BẠN CÓ YÊU CHÚA KHÔNG?

THỨ SÁU TUẦN 7 PS

Th. Ri-ta Ca-xi-a, nữ tu

Ga 21,15-19

BẠN CÓ YÊU CHÚA KHÔNG?

Chúa Giê-su hỏi: “Con có yêu mến Thầy không?” Ông Phê-rô đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy.” (Ga 21,17)

Suy niệm : Phê-rô, vị tông đồ đã từng bạo miệng nói với Chúa Giê-su trước khi Thầy bị bắt: “Dù có phải chết với Thầy con cũng không chối Thầy,” bây giờ lại lúng túng khi được Chúa Ki-tô phục sinh hỏi: “Con có yêu mến Thầy không?” Câu trả lời trải lòng của Phê-rô: “Thầy biết mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy” muốn nói lên rằng “Thầy biết rõ con đã chối Thầy, và Thầy cũng biết con vẫn yêu mến Thầy dù con còn nhiều yếu đuối. Chỉ xin cho con biết yêu Chúa với lòng khiêm tốn, sẵn sàng hoán cải mỗi khi vấp ngã, lỗi lầm.

Mời Bạn : Giả như Chúa Giê-su phục sinh hiện ra hỏi bạn, hỏi tôi như đã hỏi Phê-rô: “Con có yêu mến Thầy không?” có lẽ chúng ta còn lúng túng gấp bội. Bởi vì chúng ta không chỉ yếu đuối mà còn vì cuộc đời chúng ta bị bao vây bởi bao mối quan hệ, bị nhấn chìm giữa bao công việc, đến nỗi chúng ta đánh mất ý thức rằng Chúa yêu chúng ta nên đã chết để cứu chuộc ta, Ngài đã sống lại để ban cho chúng ta hạnh phúc sự sống đời đời cũng vì yêu thương ta.

Sống Lời Chúa : Mỗi sáng thức dậy, bạn quì gối và nói với Chúa: Lạy Chúa, con thờ lạy Chúa là Chúa con, con yêu mến Chúa.

Cầu nguyện : Lạy Chúa Giê-su Phục Sinh Quyền Năng, con tin Chúa đang sống bên cạnh cuộc đời con, nhưng con chưa dám trao phó đời con cho Chúa, nên quyền năng của Chúa không thể thi thố trong con được. Con xin thờ lạy Chúa, xin giúp con nhận ra quyền năng Chúa trên cuộc đời con, và để con nói: Con cám ơn Chúa, con yêu mến Chúa. Amen.

PhutCauNguyen:

http://phutcaunguyen.net/BDCN/T7PS/T6T7PS.mp3

Xin mở lòng chúng ta ra, thủ thỉ với Chúa qua những lời ca tiếng hát này:

1. Con chỉ là Tạo Vật:

https://www.youtube.com/watch?v=oU7IzmoppRk

2. Lỗi hẹn:

https://www.youtube.com/watch?v=NNDuqphaUGk

3. Phó Thác:

https://www.youtube.com/watch?v=R8j0UCziJjM

4. Biết Chúa, biết con:

https://www.youtube.com/watch?v=ZnPyABeahXc

5. Tình ca vô tận:

https://www.youtube.com/watch?v=X9kmb8ROHr0

6- Bao la tình Chúa – Hiền Thục

https://www.youtube.com/watch?v=y3m10xlaEcw

God bless,

Hai

LUÔN LUÔN ÐỒNG HÀNH VỚI CHÚA THÁNH THẦN

LUÔN LUÔN ÐỒNG HÀNH VỚI CHÚA THÁNH THẦN

Một trong những bức họa nổi tiếng nhất của thiên tài MichelAngelo còn lưu giữ nơi nhà Nguyện Sixtine của Ðức Giáo Hoàng, trong nội thành Vatican, là bức tranh mô tả việc Thiên Chúa Cha tạo dựng con người.  Cần phải đích thân chiêm ngắm bức họa nổi tiếng nầy, ta mới cảm nghiệm được trọn cả sức thu hút của nó.  Ðể trình bày ý của mình về việc Thiên Chúa tạo dựng con người như thế nào, thiên tài Michelangelo chọn một biểu tượng, một cử chỉ đặc biệt của Thiên Chúa Cha.  Và toàn bức họa chỉ hướng về một cử chỉ duy nhất nầy mà thôi; đó là cử chỉ Thiên Chúa Cha, được mô tả như một Cụ Già oai phong đưa thẳng cánh tay mặt về phía con người còn non yếu chưa có sự sống, với ngón tay trỏ của bàn tay mặt chạm vào ngón tay trỏ của bàn tay trái của con người, để thông ban sức sống của mình sang cho con người.  Ðây là một cử chỉ thật là hùng dũng, đầy ý nghĩa.  Và nếu tập trung chú ý đến hình dạng của hai ngón tay trỏ nầy, chúng ta cũng có thể quan sát một sự khác biệt.  Ngón tay trỏ của Thiên Chúa đưa thẳng ra, trông có vẻ đầy quyền lực, để nói lên sức sống mạnh mẽ của Thiên Chúa.  Còn ngón tay trỏ của con người thì trông thật yếu ớt, chưa đủ sức chỉ thẳng ra, và được thả cho xệ xuống, để nói lên ý nghĩa con người yếu đuối chưa có sự sống, cần lãnh nhận sự sống của Thiên Chúa.

Ðó cũng là hình ảnh cho tác động đầy quyền năng của Chúa Thánh Thần trên con người.  Chúa Thánh Thần được diễn tả ở đây như là “ngón tay trỏ quyền năng của Thiên Chúa.”  Trong lời kinh “Nguyện xin Chúa Thánh Thần ngự đến”, được sáng tác vào thế kỷ thứ 9, thì cách nói “ngón tay trỏ của Thiên Chúa” cũng được dùng để chỉ về Chúa Thánh Thần.

“Chúa là ngón tay hữu Chúa Cha phép tắc, (digitus paternae dextrae)
Mọi ơn phước, mặc thửa lượng Người liệu định phân ban.”

Hành động đầu tiên của Chúa Thánh Thần, cùng với Chúa Cha và Chúa Con, là trao ban sự sống cho con người.  Không có sức sống ban cho, con người có chi là cao trọng xứng đáng!  Trong kinh tin kính của công đồng Nicêa, chúng ta tuyên xưng: Tôi kính Ðức Chúa Thánh Thần, là Chúa và là Ðấng ban sự sống.”  Chúa Thánh Thần là nguồn mạch sự sống, là chính sự Sống.  Trên bình diện thần học, chúng ta cần lưu ý thêm là chính Thiên Chúa Ba Ngôi, Cha ,Con và Thánh Thần, là nguồn mạch sự Sống và cùng trao ban sự sống cho con người.  Nhưng một cách đặc biệt, trong ngôn ngữ chúng ta dùng, thì chúng ta muốn phân biệt mỗi Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa, đều có một sứ mạng riêng, và thường được chúng ta phân biệt nói đến như sau: Thiên Chúa Cha tạo dựng, Thiên Chúa Con cứu chuộc, và Thiên Chúa Thánh Thần ban ơn thánh hóa.

Trong những chia sẻ nầy, chúng ta hướng về Chúa Thánh Thần, trong sứ mạng riêng của Ngài, Ðấng ban sự sống, Ðấng ban ơn thánh hóa con người, Ðấng làm cho ơn cứu chuộc đã được Chúa Giêsu thực hiện, được hữu hiệu mỗi ngày một hơn nơi mọi tín hữu.  Tuy sứ mạng được nói riêng cho từng Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa, nhưng nói cho cùng thì đều quy về một Thiên Chúa Ba Ngôi, không có sự tách biệt phân rẽ nào cả.

Chúa Thánh Thần là Ngón Tay hữu của Thiên Chúa quyền năng, chạm đến chúng ta để thông truyền cho chúng ta sức sống của Thiên Chúa.  Thật là một điều có ý nghĩa, khi Giáo Hội chọn Thánh Thi cho giờ kinh thứ ba (tức lúc 9 giờ sáng trong ngày, giờ Chúa Thánh Thần Ngự Xuống, trong Biến Cố Hiện Xuống khai sinh giáo hội) là một Thánh Thi dâng lên Chúa Thánh Thần.  Thánh Thi đó như sau:

Lúc nầy đây, lạy Thần Linh cực Thánh, dủ tình thương ngự đến tâm hồn, cùng Chúa Cha và hợp với Chúa Con, tỏa bao la rạng ngời muôn ánh sáng.  Ðể chúng con, trong lòng như ngoài miệng, trót cuộc đời cùng trót cả tấm thân, Bừng cháy lên lửa yêu Chúa vô ngần, mà sưởi ấm tha nhân bằng thương mến.  Xin nhận lời muôn lạy Chúa toàn năng, cậy nhờ Ðức Kitô Con Một Chúa, Ðấng trị vì cùng với Chúa Thánh Thần, tự ngàn xưa tới muôn đời muôn thuở.  Amen.

Còn có lời Kinh đầy ý nghĩa khác được Giáo Hội dùng trong những cử hành long trọng.  Ðó là kinh Veni Creator, Spiritus.  Lạy Chúa Thánh Thần, Ðấng Sáng Tạo, xin hãy ngự đến.

Trong lời kinh nầy, Giáo Hội hướng về Chúa Thánh Thần, Ðấng Sáng Tạo, Creator.  Và thật vậy, Chúa Thánh Thần đều có mặt và tác động trong hai công cuộc sáng tạo.  Công cuộc sáng tạo lần thứ nhất, sáng tạo vũ trụ và con người, như được nhắc đến nơi những dòng đầu tiên của Sách Sáng Thế; và Ngài hiện diện và tác động trong công cuộc sáng tạo lần thứ hai, được bắt đầu với Mầu Nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa, trong cung lòng Mẹ Maria, cho đến khi hoàn tất nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua, chết và sống lại của Chúa Giêsu Kitô.

Chúng ta hãy dành những phút hồi tâm chiêm ngắm sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần trong công cuộc sáng tạo thứ nhất, lúc Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ và con người.  Ðó là giây phút quan trọng nhất, được linh ứng cho tác giả sách Sáng Thế để ghi lại nơi những câu đầu tiên của sách Sáng Thế như sau:  Khởi thủy Thiên Chúa đã dựng nên trời và đất.  Ðất thời trống không mông quạnh, và tối tăm trên mặt uông mang.  Và Thần Khí là là trên mặt nước. (STK 1,1-2).

Câu Kinh Thánh diễn tả sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần nơi công cuộc tạo dựng đầu tiên là câu: “Thần Khí là là trên mặt nước.”  Nguyên ngữ Do Thái được dùng nơi đây là: RUAH, và có thể được chuyển dịch theo hai từ hai nghĩa: là Gió, là Hơi Thở, là Thần Khí, là Thần Khí của Thiên Chúa.

Dĩ nhiên, mạc khải của Cựu Ước về Thiên Chúa Ba Ngôi nói chung và về Chúa Thánh Thần nói riêng, chưa được rõ ràng.  Chúng ta chỉ có được mạc khải rõ ràng về Thiên Chúa Ba Ngôi, về Chúa Thánh Thần, nhờ qua mạc khải của Chúa Giêsu Kitô trong Tân Ước.  Nhưng những gì được linh ứng để nói ra nơi Cựu Ước, đều có hàm chứa những dấu chỉ, những ý nghĩa cho phép ta hiểu trước về thực tại được mạc khải trọn vẹn nơi Chúa Giêsu Kitô.  Các nhà chú giải ngày nay, gần như đa số, đều công nhận những câu đầu tiên của Sách Sáng Thế có hàm chứa ý nghĩa nói đến sự hiện diện tích cực của Chúa Thánh Thần trong công cuộc tạo dựng lần thứ nhất.  Vì thế các nhà chú giải và dịch giả Kinh Thánh không dùng từ “Luồng Gió Mạnh” mà dùng từ rõ ràng hơn là Thần Khí, hay Thánh Thần của Thiên Chúa.  Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo.  Ðấng ban sự sống, Ngài hiện diện và tác động để vạn vật vũ trụ nầy được sinh động trong trật tự, được lãnh nhận và phản ánh vinh quang Thiên Chúa.

Nguyện xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho chúng ta được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa nơi mọi tạo vật.  Ngài đã hiện diện và tác động ở đó trước chúng ta, trước khi chúng ta hiện hữu.  Xin Ngài giúp chúng ta được nhìn thấy ngài và dâng lời chúc tụng Thiên Chúa.

Sáng Danh Cha và Sáng Danh Con, Sáng Danh cả Thánh Linh Thiên Chúa.  Từ muôn đời và chính hiện nay. Và luôn mãi thiên thu vạn đại. Amen.

R. Veritas

RA ĐI THA THỨ

RA ĐI THA THỨ

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

Khi nói về Chúa Thánh Thần, ta thường nghĩ đến bảy ơn Người ban qua bí tích Thêm Sức. Ta như người lãnh nhận một cách thụ động. Và những ơn Người ban chẳng ảnh hưởng gì đến đời sống ta. Đó thực là một quan niệm sai lầm tai hại. Thực ra, Đức Chúa Thánh Thần là nguồn sự sống mãnh liệt, là sự trẻ trung của Giáo Hội, là năng lực đổi mới thế giới. Hãy đọc lại bài đọc I, ta sẽ thấy sức mạnh đổi mới của Người mãnh liệt như thế nào. Người như luồng gió cường tráng. Người như ngọn lửa bừng bừng. Luồng gió và ngọn lửa ấy đã khơi dậy nguồn năng lực tiềm ẩn nơi những bác thuyền chài thất học, biến họ thành những con người thay đổi thế giới. Nhận lãnh ơn Đức Chúa Thánh Thần là nhận lãnh sứ mạng hành động. Hôm nay, Chúa Giêsu tóm tắt sứ mạng hành động đó qua 2 nhiệm vụ: Ra đi và Tha thứ.

Nhiệm vụ thứ nhất mà Đức Giêsu trao cho các môn đệ khi ban Thánh Thần cho các ông, đó là RA ĐI: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nhận lãnh Chúa Thánh Thần là được sai đi. Chúa Thánh Thần là sức mạnh hành động. Người không thể bị giam hãm trong những căn phòng đóng kín cửa. Người không ưa thích những tâm hồn khép kín trong ủ rũ điêu tàn. Người đến đâu là mở tung cửa nhà ra đến đấy. Mở ra để đón lấy những luồn gió mới tươi mát. Mở ra để đón nhận mọi người đến với mình. Và nhất là mở ra để mình đến với mọi người. Một cuộc sống không giao tiếp sẽ trở nên nghèo nàn, tàn lụi. Một tâm hồn chỉ quy hướng về bản thân sẽ chẳng khác một vũng ao tù, ô nhiễm. Ra đi sẽ giúp ta nên phong phú, mạnh mẽ. Ra đi không phải là lang thang không mục đích, nhưng là đi đến những địa chỉ Thánh Thần muốn gửi ta đến. Những địa chỉ Thánh Thần muốn ta đến đó là “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19). Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ. Người sẽ phá tan cánh cửa hẹp hòi. Người sẽ củng cố những tâm hồn nhút nhát. Người sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu phong. Người sẽ đổ tràn vào hồn ta nguồn nhựa sống mới giúp ta hăng hái lên đường.

Nhiệm vụ thứ hai mà Đức Giêsu trao cho các môn đệ khi ban Thánh Thần cho các ông, đó là THA THỨ: “Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha”. Tha thứ, hoà giải luôn là một vấn đề lớn của thế giới. Trên thế giới, những cuộc chiến tranh, chia rẽ, xung khắc xảy ra hầu như hằng ngày. Con người là bất toàn, nên sống chung là có bất đồng, xung khắc. Nếu cứ mỗi lần có xung khắc, ta loại trừ đi một người bạn, thì có lẽ cuối cùng ta sẽ chẳng còn người bạn nào. Người ta không thể sống một mình. Mỗi người đều cần đến người khác. Sống chung với nhau là một nhu cầu. Vì thế, việc tha thứ, hoà giải là vô cùng cần thiết. Hoà giải hệ tại ở hai động tác: xin lỗi và tha lỗi. Hai việc đều khó làm. Vì con người đầy tự ái. Dù biết mình lỡ lầm, nhưng ít có ai đủ can đảm nhận lỗi và xin lỗi. Xin lỗi đã khó, tha lỗi còn khó hơn. Chính vì thế, việc hoà giải cần rất nhiều ơn Chúa Thánh Thần, ở đây, ta phải nhìn vào Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô như tấm gương sáng chói. Người là tấm gương sáng về sự ra đi. Cuộc đời Người là một cuộc ra đi không biết mệt mỏi. Dù tuổi cao sức yếu, nhưng Người vẫn lên đường đi đến với mọi dân tộc, mọi đất nước. Người tiếp xúc với tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo, chính kiến, mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ. Người đi đến với cả những kẻ chống đối, bất hoà và thù nghịch với Người. Để chuẩn bị đón mừng Năm Thánh, Người đã làm một cử chỉ ngoạn mục chưa từng có trong lịch sử Giáo Hội. Đó là Người công khai nhìn nhận những lỗi lầm của Giáo Hội để xin mọi người tha thứ. Đây quả là một hoạt động của Chúa Thánh Thần để thanh tẩy Giáo Hội. Đức Thánh Cha đã được ơn Chúa Thánh Thần nên đã ra đi làm hoà với mọi người. Chính cử chỉ khiêm nhường ấy đã giúp đổi mới Giáo Hội, đem đến cho Giáo Hội một khuôn mặt mới trẻ trung hơn, một sức sống mới dồi dào hơn, một phong cách hiện diện mới dễ thương dễ mến hơn.

Ta hãy biết noi gương Đức Thánh Cha. Hãy biết ra đi, không chỉ là đi hành hương viếng nhà thờ để lãnh ơn toàn xá, nhưng còn là ra đi đến với những người bé nhỏ, nghèo hèn, những người bị bỏ rơi, những người kém may mắn ở đời, những người ta không ưa thích, những người chống đối ta, cả những người làm hại ta nữa. Nhất là hãy gieo rắc sự tha thứ. Tha thứ cho anh em để anh em cũng tha thứ cho ta, để chúng ta xứng đáng trở thành con Thiên Chúa. Đức Chúa Thánh Thần muốn đổi mới Giáo Hội. Nhưng việc đổi mới phải bắt đầu từ mỗi tâm hồn. Đức Chúa Thánh Thần sẽ canh tân bộ mặt thế giới, nhưng việc canh tân phải khởi đi từ mỗi con người. Ta hãy mở rộng tâm hồn đón nhân ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương trình của Người.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới tâm hồn con.

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

THẦN KHÍ

THẦN KHÍ

Khi đến giảng cho dân chúng tại Êphêsô, thánh Phaolô đã hỏi họ: “Anh chị em đã lãnh nhận Thánh Thần chưa?” Tất cả mọi người có mặt lúc đó đều ngạc nhiên, nhìn nhau không hiểu gì hết. “Thánh Thần là gì? Thánh Thần là ai? Chúng tôi chưa hề nghe thấy ai nói đến nhân vật xa lạ đó, phương chi là đã lãnh nhận hay không”. Đó là câu trả lời của những người ở Êphêsô khi nghe thánh Phaolô hỏi họ về Chúa Thánh Thần.

***

Bạn thân mến! Trong tiếng Hípri, người ta dùng cùng một chữ để diễn tả “gió”, “hơi thở” và “thần khí”. Cũng như người ta không thể nhìn thấy gió mà chỉ thấy hậu quả của nó. Thần Khí của Thiên Chúa chỉ được nhận ra nơi những người được tác động và làm theo sự hướng dẫn của Thần Khí Thiên Chúa.

Hơi thở thì gắn bó chặt chẽ với sự sống; hơi thở là dấu chỉ của sự sống. Với phương pháo cấp cứu miệng qua miệng, chúng ta có thể đem lại sự sống cho một người mà phổi đã ngưng hoạt động, nhờ hơi thở ta.

Trong sách Sáng Thế, chúng ta đọc thấy Thiên Chúa thổi hơi vào Ađam và ông trở nên sống động. Khi Thiên Chúa chọn những người để thi hành các sứ vụ đặc biệt, chẳng hạn như ông Samson, vua Saun, vua Đavid và những người khác nữa, thì “thần khí của Thiên Chúa” cũng được ban cho họ. “Thần khí của Thiên Chúa” được xem như nguồn mạch của sự sống và của mọi thành tựu lớn lao của dân Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ.

Trong bối cảnh này, chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa việc Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ. Đó là dấu chỉ ngoài sự sống thể lý, họ còn lãnh nhận một sức sống thiêng liêng và họ được sai đi thi hành một sứ vụ lớn lao. Mọi sự đều biến đổi trong cuộc sống của họ. Sự sợ hãi đổi thành vui mừng và can đảm; sự dữ của tội lỗi bị đánh bại bởi quyền năng của ơn tha thứ. Khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta cũng được lãnh nhận Chúa Thánh Thần một cách đặc biệt. Chúng ta được tái sinh và được tuyển chọn để thi hành một sứ vụ đặc biệt. Chúng ta trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần. Nghe có vẻ rất tốt đẹp, nhưng chúng ta có cảm nghiệm được quyền năng của Chúa Thánh Thần trong chúng ta không?

Thực ra, Chúa Thánh Thần không phải là vấn đề của cảm xúc, nhưng là việc chúng ta có mở lòng ra để Thần Khí của Thiên Chúa tràn vào cuộc sống của mình. Đó là việc chúng ta có sẵn sàng từ bỏ mọi kế hoạch, mọi ý riêng, và không tự mình hướng dẫn mình nhưng để cho Thần Khí dẫn dắt chúng ta. Dĩ nhiên, đây là một cuộc mạo hiểm nhưng là một cuộc mạo hiểm đem lại sự giải thoát. Một khi để cho Thần Khí của Thiên Chúa ban sự sống, tăng cường sức mạnh, như chúng ta đã nhìn thấy nơi cuộc đời của các thánh tông đồ sau ngày lễ Ngũ Tuần, thì cuộc sống của họ liền được biến đổi hoàn toàn. Tại sao không để cho Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong tâm hồn bạn, sử dụng quyền năng của Người mà biến đổi toàn diện cuộc đời của bạn?

***

Lạy Chúa, ngày xưa Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ và cuộc đời của các ngài đã được biến đổi hoàn toàn. Giờ đây, xin Chúa cũng ban Thánh Thần xuống trên con để giúp con vượt thắng mọi trở ngại mà trở nên một môn đệ can đảm của Chúa giữa trần gian này, Amen.

Tổng hợp từ R. Veritas

KHÔNG CHẠY THEO ĐÁM ĐÔNG

KHÔNG CHẠY THEO ĐÁM ĐÔNG

Trong Phúc âm, từ “đám đông” gần như luôn luôn được sử dụng với ngụ ý chê bai, thường xuyên đến mức lúc nào nhắc tới nó thì bạn liên tưởng đến tính từ “vô tâm”.

Đám đông không có tâm trí.  Họ được châm ngòi và thôi thúc bởi bất kỳ loại năng lượng gì đang phổ biến, đang phóng đại, thói thời thượng, đua đòi theo ý thức hệ, hay trong cơn cuồng loạn.  Trong Phúc âm, loại năng lượng này được gọi là “sự kinh ngạc.”  Rất nhiều trường hợp khi Chúa Giê-su nói hoặc làm điều gì gây ngạc nhiên cho đám đông, thì hầu như bao giờ cũng có câu này theo sau: “và đám đông kinh ngạc.”  Hiếm khi đó là một điều hay.

Tại sao?  Có vấn đề gì sai trái hay nguy hiểm về năng-lượng-đám-đông này?

Năng-lượng-đám-đông nguy hiểm bởi vì, trong hầu hết mọi trường hợp, nó không suy nghĩ.  Nó chỉ đơn thuần là dẫn và truyền đi năng lượng chứ không suy xét và chuyển hóa năng lượng.  Một hình ảnh minh họa thích hợp cho năng-lượng-đám-đông, sự kinh ngạc theo nghĩa trong kinh thánh, là sợi dây điện.  Sợi dây điện đơn thuần là để tải năng lượng đi qua.  Nó không phân biệt loại năng lượng đó tốt lành hay có tính hủy diệt.  Nó là vật dẫn thuần túy.  Bất cứ cái gì đi vào thì chính cái đó đi ra.

Các đám đông có xu hướng hành xử giống nhau.  Họ để năng lượng đi qua mình mà không phân biệt và suy xét năng lượng đó tốt hay xấu.  Ví dụ, chúng ta thường nói bị/được cuốn theo vào một loại năng lượng nào đó.  Đôi khi đó là năng lượng tốt, khi đám đông được cuốn theo một loại năng lượng tích cực, giúp xây dựng cộng đồng.  Ví dụ, trong mấy tuần qua, dân chúng trên thế giới cuốn theo cuộc giải cứu những người thợ mỏ bị mắc kẹt dưới hầm mỏ ở Chi-lê, và năng lượng chung đó đã giúp tạo ra một cộng đồng xuyên qua ranh giới các quốc gia, sắc tộc, tôn giáo và chính trị.  Chúng ta cũng thấy hầu hết các năng-lượng-đám-đông tích cực xung quanh các sự kiện thể thao chẳng hạn như Giải Vô địch Bóng đá Thế giới World Cup, giải Vô địch Bóng chày Thế giới World Series of Baseball, hay nhiều giải quần vợt.

Nhưng hầu hết năng lượng của đám đông mang tính cách tiêu cực, năng lượng của ý thức hệ, của chủ nghĩa nguyên giáo, phân biệt chủng tộc, thói thời thượng, và sự phóng đại.  Năng-lượng-đám-đông là năng lượng thúc đẩy cưỡng bức tập thể.  Đó cũng là năng lượng đằng sau việc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá.  Vấn đề sáng tỏ khi nhìn đám đông đó trước và trong cuộc đóng đinh trên thập giá. Năm ngày trước khi bị đóng đinh, Chúa Giê-su bước vào thành Jerusalem và đám đông cuồng nhiệt hô vang lời tán tụng, muốn tôn người lên làm vua của họ.  Năm ngày sau, hầu như chẳng có gì thay đổi, cũng cùng đám đông đó la hét: “Đóng đinh hắn vào thập giá!  Đóng đinh hắn vào thập giá!”  Đám đông hay thay đổi vì đám đông không suy nghĩ.  Họ chỉ đơn thuần truyền tải bất cứ năng lượng gì đang bao phủ họ.

Phúc âm kể câu chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình và bị đám đông nhiệt tình dẫn đến gặp Chúa Giê-su, ở đây chúng ta thấy một minh họa trọn vẹn nhất cho loại năng lượng không suy xét, nguy hiểm của đám đông tương phản với loại năng lượng có suy xét của cá nhân.  Câu chuyện kể đám đông dẫn người phụ nữ tới trước mặt Chúa Giê-su và yêu cầu Ngài phải đồng ý với họ về mặt luân lý rằng phải ném đá bà ta cho đến chết.  Nhưng Giê-su, với lời thách thức nổi tiếng, bảo họ rằng: “Ai thấy mình không có tội thì ném trước.”  Phản ứng của họ là: “Họ bỏ đi, từng người một, đầu tiên là người lớn tuổi nhất.”  Một đám đông vô tâm, bị cuốn theo cơn bốc đồng về luân lý, đã đem người phụ nữ tới trước mặt Chúa Giê-su.  Nhưng họ bỏ đi với tư cách cá nhân, từng người một, không còn bị cuốn đi trong cơn bốc đồng kinh ngạc đó nữa.

Tuy nhiên, cần phân biệt hết sức rõ ràng giữa kinh ngạc với ngưỡng mộ (wonder) và thán phục (awe). Ngưỡng mộ và thán phục là phản đề của kinh ngạc.  Trong kinh ngạc, năng lượng chảy xuyên qua bạn. Trong ngưỡng mộ và thán phục, năng lượng làm bạn sững sờ, tê liệt, và giữ chặt bạn lại.  Danh hài George Carlin châm biếm một cách sắc sảo về sự khác biệt này:  Khi giải thích tại sao ông vốn nghi ngờ phần lớn những người “tái sinh”, Carlin đã châm chọc như sau – rất nhiều người biết đến lời nổi tiếng này: “Tôi không tin những người tái sinh vì họ nói quá nhiều.  Khi tôi sinh ra tôi choáng váng tới mức không thể nào nói được gì trong hai năm liền!  Khi một người có một trải nghiệm tâm linh đủ mạnh mẽ để khiến họ im bặt trong vài năm, thì tôi mới tin họ!”

Có một thách thức trong những lời đó: Hãy ý thức về loại năng lượng phát ra từ đám đông.  Hãy ý thức về các thói thời thượng.  Hãy ý thức về mọi thể loại cường điệu.  Hãy ý thức về những người cổ vũ cho cả phe tự do lẫn phe bảo thủ.  Hãy ý thức về bất cứ đám đông nào muốn ném đá một ai đó cho tới chết nhân danh Chúa.

Hãy nghĩ lại tất cả những lần đóng đinh người khác trên thập giá mà bạn đã tham gia, và hãy nhớ lại, sau đó, khi tỉnh táo và nhìn nhận rõ ràng trong một bầu không khí khác, bạn đã tự hỏi mình:  Làm sao mình lại có thể sai lầm đến vậy?  Tàn nhẫn đến vậy?  Ngu dại đến vậy?  Hãy đọc lại những câu chuyện trên báo chí và trên internet về những thanh niên có tâm tốt, đàng hoàng, bị cuốn theo năng lượng đám đông, đã tấn công qua mạng (cyber-bully) một người nào đó đến mức người đó phải tự vẫn.  Hãy suy nghĩ, trong mỗi trường hợp, nhiều người có trách nhiệm cuối cùng đã bỏ đi như thế nào, từng người một, tỉnh táo hơn nhiều và suy xét chính chắn hơn nhiều so với khi họ bị cuốn đi trong năng lượng vô tâm của đám đông.

Sau đó, có lẽ, một cách nhẹ nhàng hơn, bạn hãy bày ra những bức ảnh cũ chụp các kiểu tóc, kiểu áo quần của bạn qua nhiều năm, thì bạn sẽ có tất cả những lời nhắc nhở cần thiết rằng năng lượng của phút giây đó dễ thay đổi và vô tâm đến như thế nào.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

VỀ TRỜI

VỀ TRỜI

Tác giả: Lm. Vinh Sơn, scj

Lễ Thăng Thiên B

Cv 1,1-11; Ep 1,17-23; Mc 16,15-20

Gia đình Hersten là một gia đình Do Thái thuê Sophie Beranska về chăm sóc cho mấy đứa trẻ trong nhà họ. Ngay hôm đầu tiên khi biết được Sophie là người Công giáo, ông chủ đặt điều kiện là nàng không được “giảng đạo” cho con cái ông. Sophie nhận lời. Và chiều hôm ấy, lúc còn lại một mình trong phòng, nàng lấy một mảnh giấy nhỏ, viết một dòng chữ xếp lại và bỏ vào chiếc huy chương cha nàng để lại, rồi mang vào cổ. Lũ trẻ trong nhà nhiều lần đòi Sophie cho coi chiếc huy chương ấy nhưng nàng nhất định không cho vì đó bí mật của đời cô!

Dưới sự chăm sóc chỉ bảo của Sophie, lũ trẻ hiếu động trong gia đình của Hersten càng ngày càng trở nên ngoan ngoãn. Cuộc sống đang lặng lẽ trôi qua thì một hôm, tai họa dồn dập xảy đến: Bé Naim đau nặng, cả nhà cuống quít đưa đi bệnh viện. Sophie tình nguyện túc trực ngày đêm ở đó. Rồi thêm hai đứa nữa cũng ngã bệnh. Gánh đã nặng thì càng nặng thêm trên đôi vai Sophie. Tuy nhiên nàng vẫn tận tình phục vụ cách vui vẻ cho đến khi 3 đứa nhỏ trở lại bình thường. Rồi một hôm, kết quả của những ngày lao nhọc thức khuya dậy sớm, Sophie ngã bệnh và từ trần.

Hai năm trôi qua… vào ngày giỗ của Sophie Beranska. Người ta thấy cả gia đình Hersten dậy sớm và cùng nhau đến một nhà thờ Công giáo dự thánh lễ…

Sau khi Sophie đã mất được ít lâu, tình cờ khi mở chiếc huy chương của nàng mà tụi trẻ đã vất lăn lóc từ lâu trong một hộc tủ, ông Hersten rút ra được một mảnh giấy trên có ghi dòng chữ: “Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi, tôi quyết sống đạo của tôi trước mặt họ như một chứng tích hùng hồn”.

Ông và gia đình hết sức bàng hoàng và cảm phục. Sau đó cả gia đình Hersten đến nhà thờ xin được học đạo và lãnh nhận bí tích Rửa tội…

Sophie Beranska sống trách nhiệm của người môn sinh mà Chúa Giêsu khi về Trời đã lệnh truyền cho các môn đệ: “…hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo…” (Mc 16,15). Vâng theo lệnh truyền của Thầy, các tông đồ đã đi khắp nơi rao giảng Tin mừng (Mc 16,20). Sứ mạng ra đi loan báo đã mở đầu một thời kỳ mới của Giáo hội. Chúa Giêsu hứa sẽ ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế trong sứ mạng các tông đồ ra đi loan báo (x. Mt 28,20). Sophie Beranska đã loan báo cả cuộc đời…

Kinh Thánh nhấn mạnh: Chúa Giêsu lên trời 40 ngày sau khi Ngài phục sinh (Cv 1,3). Tin Mừng Marco nhấn mạnh tóm lược các sự kiện trước khi Chúa Về Trời, sau khi Ngài Phục sinh bốn sự kiện:

· Sự kiện thứ nhất (x. Mc 16,9-11) thuật việc Chúa hiện ra với bà Mađalêna (x. Ga 20,11-18).

· Sự kiện thứ hai (x. Mc 16,12-13) tóm tắt chuyện hai môn đệ đi về làng Emmaus mà Tin Mừng Luca kể chi tiết (x. Lc 24,13-35).

· Sự kiện thứ ba (x. Mc 16,14-18) Chúa hiện ra cho nhóm mười một; Người trách họ cứng lòng tin và trao cho họ sứ mạng rao giảng Tin mừng (x. Lc 24,36-43).

· Sự kiện thứ tư (x. Mc 16,19-20) ghi nhận vắn tắt việc Chúa lên trời (x. Lc 24,50-53; Cv 1,9-11).

Thánh Ambrôsiô nối kết giữa sự kiện Chúa Phục sinh và biến cố Thăng Thiên trong đời sống của người tín hữu: “Nếu Chúa chết đi mà không sống lại thì mọi tin tưởng của chúng ta đều là ảo tưởng (x. 1Cr 15,17). Nhưng nếu Chúa sống lại mà không lên trời thì bao gian lao đau khổ chúng ta phải chịu vì Chúa phải cho là vô ích. Bởi vì, chúng ta sẽ lấy đà nào để chịu khó, nếu chúng ta không có hy vọng lên trời”.

Tin Mừng Marco nhấn mạnh Chúa Giêsu được đưa lên trời (Mc 16,19a), về Trời là trở lại nơi Người đã xuất phát mà đến trần gian. Chữ “trên trời” chỉ nơi Thiên Chúa hiện diện (x. Mc 1,10; 6,41; 7,34; 11,25). Lên trời là đi vào sự hiệp thông tuyệt hảo và vĩnh cửu với Chúa Cha, trong đó Người được chia sẻ với Cha quyền năng và vinh quang. Được lên Trời và ngự bên hữu Thiên Chúa (Mc 16,19b), từ ngữ “ngồi bên hữu” chỉ địa vị cao trọng và quyền hành của Thiên Chúa (x. Mc 14,62; 16,19; x. 10,37; 12,36; Tv 110,1) như Đức Giêsu trả lời với các thầy Thượng tế: “Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mc 14,62).

Cho nên, Chúa Thăng Thiên, nghĩa là Ngài được tôn vinh. Chính vì thế Thánh Vịnh đã cất lời ca ngợi sự vinh hiển của Đức Giêsu từ ngàn xưa :

“Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi!

Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo!

Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý,

là Vua Cả thống trị khắp địa cầu”

(Tv 47,2-3).

Vì thế, hoan ca chúc tụng Đấng về Trời là “dâng Ngài khúc đàn ca tuyệt mỹ nhất” vì Ngài là Đức Chúa hiển trị ở bên hữu Thiên Chúa Cha:

“hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa,

đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta!”

…Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân,

Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả”

(Tv 47,7.9).

Trời là nơi xuất phát của Ngôi Hai Thiên Chúa, đó là quê hương của mọi người tin vào Ngài phải hướng đến, như Ngài đã gợi mở: “Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với các con rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho các con. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho các con, thì Thầy lại đến, và đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó”(Ga 14,1-3). Cho nên, Trời là quê hương mà chúng ta phải hướng về như Thánh Phaolô đã xác tín: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl 3,20). Trời là phần thưởng dành cho những ai tin và bỏ mọi sự theo Chúa Kitô đã hứa : “Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,12).

Để được về quê Trời, sống theo ý của Thiên Chúa, Đức Giêsu phán: “Không phải những ai cứ kêu Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! mà được vào Nước Trời, mà chỉ những ai làm theo thánh ý của Cha Ta”(Mt 7,21-23; Lc 6,46; 13,26-27). Vì thế, với chúng ta như Thánh vịnh khẳng định :

“Tuân theo thánh ý Chúa,

con vui sướng hơn là được tiền rừng bạc bể”

(Tv 119,14).

Xin cho chúng con biết sống tinh thần ngóng vọng về Trời dù sống trong hiện tại trần thế, vì:

“Ðức Ki-tô niềm tin của thế giới

Lên cõi trời ngợp vinh hiển cao sang”.

(Thánh Thi Kinh Sáng lễ Thăng Thiên)

Lm. Vinh Sơn scj, Sài gòn

Đức Giáo Hoàng phong hiển thánh cho 4 nữ chân phước

Đức Giáo Hoàng phong hiển thánh cho 4 nữ chân phước

Ðức giáo hoàng Phanxicô vừa làm lễ phong thánh cho các nữ chân phước tại Vatican, ngày 17/5/2015.

Ðức giáo hoàng Phanxicô vừa làm lễ phong thánh cho các nữ chân phước tại Vatican, ngày 17/5/2015.

17.05.2015

Bốn nữ chân phước, trong đó có hai người Palestine, vừa được tôn phong hiển thánh của Giáo hội Công giáo La mã.

Ðức giáo hoàng Phanxicô vừa làm lễ tôn phong hiển thánh cho các nữ chân phước này hôm nay, Chủ nhật, ở Vatican.

Hai nữ chân phước Mariam Bawardy và Marie Alphonsine Ghattas ở nơi mà hồi thế kỷ thứ 19 là nước Palestine.

Lễ tôn phong hiển thánh  cho hai nữ tu này được xem như là một sự kích lệ cho người Công giáo trên khắp Trung Ðông đang đối diện với làn sóng bức hại của các phần tử cực đoan Hồi giáo. Đây là những vị thánh đầu tiên trên Đất Thánh kể từ những năm đầu đời của Kitô giáo.

Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas tham dự thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Một nữ chân phước người Pháp và một nữ chân phước Italia cũng được tôn phong hiển thánh hôm Chủ nhật. Cả hai nữ thánh này là người sáng lập ra các tổ chức giáo dục cho người nghèo.

Đừng sợ bạn ơi hãy đứng thẳng lên!

“Đừng sợ bạn ơi hãy đứng thẳng lên!”

ca ngợi quê hương.. của chúng ta

bằng niềm tin chứa chan trong tim..

người thanh niên.”

(Lê Hựu Hà – Bài Ca Tuổi Trẻ)

(Mt 8: 26/Mc 4: 40)

Trần Ngọc Mười Hai

Quả rất đúng! Là thanh niên, hay bạn hiền của mọi người, có gì mà sợ cơ chứ! Sợ cũng đâu giải quyết được gì, cho nên tội!

Quả là, người đời có sống ở đời rất nhiều năm, vẫn cứ sợ. Sợ ma. Sợ quỷ. Sợ bóng, sợ vía, sợ cả những gì chẳng đáng sợ, rất bao giờ.

Quả thật nhà Đạo xưa nay nhiều người cũng có sợ. Sợ tội, sợ lỗi, sợ cha cố, sợ cả ma sơ vốn rất hiền như được kể ở bài hát “Em hiền như ma sơ”. Nói chung là sợ tất cả mọi ông lơ mơ/lờ mờ, rất linh mục. Không tin ư? Vậy thì, mời bạn/mời tôi, ta theo dõi những giòng kế tiếp, hạ hồi sẽ hiểu.

Vâng, cứ như người nghệ sĩ ngoài đời, ta nên hát đã rồi tính sau. Hát rằng:

“Một nụ hoa trên mái tóc hững hờ

một tình thương cho cuộc sống đang chờ đang đợi ta

đừng vùi tương lai kiếp sa hoa

đừng vì tin yêu trong e ngại với rụt rè hỡi những người thân tuổi trẻ

Đừng nhìn tương lai với những lo sợ

đừng nhìn tha nhân trong nỗi nghi ngờ hay dèm pha

đừng sợ chông gai vướng chân ta

đừng ngại gian lao suốt tâm hồn sáng chân người

đang trên đường dựng đời mới

(Lê Hựu Hà – bđd)

Hát thế rồi, lại cứ thêm đôi câu “rất không sợ”, như sau:

“Đừng sợ bạn ơi hãy đứng thẳng lên

ca ngợi quê hương.. của chúng ta

bằng niềm tin chứa chan trong tim..

người thanh niên

Đừng sợ bạn ơi hãy đứng thẳng lên

cuộc đời đang.. dang tay đón ta

bằng yêu thương ta đi xóa tan..

mọi căm hờn.”

(Lê Hựu Hà – bđd)

Vâng. Hãy đứng thẳng lên” mà “ca ngợi quê hương chúng ta”. “Hãy đứng thẳng lên” vì “cuộc đời đang dang tay đó ta bằng yêu thương”.

Vâng. Đừng sợ bạn ạ! Hãy cứ hát những câu như:

“Đừng ngồi yên nghe tiếng khóc quanh mình

đừng ngồi yên trên nhung gấm vô tình hỡi bạn thân

đừng vùi lương tri dưới gót chân

đừng nhìn tha nhân đang kêu gào chống ngục tù xin công bằng

đòi cơm áo

Đừng đùa vui khi đói khát vẫn còn,

đừng đùa vui khi áp bức vẫn còn nhân loại ơi!

đừng làm quê hương thêm tả tơi,

đừng khoe khoang trên những xác người,

đã ngã gục chết cho đời được thêm vui.”

(Lê Hựu Hà – bđd)

Vâng. Quả thật có như thế. Như thế giống như thể nhà Đạo mình, cũng thấy đôi ba sự-kiện khiến bạn và tôi, ta suy-nghĩ thêm để rồi có quyết định chính-đáng cho đời mình. Những quyết-định như vừa rồi, bần đạo bắt gặp được đôi giòng chảy ở đây đó, những bảo rằng:

Đừng bao giờ trách móc bất cứ ai trong cuộc sống của bạn. Người tốt sẽ cho bạn Hạnh Phúc.  Người xấu cho bạn Kinh Nghiệm.  Người tệ nhất cho bạn đôi bài học. Và,  người tuyệt vời nhất sẽ cho bạn nhiều kỷ niệm.

Đừng hứa khi đang vui! Đừng trả lời khi đang nóng giận! Đừng quyết định khi đang buồn! Đừng cười khi người khác không vui! Cái gì mua được bằng tiền, cái đó rẻ. Ba năm học nói, một đời học cách lắng nghe. Chặng đường ngàn dặm luôn bắt đầu bằng 1 bước đi. Đừng a tòng ghen ghét ai đó, khi họ chẳng có lỗi gì cả đối với ta.

Rừng tuy có nhiều cây đại thọ sống cả ngàn năm, nhưng người sống thọ chỉ 100 tuổi, cũng không nhiều. Bạn có thọ lắm cũng chỉ sống đến 100 tuổi, tức: một tỷ-lệ 1 trên 100.000 người mà thôi. Nếu sống được những 70 tuổi, bạn sẽ còn 30 năm nữa. Nếu bạn thọ 80 tuổi, bạn chỉ còn 20 năm. Vì lẽ bạn không còn bao nhiêu năm để sống và bạn không thể mang theo các đồ vật mình có; thế nên, đừng tiết kiệm quá mức. Ttrên 50, hãy mừng từng năm; qua 60, ta mong hàng tháng, đến tuổi 70 ta đếm mỗi tuần, và ở tuổi 80 ta đợi vài ngày, 90 tuổi, ta ngơ ngác một mình với những phút giây dài thăm thẳm!  Bạn nên tiêu bớt những món cần tiêu thụ và thưởng thức những gì nên thưởng thức, rồi tặng cho thiên hạ những gì mình có thể cho đi, nhưng đừng để lại cho con cháu thứ gì hết. Bởi, chẳng bao giờ ta muốn chúng trở thành kẻ ăn bám.

Đừng quá lo những gì sẽ xảy đến với chính mình sau khi bạn đã ra đi, vì một khi đã trở về với cát bụi, bạn sẽ chẳng còn bị ảnh hưởng bởi lời khen hay tiếng chê bai nữa đâu, mà sợ.

Đừng lo nhiều về con cái bởi chúng có phần số của chúng và chúng sẽ  tự tìm cách sống riêng tư của chúng. Đừng trở thành nô lệ của con cái. Cũng đừng mong chờ nhiều ở con cái. Con cái, chúng biết lo-toan cho cha mẹ, dù chúng có lòng nhưng vẫn bận rộn với công ăn việc làm hoặc ràng buộc nào khác nên chúng không thể giúp gì cho bạn được. Con cái, chúng thường vô tình, nên có thể sẽ tranh giành của cải của bạn, ngay cả khi bạn còn sống. Và có khi chúng còn muốn cho bạn chết sớm để thừa hưởng tài-sản của bạn. Các con của bạn lại sẽ cho rằng việc chúng thừa hưởng gia-sản là chuyện dĩ nhiên nhưng, ngược lại, bạn không thể đòi dự phần vào tiền bạc của chúng được.

Với những người thuộc lứa tuổi 60 như bạn, đừng đánh đổi sức khoẻ với    tài-lực nữa. Bởi lẽ, tiền bạc có thể vẫn không mua được sức khoẻ, dù một chút.

Khi nào thì bạn thôi làm giàu? Và, có bao nhiêu tiền mới cho là đủ? Tiền muôn, tiền triệu hay cả mấy chục triệu? Dù bạn có cả ngàn mẫu ruộng, cũng chỉ ăn khoảng 3 lon gạo mỗi ngày mà thôi. Dù có cả ngàn dinh cơ/biệt-thự, bạn cũng chỉ cần  một  chỗ chừng 8 mét vuông để ngủ/nghỉ ban đêm. Vậy, bao lâu bạn có đủ thức ăn và tiền bạc để tiêu pha là tốt rồi. Nên, bạn hãy sống cho vui vẻ. Gia đình nào cũng đều có chuyện buồn phiền  riêng của mình.  Đừng so sánh với người khác về danh vọng và địa vị trong xã hội và con ai thành đạt hơn, nhưng hãy so sánh hạnh phúc, sức khỏe và tuổi thọ, thôi.

Đừng lo nghĩ những chuyện mà bạn không thể thay đổi vì sẽ chẳng làm được gì, lại còn làm hại cho sức khỏe của mình nữa. Bạn phải tạo an-lạc và tìm hạnh phúc cho chính mình. Hãy luôn phấn-chấn, chỉ nghĩ đến chuyện vui sống và làm những việc mình muốn làm mỗi ngày một cách thích thú; có như thế, thì bạn thật đã hạnh phúc sống từng ngày rồi.

Một ngày qua đi là một ngày bạn để mất rất nhiều thứ, nhưng một ngày trôi qua trong hạnh phúc là một ngày bạn có được rất nhiều sự. Khi bạn vui thì mọi bệnh tật sẽ lành lặn. Khi bạn hạnh phúc thì mọi bệnh sẽ chóng hết. Khi bạn vui tươi/hạnh phúc thì bệnh tật sẽ chẳng héo lánh, đến bao giờ. Với tính khí vui tươi cộng với thể thao/thể dục cho thích-đáng, thường xuyên ra ánh sáng mặt trời, thay đổi thực phẩm đủ loại, uống thuốc bổ vừa phải, hy vọng bạn sẽ sống thêm 20 hoặc 30 năm tràn-đầy sức khỏe. Hãy biết trân quý những gì tốt đẹp ở quanh mình. Còn bạn bè/thân thuộc nữa, họ đều muốn bạn thấy trẻ trung và có người cần đến mình. Không có họ, chắc chắn bạn sẽ cảm thấy bơ vơ lạc lõng. (trích bài của vô danh)

Chuyện vui sống ở đời, lại đã có lời khuyên răn cũng khá dài như ở trên, tức: không sợ tuổi giả, cả đến cái chết, cũng đều thế.

Ở nhà Đạo khi xưa cũng có trường hợp sợ và hãi như trình thuật Tin Mừng từng ghi lại, rằng:

Các ông lại gần đánh thức Người và nói:

“Thưa Ngài, xin cứu chúng con,

Kẻo chúng con chết mất!”

Đức Giê-su nói:

“Sao nhát thế,

hỡi những người kém lòng tin!”

(Mt 8: 26)

Nhà Đạo hôm nay không còn thấy những chuyện sợ sệt này/khác, như sợ ma/sợ quỷ, sợ tội/sợ lỗi hoặc không hiểu lẽ Đạo, trong đời. Nhưng, nay lại có nỗi sợ rất đáng sợ, là: chuyện nhiều đấng bậc giảng-dạy nhiều điều về Lời Chúa, như câu nói:

Nước Thiên Chúa giống như hạt cải,

lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất.

Nhưng khi gieo rồi,

thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ,

cành lá xum xuê,

đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng.”

(Mc 4: 31-32)

Làm sao hiểu tường-tận Lời Vàng ghi ở trên?

Rất may là, ở trời Tây, có bậc thày thần-học, lại đã diễn và giảng đôi điều về Nước Trời bằng những lời cụ-thể, để mọi người hết sợ. Thế nên, trang mạng www.TâmLinhVàoĐời.net có chuyển cho bần đạo đôi ba ý/lời giảng giải của đấng bậc thày dạy thần-học Kinh-thánh ở Hoa-kỳ có giòng chảy về Vương Quốc Nước Trời, như sau:

Ngay ở đây, ta thấy vấn-đề cần định-nghĩa cụm-từ “Vương Quốc Nước Trời”, một lần nữa! Tựa hồ như tác-giả Mátthêu thường tránh-né không nêu danh-tánh Chúa ra mà không tỏ lòng tôn-kính tính thánh-thiêng của Ngài.

Thế nên, thay vào đó, tác-giả lại đã sử-dụng thành-ngữ “Vương Quốc Thiên-Đàng” cách rõ ràng. Thế nhưng, ta vẫn có khuynh-hướng hiểu Thiên-Đàng là Vương Quốc, như thể Đức Giêsu cốt ý đề-cập đến những gì không phải ở dưới đất này, mà chỉ nói chuyện trên trời, mà thôi. Hoặc, Ngài cũng không nói đến cuộc sống đời này mà là sự sống mai ngày sẽ xảy đến. Điều đó, cũng không xa sự thật, chút nào hết.

Muốn hiểu ý Đức Giêsu cho thật rõ, ta cũng nên tách-bạch hai chuyện tôn-giáo và chính-trị, và chuyện luân-thường đạo-lý cũng như kinh-tế thế-giới hồi đầu thế-kỷ, cho rõ ràng. Đúng ra thì, “Vương Quốc Của Chúa” mà ta có thói quen gọi là “Vương Quốc Nước Trời” là thế-giới này, ở nơi đây. Là, chốn miền trong đó Chúachứ không phải Cesar, đang ngự-trị trên ngai vàng của Ngài ở trạng-thái như thế ấy. Và, rõ ràng là: Thiên-Chúachứ không phải Cesar, đã mở rộng vòng tay yêu-thương và Ngài đảm-trách việc quản-cai “Vương-Quốc” này thật trọn-hảo.

Cùng lúc, đây là ý-niệm hoàn-toàn có tính tôn-giáo và chính-trị, thôi. Cũng cùng lúc, thành-ngữ này lại mang tính-chất rất đạo-đức và kinh-tế-học. Thiên-Chúa quản-trị thế-giới cách ra sao? Ngài muốn cai-quản thế-giới này như thế nào, ư? Có thế nào đi nữa, thì dứt-khoát đấy không là thiên-đàng hiểu như nơi chốn ở trái đất này, mà thôi.

Như ta thấy, với nhóm người sống ở Do-thái, tức: các vị chủ-trương khải-huyền như ông Gioan từng chứng-tỏ, thì “Vương Quốc Nước Trời” khi trước được hiểu như thực-tại xảy đếntrong thời tương lai. Điều này thật không đúng! Bởi, đó không là chuyện tương-lai mai ngày, mà là thực-tại tùy việc Thiên-Chúa can-thiệp bằng quyền-uy cao-cả của Ngài trong mọi vấn-đề liên-quan đến nhân-loại, để Ngài mang hoà-bình và công-chính đến với thế-gian đang sa-lầy trong áp-bức/bất công gần như tuyệt-vọng.

Phần lớn các kẻ tin đều được chuẩn-bị giúp-đỡ để “Vương Quốc” của Ngài thành hiện-thực. Sự việc này, hoàn-tất tốt đẹp hay không, chỉ do quyền-uy/sức mạnh của Thiên-Chúa mà thôi. Và, dù các vị chủ-trương khải huyền một cách không mấy sáng-sủa về “Vương Quốc” đang trờ tới, thì các ngài vẫn nhận-thức rõ là điều ấy sẽ khách-quan và hữu-hình đối với mọi người, theo cách khác biệt, có tốt/có xấu.

`Tuy nhiên, việc này lại góp thêm một cung-cách khác để diễn-nghĩa về “Vương Quốc Nước Trời”. Thế tức là, thay vì ta chờ Chúa can-thiệp khải-huyền, thì chính Ngài là Đấng đang đợi ta khởi-đầu cuộc cách-mạng xã-hội. Thật ra, cả hai cách diễn-nghĩa thế nào là “Vương Quốc, Nước của Chúa” dù theo phương-pháp nào đi nữa, đều là giải-đáp khả-thi, nếu như nhân-loại có cố-gắng.

Và, sự việc Thiên-Chúa can-thiệp theo cách khải-huyền lại khác với cuộc cách mạng xã hội do Ngài thực-hiện. Và Đức Giêsu, bằng vào sự việc dứt-bỏ hy-vọng của ông Gioan nhờ khả-năng riêng của con người, Ngài đã loan-báo quyết-định của Thiên-Chúa rồi.

Sao ta dùng cụm-từ “Vương Quốc Nước Trời” thay cho “Cộng đồng dân Chúa”, tức từ-vựng mang ý-nghĩa về một thế-giới do nam-nhân độc-trị như “vua/quan”, lãnh chúa”, chứ?

Có nhiều lý-do để bảo rằng: cụm-từ “Vương Quốc” tạo vấn-đề như Tân-Ước bản Hy-Lạp đã chuyển từ tự-vựng “basileia” ra. Có điều là: chữ “Vương” là tự-vựng mang tính “kẻ cả”. Thêm vào đó, chữ “quốc” lại là thành-phần ngôn-ngữ khiến cho tự-vựng này thêm phần “nổ lộp độp”, dù ta nói đến nơi-chốn, địa-danh hay tên gọi của khu-vực địa-lý nào đó, cũng vậy.

Và, thêm một vấn-đề nữa, là: nói như thế tức như thể ta đang sử-dụng ngôn-ngữ của thế-giới hiện-thời mình đang sống, lại xuất-hiện vị vương-quân nào đó đang cai-trị hết mọi người. Để cho chắc, ta cứ thử nhìn vẻ xa hoa tráng-lệ ở các lễ hội mừng chúc vua quan/lãnh chúa còn sót lại với thế giới hôm nay, như: nữ-hoàng Êlisabét đệ II của nước Anh chẳng hạn, vai-trò của bà chí mang ý-nghĩa truyền-thống và lễ-tân thôi, chứ bà không có quyền-hành gì thực-thụ.

Với thế-giới Địa-Trung-Hải, là khu vực quanh đó Đức Giêsu hạ sinh, thì: vua quan/lãnh chúa thực-sự vẫn có uy có quyền. Và, điều này không chỉ ngôn-sứ khải-huyền người Do-thái mới quan-tâm đến qui-định của vua, tức “Basileia” ở thế-kỷ đầu, thôi. Cụm-từ “Basileia”, là chủ-đề thường thấy ở thế-giới Hy-Lạp. Và vấn-đề đặt ra là thế này: làm sao quyền-lực trần-gian lại thực-hiện theo cách công-bình đầy nhân-tính, được? Tin Mừng do các tác-giả viết, vẫn cứ phải vật-lộn mọi tương-phản nên mới bảo rằng: quyền-lực chốn gian-trần và uy-quyền của Thiên Chúa vẫn có thể thành chuyện hiện-thực được hết.

Khi Đức Giêsu sử-dụng cụm-từ “Vương Quốc Nước Trời”, là Ngài muốn nói đến thế-gian do Thiên-Chúa trực-tiếp đảm-trách, ngay lập tức. Thế-gian sẽ ra sao, nếu Thiên-Chúa ngồi trên ngai của Cesar? Chính vì thế, nên “Vương Quốc Nước Trời” là biểu-tượng lý-tưởng nhất để diễn-tả cuộc sống con người vốn vinh-thăng, được kêu gọi vào qui-định của con người cũng như trật-tự ở xã-hội. Cụm-từ nào không có nghĩa là “vương-quốc” giống như thế, có thể sẽ làm mất đi tính thách-thức cả về chính-trị lẫn tôn-giáo, nữa.

Có thành-viên nọ thuộc nhóm “Chuyên Đề về Đức Giêsu” đề-nghị: ta nên dịch tự-vựng Hy-Lạp nào có nghĩa “qui-định ở đế-quốc của Thiên-Chúa” để nhấn-mạnh sự tương-phản đối lại với qui-định về lề-luật ở đế-quốc La Mã của Cesar. Có điều là, khi ta sử-dụng hình-thái đường ranh xã-hội mang tính then-chốt cốt lật-đổ nền chính-trị nào đây, bởi thế nên tôi chủ-trương duy-trì cụm-từ “Vương Quốc” chứ không phải từ-vựng “Cộng-Đồng” như thành-viên nọ đề-nghị.

Khi dùng từ-vựng “Cộng-Đồng” để diễn-tả tính thân-ái, có lẽ tôi sẽ để mất đi tính thách-thức về chính-trị và tôn-giáo nơi lời dạy của Đức Giêsu. Nhưng các từ-vựng như: Vương-quốc, Quyền-uy và Vinh-quang là có ý gì? Điều đó, có phải để nói về Thiên-Chúa hay Cesar, không? Dù sao đi nữa, nếu sử-dụng cụm-từ “Cộng-đồng” thay cho “Vương quốc” thì cũng được, nhưng với điều-kiện là cụm-từ này phải bao gồm ý-nghĩa thách-thức lật-đổ tình-trạng xã-hội và tính chính-trị then-chốt có trong từ-vựng ấy, mới được.

Dùng ví-dụ cụ-thể, ta sẽ hiểu rõ hơn. Hãy tưởng-tượng trường-hợp cộng-đoàn tín-hữu ở Đức hồi thập niên 1930’ lại cứ gọi danh-hiệu Đức Giêsu bằng từ “der Fũhrer” chẳng hạn, đồng thời còn nhấn mạnh là: trên đời này duy-nhất chỉ có một “Fuhrer” mà thôi, thì tự thân, tiếng Đức thường có từ-vựng cũng mang nghĩa “lãnh tụ” giống như thế. Vậy thì, khi Hitler xuất-hiện trên chính-trường, rõ ràng là các tín-hữu Đạo Chúa chỉ muốn coi  Đức Giêsu là lãnh-tụ của họ mà thôi, chứ không phải Hitler hoặc ai hết.

Bởi thế nên, ta có thể sử-dụng bất cứ bản dịch nào để nói về “Vương Quốc Nước Trời” đều được cả, nhưng nên nhớ: điều đó sẽ lại có nghĩa phụ-thuộc và mang âm-hưởng của một bội-tín cũng rất cao. Cũng hệt thế, khi gọi Đức Giêsu là Chúa, là ta có ý bảo: Cesar kia không phải thế.

Hãy dịch cụm-từ “Đức Chúa” bằng thành-ngữ đương-đại nào ta cho là thích-hợp đều được, với điều kiện là người dịch có gọi như thế, cũng không bị những người phía bên kia ám-hại, là được. (x. Cựu lm John Dominic Crossan, Đức Giêsu từng giảng và dạy những gì, www.tamlinhvaodoi.net 29/4/2015)

Thành ra, trong cuộc sống ở đời hoặc trong Đạo, luôn có vấn-đề hiều lầm hoặc hiểu sai lạc những gì được nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần, qua các bài chia sẻ Lời Chúa ở bục giảng.

Để thay đổi bầu khí về Nước Trời cho nhẹ nhàng, nay lại xin đề-nghị bạn/đề-nghị tôi, ta nghe thêm một truyện kể ngăn ngắn có những giòng kể lể như sau:

“Trưa hôm ấy, trên đường đi làm, trong đầu tôi đang miên man nghĩ đến hoàn cảnh của anh Huỳnh Hữu Hội mà quý bạn đang nhắc nhở với sự luyến tiếc… Đến đường Nguyễn Đình Chiểu (Phan Đình Phùng cũ), tôi chợt thấy bên đường có một chị bán vé số vừa đi vừa gõ cây gậy để dò đường. Nhưng lạ là trông mặt chị ấy có vẻ tươi vui rạng rỡ mặc dù trời đang nắng như đổ lửa.

Không dằn lòng được, tôi cởi xe lên lề và dừng chị lại bằng cách cầm cậy gậy của chị rồi mua vé số cho chị. Ngày thường, tôi mua vé số giúp người mù, trả lại vé số cho họ, vậy là xong, rồi đi. Không hiểu sao lần này tôi lại hỏi:

– Chị ơi, chiều tối làm sao chị về nhà được ?

– Dạ quen rồi.

– Ủa mà nhà chị ở đâu ?

– Dạ ở Củ Chi ?

– Chà, xa quá rồi làm sao chị về? (Củ Chi cách SG khoảng 30 km)

– Dạ quen rồi.

– Thôi chị cất tiền vô túi xách đi. Chị cất luôn vé số đi, tặng lại chị …(Thấy túi xách xẹp lép, hình như không có gì hết). Chị không đem theo nước uống sao ?

– Dạ quen rồi.

– Thôi chị lấy chai nước này nghen. Để tôi chế thêm chút trà.

– Dạ …

Tôi lên xe chạy trước, đến ngã tư, dừng đèn đỏ, tôi lại leo xe lên lề nhìn ngược lại xem chị bán vé số ra sao. Chị ấy đang đi đến dần. Đúng là chị ấy luôn tươi cười rạng rỡ, cứ gõ gậy mà đi từ từ chớ không lên tiếng rao bán vé số gì hết…

Sau khi rời chị bán vé số, tôi lại nghĩ về anh bạn thân nọ và không khỏi có sự đối chiếu về số phận. Vậy là ai khổ hơn ai ? Rồi tôi không khỏi liên tưởng tiếp về các anh bạn khác cũng đã ra đi cùng một cách. Mỗi người hẳn có một hoàn cảnh nào đó mà chúng ta đều thông cảm và tôn trọng. Nhưng có lẻ quý bạn ấy đều không “quen” với hoàn cảnh mới thời kỳ đó nên các bạn ấy đã chọn giải pháp để ở lại vĩnh viễn với tuổi đôi mươi.

Ngẫm lại mẫu đối thoại ngắn ngủi mà tôi đã trao đổi với chị bán vé số , tôi thấy chính mình phải xem xét lại nhiều điều mà tôi đã thường xem là chân lý: Đối với tôi, nhu cầu số 1 đối với cơ thể là không khí – còn nước là nhu cầu cấp thiết số 2 , không thể thiếu: sai rồi! Khi cần đi tìm chỗ mới lạ tôi đều dò xem bản đồ trước, hoặc tìm trong Google, ghi lại địa chỉ vào giấy cho dể tìm v.v…  không cần vậy!

Đến tuổi này, không còn ganh đua với ai nữa, nên tìm cho mình một triết lý sống : có cần chăng? Đối với những người sáng mắt như chúng ta có khả năng nhận biết được nhiều màu sắc. Nhưng sự phân biệt hai màu xanh đỏ đã làm khổ hàng chục triệu con người trong hàng chục năm và gây bao nhiêu cảnh sanh ly, tử biệt. Còn đối với chị bán vé số, màu xanh hay màu đỏ đều không có ý nghĩa gì hết. Tình người đối với chị là quan trọng hơn cả. Điều này đáng để chúng ta suy gẫm.

Tạo hóa không ban cho chị đôi mắt nên cũng không cho chị nước mắt để khóc. Ông trời chỉ cho chị cái miệng nguyên vẹn để cười mà thôi ! Chúng ta chỉ cần làm một phép tính đơn giản sẽ giật mình vì với nụ cười không bao giờ tắt trên môi ấy, mỗi tháng chị có thể di chuyển đoạn đường dài bằng từ Sài Gòn ra Hà Nội !

Trong nghề kinh doanh “sự may rủi” của chị, chị bán vé số chỉ có một triết lý đơn giản để vượt qua mọi nhọc nhằn là: quen rồi! Chị chỉ có ước mơ là bán hết xấp vé số. Việc này được hay không cũng tùy thuộc sự may rủi của chị mỗi ngày, nhưng đối với chị, được hay không thì cũng “quen rồi!” Ôi! Đối với triết lý sống rất đơn giản “Quen rồi” của chị, tôi chỉ còn biết nói là:                                                                                 Thương quá!

Xin cám ơn chị đã cho tôi thêm một bài học về cách sống ở đời : hãy sống đơn giản với những gì tạo hóa ban tặng và làm quen với mọi nhọc nhằn hay nghịch cảnh để có thể vượt qua tất cả mọi thử thách trong đời.” (truyện kể trích từ điện-thư do bạn bè gửi)

Đọc truyện trên thư-điện, hẳn bạn và tôi, ta đều đã nghe quen những chuyện như thế. Nhưng vẫn thấy nó làm sao ấy. Nếu vậy, nay đề-nghị tôi và bạn, ta quay về bài hát của nghệ sĩ họ Lê khi xưa vẫn từng hát để làm kết luận bài phiếm “rất đáng sợ” vì hơi bị “vớ vẩn”, như sau:

Đừng sợ bạn ơi hãy đứng thẳng lên

cuộc đời đang.. dang tay đón ta

bằng yêu thương ta đi xóa tan..

mọi căm hờn.”

(Lê Hựu Hà – bđd)

Thật đúng thế. Chỉ “bằng yêu thương ta đi xoá tan mọi căm hờn”, xoá cả nỗi sợ sệt vì mọi lý-do, trong đó có cả lý lẽ do những người tưởng rằng đã hiểu nhưng chưa biết ngọn ngành về lý-tưởng của Vương Quốc Nước Trời, đó chính là tình yêu-thương hết mọi người mà thôi.

Trần Ngọc Mười Hai

Khi xưa vẫn rất sợ đủ mọi thứ

Nay chỉ còn mỗi một nỗi

Sợ rằng cứ làm thinh và làm biếng mãi,

Sẽ không xong.

Ngước mắt nhìn trời,

Ngước mắt nhìn trời,

TGM. Ngô Quang Kiệt

Con người thường có hai thái độ sống đối nghịch nhau. Một bên là những người chỉ biết có việc đạo. Sống dưới đất nhưng lòng trí để cả ở trên trời. Không tha thiết gì với những người chung quanh. Không tham gia những sinh hoạt xã hội. Khinh chê tất cả những giá trị ở đời này. Ngược lại, bên kia là những người sống như chỉ biết có việc đời. Chỉ coi trọng những giá trị vật chất. Chỉ biết có đời này. Sống là còn. Chết là hết. Cả hai thái độ đều bất cập.

Việc Đức Giêsu lên trời và những lời Ngài truyền dạy trước khi từ giã trần gian giúp ta có một cái nhìn đúng đắn hơn đối với trời và đối với đất.

Đức Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.

Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh.

Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.

Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với súc vật. Súc vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.

Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.

Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.

Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời.

Chính Đức Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đấy. Đi đến đâu là gieo yêu thương đến đấy.

Hôm nay Chúa cũng sai các môn đệ và chúng ta đi gieo Tin Mừng khắp thế gian. Hãy đi làm mọi việc tốt đẹp cho mọi người.

Làm việc tốt đẹp ở trần gian đó là góp phần xây dựng nước trời. Góp phần xây dựng trần gian đó là dọn chỗ ở trên nước trời. Trần gian không phải là nơi cho ta bám víu vì không vĩnh cửu. Nhưng trần gian là cơ hội cho ta đạt tới nước trời.

Chính vì thế, người môn đệ của Chúa phải sống giữa trần gian, phải yêu mến trần gian, phải xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc.

Tuy nhiên người Kitô hữu làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết nỗ lực xây dựng trần gian trong niềm mong đợi hạnh phúc nước trời. Amen.

TGM. Ngô Quang Kiệt

Ngoảnh lại, Nàng Thơ đã ở bên,

“Ngoảnh lại, Nàng Thơ đã ở bên”,

Mỉm cười, Ồ khoé miệng trăm duyên.

Lời nào tả được tình lưu-luyến?

Buổi mới ân cần, với bạn Tiên!”.

(Dẫn từ thơ Thế Lữ)

Mai Tá, Giáo-dân lược dịch

Vừa rồi, chúng tôi định mua một cặp loa tốt, khả dĩ tạo được làn sóng âm thanh dịu dàng, dễ nghe. Cân nhắc kỹ, chúng tôi quyết định chọn nhãn hiệu “BOSE” vừa gọn nhẹ, lại vừa đạt chất lượng cao. Toàn hệ thống âm thanh trung thực chỉ nằm trong chiếc hộp nhỏ, nhưng có khả năng phát ra những âm thanh tuyệt cú, ngoài sự mong ước. So với giàn âm thanh hiện có, thì loa của hãng BOSE cho giọng trầm và ấm. Mạnh mẽ. Trung thực.

Với loa tốt, âm nhạc mới thể hiện tính hiện thực cần có, làm nền cho giọng kim bay bổng, lên xuống thật đúng ý của người biên sọan. Ngày nay, máy móc tân kỳ tạo cho âm thanh, tần số có được sự thanh tao, trong sáng. Nhờ vậy, công trình sắc sảo của nhà biên soạn mới được bộc lộ đúng cách. Dễ nhận.

Sách Công vụ Tông đồ hôm nay tập trung nhấn mạnh một điểm: quần chúng thời ban sơ, khi nghe đồ đệ Đức Kitô dẫn giải công việc Chúa làm, ai cũng hiểu biết đầy đủ sự việc diễn tiến theo ngôn ngữ rất riêng của mình. Nói theo ngôn ngữ thời nay, đây chính là sự thanh tao, trong sáng cần phải có mỗi khi ta rao giảng Lời Chúa. Với đồ đệ Chúa thuở ban đầu, ai nào được phú ban cho tài khéo ăn, khéo nói khả dĩ lôi cuốn người nghe?

Nhưng may thay, phần đông cử toạ đều có được đôi tai rất thính. Nhờ đó, họ biết lắng nghe và mau chóng lãnh hội sự thanh tao trong sáng, qua mỗi sự việc được dẫn giải. Đề cập đến tài lắng nghe và đón nhận Lời Chúa thời kỹ thuật thông số hôm nay, nhiều vị vẫn lẫn lộn giữa âm thanh đơn thuần với âm thanh nổi, giữa sự đồng bộ và đồng cảmvà đồng-thuận.

Với Hội thánh thời tiên khởi, ngày Thánh Thần Chúa hiện đến, ngày mà tín hữu Đức Kitô chẳng thấy khó khăn gì trong việc lắng nghe và đón nhận lời Ngài, hết. Ai cũng hiểu rằng, có nói cùng một thứ tiếng cũng không quan trọng bằng biết chăm chú nghe người khác nói. Lắng nghe từng giọng. Chăm chú vào từng động tác của mỗi người.

Hội thánh tiên khởi là một cộng đoàn phức hợp. Đa dạng. Tựa như hôm nay, mọi người đều được kêu gọi hãy lắng nghe người khác nói. Ngõ hầu thông hiểu nhau hơn. Cảm thông hơn về nhiều vấn đề. Về mọi chuyện.

Quả là, vào các năm tháng, ngày đầu của thời điểm Thánh Thần Chúa hiện đến, cộng đoàn kẻ tin đã nhận ra rằng: giữa thánh Phêrô và Phaolô đã có nhiều tranh cãi. Bất đồng. Bất đồng về các vấn đề của người Do Thái, của dân ngoài Đạo về vấn-đề trở lại. Nhiều vị đã cam đảm nhận đón cái chết nhục để chứng tỏ niềm tin của mình.

Tuy thế, cũng có người phản bội các thánh, vội quay đầu về với giới cầm quyền. Không còn tin vào lời các ngài nữa. Cùng là tín hữu Đức Kitô, nhưng có người tự hào cho mình thuộc phe Phaolô hoặc phe Apollô hơn là nghĩ rằng: dù thuộc cánh nào, phe nào rồi cũng qui về một mối. Tức: cuối cùng, cũng trở thành đồ đệ của Đức Chúa. Hết lòng. Hết mực.

Mải tranh cãi, đến nỗi có người cứ nghĩ là ngày tận thế đã gần kề. Rồi, chán nản. Mất niềm tin. Tuy nhiên, qua nhiều trường hợp trắc trở, âm sắc thâm trầm và ấm cúng của giòng nhạc hùng tráng vẫn vang rền. Thúc bách. Giọng thâm trầm ấm cúng ấy nhằm chứng tỏ rằng: Đức Kitô đã sống. Ngài đã vui lòng chấp nhận cái chết nhục. Và cuối cùng, đã sống lại vinh hiển. Về với Cha. Trong khi đó, thanh âm giọng kim bổng vút chát chúa của tranh cãi/bất đồng đã át đi thanh-âm trầm-ấm mà Đức Chúa đã phát đi.

May thay, hơn bốn thập niên trước, Công Đồng Vatican II đã hồi phục truyền thống cổ xưa của niềm tin trong Hội thánh bằng nhiều phương cách khác biệt, đột xuất. Quyết nối kết hoà mình với nền văn hoá địa phương mỗi vùng. Xem như thế, Lời Chúa được gửi đến với mỗi dân tộc có văn hoá riêng tư khác biệt, hài hòa. Hợp tác.

Ngày nay, chúng ta đều nhận thức: mỗi khi cất bước ra đi rao truyền Tin Vui An Bình của Chúa, vị thừa sai giảng thuyết đều cưu mang, trân quý mọi văn minh, văn hoá khác biệt, riêng tư của đất miền mà các ngài tạm dung. Và, các ngài vẫn cương quyết sửa đổi lề thói, tác phong “cha cố” chuyên áp đặt văn hoá cổ xưa của mình lên văn hoá, người bản xứ. Làm như thế, các ngài không bức bách, cũng chẳng đả phá tinh hoa, thuần thục của sắc dân bản xứ. Dù tinh hoa ấy đang đi dần vào chốn diệt vong.

Trong quá trình thực hiện quyết tâm này, nhiều nối kết được nảy sinh từ nền văn minh Kitô-giáo và văn hoá địa phương. Các nối kết, thành tựu ấy đã trở thành niềm tin thấm nhuần mầu sắc dân tộc. Đây là trạng huống kết tinh, mà Hội thánh tiên khởi đã tạo cho mình. Rất nghiêm chỉnh. Nhờ vào phong thái tinh tế, Hội thánh sở tại đã thực sự sống và rao truyền niềm tin, được uỷ thác.

Hôm nay, được Thánh Thần Chúa thánh hoá, chúng ta nhận ra rằng: để xây dựng và củng cố niềm tin của mình lên những gì người đi trước đã thiết lập. Chúng ta có bổn phận lắng nghe, và tìm hiểu nền văn minh, văn hoá đương đại của mỗi dân. Hãy đem niềm tin về với trao đổi, đối thoại cùng Tin Mừng của Chúa.

Chính vì thế, ta có thể quyết đoán thêm rằng: lòng quả cảm thật ra cũng là quà tặng từ Thánh Thần Chúa, vào ngày Ngài hiện đến với mọi người. Chúng ta không được phép rút vào bóng tối. Né tránh thế gian, hoặc coi rẻ loài người.

Nhưng, hãy ra đi tham gia đối thoại với thế giới, nhân trần. Tham gia, trao đổi và để tai trầm lắng đón nhận nhạc khúc giao hưởng mà Chúa biên soạn. Ở đây. Ngay lúc này. Có lắng nghe như thế, ta mới nhận ra thanh-âm sắc sảo đang xuất hiện trong cuộc sống thường nhật. Đôi lúc cũng trộn lẫn với âm-sắc thâm trầm, ấm cúng trải dàn nơi cuộc sống. Sự chết và sự sống lại vinh hiển của Đức Chúa thân yêu.

Tham dự Tiệc thánh mừng Thánh Thần Chúa hiện đến với ta hôm nay, hãy cầu mong sao ta có đôi tai rất thính. Biết lắng nghe và nhận rõ những gì Thần Khí Ngài đang thổi đến với ta. Thần Khí Ngài thổi vào đôi tai ta những âm sắc thâm trầm. Đầy thương mến. Hãy cầu mong sao cho ta biết sẵn sàng cống hiến cả đời mình, để rao truyền Tin Vui An Bình của Chúa với chốn phồn hoa. Đô hội.

Ở nơi ấy, vẫn hiện diện cùng khắp, nền văn minh/văn hoá của dân gian. Thị trường. Cầu và mong cho ta biết dấn thân, hoà mình với nền văn hoá đương đại. Hợp tình. Hợp lý. Làm như thế, ta sẽ phải sử dụng đôi tai, nghe nhiều hơn nói. Nghe nhiều, để có thể đón nhận các thanh-âm trầm-ấm, như làn gió thoảng vào hồn.

Nghe cho kỹ. Hiểu cho thông. Từ đó, ta sẵn sàng ra đi rao truyền Vương quốc của Đức Chúa bằng chính cuộc sống của mình. Ra đi để rao truyền niềm tin vui tươi. Rất thâm trầm. Muốn được thế, hãy để lòng mình trùng xuống mà đón nhận Lời Chúa. Ấm cúng. Thâm trầm.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá, Giáo-dân lược dịch

THÁNG HOA ĐỨC MẸ

THÁNG HOA ĐC MẸ

Lm. Đoàn Quang, CMC

Là người Công giáo Việt Nam, nhất là những người đã lớn lên trong một xứ đạo miền Bắc, Trung hoặc Nam, có lẽ họ không lạ gì sinh hoạt tôn giáo trong tháng Năm, tháng Hoa Đức Mẹ.

Khi ngàn hoa xanh, đỏ, trắng, tím, vàng nở rộ trong cánh đồng, thì con cái Mẹ cũng chuẩn bị cho những đội dâng hoa, những cuộc rước kiệu, để tôn vinh Mẹ trên trời.  Những điệu ca quen thuộc trìu mến bỗng nổi dậy trong tâm hồn cách thân thương, nhất là bài “Đây Tháng Hoa” của nhạc sĩ Duy Tân với điệu 2/4 nhịp nhàng:

“Đây tháng hoa, chúng con trung thành thật thà.  Dâng tiến hoa lòng mến dâng lời cung chúc.  Hương sắc bay tỏa ngát nhan Mẹ diễm phúc.  Muôn tháng qua lòng mến yêu Mẹ không nhòa.

– Đây muôn hoa đẹp còn tươi thắm xinh vô ngần.  Đây muôn tâm hồn bay theo lời ca tiến dâng.  Ôi Maria, Mẹ tung xuống muôn hoa trời.  Để đời chúng con đẹp vui, nhớ quê xa vời.

– Muôn dân trên trần mừng vui đón tháng hoa về.  Vang ca tưng bừng ngợi khen tạ ơn khắp nơi.  Ánh hồng sắc hương càng tô thắm xinh nhan Mẹ.  Sóng nhạc reo vang tràn lan đến muôn muôn đời”.

Nếu có ai tự hỏi:  Tháng Hoa có từ đời nào?  Do ai khởi xướng?  Gốc tích như thế này:  Vào những thế kỉ đầu, hàng năm, khi tháng Năm về, người Rôma tôn kính sự thức giấc sau mùa đông dài của thiên nhiên bằng những cuộc tổ chức gọi là những ngày lễ tôn kính Hoa là Nữ thần mùa Xuân.  Các tín hữu Công giáo trong các xứ đạo đã thánh hóa tập tục trên.  Họ tổ chức những cuộc rước kiệu hoa và cầu nguyện cho mùa màng phong phú.

Có nơi người ta tổ chức các cuộc “Rước xanh.”  Người ta đi cắt các cành cây xanh tươi đang nở hoa, đưa về trang hoàng trong các nhà thờ và đặc biệt các bàn thờ dâng kính Đức Mẹ.  Các thi sĩ cũng như các thánh đua nhau sáng tác những bài hát, bài giảng ca tụng những ngày lễ đó cũng như ca tụng Đức Mẹ.

Đến thế kỷ 14, linh mục Henri Suzo dòng Đaminh, vào ngày đầu tháng 5, đã dâng lên Đức Mẹ những việc tôn kính đặc biệt và lấy hoa trang hoàng tượng Đức Mẹ.

Thánh Philipe đệ Nêri, cũng vào ngày 1 tháng 5, thích tập họp các trẻ em lại chung quanh bàn thờ Đức Mẹ, để cùng các bông hoa mùa xuân, Ngài dâng cho Đức Mẹ các nhân đức còn ẩn náu trong tâm hồn non trẻ của chúng.

Đầu thế kỷ 17, tại Napoli, nước Ý, trong thánh đường kính thánh Clara của các nữ tu Dòng Phanxicô, tháng Đức Mẹ được cử hành công cộng: Mỗi chiều đều có hát kính Đức Mẹ, ban phép lành Mình Thánh.  Từ ngày đó, tháng Đức Mẹ nhanh chóng lan rộng khắp các xứ đạo.

Năm 1654, cha Nadasi, dòng Tên, xuất bản tập sách nhỏ khuyên mời giáo hữu dành riêng mỗi năm một tháng để tôn kính Đức Mẹ Chúa Trời.

Đầu thế kỷ 19, hết mọi xứ trong Giáo hội đều long trọng kính tháng Đức Mẹ.  Các nhà thờ chính có linh mục giảng thuyết, và gần như lấy thời gian sau mùa chay là thời gian chính thức để tôn kính Đức Mẹ.  Trong việc này linh mục Chardon đã có nhiều công.  Không những ngài làm cho lòng sốt sắng trong tháng Đức Mẹ được phổ biến trong nước Pháp mà còn ở mọi nước Công giáo khác nữa.

– Đức Giáo hoàng Piô 12, trong Thông điệp “Đấng Trung gian Thiên Chúa”, cho “việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm là việc đạo đức được thêm vào nghi thức Phụng vụ, được Giáo hội công nhận và cổ võ”.

– Đức giáo hoàng Phaolô 6, trong Thông điệp Tháng Năm, số 1 viết:“Tháng Năm là Tháng mà lòng đạo đức của giáo dân đã kính dâng cách riêng cho Đức Mẹ.  Đó là dịp để “bày tỏ niềm tin và lòng kính mến mà người Công giáo khắp nơi trên thế giới có đối với Đức Mẹ Nữ Vương Thiên đàng.

Trong tháng này, các Kitô hữu, cả ở trong thánh đường cũng như nơi tư gia, dâng lên Mẹ từ các tấm lòng của họ những lời cầu nguyện và tôn kính sốt sắng và mến yêu cách đặc biệt.  Trong tháng này, những ơn phúc của Thiên Chúa nhân từ cũng đổ tràn trên chúng ta từ ngai tòa rất dồi dào của Đức Mẹ” (Dictionary of Mary, Catholic book Pub. 1985, p. 236).

Một câu truyện cũ đáng ta suy nghĩ:

Ở thành Nancêniô trong nước Pháp, có một gia đình trung lưu.  Vợ đạo đức, chồng hiền lành nhưng khô khan.  Vợ luôn cầu xin Chúa mở lòng cho chồng sửa mình , nhưng chồng cứng lòng mãi.  Năm ấy đầu tháng Hoa Đức Mẹ, bà sửa sang bàn thờ để mẹ con làm việc tháng Đức Mẹ.  Chồng bà bận việc làm ăn, ít khi ở nhà, và dù ông ở nhà cũng không bao giờ cầu nguyện chung với mẹ con.  Ngày lễ nghỉ không bận việc làm thì cũng đi chơi cả ngày, nhưng ông có điều tốt là khi về nhà, bao giờ cũng kiếm mấy bông hoa dâng Đức Mẹ.

Ngày 15 tháng Sáu năm ấy, ông chết bất thình lình, không kịp gặp linh mục.  Bà vợ thấy chồng chết không kịp lãnh các phép đạo, bà buồn lắm, nên sinh bệnh nặng, phải đi điều trị ở nơi xa.  Khi qua làng Ars, bà vào nhà xứ trình bày tâm sự cùng cha xứ là cha Gioan Vianey.

Cha Vianey là người đạo đức nổi tiếng, được mọi người tặng là vị thánh sống.  Bà vừa tới nơi chưa kịp nói điều gì, cha Gioan liền bảo:

– Đừng lo cho linh hồn chồng bà.  Chắc bà còn nhớ những bông hoa ông vẫn đem về cho mẹ con bà dâng cho Đức Mẹ trong tháng Hoa vừa rồi chứ?

Nghe cha nói, bà hết sức kinh ngạc, vì bà chưa hề nói với ai về những bông hoa ấy, nếu Chúa không soi cho cha, lẽ nào người biết được?

– Cha sở nói thêm: Nhờ lời bà cầu nguyện và những việc lành ông ấy đã làm để tôn kính Đức Mẹ, Chúa đã thương cho ông ấy được ăn năn tội cách trọn trong giờ chết.  Ông ấy đã thoát khỏi hỏa ngục, nhưng còn bị giam trong luyện ngục, xin bà dâng lễ, cầu nguyện, làm việc lành thêm cầu cho ông chóng ra khỏi nơi đền tội nóng nảy mà lên Thiên đàng.

Nghe xong lời cha Gioan, bà hết sức vui mừng tạ ơn Đức Mẹ. (Sách Tháng Đức Bà, Hiện Tại xuất bản, 1969, trang 10).

Nếu chỉ vì mấy bông hoa mọn dâng kính Đức Mẹ cũng được Đức Mẹ ban ơn cứu rỗi lớn lao như vậy, thử hỏi, những ai trong tháng Năm này tham dự dâng Hoa, rước kiệu, đọc kinh Mân côi, hơn nữa, họ dâng lên Mẹ những hoa tin, cậy, mến, hi sinh, đau khổ, bệnh nạn… chắc sẽ còn được Đức Mẹ ban muôn ơn trọng hơn nữa?  Vì Mẹ thích những bông hoa Xanh của lòng Cậy, hoa Đỏ của Lòng mến, hoa Trắng của lòng trong sạch, hoa Tím của hãm mình, hoa vàng của niềm tin, hoa Hồng của kinh Kính mừng lắm lắm.

Thánh Anphongsô Ligori quả quyết rằng: “Nếu tôi thật lòng yêu mến Mẹ, thì tôi chắc chắn được lên thiên đàng”.

Thánh Bênado diễn tả văn vẻ hơn: “Được Mẹ dẫn dắt, bạn sẽ không ngã.  Được Mẹ che chở, bạn sẽ không sợ.  Được Mẹ hướng dẫn, bạn sẽ an lòng.  Được Mẹ ban ơn, bạn sẽ đạt đích mong chờ”.

Lm. Đoàn Quang, CMC
NS.TTDM tháng 5-08 trg 4

ĐTC: Xin phép, cám ơn và xin lỗi là ba từ giúp chúng ta duy trì cuộc sống hạnh phúc gia đình

ĐTC: Xin phép, cám ơn và xin lỗi là ba từ giúp chúng ta duy trì cuộc sống hạnh phúc gia đình

Linh Tiến Khải

Xin phép, cám ơn và xin lỗi là ba từ giúp chúng ta bước vào trong tình yêu của gia đình, duy trì cuộc sống hạnh phúc và bình an trong gia đình và trong xã hội, vì chúng giúp tránh các rạn nứt có thể trở thành các hố sâu ngăn cách. Vì thế đừng bao giờ kết thúc ngày sống trong gia đình mà không làm hòa với nhau.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 50.000 tín hữu và du khách hành hương trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm 13-5-2015.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã khai triển đề tài Gia đình và ba lời nói viết trên cửa: Xin phép, cám ơn và xin lỗi. ĐTC nói:

Bài giáo lý hôm nay giống như cửa vào của một loạt các suy tư về cuộc sống gia đình, cuộc sống thực tế của nó với các thời điểm và các biến cố. Trên cánh cửa này có viết ba từ: “Có đuợc phép không?”, “cám ơn”, “xin lỗi”. Thật thế các từ này mở ra con đường giúp sống hạnh phúc trong gia đình. …

Chúng là các từ đơn sơ, nhưng thực thi chúng thì lại không đơn sơ như thế! Chúng gói ghém một sức mạnh lớn: sức mạnh gìn giữ gia đình cả qua hàng ngàn khó khăn và thử thách; trái lại việc thiếu chúng, từ từ mở ra các nứt rạn có thể làm cho nó sụp đổ.

Chúng ta thưòng coi các từ đó như các từ của “nền giáo dục tốt”. Đúng nền giáo dục tốt quan trọng. Một Giám Mục lớn là thánh Phanxicô de Sales, thường nói: “nền giáo dục tốt là một nửa sự thánh thiện”. Tuy nhiên hãy chú ý trong lịch sử chúng ta cũng nhận ra một khuynh hướng hình thức của các cung cách hành xử có thể trở thành mặt nạ che dấu sự khô cằn của tâm hồn và sự thờ ơ đối với tha nhân. Người ta thường nói: ”Đàng sau các cung cách tốt ẩn dấu các thói quen xấu”. Cả tôn giáo cũng không thoát khỏi nguy cơ này, khiến cho việc tuân giữ hình thức rơi vào tinh thần thế tục. Ma qủy cám dỗ Chúa Giêsu đưa ra các cung cách tốt và trích dẫn cả Thánh Kinh nữa. Xem ra nó là một thần học gia. Kiểu của nó bề ngoài đúng đắn, nhưng ý hưóng của nó là nhằm làm sai lệch sự thật của tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta trái lại hiểu nền giáo dục tốt trong các phạm trù đích thực, nơi kiểu của các tương quan tốt đâm rễ sâu trong tình yêu sự thiện và trong sự tôn trọng tha nhân. Gia đình sống nhờ sự tinh tế ấy của tình yêu thương nhau.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC khai triển từng từ một. Trước hết là “xin phép” hay hỏi “Có được phép không?” Khi chúng ta lo lắng xin một cách lễ phép, cả khi chúng ta nghĩ rẳng có thể yêu sách, là chúng ta đặt một sự bảo vệ đích thật cho tinh thần sống chung trong hôn nhân và gia đình. Bước vào trong cuộc sống của người khác, cả khi nó là một phần cuộc sống của chúng ta, đòi hỏi sự tế nhị của một thái độ không xâm lăng, canh tân lòng tin tưởng và sự kính trọng. Chuyện riêng không cho phép coi mọi sự là tự nhiên. Và tình yêu càng thân tình và sâu xa bao nhiêu lại càng đòi hỏi việc tôn trọng sự tự do và khả năng chờ đợi người khác mở cửa tâm lòng họ bấy nhiêu. Liên quan tới điểm này chúng ta hãy nhớ lời Chúa Giêsu nói trong sách Khải Huyền: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3, 20). Cả Chúa cũng xin phép để vào! Chúng ta đừng quên điều đó.

Từ thứ hai là “cám ơn”. Vài lần người ta nghĩ rằng chúng ta đang trở thành một nền văn minh của các cung cách hành xử xấu và các lời nói xấu, làm như thể chúng là dấu chỉ của sự thoát ly. Nhiều lần chúng ta cũng nghe nói công khai như thế. Sự tử tế và khả năng cám ơn được xem như một dấu chỉ của sự yếu đuối, có khi lại dấy lên ngờ vực. Phải chống lại khuynh hướng này ngay rong gia đình. Chúng ta phải đòi hỏi đối với việc giáo dục sống biết ơn, nhớ ơn: phẩm giá con người và công bằng xã hội đều đi qua đó. Nếu cuộc sống gia đình lơ là lối sống này, cả cuộc sống xã hội cũng sẽ mất nó. Thế rồi, đối với một tín hữu lòng biết ơn là trung tâm của đức tin: một kitô hữu không biết cám ơn là một người đã quên đi tiếng nói của Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhớ câu Chúa Giêsu hỏi khi chữa mười người phong cùi và thấy chỉ có một người trong bọn họ trở lại cám ơn (x. Lc 17,18).

Lời thứ ba là « xin lỗi ». Đây là lời khó nói, chắn chắn rồi nhưng cần thiết. Khi thiếu nó, các nứt rạn nhỏ trở thành lớn hơn – cả khi không muốn – cho tới khi trở thành các hố sâu. Không phải vô tình trong lời kinh Lậy Cha Chúa Giêsu dậy chúng ta tìm thấy kiểu nói này: « Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con » (Mt 6,12). Thừa nhận dã thiếu sót và ước ao trả lại những gì đã bị lấy mất – tôn trọng, chân thành, yêu thương – khiến đáng được tha thứ. Và như thế là chúng ta ngăn chặn nhiễm trùng. …

Nếu chúng ta không có khả năng xin lỗi, thì có nghĩa là chúng ta cũng không có khả năng tha thứ. Trong gia đình nơi người ta không xin lỗi thì bắt đầu thiếu dưỡng khí, nước tù đọng. Biết bao nhiêu vết thương đối với lòng yêu mến, biết bao nhiêu xâu xé trong các gia đình bắt đầu với sự mất đi lời nói qúy báu này « Xin lỗi ». Trong cuộc sống hôn nhân người ta cãi nhau biết bao nhiêu lần… có khi điã chén bay nữa, nhưng tôi xin cho anh chị em một lời khuyên: đừng bao giờ kết thúc ngày sống mà không làm hòa với nhau. Và để làm điều đó thì chỉ cần một cử chỉ bé nhỏ, một cái vuốt ve…

Ba lời chìa khóa này của gia đình là những lời đơn sơ và có lẽ ban đầu chúng khiên cho chúng ta cười. Nhưng khi chúng ta quên chúng, thì không có gì để mà cười, có đúng thế không ? Có lẽ nên giáo dục của chúng ta bỏ bê chúng quá. Xin Chúa giúp chúng ta đặt để chúng trở lại vào đúng chỗ, trong con tim chúng ta, trong nhà chúng ta và trong cả cuộc sống chung xã hội nữa.

ĐTC dã chào các đoàn hành hương đến từ các nưóc Bắc Mỹ và Âu châu, cũng như các đoàn hành hương đến từ Đài Loan, Camerun, Mêhicô, Honduras, Argentina, Brasil. Ngài đặc biệt chào các thành viên Hội Tương trợ truyền giáo quốc tế Pháp hoạt động trong lãnh vực y tế và cổ võ truyên giáo trong các giáo phận và dòng tu.

Chào các đoàn hành hượng nói tiếng Bồ Đào Nha ĐTC nói 13 tháng 5 là lễ Đức Mẹ Fatima. Ngài xin tín hữu gia tăng các cử chỉ hằng ngày tôn sùng Mẹ và noi gương Mẹ và hãy tín thác cho Mẹ mọi sự để trở thành dụng cụ lòng thương xót và hiền dịu của Thiên Chúa đối với các thành phần khác trong gia đình cũng như bạn bè thân hữu. ĐTC mời đức ông người Bồ Đào Nha đọc một kinh Kính Mừng bằng tiếng Bồ kính Đức Mẹ.

Ngài cũng chào các trẻ em Ba Lan mới rước lễ lần đầu và chúc các em càng ngày càng yêu Chúa Giêsu hơn, tín thác nơi Chúa và sống thân tình với Chúa.

Trong các nhóm tiếng Ý ĐTC đặc biệt chào các linh mục sinh viên trường Thánh Phaolô của Bộ Truyền giáo đã xong chương trình học và chuẩn bị về nước làm việc. Ngài khích lệ các vị đừng bao giờ đánh mất đi lòng hăng say truyền giáo.

Chào giới trẻ người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC khuyên mọi người vun trồng lòng tôn sùng Mẹ Maria, siêng năng lần hạt mỗi ngày và cảm thấy Mẹ luôn gần gũi đặc biệt trong những lúc khó khăn.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh ĐTC ban cho mọi nguời.