ gắn bó thân tình mà người cầu nguyện cần có đối với Thiên Chúa – vừa là Cha, vừa là Bạn. Trừ khi đó là một người bạn rất thân, chúng ta mới dám gõ cửa giữa khuya để xin một ít bánh; và dù thân đến đâu, chúng ta vẫn ngần ngại vì sợ làm phiền. Nhưng trong câu chuyện này, điều tuyệt vời là Thiên Chúa lại vui vì sự ‘quấy rầy’ ấy! “Thiên Chúa yêu thích lời cầu nguyện không chịu buông!” – E.M. Bounds.

Thiên Chúa muốn chúng ta nài xin không ngơi nghỉ, vì đó là dấu chỉ của một tình yêu tin tưởng. Kiên trì cầu nguyện và không bao giờ nghi ngờ lòng quảng đại của Ngài, chúng ta sẽ nhận được mọi điều tốt lành từ Ngài. Dĩ nhiên, nếu cầu xin vì ích kỷ hay trái với ý muốn của Chúa, thì mọi lời khẩn nguyện trên thế gian cộng lại cũng trở nên vô hiệu. “Những lời đáp của Thiên Chúa luôn khôn ngoan hơn những lời cầu của chúng ta!” – Oswald Chambers. Thế nhưng, khi cầu nguyện trong tinh thần của Kinh Lạy Cha – nghĩa là hướng lòng về Danh Chúa, Nước Chúa và Ý Chúa – chúng ta có thể tin chắc, mọi lời cầu ấy đều sinh hoa trái, mang lại những quà tặng tốt lành nhất. “Phúc thay người đặt tin tưởng nơi Chúa!” – Thánh Vịnh đáp ca. Malakia khẳng định, “Đối với các ngươi là những kẻ kính sợ Danh Ta, mặt trời công chính sẽ mọc lên, mang theo các tia sáng chữa lành bệnh!” – bài đọc một.

Anh Chị em,

Cầu nguyện không chỉ là lời nói, nhưng là hành vi của lòng tin. Ai dám ‘quấy rầy’ Thiên Chúa, người ấy tin rằng Ngài luôn lắng nghe, dù trời có vẻ im lặng. Trong thinh lặng đó, Thiên Chúa không khước từ, nhưng đang chuẩn bị – mở từ bên trong – để ban điều tốt hơn. Mỗi lần chúng ta gõ cửa, Ngài mở thêm một chút – không chỉ cánh cửa ân sủng, mà còn cánh cửa lòng của mỗi người, để chúng ta học biết tin, biết chờ, và biết yêu. Hãy cứ gõ, vì chính khi gõ, bạn và tôi được biến đổi! Chớ gì chúng ta dám đến ‘làm cho Ngài vui’ với những tréo ngoe, khổ đau trong cuộc sống từ gia đình, con cái, cộng đoàn… đến sức khoẻ, công việc, và cả những đam mê, tính hư nết xấu; thậm chí cả những tội lỗi! “Thiên Chúa không bao giờ mệt vì bị nài xin – Ngài chỉ buồn khi bị lãng quên!” – Carlo Carretto.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, dù trời có vẻ im lặng, con vẫn gõ. Vì con tin, trong thinh lặng ấy, Ngài đang mở từ bên trong và con sẽ được biến đổi!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

***********************************************

Lời Chúa Thứ Năm Tuần XXVII Thường Niên,

Anh em cứ xin thì sẽ được.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 11,5-13

5 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói : ‘Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, 6 vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả’, 7 mà người kia từ trong nhà lại đáp : ‘Xin anh đừng quấy rầy tôi : cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được.’ ? 8 Thầy nói cho anh em biết : dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó.

9 “Thế nên Thầy bảo anh em : anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. 10 Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. 11 Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó ? 12 Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp ? 13 Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao ?”