HƯỚNG LÒNG VỀ TRỜI CAO

HƯỚNG LÒNG VỀ TRỜI CAO

Tác giả: Huệ Minh

Lễ Thăng Thiên Năm B

Cv 1, 1-11; Ep 1, 17-23; Mc 16, 15-20

Mở lại những trang thơ của nhà thơ Hàn Mạc Tử, ta bắt gặp bài thơ : “Những giọt lệ”:

Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi!

Bao giờ tôi hết được yêu vì

Bao giờ mặt nhật tan thành máu

Và khối lòng tôi cứng tợ si??

Họ đã xa rồi không níu lại

Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa….

Người đi một nửa hồn tôi mất

Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.

Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?

Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?

Sao bông phượng nở trong màu huyết

Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?

Tâm tình sao mà da diết quá !

Người đi một nửa hồn tôi mất

Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.

Người đi thì mặc kệ người đi chứ có mắc mớ gì đến ta, dính dáng gì đến ta mà hồn ta bỗng dại khờ ?

Nói như thế, ắt hẳn không thỏa đáng bởi lẽ là con người, bên cạnh lý trí, con người còn có những cảm xúc, tình cảm hết sức đặc biệt. Nhất là với những người thân quen, những ai đã hơn một lần gặp gỡ, hơn một lần sống chung, làm việc chung. Đặc biệt với người mà mình thương mến, khi xa cách sẽ có một cảm xúc khó tả và thật khôn lường.

Với những lẽ như vậy, ta hiểu được phần nào tâm trạng của các môn đệ khi xa cách Thầy mình. Khi chứng kiến cảnh Thầy lên trời, lòng cứ lâng lâng, cứ bâng khuâng nhìn mãi. Đang lâng lâng, đang bâng khuâng đó thì bỗng có hai người mặc áo trắng đứng gần các ông và nói rằng: “Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Ðức Giêsu, Ðấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời”.

Tiếc thương cũng rồi ! Đành thôi đã lên trời ! Còn đâu, ước mơ gì cũng thế !

Nếu ta là các môn đệ, ta cũng tiếc nuối, cũng nhớ nhung, cũng bâng khuâng nuối tiếc vì sự ra đi của Thầy Chí Thánh.

Nhìn vào cuộc đời các môn đệ, ta bắt gặp được những tình cảm hết sức tự nhiên, rất thật của con người. Các môn đệ tiếc nuối đó, đau đớn đó nhưng rồi nhờ ơn Chúa Thánh Thần, nhờ Đấng Bảo Trợ mà Chúa Giêsu hứa sẽ gửi đến đã đồng hành, đã cùng hoạt động nơi các ông. Các môn đệ tưởng chừng như mất phương hướng, tưởng chừng như buông xuôi đó nhưng lại mãnh mẽ lên đường để loan tin mừng Phục Sinh cũng như loan tin rằng Chúa đã lên trời để gọi là dọn chỗ cho những ai muốn đi theo Ngài.

Biến cố lên trời thật sự là một biến cố mất mát dưới cái nhìn của trần gian, dưới cái nhìn của tình cảm con người nhưng việc Chúa Giêsu lên Trời “có lợi hơn cho anh em” như Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ. Hẳn nhiên không ở lại mãi ở dưới đất với các môn đệ được. Và nếu cứ ở mãi dưới cái cõi nhân gian này thì cũng chẳng có gì để bàn, để nói cả.

Đọc và suy mầu nhiệm thứ hai trong mầu nhiệm Mân Côi mùa Mừng như thế này : Thứ hai thì gẫm Đức Chúa Giêsu lên Trời, ta hãy xin ái mộ những sự trên Trời ! Lời gẫm, lời xin ấy xem ra đơn giản nhưng thật sự là khó bởi lẽ ái mộ thì ai cũng có thể ái mộ bằng lời nói, bằng cái miệng của mình nhưng để sống mầu nhiệm Nước Trời không phải là chuyện giản đơn.

Thật khó khi ta sống trong cái thân phận làm người mà Chúa lại mời gọi ta hướng lòng về Trời cao mà Trời cao đó chưa ai thấy, chưa ai nếm, chưa ai biết cả. Có chăng chỉ biết qua lời mà Thiên Chúa nói nơi Đức Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa, là Con Một của Thiên Chúa mà thôi.

Lời của Chúa Giêsu, sứ mạng của Chúa Giêsu khép lại ở trần gian nhưng đã mở ra một cửa ngõ khác là cửa ngõ về trời. Như Chúa Giêsu đã hứa là Chúa đi và dọn chỗ cho chúng ta. Chính vì vậy, ta lại hoàn toàn tin tưởng và lại ngong ngóng hướng về Trời cao, nơi Chúa đã dọn sẵn cho mỗi người chúng ta.

Quả thật là khó khi ta sống trong cái thân xác này mà lại đòi hỏi lòng hướng về Trời. Quá khó để sống tâm tình đó vì lẽ trong ta mãi mãi có sự giằng co của sự thiện và sự ác, giằng co của cái bám víu vào thực tại trần gian và cái làm cho ta bay bổng lên cùng Thiên Chúa.

Ta thấy, như cánh diều biếc, càng nhẹ nhõm thì càng dễ vút lên trời. Ngược lại, con diều nặng nề sẽ không dễ dàng hay dù có lên trời đi chăng nữa cũng sẽ chòng chành và sẽ dễ rớt.

Nghĩ về con diều, nhớ về con diều để ta nhìn đến phận người của chúng ta. Cuộc đời của chúng ta cũng như những cánh diều biếc như vậy. Càng nhẹ nhõm, càng thanh thoát thì ta càng dễ đến gần Chúa và ở bên Chúa hơn.

Nhìn vào cuộc sống, đôi khi ta mãi mê thế sự trần gian nhưng ta quên điều chắc chắn của đời người đó chính là ai ai trong chúng ta không thể nào thoát ra khỏi cái chết. Chính cái chết đã bắt buộc ta phải bỏ lại những cái gì mà ta từng trân quý, ta từng ấp ủ trong đời, ngay cả người mà ta gọi là cha, là mẹ, là vợ, là chồng, là con cái … những người thân thương. Yêu lắm, thương lắm, nhớ lắm nhưng buộc lòng ta phải để lại chứ không ai có thể mang theo được. Và, dù người còn lại có yêu ta cỡ nào đi chăng nữa cũng không thể nào đi theo ta hay níu kéo ta được.

Thực tế là ta phải khép cuộc đời ta ở trần gian này tùy theo thánh ý Chúa cho ta sống bao nhiêu năm trên trần gian. Khi ta khép cuộc đời ở trần gian này ta bước qua ngưỡng cửa khác, ngưỡng cửa mới đó chính là ngưỡng cửa Nước Trời.

Nước Trời thật ra cũng dễ vào nhưng cũng rất ư là khó vào bởi lẽ Chúa Giêsu đã hơn một lần nói cho ta biết là phải vào cửa hẹp mới vào được Nước Trời, phải bỏ của cải thế gian, phải làm tôi Thiên Chúa, phải đáp ứng được những đòi hỏi của Nước Trời.

Ngày hôm nay, mừng kỷ niệm biến cố Chúa Giêsu lên Trời, ta không được dừng lại ở cái nhìn của trần gian, của con người xác thịt nhưng ta xin Chúa cho lòng ta hướng lên Trời thật sự. Lòng hướng lên Trời thật sự khi và chỉ khi ta bỏ bớt những đam mê của trần gian, những quyến rũ của trần gian.

Vẫn là con người mong manh mỏng dòn và yếu đuối, chính vì thế ta lại càng cần xin ơn Chúa hơn nữa để ta bỏ đi những gì là dính bén vào đời ta làm cho ta nặng nề và khó siêu thoát. Xin Chúa thêm ơn cho ta để dù sống trong cuộc đời này nhưng lòng ta luôn hướng về Quê Trời nơi quê hương đích thực của mỗi người chúng ta.

Huệ Minh

Mục sư Rick Warren và sự Nhập cuộc của tín đồ tôn giáo.

Mục sư Rick Warren và sự Nhập cuộc của tín đồ tôn giáo.

Bài của  :  Đoàn Thanh Liêm

Tại nước Mỹ kể từ sau khi thế chiến thứ hai chấm dứt, thì có nhiều vị mục sư nổi danh với ảnh hưởng rất lớn lôi cuốn được số đông quần chúng khắp nước Mỹ và cả ở ngoại quốc nữa. Trong số này, phải kể đến mục sư Billy Graham, mục sư Martin Luther King và mục sư Rick Warren.

Billy Graham sinh năm 1918 là một vị giảng thuyết lôi cuốn đến hàng trăm triệu người khắp nước Mỹ và cả trên thế giới. Luther King là vị lãnh đạo kiệt xuất của phong trào tranh đấu dân quyền  (civil rights movement) của người Mỹ gốc Phi châu trong các thập niên 1950-60. Rick Warren là một tác giả cuốn sách “The Purpose Driven Life” (Cuộc sống có mục đích) bán chạy nhất, đến trên 30 triệu cuốn trong vòng có 6-7 năm.

Trong bài này, tôi xin viết về mục sư Rick Warren là người trẻ tuổi nhất, sinh năm 1954 tại San Jose và là người sáng lập nhà thờ Saddleback Valley Community Church tọa lạc tại thành phố Lake Forest trong Quận Cam, miền Nam California liền sát với khu Little Saigon của người Việt chúng ta. Trong bài sau, tôi sẽ viết riêng về mục sư Billy Graham. Còn về mục sư Luther King, thì đã có quá nhiều người biết đến rồi, nên tôi thiết nghĩ khỏi cần viết gì thêm về ông nữa.

1 / Tóm lược tiểu sử của Rick Warren.

Rick Warren là con của một vị mục sư và chính bản thân ông cũng đã hiến dâng trọn cuộc đời mình cho việc rao giảng Tin Mừng của Chúa Cứu thế theo truyền thống của phái Tin Lành Southern Baptist. Ông tốt nghiệp bậc cử nhân tại California Baptist University ở Riverside, bậc cao học về Thần học tại Southwestern Baptist Theological Seminary ở Fort Worth, Texas và bậc tiến sĩ về mục vụ tại Fuller Theological Seminary ở Pasadena, California.

Ông thừa nhận mục sư Billy Graham, giáo sư Peter Drucker và mục sư Jimmy Warren người cha của ông là những vị trong số những cố vấn đáng tin cậy nhất của mình (mentor).

Năm 1975, sau khi được truyền chức mục sư, Rick Warren làm lễ thành hôn với Kay Lewis sinh trưởng ở San Diego trong một gia đình có người cha cũng là một vị mục sư. Hai ông bà có 3 người con hiện đều đã trưởng thành và 4 cháu nội ngoại. Cả hai người cùng hợp tác trong việc truyền đạo và phát triển cộng đoàn tín hữu từ con số vài trăm người lúc mới thành lập tại Saddeback trong thành phố Lake Forest vào năm 1980 lên đến con số trên 20,000 tín hữu vào năm 2005. Với số tín đồ thường xuyên tham dự thánh lễ và các sinh họat rất đa dạng hàng tuần đông đảo như vậy, Saddleback Valley Community Church đã trở thành một “Megachurch” đứng hàng thứ 8 trong số trên 1,200 “đại giáo đoàn” của toàn nước Mỹ hiện nay. Megachurch là một hiện tượng tiêu biểu cho phong trào phát triển tôn giáo rất mạnh mẽ, lôi cuốn được hàng triệu tín đồ của các giáo hội Tin lành trong vòng 50 năm qua tại nước Mỹ và cả tại Đại Hàn.

Song song với việc phát triển cơ sở mục vụ này, Rick còn đóng góp rất tích cực vào việc đào tạo, hướng dẫn cho trên 400,000 mục sư và giới chức lãnh đạo hội thánh trên toàn thế giới, dựa theo tinh thần đã được phác họa trong cuốn sách xuất bản lần đầu năm 1995, được bán rất chạy, với nhan đề là “The Purpose Driven Church”.

Rick Warren lại còn nổi danh hơn nữa với cuốn sách được xếp vào loại bán chạy nhất (bestseller), mà hiện đã lên đến 30 triệu cuốn, đó là cuốn sách có nhan đề “The Purpose Driven Life”. Người viết sẽ giới thiệu chi tiết hơn về hai cuốn sách này trong một dịp khác.

Với số lợi tức thu nhập thật lớn lao do việc bán sách, vào năm 2005 Rick Warren đã hoàn lại cho nhà thờ toàn bộ số lương bổng  ông nhận được trong 25 năm với cương vị một mục sư. Và còn hơn thế nữa, ông tiếp tục đóng góp cho nhà thờ 90% số lợi tức thâu nhập của mình, thay vì số 10% mà người tín đồ thường đóng góp vào công quỹ của hội thánh, được gọi là “tithe” (thập phân).Và ông bà tiếp tục sống thanh đạm trong căn nhà nhỏ bé, với cái xe cũ kỹ, chứ không hề có một biểu hiện xa hoa nào của một gia đình triệu phú thường tình.

Nhưng điều đáng ghi nhận hơn cả về vị mục sư danh tiếng này, chính là việc ông đã tổ chức cho các tín đồ và các bạn hữu thân tín của mình tham gia dấn thân nhập cuộc với các dự án hết sức lớn lao về xã hội, y tế, giáo dục và phát triển có tầm vóc toàn cầu. Ta sẽ xem xét công việc này trong các mục tiếp theo đây.

2 / Sự gắn bó với Phi châu : Khởi sự ở Rwanda.

Sau mấy năm chuẩn bị, Rick Warren đã bắt đầu một loạt chương trình hành động của “đại giáo đoàn Saddenback” được mệnh danh là PEACE plan tại nước Rwanda là nơi có cuộc diệt chủng kinh hoàng vào năm 1994, tàn sát đến gấn một triệu sinh mạng trong một quốc gia với dân số chỉ có 9 triệu người. Chữ PEACE này ngoài ý nghĩa là Hòa bình, lại chính là chữ viết tắt của khẩu hiệu gồm 5 mục : Promote Reconciliation, Equip servant-leaders, Assist the poor, Care for the sick, Educate the next generation (Phát triển công cuộc Hòa giải, Trang bị cho người lãnh đạo-phục vụ, Giúp đỡ người nghèo khó, Chăm sóc người bệnh tật, Giáo dục thế hệ tương lai).

Vào năm 2005, tức là 11 năm sau vụ diệt chủng, Rwanda vẫn còn là một quốc gia vào loại nghèo nhất trên thế giới với 90% dân chúng có thu nhập chưa tới 2 dollars mỗi ngày. Ngay từ lúc đặt chân tới đây, Warren liền phát động ngay một chương trình hành động cấp thời gồm nhiều phương diện y tế, xã hội, giáo dục và nhất là cả kinh tế. Ông dẫn các giám đốc xí nghiệp, các doanh gia từ trong số các thành viên của cộng đoàn Saddenback đến tiếp súc và làm việc với giới doanh nghiệp và nhân viên chánh phủ Rwanda để tìm cách xây dựng nền kinh tế của xứ sở này. Họ chú trọng vào công việc đào tạo huấn luyện cho các nhà doanh nghiệp nhỏ tại các làng quê hẻo lánh, cho đến cả việc yểm trợ các dự án xây dựng hạ tầng cơ sở rất lớn lên đến nhiều triệu dollar. Điển hình như  dự án xây dựng đường sắt dài 720 miles nối liền Rwanda với Tanzania và Burundi, chi phí lên đến 2.5 tỷ mỹ kim vừa do 3 nước đó ký kết vào tháng Tư năm 2009.

Rick Warren rõ ràng là có tầm nhìn xa và có uy tín để kết hợp được cả giới lãnh đạo chánh quyền, giới doanh nghiệp tư nhân, cũng như giới lãnh đạo tôn giáo ở hạ tầng cơ sở tại những xóm làng hẻo lành, để cùng nhau thực hiện được rất nhiều dự án cụ thể về y tế đại chúng, từ việc lo chăm sóc cho hàng vạn người mắc bệnh HIV/AIDS, cho bao nhiêu trẻ mồ côi cha mẹ đã chết vì căn bệnh hiểm nghèo này, cho đến việc cấp vốn cho các gia đình nghèo túng để giúp họ phương tiện tự lực mưu sinh, để khỏi phải lệ thuộc mãi vào sự bố thí của người khác.

Phái đòan do Rick Warren hướng dẫn đã được chính Tổng thống Rwanda là Paul Kagame và tòan thể chánh phủ tín nhiệm và hợp tác rất chặt chẽ; nhờ vậy mà sau mấy năm làm việc chung với nhau, thì quốc gia này đã gặt hái được những thành quả rất đáng khích lệ về nhiều mặt kinh tế, xã hội cũng như văn hóa, ngọai giao.

3 / Quần chúng tín đồ các tôn giáo là một nguồn tiềm năng vô biên.

Trong nhiều dịp được mời tham gia các diễn đàn quốc tế như ở New York, Washington DC, ở Davos Thụy sĩ v.v…, Rick Warren đã luôn luôn trình bày rất thẳng thắn đại để như thế này :  “Trên thế giới ngày nay, chúng ta có đến trên 2 tỷ người tín đồ Thiên chúa giáo gồm Công giáo, Tin lành, Chính thống giáo, trên 1.5 tỷ người tín đồ Ấn độ giáo và Phật giáo và trên 1 tỷ người tín đồ Hồi giáo. Khối quần chúng tín đồ lớn lao như thế đó là một nguồn tài nguyên vô biên, mà cho đến nay chưa được mấy ai trong các tổ chức quốc tế chú trọng đúng mức để động viên thuyết phục họ cùng bắt tay dấn thân vào việc giải quyết những khó khăn bế tắc trầm trọng có tầm vóc tòan cầu. Riêng cá nhân tôi là một mục sư Thiên chúa giáo, thì với khả năng hạn hẹp của mình, tôi đã cùng với các tín đồ của nhà thờ Saddenback phát động kế hoạch PEACE để góp phần vào công cuộc phục vụ bà con đang gặp khó khăn ở nhiều nơi, cụ thể như ở Rwanda. Và tôi cũng ước mong quý vị tất cả nên chú ý đến cái khối tiềm năng vĩ đại này, hầu đề ra được những giải pháp tốt đẹp cho thế giới chúng ta đang gặp bao nhiêu bế tắc khủng hỏang ngày nay…”

Dịp khác, ông còn gợi ra hình ảnh tôn giáo là cái chân thứ ba để cùng hợp với khu vực nhà nước và khu vực tư nhân để tạo được thế đứng vững chắc cho tòan bộ chiếc ghế của thế giới ngày nay. Với uy tín sẵn có, Warren có dịp thường xuyên trao đổi và hợp tác với các nhân vật có tầm vóc họat động rộng rãi tòan cầu, điển hình như cựu Tổng thống Bill Clinton, cựu Thủ tướng Tony Blair …

Trong mùa tranh cử Tổng thống Mỹ năm 2008, Warren đã mời được cả hai ứng cử viên John McCain và Barak Obama cùng đến Saddenback để trình bày với cử tri về lập trường của mỗi người trước những vấn đề hệ trọng của đất nước. Và mục sư Warren lại còn được mời đọc lời kinh cầu nguyện trong buổi lễ nhậm chức của Tổng thống Obama tại thủ đô Washington vào đầu năm 2009.

Tạp chí US News and World Report xếp hạng Rick Warren là một trong “25 vị lãnh đạo hàng đầu của nước Mỹ” vào năm 2005. Tạp chí Time thì gọi ông là một trong “15 nhà lãnh đạo thế giới đáng kể nhất trong năm 2004” và cũng là một trong “100 nhân vật có ảnh hưởng nhất trên thế giới” vào năm 2005. Còn báo Newsweek trong năm 2006, thì gọi ông là một trong “15 nhân vật đã làm cho nước Mỹ trở thành vĩ đại”.

Tuy được tung hô khen tặng như vậy, Warren vẫn luôn giữ được sự khiêm cung đạo hạnh của một tu sĩ. Ông thường xuyên cầu nguyện và bày tỏ sự tin tưởng tuyệt đối vào sự dẫn dắt của Thiên chúa trên bước đường phục vụ tha nhân. Niềm xác tín và lòng nhiệt thành của ông đối với sứ mệnh rao giảng lời Chúa như vậy đã lôi cuốn, thuyết phục được hàng triệu tín đồ cũng như các mục sư khác cùng nhau dấn thân nhập cuộc vào những chương trình cụ thể, thiết thực nhằm chống lại nạn nghèo đói và bệnh tật, mở mang về giáo dục cho lớp người bị gạt ra ngòai lề xã hội và bảo vệ môi sinh trên phạm vi tòan cầu.

Tư tưởng cũng như hành động của mục sư Rick Warren quả thật là rất gần gũi với lập trường của Hội đồng Giám mục Công giáo Châu Mỹ La tinh (CELAM) đã được xác định từ lâu, đó là “Sự Chọn lựa của Giáo hội đối với Người Nghèo khổ” ( Church’s Option for the Poor) vậy./

California đầu tháng Mười 2010

Đòan Thanh Liêm

VÀO ĐỜI ĐỂ VỀ TRỜI

VÀO ĐỜI ĐỂ VỀ TRỜI

Trầm Thiên Thu

Ai cũng muốn “về trời”, nhưng không phải ai cũng thật lòng muốn “vào đời.”  Phải thực sự can đảm mới đủ sức dấn thân vào đời, vì trách nhiệm nhiều mà đau khổ cũng chẳng ít.  Nhưng phải VÀO ĐỜI rồi mới có thể VỀ TRỜI với Đức Giêsu Kitô.  Chính Ngài cũng đã vào đời và chịu nhiều đau khổ, thậm chí còn phải chết trên Thập Giá.

Là những người đi theo Ngài, chúng ta cũng không thể đi lối tắt hoặc đường khác mà về trời.  Chắc chắn như thế!  Thật vậy, trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài bảo chúng ta phải vào đời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15).  Tuy nhiên, chúng ta không lẻ loi hoặc đơn độc, vì Ngài hứa chắc: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20).  Hơn nữa, chính Đấng Bảo Trợ là Thần Chân Lý sẽ dạy chúng ta những điều phải làm (x. Ga 14:26).  Cứ an tâm mà vào đời!

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã dạy bảo các Tông Đồ mà Ngài đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần.  Ngài còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Ngài vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình.  Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà họ đã nghe Ngài nói tới, đó là: “Ông Gioan làm phép rửa bằng nước, còn họ sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (Cv 1:5).

Đã có những người “vô tư” hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” Nhưng Ngài đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7-8).  Thời đó, người ta cứ tưởng Chúa Giêsu là một chính trị gia có thể đảo chính để cướp chính quyền mà khôi phục quốc gia Ít-ra-en.  Nhưng ai cũng lầm, vì có lần Ngài đã xác định trước mặt tổng trấn Phi-la-tô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18:36).

Sau 40 ngày sống lại, Chúa Giêsu căn dặn xong, Ngài được cất lên ngay trước mặt các tông đồ, và rồi có đám mây quyện lấy Ngài, khiến họ không còn thấy Người nữa.  Đang lúc các ông còn đăm đăm ngước lên trời, nhìn theo phía Ngài đi, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời?  Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1:11).

Lên trời là một hiện tượng vô cùng lạ, các ông ngạc nhiên là điều tất yếu.  Lên trời ở đây là “về trời” chứ không phải lên trời du lịch một thời gian, cũng chẳng phải như Chú Cuội bám gốc đa bay lên cung trăng, hoặc như Táo quân cưỡi cá chép bay lên trời.  Đó chỉ là huyền thoại.  Lại càng không phải như các phi hành gia bay lên cung trăng bằng phi thuyền.  Đó chỉ là dạng lên trời không chính thức, họ lên trời nhưng không thể sống được nếu không có bình dưỡng khí.  Phải trở lại đất cho nhanh, kẻo hết dưỡng khí là chết.  Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác định với ông Ni-cô-đê-mô: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3:13).

Chúa Giêsu lên trời là sự kiện vô cùng kỳ lạ.  Các ông đã từng ngơ ngẩn khi thấy Thầy Giêsu bị người ta giết chết, tưởng thế là hết, nào ngờ Thầy phục sinh.  Hạnh phúc tràn ngập.  Nay các ông lại càng ngơ ngẩn hơn vì Thầy đi rồi, còn lâu Thầy mới trở lại, tiếc hùi hụi, nhớ ngẩn ngơ, nhưng chắc chắn các ông phải vào đời.  Và mỗi chúng ta ngày nay cũng vậy, ai cũng phải vào đời để hy vọng và mong chờ ngày về trời.

Cuộc chia tay nào cũng có phần lưu luyến, thường buồn hơn vui, nhưng khi Chúa Giêsu chia tay lại không buồn vời vợi mà lại tràn đầy niềm hy vọng.  Ngài về trời là dấu chỉ cho biết chắc chắn chúng ta cũng được về trời.  Vậy là vui chứ không buồn.  Tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi!  Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo!  Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3).

Chúa Giêsu thăng thiên, Ngài về trời, nơi Ngài đã xuất phát, chúng ta vui mừng khôn tả, tác giả Thánh Vịnh mô tả là “rộn rã tiếng hò reo, vang dội tiếng tù và, đàn ca kính mừng Ngài.”  Nhưng cuộc sống đôi khi không êm đềm như thảm lụa, nên chúng ta luôn phải tiếp tục động viên nhau: “Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ.  Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:8-9).

Trước khi về trời, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15).  Đó không chỉ là lời căn dặn, là lời người ra đi, mà còn là mệnh lệnh – tức là điều phải thực hiện bằng mọi giá.  Ngài vừa hứa hẹn vừa cảnh báo: “Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án” (Mc 16:16).  Đó là hệ lụy tất yếu chứ không là sự hù dọa.

Đức tin rất quan trọng, tạo nên sức mạnh vô song, tạo nên điều kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng của loài người.  Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác nhận: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ.  Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc cũng chẳng sao.  Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh thì những người này sẽ được mạnh khoẻ” (Mc 16:17-18).  Thực tế cũng đã và đang có những người làm được như vậy, đó là tặng phẩm mà Thiên Chúa trao cho ai thì người đó phải biết sử dụng hợp lý.  Ai cũng có một tặng phẩm, người được tặng phẩm này, kẻ được tặng phẩm khác, có người được hai hoặc ba tặng phẩm, cũng như kẻ được một nén, ba nén, năm nén, nhưng dù nhiều hay ít cũng chỉ là để làm sáng danh Thiên Chúa, chứ không phải để cậy mình hoặc nhắm tư lợi nào đó.

Thánh sử Mác-cô cho biết: “Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.  Còn các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16:19-20).  Rõ ràng, Chúa Giêsu về trời rồi thì các ông đã vào đời, làm chứng về Đức Giêsu Kitô “ba-trong-một”, với ba sự kiện: Chịu chết trên Thập Giá, phục sinh và lên trời.

Vào đời như thế nào?  Thánh Phaolô cho biết về phong cách vào đời: “Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tuỳ theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người.  Được ơn làm ngôn sứ thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin.  Được ơn phục vụ thì phải phục vụ.  Ai dạy bảo thì cứ dạy bảo.  Ai khuyên răn thì cứ khuyên răn.  Ai phân phát thì phải chân thành.  Ai chủ toạ thì phải có nhiệt tâm.  Ai làm việc bác ái thì vui vẻ mà làm” (Rm 12:6-8).  Mỗi người mỗi việc, mỗi người mỗi hoàn cảnh và trình độ khác nhau, mỗi người là một các chi thể khác nhau nhưng vẫn chung một Nhiệm Thể Đức Kitô.  Tất cả các chi thể phải đồng tâm nhất trí, cùng hợp lại để phát triển Nhiệm Thể Thánh.

Thánh Phaolô nói thêm về phong cách vào đời: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ.  Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa.  Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện.  Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà” (Rm 12:9-13).  Được vậy thì thật hạnh phúc cho chúng ta, và Thiên Chúa cũng vui mừng vì Ngài được tôn vinh nơi chính mỗi người chúng ta.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết “ái mộ những sự trên trời” bằng cách sống nhân bản, nên hoàn thiện hàng ngày, chứng tỏ sự sống dồi dào của Đức Kitô qua việc thể hiện lòng thương xót với mọi người, nhất là đối với những người hèn mọn.  Xin Đức Maria và Đức Thánh Giuse hướng dẫn chúng con biết đi đúng lối về trời và đưa chúng con đến đích thật.  Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

Trầm Thiên Thu

CHỨNG TỪ VÀ VIỆC RAO GIẢNG

CHỨNG TỪ VÀ VIỆC RAO GIẢNG

Cha Mark Link, S.J.

Một vị tuyên uý quân đội người Mỹ vừa giảng một bài cho các binh sĩ Mỹ trong một thánh lễ tại một giáo đường ở Châu Âu.  Chủ đề của bài giảng là: “Hãy tự hào về đức tin công giáo của bạn; Đừng xấu hổ khi phải công khai tuyên xưng nó.

Sau thánh lễ, một lính thủy do rất xúc động vì bài giảng đã chận vị tuyên uý ngay trước cửa giáo đường và hỏi; “Thưa cha, cha có bằng lòng nghe con xưng tội không?”  Vị tuyên uý trả lời: “Tôi rất sung sướng được nghe anh xưng tội.”  Thế là chàng lính thủy quì ngay xuống lối đi bên cạnh ngay trước giáo đường.  Vị tuyên uý vội nói; “Đừng quì gối kẻo thiên hạ nhìn kìa!”  Chàng lính thủy đáp lại: “Kệ họ, thưa cha, cứ để họ nhìn, con hãnh diện về đức tin của con.”

*********************************

Tinh thần làm chứng nhân của anh lính thủy quả là hơi “quá” nhiệt tình, nhưng chắc chắn anh đã có một ý nghĩ đúng đắn.  Trong bài đọc thứ nhất hôm nay, Chúa Giêsu bảo các môn đệ “Các ngươi sẽ làm chứng cho Ta đến tận cùng trái đất.”  Lệnh truyền của Chúa Giêsu bao hàm tất cả chúng ta, qua Bí Tích Rửa tội, Thêm sức, tất cả chúng ta đều được kêu gọi làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.  Nhưng Bí tích Rửa tội và Thêm sức còn đòi hỏi chúng ta đi xa hơn, chúng yêu cầu chúng ta nhiều hơn nữa.  Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Hãy công bố Tin Mừng cho mọi tạo vật.”  Đó cũng là điều mà tất cả chúng ta phải thi hành.

Việc công bố Tin Mừng về Chúa Giêsu không dành riêng cho các linh mục hay các tu sĩ.  Đó là bổn phận mà tất cả chúng ta đều phải thực hiện sau khi đã nhận lãnh phép Rửa tội và Thêm sức.  Điều này gợi lên một vấn nạn: Một người trung bình có thể rao giảng như thế nào về Chúa Giêsu trong thế giới hôm nay?

Tôi xin chia sẻ với quí vị câu chuyện nói về cách thế mà một người đã dùng để trả lời cho câu hỏi ấy.

Ruddell Norris là một chàng trai cần mẫn.  Chỉ tội chàng ta nhút nhát.  Nói chuyện với kẻ khác chàng đã thấy là khó khăn rồi, huống chi phải bàn chuyện tôn giáo với họ.  Thế rồi một ngày kia chàng nảy ra một ý kiến.  Ruddell đọc sách khá nhiều và chàng biết có nhiều cuốn sách nói về đức tin công giáo.  Vì vậy chàng quyết định dành riêng một phần tiền tiết kiệm hàng tuần để mua những cuốn sách ấy.  Ruddel để những cuốn sách ấy ở những nơi mà chàng nghĩ người ta thường cầm chúng lên đọc.  Chẳng hạn, ở những phòng chờ đợi và tiếp khách.

Một hôm, một thiếu phụ vốn là bạn của gia đình chàng kể cho cha mẹ chàng biết cô ấy đã trở lại đạo thế nào và chồng cô đã trở về với Giáo hội thế nào.  Cô nói: “Tất cả bắt đầu do một quyển sách nhỏ mà tôi đã tìm thấy tại phòng chờ đợi ở bệnh viện.”  Anh chị em có thể tưởng tượng được chàng trai đã phấn khởi biết bao khi biết được tầm ảnh hưỏng mà chỉ một trong những tập sách nhỏ của chàng đã tạo ra.

*********************************

Câu chuyện của Ruddell Morris nhấn mạnh một điều quan trọng trong việc công bố Tin Mừng:  Có nhiều cách để công bố Tin Mừng.  Chúng ta có thể công bố một cách trực tiếp như Ruddell đã làm.  Hoặc “công bố” một cách gián tiếp, chẳng hạn bằng lời cầu nguyện hoặc giúp đỡ tài chính cho các hoạt động truyền giáo của Giáo hội.

Lễ Thăng Thiên là một trong những lễ quan trọng nhất của toàn năm phụng vụ.  Đó chính là lý do khiến chúng ta mừng lễ Thăng Thiên với hình ảnh chuyền gậy từ vận động viên này tới vận động viên khác trong một số cuộc chạy đua tiếp sức.

Cũng ngay này, cách đây hơn 2000 năm, Đức Giêsu đã chuyền chiếc gậy tượng trưng công việc của Ngài cho các môn đệ để các môn đệ tiếp tục chuyền đi.  Chúng ta có thể tiếp tục công việc ấy bằng cách làm chứng cho đức tin của mình như anh lính thủy kia đã làm và công bố đức tin ấy cho kẻ khác như Ruddell đã làm.  Đây là một trách nhiệm hai mặt mà lễ Thăng Thiên đặt ra cho chúng ta.  Mỗi người chúng ta phải chu toàn trách nhiệm này theo cách thức mà Chúa Thánh Thần linh ứng cho từng người.

Để kết thúc, chúng ta hãy nhắc lại những lời Đức Giêsu truyền dạy cho các môn đệ Ngài trong bài giảng trên núi.  Chúng có một ý nghĩa đặc biệt đối với chúng ta trong ánh sáng của ngày lễ hôm nay.

Các con là muối ướp cho mọi người, nếu muối nhạt, thì chẳng còn cách gì làm cho nó mặn lại được, nó trở thành vô dụng, chỉ còn nước ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.

Các con là ánh sáng cho toàn thế giới, là một thành phố xây trên một ngọn đồi nên không thể giấu được….

Cũng thế, ánh sáng các con phải sáng lên trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời” (Mt 5: 13-16)

Cha Mark Link, S.J.

http://www.nguoitinhuu.org

Đức Giáo hoàng: Hãy mang chính trị vào các giáo xứ

Đức Giáo hoàng: Hãy mang chính trị vào các giáo xứ

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2015-05-10

Audio: Đức Giáo hoàng: Hãy mang chính trị vào các giáo xứ Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

000_Hkg8382406.jpg

Bức chân dung Giáo Hoàng Francis tại cổng chính của một nhà thờ ở Hà Nội hôm 15/3/2013

AFP photo

Your browser does not support the audio element.

Trong một lần trả lời về việc dấn thân của người tu sĩ trong giáo hội, Đức Giáo hoàng Phan Xi Cô nói rằng “Nếu Chúa gọi anh chị em trên con đường này thì xin anh chị em lên đường, hãy làm chính trị dù con đường này có thể làm anh chị em đau khổ”.

Giáo hội Công giáo Việt Nam đã đem giáo huấn của Đức Giáo Hoàng vào đời sống như thế nào và liệu câu hỏi người tu sĩ không nên làm chính trị có còn đứng vững hay không? Mặc Lâm phỏng vấn linh mục An Tôn Lê Ngọc Thanh, thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn.

Mặc Lâm: Thưa Linh mục, xin ông cho biết giáo huấn của Đức Giáo Hoàng về việc dấn thân trong đời sống chính trị có được áp dụng vào mục vụ của giáo hội Công giáo Việt Nam hay không và các tu sĩ thực hiện giáo huấn này cụ thể như thế nào?

LM Lê Ngọc Thanh: Về mặt giáo huấn chung của Giáo hội tôi xin được nói cái giáo huấn gần nhất của giáo hội đó là thông điệp “Niềm vui tin mừng” của Đức Giáo hoàng Phan xi cô vừa ban hành cách đây hơn một năm. Trong chương IV ngài nói rất rõ những việc phải dấn thân trong xã hội. Ngài chỉ ra hàng loại những vấn đề rất cụ thể và ngài bảo rằng tôi muốn một giáo hội lem luốc trên đường phố với người nghèo hơn là ẩn mình trong sự an toàn giả tạo. Và ngài bảo rằng cần phải cơ cấu lại, không phải bài giảng đâu, mà cần thiết thì phải cơ cấu lại giáo xứ để làm sao đáp ứng được nhu cầu đó và ngài nhấn mạnh rằng việc phục vụ cộng đồng, xã hội trong tư cách là một chính trị gia của giáo dân nó là một việc bác ái cao cả hơn cả bởi vì nếu việc bác ái bình thường chỉ giúp được một hai người, còn một vị chính trị gia làm việc nghiêm túc, công minh thì sẽ giúp cả một cộng đồng xã hội hàng ngày cứu giúp giáo dân.

Mặc Lâm: Có phải vì thế mà nhiều bài giảng thuộc DCCT gần đây đã không ngại nêu bật những khiếm khuyết của xã hội lẫn chính quyền và trong một chừng mực nào đó đã gây cảm hứng mới cho giáo dân. Xin linh mục cho biết những bài giảng như thế có được sự đồng thuận từ giáo hội hay không?

LM Lê Ngọc Thanh: Trước tiên thì tôi phải khẳng định rằng là bài giảng nơi tòa giảng trong nhà thờ luôn xuất phát từ lời Chúa chứ không phải tùy ý do sở thích của một linh mục hay của một nhóm một cộng đoàn riêng lẻ  nào đó. Cái đó không thuộc phạm vi tự quyết của cá nhân một linh mục hay của một cộng đoàn như Dòng Chúa cứu thế mà đây là sứ điệp của Chúa trong hội thánh được công bố hàng tuần. Chúng tôi công bố lời Chúa vì chính lời Chúa xuất phát từ trong một cộng đồng xã hội cụ thể và quay lại áp dụng cho một cộng đồng cụ thể với những vấn đề mà chúng ta không thể im lặng, với những vấn đề chúng ta không thể cho qua.

Những vấn đề mà anh em DCCT thật ra không nằm ngoài lề giáo hội mà triển khai những vấn đề của giáo hội mà có thể nhiều cha xứ khác, ở nhiều nơi khác, vì lý do mục vụ cụ thể hoặc là vì sự đơn độc khi ở một mình có thể dễ dàng bị tấn công, bị trả thù nên các ngài khôn khéo hơn, cẩn thận hơn trong cách nói công khai trên tòa giảng. Nhưng có thể nói một điều chắc chắn như thế này là ở lúc gặp gỡ và chia sẻ với giáo dân tất cả các linh mục đều nói rõ về bản chất dấn thân cho xã hội của Giáo hội Công giáo mà không ngoại trừ DCCT.

Mặc Lâm: Phản ứng của giáo dân đối với giáo huấn mới của Đức Thánh Cha có tích cực lắm hay không trong bối cảnh o ép hiện nay tại Việt Nam và sau những bài giảng sống động trong nhà thờ giáo dân có phản ứng như thế nào?

LM Lê Ngọc Thanh: Tôi lấy kinh nghiệm ở Thái Hà ở Hà Nội và Đền Đức mẹ hằng cứu giúp ở Sài Gòn để chúng ta thấy.

” Ban đầu thì giáo dân hơi sợ hãi nhưng sau khi nghe giảng xong thì giáo dân nói với chúng tôi rằng chúng con chỉ sợ rằng là đang thánh lễ hay sau thánh lễ họ sẽ vô bắt các cha.
– LM Lê Ngọc Thanh”

Ban đầu thì giáo dân hơi sợ hãi nhưng sau khi nghe giảng xong thì giáo dân nói với chúng tôi rằng chúng con chỉ sợ rằng là đang thánh lễ hay sau thánh lễ họ sẽ vô bắt các cha. Ban đầu là như vậy nhưng dần dần họ thấy và nói với chúng tôi rằng đây là điều mà họ chỉ nghe được ở đây. Họ là những người thuộc nhiều giáo xứ khác cứ canh giờ lễ đó mà đến để được hiệp thông, cầu nguyện để được nghe giáo huấn.

Tôi thấy rằng ít nhất là vào buổi lễ Công Lý Hòa bình vào 8 giờ tối Chúa nhật cuối tháng, một thánh lễ quy tụ trên 3.000 người ở tại Sài Gòn và Hà Nội cũng vậy.

Có đến 80% người tham dự là những người biết rõ và họ chủ động tìm đến để được giáo huấn theo cách như vậy chứ không phải chỉ đi lễ như một giáo dân bình thường vào ngày Chúa Nhật.

Mặc Lâm: Xin linh mục cho biết những hoạt động dấn thân, những bài giảng thiết thực với đời sống rõ ràng là đụng đến vấn đề mà nhà nước cho là nhạy cảm. Chính quyền đã có những hành động nào để ngăn chặn hay cản trở hay không?

LM Lê Ngọc Thanh: Trước đây khi chúng tôi bắt đầu những chia sẻ như vậy với giáo dân thì họ dùng những tờ truyền đơn dán vào các cột điện, gốc cây trong khu vực nhà thờ. Họ rải trong sân nhà thờ, họ rải trong khu xóm, trong quán ăn để nói xấu và lên án các cha. Họ không dừng lại ở việc lên án về nội dung bài giảng, họ bắt đầu vu khống kể cả việc dựng đứng lên họ nói đó là đời sống vô đạo đức của các cha như vậy.

Riêng đối với nhà cầm quyền thì có một lần họ đã chất vấn về tính hợp pháp của website chúng tôi, còn về tòa giảng thì họ chỉ nói với cá nhân linh mục này, với cá nhân cha kia để gây sự chia rẻ trong nội bộ của anh em chúng tôi và cũng có dùng nhóm giáo dân này nhóm giáo dân kia chống lại nhau. Nhưng có thể nói rằng là những tác động giảm dần và đến bây giờ không còn tác động gì nữa cả.

Mặc Lâm: Xin cám ơn linh mục Lê Ngọc Thanh.

YÊU NHƯ THẦY YÊU

YÊU NHƯ THẦY YÊU

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

( Ga 15, 9-17)

Chúa nhật thứ VI Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ lại lệnh Chúa Giêsu truyền trước khi về Trời. Quả thật : nếu chúng ta muốn về Trời với Chúa như lời hứa “Thầy đi dọn chỗ cho các con” (Ga 14, 2), người kitô hữu cần phải vâng theo lệnh Chúa truyền là “các con hãy yêu mến nhau” (Ga 15, 12).

Tôi tự hỏi, phải chăng con người dùng những tình cảm tự nhiên để yêu như bạn bè yêu nhau, cha mẹ yêu thương con cái, đồng lớp đồng niên mến thương nhau, hay hai người nam nữ yêu nhau là chưa đủ hay là khác với tình yêu Chúa Giêsu đã yêu chúng ta sao mà Đức Giêsu còn dạy chúng ta phải : Yêu như Thầy đã yêu ?

Vậy, “yêu như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào, có gì mới mẻ chăng ? Xem ra chữ “như” có chất chứa hy sinh khi yêu, có nét mới mẻ và đáng sợ, vì chính chữ này làm nên nét đặc trưng của Kitô giáo. Thánh Augustinô viết : khi nói “yêu như Thầy đã yêu mến các con” là Chúa Giêsu nói đến tình yêu thí mạng : “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 14, 13). Quả thật, chết vì bạn hữu là hành vi lớn nhất của tình yêu. Chúa Giêsu nói với các môn đệ : “Các con là bạn hữu” (Ga 14, 14). Chúa đã yêu các môn đệ nói riêng và con người nói chung bằng tình yêu thí mạng. Nay Người đòi buộc các môn đệ, cụ thể là chúng ta phải yêu nhau như Chúa yêu. Tình yêu mà Chúa Giêsu yêu chúng ta phát xuất từ Chúa Cha : “Như Cha đã yêu Thầy, Thầy cũng yêu các con” (Ga 14, 9). Như vậy là có một nguồn suối tình yêu chảy tràn từ Chúa Cha đến Đức Giêsu, và tiếp tục chảy tràn xuống các môn đệ, dòng suối ấy không ngừng chảy trên chúng ta, nếu chúng ta giữ lại, tình yêu đó sẽ trở nên ao tù nhơ nhớp, nên chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta. Vậy đâu là bằng chứng để chứng tỏ chúng ta yêu Chúa ? Chúa Giêsu cho chúng ta câu trả lời, “Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người” (Ga 15, 10). Yêu như Thầy yêu là thế đấy.

Thánh Augustinô nói tiếp : “Yêu như Thầy đã yêu các con“, khác với lòng mến tự nhiêu thuần túy. Thánh Gioan Tông Đồ viết : “Thiên Chúa là Tình Yêu… hễ ai thương yêu, thì đã sinh bởi Thiên Chúa… Còn ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa” (1 Ga 4, 7 – 8). Gioan quả quyết : “Thiên Chúa đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta” (1 Ga 4, 10).

Chúng ta thấy, cuộc sống cần tình yêu, nhân loại cần tình yêu, mỗi người sống trong cuộc đời này đều cần tình yêu và rất cần tình yêu. Có thể nói, tình yêu là lẽ sống, là niềm hạnh phúc, là sự bình an của tất cả mọi người không trừ ai. Nên có bao nhiêu tiểu thuyết là có bấy nhiêu chuyện tình. Có bao nhiều phim truyện, tiểu phẩm, bài hát là bấy nhiêu cách diễn tả tình yêu. Người ta khai thác tình yêu trên mọi lĩnh vực : thơ ca, hò vè, quảng cáo.v.v…

Sống ở trên đời có trăm bẩy loại tình yêu, tôi xin tạm liệt kê. Chúng ta tự hỏi, tại sao cha mẹ lại yêu con cái và con cái lại yêu cha mẹ? Thưa là vì ông bà ấy là người sinh ra chúng, chúng là con của ông bà đó. Đây là tình yêu huyết tộc.

Ngày nay phú quí sinh lễ nghĩa, đó đây chúng ta gặp những buổi hội ngộ đồng niên, đồng lớp, đồng ngũ, đó là thứ tình đồng niên, bạn bè cùng lớp cùng tuổi mến thương nhau.

Một loại tình yêu lấn át mọi thứ tình yêu, khi nói đến người ta nghĩ ngay đến nó, nhất là những người trẻ, đó là tình yêu nam nữ. Đây là tình yêu đơn phương, vì con người yêu nhau. Tình yêu đôi lứa, tình yêu bạn bè, tình yêu đồng đội, tình yêu của anh chị em một nhà… tình yêu của cha mẹ với con cái. Tất cả những tình yêu đó đều cao đẹp, đều phù hợp ý Chúa.

Một thứ tình yêu cao thượng mà Chúa dạy chúng ta là tình yêu vì Chúa. Kinh Kính Mến chúng ta vẫn đọc : “…vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy“.  Như thế, tình yêu của chúng ta không còn giới hạn bởi huyết tộc, bạn bè quen biết, mà mở rộng tới hết mọi người, tôi yêu họ vì Chúa yêu tôi và truyền dạy tôi.

Chúng ta vẫn thường nghe nói: “gia đình là Giáo hội thu nhỏ”, thế nên, gia đình cũng phải mang lấy những đặc tính mà Chúa Giêsu muốn là: “yêu thương và hợp nhất, thực thi lời Chúa, cử hành phụng vụ và loan truyền tin mừng”.

Gia đình kia có một cô con gái, tính tình đào hoa, phóng khoáng. Sau lần tiếp bạn ngày đầu năm, mẹ cô nói với cô :  Này con, con yêu ai thì yêu, lấy anh nào thì lấy một thôi, chứ tết này mẹ thấy nhiều anh quá, bố mẹ chẳng biết anh nào là rể tương lai nữa. Cô trả lời : ồ, bố mẹ hay thật, Chúa chẳng dạy chúng ta là yêu hết mọi người sao ?

Chuyện khác : Có một chàng thanh niên, gõ cửa một nhà dòng để xin vào tu. Cha bề trên nhìn chàng, khẽ mỉm cười và hỏi:

Thế con đã yêu ai chưa? Chàng thanh niên đỏ mặt, ấp úng trả lời: Dạ thưa cha, chưa ạ.

Cha bề trên lại mỉn cười và bảo: Thế thì con hãy về, học yêu thương trước, rồi mới tới tu học sau.

Yêu thương là điều Chúa dạy, hơn nữa đó là lệnh truyền của Chúa : “Thầy truyền cho các con” ( Ga 14, 12 ), vì thế không ai có quyền từ chối yêu thương, càng không có quyền thù nghịch anh chị em mình. Có yêu nhau thật lòng, người ta mới có thể sống cho nhau, chết vì nhau. Thử tưởng tượng, một thế giới không có tình yêu, không ai yêu ai, thì thế giới sẽ kinh khủng biết chừng nào. Bởi đi tới đâu, ta cũng chỉ thấy thù hận, bạo động, diệt chủng… Hãy yêu thương, hãy trao tặng cho nhau tình yêu thật lòng để cuộc đời đáng yêu và đáng sống. Tình yêu sẽ làm cho cả người đang yêu lẫn người được yêu bình an và hạnh phúc. Hãy yêu thương nhau như Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta.

Xin Thiên Chúa Ba Ngôi, nguồn suối tình yêu liên kết chúng con nên một trong tình yêu Chúa.

Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Nếu Không Nên Như Trẻ Thơ Thì Sẽ Chẳng Được Vào Nước Trời

Nếu Không Nên Như Trẻ Thơ Thì Sẽ Chẳng Được Vào Nước Trời

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Lạy Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng, con yêu mến Chúa

Câu chuyện êm ái ngọt ngào mang đầy mầu sắc ngây thơ trong trắng xảy ra vào một ngày xa xưa cách đây lâu thật lâu bên vương quốc Anh.

Hôm ấy vị Thừa Sai quy tụ một nhóm trẻ em và say sưa nói về sự hiện diện thật sự của Đức Chúa GIÊSU KITÔ trong bí tích Thánh Thể. Vị Thừa Sai giải thích thêm rằng Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể vì quá yêu thương loài người nên ẩn mình – như một tù nhân – trong Nhà Tạm đơn sơ bé nhỏ đặt bên trên bàn thờ trong mọi thánh đường Công Giáo.

Trong nhóm trẻ hiện diện hôm ấy có một bé trai đặc biệt lắng nghe lời giải thích của vị Thừa Sai. Bỗng chốc, có một ý tưởng loé lên trong đầu cậu bé.

Cậu bé lặng lẽ rời các bạn và đi ngay vào nhà thờ. Cậu bé đến thẳng trước bàn thờ bên trên có đặt Nhà Tạm. Nhưng vì Nhà Tạm quá cao so với tầm thước bé nhỏ của mình, cậu bé liền lấy một cái ghế rồi leo lên ghế và trèo lên ngồi gọn trên bàn thờ ngay trước cửa Nhà Tạm. Sau khi ngồi yên ắng trên bàn thờ, cậu bé lấy tay gõ nhẹ cửa Nhà Tạm, bên trong có Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể đang ẩn mình. Cậu bé ghé sát miệng vào cửa Nhà Tạm và hỏi nhỏ:

– Thưa Đức Chúa GIÊSU, Chúa đang có mặt ở đây phải không?

Hỏi xong, cậu bé im lặng lắng tai nghe ngóng. Nhưng không có tiếng trả lời.

Vẫn không nao núng cũng không hề đánh mất điềm tĩnh, cậu bé gõ cửa Nhà Tạm lần nữa và hỏi nhẹ:

– Chúa đang có mặt ở đây phải không? Xin Chúa trả lời cho con biết! Trong giờ giáo lý người ta dạy con rằng đúng thật là Chúa đang có mặt ở đây!

Mặc cho câu hỏi van xin của cậu bé, Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể vẫn giữ thinh lặng, không trả lời. Trong khi đó cậu bé vẫn không đánh mất niềm kiên nhẫn, đưa tai ghé sát vào cửa Nhà Tạm và chờ đợi câu trả lời. Nhưng im lặng vẫn hoàn toàn im lặng. Lần này cậu bé tự nhủ:

– Có lẽ Đức Chúa GIÊSU đang ngủ chăng, vậy mình phải đánh thức Chúa dậy!

Và để đánh thức, cậu bé dùng lời lẽ thật ngọt ngào thưa với Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể:

– Lạy Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng, con yêu mến Chúa, con ngưỡng mộ Chúa và con tin nơi Chúa. Xin Chúa làm ơn trả lời cho con biết, xin Chúa nói chuyện với con đi!

Và hiện tượng lạ lùng đã xảy ra .. Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể không thể giữ mãi thinh lặng trước một lời van xin êm-ái ngọt-ngào và đầy lòng tin tưởng ngây-thơ trong-trắng của cậu bé can cường. Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể cất tiếng trả lời:

– Có, Cha đang có mặt ở đây, hỡi con bé nhỏ yêu quí của Cha. Con muốn gì? Hãy xin thì Cha sẽ ban cho con điều con ước nguyện.

Bất ngờ nghe tiếng trả lời cậu bé suy nghĩ một chút rồi thưa:

– Má con luôn luôn nổi giận vì Ba con không chịu giữ Đạo. Vậy, lậy Đức Chúa GIÊSU, xin hoán cải lòng Ba con, con van xin Chúa ban cho con điều này.

Và tiếng Đức Chúa GIÊSU trả lời:

– Con hãy về đi! Cha hứa sẽ cứu rỗi linh hồn Ba con!

Được như lòng ước nguyện, cậu bé hân hoan trở về nhà. Ngày hôm sau – hôm ấy là Chúa Nhật – cậu bé sung sướng khi nghe Ba nói với Má là Ba đi nhà thờ với Má để tham dự Thánh Lễ.

Kể từ đó, thân phụ cậu bé bắt đầu sống đạo nghiêm chỉnh đúng với tư cách một tín hữu Công Giáo ngoan Đạo.

Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể đã ân thưởng bội hậu cho Đức Tin đơn sơ nhưng vững chắc của cậu bé và thực hiện lời đã hứa với cậu bé! Ôi êm ái dịu ngọt biết bao Tình Yêu Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể dành cho tín hữu Công Giáo nào biết đặt trọn niềm tin tưởng và yêu mến bí tích THÁNH THỂ.

… Đức Chúa GIÊSU gọi một em nhỏ đến đặt vào giữa các môn đệ và bảo: ”Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không hoán cải mà nên như trẻ thơ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Vậy ai tự hạ coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời. Còn ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. Nhưng ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải sa ngã, thì thà treo cối đá lớn vào cổ nó mà xô cho chìm xuống đáy biển còn hơn. Khốn cho thế gian, vì làm cớ cho người ta sa ngã. Tất nhiên phải có những cớ gây sa ngã, nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã” (Matthêu 18,2-7).

(”Il Settimanale di Padre Pio”, Anno VII, n.21, 25 Maggio 2008, trang 15).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Đôi lời trong thánh lễ kỷ niệm 40 năm Giám mục.

Đôi lời trong thánh lễ kỷ niệm 40 năm Giám mục.

Tác giả bài viết: ĐGM. GB Bùi Tuần

Thánh lễ kỷ niệm 40 năm Giám mục của tôi hôm nay là một hồng ân lớn lao Chúa ban cho tôi.

1-

*Hồng Ân lớn lao, vì qua Lễ Thụ Phong Giám Mục trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi nhận ra sự Chúa sai tôi vào lịch sử Việt Nam, ngay trong giờ phút Quê hương bước sang một giai đoạn mới, là một ơn đặc biệt.
*Hồng ân lớn lao, vì khi nhận ra sự trùng hợp lịch sử đó là do ý Chúa, tôi đã cùng với nhiều người, góp phần vào việc xây dựng sự hòa hợp, sự yêu thương trên Quê hương Việt Nam yêu dấu.
Hôm nay, mừng 40 năm hồng ân được Chúa sai đi, tôi xin nói ba lời: Xin cảm tạ, xin tha thứ và xin cầu nguyện.
2.
Trước hết, xin hết lòng cảm tạ Chúa vì muôn ơn Chúa ban cho tôi trong suốt 40 năm qua. Ơn mà tôi coi là quý giá nhất, đó là ơn biết lo nhận ra ý Chúa và biết lo thực thi ý Chúa trong một giai đoạn lịch sử đầy chuyển biến phức tạp.
3.
Thực vậy, giai đoạn lịch sử 40 năm qua đã có nhiều chuyển biến phức tạp, trong xã hội, trong Giáo Hội, và trong chính bản thân tôi.
Chúa dạy tôi là không nên và không thể tránh được những chuyển biến phức tạp đó, nhưng hãy nhìn chúng như một thực tế mà Chúa sai tôi vào, để sống mầu nhiệm nhập thể.
4.
Ý Chúa mà tôi nhận ra là: Sống trong một thực tế phức tạp như thế, tôi phải chú ý rất nhiều đến việc đào tạo mình. Chúa soi sáng cho tôi điều đó, bằng những lo âu rất nóng, Chúa đốt lên trong tôi.
Ý Chúa còn là: Tôi phải đào tạo mình nhờ động lực nội tâm luôn khao khát thuộc về Chúa, luôn thao thức được là người trung tín trong ơn gọi được sai đi.
Ý Chúa còn là: Sự đào tạo mình nhờ động lực nội tâm như thế sẽ phải thường xuyên gặp gỡ Chúa, luôn coi ơn thánh là ưu tiên hàng đầu, luôn kiên trì phấn đấu từ bỏ mình. Tất cả ý Chúa trên đây ví như ngọn lửa nung nấu lòng tôi.
5.
Tôi đã lo nhận ra ý Chúa.
Tôi đã lo cố gắng thực thi ý Chúa. Những lo lắng đó thực là ơn Chúa. Xin tạ ơn Chúa. Nhiều người tại Việt Nam đã làm gương cho tôi về sự nhận ra ý Chúa và thực thi ý Chúa như vậy.
6.
Gương sáng gần gũi nhất của tôi là Đức Cha Cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ.
Trong suốt mấy chục năm sống thầm lặng, Đức Cha Cố Micae luôn là con người cầu nguyện, hãm mình và đọc các tài liệu tu đức. Ngài hay nói: “Phải tận dụng mọi thời giờ để lập công đền tội, xin Chúa cứu các linh hồn”. Tôi coi nếp sống đạo đức như thế của Đức Cha Cố Micae là một gương sáng về đào tạo chính mình trong tình hình mới.
Từ đó tôi nhận ra rằng: Đào tạo chính mình như vậy là chuẩn bị cho mình một nền nhân bản chắc về nhân ái, một nền văn hoá rộng về yêu thương, một nền tu đức sâu về bác ái, để dễ làm chứng cho tình yêu Chúa trong lịch sử phức tạp hiện nay. Những chứng nhân như thế có thể ví như những hạt lúa tốt gieo vào lòng đất Quê Hương Việt Nam này. Họ sẽ âm thầm liên kết các bàn tay hợp tác. Họ sẽ âm thầm nối kết các trái tim tình nghĩa. Tất cả sẽ đều vì lợi ích chung của Nước Chúa
7.
Tôi thường sợ mình không tự đào tạo mình đủ và đúng theo thánh ý Chúa. Biết sợ như vậy là một ơn Chúa. Nên tôi hết lòng cảm tạ Chúa về ơn biết sợ đó.
8.
Cùng với lời cảm tạ trên đây, tôi xin phép nói lên lời xin tha thứ.
Tôi xin hết lòng khẩn nài ơn tha thứ, vì suốt 40 năm qua, tôi đã lỗi phận rất nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những thiếu sót.
9.
Lãnh vực, mà tôi xin Chúa tha thứ nhiều hơn hết, chính là lãnh vực tha thứ. Nghĩa là: Tôi đã không biết lãnh nhận sự tha thứ và tôi đã không biết cho đi sự tha thứ.
Thực vậy, trong tình yêu, việc tha thứ là rất quan trọng. Thế mà, 40 năm làm chứng cho tình yêu Chúa, biết bao lần tôi đã không coi trọng những tha thứ được dành cho tôi, từ Chúa, từ Hội Thánh, từ Quê Hương, từ các tôn giáo bạn, từ những người nghèo, từ chính cộng đoàn của tôi. Hơn thế nữa, 40 năm qua, để làm chứng cho tình yêu Chúa, bao lần tôi đã không cho đi sự tha thứ, cho dù sự tha thứ đó chỉ là lẽ công bằng.
10.
Không biết đón nhận sự tha thứ và không biết cho đi sự tha thứ, những hiện tượng đó đang có chiều hướng gia tăng. Có thể tôi cũng đang phần nào rơi vào cảnh đáng buồn đó. Do vậy, tôi đặc biệt xin Chúa tha thứ cho tôi mọi lỗi lầm thiếu sót trong lãnh vực tha thứ. Tôi cũng xin gởi lời xin tha thứ đó tới Hội Thánh của tôi, Quê Hương của tôi, cộng đoàn của tôi.
11.
Thú thực là: Tha thứ là việc không dễ chút nào. Chính vì nó rất khó, nên tôi hết lòng xin Chúa thương ban ơn giúp sức cho chúng ta, nhất là trong một tình hình mà niềm tin vào con người đang giảm sút trầm trọng.
12.
Những lời xin cảm tạ và xin tha thứ trên đây sẽ được kết thúc bằng lời xin cầu nguyện. Tôi xin các Đức Cha và tất cả anh chị em cầu nguyện nhiều cho tôi. Tôi yếu đuối lắm về mọi mặt. Xin anh chị em hãy coi tôi như một bức thư nhỏ Chúa gửi cho anh chị em. Bức thư nhỏ này chỉ mang một lời kêu gọi thân thương, đó là “Chúa Giêsu vẫn là Đấng hiền lành, khiêm nhường, giàu lòng thương xót. Người là Đấng cứu độ. Hãy tin cậy phó thác nơi Người”. Vậy, tôi xin phó thác cho Chúa Giêsu mọi lo lắng của tôi về bản thân, về Hội Thánh, về Quê Hương, về mọi người thân.
Xin khiêm nhường phó thác cho Chúa tương lai của chúng ta, một tương lai sẽ có nhiều khó khăn và nhiều bất ngờ đáng sợ, nhưng cũng có nhiều hy vọng lớn lao mang ơn cứu độ.

Xin Chúa thương xót chúng con. Amen.

Long Xuyên, ngày 30.4.2015.

Tác giả bài viết: ĐGM. GB Bùi Tuần

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Lời nguyện của ĐTC cho Năm Thánh Lòng Thương Xót

Lời nguyện của ĐTC cho Năm Thánh Lòng Thương Xót

 

 

 

 

 

 

 

 

Đức Thánh Cha Phanxicô đã soạn ra một lời nguyện đặc biệt dành cho Năm Thánh Lòng Thương Xót sẽ diễn ra từ ngày 8.12.2015 đến 20.11.2016.

VATICAN. Đức Thánh Cha Phanxicô đã soạn ra một lời nguyện đặc biệt dành cho Năm Thánh Lòng Thương Xót sẽ diễn ra từ ngày 8.12.2015 đến 20.11.2016.

Trong lời nguyện, Đức Thánh Cha xin Thiên Chúa giúp cho Năm Thánh này trở thành một năm hồng ân để Giáo Hội, “với một lòng nhiệt huyết được đổi mới, có thể mang Tin Mừng đến cho người nghèo, công bố tự do cho người bị giam cầm và bị áp bức, phục hồi ánh sáng cho người mù.”

Sau đây là lời nguyện của ĐTC:

“Lạy Chúa Giêsu Kitô,

Ngài đã dạy chúng con phải có lòng thương xót như Cha trên trời,

và Ngài cũng đã nói với chúng con rằng ai thấy Ngài là thấy Chúa Cha.

Xin tỏ cho chúng con thấy dung nhan của Ngài và chúng con sẽ được cứu rỗi.

Cái nhìn yêu thương của Ngài đã giải thoát Gia-kêu và Mat-thêu khỏi bị nô lệ cho đồng tiền;

giải thoát người phụ nữ ngoại tình và bà Ma-đa-lê-na khỏi việc chỉ tìm kiếm hạnh phúc nơi những loài thụ tạo;

đã khiến Phêrô phải bật khóc sau khi chối Thầy,

đã hứa ban nước Thiên Đàng cho tên trộm hối cải.

Xin giúp mỗi người chúng con nghe được lời mà Ngài đã nói với người phụ nữ tại Samaria:

“Nếu chị nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban!”

Ngài là dung nhan hữu hình của Chúa Cha vô hình,

của Thiên Chúa, Đấng tỏ lộ quyền năng của mình trên tất cả mọi loài bằng sự tha thứ và lòng thương xót:

Xin giúp cho Giáo Hội trở thành khuôn mặt hữu hình của Ngài trong thế giới, Đấng đã phục sinh và được tôn vinh.

Ngài đã muốn các thừa tác viên của Ngài cũng có những yếu đuối,

để họ có lòng thương cảm dành cho những ai bị bỏ rơi và lỗi lầm:

Xin hãy giúp những ai đến với họ cảm thấy mình được Thiên Chúa tìm về, yêu thương và tha thứ.

Xin gửi Thần Khí của Ngài và xức dầu thánh hiến mỗi người chúng con,

để Năm Thánh Lòng Thương Xót này trở thành một năm hồng ân từ Thiên Chúa,

và Giáo Hội của Ngài, với lòng nhiệt huyết được đổi mới, có thể mang Tin Mừng đến cho người nghèo,

công bố tự do cho người bị giam cầm và bị áp bức,

và phục hồi ánh sáng cho người mù.

Chúng con cầu xin nhờ lời chuyển cầu của Đức Maria, Mẹ lòng thương xót.

Ngài là Đấng hằng sống và hiển trị cùng Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở, muôn đời.

Amen.”

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

LỜI CHÚC: CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA

LỜI CHÚC: CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA

LM. Nguyễn Tầm Thường, S.J.

– Chúa ở cùng anh chị em.

Dừng lại một chút, ta thấy những nghi thức này trong thánh lễ quá kỳ diệu.

Chúa ở cùng anh chị em là gì? Tại sao linh mục cần nhận lại lời cầu chúc:

– Và ở cùng cha.

* * *

Nhiều lần, nhiều nơi, trong nhiều thánh lễ, khi nói lời cầu chúc này, theo cách thế bên ngoài, thì có linh mục không nói bằng tâm hồn. Nói qua cho xong. Vì linh mục vừa nói, nhưng không đối thoại với giáo dân, thiếu chuẩn bị nên đang bận mở sách. Hoặc vì muốn chóng xong, cắt ngắn thời gian. Không có thời gian đón nhận lời giáo dân cầu chúc: Chúa ở cùng cha. Giáo dân đáp lại cho có lệ. Những lời chúc như thế trong thánh lễ nhạt nhẽo làm sao! Khi họ không tha thiết trong lời cầu chúc, thì làm sao dám nói họ thiết tha trong mong ước Chúa thật sự đến với người họ cầu chúc. Nếu vậy, Chúa ở đâu trong mối tương quan họ với Chúa, với nhau? Thiếu tha thiết trong lời cầu chúc, thì khó mà xác định mình thiết tha Chúa đến với người mình chúc. Từ đó, làm sao định nghĩa đấy là một thánh lễ sốt sáng.

Khi họ không nhận định kỹ “Chúa ở cùng anh chị em” là gì, thì làm sao rõ “Chúa ở cùng chúng ta”, và “Chúa ở cùng tôi” quan trọng đến đâu. Họ đánh mất ý nghĩa tên gọi EMMANUEL.

EMMANUEL là tên gọi của Thiên Chúa. Bởi đó, lời cầu chúc trong thánh lễ “Chúa ở cùng anh chị em” là lời rất quan trọng. Và, thánh lễ là gì nếu chúng ta để mất vẻ đẹp: CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA?

* * *

EMMANUEL

– Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt. 2:24).

Khởi đầu Phúc Âm, Mátthêu giới thiệu tên của Thiên Chúa là Emmanuel, nghĩa là tên gọi đó được phiên dịch ra: Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Và rất đẹp, hôm nay chúng ta cụ thể hóa tên gọi đó trong lời chào của thánh lễ: “Chúa ở cùng anh chị em.” “Và ở cùng cha.”

Kết thúc Phúc Âm, Mátthêu để chính Ðức Kitô tự nói về mình bằng lời chấm dứt như sau: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt. 28:20).

Mở đầu và kết thúc một cuốn sách là dẫn vào và đưa tới cho người đọc toàn thể cuốn sách đó nói gì. Tư tưởng trọn gói ở đây, tên gọi của Thiên Chúa là ở cùng con người.

* * *

TÌNH YÊU VÀ Ở CÙNG

Thiên Chúa không yêu thương con người bằng cách từ trên cao nhìn xuống.

Thiên Chúa không cứu chuộc con người bằng cách ở trên cao vớt con người lên.

Thiên Chúa xuống thế làm người. Thiên Chúa ở cùng.

Trong cuộc sống nhân loại, con người thường cứu nhau bằng sức mạnh của kẻ hơn. Kẻ có sức mạnh hơn, nhìn xuống kẻ yếu. Tôi giàu có hơn, tôi giúp đỡ anh. Tôi khỏe mạnh hơn, tôi vớt anh lên.

Màu nhiệm tình yêu Thiên Chúa lại không như thế. Mà là một tình yêu ở cùng. Kinh Thánh chỉ định, tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng.

Tại sao tình yêu lại hệ tại ở cùng mà không phải ở trên thương xuống?

Tại sao tình yêu lại không là nhìn xuống để vớt lên mà lại là cùng xuống để nhìn?

Người môn sinh ưu tư với những băn khoăn.

Nắng trong vườn đã ngả dạt qua bờ dậu. Ráng chiều hoàng hôn rũ xuống lòng người môn sinh trẻ đang tầm thầy học đạo. Anh đã viết về tình yêu, đã nghe về tình yêu. Nhưng tình yêu vẫn là một huyền nhiệm. Tình yêu là gì?

Người môn sinh nhớ câu chuyện xa xưa:

– Bạch thầy, chúng con không chấp nhận nó được, nó ăn cắp, nó láu cá, nó làm biếng. Xin thầy đuổi nó về.

Mấy chú đệ tử nhỏ báo cáo với thầy. Và vị thiền sư đã bảo:

– Nó không biết phải, không biết trái nên mới cần ở với thầy. . .

Phêrô cũng thế, đã có lần Ðức Kitô gọi Phêrô là Satan. Nhưng Ngài không đuổi Phêrô. Ngài bảo: “Lui lại đàng sau Thầy.” Lui lại phía sau, chứ không là đuổi đi xa. Vì Satan đang ở trong con, nên con cần ở cùng Thầy.

Ðời người là những chặng đường kiếm tìm. Huyền nhiệm cuộc sống mở ra như những cánh hoa. Một ngày không tìm kiếm là một ngày chết ủ. Cánh hoa phải mở ra, bật lên thành màu. Bấy giờ mới là cánh hoa. Cuộc sống cũng thế, những ấp ủ băn khoăn kia phải bật lên thành màu mới là cuộc sống. Và ta phải tìm kiếm. Tại sao tình yêu lại hệ tại ở cùng? Nhất là tên gọi kia của tình yêu Thiên Chúa. Tại sao lại là Thiên Chúa ở cùng chúng ta? Ðể giúp người học trò tìm kiếm. Nhà đạo sĩ hỏi người học trò:

– Ngày con đau, mẹ con không là thầy thuốc. Bà không có quyền lực cứu con khỏi bệnh. Sao bà cứ đứng bên giường nhìn con, ngay cả khi con ngủ?

– Bạch thầy, vì thương con.

– Bà có chữa con hết bệnh được không?

– Bạch thầy, không.

– Không chữa được, vậy đứng đó làm gì?

Người học trò ngập ngừng.

– Bạch thầy, vì thương con.

– Thương, nhưng không làm sao chữa bệnh cho con được. Vậy thương là gì?

Người học trò bắt đầu hiểu. Tình yêu không cứ là “doing”, mà là “being.” Nghĩa là ở cùng. Thật ra, ở cùng, không phải là không làm gì. Bởi “ở cùng – being” đúng nghĩa là sự hiện hữu trọn gói. Khi linh mục nói “Chúa ở cùng anh chị em”, mà chỉ nói vì công thức cho qua. Như thế, sẽ là có “doing” đó, nhưng vắng mặt của “being.” Khi bà mẹ nhìn con ngủ trong cơn đau. Cứ chốc chốc, bà đến bên giường nhìn con ngủ. Bà không có năng lực chữa bệnh cho con. Bà không “doing” được điều gì theo nghĩa sản xuất. Bà chỉ hiện diện trọn gói tâm hồn bà ở đó. Ðấy là chiều sâu của ngôn ngữ ở cùng, là “being.”

Trong cuộc sống, tôi cần một người nhìn tôi. Nói với tôi là cuộc sống, có họ ở cùng với tôi. Người vợ dọn cơm chiều, chỉ mong chồng về, đến bên cạnh, thầm nói rằng “anh ở cùng em.” Buổi chiều đó có thể trở thành hương hoa. Họ cần cái ở cùng này. Người ta kinh nghiệm trong cuộc sống thực như thế. Không ai chỉ hạnh phúc bởi tấm pay check, có “doing” mà không có “being”. Trong nỗi đau, con người thường kêu:

– Lạy Chúa, xin cất chén đắng này cho con.

Họ muốn Thiên Chúa “doing”. Chúa hãy lấy quyền năng mà hành động. Nếu Chúa không cất nỗi đau cho con mà chỉ “being”, nghĩa là chỉ đau với con thôi thì có ích gì. Người ta lý luận tình yêu thì phải cụ thể bằng hành động. Chúa thương tôi, Chúa phải hành động, xin hãy tặng tôi những món quà tôi xin. Tình yêu Thiên Chúa lại không như thế. Thay vì cứu con người khỏi chết thì lại chết với con người. Thay vì cứu con người khỏi đau thì lại đau với con người. Trong nỗi bực dọc, con người oán trách Thiên Chúa. “Ông không phải là Ðấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với! (Lc. 23:39). Con người thách thức Thiên Chúa, cứu tôi đi, nếu thực sự thương tôi. Rồi tôi sẽ tin. Ðức Kitô không lấy quyền năng để cứu những tiếng kêu này. Ngài cũng không lấy quyền năng thoát khỏi cái chết này.

Tại sao tình yêu không là cứu người mình yêu khỏi chết, mà là chết cùng?

Trước khi tiếp tục đề tài. Vị đạo sĩ nhắc người học trò về một kinh nghiệm:

– Nỗi đau là không có ai đau cùng, chứ chưa hẳn là không có ai cất cho mình nỗi đau. Làm sao con có năng lực làm cho người chết sống lại? Con không cất được nỗi đau đó. Nhưng nếu con đau cùng, “being” bên cạnh người đang đau. Thì nỗi đau kia nhẹ vơi. Làm sao trong tình yêu mà người ta nói: Anh không cất được nỗi đau của em. Rồi người đàn bà đi sanh con một mình. Người đàn ông rất thực tế. Tôi không sanh con thay vợ tôi được. Tôi không “doing” gì được. Ông ở nhà đi câu.

Hạnh phúc và đau khổ không là cứu, là cho, mà là ở cùng.

Thiên Chúa ở cùng.

Người học trò im lặng suy nghĩ. Anh lắng nghe. Trong cái tĩnh mịch, anh mơ hồ nhìn thấy từ vùng im lặng đó, bật lên màu sắc của cuộc sống. Như những cánh mỏng thức giấc dần, bật màu thành bông hoa. Vị tôn sư như sợ người học trò ngần ngại với lời mình. Ông cắt nghĩa thêm:

– Thầy giả sử một vị tổng thống quyền uy, ông chỉ gật đầu, gia nhân của ông sẽ đem những người tỵ nạn vào nước ông. Ðó là cách nhìn xuống. Ðó là cách vớt lên. Nhưng giả sử, vị tổng thống ấy nghe tin còn mấy trăm người tỵ nạn mười mấy năm bơ vơ không quê hương. Nghe tin, ông tội nghiệp. Ông bỏ văn phòng. Ông đến với người tỵ nạn. Ông hỏi người tỵ nạn làm gì kiếm sống qua ngày. Dạ thưa ngài, tôi làm nghề rửa xe. Ðể hiểu, hiểu để thương, ông tổng thống quyền uy kia, mặt mũi lấm lem, quẹt mồ hôi, tóc bù xù dính dầu nhớt xăng, cũng chầu chực rửa xe, cũng ở bến xe, cũng gặm bánh mì. Con có thể hình dung một tổng thống nào dám làm thế không?

Người học trò im lặng hơn. Trong tâm trí anh. Anh không thể hình dung có chuyện đó. Anh hiểu ý vị tôn sư đang muốn nói, Thiên Chúa đã làm như vậy. Ðó là ý nghĩa EMMANUEL, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Khi cho một món quà là cho một phần tài sản. Khi cho chính mình là cho hết. Không thể cho hết khi mình không cùng giống thân phận người đó. Bởi thế, vô cùng tuyệt vời khi Phúc Âm tường thuật về người lính canh như sau:

Ðức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. (Mc 15: 37).

Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Ðức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói:

Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15: 39).

Hai sự kiện đặc biệt trong cụm từ “Tắt Thở” mà ta phải kiếm tìm.

– Thứ nhất, lúc tạo dựng con người. Thiên Chúa thở hơi, cho Ađam sự sống. Bấy giờ Thiên Chúa chỉ cho một chút hơi thở. Nhưng ở đây, Ngài không cho một chút hơi, mà Tắt Thở. Nghĩa là cho hết không còn hơi để thở. Như thế, tên gọi EMMANUEL, càng ngày theo chiều lịch sử cứu độ càng trở nên rực rỡ. “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, lời tung hô ấy như ngọn pháo bông muôn màu bật tung lên trong thánh lễ.

– Sự kiện thứ hai là viên đội trưởng, lính canh nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa khi Ngài “Tắt Thở”. Tắt thở là giây phút yếu nhất của một đời người. Ðáng nhẽ ông ta phải nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa trong những việc quyền năng, những phép lạ lớn lao. Tại sao lại nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa trong giây phút yếu đuối nhất?

Vị tôn sư nói với người học trò:

– Con ạ, hình ảnh người lính canh ở đây cho chúng ta một chiều sâu thiền niệm mà không biết ngọn núi cao nào, không biết vùng thinh lặng nào mới chỉ bảo cho chúng hết ý nghĩa. Trong giây phút yếu nhất ấy của Chúa Kitô, ông ta nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta quá yếu đuối tâm linh nên không nhìn ra sức mạnh trong sự yếu đuối như người lính canh.

Trời đã vào khuya, hai thầy trò, vị tôn sư và người thanh niên tầm thầy học đạo như thả hồn mình về biến cố hai nghìn năm trước trước mầu nhiệm Tắt Thở của một người. Trong tâm trí anh, anh không thể nào hình dung vị tổng thống kia dám trở nên yếu đuối như một người tỵ nạn được. Anh bắt đầu hiểu hơn, vị tổng thống ấy chỉ có thể thương xót bằng từ trên nhìn xuống, bằng từ trên vớt lên. Ông ta không thể xuống để ở cùng.

Ở cùng là trở nên một thân phận. Ðấy là chiều sâu khó nhất của tình yêu. Khó nhất mà cũng đẹp nhất. Phải trở nên thân phận thì mới hiểu. Hiểu mới có thể thương. Trong ý nghĩa này, thương bao giờ cũng phải là ở cùng.

Người học trò, như vẫn ưu tư. Nếu tình yêu là ở cùng. Tại sao Ðức Kitô lại kêu lên trong giờ sau hết: “Lạy Cha, Cha bỏ con sao đành Cha?”

Vị tôn sư như đọc hết ý nghĩ thầm kín của học trò mình. Ông ôn tồn bảo:

Chiều sâu của tình yêu là ở cùng. Ðêm nay trời đã vào khuya. Con về ngủ đi. Tại sao Chúa Cha không lấy quyền năng như lời Ðức Kitô cầu xin, cất chén đắng này cho con?

Tại sao Chúa Kitô như quá cô đơn vậy?

“Lạy Cha, Cha bỏ con sao đành Cha?” Ðâu là ý nghĩa ở cùng?

Ðây là Tình Yêu và Quyền Năng. Chúng ta sẽ nói tới.

Trời khuya rồi. Ðêm thường nói với chúng ta nhiều ý nghĩa cuộc sống. Ðêm nói về thân phận mù lòa, vất vả đi tìm. Những giờ phút tăm tối cuộc sống, khổ làm sao. Nhưng nhờ đêm mà ta phải khắc khoải. Nhờ khắc khoải tìm kiếm mà hồn ta mới thức giấc. Và con ạ, không bao giờ đêm dài bất tận. Ngày mai có ánh bình minh.

Vị tôn sư đi về am thất. Người học trò vẫn ngồi lại. Anh đang nhìn vào cõi sáng của bóng đêm. Thứ cõi sáng và bóng đêm của riêng anh.

* * *

Từ lời cầu chúc “Chúa ở cùng anh chị em.” “Và ở cùng cha.” Thánh lễ phải là mầu nhiệm diễn tả tên gọi làm người của Thiên Chúa, EMMANUEL, Chúa ở cùng chúng ta. Mỗi thánh lễ, nếu ta trân trọng trong lời chào này, thì thánh lễ quá ngọt ngào. Thánh lễ là một diễn giải tuyệt vời mầu nhiệm Thiên Chúa yêu thương. Chúng ta hạnh phúc nối tiếp bí tích kỳ diệu đó qua những lời chào mang cả một chiều kích thần học rất sâu:

– Chúa ở cùng anh chị em.

– Và ở cùng cha.

LM. Nguyễn Tầm Thường, S.J.

(Trích tập suy niệm “KẺ ÐI TÌM”)

Ngọcnga và Anh chị Thụ Mai gởi

Hãy Ở Trong Thầy

“Hãy Ở Trong Thầy”

+ GM GB Bùi Tuần

Mấy ngày nay, tôi thấy cảnh đời sôi động khác thường.

Trên đường xe chạy ồn ào, Dưới sông ghe xuôi ngược vội vã. Chợ chen chúc giữa người và hoa.

Mọi nhà đều rộn ràng quét dọn, trang trí, ra vào tấp nập.

Cảnh đời bề ngoài là vui, là dọn tết. Nhưng nhìn sâu vào bên trong lòng người, tôi có cảm tưởng khác. Có những gì kín đáo chìm lặng trong cõi nội tâm bất ổn.

Chính tôi cũng vậy.

Trước một hoàn cảnh mà hạnh phúc được cảm nhận là mong manh, là xa vắng, tôi chạy lại bên Chúa Giêsu.

Tôi nghe Người nói: “Hãy ở lại trong Thầy” (Ga 15,4).

Chúa nói đi nói lại với tôi lời đó.

Ðây là lời căn dặn cuối năm.

Ðây cũng là lời nhắn nhủ đầu năm.

Ðây không phải một lời chỉ giữ riêng cho tôi, mà cũng là một lời Chúa gởi riêng cho từng anh chị em.

Tôi mong chúng ta biết đón nhận lời Chúa gởi. Ðón nhận với lòng trân trọng, với tình cảm mến, với tâm hồn khát khao tìm hiểu ý Chúa.

Vậy, “hãy ở lại trong Chúa Giêsu” được hiểu thế nào?

Tôi xin gợi ý vắn gọn.

Trước hết, “ở lại trong Chúa Giêsu” là ở lại trong lời của Chúa Giêsu.

Có lần Chúa Giêsu đã phán: “Nếu các con ở lại trong lời của Thầy, thì các con sẽ là môn đệ Thầy đích thực” (Ga 8,31).

Ở lại trong lời của Chúa, là đón nhận lời Chúa, suy niệm lời Chúa để lời Chúa thấm sâu vào lòng ta. Lời Chúa sẽ gây nên những vang vọng trong hồn ta, như những khát vọng dẫn đưa ta về Nhà Chúa.

Chúng ta thừa biết, lòng trí ta mỗi ngày phải tiếp cận với từng ngàn lời nói. Trong số từng ngàn lời đó, có những lời mang sự thực, nhưng cũng có những lời giả dối, có những lời gian ác, có những lời trống rỗng. Nếu, trong cảnh hỗn độn ấy, ta vững tâm ở lại trong lời Chúa, thì lời Chúa sẽ là ánh sáng soi đường chỉ lối cho ta. Ta sẽ được Chúa chúc lành, một sự chúc lành được ban cho những ai vâng thực thi Lời Chúa.

Ngoài ra, “ở lại trong Chúa Giêsu” là ở lại trong tình thương của Người.

Người phán: “Các con hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9).

Ở lại trong tình thương của Chúa là đón nhận chính sự sống của Người. Một sự sống hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Một sự sống sản sinh nhiều hoa trái thiêng liêng. Một sự sống là tình yêu, là bình an, là khôn ngoan, là hạnh phúc.

Chúng ta không xa lạ gì với tình thương trên đời này và trong đời ta. Nó muôn mặt. Ðổi thay và bền vững. Vui và buồn. Ánh sáng và bóng tối. Êm đềm và sóng gió. Nếu, trong thực tế thực sự là như thế, thì ở lại trong tình thương của Chúa sẽ là một bến bờ ta cần gắn bó.

Sự gắn bó này phải rất thân mật, phải rất khăng khít. Về vấn đề này Chúa Giêsu đưa ra một hình ảnh dễ hiểu: “Thầy là cây nho, anh em là cành… Cũng như cành nho không thể tự mình sinh ra hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho. Anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy” (Ga 15,1-4).

Như vậy, lời Chúa gởi chúng ta đã khá rõ. Hãy ở lại trong Lời Chúa. Hãy ở lại trong tình thương của Chúa. Ở lại là gắn bó. Ở lại là cùng phấn đấu với Chúa Giêsu, là cùng với Người vâng phục thánh ý Chúa, là cùng với Người phó thác nơi Chúa Cha giàu lòng thương xót.

Tôi muốn được gởi tới anh chị em lời Chúa trên đây ngày đầu năm Giáp Thân này.

Năm nay được mở đầu bằng nhiều bất ổn. Thí dụ với những dịch gia cầm, với những biến động về giá cả, với những chứng bệnh mới, với nhiều suy thoái trong lãnh vực lương tâm.

Chúng ta chấp nhận cuộc đời với những thực tế phức tạp của nó. Nhưng, là những người có đức tin, chúng ta ưu tiên đón nhận lời Chúa. “Hãy luôn luôn ở lại trong Thầy”.

Cho dù cuộc đời có những bất ngờ đau xót đến đâu, nếu chúng ta luôn ở lại trong Chúa, Chúa sẽ là Mùa Xuân vĩnh cửu của chúng ta.

Với những tư tưởng trên đây, tôi xin thân ái cầu chúc anh chị em một năm mới bình an. Một năm ta ở lại trong Chúa và Chúa ở trong ta. Một năm vì thế mà tình yêu thương và hiệp nhất giữa chúng ta sẽ toả hương thơm Tin Mừng giữa quê hương ta, tại địa phương ta.

+ GM GB Bùi Tuần

Nếu xa nhau anh xin làm mây thu,

“Nếu xa nhau anh xin làm mây thu”,

Khóc em… dài những tháng mưa ngâu

Mưa thu buồn… buồn đời anh bấy lâu

Gió thu sầu… hát bài ca nhớ nhau”.

(Đức Huy – Nếu Xa Nhau)

(Galát 3: 26-29)

Trần Ngọc Mười Hai

Đã xa nhau rồi, sao lại hát xin làm “mây thú”, mây thu chứ? Mây thú hay mây thu rất thú vẫn vần vũ cũng đâu vừa, hỡi người viết nhạc, rất nghệ sĩ. Vâng. “Làm mây thu” ở đời người, cũng đâu là chuyện dễ. Chí ít, là “làm mây thu” rồi lại có cái thú khác làm mây mưa dây dưa nhiều chuyện để thế-trần cứ lần-chần, tức chết được.

“Mây thú” hôm nay, lại sẽ thấy nhiều điều trải dài nơi lời ca cũng âu sầu, như sau:

“Nếu xa nhau, anh xin làm dòng sông

Nhớ em nhiều những thoáng mênh mông

Khúc sông buồn… buồn trôi bao lá rong

Tiếng mây chiều lạc loài vương nhớ nhung.”

(Đức Huy – bđd)

Thì ra, “làm mây thu” là làm rất nhiều thứ, và cả những thứ/những điều khiến cho người và cho mình, như ca-từ còn xác-chứng. Xác chứng hay làm-chứng cho ai/điều gì, vẫn không là chuyện quan-trọng. Điều quan-trọng hôm nay, chỉ mỗi việc là: làm chứng cho Thiên-Chúa-Là-Tình-Yêu, không thấy mệt.

Thật thế. Trong cuộc đời người, vẫn có nhiều người từng thấy chán-nản rất nhiều thứ, nên tự dưng muốn được làm “mây thu” hoặc cái thú làm mây vơ-vẩn đường bay tận chân trời, nhiều tưởng tượng. Trong số những người dễ chán nản và ngán-ngẫm đủ mọi thứ, là đám “trẻ người non dạ” cứ luôn miệng bảo: “Sao con chán mấy đồ chơi này quá, mẹ à!”; hoặc “buồn thấy mồ tổ đấy, mẹ ơi!” vv..

Trong cuộc đời trẻ tuổi, nhiều em bé vừa chơi đồ chơi mẹ mới sắm/tậu, hoặc trò chơi “games” điện-tử mới cài đặt trên ipad, media player, đã thấy buồn. Tóm lại, cuộc đời người, tiếng “chán” hoặc “buồn”, là từ-vựng thấy ở già trẻ lớn bé, ai cũng có thể nói vào lúc nào đó.

Có bé em học sinh, đang trong kỳ nghỉ học-kỳ hoặc nghỉ hè khá nhiều tuần, thế mà mới chỉ có vài ngày đã thấy chán hoặc kêu buồn rồi. Em thấy thế, là bởi lâu nay thiếu nghỉ ngơi, thư-giãn hoặc thiếu sáng-tạo trong cuộc chơi, học-hành hoặc tạo ra tư-tưởng, nên không thấy chuyện gì hấp-dẫn, hoặc thích-thú cả đến kẹo bánh/cây trái lẫn trò chơi cũ/mới ê-hề đủ loại.

Cũng có thể, em thấy chán/ngán, vì suốt ngày chỉ dán mắt vào màn hình lớn/nhỏ xem phim truyện xong lại chơi trò chơi này khác, riết rồi quá nản bèn than van: “Chẳng gì mới!” hoặc: “Ghêm gì toàn những thứ xem rồi, chán bỏ xừ!”

Những câu nói “chán/ngán” lại đã khiến bậc cha mẹ thêm lo lắng, hãi sợ. Bởi quá lo, nên có bậc mẹ cha tìm đủ mọi cách, cả việc đổ xô tìm các đồ/hàng mới cứng để mua/sắm cho bé em bớt buồn, nhưng vẫn không làm các bé hài lòng, hoặc bớt sầu.

Thành thử, kỹ-thuật cao hoặc mới mẻ, có lẽ, sẽ chỉ là giải-pháp/đáp số tạm-thời cho bài toán khó giải với người đời. Bởi thế nên, nhiều vị ở các nơi mới cố nặn óc mình ra mà tìm tòi, sáng-chế, hoặc chỉnh-sửa những gì có sẵn, đôi lúc lại đã khám-phá ra đôi điều làm mọi người phải suy-nghĩ.

Thực-tế đời người đi Đạo, cũng hệt thế. Nhiều thứ hoặc nhiều chuyện, lâu nay từng khiến người nhà Đạo suy-nghĩ rất “lung” vào mọi lúc/mọi thời, lại trở-thành vấn-đề để ta sẻ san,  tư-duy, hoặc suy-nghĩ. Một trong các vấn-đề khiến mọi người suy-tư không ít, ở nhà Đạo, là vấn đề phụ-nữ. Nói rõ hơn, là: vai-trò của nữ-phụ trong Đạo đã và đang được nhiều vị đặt lại.

Đặt lại vấn-đề trong Đạo, giống hệt người ngoài đời vẫn từng hát:

“Cùng tháng năm mây thu trôi lững thững cuối trời

Biết bao giờ thôi phiêu lãng giữa tháng mưa ngâu,

Em có nghe chăng bài tình ca?

Hôm nào… anh đã hát cho em

Trời đã sang đông, thôi anh làm im vắng

những đêm dài mơ ước gió trăng

Biết bao giờ tình yêu thôi lỡ làng

Biết bao giờ đời anh thôi dở dang”.

(Đức Huy – bđd)

Người ngoài Đạo, thường hát thế là để tự an ủi mình vào lúc thấy cuộc đời mình cũng chán và nản, không ít. Thế nhưng, các đấng bậc trong Đạo lại tư-duy theo cách chững-chạc, đạo-mạo, rất bài bản như ta thường thấy ở đây đó, chốn Nước Trời.

Nuớc Trời hôm nay, lại có bậc vị-vọng trong Đạo Chúa, đã nhìn ra vấn-đề khả dĩ gây nản lòng nơi một số bạn đạo, ở đây đó. Đấng bậc nhà ta, đã hình-dung ra được vấn-đề hệ-trọng cả ở trong Kinh Sách, nên đã tỏ lộ như sau:

“Huyền-thoại Do thái xưa, được phản ánh trong sách Sáng Thế đã diễn-tả tầm hiểu của người thời đó về nhiều thứ. Chủ-đích của người ghi chép các huyền-thoại ấy, là để giải-thích thứ đó có nghĩa gì. Rõ ràng là, chỉ mỗi nam-nhân thời cổ mới dám đóng khung các huyền-thoại này và cuối cùng ghi chép lại thành sách, thành truyện. Nói thế là bởi, bậc nữ-lưu thời cổ trong xã-hội không được phép tiếp-cận quyền-lực để giải-thích về Thiên-Chúa và/hoặc cũng chẳng có khả-năng để viết lách nữa.

Và hơn nữa, phụ-nữ được mọi người coi như không dính-dự gì vào những chuyện như thế, hoặc có dính dự cũng chẳng hiểu biết, chẳng thể-hiện được thế nào là thực-tại đời người. Vì thế nên, phụ-nữ chẳng bao giờ tạo ảnh-hưởng cách trực-tiếp lên nền văn-hoá này khác, hoặc cũng chẳng tạo bất cứ quyết-định ban đầu nào về bản-chất của bất cứ sự gì và cũng chẳng tham-gia vào bất cứ tiến-trình nào khả dĩ đưa ra một quyết-định. Thành thử, chẳng lạ gì khi các truyển kể trong Kinh Sách đều do nam-nhân viết ra hoặc định-hình cả đến sự việc nhằm giải-thích cách-thức ác-thần/sự dữ len lỏi vào công cuộc tạo-dựng của Thiên-Chúa Đấng Tác-tạo mọi sự. Và Kinh Sách làm thế, bằng việc tuyên-bố việc ấy như yếu-điểm của tạo-vật chưa thành người do Thiên-Chúa thực-hiện để đáp-ứng nhu-cầu của nam-nhân. Và người nữa đó tên là Evà.

Nói tốm lại, ở thế-giới do nam-nhân thống-trị, thì phụ-nữ bị chê-trách đủ mọi thứ kể từ ngày ấy, đến hôm nay. Chẳng hạn như: nếu người đàn ông nào lại hiếp-đáp một phụ-nữ, thì lại nói do người nữ ấy quyến-rũ anh ta bằng cách ăn mặc lố lăng, khêu gợi. Nếu nam-nhân đánh đập một nữ-phụ nào, thì lại bảo: việc ấy là do y-thị khiêu-khích anh ta nổi giận. Thậm chí, nếu nam-nhân ly-dị người nữa nào, lại đổ lỗi cho người nữ ấy sống sao đó nên nam-nhân này không còn chịu đựng nổi để chung sống nữa…

Nói tóm lại, chính người nữ đầu đời con người là Evà chính là duyên-do khiến nam-nhân đầu tiên ngã quỵ. Bà chịu trách-nhiệm trong việc dẫn nhập mọi ác thần/sự dữ, và/hoặc mọi sự ngán-ngẫm, cho gian-trần…” (x. Tgm John Shelby Spong, The Sins of Scripture: Woman as the Source of Evil, HarperCollins Publishers 2005, tr. 87)

Sống thực đời đi Đạo, các đấng bậc vị vọng là những người thấy được điều chán/ngán, còn gọi là ác-thần/sự dữ cũng hơi lạ ở Kinh Sách. Còn, người thường đi Đạo sống thực cuộc đời lý-tưởng sẽ ra sao? Hãy nghe đấng bậc có nhiều năm kinh-nghiệm giảng dạy về niềm tin và mục vụ tại trường Đạo ở Melbourne, Úc Châu lại có giòng chảy như sau:

“Mới đây, tôi có sinh-hoạt với một nhóm người trẻ để giúp các em hiểu thêm về căn-tính linh-đạo của họ. Thật ra, cũng chỉ như chuyện xếp hình kiểu Nhật Bản gọi là Origami, mà thôi.

Ý tôi muốn nói là: ta chỉ cần làm mỗi việc như xếp mẩu giấy vụn theo chiều dọc thành hai cột, cũng đơn-giản…. nghĩa là, chỉ việc đưa vào cột dọc này các ơn phúc Trời ban cho con người, tức: các huệ-lộc áp-dụng cho mỗi người và mọi người. Nay, cũng chỉ nên ghi-nhận xem ân-phúc nào được Chúa đem đến cho cuộc sống của mình, chứ không ai khác ngoài mình ra.

Nghĩ thế rồi, tôi bèn bắt đầu làm công việc ấy cách đây 3 ngày và dưới đây là một vài mảnh vụn từ đó nảy ra:

  1. Sáng thứ Hai. Bé trai đầu tiên tôi gặp ở trường học tôi vẫn dạy, có nói với tôi rằng: “Thấy thày lại đến như thế này, thật rất tốt.” Thế tức là, tôi có được nghị-lực làm việc để bớt thấy chán nản trong cả tuần lễ, là do em bé này chúc mừng tôi.

  1. Trưa thứ Hai hôm ấy. Cùng với 4 em học sinh đi đến trung-tâm giúp người vô gia-cư có thức ăn vào buổi sáng, tôi có dịp chuyện gẫu với một nhân-viên thiện-nguyện mà tôi chưa từng gặp mặt. Bà này trạc 6o, thất-nghiệp suốt 18 tháng trời, tức là bà từng trải-nghiệm một thời-gian dài rất chán-ngán. Bà có nhiều bằng cao-học hoặc phó tiến-sĩ gì đó, lại có kinh-nghiệm quản-trị xí-nghiệp rất nhiều năm.

Thế nhưng, công-việc lại không mấy thích-hợp với một người giỏi dang, thiện chí đầy mình. Dù sao thì, hôm ấy, bà đã tập thể-dục chuẩn bị sạch sẽ để gặp mặt những người lê lết ngoài đường phố, rất hôi bẩn. Tôi xúc-động khi thấy phụ-nữ như bà có tinh-thần cao, lại quyết tâm làm những việc rất cần cho người sống lề đường/xó chợ, dù bà vẫn ưa-thích văn-chương nghệ-thuật hơn thứ gì khác. Tôi phấn khởi không ít, và biết ơn các nữ-phụ như bà dám bỏ tất cả ra chỉ để lân-la/gần gũi những con người rất chán đời, nhưng vẫn trân-trọng cử-chỉ đẹp do bà thực-hiện.

Điều hay hơn, là bà chẳng bao giờ tỏ ra là kẻ cả, trịch-thượng và đó là ân-phúc tôi có được vào ngày hôm ấy.

  1. Trưa thứ Ba. Hôm nay, tôi được tin người bạn rất thân đã hưu-dưỡng từ lâu, vẫn tạm-trú ở khu dưỡng bệnh dành cho những người bị ung-thư giai-đoạn cuối. Công việc thường ngày của ông, là giúp các bệnh-nhân đồng cảnh-ngộ viết lên chuyện đời của mỗi người, để họ san sẻ với bạn bè/người thân, trước khi quá vãng. Ông thấy: phần đông những người sắp lìa đời, vẫn muốn để lại các câutruyện đời đủ mọi loại, không có được cơ-hội như mình, hoặc đôi lúc chỉ cần viết ra vài ba giòng chữ trước khi chết, cũng được. Ông đã trở thành một thứ không phải “con ma viết lách” mà là “thần-nhân viết truyện”. Và hôm ấy, tôi lại được chúc phúc vì đã quen biết ông.

  1. Chiều thứ Ba. Tôi vừa được một bạn già khác là linh-mục vừa mới gọi cho biết ông đã có báo cáo thật tuyệt-vời. Nghe chữ tuyệt-vời tôi cứ ngỡ rằng đó là báo-cáo học-trình của ai đó, thì ra là “báo cáo về bệnh-tình của ông, do bác-sĩ trao cho ông. Mấy lâu nay ông bị ung-thư đến giai-đoạn rất nặng, suốt những năm gần đây. Thế nên, chính ra đây phải là tin buồn mới  đúng.

  1. Sáng thứ Tư. Một đồng-nghiệp rất thân của tôi, có lần nói là: anh rất thích nhất câu thơ của Shakespeare để cho nhân vật Polonius nói với Laertes trong “Hamlet”, rằng: Bạn bè ông, nếu họ thử đủ mọi cách khác nhau mà không thuận được gì, thì hãy túm lấy họ bằng móc mắt đem vào hồn là xong… Nghe thế, tôi lại cảm thấy mình được chúc phúc vì có bạn bè thân quen mình có thể túm lấy mà đưa vào hồn mình.

  1. Chiều thứ Tư. Một em học sinh của tôi từ Phi Châu trở lại trường, sau khi nhận thanh-tẩy trong nước, có nói: việc quan-trọng đối với em là về để thấy được mọi người còn sống sót, chứ không phải để nhìn tận mặt sự đói nghèo là thế nào. Em còn nói về châu Phi, như sau: “Đến đó quý đã thấy lạ kỳ rồi, khi rời khỏi nơi đó, lại vẫn thấy kỳ lạ như lúc đến, nhưng ở mức độ còn cao hơn.” Điều này, là loại chóp đỉnh băng đá tảng trôi trên biển mà thôi. Nhưng, cũng có thể là tôi vẫn cần miếng đá ấy mỗi ngày cho mình. Bởi, cuộc sống không chỉ là những sự việc và sự kiện xếp thành nhiều lớp trồi lên trên mà là để cho chúng không bị xếp lớp, mà thôi.” (x. Michael McGirr, Origami Blessings, The Majellan 10/2013-12/2013, tr. 15-16)

Đời người chỉ như băng tảng xếp lớp, mà thôi. Ôi! Còn gì chí lý bằng. Thế tức là, trong chuổi ngày dài cuộc đời, có lớp xếp hướng lên cao, có lớp lại chìm xuống để trôi tan cùng giòng nước. Bạn bè Đấng bậc mô-phạm trường lớp thuờng nghĩ thế. Chứ còn, nghệ-sĩ ở đời thường lại nghĩ khác, nên cứ hát những lời, như:

“Cùng tháng năm mây thu trôi lững thững cuối trời

Biết bao giờ thôi phiêu lãng giữa tháng mưa ngâu,

Em có nghe chăng bài tình ca?

Hôm nào… anh đã hát cho em

Trời đã sang đông, thôi anh làm im vắng

những đêm dài mơ ước gió trăng

Biết bao giờ tình yêu thôi lỡ làng

Biết bao giờ đời anh thôi dở dang”.

À thì ra, “Biết bao giờ đời anh thôi dở dang” thật cũng chán. Thấy chán, là bởi anh thật chẳng biết “bao giờ tình yêu thôi lỡ làng”.

À ra thế. Tất cả, chỉ vì tình yêu mà thôi. Yêu người, yêu vật yêu cả trò chơi, đồ hàng lại thiếu mất tình-yêu, làm sao khá.

Tất cả vì Tình-yêu. Bởi, có tình yêu, là có tất cả. Cho đời mình. Chỉ Tình-yêu, mới làm cho mình/cho người sống cuộc đời đáng sống. Chỉ Tình-yêu, mới là lý-tưởng cuộc sống, không thấy chán. Và, Tình-yêu lại là và vẫn là ý của Đấng Thánh Nhân Hiền, từng dạy dỗ, bảo ban như sau:

“Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy

để thuộc về Đức Kitô,

đều mặc lấy Đức Kitô.

Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp,

nô lệ hay tự do,

đàn ông hay đàn bà;

nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô.

Mà nếu anh em thuộc về Đức Kitô,

thì anh em là dòng dõi ông Ápraham,

những người thừa kế theo lời hứa.”

(Galat 3: 26-29)

Và, một khi đã ở cùng và ở với “Thiên-Chúa-chính-là-Tình-Yêu” rồi, mỗi người và mọi người sẽ thấy đời mình nhẹ nhàng, thư-giãn, rất đáng sống. Sống thảnh-thơi, như lời đấng bậc hiền-triết từng răn dạy người đời bằng câu truyện kể để lại đời như sau:

“Có một người cảm thấy cuộc sống quá nặng nề, bèn đi tìm nhà triết học cầu mong kiếm được con đường giải thoát. Nhà triết học chẳng nói chẳng rằng, chỉ đưa cho ông ta một cái sọt bảo ông đeo lên vai, đồng thời chỉ vào một con đường lổn nhổn đất đá nói:

-Mỗi khi anh bước đi một bước thì nhặt một hòn đá cho vào sọt, xem thử cảm giác như thế nào.

Người này bắt đầu làm theo, còn bậc hiền-riết bước nhanh đến mút đường. Được một lúc, người kia mới đến được chỗ đó. Bậc hiền-triết hỏi anh thấy thế nào. Người kia nói:

-Tôi thấy càng lúc càng nặng.

Đây chính là nguyên-nhân giải thích tại sao anh thấy cuộc đời ngày càng nặng nề. Bậc hiền-triết nói:

-Mỗi người khi đến thế giới này, đều đeo một cái sọt rỗng, mỗi bước đi trên đường đời anh ta đều nhặt thứ gì đó từ thế giới này để bỏ vào sọt, nên càng đi càng cảm thấy mệt.

Người kia lại hỏi:

-Có cách nào giảm bớt gánh nặng này không ?

Bậc hiền-triết hỏi ngược lại anh:

-Vậy anh có đồng ý vứt bỏ một trong các thứ như công việc, tình yêu, gia đình hay tình bạn không? Người kia nghe xong im lặng. Bậc hiền-triết bèn nói tiếp:

-Nếu thấy khó có thể vứt bỏ đi, thì đừng nghỉ đó là gánh nặng nữa, mà nên nghĩ đến niềm vui nó mang lại. Cái sọt của mỗi người chúng ta không những chứa đựng ân-huệ Trời ban, mà nó còn gồm cả trách nhiệm và nghĩa vụ nữa. Khi anh thấy nặng nề, anh cũng đừng vội buồn, có thể cái sọt của người khác còn to hơn, nặng hơn của anh nhiều. Nếu nghĩ như thế, chẳng phải sọt của anh sẽ bớt được nỗi buồn, hay sao?” Trong đời, có biết bao nhiêu thứ nặng nề hằng ngày vẫn “hành hạ” ta, nếu ta cứ “để tâm” đến nó, từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn. Nhưng, nhiều lúc ta cũng quên một điều khá quan trọng, là cuộc sống có hai mặt, mặt nổi và mặt chìm. Một mặt được phơi bày và một mặt vẫn ẩn khuất. Nếu ta chỉ thấy mỗi mặt nổi của sự việc, và vì nó vừa ý hay không vừa ý ta, ta sẽ có kết luận vội vàng, và từ đó, ta cũng vội buồn, vội vui.

Ở đời, cái vừa ý ta thì ít, còn cái không vừa ý ta thì nhiều, nên nhiều lúc ta dễ “chán đời” ! Làm sao “yêu đời” được, khi nhìn chung quanh, ta thấy toàn những điều làm ta mệt mỏi, cô đơn, nặng nhọc?

Bình tâm suy nghĩ, ta sẽ thấy sự việc nào xẩy ra, có thể đối với người này là quá sức tồi tệ, nhưng với người khác, nó lại là chuyện “bình thường”, có khi còn mang ý nghĩa tích cực nữa.

Vậy nên, gánh nặng cuộc đời còn tùy ta nhìn nó từ góc cạnh nào. Nếu ta chỉ nghĩ tới mình, thì làm sao có được niềm vui vừa ý, chắc chắn quang gánh cuộc đời càng nặng trĩu. Chính vì tha nhân, vì người thân yêu, và vì tình người đồng loại, mà gánh nặng cuộc đời được thăng hoa thành niềm vui cao cả, tuyệt vời. Những gì ta cứ tưởng chỉ là nước mắt khổ đau, hóa ra, chúng biến-hóa một cách nhiệm mầu thành nụ cười hạnh phúc.” (truyện kể do St gửi lên mạng)

Truyện kể thế rồi, nay để-nghị bạn/đề-nghị tôi, ta hãy hiên ngang hát tiếp câu ca người nghệ-sĩ viết cho đời trươi lên. Hát rằng:

“Cùng tháng năm mây thu trôi lững thững cuối trời

Biết bao giờ thôi phiêu lãng giữa tháng mưa ngâu,

Em có nghe chăng bài tình ca?

Hôm nào… anh đã hát cho em

Trời đã sang đông, thôi anh làm im vắng

những đêm dài mơ ước gió trăng

Biết bao giờ tình yêu thôi lỡ làng

Biết bao giờ đời anh thôi dở dang”.

(Đức Huy – bđd)

Vâng. “Trời đã sang đông thôi anh làm im vắng” để “những đêm dài mơ ước với gió trăng”… Vâng. Hãy cứ mơ ước rằng đêm dài cuộc đời mình sẽ không còn “tình yêu lỡ làng”, đời anh, đời em sẽ thôi không còn dở dang nữa. Và khi đó, ta sẽ yên hàn vui hưởng cuộc đời rất thương yêu, có Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu luôn ở cùng, sẽ nâng đỡ ta và mọi người suốt một đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn tin tưởng

Và hy vọng

Mãi như thế.

Suốt đời mình.