CẢM NGHIỆM ƠN CHÚA

CẢM NGHIỆM ƠN CHÚA

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Nếu có ai hỏi: Làm thế nào để tiến bộ trên đường đạo đức, thay đổi nếp sống cũ, biết dấn thân mến Chúa yêu người hơn?  Tôi xin thưa: điều quan trọng nhất khởi đầu cho một nếp sống mới là: cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong đời mình.  Khi đã nhận biết mình được Thiên Chúa yêu thương, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là mong muốn đáp lại tình yêu ấy.

Tình yêu kêu gọi tình yêu.  Tình yêu đáp trả tình yêu.  Chúa Thánh Thần, nguồn tình yêu của Thiên Chúa, sẽ giúp ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa và soi sáng thúc giục ta đáp lại tình yêu ấy.

Sau khi Đức Mẹ ngoan ngoãn nói lên lời “xin vâng”, Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy tâm hồn Đức Mẹ.  Đức Mẹ mở rộng tâm hồn đón nhận và để mặc Người hướng dẫn cuộc đời mình.  Từ đây, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn biến đổi.  Đức Mẹ trở nên một dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Chúa Thánh Thần, hiến dâng trọn vẹn tâm hồn và thân xác để đáp lại tình yêu vô biên của Thiên Chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những tác động của Chúa Thánh Thần trên Đức Mẹ.

Tác động thứ nhất: sự vội vã.

Vội vã đây không phải là sự vội vàng hấp tấp.  Cũng không phải là nôn nóng lo âu.  Sự vội vã ở đây có nghĩa là sự nhiệt tình hăng hái.  Cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong tâm hồn, Đức Mẹ mau mắn, tha thiết muốn đáp trả.  Nếp sống của cô thôn nữ Maria đã thay đổi.  Từ một thôn nữ dịu dàng, sống êm đềm trong cuộc đời bình dị, Đức Mẹ giờ đây trở nên linh hoạt, nhanh nhẹn, hăng hái đền đáp lại Tình Chúa Yêu Thương.  Từ một thôn nữ vui với công việc nội trợ, khép mình trong làng xóm, Đức Mẹ đã mở cửa ra đi.  Sự mở cửa ra đi làm ta nhớ tới tác động của Chúa Thánh Thần trên các Tông đồ.

Tác động thứ hai: tâm tình tạ ơn.

Cảm nghiệm được tình Chúa thương yêu, lòng Đức Mẹ tràn đầy niềm cảm mến biết ơn.  Niềm tri ân cảm tạ đầy ứ trong lòng chỉ chờ dịp tuôn ra thành lời.  Cảm nghiệm về ơn lành vô biên của Thiên Chúa cũng là cảm nghiệm về sự thấp hèn bất xứng của mình.  Hai cảm nghiệm song song đó càng nâng cao, càng đào sâu niềm tri ân cảm tạ.  Cảm nghiệm ấy đã biến đổi Đức Mẹ, từ một cô gái kín đáo, âm thầm trở nên một thi sĩ, một ca sĩ lớn tiếng ca tụng Tình Yêu Thiên Chúa đối với kẻ nghèo hèn.  Chúa Thánh Thần đã biến Đức Mẹ thành ngòi bút thi sĩ như lời Thánh vịnh: Tim tôi dâng ý thơ tuyệt diệu.  Dệt bài ca dâng tiến Đức Vua.  Lưỡi tôi tựa bút rung vạn điệu.  Trong tay những thi nhân anh tài.  Khi nghe bà Isave chào, Đức Mẹ đã ứng khẩu tán tụng Chúa bằng bài kinh ca ngợi tuyệt diệu.

Tác động thứ ba: thái độ chia sẻ.

Tình yêu Thiên Chúa bao la đã đổ vào tâm hồn Đức Mẹ tràn đầy niềm vui.  Niềm vui thánh thiện và lớn lao đã thúc đẩy Đức Mẹ mau mắn lên đường đi thăm bà Isave.  Đức Mẹ không đến để khoe khoang, nhưng để chia sẻ.  Nhờ Đức Mẹ đến mà bà Isave và thánh Gioan Baotixita được chúc phúc.  Đức Mẹ cũng đến để chúc mừng bà chị họ đã được Chúa đoái thương.  Tâm hồn được Chúa chiếm hữu đã khiến Đức Mẹ trở nên quảng đại và hiệp thông, sẵn sàng chia vui sẻ buồn với những người chung quanh.

Tác động thứ bốn: dấn thân phục vụ.

Niềm tri ân cảm tạ, niềm vui thánh thiện thực sự sẽ không dừng lại ở những bài ca trên môi miệng. Cảm nghiệm về Tình Yêu Thiên Chúa trong trái tim sẽ mau chóng biến thành hành động.  Sự đền đáp tình yêu sẽ thúc đẩy người được yêu dấn thân phục vụ trong những việc làm cụ thể.  Chính vì thế Đức Mẹ đã không ngần ngại ở lại phục vụ bà chị họ trong ba tháng.

Mừng lễ Đức Mẹ lên Trời một cách có ý nghĩa nhất, đó là ta hãy noi gương Đức Mẹ: xin Chúa Thánh Thần đến tràn ngập tâm hồn ta như Người đã đến trong lòng Đức Mẹ, giúp ta cảm nghiệm được những ơn lành Chúa ban và giúp ta mau mắn đáp lại tình yêu thương đó.

Xin Đức Mẹ giúp chúng con biết ngoan ngoãn vâng theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng: để vội và ra đi, để hân hoan tạ ơn, để quảng đại chia sẻ và để dấn thân phục vụ anh em. Amen.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Tu là buông bỏ hay hoán chuyển?

Tu là buông b hay hoán chuyn?

Một bữa nọ, hai thầy trò cao tăng ngồi nói chuyện với nhau:

Đệ tử: Thưa thầy, đạo Phật khuyên người ta buông bỏ mọi thứ đúng không?

Sư phụ: Không đúng!

Đệ tử: Rõ ràng có câu “buông bỏ tất cả” đấy thôi?

Sư phụ: “Buông bỏ tất cả” để làm gì?

Đệ tử: Đúng thế, đệ tử cũng thấy rất nghi ngờ! Đệ tử thấy Phật giáo luôn nhìn vấn đề tiêu cực.

Nhiều người hỏi đệ tử: “Nếu mọi sự đều buông bỏ thì lấy đâu ra tiền? Quần áo?

Mọi người đều không làm việc thì thế giới này sao có thể tồn tại?”

Sư phụ: Mọi sự buông bỏ thì dẫn đến sụp đổ, cái gì cũng không buông bỏ thì cũng dẫn đến sụp đổ.

Đệ tử: Như vậy phải làm thế nào?

Sư phụ: Thay thế và hoán chuyển

Đệ tử: Nhờ thầy chỉ rõ cho con!

Sư phụ: Con có thể kêu một người ăn mày cam tâm cho con số tiền đang nắm chặt trong tay họ không?

Đệ tử: Không thể được.

Sư phụ: Con có thể dùng hòn sỏi đổi lấy số tiền trong tay người ăn mày không?

Đệ tử: Con nghĩ không được.

Sư phụ: Tại sao?

Đệ tử: Vì tiền đáng giá hơn.

Sư phụ: Vậy nếu dùng vàng để đổi thì sao?

Đệ tử: Vậy thì được.

Sư phụ: Tại sao?

Đệ tử: Vì vàng đáng giá hơn.

Sư phụ: Vì thế, cách buông bỏ đơn giản nhất chính là hoán chuyển.

Nguyên nhân khiến người ta không buông bỏ là vì không giành được thứ tốt hơn.

Dùng thức ăn chay thay cho thức ăn mặn, con sẽ buông bỏ được con dao mổ;

dùng bố thí thay cho giành giật, con sẽ buông bỏ được lòng tham;

dùng tín ngưỡng thay cho hư vô, con sẽ buông bỏ được nỗi trống rỗng;

dùng trí tuệ thay cho ngu dốt, con sẽ buông bỏ được cố chấp;

dùng chánh niệm thay cho tạp niệm, con sẽ buông bỏ được ngông cuồng;

dùng nhẫn nại thay cho báo thù, con sẽ buông bỏ được giận dữ;

dùng yêu thương thay cho tham lam, con sẽ buông bỏ được.. đau tim.

Tu hành không phải là buông bỏ, mà là để hiểu lẽ hoán chuyển.

THƯ GỬI MẸ LÊN TRỜI

THƯ GỬI MẸ LÊN TRỜI

Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

Mẹ Maria kính yêu,

Việc Mẹ được đặc ân lên trời cả hồn và xác là biến cố trọng đại và ý nghĩa cho toàn thể nhân loại. Trọng đại vì đó là phần thưởng tuyệt hảo mà Thiên Chúa đã dành riêng cho Mẹ; ý nghĩa vì Mẹ là người khởi đầu của Hội Thánh viên mãn, là niềm vui và hy vọng lớn lao cho dân thánh trong cuộc lữ thứ trần gian.  Trên quê trời, Mẹ tiếp tục mời gọi chúng con bước theo Thầy Giêsu để mai này chúng con cũng được cùng Mẹ hưởng niềm vui Thiên quốc.  Hôm nay (15/08) cả Giáo Hội chung chia niềm vui này với Mẹ để tán dương Thiên Chúa!

Còn nhớ ngày sứ thần truyền tin, Mẹ đã thưa tiếng “xin vâng” để trở thành Mẹ Thiên Chúa.  Mẹ chấp nhận thánh ý để cùng với Con của Mẹ lao tác trong chương trình cứu độ.  Chiêm ngắm hành trình Mẹ theo chân Thầy Giêsu, Con Mẹ, ai ai cũng nhận ra tình yêu và lòng tín thác tuyệt đối mà Mẹ dành cho Thiên Chúa.  Đúng như lời hát du dương của Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi!”  Không vui mừng hớn hở sao được bởi Mẹ thật diễm phúc vì hoa trái trong lòng Mẹ là Đấng cứu độ trần gian.  Cả cuộc đời, Mẹ luôn ngân nga tiếng hát ấy với niềm vui thiêng liêng và lòng xác tín thẳm sâu!

Trên dương thế, Mẹ chẳng xa rời Đức Giêsu.  Mẹ và Thầy Giêsu như hình với bóng.  Lúc nào Mẹ cũng quảng đại cộng tác trong công cuộc cứu độ của Thiên Chúa.  Có thể nói Mẹ là đóa hoa hướng dương luôn hướng về ánh Mặt Trời.  Đóa hoa ấy luôn đầy tràn ân phúc vì Đức Chúa ở cùng Mẹ.  Nhờ đó, Thiên Chúa ban cho Mẹ vô nhiễm khi hoài thai, đồng trinh vẹn sạch khi làm mẹ và ơn thăng thiên cả xác lẫn hồn.  Mẹ cũng được gìn giữ khỏi bị hư nát trong mồ giống như Con của Mẹ.  Chúng con hãnh diện lắm, mừng vui lắm khi Mẹ được đưa lên trời cả hồn và xác!  Giờ đây Mẹ biết không, chúng con sung sướng chạy đến với Mẹ để nhờ Mẹ chuyển cầu cho chúng con trước nhan thánh Chúa.

Mẹ ơi!  Đã từ lâu Giáo Hội có những thánh lễ nói về giây phút chấm dứt cuộc đời dương thế của Mẹ đấy.  Mừng với Mẹ vì ai cũng tin rằng lần ra đi của Mẹ phải tốt đẹp, không chút đớn đau.  Rồi dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh, ngày 1/11/1950, Đức Piô XII long trọng tuyên bố: “Đức Maria, Mẹ Vô Nhiễm của Thiên Chúa trọn đời đồng trinh, sau cuộc sống trần gian này, đã được phúc vinh quang Thiên đàng cả hồn và xác.”  Mẹ ơi, Ngài còn nói với chúng con rằng: “Chúng ta hãy nài xin Mẹ rất thánh của mọi phần tử của Chúa Kitô mà Ta đã tín thác hiến dâng loài người cho Trái Tim Mẹ.  Ngày nay ở trên trời, thân xác và linh hồn Mẹ toả sáng trong vinh quang, hiển trị cùng với Con của Mẹ.” (“Corporis Mystici”, 29-6-1943).

Trái tim hiền mẫu của Mẹ luôn ước mong từng người con hãy tin yêu Chúa Giêsu.  Mẹ cầu mong chúng con cũng được hưởng niềm vui Thiên Quốc như Mẹ.  Ước gì chúng con luôn được ở trong Trái Tim nhân hiền của Mẹ.  Mẹ ơi!  Chúng con tin rằng thân xác sẽ sống lại trong ngày sau hết.  Nếu tin yêu Chúa Giêsu Kitô, chúng con chắc chắn sẽ được sự sống đời đời, Mẹ nhỉ!  Khi ấy, Mẹ-con mình sẽ trùng phùng vui sướng, hạnh phúc vô bờ!  Hơn nữa, khi chiêm ngắm Mẹ lên trời cả hồn và xác, chúng con còn xác tín rằng: thân xác sẽ được cứu độ.  Cho dẫu cuộc sống gian trần còn nhiều khổ đau thân xác và tâm hồn, nhưng nhờ Mẹ, chúng con sẽ được Thiên Chúa nhận lời đưa vào cuộc sống vĩnh hằng, thưa Mẹ!

Sau cùng, chúng con muốn cùng với Mẹ dâng lời “Ngợi khen” Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Ðức Chúa, … Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!”  Chính Người đã ban cho Mẹ nên Hiền mẫu tuyệt vời trên dương thế, nên Đức Mẹ rạng ngời trên Thiên quốc.  Hôm nay và ở đây, Mẹ vẫn đang hát vang bài ca ấy để cầu mong từng người con dù sống dưới trần gian, nhưng hãy hướng tâm trí về Quê Trời.  Nơi ấy Mẹ đang vẫy gọi và cầu nguyện cho mỗi người chúng con!

Lạy Mẹ Maria, trên Thiên quốc, xin Mẹ đoái nhìn đến cuộc sống lữ hành của chúng con.  Xin Mẹ nhắc nhớ chúng con đừng quá mê man với cuộc sống chóng qua mà quên mất thực tại Nước Trời.  Bên ngai tòa Thiên Chúa, xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng con có sức mạnh thần linh để chúng con một lòng tin yêu Thiên Chúa.  Được như thế, chắc chắn chúng con sẽ gặp được Mẹ, để Mẹ dẫn chúng con đến hưởng nhan thánh Chúa.  Amen.

Chúc mừng đặc ân Mẹ được Thiên Chúa đưa lên trời cả hồn và xác!

Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

Cầm tay em anh hỏi

“Cầm tay em anh hỏi
Đường nào lên Thiên Thai,
Đường nào lên Thiên Thai,
Đường nào lên Thiên Thai?
Nơi hoa xuân không hề tàn,
Nơi bướm xuân không hề nhạt,
Nơi tình xuân không úa màu bao giờ.”

(Nhạc: Hoàng Nguyên/Lời: Hồ Hoàng Phương – Đường Nào Lên Thiên Thai)

(Mt 14: 5-8/17: 3-4)

Trần Ngọc Mười Hai

Cầm gì thì cầm, tay hoặc chân của ai đó cũng chẳng sao. Thế nhưng, chớ có “cầm nhầm” thứ gì khác, kẻo không những chỉ mình em, mà cả thế giới đều lên tiếng.

Hỏi gì thì hỏi, hỏi-han hay han-hỏi điều gì, cũng đừng nên hỏi các đấng bậc nhà Đạo những câu như thế! Bởi, chưa cần nghe anh hỏi, Đấng bậc tôi tớ của các bầy tôi đây sẽ tranh nhau mà trả lời. Ngoại trừ các chi tiết về Lưu Nguyễn, rượu Đào, suối Ngọc ở đâu đó, như câu hát cứ liên hồi, rằng:

“Ngày xưa sao Lưu Nguyễn,

gặp đường lên Thiên Thai,

Nhạc vàng ai mê say,

Rượu Đào ai ngây ngây

Suối Ngọc reo dưới bước chân đi,

Tiếng Nhạc tiên quyến luyến xiêm y,

ôi làm sao lạc vào được Thiên Thai.”

(Hoàng Nguyên/Hồ Hoàng Phương – bđd)

Bởi, như lời bọn tôi vừa nói, anh hoặc em có hỏi cho nhiều, thì nghệ-sĩ ở đời cũng chỉ có thể bảo ban với em hoặc anh những điều rằng:

“Anh nào biết đường lên Thiên Thai,

khi trời đất còn vương thương đau,

khi hồn anh chưa biết sẽ về đâu

Anh nào biết đường lên Thiên Thai,

khi lòng còn như băng buốt giá

Và tình còn e ấp, nói không thành lời.”

(Hoàng Nguyên/Hồ Hoàng Phương – bđd)

Thế đó, là chuyện ngày xưa. Còn, hôm nay và mai ngày, chỉ cần anh cất tiếng hoặc ầm ừ đôi ba chữ, chứ chẳng cần biết anh có cầm tay hay cầm chân ai đó không, cũng sẽ có đấng bậc này nọ ví von Thiên Thai với Nước Trời, ngay tức thì.

Thế nhưng, trước khi đi vào chi tiết những gì chưa hỏi đã trả lời một “chia sẻ”; nay, mời bạn và mời tôi, ta nghe sơ những chuyện “chưa hỏi đã có đáp án” như sau:

“Hai chàng trai nọ cầm tờ giấy xét nghiệm ở bệnh viện ra cửa đọc mà chẳng hiểu, bèn ngơ ngác đầy chất hỏi han, như sau:

-Tình-hình cậu thế nào? Có khả-quan không thế?

-Không dám “khả quan” đâu! Bác-sĩ khám tớ xong bèn kết luận bằng chữ BT tức “bó tay” to đùng thế này làm sao khả với quan được cơ chứ!

-Không bằng tớ đâu! Tình-hình của tớ còn tệ lậu hơn nữa.

-Ấy chết! Cậu nói gì mà “lậu” với tệ? Thế, ỗng nói là cậu bị lậu sao?

-Lại cũng không dám đâu! Chả lậu liếc gì đâu. Chả là, ngài phê cho tớ mấy chữ RLTH có nghĩa “Ruột lòi tới háng”, thế có chết không cơ chứ!

Than vãn ỉu xìu xìu một hồi, hai chàng trai gặp cô y-tá đầy chữ nghĩa bèn ráp tới hỏi và han thêm lần nữa, bèn được câu “đáp án” rất sáng tỏ như thế vầy:

-Các anh “cầm nhầm” kết-quả rồi! Đâu nào “cho em xin”… Anh đây Bác-sĩ phê hai chữ BT có nghĩa là “Bình thường” chứ chẳng phải bó tay bó chân gì hết đó! Còn, anh đây mấy chữ RLTH có nghĩa là “Rối loạn tiêu hoá”, chứ chẳng có gì hết đó. Uống viết thuốc xôi là xong ngay…”

Quả là đáp-án của dân “chuyên-nghiệp” khi thấy thiên-hạ những hỏi han như thế. Riêng nghệ-sĩ xưa, hay đưa ra câu hỏi không rõ có tính chuyên-nghiệp không mà sao cứ hát mãi những lời rằng:

“Nhìn trong đôi mắt đẹp,
lòng chợt vui như say;
kìa đường lên Thiên Thai,
kìa đường lên Thiên Thai
Ấy đường qua ngõ mắt thơ ngây,
tiếng nhạc êm lẫn tiếng thơ say,
Đưa hồn anh lạc vào tận tim ai.”

(Hoàng Nguyên/Hồ Hoàng Phương – bđd)

Nghe hát rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta đi thẳng vào vấn-đề về hỏi-han “Đường Nào Lên Thiên Thai” hay “đường nào dẫn đến Nước Trời, ở đâu đó?

Hễ cứ hỏi, là có thưa. Những thưa cùng hỏi rất tận-tình như bao giờ. Thế nên, hôm nay đây, thay vì trả-lời câu: “Đường nào lên Nước Trời hoặc Thiên Thai? Thì, đấng bậc ở chốn chóp bu nhà Đạo lại nói về đức tính đích-thực của các kẻ tin đang sống ở chốn Nước Trời, như sau:

“Đức Phanxicô nói rằng muốn nên chứng nhân đích thực trong đời sống Kitô hữu đòi phải có 3 đặc tính.

Trong bài giảng thánh lễ sáng hôm qua 11.06 tại nguyện đường Santa Marta, Đức Giáo Hoàng nói đến 3 đặc tính đó là: “Hành trình, phục vụ, lãnh nhận nhưng không.

Hành trình.

Đức Giáo Hoàng nhắc đến bài đọc Tin Mừng trong ngày nói về việc Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi loan báo Tin Mừng. Là một môn đệ của Chúa đòi hỏi phải mang lấy sứ mạng ra đi loan báo Tin Mừng.

Nếu người môn đệ không đi ra và không làm cho người khác lãnh nhận bí tích Rửa tội thì người ấy chưa phải là môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Người ấy thiếu sinh khí truyền giáo. Anh ta không thể ra khỏi chính mình để mang lại những điều gì tốt lành cho người khác.

Các môn đồ của Chúa Kitô cần phải lên đường mang lấy Tin Mừng, cần có một hành trình nội tâm không ngừng tìm kiếm Chúa, qua đời sống cầu nguyện và suy niệm. Nếu người môn đệ không theo đuổi cách thức này, công cuộc rao giảng Tin Mừng sẽ nên suy yếu.

Phục vụ.

Đức Giáo Hoàng nói đến đặc tính thứ hai nơi người kitô hữu đó là phục vụ. Không phục vụ không phải là Kitô hữu. Một người môn đệ không biết phục vụ người khác thì không phải là Kitô hữu. Người môn đệ cần phải theo những gì Chúa Giêsu rao giảng như được mời gọi nơi hai trụ cột của Kitô giáo: 8 Mối Phúc Thật và ‘Chứng thư’ như được liệt kê trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu chương 25.”

Nếu cuộc sống của chúng ta không biết phục vụ thì không có giá trị gì trong đời sống Kitô hữu. Người môn đệ đích phải biết phục vụ người khác đặc biệt là những người bị bỏ rơi.

Lãnh nhận Nhưng-không.

Đức Giáo Hoàng nói đến đặc-tính thứ 3 cần phải có nơi đời sống Kitô hữu đó là ‘nhưng không’. Đức Giáo Hoàng nhắc lại những lời của Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng “anh em đã được nhận nhưng không thì cũng hãy trao ban nhưng-không”.

“Thật buồn khi thấy có những Kitô hữu đã quên đi Lời này của Chúa Giêsu. Thật buồn khi thấy trong các cộng đoàn, giáo xứ, các dòng tu, giáo phận đã quên đi điều này. Vì như thế hóa ra ơn cứu độ đến từ sự giàu có, từ sức mạnh của con người.”

“Niềm hy vọng của ta đặt nơi Chúa Giêsu Kitô. Ngài ban cho ta niềm hy vọng để không bao giờ thất vọng. Niềm hy vọng giúp chúng ta vững mạnh lên đường; niềm hy vọng giúp chúng ta ra khỏi cái tôi ích kỷ của mình để phục vụ người khác; niềm hy vọng làm cho chúng ta nên giàu có chứ không bó hẹp nơi thế giới vật chất chóng qua này”. (theo zenit)

Thế đấy, là cuộc sống ở Nước Trời rất như thế. Như thế và như vậy, giống hệt một khẳng- định của thánh-nhân hiền-lành nhà Đạo từng lập đi lập lại rằng:

Sau khi đã loan Tin Mừng cho thành ấy

và nhận khá nhiều người làm môn đệ,

hai ông trở lại LýtRa, Icôniô và Antiôkia.

Hai ông củng cố tinh thần các môn đệ,

và khuyên nhủ họ giữ vững đức tin.

Hai ông nói:

“Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa.”

Trong mỗi Hội Thánh,

hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục,

và sau khi ăn chay cầu nguyện,

hai ông phó thác những người đó cho Chúa,

Đấng họ đã tin.”

(Cv 14: 22-23)

Sống ở chốn Thiên-Thai/Nước Trời, thì như thế. Còn, đường lên Thiên-Thai/Nước Trời thì sao? Và đây, mời bạn và mời tôi, ta nghe tiếp đoạn khác ở trình-thuật Tin Mừng thánh Mát-thêu như sau:

Bấy giờ Đức Giêsu nói với các môn đệ của Người:

“Thầy bảo thật anh em,

người giàu có khó vào Nước Trời.

Thầy còn nói cho anh em biết:

con lạc đà chui qua lỗ kim

còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.”

Nghe nói vậy,

các môn đệ vô cùng sửng sốt và nói:

“Thế thì ai có thể được cứu?”

Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói:

“Đối với loài người thì điều đó không thể được,

nhưng đối với Thiên Chúa,

thì mọi sự đều có thể được.”

(Mt 19: 23-26)

Hỏi rằng: ta hiểu câu trên như thế nào? Phải chăng người muốn nói: muốn vào chốn Thiên-Thai/Nước Trời, phải trở nên nghèo khó, bé nhỏ, sống túng-thiếu chứ không sang giàu hoặc dư dật? Bởi, nếu đã giàu sang/dư dật rồi, lại sẽ khác.

Sống ở chốn Thiên-thai/Nước Trời, là sống tình-trạng thanh-thoát, trống-trải để rồi sẽ không có gì và sẽ chẳng còn gì để sợ mất và cũng chẳng có gì để phải lo “con bò trắng răng”. Dù, mối lo đó lại sẽ là mối lo và sợ những người giàu-có đến chiếm hữu/rút rỉa những gì mình có.

Sống tình-huống Thiên-Thai/Nước Trời, là có sống rất thật nhưng không chỉ cho mình mà cho người khác. Là, như thánh Phaolô khi xưa từng bảo: “Tôi sống nhưng không phải tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.

Sống tình-huống Thiên-Thai/Nước Trời là sống giống như câu ca vẫn tiếp-tục hát:

“Nhìn trong đôi mắt đẹp,
lòng chợt vui như say;
kìa đường lên Thiên Thai,
kìa đường lên Thiên Thai.

Ấy đường qua ngõ mắt thơ ngây,
tiếng nhạc êm lẫn tiếng thơ say,
Đưa hồn anh lạc vào tận tim ai.”

(Hoàng Nguyên/Hồ Hoàng Phương – bđd)

À thì ra, cả trong Đạo lẫn ngoài đời đều công-nhận: “Hồn anh lạc vào tận tim ai”, thế mới là Thiên-Thai/Nước Trời ở phía trước. Có vào tận “tim anh” hay “tim em” cũng sẽ không khó như “Lạc đà chui qua lỗ kim” đâu. Cái khó, là lòng người chẳng muốn “đưa hồn lạc” vào đâu đó, dù chốn đó có là Thiên Thai hay Nước Trời, nhiều con tim rất vang hoặc rất ngọc.

Bởi lẽ, Thiên Thai/Nước Trời, vẫn cứ là và sẽ là chốn miền ta cùng sống trong và sống với cộng-đoàn dân con Đức Chúa ở xã hội. Bởi lẽ, Thiên-Thai/Nước Trời ở đây, lúc này, chính là cộng-đoàn ta chung sống, trong đó có giúp giùm, đùm bọc, không ngại ngần.

Cộng-đoàn Thiên-Thai/Nước Trời, lại chính là Thánh-hội ở trần-gian, trong đó không còn ai chỉ mỗi lo-toan, tranh giành, kèn-cựa đạp nhau mà tiến chức, lên lương hoặc nắm trọn quyền. Ở chốn Thiên Thai/Nước Trời hôm nay hay mai ngày, là ở với cộng-đoàn có Thánh Thần Chúa soi sáng, ngự trị.

Cộng-đoàn Thiên-Thai/Nước Trời, vẫn là và sẽ là chốn thánh-thiêng, trong đó có vị thánh Đá Tảng rất Phêrô, từng kêu lên vui sướng, những câu nói rất trung-thực như:

Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay!

Nếu Ngài muốn,

con xin dựng tại đây ba cái lều,

một cho Ngài, một cho ông Môsê,

và một cho ông Êlia.”

(Mt 17: 3-4)

“Thật là hay! nếu Người muốn mà sao người người nay chẳng nhớ đến ai để rồi người người cùng tôi sẽ đóng lều để ở, mà chỉ nhớ có Môsê hoặc Êlya thôi? Thế đó là vấn đề. Chính đó, là nỗi chết. Bởi thế nên, Đức Giêsu lại đã phản-hồi bằng câu nói rất đáng nhớ, mà rằng:

Ông còn đang nói,

chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông,

và có tiếng từ đám mây phán rằng:

“Đây là Con yêu dấu của Ta,

Ta hài lòng về Người.

Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”

Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng,

ngã sấp mặt xuống đất.

Bấy giờ Đức Giêsu lại gần, chạm vào các ông và bảo:

“Trỗi dậy đi, đừng sợ!”

Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa,

chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi.”

(Mt 14: 5-8)

Xem như thế, tức như thể bảo: Thiên-Thai/Nước Trời không ở đâu khác, ngoài Đức Giêsu, là Con Thiên Chúa. Bởi, Ngài là tất cả trong mọi sự. Có nghe và làm theo lời Ngài dạy, tôi và người rồi ra, ai ai cũng đạt chốn Thiên Thai Nước Trời, vẫn mong muốn.

Để minh-chứng và minh-hoạ điều này, tức: chỉ một điều rằng: Thiên-Thai/Nước Trời là chốn miền ta đang sống hiện-tạiở đây, ngay lúc này không gồm tóm chỉ mỗi chuyện tốt đẹp mà thôi, nhưng vẫn có những chuyện không hay ho, thực-tế như trang nhật-ký của vị y-sĩ thuộc loại thượng-thừa, như sau:

“Đêm trực lúc 0 giờ

Một người đàn ông đến cấp cứu vì đau quặn bụng. Khi mình đến khám, ông ta cứ luôn miệng nói: Tôi quen anh giám đốc A. Tôi có làm ăn với chị trưởng phòng B. Có lẽ do ông ta nghĩ rằng, khi nói ra những mối quan hệ ấy, mình sẽ làm việc chu đáo hơn. Mình đã đáp lời rằng :

-Anh có thể thôi nói tên và chức vụ của người khác. Anh hãy nói về chính anh đi, tên, chức vụ và bệnh của anh.

Ông ta trố mắt ra nhìn mình, phải mất vài phút sau ông ta mới có thể bắt đầu khai bệnh.

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cũng hay như vậy, bạn nhỉ? Cứ vỗ ngực tự hào chứng tỏ với nhau rằng : tôi là con ông D, cháu bà C, tôi quen biết ông E và có mối quan hệ thân thiết với bà F, thay vì chúng ta nói về chính mình. Nhưng một người trưởng thành thật sự lại là người luôn tự đứng vững trên đôi chân mình, can đảm chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình, không dựa vào ai cả, không đổ thừa ai cả.

0 giờ 30 phút

Một người phụ nữ 70 tuổi, được đưa đến phòng cấp cứu trong tình trạng suy kiệt nặng, da xanh niêm nhạt, thở ngáp cá, toàn thân khai mùi phân dãi. Khi mình xử trí cấp cứu xong, mình hỏi hai người con gái ăn bận rất bảnh bao và thơm tho : Bệnh nhân bị bệnh gì trước đây, điều trị ở đâu, và diễn tiến nặng bao lâu rồi?

Mình đã ngỡ ngàng khi nhận được một câu trả lời : Bệnh tim mạch và u hạch gì đó không rõ, mẹ tôi đã khó thở cả tháng nay rồi, nhưng tôi nghĩ không sao nên không đưa đi khám bệnh.

– Hai chị là con ruột?

– Ừ con ruột.

Mình im lặng thở dài khi kết quả xét nghiệm và MSCT trả về là bệnh Lymphoma ác tính di căn não, di căn phổi, đái tháo đường, suy thận… Làm sao mà cứu chữa? Mẹ thì chỉ có một trên đời.

Tuần trước mình có đi dự đám tang của một bệnh nhân rất thân. Và đã chứng kiến những giọt nước mắt ăn năn của người con út.

– Bác sĩ biết sao không, cả bốn tháng nay tôi chưa gặp mẹ, dù nhà tôi và nhà mẹ cách có vài bước chân. Ai ngờ trưa hôm thứ 7, nhận điện thoại báo mẹ đã mất rồi… Giá như tôi …

Thật, càng lớn tuổi, mình càng sợ trực cấp cứu. Không phải vì sức khoẻ vì chuyên môn hay vì áp lực phải tiếp xúc phơi nhiễm với những bệnh lây nhiễm hay vì có thể bị hành hung bất cứ lúc nào. Mà vì cứ phải chạm vào thật sâu bên sau mỗi con người dù mình không muốn…

1 giờ sáng

Bệnh nhân nam 23 tuổi, cơ thể gầy teo, nấm trắng đầy miệng đến cấp cứu vì tiêu chảy. Khi mình giải thích tình hình bệnh và đề nghị nhập viện thì bệnh nhân không chịu vì không có tiền.

– Em điện thoại kêu ba mẹ vào viện đi.

– Ba mẹ em li dị hồi em còn nhỏ xíu. Em sống với bà, mà bà ở tuốt dưới Vĩnh Long, em nói thiệt, em bị nghiện ma tuý đá và bị nhiễm HIV.

– Nhưng nếu em không nằm viện thì phải làm sao?

– Em cũng không biết nữa.

Nhìn cơ thể bệnh nhân chi chít những hình xăm, mái tóc nhuộm vàng khè … sao mà khác quá với cách bệnh nhân trả lời.

– Em chỉ nghĩ mình đau đến đây để bác sĩ cấp cứu…

Mình lại thở dài, dù tiếng thở dài chẳng làm đêm ngắn lại. Phần lớn những người sa ngã và lầm lạc thường được lớn lên trong gia đình không có hạnh phúc, cha mẹ ly dị, hay nghiện rượu, cờ bạc và thuốc lá. Có bao giờ mỗi bước chân đi, mỗi quyết định trong cuộc đời, chúng ta đều cẩn trọng? Sinh con rất dễ, nhưng nuôi dưỡng con lại rất khó! Khó vô cùng.

2 giờ sáng

Một thanh niên sỉn rượu đến để may những vết thương vùng mặt và lưng do bị chém. Khi điều dưỡng hỏi phần hành chính, thì anh ta nạt nộ đập bàn : Sao không khâu liền đi, cứ hỏi mấy cái vớ vẩn làm gì?

– Muốn khâu thì phải làm hồ sơ khai tên tuổi bị đánh ở đâu chứ, rồi còn phải kí tên yêu cầu khâu chứ.

– Tao (cóc) khai. Bây giờ tao hỏi tụi mày có khâu không thì bảo? Tụi mày có tin tao chém tụi mày bây giờ không?

Mấy anh bảo vệ nghe ồn ào, báo ngay cho công an. Và thanh niên sỉn rượu vừa thấy bóng công an lập tức bỏ chạy. Mới đó còn hùng hổ đòi đâm đòi chém …Thật, những người có xu hướng hung bạo và dễ kích động thường là những người sống trong sự sợ hãi và yếu đuối.

Vì sao khi đi trên phố mấy thanh niên trẻ hay nẹt bô rồ ga? Vì sao giữa đám đông mấy người trung niên kia ăn bận diêm dúa trang điểm cầu kì? Bởi vì trong sâu thẳm họ khát khao được chú ý, khát khao được công nhận… nhưng họ chẳng có gì đặc biệt, buộc họ phải hành động như thế. Họ lạc loài!

3 giờ sáng

Một người đàn ông, 50 tuổi được đưa vào cấp cứu vì đau đớn vùng hạ sườn phải. Ông ta la hét inh ỏi:

– Bác sĩ đâu rồi? Tụi bây chết hết rồi hả? Tao vào bệnh viện cả tiếng rồi mà chẳng thấy tụi bây đâu…

– Bác sĩ đây, anh mới vào mà, y tá còn chưa kịp lấy dấu hiệu sinh tồn…

Người nhà vội nói bệnh nhân và quay qua nói với mình : Bác sĩ thông cảm, tại ảnh bệnh ung thư đường mật di căn gan, di căn hạch giai đoạn cuối rồi nên đau đớn và hay la hết. Bệnh Viện C đã cho về, khuyên gia đình, bệnh nhân muốn ăn gì thì cứ cho…

Đêm dường như sâu hơn với tiếng thở dài.

Nỗi đau niềm thống khổ là có thật, luôn hiện diện bên trong mỗi con người. Ai cũng đau cũng khổ, có người nhờ nỗi đau mà vượt lên được chính mình, tìm ra được con đường giải thoát và an lạc, nhưng cũng có người bị chết chìm trong đó. Lẽ thường, khi người ta gần đến bên kia con dốc cuộc đời, cận kề cái chết, người ta sẽ buông bỏ hết những sân si, người ta sẽ chấp nhận và mỉm cười… Đằng này …

Bốn giờ sáng

Một người phụ nữ đến cấp cứu vì đau đầu ngủ không được. Trong khi mình đang viết bệnh án thì nghe bà ta kêu lên: Chú bác sĩ và cô y tá kia, mau trả điện thoại lại cho tôi.

– Bà coi lại cẩn thận đi, tụi con đâu có lấy điện thoại của bà.

– Cô nói gì? Chỉ có cô và chú bác sĩ kia lại gần tôi… Không cô thì chú kia lấy. Báo bảo vệ hay công an ngay đi.

Bệnh nhân ngồi bật dậy, khác với lúc mới vào nhăn nhó khó chịu mệt mỏi.

– Ôi mẹ ơi, mẹ nói cái gì kì lạ vậy? Con giữ điện thoại của mẹ đây. Tại con đi đóng tiền tạm ứng nhập viện nên mẹ không biết.

– Vậy hả? Tao tưởng hai đứa này nó ăn cắp.

Bé Khánh vừa định lên tiếng, mình vội ngăn lại và thì thầm: Thôi bỏ đi em.

Mình nhớ một câu chuyện trong Phúc Âm, có người đến hỏi: Nếu ai đó tát vào má con thì sao? Chúa Giêsu đã trả lời : Con hãy đưa luôn má còn lại cho người ta tát. Và nếu có ai xin con cái áo khoác bên ngoài, con cũng hãy cởi luôn cái áo khoác bên trong mà cho.

Thường chúng ta chỉ đến với Thượng Đế khi bị đau khổ, mất mát, muốn mà chưa được…Và khi chúng ta bị ức hiếp bị bắt nạt, chúng ta mong là luật công bằng, luật nhân quả được thực thi.

Nhưng Thượng Đế luôn im lặng. Ngài dạy: Hãy tha thứ, hãy cho đi nhiều hơn. Bởi chỉ những người yếu đuối, thiếu thốn, bị bỏ rơi … mới dùng đến bạo lực và đi xin. Ngài Đạt Lai Lạt Ma từng nói: Cây lúa nào hạt non hạt lép thì nó đứng thẳng vươn cao. Còn những cây lúa nặng trĩu hạt luôn oằn mình xuống dưới thấp. Cái Tôi của ai nhỏ bé thì tâm-lượng người đó mênh mông! (trích Nhật-ký của Giáo sư Tôn Thất Tùng)

Nghe kể chuyện thực-tế ở chốn Thiên-Thai/Nước Trời rồi, giờ đây mời bạn và mời tôi, ta đi vào vườn hoa văn-nghệ có những câu hát không xa vời thực-tế như câu ca do nghệ-sĩ trích ở trên cứ hát đi hát lại mãi rằng:

“Nhìn trong đôi mắt đẹp, lòng chợt vui như say;
kìa đường lên Thiên Thai, kìa đường lên Thiên Thai
Ấy đường qua ngõ mắt thơ ngây, tiếng nhạc êm lẫn tiếng thơ say,
Đưa hồn anh lạc vào tận tim ai.”

(Hoàng Nguyên/Hồ Hoàng Phương – bđd)

Hát thế rồi, hẳn bạn và tôi, ta đã tìm ra con đường lên Thên-Thai nay cứ sống sự thật cuộc đời, với đời và trong đời, giữa mọi người.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ sống một đời rất thực;

Nhưng ít khi hỏi người, hỏi mình

tự bao giờ.

Em còn nhỏ làm sao mà biết được

“Em còn nhỏ làm sao mà biết được”

Áo cơm hành bủn rủn thiên tài.”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mai Tá, lược dịch

Áo cơm hành bủn rủn thiên tài, vẫn là Tình Yêu tuyệt vời, Lời Chúa phán. Áo cơm ấy, Tình-Yêu này, lại vẫn được diễn-tả theo kiểu cung cách rất thời thượng mà bậc thánh-hiền còn viết mãi đến hôm này.

Hồi đầu thập niên bẩy mươi, một trong các ấn bản của nhà sách Readers Digest thời bấy giờ đã thuật lại sự kiện về chiếc phản lực cơ lâm nạn rơi xuống vùng núi Andes, chỉ một ít người còn sống và họ phải ăn thịt lẫn nhau để tồn tại.

Trong buổi thảo luận về khía cạnh luân lý đặt ra với hiện tượng “khác thường này, các nhà thần học đã bàn về tư thế của Giáo hội bên sau hiện tượng ‘người ăn thịt người, để sống còn’. Câu hỏi mà tác giả bài viết lúc ấy đưa ra, là: Giáo hội quan niệm thế nào về luân thường đạo lý khi gặp trường hợp ‘người ăn thịt người’?

Dù có ai đưa ra luận cứ vững chắc nào để bênh vực cho tục ‘ăn thịt người để sống sốt’, thì cảnh tượng đứng đứng ngồi ngồi gắp từng miếng thịt của người đồng hành, đưa lên miệng, cũng đủ khiến ta lợm giọng, rất ghê tởm. Cũng như vậy, khi ta rước Mình Máu Cha, người ngoài Đạo có thể nghĩ và gán cho ta mũ chụp là “tội đồ, mọi rợ chuyên ăn thịt người khác”. Tức, tội đồ đi Đạo dám ăn cả thịt và uống cả máu Đức Chúa của mình.

Có lẽ, người ngoài Đạo cũng cho rằng: ta còn mừng kính việc ăn Mình và Máu Đức Giê-su, là ta còn mang tiếng trở thành kẻ ‘ăn thịt người’. Truyền thống Giáo hội xưa nay vẫn luôn thận trọng khi sử dụng ngôn từ chỉ việc Đức Giê-su hiện diện nơi Thánh Thể.

Dẫu có thế nào đi nữa, dứt khoát ta vẫn không phải là ‘kẻ ăn thịt người’. Trăm ngàn lần như thế. Bởi, có bao giờ ta ăn tim gan, phèo phổi hoặc xương, óc của Đức Chúa, bao giờ đâu. Giáo lý trong Đạo, tuy đề cập đến sự hiện diện đích thực, bằng xương bằng thịt, của Đức Chúa nơi Thánh Thể, rất thật.

Nhưng, ta có qui về Đức Giêsu đâu! Tín lý trong Đạo chỉ nói về Đức Kitô, Đấng đã hiến trọn con người của Ngài cho ta. Điều ấy có thật. Nhưng, Ngài muốn ta ăn thịt Ngài như cơm bánh hằng sống, thức ăn miên trường chủ yếu tháp nhập con người của ta vào với bản thể của Ngài. Hiển nhiên là như thế.

Ở đây, sự phân biệt danh phận và tên gọi của Đức Chúa là điều rất cần. Thánh Thể là Bí tích thánh thiêng về mầu nhiệm Phục sinh. Khi cử hành Tiệc Thánh Thể, ta vinh danh Đức Kitô đã sống lại, và hiện Ngài đang thực sự có mặt với ta, ở trong ta. Đây là sự có mặt trọn vẹn dưới dạng thức bánh và rượu. Hai chất thể phàm tục đã trở thành Mình thánh và Máu thánh của Ngài trong buổi Tiệc của Lòng Mến.

Truyền thống đạo giáo vẫn công khai tuyên xưng đặc tính chất loại của Mình Thánh. Như thế, không có nghĩa là đã giúp ta suy tư đầy cảm tính. Là Công giáo, ta tin Đức Kitô được Đức Chúa cất nhắc khỏi sự chết và Ngài đã sống lại thật và đang thực sự hiện diện với ta, bằng xương bằng thịt, ở đây, trong Tiệc Lòng Mến này.

Thế còn, vấn đề ý nghĩa ‘quà tặng’ của Thánh Thể, thì sao?

Nói cụ thể, chương 6 Tin Mừng thánh Gioan là thiên nghị luận bàn nhiều về Thánh Thể. Đằng khác, cũng trong chương này, thiên nghị luận của thánh sử là để đề cao sự thống khổ, cái chết của Đức Giê-su và sứ mạng của ta biết noi theo con đường Ngài đã đi.

Đức Giêsu, trong cương vị một Môsê mới, không chỉ ban tặng cơm bánh hằng sống cho con người, mà thôi. Ngài còn trao ban chính Thân mình của Ngài, qua sự thống khổ, cái chết và sự sống lại vinh hiển, nữa. Chính vì lý do này, Hội thánh Cha vẫn nối kết sự kiện Vượt Qua với việc cử hành Tiệc Thánh Thể. Đây là Tiệc của Lòng Mến, nơi đó ta ăn mừng và tôn kính Thân Mình rất thánh của Đức Chúa.

Vấn đề đặt thêm hôm nay, là: tại sao ta lại được trao ban cho quà tặng có một không hai ấy? Tiệc Thân Mình rất thánh của Đức Chúa không mang dáng dấp của một lễ hội dành cho một nhóm người nào đó, rất ưu đãi. Đây cũng không phải là việc sùng kính riêng tư, rất trầm buốn. Đây chẳng có nghĩa của một thứ gì đó nhằm đảm bảo cho ta ơn cứu rỗi riêng lẻ, của từng người.

Tiệc Thánh Thể mang ý nghĩa đích thực là ở chỗ: tiệc ta nhận lãnh Thân Mình Đức Chúa để bổ sức giúp cho kẻ tin vào Đức Kitô biết dấn bước ra đi, theo con đường khổ hạnh của Ngài. Ra đi, để biến đổi thế giới đương đại. Ra đi, luôn mang theo tình thương yêu dâng trào và sự công chính Chúa ban, vì Đức Kitô, nhân Danh Đức Kitô, cho Đức Kitô.

Hội thánh, người của Đức Chúa, vẫn luôn nối kết những gì ta sẽ hành động sau tiệc Thánh Thể với những gì ta cử hành việc ăn uống trong buổi Tiệc mừng. Điều này có nghĩa, là: người dự tiệc sẽ hối hả ra đi chăm lo nuôi sống những người đang đói thức ăn. Đang thiếu nước uống, trên thế giới.

Điều này còn có nghĩa: đa số chúng ta quyết giúp đỡ các người anh người chị khác, những nhóm người vẫn thực hiện công tác thiện nguyện, rất âm thầm. Điều này cũng có nghĩa, là: khi nghĩ đến các ứng viên ta sẽ bầu làm lãnh đạo hay thủ trưởng, ta buộc họ phải bận tâm lo toan cho nhiều người đau khổ, phiền muộn tại xứ sở, địa phương, và cả ở xã hội.

Trước đây, cố bề trên tổng quyền Dòng Tên, linh mục Pedro Arupe đã có lần bộc bạch rằng: Bao lâu, ở đâu đó trên thế giới, còn có người đói thức ăn, thèm khát nước uống, thì việc cử hành tiệc Thánh Thể của ta ở bất cứ nơi nào trên quả đất này, vẫn như còn thiếu thứ gì đó, theo một cách nào đó. Bởi, đôi lúc, ta vẫn cứ ảo tưởng cho rằng: Tiệc Thánh Thể có phép mầu thần thông của một ảo thuật gia, biến đổi được tất cả.

Đấy cũng là điểm nhấn mà Giê-su Đức Chúa đặt nặng trong Tin Mừng hôm nay, khi quả quyết: Ngài tặng ban Thân Mình Ngài cho sự sống của thế giới, đang tồn tại. Tiệc Thánh không biến ta thành những tay “tội đồ” ăn thịt người. Dứt khoát, không phải thế. Ngàn lần không là như thế. Tiệc Thánh còn có nghĩa thực tế, là: biến ta trở nên triệt để hơn. Triệt để, trong quyết tâm tiếp tục hiên ngang tồn tại làm con dân của Đức Chúa khắp nơi, trên địa cầu này.

Trong cảm-nghiệm tình thương-yêu rất như thế, ta lại sẽ ngâm tiếp lời thơ, rằng:

“Em còn nhỏ làm sao mà biết được,

Áo cơm hành bủn rủn thiên-tài.

Học thói người xưa ta cạo đầu bán tóc,

Chưa đủ tặng em nửa chiếc áo dài.”

(Nguyễn Tất Nhiên – Vài Đoạn Viết Ở Đinh Tiên Hoàng)

Cuối cùng thì, có cạo đầu bán tóc nhiều chăng nữa, cũng chỉ để chứng-tỏ tình thương yêu anh tặng cho em, cho mọi người. Cả một đời.

Lm Richard Leonard sj biên soạn –

Mai Tá, lược dịch

Tin Mừng (Ga 6: 51-58)

Khi ấy, Đức Giêsu nói với người Do Thái rằng: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”

Người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” Đức Giêsu nói với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”

HOANG ĐỊA – THAO TRƯỜNG CỦA NHÂN ĐỨC

HOANG ĐỊA – THAO TRƯỜNG CỦA NHÂN ĐỨC

Quân Trần, SJ

Có một lần được đến, sống và làm việc tại một nhà tĩnh tâm ngay giữa sa mạc của nhà Dòng trong suốt mùa hè, tôi chợt nhận ra một thói quen vô thức của mình: cứ tìm đến một góc vắng vẻ nhất và ngồi đó trong thinh lặng.  Nhiều khi tôi dùng thời gian ấy như là một giờ tâm sự với Chúa, nhưng cũng lắm khi chỉ để hồn phiêu lãng với những chùm tư tưởng khác nhau.  Điểm lạ là nơi tôi đến chẳng có dáng của hoa thơm, cũng không có bóng của cỏ lạ.  Có chăng chỉ là cái nắng chói chang chiếu rọi trên những gốc xương rồng cằn cỗi.  May lắm thì được yên vị trong một căn chòi nho nhỏ đủ làm dịu đi đôi chút cái gay gắt của trưa hè.  Ấy vậy mà cứ ngày này qua tháng nọ, nó dường như trở thành một chốn rất đỗi thân quen.  Và muôn lần như một, câu nói trong sách Luca cứ vọng về: “Đức Giêsu thường lui vào một nơi hoang vắng mà cầu nguyện” (Luca 5:16).  Ừ nhỉ, có gì hấp dẫn hay lãng mạn nơi hoang địa cơ chứ?  Nhìn quanh nhìn quất chỉ toàn một màu của cỏ úa, ban ngày thì nóng cháy thịt da, về đêm thì lạnh buốt tận xương tuỷ.  Người đã tìm gì trong hoang địa?  Thế đó tôi bắt đầu một cuộc tìm tòi.

Hoang địa, nơi tôi luyện đức khiên nhường.  Một ngày lang thang qua khắp nẻo đường.  Một ngày rộng tay với muôn vàn ân phúc.  Thành công có, thất bại có.  Giữa sự ồn ào của lời khen tiếng chê, thật khó mà nhận ra tiếng nói âm thầm của con tạo, của trái tim.  Đi hay ở, làm hay không, có dễ đâu mà nhận định ý Ngài?  Ấy là chưa kể cái êm đềm của đời thường sẽ làm lòng người mau quên và đôi chân chợt mỏi, chỉ muốn dừng lại bám rễ, chỉ muốn hài lòng với một chút vinh vang mờ nhạt.  Vào hoang địa thôi!  Bởi nơi ấy sẽ chẳng vang vọng những lời khen tiếng chê, sẽ chẳng bị âm thanh hỗn tạp của cuộc sống bao phủ.  Nơi ấy, thành công sẽ chẳng có cơ hội tạo hào quang và thất bại sẽ không còn cơ may làm nên những làn mây ảm đạm.  Tất cả chỉ là hư vô, là trống rỗng.  Trong im lặng tuyệt đối đó, liệu có cần không cho bao vất vả hầu đạt được những hứa hẹn hão huyền?  Khi trước mặt ta, sau lưng ta, bên phải, bên trái, bên trên, và bên dưới ta chẳng còn ai khác hơn là chính mình, trốn đâu cho được.  Mà khổ nỗi khi phải đối diện với chính mình, ta mới nhận ra được một sự thật phũ phàng nhất: ta chỉ là hư vô trước mặt Chúa.  Ta chỉ là một công cụ không hơn không kém.  Những tràng pháo tay không dứt hay những lời rủa xả lê thê của hôm qua không nói lên được con người thật của ta.  Rồi ta chợt thấu hiểu lời mời gọi tuyệt vời của hoang địa: hãy trở nên khiêm hạ; hãy nhận ra nguồn gốc của mọi sự vốn chẳng xuất phát hoặc chấm dứt nơi ta.  Có lẽ vì thế mà Đức Giêsu mê không khí của sa mạc.  Quả vậy, nơi đó đã nhắc nhở Ngài một sứ vụ to lớn hơn: tất cả vì sự cả sáng của Danh Cha.

Hoang địa, nơi hình thành và nung nấu niềm tin.  Dẫu nắng có gay gắt cỡ nào đi nữa thì từng khóm xương rồng vẫn còn đó.  Dẫu muôn vàn ngọn cỏ có nhuốm màu của lá úa, thì bên dưới vẫn hàm chứa cái khao khát của mầm sống, của ý chí muốn tồn tại.  Có ai đi giữa sa mạc mênh mông mà lòng không thèm khát một vạt nước vọt lên từ giữa những dải cát vô tình?  Hẳn ta còn nhớ một đoạn của Thánh Vịnh: “Người xẻ đá giữa sa mạc hoang vu, khiến nước tuôn tràn cho dân được uống” (TV 78:15).  Có ai vật vờ giữa cơn lạnh cắt da của trời đêm mà không mong muốn một ánh lửa bập bùng sưởi ấm?  Cái khao khát được uống nước của ân sủng, được sưởi ấm với tình yêu sẽ trổi mạnh hơn bao giờ khi ta đi vào sa mạc của tâm hồn.  Và đằng sau cõi thinh không, đằng sau sự đối đầu với những giới hạn của bản thân, lòng ta chợt bừng lên một niềm tin, một thao thức, một ước muốn theo Ngài.  Ta biết ta đã không lẻ loi.  Ta tin Ngài đang cùng ta dấn bước.  Và niềm tin ấy được nung nấu qua bao thử thách của trời trưa và bao cô quạnh của đêm dài.  Nếu không bước vào hoang địa, nếu lòng vẫn bị phủ tràn với muôn ngàn tín hiệu, thì e rằng cơ hội để hình thành và tôi luyện đức tin sẽ bị nhiễu đi.  Ra vậy, Đức Kitô đã rất có lý khi tìm đến nơi hoang vắng.

Hoang địa, nơi hun đúc lòng trông cậy.  Nhiều hôm ngồi tư lự ở góc vắng của nhà tĩnh tâm, tôi chợt thấy áo mình đẫm ướt mồ hôi.  Nắng và nóng quá đỗi.  Những cơn gió nhẹ thoảng qua bỗng nhiên trở thành một món quà quý giá.  Thoảng hoặc một vài giọt nước của một cơn mưa hiếm hoi biến thành báu vật.  Gió và mưa tuy hiếm nhưng vẫn đến đấy thôi.  Thiết nghĩ người lữ khách giữa hoang địa không vì sự hiếm hoi của chúng mà trở nên thất vọng.  Rất có thể họ còn đón nhận chúng cách trân quý hơn, tri ân hơn.  Cũng vậy, khi gặp gỡ nội tâm và Thiên Chúa giữa sa mạc khô cằn, lòng người lữ thứ luôn nung nấu những khát khao.  Chúng giống như quân canh mong chờ hừng đông đến hoặc như cái đấu ao ước được đong đầy, được lèn chặt.  Rồi hồn họ chợt vút cao ngong ngóng chờ trông con tạo.  Cái ‘kết hiệp’ tưởng như rất thường đã trở nên linh thánh hơn bao giờ.  Phải chăng Đức Kitô vào hoang địa ngày nào để nuôi dưỡng lòng trông cậy tuyệt đối vào Đấng mà Ngài hằng tuân phục tin yêu?

Hoang địa, chốn xuất phát của tình yêu, của hiến mình.  Lúc thanh vắng là lúc ta có thể đối thoại với chính mình.  Quả thế, khi thành công không là áp lực và thất bại chẳng là điều làm ta bận tâm, thì đấy là lúc ta trở nên chân thành nhất.  Ta sẽ tự hỏi chính mình xem ta có muốn tái đầu tư cho những gì ta đang đeo đuổi?  Ta sẽ tự vấn lương tâm xem hồn ta có thanh thản, tim ta có khao khát, có muốn tiếp tục yêu và sẵn sàng xả thân vì tình yêu?  Câu trả lời vào giây phút đó sẽ không mang hơi hướm của những lời chúc tụng bề ngoài hoặc những sợ hãi của bao thất bại ngập tràn.  Trong thinh lặng ta có cơ hội nhìn lại và chọn lựa cách kỹ lưỡng, để rồi khi trở về đời thường ta có một lời đáp rõ ràng hơn, mạch lạc hơn.  Hẳn ta còn nhớ, ta chỉ là một loài thụ tạo rất tầm thường.  Tình yêu ta dành cho nhau không phải lúc nào cũng ướm đượm hương thơm.  Trái lại, cũng có những phút giây ta ngậm phải những trái đắng và lòng ta thoáng xôn xao.  Thế nên lâu lâu có cơ hội nghiềm ngẫm về mối tình ta dành cho nhau cũng là một điều kỳ thú.  Đức Giêsu khi xưa đã yêu và yêu thật nhiều.  Nhưng tình yêu ‘nhân tính’ của Ngài không phải không gặp nhiều thử thách.  Và để đáp trả lời mời gọi tiếp tục yêu, để tìm lại cái đơn sơ, tinh tuyền và chân chất của con tim, hơn một lần Ngài đã vào hoang địa để suy nghĩ, để nguyện cầu.  Cũng chính qua những phút giây thần thánh đó, Ngài đã lựa chọn con đường yêu thương một cách tự do và mãnh liệt.  Bởi từ đáy thẳm tâm hồn, Ngài hiểu rõ Giêsu sẽ không còn là Giêsu nếu nơi Ngài thiếu vắng sự cho đi của trái tim.  Ngài đi vào sa mạc để rồi khi trở về lòng Ngài lại chân chất những ước mơ và thân xác Ngài lại một lần biến thành của lễ.

Hoang địa, nơi ẩn náu một kho tàng vô tận.  Bất chấp nắng hay mưa, nóng hay lạnh, từng đàn ong mật cứ vần vũ quanh đám cỏ hoang.  Những cánh chuồn, cánh bướm vẫn ưỡn lượn nhịp nhàng.  Về đêm tiếng dế rả rích tỉ tê như một điệu luân vũ tuyệt vời.  Cha giám đốc nhà tĩnh tâm cho biết bên dưới sự khô cằn của hoang địa lại là một cõi mênh mông trù phú của nguồn nước dồi dào cho bao thế hệ. Những làn nước mát trong mà tôi cùng bao người thao luyện viên tận hưởng đến từ một mạch ngầm quý giá.  Từng ngụm từng ngụm đi vào lòng mát lạnh.  Chưa bao giờ tôi lại quý nước hơn những ngày này.  Hỏi liệu có khi nào nguồn nước ấy vơi đi, cha cho biết có thể lắm, nhưng đã có bao chục ngàn con người dừng chân và nhà tĩnh tâm này đã đi vào năm hoạt động thứ 50 mà chưa ai phải vất vả kiếm tìm một nguồn nước mới.  Còn nữa cứ mải mê với cõi riêng của mình, hơn một lần tôi thấy bóng dáng của những chú nai tơ tuyệt đẹp, hay vẻ dềng dàng của mẹ con gấu đen hóm hỉnh, hoặc cái giả dạng tuyệt tác của các nàng rắn đất.  Chúng luẩn quẩn quanh tôi, chợt dừng lại ngõ sững rồi lại lững thững bước đi cứ như thể thế giới này lớn đủ, rộng đủ và hòa bình đủ cho mọi loài.  Xem ra cõi hoang vu đã dạy cho tôi những bài học mà chưa trường lớp nào từng dạy.  Nó cho tôi thấy một thế giới thật mà Thiên Chúa muốn tạo nên: một loại thế giới yêu thương nhau, chấp nhận lẫn nhau, vui vẻ chung sống và chia cho nhau những gì có thể.  Thế nên khi đi vào sa mạc của tâm hồn, tôi thấy lòng mình bừng lên những ước mơ.  Bởi bên dưới cái tưởng chừng khô cằn và nặng nề nhất lại là nơi tôi học hỏi nhiều nhất.  Có lẽ Đức Giêsu cũng có một tâm trạng giống tôi khi Ngài tìm vào nơi hoang vắng.

Nhà tĩnh tâm này, đã có bao con người đến rồi đi, đã có bao trái tim trở về, và đã có bao tâm hồn biến đổi.  Nếu nói đó là do công của các Cha linh hướng của trung tâm cũng chưa hẳn sai.  Nhưng sẽ không hoàn thiện khi ta không nhắc đến bối cảnh tuyệt vời của hoang địa, nơi mà mỗi thao luyện viên có dịp sống và lắng nghe tiếng thầm thì của tạo hoá qua những giây phút trầm mặc linh thánh.  Để rồi khi trở về với thế giới vội vã, họ biết đâu là con đường mà Thiên Chúa muốn họ đi, họ hiểu ý nghĩa của những vui buồn sướng khổ trong cuộc sống.  Họ đã được Thiên Chúa, qua thinh lặng của hoang địa biến đổi.  Họ không còn là họ của hôm qua, nhưng là của những lớp người mãi bước tới theo tiếng gọi của tình yêu.  Sa mạc cũng có lắm loại nhiều thứ.  Có loại là một thứ sa mạc nóng bỏng như tôi đã sống và làm việc trong mùa hè qua.  Nhưng cũng có thứ sa mạc lặng lẽ hơn, tinh tế hơn: thứ sa mạc của tâm hồn.  Thế nhưng dẫu ở đâu hay loại nào, chúng cũng đều là thao trường tuyệt vời cho bao nhân đức.

Bạn mến, có bao giờ bạn tìm đến với sa mạc nội tâm?  Có bao giờ bạn bắt chước Đức Giêsu dành một phần trong ngày để vào nơi hoang vắng?  Có bao giờ bạn ước ao được lớn dậy trong tình yêu và đời mình được nuôi dưỡng với bao nhân đức?  Nếu có thì đừng ngại đi vào hoang địa bạn nhé.  Vào đi, đừng sợ.  Chắc chắn khi vào rồi, bạn sẽ phát hiện ra nhiều điều mới lạ.  Khi ấy thói quen tìm nơi vắng vẻ mà tâm sự với Thượng Đế và trở về với lòng mình sẽ không bao giờ rời xa bạn nữa.  Và như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong, hồn bạn cũng sẽ trông mong được gần Chúa và tha nhân hơn bao giờ.

Quân Trần, SJ

http://www.donghanh.or

BÁNH BỞI TRỜI

BÁNH BỞI TRỜI

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Cuộc đời tiên tri Êlia là một cuộc chiến đấu anh dũng và kiên cường.  Một mình người phải chiến đấu chống lại cả một dân tộc bỏ đạo do hoàng hậu Dêdaben cầm đầu.  Người khiển trách dân chúng vì họ đã nghe theo hoàng hậu mà bỏ Chúa.  Người thách thức 400 sư sãi của thần Baan trong một cuộc dâng của lễ cầu mưa.  Người đã chiến thắng.  Nhưng chính vì chiến thắng.  Người bị hoàng hậu săn đuổi, phải chạy trốn vào sa mạc.  Hôm nay, đói khát đến lả người, vị tiên tri dũng mãnh rồi cũng cảm thấy mệt mỏi rã rời.  Người mất hết sức lực thể chất lẫn tinh thần.  Chẳng thiết sống, người xin Chúa cất người ra khỏi thế gian phiền nhiễu đầy bất trắc.  Người mất hết sức phấn đấu.  Người chỉ muốn an nghỉ trong Chúa.  Nhưng Chúa sai thiên thần đem bánh cho người.  Ăn được bánh bởi trời, tiên tri mới đủ sức vượt qua sa mạc, sau cùng đi tới núi của Thiên Chúa.

Tương tự như thế, đời sống ta cũng là một chuyến đi về nhà Thiên Chúa.  Để đến với Thiên Chúa, ta phải vượt qua sa mạc cuộc đời đầy chông gai cạm bẫy.  Đường đi rất xa và rất khó khăn.  Những chiến đấu có thể sẽ khiến ta mệt mỏi rã rời.  Ta sẽ chẳng đủ sức đi trọn con đường nếu không được nâng đỡ, an ủi.  Để giúp ta đủ sức chiến đấu và đi trọn con đường khó khăn thử thách tiến về nhà Cha. Thiên Chúa đầy tình yêu thương đã ban cho ta tấm bánh bởi trời. T ấm bánh bởi trời mà Chúa Cha ban cho ta chính là Đức Giêsu Kitô, người Con duy nhất của Người.  Món quà của Chúa Cha ban được thực hiện dưới hai hình thức: Lời Chúa và Phép Thánh Thể.

Đức Giêsu Kitô là Lời Ban Sự Sống của Thiên Chúa.  Lời Thiên Chúa là Lời Ban Sự Sống.  Chính Đức Giêsu đã khẳng định điều này khi Người trả lời ma quỉ cám dỗ: “Người ta sống không nguyên bởi bánh.  Nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.”  Thật vậy, chính Lời Chúa làm cho sự sống xuất hiện.  Nhờ Lời quyền năng của Thiên Chúa, vũ trụ được tạo thành.  Lời Chúa là lẽ sống của Đức Giêsu, nên trọn đời Người luôn đi tìm thực hiện thánh ý Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy.”  Xưa kia, Thiên Chúa nói qua trung gian các tổ phụ và các tiên tri.  Nay, Đức Giêsu là Lời của Thiên Chúa trực tiếp nói với nhân loại.  Lời Người ban sự sống cho Ladarô, cho con trai bà góa thành Naim.  Lời Người tha thứ tội lỗi cho Mađalêna, cho người phụ nữ ngoại tình, cho Giakêu.  Lời Người hoán cải người phụ nữ xứ Samaria.  Người đưa tất cả những người tội lỗi trở về con đường sự sống.  Lời Người đã giúp cho bao thế hệ tìm thấy lẽ sống.  Lời Người ban cho họ một sự sống mới, tươi trẻ, phong phú, dồi dào hơn.  Chính vì thế, thánh Phêrô đã lên tiếng tuyên xưng: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đi theo ai.  Chỉ Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời.”

Ban Lời hằng sống chưa đủ với tình yêu thương của Người, Đức Giêsu còn ban cho ta chính bản thân Người trong bí tích Thánh Thể. Thật là một tình yêu sâu xa tha thiết.  Khi nuôi dưỡng ta bằng chính thịt máu Người, Đức Giêsu không những muốn kết hiệp mật thiết với ta trong từng thớ thịt, từng dòng máu, mà Người còn muốn ban cho ta sự sống đời đời.  Bí tích Thánh Thể là lương thực thần linh.  Lương thực thần linh ban sự sống thần linh.  Qua bí tích Thánh thể, sự sống thần linh dần dần thấm nhập bản thân ta.  Đây là một tiến trình thần hóa chầm chậm.  Ta trở nên một thân thể với Đức Giêsu. Ta sống cùng sự sống của Người, sự sống đời đời trong hạnh phúc của Thiên Chúa.

Thánh lễ chính là bữa tiệc trong đó Thiên Chúa dọn ra hai bàn tiệc.  Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể.  Cả hai bàn tiệc cũng đều là chính Đức Giêsu.  Trong thánh lễ, ta nghe lời Chúa dạy dỗ ta. Lời Chúa chỉ cho ta con đường ngay thẳng, con đường hạnh phúc, con đường đưa ta về với Chúa. Thánh Thể Chúa ban sức mạnh giúp ta đủ sức đương đầu với những khó khăn thử thách của cuộc đời. Bởi thế, khi tham dự thánh lễ, ta cần lưu ý lắng nghe Lời Chúa.  Chúa muốn nói riêng với từng người. Hãy lắng nghe để tìm ra điều Chúa muốn nhắn gửi.  Hãy lắng nghe để tìm ra lẽ sống.  Hãy lắng nghe để biết con đường phải đi.  Lời Chúa là con đường đưa tới sự thật và sự sống.

Hãy rước lễ một cách kính cẩn sốt sắng.  Phép Thánh Thể chính là một quà tặng của tình yêu Thiên Chúa.  Hãy hưởng nếm sự ngọt ngào được kề cận Thiên Chúa.  Hãy múc lấy nơi Thánh thể nguồn sức mạnh để thắng vượt những thử thách trong cuộc đời.  Hãy để Thánh Thể uốn nắn, biến đổi ta để ta ngày càng nên giống Người hơn.  Hãy nếm cảm hương vị thiên đàng ngay khi còn tại thế.

Lạy Chúa là Cha vô cùng yêu thương, con cảm tạ Cha đã ban cho con chính Con Một yêu quý của Cha làm bánh trường sinh nuôi dưỡng và đưa chúng con vào sự sống đời đời.

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

PHẢI SỐNG ĐẠO CÁCH NÀO ĐỂ MUU PHẦN RỖI CHO MÌNH VÀ GIÚP NGƯỜI KHÁC NHẬN BIẾT CHÚA QUA GƯƠNG SÔNG CHỨNG NHÂN CỦA MÌNH ?

PHẢI SỐNG ĐẠO CÁCH NÀO ĐỂ MUU PHẦN RỖI CHO MÌNH VÀ GIÚP NGƯỜI KHÁC NHẬN BIẾT CHÚA QUA GƯƠNG SÔNG CHỨNG NHÂN CỦA MÌNH ?

Tác giả: Lm. PX. Ngô Tôn Huấn

Hỏi : xin cha cho biết phải sống Đạo cách nào để cho mình và giúp khác được cứu rỗi ?

Trả lời:

Là người có niềm tin Thiên Chúa, thì mục đích tối cao của đời mình  phải  là tìm Chúa để yêu mến Người trên hết mọi sự và ước muốn được cứu độ để vui hưởng Thánh Nhan Chúa trên cõi vĩnh hằng mai sau.

Cho mục đích nói trên, thì người tín hữu phải thực tâm đầu tư tâm trí , khả năng và thì giờ vào việc tìm kiếm Thiên Chúa và yêu mến Người trong suốt hành trình đức tin của mình  trên trần thế này cho đến ngày nhắm mắt lìa đời.

Cụ thể, phải sống Đạo cách nào để nói lên khát vọng tìm Chúa và Vương Quốc bình an, hạnh phúc của Người ?

Có Đạo và sống Đạo là hai việc  nhìn qua có vẻ giống nhau , nhưng thực rất khác nhau về mọi khía cạnh.

Thật vậy, có Đạo có nghĩa là mình đi theo một tôn giáo nào đang có mặt trên thế giới như Đạo Công Giáo  ( Roman Catholicism), Chính Thông Đông Phương ( Eastern Orthodox Churches) Đạo Do Thái ( Judaism) Tin Lành ( Protestants)  Đạo Phật ( Buddhism), Đạo Ấn Giáo ( Hinduism) Đạo Khổng ( Confucianism), Đạo Lão, ( Taoism) Thần Đạo ( Shinto của Nhật bản)  Hồi Giáo  ( Islam). v..v..

Tin đồ các tôn giáo trên ở khắp nơi trên thế giới.Nhưng đông đảo nhất là tín đồ Kitô Giáo thuộc các Giáo Hội Công Giáo La Mã, Chính Thông Giáo Đông Phương ,  các nhánh Tin Lành, và Anh Giáo ( Anglican Communion) .Trong các Giáo Hội  và giáo phái  này , thì tín hữu Công Giáo chiếm đa số với trên một tỉ người đã gia nhập Giáo  Hội qua Phép Rửa.

Con  số thì  đông và cơ sở thì to lớn và đồ xộ với các Thánh đường nguy nga từ  giáo đô La Mã cho đến các điạ phương nghèo khó như các giáo xứ ở miền quê Việt Nam, nơi giáo dân phần  nhiều còn sống khó khăn về mặt kinh tế nhưng cũng xây được các nhà thờ rộng lớn và khang trang với vật liệu  mua từ nước ngoài như đá hoa cương, tháp chuông  và bàn thờ, đèn nến…

Nếu chỉ nhìn qua những kiến trúc bề ngoài thì người du khách phải trầm trồ thán phục Giáo Hội Việt Nam về sức sống Đạo phong phú hơn nhiều nơi trong khắp Giáo Hội hoàn vũ.

Ở nước ngoài như Hoa Kỳ, Canada, và Úc Châu, người Công giáo Viêt Nam cũng xây được những nhà thờ nhà xứ to và đẹp hơn nhiều nhà thờ ở địa phương.

Nhưng đấy chỉ là bề nổi , bề ngoài của việc sống đạo,  và vẻ huy hoàng  bề ngoài này không hẳn đã phản ảnh trung thực bề sâu và mặt chìm của lòng mộ đạo sâu sắc. Nghĩa là  phải sống Đạo cách đích thực có chiều sâu  để  khiến  cho Chúa Kitô không phải than trách như   Người đã  quở mắng bọn Biết phái xưa kia:

Dân này tôn tính Ta bằng môi bằng miệng

Còn lòng  chúng thì  lại xa Ta.”( Mt 15: 8)

Tôn kính bằng môi bằng miệng có nghĩa chỉ sống đạo cho có hình thức bề ngoài , như  vẫn  đi lễ ,đọc kinh, hành hương v.v nhưng  tâm trí còn  bám chặt những thực tại trần thế như  tiền của,  danh vọng phù phiếm  hư hèn đến mức  làm nô lệ và tôn thờ  chúng  cùng  với mọi thú vui vô luân vô đạo, thay vì  phải tôn thờ một mình Thiên Chúa trên hết mọi sự chóng qua ở đời này.

Mặt khác, cũng phải sống Đạo cách nào  trước mắt người đời   để cho thiên hạ thấy những công việc tốt đẹp anh  em làm mà tôn vinh Cha của anh  em , Đấng ngự trên Trời. Như Chúa Giê su đã dạy các  môn đệ và dân chúng xưa kia. ( Mt 5: 16).

Thật vậy, có tên là người Công giáo phải đi đôi hay gắn liền với lòng tin yêu Chúa cách sâu đậm  đích thực  thì mới có giá trị  thuyết phục  và hy vọng được cứu rỗi như lòng Chúa mong muốn cho hết mọi người chúng ta.

Trong hoàn cảnh thế giới tục hóa ( secularism) ngày nay, chủ nghĩa vô thần, vô luân, tôn thờ tiền bạc ( cult of money) và ham  mê khoái lạc ( hedonism) đang chi phối mạnh mẽ  để lôi  kéo con người ra  khỏi  mọi niềm tin tôn giáo, nhất là niêm tin có Thiêm Chúa là  Đấng trọn tốt trọn lành, đầy yêu thương và giầu lòng tha thứ. Chính vì Thiên Chúa là Đấng trọn  tốt trọn lành nên Người gớm ghét mọi tội lỗi và sự dữ,  như giết người, giết thai nhi để bán các cơ phận của thai nhi như mắt, tim phổi, thận  để làm giầu ,  khủng bố, bắt cóc  chặt đầu con tin, dâm ô, trộm cướp, gian ác, bóc lột, thù nghịch. ,nhất là  buôn bán phụ nữ và trẻ gái cho bọn bất lương hành nghề mãi dâm và ấu dâm rất khốn  nạn…Do đó, muốn sống niềm tin cho có chiều sâu thực sự, thì người tín hữu Công giáo phải quyết tâm xa tránh mọi tội lỗi  và sự dữ nói trên cùng với lối sống của  người đời không có niềm tin, hay có mà không sống niềm tin ấy cách cụ thể. Phải xa tránh tội lỗi và những  cách sống  thiếu niềm tin  của biết bao người khác  để nói lên lòng yêu mến Chúa thực sự , tức yêu mến sự thiện, sự tốt lành, sự trong sạch, sự khôn ngoan,  sự  công chính… là những đặc tính cản bản thuộc  về  Thiên Chúa cực tốt cực lành. Cụ thể,  yêu mến Chúa thực sự  đòi hỏi mọi người tin có Chúa trước hết phải tuân giữ mọi Điều Răn của Chúa  như  Chúa Giê su đã dạy:

Ai yêu mến Thầy , thì sẽ giữ lời Thầy

Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy

Cha của Thầy và Thầy sẽ  đến và ở lại trong người ấy. ( Ga  14: 23)

Hay rõ hơn nữa

Nếu  anh  em giữ các điều răn của Thầy

Anh  em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy

Như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy

Và ở  lại trong tình thương  của Người, ( Ga 15 : 10)

Giữ  lời Thầy có nghĩa là thực thi những gì Chúa đã dạy , cụ thể  là  hai điều răn lớn và quan trọng nhất: đó  là yêu mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương người khác như  yêu thương chính mình, như  Chúa Giê su đã nói với một luật sĩ kia. ( Mc 12: 28-31 ).

Tuân giữ các điều răn của Chúa không  phải để làm lợi gì cho  Chúa  mà vì  lợi ích của chính con người mà thôi.Chúa tuyệt đối không  được  lợi lộc gì khi ta tuân giữ các giới răn của Người.Chắc chắn như vậy.

Nói khác đi, nếu ai cũng được tự do cướp vợ  giật chồng của nhau, tự do chiếm đoạt tài  sản của người khác, tự do ăn gian nói dối và tự do giết người và dâm đãng  thì thử hỏi thế giới này sẽ đi về đâu ?

Xã hội có luật pháp và người tín hữu Chúa Kitô có các giới luật của Thiên Chúa , vậy mà vẫn còn đầy rẫy những  tội lỗi và sự dữ như  giết người, oán thù , giết thai nhi, trộm cướp, bóc  lột,  gian dâm và hiếp  dâm , bạo động và chiến tranh…Như vậy, thì thử hỏi :  nếu không có luật pháp xã hội và các giới răn của Thiên Chúa thì  đời sống con người và xã hội  sẽ  thê  thảm đến mức nào  ? Vì thế, tuân giữ luật pháp của xã  hội và các giới răn của Chúa chỉ có lợi cho con người chứ không có lợi lộc gì cho Chúa hết.Cho nên, ta phải cảm tạ Chúa vì Người đã ban  lề  luật cho ta tuân giữ để được  hạnh phúc ngay từ đời này, và nhất là đời sau.

Nói cách khác ,  nếu ai cũng biết tôn trọng mạng sống và danh dự của mình và của người khác, không ai thay vợ đổi chồng  vì ham vui bất chính, không ai lường gạt, bóc lột người khác, không ai tham tiền để mở sòng bạc, nhà điếm,  trồng cây thuốc phiện và cần sa , mở nhà tắm hơi  trá hình để hành nghề mãi dâm, không ai gian ác để giết người, giết thai nhi…thì  bộ mặt của thế giới này đã  không  quá tồi tệ  và ghê sợ như thực trạng  hiện nay.

Vậy, là người Công giáo – tức người tin Chúa Kitô- nếu  muốn sống đức tin cách cụ thể và có sức thuyết phục người khác,  thì   phải  tuân giữ các giới răn  về  mến Chúa, yêu người, yêu sự thiện và công bình, không gian dâm, trộm cắp, không oán thù và làm chứng gian, là những thói hư tật xấu của biết bao người không có niềm tin Thiên Chúa , hay có mà không sống niềm tin ấy cách cân xứng.

Chính việc tuân thủ mọi giới răn của Chúa, thực thi công bình và bác ái, xa lánh mọi thói hư tật xấu của người đời không có niềm tin, sẽ giúp người có và sống  niềm tin  phân biệt mình với họ và nhiên hậu cũng có  sức lôi kéo , mời gọi người khác nhận biết có Chúa nhờ gương sống nhân chứng của mình.

Đây chính là sứ mệnh phúc âm hóa thế giới mà mọi tín hữu trong Giáo Hội có bổn phận thi hành để mang mang Nước Chúa và  góp phần  vào việc cứu rỗi người khác, vì   Thiên Chúa Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhân biết chân lý.( 1 Tm 2 : 4).

Nói khác đi, sống giữa  thế gian, người tin hữu Công giáo phải  cố thực hành điều Thánh Phaolô đã khuyên dạy tin hữu  Phi-lip-phê  xưa là :

“ …anh  em  hãy làm mọi vệc  mà đừng kêu ca hay phản kháng. Như thế, anh  em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì , và sẽ trở nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà, sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh  em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời.” ( Pl 2:  14-15)

Thế gian với quá nhiều gương xấu, quá nhiều  quyến rũ về tiền bạc  của cải vật chất , danh vọng  và mọi thú vui vô luân vô đạo,  là một thách đố to lớn cho những ai muốn chọn  Chúa làm gia nghiệp để coi khinh , coi thường những  lợi lãi và danh lợi chóng qua ở trần gian này.

Với những ai đang ham mê chạy theo những lôi cuốn đó của thế gian, thì  Lời Chúa sau đây là một cảnh cáo và thức tỉnh cho họ và cũng cho tất  cả những ai có niềm tin Chúa :

“ …Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống ( mất linh hồn) thì  nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình.? ( Mt 16: 26; Mc 8:  36-37; Lc 9 : 25)

Thử hỏi : có ai được cả thế giới này làm lợi lãi đâu ? nhưng cho dù có chiếm được tất cả danh vọng và tiền bạc của trần thế này,  mà mất mạng sống  tức mất linh hồn thì  được ích gì ? và lợi lãi kia có thể  mua được phần rỗi của linh hồn hay không?

Đó là câu hỏi mà Chúa muốn mỗi người tín hữu chúng ta phải  luôn  suy nghĩ và hành động cho thích hợp.

Cũng cần nói thêm là , sống trên trần gian này, ai cũng phải lo cho mình và người thân của mình có được đời sống ấm no cho phù hợp với nhân phẩm.  Trong mục đích và giới hạn  này, Chúa không dạy chúng ta phải nghèo đói, rách rưới  và vô gia cư thì mới  được chúc phúc và cứu độ. Nghĩa là Chúa không cấm chúng ta đi tìm tiền bạc cho những nhu cầu chính đáng của thân xác  và giúp  thực thi bác ái với anh chị em kém may mắn vì  nghèo túng. Nhưng là người có niềm tin Thiên Chúa và tin có sự sống  mai sau trên Nước Trời , thì  phải coi trọng phần rỗi của linh hồn mình hơn hết, dựa trên lời khuyên bảo sau đây của Chúa Giêsu: đó là :  “ hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách , một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời , nơi trộm cắp không bến bảng, mối mọt cũng không đục phá.” ( Lc  12: 33) . Nghĩa là tiên vàn ta phải tìm kiếm  “ Nước Thiên Chúa , còn các thứ kia Người sẽ thêm cho.” ( Lc  12: 31)

Các thứ kia là cơm ăn,  áo mặc, nhà cửa, xe cộ, bảo  hiểm sức khỏe…là những thứ cần thiết cho đời sống con người bao lâu còn sống trên trần gian này. Và cầu xin Chúa ban cho những phương tiện sống cần thiết đó là  điều chính đáng  và đẹp lòng Chúa.

Nhưng điều cần thiết và quan trọng hơn  là phải để hết tâm trí vào việc sống đạo  cho có chiều sâu thực sự, thể hiện cụ thể qua việc siêng năng cầu nguyện để nâng  lòng trí  lên với Chúa là cội nguồn của mọi vinh phúc và giầu sang vĩnh cửu. Tiếp đến , phải siêng năng lãnh nhận các bí tích Thánh Thể và Hòa giải  tức là năng tham dự Thánh lễ để  tâm hồn được nuôi dưỡng  bằng lời Chúa và  Mình Máu  Chúa Kitô,  là suối nguồn thông ban ơn cứu độ của Chúa  cho ta  qua Giáo Hội, là Thân Thể Nhiệm mầu của Chúa Kitô trong trần gian.

Sau nữa, cũng cần thiết phải  luôn chạy đến với Chúa qua bí tích Hòa giải  để được tha thứ mọi tội lỗi vì yếu đuối con người , trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần, tức tội  hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa và tình thương của Người.( Mc 3: 29)

Thêm vào đó, phải hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội thể hiện qua việc tuân thủ mọi giáo lý cúa Giáo Hội về hai lãnh vực rất quan trọng là tín lý và luân lý. Tín lý như tin có một Thiên Chúa với Ba Ngôi Vị, tin Chúa Ngôi Hai có hai bản tính là Thiên Chúa và là Con Người thật, tin Đức Maria trọn đời đồng trinh và lên trời cả hồn xác…Luân lý  như cấm phá thai, cấm hôn nhân đồng tính ( same sex marriage)  cấm thụ thai nhân tạo, và không được ly dị, không được  mê tín dị đoan  cờ bạc và mãi dâm…

Nếu không cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các lợi ích thiêng liêng lớn lao qua các Bí Tích Thánh Thể và Hòa giải  và thi hành  giáo lý của Giáo Hội,  thì  đời sống đức tin sẽ không thể tăng trưởng  được. Và từ đó,  cũng không  giúp  gia tăng lòng yêu mến Chúa và khao khát những sự trên trời  mà hậu quả là  chỉ còn  mù quáng chậy theo những quyến rũ của trần gian với  đam mê tiền của và  mọi thú vui vô luân vô đạo, là bộ mặt  thật của “văn hóa sự chết” đang  chi phối biết bao triệu con người ở khắp nơi trên thế giới tục hóa, phi luân và phi nhân hiện  nay.

Tóm lại, là người tín hữu Chúa Kitô trong Giáo Hội Công Giáo, tất cả đều được mong đợi  sống đức tin, đức cậy và đức  mến cách  thực sự có chiều sâu  để nói lên quyết tâm chọn Chúa  làm gia nghiệp , là ưu tiên  nhất cho cuộc sống trên đời này để  chống lại mọi  quyến rũ về tiền bạc, danh lợi và vui thú bất chính  của trần gian  hầu  được cứu độ, được sống hạnh phúc vĩnh  cửu  và  được   thông phần bản tính Thiên Chúa , sau khi đã thoát khỏi cảnh  hư  đốn do dục vọng gây ra trong trần gian này. như Thánh Phêrô  đã khuyên dạy. ( 2 Pr  1 : 4).

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.

NGHỊCH LÝ CỦA ĐỜI TU

NGHỊCH LÝ CỦA ĐỜI TU

Image result for linh måc

Nhìn từ bên ngoài, người ta luôn thấy đời tu rất đẹp, hệt như một Thiên Đường tại thế. Suốt ngày cất cao giọng hát ngợi khen Chúa, vui vẻ với những công việc tầm thường như việc cắt cỏ trồng rau, không một chút bon chen với cuộc đời, không phải lắng lo chuyện gia đình, con cái, không ganh đua với danh vọng cao sang. Nhìn những vị tu sĩ cao niên đắc đạo, miêng lúc nào cũng nở những nụ cười tươi, không quần áo sang trọng, không vàng bạc trữ kho, nhưng tâm hồn lúc nào cũng bình yêu thư thái, lối hành xử luôn chậm rãi khoan thai, không hờn ai, không trách cứ, đó quả thực là điều nhiều người ước mong. Rồi những tấm gương hy sinh cả một đời giúp đỡ những người cơ nhỡ, người nghèo, hay những ai bị cuộc đời ruồng rẫy, họ làm việc như thể đó là niềm vui, cho đi mà chẳng mong gì đền đáp, bao lụy phiền của nhân tình thế thái chẳng thể bám víu trái tim họ. Đời tu quả là tươi đẹp, là dấu chỉ của Nước Chúa hiện diện ở trần gian.

Thế nhưng, chỉ có những ai sống trong đời tu mới có thể hiểu rõ được sống đời tu thật không dễ tí nào. Để có thể trở nên một cây cổ thụ sừng sững uy phong, nó đã phải trải qua không ít những gian nan thử thách. Cây nào chịu đựng được thì lớn lên; cây nào không đủ sức thì gục ngã. Đời tu tuy đẹp đấy, nhưng để có thể sống trọn vẹn lý tưởng này, chẳng con người nào có thể tự sức mình mà sống được. Ấy là bởi vì sống đời tu là sống giữa nghịch lý vô cùng căng thẳng của kiếp người.

Người đi tu là người sống giữa thế gian nhưng không được để mình bị thế gian đụng đến. Họ người có đôi chân chạm đất nhưng đầu thì hướng thẳng về trời cao. Họ phải sống trong cuộc đời nhưng lại bị xem là người ở cõi khác. Họ chọn đời hiến dâng không phải để trốn đời, hận đời, nhưng là để vào đời và yêu mến đời nhiều hơn. Người đi tu cũng muốn ăn ngon, mặc đẹp như ai kia, nhưng phải chọn lấy cho mình phần kém nhất. Họ phải trải rộng tình thương của mình cho người khác, nhưng lại không được để một người nào đó được phép yêu mình. Họ phải yêu người nhưng không được giữ lại riêng cho mình một ai. Họ yêu nhưng không được nắm giữ.

Ai cũng mong muốn mình có một bến đỗ dừng chân, nơi một mái ấm nhỏ, có tiếng cười của con thơ. Nhưng người đi tu thì phải vượt trên mong muốn ấy. Họ có đôi bàn chân không bao giờ ngừng bước. Họ như ngọn gió ngao du khắp núi rừng, băng qua biển khơi. Chẳng nơi đâu là nhà nhưng cũng chẳng nơi đâu là xa lạ. Nơi họ đặt chân đến là quê hương, là cuộc sống của họ… Họ không được đậu neo ở điểm dừng nào, không được để lòng lưu luyến ai hay bất cứ nơi đâu, nhưng phải thanh thoát và tự do với mọi sự. Nơi con tim của người đi tu chất chứa đầy những tâm tư sâu kín. Họ có yêu ai không, không ai biết; họ có ghét ai không, chẳng ai hay; họ có nóng giận, buồn phiền với ai không, không ai tỏ. Dù bên trong có thế nào, điều mà họ thể hiện ra bên ngoài phải là niềm hạnh phúc, phải là niềm vui, phải là dấu chỉ của Nước Trời.

Đó là lý tưởng đẹp, nhưng cũng là điều không phải dễ mà sống được. Sống giữa căng thẳng luôn làm người ta như muốn xé nát con người mình làm đôi. Làm sao giữa dòng đời vạn biến, tâm mình vẫn không động, vẫn yên vui? Làm sao giữa một thế giới đang hô hào chuyện hưởng thụ vật chất, sống trụy lạc và tự do cá nhân, mình lại chủ trương chọn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục người khác? Có những tu sĩ đã vì những xu hướng và thúc bách cá nhân đưa đẩy, lại thiếu đi sự kết hiệp với Chúa nên đã dần dần đánh mất đi lý tưởng tuyệt vời và cao quý của đời tu.

Trong giờ phút này, chúng ta hãy dành ít phút cầu nguyện cho những vị tu sĩ ấy:

Trước hết, chúng ta hãy cầu nguyện cho những ai đang đứng trước chọn lựa giữa đời tu và đời sống bình thường. Xin cho họ được ơn soi sáng để có thể bình tâm chọn lựa điều nào hợp với thánh ý Chúa cho cuộc đời mình.

Chúng ta cũng xin Chúa đến kề bên và nâng đỡ những tu sĩ nào đang bị ngả nghiêng theo cơn gió cuộc đời. Xin cho họ biết chạy đến với Chúa khi tâm hồn có chút gợn sóng nhân gian để được ủi an và thêm sức, chứ đừng tìm bù trừ nơi những niềm vui thế tục, nơi những vật chất, tiện nghi. Xin Chúa giúp cho các tu sĩ biết tìm hạnh phúc nơi những hy sinh và thập giá, chứ không phải nơi bạc tiền và danh vọng.

Xin cho các tu sĩ nhận ra rằng biết bao linh hồn đang cần họ đi tới và chia sẻ; có rất nhiều người đang nhìn đến đời sống phục vụ vô vị lợi của họ mà thầm tạ ơn Chúa và nhờ đó có thêm nghị lực đứng lên làm lại cuộc đời. Xin cho họ đừng vì ích kỷ cá nhân và quên đi lời gọi mời cao quý Chúa đã dành cho họ.

Xin cho các tu sĩ, mỗi ngày nên giống Đức Giêsu Kitô vác thập giá – mẫu gương đời sống dâng hiến của họ hơn.

Chau Micae

“Hỡi ơi dâu bể mòn thương nhớ,”

Hỡi ơi dâu bể mòn thương nhớ,

“Gỗ đá còn trơ gỗ đá thôi.

Lớp lớp biên cương tình chật hẹp,

Mùa xưa thông cảm đã qua rồi.”

(Dẫn từ thơ Vũ Hoàng Chương)

Mai Tá, lược dịch

Người người khi xưa, “dâu bể mòn thương nhớ”, phận hèn nữ-phụ hôm nay những cảm thông. Thế giới hôm rày, vẫn tạo nơi nương náu cho nữ-phụ cùng con trẻ từng gặp cảnh thương nhớ/nhớ thương một cõi đời đầy phúc-hạnh, rất hoan-lạc.

Thế giới hôm nay, có rất nhiều cung-đường nương-náu dành cho phụ nữ và con trẻ vào những lúc căng thẳng, cả xác lẫn hồn. Cung đường này do hội Vinh Sơn thánh Phaolô thiết lập. Họ gọi đó là “Nhà tình nghĩa Manna”.

Tình nghĩa Manna, ư? Nghe như tin lạ được gợi hứng từ truyện vui thiên-thần rút trong kinh điển của Hội thánh. Truyện kể về Manna, bánh  hằng sống phản ảnh công tác thiện nguyện xuất từ lòng nhân hậu, đỡ nâng của những người rất nhiệt tình. Trải qua sau nhiều nỗi khiếp sợ, người phụ nữ và con trẻ bị hạch sách quấy nhiễu, hành hạ đủ điều, nay được đón tiếp ân cần nơi cung đường nương náu Manna, đầy tình nghĩa.

Ở đây, tuy là nơi tạm bợ sống qua ngày, nhưng đời sống gia đình của người gặp nạn được hàn gắn, chắp vá. Cả người mẹ lẫn con thơ, sẽ vơi cạn nỗi đớn đau/sầu buồn. Rồi từ đây, mẹ con thân yêu sẽ hồi sinh gượng dậy từ chốn gẫy đổ, để rồi sẽ lại tiếp tục cuộc sống mai ngày, đầy hiểm nguy.

Nơi nhà tình nghĩa đầy Manna ấy, sự đón tiếp ân cần đã đem đến cho người mẹ và đàn con gia đình nguồn sinh lực mới, rất đầy tràn. Tương tự như thế, lòng ân cần trìu mến cũng đến với chúng ta, ở đây, nơi bàn tiệc này.

Tham dự Tiệc thánh, chúng ta tạm dừng bước phong trần, bỏ ra một ít phút trong hành trình tin-yêu, nhiều hệ lụy. Dừng bước, để tin vào sự thiêng liêng, linh đạo. Dừng bước, để có thể yêu thương Đấng luôn ân cần chăm sóc ta suốt hành trình. Dừng bước, để được bồi bổ sinh lực, ngõ hầu ta ra đi đại diện cho cộng đồng dân Chúa, làm chứng tá cho sự hiện diện đầy thương yêu của Đức Chúa với thế giới, hiện thời.

Ở đây nữa, sống đời đi Đạo, ta vẫn cần tình nghĩa Manna. Cần cơm bánh từ trời, gửi đến từ nơi cao xa, chốn vĩnh hằng. Thứ tình vẫn đến, khi ta gặp thử thách. Xách nhiễu. Hành hạ. Cả về thể xác lẫn tinh thần.

Tôi thích những sự kiện cho thấy, với tư cách người Công giáo, ta tin Đức Kitô hiện diện khắp mọi nơi. Ngài hiện diện cả ở quà tặng mà ta nhận lãnh hằng ngày. Hằng tuần. Quà tặng ấy, niềm tin ấy, ta nhận được dưới hình thức bánh và rượu dâng lên Ngài, buổi Tiệc thánh. Ta không chỉ tin Ngài hiện diện lúc hừng đông, khi chiều chậm xuống. Hoặc, ở những nơi có vẻ đẹp thiên toà. Thảnh thơi, ngơi nghỉ thôi.

Ta còn tin Ngài đến với ta qua hình thức đặc thù. Độc nhất. Giản đơn. Ngài hiện diện với mọi vật bình thường. Trong đời. Mỗi người. Hiện diện qua cung cách ứng xử với quà tặng rượu bánh ấy, ta minh xác cho mọi người nhận thức về sự hiện diện của Đức Kitô, Đấng ân cần đỡ nâng mọi người. Vào mọi lúc. Ở mọi nơi.

Cộng đoàn tín hữu sơ thời chẳng gọi Tiệc Lòng Mến là tiệc bẻ bánh, đấy sao? Bánh được bẻ ra, là để sẻ san. Rượu được chuyền đến tay ta, cùng với lời đáp rất “Amen”, là bằng chứng khẳng định niềm tin: Đức Chúa đang hiện diện. Ở đây. Lúc này. Ta cần minh định với mọi người rằng: Đức Kitô hiện diện nơi ta, cả vào khi ta gặp tình huống khô khan. Sa mạc đời mình, đời người. Nhiều lúc nhớ lại, ta như thấy mình đang rong ruổi nơi đồng hoang chốn vắng, cứ muốn tìm cho ra dấu chứng xác nhận sự hiện diện của Chúa, vẫn khôn nguôi.

Đối với những người đang chịu cảnh vỡ đổ tâm thần hoặc thể xác, những người đang yêu thương đùm bọc kẻ khác, và những người hiệp thông nhận bánh tình nghĩa Manna hôm nay, thì đây là cơ hội tốt để ta gặp gỡ Chúa, tại nơi mình tham gia, hiện diện. Phải chăng đây chính là điều tuyệt vời, mỗi khi ta đến để dự Tiệc thánh, với đầy đủ ý nghĩa như thế?

Đành rằng, nhiều người sẽ chẳng nhận ra điều tuyệt vời ấy. Bởi, họ cứ nghĩ mình không tốt lành đủ để được phép, được ơn lành có mặt nơi đây. Dù với lý do gì đi nữa. Dù, là lâu nay Chúa vẫn thân mời họ đến dự để Ngài trao ban tình Manna ấy cho họ. Ngài vẫn luôn thân mời, để tặng ban cho họ nỗi niềm chăm sóc, ân cần lẫn đùm bọc.

Dù điều gì sẽ xẩy đến, Tiệc Thánh Thể vẫn là bữa tiệc rất quan trọng. Quan trọng, ở chỗ: ta không thể vì bản tính ích kỷ giữ chặt cho riêng mình, những gì mình nhận được, ở đây. Món quà quý báu ấy là Lời dạy thánh thiêng của Ngài. Là Nhiệm tích Thánh Thể Chúa tặng ban cho mọi người.

Có khiêm nhu nhận lãnh quà tặng cho mình và cho mọi người như thế, ta mới trở thành ngôn sứ. Thành Kitô khác. Tức Kitô trong Đức Kitô. Để, tất cả trở nên một. Một ngôn sứ. Một Hội thánh. Một Đức Kitô.

Tin Mừng hôm nay dẫn chứng Lời Chúa về sự kiện Chúa Cha thu nhận mọi người đến với niềm tin-yêu, của Đạo. Trong Đạo. Có thể là, nhiều khi ta rơi vào cạm bẫy đang chực sẵn khi ta nghĩ: điều mà mọi người gọi là niềm tin, chỉ là sản phẩm của tri thức. Có thể là, đôi lúc ta cũng võ đoán mà cho rằng: niềm tin-yêu chỉ như một vận dụng của trí óc. Không hơn. Không kém.

Có lẽ, ta cần suy tư cho đúng cách. Cần sức mạnh mà luận chứng cho vững chắc, hầu sự thật về niềm tin-yêu được tỏ hiện vượt lên trên cảm tính. Trực giác.

Chắc chắn là, rồi ra nhiều người cũng sẽ cảm nhận được sức mạnh của Tình thương yêu Chúa họat động qua cách thức ta sống đời sống giản đơn, trong cuộc đời thường nhật của mình. Đây là mấu chốt khả dĩ lôi cuốn được mọi người. Là cung cách thu hút nhiều người về với vấn nạn, hỏi rằng: điều gì đem đến cho đời tôi có được chất lượng, ý hướng, mục đích cũng như ý nghĩa đích thực của sự sống? Tin Mừng nay mang lại cho mọi người câu trả lời thật rõ nghĩa. Trung thực.

Tham dự tiệc thánh hôm nay, cầu mong sao trạm nghỉ dưỡng ở cung đường Manna lành thánh, nơi hành trình tin-yêu, sẽ giúp ta rũ bỏ mọi hãi sợ. Giúp ta phục hồi sinh lực. Ngõ hầu hoàn thành công tác đang chờ ta, ở phía trước. Cầu mong sao Tin Mừng mọi người đọc ra, sẽ là cuộc sống của chính ta.

Và là, nhiệm tích duy nhất rất thánh thiêng mời gọi hết mọi người. Nhiệm tích thánh nơi Tiệc Lòng Mến, sẽ dẫn đưa mọi người về lại với Đức Kitô, Đấng công bình. Nhân hậu. Của chính ta. Là, niềm an vui cho mọi người.

Cảm nghiệm niềm an vui Chúa tặng, nay nhớ lời thơ day dứt xưa người vẫn hát, rằng:

“Qua rồi thuở ấy, tình sâu nặng,

Trăng mới cuồng si, nụ bán khai.

Ta nhớ tiền thân, phòng lại ngõ,

Giấc hồ thơm tóc gái Liêu Trai.”

Gái Liêu Trai xưa ở truyện cổ hay người nữ-phụ ở đời người, vẫn là sự thật phũ phàng day dứt. Những mong rằng, Lời Chúa hôm nay là chút an ủi người chị người em trong Hội thánh Nước Trời rất thân thương, cần ghi tạc. Ghi tạc mãi, tình thương-yêu đùm bọc Chúa răn dạy. Để rồi, người người lại sẽ vui hưởng niềm an vui nồng thắm suốt một đời.

Lm Richard Leonard sj biên soạn –

Mai Tá, lược dịch

Tin Mừng (Ga 6: 41-51)

Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giêsu đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Đức Giêsu bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.

Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha.

Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”

Trên đồi xanh chiều đã xuống dần,

“Trên đồi xanh chiều đã xuống dần,”
Mặt trời lấp ló sau đồi chiều vang.
Riêng mình ta ngồi ngắm quanh trời,
lạnh lùng nghe tiếng chim chiều gọi đàn…
(Nguyễn Văn Khánh – Chiều Vàng)

Trần Ngọc Mười Hai

Hát bài “Chiều vàng”, phải chăng người nghệ sĩ khi xưa muốn diễn-tả tình-cảnh có câu chuyện lình-xình với mối tình da diết của mùa thu? Không. Không phải thế đâu! Theo lời người dẫn nhập bản hát là đàn-sĩ Lê Văn Thụ Nhân trong chương trình “Hát Cho Nhau Nghe” ở Sydney hôm ấy, 05/7/2015 có bảo rằng:

“Tác-giả bài “Chiều Vàng” cũng là tác-giả bài “Nỗi Lòng” diễn-tả cuộc tình đầy đau thương của mình qua bài hát. Tình-tự được diễn-tả là: mới chỉ xa cách nhau có 3 tuần, nhưng khi đến thăm lần đó ông được biết là người tình của ông nay đã chết. Trong tâm trạng buồn bã ấy, tác-giả đã viết lên nỗi buồn mênh mang, nhè nhẹ này bằng giòng chảy rất “Chiều Vàng.” (Trích lời phát biểu của người trẻ tên Thụ Nhân cùng với người điều-khiển chương trình là Uông Thế Công)

Chẳng biết người dẫn chương-trình hôm ấy nói có theo sách mách có dẫn-chứng hay không, nhưng nay vẫn cứ mời bạn và mời tôi ta nghe thêm đôi lời kể về buổi “chiều vàng” vẫn “buồn xa vắng buồn” như sau đây:

“Buồn xa vắng buồn lòng thầm nhớ tới người.

Chiều xưa cũng trên đồi cùng ta.

Người đã ước nguyền rằng đời riêng có ta,

Lời đó còn đâu?

Đường về lòng người tha phưuơng nhớ.

Chiều dần dần mờ cô thôn vắng.

Người yêu dấu ngàn đời thấu chăng?

Ta nén đau thương gắng bước hoài,

Thuyền chèo tới đâu chưa ngừng bến.

Lời thề nguyền ngờ đâu xa vắng.

Tình tràn đầy sầu chung non nước,

Hồn em có cùng người chứng minh.

Anh bước ra đi luyến tiếc hoài,

Đời còn có em nay mà thôi.

(Nguyễn Văn Khánh – bđd)

“Chiều vàng”, ở đời nào cũng có thể là như thế! Còn, chiều rất “vàng” ở nhà Đạo thì sao?

Với nhà Đạo, làm gì có “Chiều vàng”, hoặc “sáng trắng”, đâu cơ chứ! Sáng hay chiều, với người nhà Đạo, vẫn là chuỗi ngày dài trước sau như một, đầy yên vui, tâm tịnh cũng rất “thiền”.

Nói cách khác, sáng hoặc chiều nơi nhà Đạo, lại là những ngày tháng dân con Đạo mình vẫn tịnh tâm suy tư về nhiều thứ. Chí ít, là những thứ và những sự được nhiều người áp-dụng cho đời mình, như truyện kể nhẹ ở bên dưới để dẫn nhập, như sau:

“Tới chơi nhà người bạn già, chỉ thấy bà vợ ngồi trước hiên. Tôi bèn hỏi: “Ổng đâu bà chị?”
– Ngồi thiền rồi
Tôi ngạc nhiên: “Ây da, ổng tu hồi nào vậy bà chị?”
– Thì cách đây nửa năm một số người bạn quen biết rủ ổng đi chùa, rồi đi tham gia vào các đạo tràng, rồi tu học chèo thuyền thúng gì đó. Ổng về nói với tôi là ổng và tôi hết duyên, con cái chỉ là đống nợ, ổng muốn giải thoát, muốn được siêu thoát để đến cảnh giới niết bàn ghế gì đó…Tui chán, mặc ổng muốn làm gì thì làm. Cơm no bò cưỡi không muốn, muốn ăn chay, tiệt dục, ngơ ngơ ngẩn ngẩn chuyện tâm phào, đồ điên.
Tôi hỏi: “Thế thấy ổng có vui sướng không?”
Bả nhún vai ái ngại:
– Ái chà, sướng nỗi gì? Mở miệng ra nào thì đời là bể khổ hoặc ta chỉ là xác mượn. Hết biết!
“Khi nào ổng ngồi xong?” Tôi hỏi.
– Không biết, nhưng có lẽ xong rồi, để tui vào xem. Ông ngồi uống nước đợi chút nhé!

Chưa đầy 1 phút, một thân hình còm cõi vụt ra, hô to: “Ôi quý hóa quá, thiện nhân tới thăm”
Tôi mỉm cười: “Ai da, thiền nhân có khác. Tu tập tinh tấn có khác. Thế bác đang tu thiền, bác hiểu và cắt nghĩa cho tôi chữ thiền là gì được không?”
Bác Ba ngập ngừng: “Mới tập, chưa rõ lắm, chỉ biết là pháp môn của nhà Phật, con đường đi của đạo”
“Phương pháp như thế nào?” Tôi hỏi tiếp.
+ À, thì ngồi kiết già, nhắm mắt lại, không nghĩ ngợi. Tập trung nhất niệm: “Nam mô a di đà phật”. Khoảng 1 tiếng là được. Mà phải giữ thân sạch như ăn chay, diệt dục thì tâm mới thanh tịnh được nhé!”
* Vậy à, thế ông đã thanh tịnh chưa? Tôi nghe nói ngồi thiền sẽ bỏ và buông được cái tôi đúng không?
+ Ừ, mình thấy thanh thản lắm.
* À, nãy tôi tới thấy vợ ông nói là ông không cần bả nữa, bả đang làm đơn xin li dị thì phải? Ai dà, tôi lấy làm tiếc cho ông!
+ Hắn sững cồ: “Cái gì? Nó dám bỏ tao sao? Tao phải vào cho nó biết tay mới được!”
* Nhưng ông có nói là không cần vợ con mà, ông muốn đi tu và xa lánh đời
+ Đúng, nhưng… Nó không được bỏ tao!

Tôi thấy tình hình bất ổn nên vội xin phép ra về. Sau đó nghe đâu hai vợ chồng cãi nhau, bà vợ bỏ về nhà mẹ ruột ở.
Một hôm, tôi nhận được điện thoại của bác Ba: “Alô! Rảnh ghé uống trà chơi nghen!” “Ok, chiều mai 5h tôi ghé” Tôi hẹn lại.
Qua hôm sau theo đúng hẹn tôi tới nhà bác Ba. “Sao rồi, khỏe chứ bác Ba?”
Hắn ra đón tiếp với trạng thái mỏi mệt:
+ Ừ, đang bệnh cảm lạnh, mấy hôm bị sốt cao, mệt quá!
* Mấy hôm không thiền nữa à? Tôi hỏi.
+ Thân xác rệu rã, không khỏe nên tâm vọng vớ vọng vẩn. Mình không sao tập trung được. Chán lắm. À, tôi nhờ Dũng đánh lời cho vợ tôi bảo bả về nhà đi, tôi ở một mình chịu hết nổi rồi!
* Ủa, một mình thì càng thanh tịnh chứ sao?
+ Biết vậy, nhưng không tập trung được bạn ạ! Với lại mì tôm hoài ớn quá!
* Hahaha, muốn thoát tục thì phải trả giá chứ? Tôi chọc.
+ Ừ, tôi biết rồi. Cái giá đó đắt quá. Thôi cứ từ từ mà thoát tục cũng được. Dũng giúp giùm tôi nhé.
* Ok, nhưng chỉ một lần này thôi nhé. Thật ra nói cho bác biết, bác hành thiền chưa đúng pháp đâu?
+ ??? Vậy sao cho đúng?
* Thiền là một trạng thái đưa tâm hồn vào miền không buồn, không vui, không có sắc màu, không tranh chấp, không luận bình suy diễn, bình yên an lạc và ung dung tự tại. Thiền có trong việc đi – đứng – nằm – ngồi. Thiền có trong công ăn việc làm. Thiền là hơi thở của cuộc sống. Ông chỉ cần làm theo nguyên tắc sau là được:
– Luôn hài lòng và vui vẻ với tất cả sự việc hiện tại. Kể cả sinh lão bệnh tử, hãy xem đó là quy luật bất biến và tất có. Mở lòng đón nhận nó.
– Sống thật với chính mình
– Làm những chuyện có lợi cho mình, cho người, giúp đỡ khi người gặp khó khăn trong điều kiện của mình một cách tốt nhất
– Nói và làm phải song hành
– Làm cho tất cả những người xung quanh và quen biết mình được an vui và hạnh phúc.
– Nói tóm lại, “Thiền” cũng tương tự như ông đi xe máy. Khi ông đi xe máy ông phải biết mình đang lái xe và tập trung nhìn vào phần đường mình đang đi. Không được vừa lái xe vừa nghĩ về chuyện khác. Nếu nghĩ về chuyện khác, ông mất tập trung tất sẽ bị tai nạn ngay.

Vì vậy, ngoài việc tập trung để lái xe, ông còn phải khéo léo điều khiển xe sao cho không va đụng vào người khác và ông phải thực hiện và tuân thủ đúng một số quy định của luật an toàn giao thông. Điểm xuất phát thì ai cũng đều có, điểm đến thì tùy nơi ta muốn đến. Lộ trình di chuyển gọi là con đường (hay tạm gọi là Đạo). Cái xe ta điều khiển có thể gán cho thân xác. Tâm hồn hoặc sự suy nghĩ có thể gán cho ý thức. Luật giao thông có thể gán cho kinh sách. Ông sẽ thấy trên đường đi có rất nhiều người, bằng các phương tiện khác nhau họ đi với lộ trình khác ông. Vậy, lộ trình ông đi có đến được đích hay không là do ông quyết định. Mọi cái không có điểm dừng. Khi ta kết thúc một lộ trình, điểm dừng lộ trình này chính là điểm khởi đầu cho một lộ trình mới. Cứ vậy chẳng dừng. Khi ta chết, có thể một thế giới mới đang chờ ta.
+ Ôi, sao tôi thấy ông nói đơn giản mà dễ hiểu nhỉ. Không biết đúng hay sai, nhưng tôi cảm nhận được cái xe máy của tôi nó có lộ trình rồi. Thôi, để tôi qua tự đón vợ về. Ít nhất, tôi phải “tự” qua được “bên ấy” và “tự” giải quyết hậu quả do mình gây nên. Ây da, thì ra lâu nay nghĩ cao siêu quá, té ra đi xe máy cũng là “Thiền” rồi.
* Ừ, cứ vận dụng nhé! Khi đón bả về, có thể hiểu thêm “xe máy” cũng có thể là “bà xã” nhé! Vấn đề là lộ trình đi đến hạnh phúc phải tự mình quyết định. Kakakaka.”
(Truyện nhẹ do Hoàng Dũng Nha Trang kể)

Thật ra thì, có thuật truyện nặng/nhẹ về “thiền” hoặc về gì đi nữa, cũng chỉ để dẫn-nhập cho bạn và tôi, ta bước nhẹ vào hành-trình tư-duy có nhiều điều cần suy-nghĩ. Suy và nghĩ về những sự việc hoặc lập-trường/tư-tưởng của đấng bậc nhà Đạo đang diễn-biến trong/ngoài “Nhà Thờ”, cũng là điều rất đáng làm.

Nghĩ thế rồi, nay mời bạn và tôi, ta đi thẳng vào câu chuyện thường ngày, ngay bây giờ. Truyện ở đây, không chỉ là truyện kể cho có lệ hoặc “kể cho qua ngày đoạn tháng”, có thế thôi. Nhưng, là chuyện thời-sự trong Đạo rất nên bàn, những bảo rằng:

“Buổi lễ đầu-tiên tổ chức ngoài trời, hôm ấy, ở Nam Mỹ, Đức Phanxicô đã thúc-giục các giáo-dân tham-dự hãy nguyện cầu cho “phép lạ” xảy đến với Thượng Hội Đông Giám Mục Rôma tháng 10 năm 2015 này. Ngài nói: Hãy cầu nguyện để Hội thánh ta tìm ra giải-pháp hữu-hiệu cho các vấn-đề khó-khăn đang xảy đến với các gia-đình của thời mình…” (X. Mục tin tức trên tờ The Catholic Weekly ngày 12/7/2015 tr.12, Pray for miracle at synod, pope asks massive crowd)

Nếu bạn và tôi, ta hiểu ý/từ “phép lạ” vào thời-đại hiện-tại theo nghĩa hiếm-hoi, ít-ỏi hoặc khó lòng thấy được, thì chả chắc gì ta có được giải-pháp thoả-đáng nào cho các gia-đình đang bị các “cụ Đạo” hoặc đấng bậc cổ hủ vẫn định-nghĩa, định-hình hay định vị gì đi nữa.

Nói thì nói thế, chứ đấng bậc chủ quản giới truyền-thông thuộc Tông toà rất thánh lại nghĩ khác. Khác thế nào ư? Thế thì, mời bạn và mời tôi, ta nghe thêm lời lẽ xác-minh sau đây:

“Lm Federico Lombardi, giám-đốc phụ-trách truyền-thông báo chí Hội thánh Công giáo La Mã, lại đã diễn-giải cho các phóng-viên có mặt ở lễ thánh hôm ấy, ý-nghĩa cũng khác nên mới bảo: “Lời của Đức-Giáo Hoàng phải được hiểu như một tư-duy rất thông-thường về công-việc mà Thượng Hội-Đồng Giám-mục bàn bạc hầu giải-quyết, chứ không phải để qui-chiếu một đề-tài nào mà các Giám-mục có thể bàn đến.” (Xem bài đã dẫn ở trên)

Tuy nhiên, hỏi rằng 500.000 người có mặt hôm ấy có thông-hiểu lời của Đức-Thánh-Là-Cha Phanxicô rất hiền-hoà như thế hay không, đó mới là vấn-đề. Hoặc, vấn-đề có thể là: vẫn còn nhiều ý-kiến rất khác biệt trong/ngoài Thượng Hội-đồng Giám mục, và cả ngoài lẫn trong Hội thánh, đó mới là điều cần-thiết.

Về ý-kiến của các đấng bậc lành thánh trong thánh-hội mỗi khi nhìn vào lập-trường bày-tỏ cho mọi người thấy vấn đề đang bàn lại khác nhau, rất nhiều. Trước nhất, phải kể đến đấng bậc rất “trong luồng” ở Sydney vốn dĩ là đấng-bậc từng giải-đáp nhiều thắc-mắc rất Giáo-luật lẫn giáo-điều, như sau:

“Về những điều được quyết-định, tôi nghĩ phần lớn cuộc sống của nhiều người trong chúng ta cũng sẽ tiếp-tục như những ngày xảy ra khi trước. Người nam cũng vẫn lấy vợ nhiều như họ vẫn từng làm khi trước. Chỉ một phần nhỏ số người cùng phái-tính mới làm chuyện lạ là lấy nhau thành vợ chồng cùng giống. Nhưng từ đó, sẽ có những hậu-quả nào đó, ta cần thận-trọng.

Khác biệt đầu-tiên xảy đến, chắc chắn là ý-niệm về hôn-nhân sẽ có thay-đổi. Cho đến nay, việc này chỉ xảy đến giữa đàn ông và đàn bà mà thôi. Nay, lại sẽ thấy sự việc ấy xảy đến với các cặp đồng phái-tính, nên có thể cũng sẽ có những liên-lụy này khác rày xảy đến…

Mặt khác, lại sẽ có những hậu-quả khó lường cho những ai từng chống-đối hôn-nhân cho người cùng phái tính. Ở Canada, là nước trong đó tôn-giáo dựa trên các dịch-vụ xã-hội, như tư-vấn và dịch-vụ nuôi con nuôi, nay đòi phải thích-hợp với luật lệ về hôn-nhân đồng phái-tính và tình-trạng miễn-trừ thuế xưa nay Giáo-hội được thừa-hưởng nay trở-thành vấn-đề cần xét-duyệt.

Ở trường/lớp, các giáo-chức cũng như cá-nhân buộc phải hỗ-trợ hôn-nhân đồng phái-tính và quần-chúng buộc phải ngưng việc chống đối sự việc này, cách công-khai. Do có sự than-phiền gửi đến Toà Hoà-giải Nhân-quyền British Columbia, chính-quyền ở đây loan-báo rằng giáo-án ở trườg/lớp đây đó từ Mẫu-giáo đến lớp 12 phải được coi lại để thêm vào đó các dẫn-giải tích-cực về hôn-nhân đồng phái-tính nữa…

Nói tóm lại, việc ban-hành đạo-luật hôn-nhân đồng phái-tính không chỉ liên-quan mỗi sự “đồng đều trong hôn-nhân” đối với nhiều người, thôi. Nhưng còn về cả một thế giới mới rất quả-cảm, nhìn về mặt tổng-thể.” (X. Lm John Flader, What difference will same-sex marriage have on our lives, The Catholic Weekly 12/7/2015, tr. 22)

Trong khi đó, có đấng bậc khác từng là chủ-quản Tổng Giáo-phận Sydney, lại có ý-nghĩ hơi khang khác, kèm theo lời dặn dò không giống nhiều vị vẫn theo “lề phải” ở Giáo Hội rất Rô ma, rằng:

“Tôi thật rất tiếc, hỏi rằng: Giả như Thượng Hội Đồng Giám mục Rôma đợt hai diễn ra vào tháng 10 năm 2015 quyết kiếm tìm lời đáp nào khác cho xứng-hợp, chắc các nghị-phụ mình phải nghiêm-túc nhìn vào giáo-huấn Hội-thánh liên-quan đến việc coi xem Hội thánh có cho phép mở “rộng cửa” cho các giải-pháp mục-vụ hay không. Đó là việc tôi đang kiếm tìm ở đây, trong tập sách này, không phải để áp-đặt một hiểu/biết, mà để cho thấy là: ta còn nhiều đề-tài để bàn-luận, chứ không chỉ mỗi hai điều duy-nhất là Gia-đình và chuyện Đồng-tính Luyến Ái chứa trong giáo huấn đầy tính khắc-nghiệt của Hội thánh, bấy lâu nay.” (X. Gm Geoffrey Robinson, The 2015 Synod, The Crucial Questions: Divorce and Homosexuality, ATF Press 2015, tr. 2)

Thôi thì, trước khi đi tìm hiểu ý-kiến của nhiều vị khác, tưởng cũng nên quay lại với nhạc-bản ở trên để bạn và tôi, ta có đôi ba giây phút nhè nhẹ, lâng lâng mà ngẫm nghĩ, như sau:

“Sương chiều buông rơi mờ mờ rừng chiều dần dần tối.
Núi mây bốn phương giang hồ ngơi đi.
Thuyền lênh đênh trên sông Đà sóng, lướt lướt trên sông.
Nhìn chiều vàng đồi thông thưa vắng.
Lòng bùi ngùi buồn trông theo bóng.
Giờ đây viếng thầm hồn cố nhân.
Năm tháng trôi qua sóng gió đời.
Chiều chiều nhớ em khôn lòng nguôi.”

(Nguyễn Văn Khánh – bđd)

Diễn-tả chuyện ở trên theo lời vàng từ các bậc thánh-hiền thường dặn-dò, sẽ phải diễn-tả như sau:

Thật vậy,

chính Người là bình an của chúng ta:

Người đã liên kết đôi bên,

dân Do-thái và dân ngoại, thành một;

Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách

là sự thù ghét;

Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật.

Như vậy, khi thiết lập hoà bình,

Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất

nơi chính bản thân Người.”

(Êphêsô 2: 14-15)

Và để diễn rộng tư-tưởng này, đấng bậc lành thánh khác, lại đã qui về lời lẽ rất như sau:

“Thánh Phaolô nói: Đức Giêsu nối kết người Do Thái với dân ngoại, là để tất cả chúng ta cùng nhau tạo thành gia đình thân thương. Đầm ấm. Thánh nhân quyết bẻ gẫy mọi rào cản gây phân rẽ các thành phần dân Chúa, trong cộng đoàn. Thánh nhân dùng hình ảnh bức tường ngăn cách, của đền thờ.

Quả thật, Đền Thờ là công trình xây cất có nhiều tường. Mỗi bức tường, làm thành rào cản ngăn cách, hạn chế mọi kết đoàn, hoà hợp. Bên ngoài tường, nhiều người không thể đến được. Có tường, chỉ dành cho dân ngoại. Có tường, cho phụ nữ. Có tường cho đàn ông thanh niên. Có tường chỉ để cho các vị mục tử. Thậm chí, có tường còn cản ngăn không để ta đến được với Đấng Thánh ở trên cao. Như nơi  dành cho vị Thượng tế cao vút, mỗi năm chỉ một lần.

Bằng vào cái chết trên thập tự, Đức Giêsu đã phá bỏ mọi tường rào phân chia, ngăn cách. Tường, của hờn căm. Chia rẽ. Bằng vào việc sống lại, Ngài tạo ra Con Người Mới. Và, gia đình mới. Gia đình, không dựa trên máu mủ. Chủng tộc. Cũng không dựa vào dân tộc tính. Giới tính. Giai cấp. Ngài phá huỷ mọi tường thành ngăn cách. Tức, tường rào chỉ nhằm phân cách/rẽ chia nhóm này với nhóm khác.

Giáo huấn của Đức Giêsu nhằm đạt đến cả người Do Thái lẫn dân ngoại. Cả nam lẫn nữ. Cả người công chính, lẫn phạm nhân. Nô lệ lẫn tự do. Người tật bệnh, lẫn kẻ lành lặn. Ngài gọi mời tất cả mọi người chúng ta hãy về cùng một gia đình, gia đình của Ngài. Gia đình của Ngài gồm có Chúa Cha và ở đó, tất cả thành viên đều là anh em, chị em với nhau. Rẽ chia, là tà thần/ác quỷ chỉ chực ngăn chặn mọi người đến với nhau, trong chung sống an bình và hạnh phúc. Rẽ chia, là kẻ thù ngăn chặn ý định của Chúa muốn thu thập mọi người về với gia đình với Thân Mình của Chúa.

Điều mọi người trong gia đình Chúa cần làm, là phải nói tốt cho nhau về các Giám mục/linh mục, cha mẹ hoặc thành viên trong gia đình, tạo bình an. Hãy phá bỏ mọi rào cản rẽ chia đem mọi người về lại với nhau trong tình thương, qua và nhờ Đức Giêsu. Vì, tất cả đều có cùng con đường. Cùng một Thần Khí để đến với Cha, như đoạn cuối bài đọc 2, đã nhắc nhớ.” (Xem Lm Frank Doyle sj, Suy Niệm Lời Ngài năm B, nxb Tôn Giáo 2011, tr. 180-181)

Cuối cùng ra, ta bàn chuyện “các gia-đình có vấn-đề” này khác, tưởng cũng nên quay lại với ý/tứ của Đức Phanxicô hôm ấy, có những lời như sau:

“Trong bài chia-sẻ vào thánh lễ Thứ Hai hôm ấy, Đức Giáo Hoàng Phanxicô có đề-cập đến điều mà ngài gọi là “phép lạ” tại tiệc cưới Cana, ngài có khuyến-khích cộng-đồng dân Chúa hãy theo gương lành của Đức Maria từng làm, rằng: “Mẹ dạy ta hãy đặt gia-đình mình trong tay Chúa, để rồi sẽ hiệp lòng cầu nguyện, nhen nhúm niềm hy-vọng cốt cho ta thấy rằng mọi ưu-tư của ta cũng là quan-ngại của Chúa”. Đức Giáo Hoàng lại cũng nói: “Gia-đình là bệnh-viện, trường/lớp gần cận nhất cho giới trẻ và cũng là mái ấm/cơ ngơi cho bậc cao-niên, nữa.”

Đức Phanxicô còn nhắc mọi người hãy nhớ rằng: Gia-đình là ‘Giáo-hội nội-địa’, nên vẫn cần ta nguyện cầu để có thể gỡ bỏ mọi ưu-tư, quan-ngại trong đời mình. Ngài lại thêm: “Cuộc sống gia-đình, giống như tại Cana, “phép lạ” luôn xảy đến khi ta sở-hữu ít sự vật. Thế nên, là tín-hữu, ta hãy giùm giúp các gia-đình nào đang rối-bời về nhiều thứ, cả những thứ, những sự như “người nhà hết rượu để đãi đằng”, giùm giúp những ai đang uống thứ nước của sự nản lòng, tuyệt vọng. Với gia-đình nào tuân theo hiệu-lệnh hoặc lời khuyên của Đức Maria và làm những gì Đức Giêsu truyền làm, thì chắc chắn rượu ngon sẽ có ngay cho họ, cho mọi người.” (X. Mục tin tức trên tờ The Catholic Weekly ngày 12/7/2015 tr.12, Pray for miracle at synod, pope asks massive crowd)

Nói tóm lại, có bàn gì thì bàn, bàn về gia-đình thánh nho nhỏ của Giáo-hội, tưởng cũng nên hướng về gia-đình rộng lớn là Vương-Quốc-Nước-Trời từng được Đức Giêsu chủ-trương khi Ngài bảo ban dân con mọi người ở Do-thái.

Nói cho cùng, Vương-Quốc-Nước-Trời rất gia-đình ở thánh hội vẫn là và phải là như nhận-định của bậc thày dạy thần-học ở Đại-học De Paul, Chicago Hoa kỳ, như sau:

“Với Đức Giêsu, Vương Quốc Nước Trời được mô-tả bằng ảnh-hình của việc sửa soạn bàn tiệc có chỗ ngồi hẳn-hoi. “Tiệc Bàn Rộng Mở” không phân-biệt một ai, lại đã diễn-tả một xã-hội thu nhỏ không kỳ-thị. Và, quan-niệm cũng như thị-kiến này, trên căn-bản, đã chạm phải giá-trị nền-tảng của nền văn-hoá Địa-Trung-Hải, thời xưa cũ. Cũng không thể bảo: có thể cũng hơi sớm, nếu có ai đề-nghị ta nên nhận ra được sự giận-dữ kéo theo sau việc ‘ngồi cùng bàn’ còn mới mẻ, vào thời ấy. Đó, cũng là một trong các lý-do khiến họ bắt giam và xử trảm Ngài, không cho Ngài được hoạt-động giảng-rao/giùm-giúp người nghèo-khó/cùng quẫn nữa.” (Xem thêm John Dominic Crossan, Who is Jesus WJK 1996, tr.40-59)

Nói cho cùng, bàn về gia-đình mang tính-chất Vương-Quốc-Nước-Trời, trên thực-tế, ta cũng đừng nên quên những truyện kể nhè nhẹ có tính ‘tiếu-lâm-chay’ để mỗi lần nhớ, tôi và bạn, ta sẽ tủm tỉm cười vào buổi tuối, lúc khó ngủ cứ lấy sách “phiếm” ra đọ cho dễ ngũ, như sau:

“Truyện kể gia đình có vợ/chồng thuận-hoà vì luôn giữ bí-kíp sau đây:

Trên đời này, có hai việc khó nhất:

  1. 1. Là, nhét tư-tưởng của người này vào đầu của người khác.
  2. 2. Là, nhét tiền của người khác vào túi của mình.

Nếu:

1. Ai làm được điều số 1 thì ta gọi đó là …Thày

2. Ai làm được điều thứ 2 thành-công thì ta gọi đó là…chủ.

Nhưng, nếu có người làm được cả 2 điều nói trên mà thành-công thì ta gọi đó là…Vợ.”

Gọi gì thì gọi. Làm gì thì làm, hãy cứ làm và cứ gọi nhau trong tình thân thương của người anh người chị trong Vương Quốc Nước Trời, ở nơi đó mọi người vẫn cứ hát lên câu ca nhè nhẹ, rằng:

“Nhìn chiều vàng đồi thông thưa vắng.
Lòng bùi ngùi buồn trông theo bóng.
Giờ đây viếng thầm hồn cố nhân.
Năm tháng trôi qua sóng gió đời.
Chiều chiều nhớ em khôn lòng nguôi.”

(Nguyễn Văn Khánh – bđd)

Hát thế rồi, nay bạn và tôi, ta cứ hiên-ngang nhìn về phía trước rồi “đầu cao mắt sáng” sống xứng-đáng làm thành viên Nước Trời, ở đây, bây giờ.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn tâm-niệmn cuộc sống

Của mình và của người

Nên như thế.

KHÔNG. Bài suy niệm

KHÔNG . Bài suy niệm

Không!  Không!  Tôi không còn yêu em nữa.
Không!  Không!  Tôi không còn yêu em nữa.
Không!  Không!  Tôi không còn yêu em nữa em ơi.

Tình đời thay trắng đổi đen.  Tình đời còn lắm bon chen.
Tình đời còn lắm đam mê.  Nên tình còn lắm ê chề.

Tình mình có nghĩa gì đâu.  Tình mình đã lắm thương đau.
Tình mình gian dối cho nhau.  Thôi đành hẹn lại kiếp sau.

Không!  Không!  Tôi không còn, tôi không còn yêu em nữa.
Không!  Không!  Tôi không còn, tôi không còn yêu em nữa.
Không!  Không!  Tôi không còn, tôi không còn yêu em nữa em ơi…..

Nguyễn Ánh 9

****************************************

Có lẽ không người Việt nào sống ở Sài gòn vào những năm 1969-1970 mà không biết đến nhạc phẩm “Không” của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9.  Bản nhạc ra đời như một câu trả lời cho thắc mắc của Khánh Ly: “Ông có còn thương người ấy?”  Người ấy là mối tình đầu khi nhạc sĩ mới 18 tuổi.  Hai người tình thơ trẻ bị cuốn vào niềm đam mê choáng váng và mãnh liệt.  Nhưng dường như là số phận, những mối tình quá đẹp, thường khó vẹn toàn.  Gia đình cô gái không đồng ý cho con mình yêu anh nhạc sĩ nghèo, sống lang bạt kỳ hồ.  Ngăn không được lòng đôi trẻ, cha mẹ cô dùng kế ly gián, gây nghi ngờ hờn giận cho hai người, rồi đưa cô gái sang Pháp sống, hòng ngăn cản mối tình “rồ dại” với chàng nhạc sĩ.

Năm 1965, người nhạc sĩ lập gia đình và tin tưởng những giông bão của mối tình đầu sẽ ngủ yên.  Nhưng thực tế, trái tim ông đã không còn cảm giác sau mối tình đầu, bởi tình yêu đã vĩnh viễn câm lặng.  Năm 1974, ông gặp lại người tình xưa khi cô về Sài Gòn, cô vẫn một mình, vẫn yêu ông và chẳng oán trách gì.  Đã lỡ làng, có xót xa thì cũng đành sống cho hết bi kịch một kiếp người.  Họ lại xa nhau, lần này là mãi mãi, để vùi chôn những dấu yêu xưa cũ vào đáy lòng mình, nhức buốt, cho tới hơi thở cuối cùng.

Ca khúc “Không” được Khánh Ly thu lần đầu trên đĩa nhựa Tình ca quê hương và cũng chính nhạc phẩm “Không” đã đưa Elvis Phương “lên sao” ở thập kỷ 70, sau đó nổi tiếng đến mức công chúng gọi Nguyễn Ánh 9 là ông “Không”.

****************************************

Ở hải ngoại, tôi thường được nghe bài“Không” đã được hòa âm (remix) lại sau này với điệu nhạc Disco giật gân, nhanh vui và dồn dập.  Trong đĩa video ca nhạc Asia, ca sĩ Mai Lệ Huyền đã lột tả tận chân chữ “không” của bài nhạc với khuôn mặt lạnh lùng, một cái ngoắt đầu qủa quyết, cái khoát tay mạnh mẽ, đôi môi mím chặt, thêm với ánh mắt hờn căm của kẻ bị tình phụ.  Tất cả được phụ họa thêm bằng những pha ánh sáng trắng đen chớp tắt liên hồi, tiếng trống chát chúa từng nhịp một.  “Không”, dứt khoát là không!  Không còn yêu thương, luyến tiếc!  Cũng chẳng tiếc thương chi mối tình đã lắm thương đau.  Dù chẳng biết ai gian dối với ai?  Dù chẳng hiểu mối tình đang đẹp sao trở thành “có nghĩa gì đâu”? Ai là kẻ bon chen và gây ra lắm ê chề?  Chẳng hiểu vì sao, người nghe chỉ cảm nhận được một âm điệu “không” dứt khoát và rõ ràng.  Một tiếng “không” chát chúa chói tai!  Một tiếng “không” lạnh lùng bẽ bàng!  Không là không!  Trăm lần không, ngàn lần không!  Đừng hy vọng đợi chờ!  Đừng năn nỉ luyến lưu….  Nếu có chăng, chỉ là kiếp sau!  Nghe tiếng “không” mạnh mẽ quyết liệt này, thì dù chưa muốn chia tay, dù còn vấn vương, người yêu cũng đành phải ngậm ngùi ra đi…

Trong một dịp tình cờ tôi được đọc một bài phỏng vấn của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 về tác phẩm “Không” bất hủ này. Thật ngạc nhiên khi khám phá ra cả một tâm tư thầm kín của tác giả gởi gắm trong hồn thơ nốt nhạc.  Đó không phải là một chữ “không” dứt khoát quyết liệt, bẽ bàng như người ta thường được nghe và hiểu sau này.  Bản nhạc nguyên thủy được soạn với điệu Slow Rock lả lướt, tình tứ du dương, tiếng nhạc réo rắt nhẹ nhàng diễn tả một chữ “không” đầy ẩn ý mời gọi.  Hiểu chữ “không” này như thế nào, điều đó tùy thuộc vào độ rung cảm của tâm hồn và nhịp đập của con tim.  Tim tôi và tim em, hai kẻ trong cuộc đã từng một thời yêu thương!  Với tác giả, đó là một chữ “không” giận lẫy, đầy trách móc nhưng không dứt khoát.  Một chữ “không” để hở!  Nói “không” nhưng không phải là “không!”. “Không” đó nhưng đầy hàm ý chờ đợi, đẩy em đi nhưng lại muốn kéo em về.  Mấy nốt cuối cùng của điệp khúc “tôi không còn yêu em nữa, em ơi…..” được kéo dài ra, luyến láy nói lên cái tâm tình xao xuyến chờ đợi, như dằng co, như muốn kéo áo người đừng đi.  Nếu tình đã gian dối, lắm thương đau, nhiều ê chề thì hẹn chi đến kiếp sau?  Mâu thuẫn!  Gian dối một kiếp, một đời chưa đủ hay sao?  Lúc giận nói thế, nhưng không phải thế!  Bởi còn yêu mới giận.  Nói “không” để lòng bớt đau, nói giận để lòng bớt thương, nói hận để lòng bớt nhớ!  Phủ định để tự khẳng định!  Người yêu có hiểu lòng kẻ nói “không”? Người đi có hiểu lòng kẻ ở?  Nghĩa chữ “không” vời vợi đầy đau khổ, tuyệt vọng nhưng vẫn chờ đợi, oán trách nhưng vẫn yêu đậm sâu.  Ai kia nếu có hiểu mới gọi là yêu!

Chữ “không” huyền bí của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 trong ca khúc “Không” đã được thế hệ sau hòa âm lại, hiểu theo nghĩa trắng đen của thời đại, nhưng lại lệch lạc với tâm tình của tác giả gởi gắm trong đó.  Cả một con tim sôi sục yêu thương được diễn tả bằng giọng hờn giận nhẹ nhàng của điệu nhạc Slow Rock tình tứ, trách đó nhưng yêu đó, giận đấy nhưng vẫn đợi đây đã được chuyển sang nhịp giật gân, dồn dập như hối thúc người ta đi cho lẹ, như muốn thanh toán mối tình cho xong để còn tính chuyện khác.  Cả một trời ẩn ý được che dấu dưới chữ “không” ai oán não nùng, nào có ai thấu hiểu nỗi lòng của kẻ nói chữ “không” nếu không được nghe chính tác giả tâm sự?

****************************************

Chữ “không” huyền bí nhiều ý làm tôi liên tưởng đến chữ “không” của Thiên Chúa.  Thưở ban sơ, Ngài đã nói “không”, con người sẽ phải chết và đuổi ra khỏi vườn địa đàng sau khi loài người phạm tội bất tuân.  Nhưng sau đó, Con Một của Thiên Chúa lại chết để con người được sống.  Quả là một chữ “không” mâu thuẫn!  Một cái chết ô nhục khổ đau trên thập tự đồi Golgotha năm xưa của Chiên Thiên Chúa đã nói lên bao điều.  Không những thế, Người Con Một đó đã đến thế gian truyền rao một thông điệp về tình yêu thâm sâu vô biên của Thiên Chúa Cha.  Rằng Thiên Chúa đã yêu thương loài người đến nỗi đã ban Người Con Duy Nhất cho thế gian.  Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người đã dám thí mạng sống mình vì bằng hữu.  Ôi, một chữ “yêu” nhiệm mầu!  Một Thiên Chúa quyền năng sáng tạo muôn loài muôn vật từ hư không, nhưng lại bó tay “không” thể cứu chuộc con người nếu “không” có sự hợp tác của con người.  Một chữ “không” khó hiểu!

Thật không dễ dàng để đối diện với chữ “không” phũ phàng của Đấng mà mình đã đặt trọn tin yêu!  Đã bao lần, Thiên Chúa nói “không” với tôi trong cuộc sống này, mỗi khi tôi xin nhưng không được, tìm nhưng không thấy, gõ cửa nhưng không được mở.  Tôi phải hiểu nghĩa chữ “không” này như thế nào đây?  Xin thành công chỉ gặp toàn thất bại, xin Chúa chữa lành bịnh tật thì thấy bịnh nặng thêm, xin hạnh phúc lại gặp toàn khổ đau.  Xin cho đường đời êm ả bên những đứa con ngoan hiền thì gia đình tan tác, con cái vô đạo nghĩa.  Tại sao và tại sao?  Ngay cả khi tôi xin những điều tốt lành cho phần hồn mình và của những người thân thương, Thiên Chúa vẫn nói: “Không, chưa phải lúc!”

Thật không dễ dàng để thông hiểu chữ “không” đầy cay đắng của Thượng Đế quyền uy.  Tôi cần phải nhìn lên thập giá Giêsu, ngước mặt lên trời cao để nhìn thẳng vào ánh mắt của Đấng đã nói “không”, để hiểu tâm tình của Ngài đằng sau chữ “không” đáng ghét kia.  Thiên Chúa cũng đã từng nói “không” với Người Con duy nhất của Ngài trong vườn Cây Dầu.  Ngài đã “không” cất chén đắng cho Giêsu nhưng Ngài ban thêm sức mạnh và nguồn an ủi thiêng liêng cho Giêsu.

Trong phút giây đối đầu với sự chết, Giêsu cũng đã từng có tâm tình bị bỏ rơi bởi Người Cha yêu dấu, nhưng Ngài đã không bỏ cuộc và sau cùng Ngài đã chiến thắng.  Trong men cay chua chát của thất bại, lạ thay tôi nhận ra đức khiêm nhường trổ sinh hoa trái.  Trong thể xác ốm yếu bịnh hoạn, tôi thấy linh hồn mình tỉnh thức sống gần Chúa hơn.  Dãy dụa trong bể khổ, tôi thấy mình chán ghét thế gian hào nhoáng, lòng hướng về một hạnh phúc viên miễn hơn.  Đi trên đường đời gập ghềnh sóng gió, người mang đầy thương tích, tôi thấy mình bám chặt vào Chúa hơn và ngỡ ngàng nhận ra đức tin cậy mến của mình sáng rực như bó đuốc trong đêm đen.  Phải chăng qua chén đắng của chữ “không”, Thiên Chúa đang dạy dỗ tôi nhiều điều.  Ngài giúp tôi lớn hơn trong đời sống thiêng liêng và mở mắt tâm hồn tôi để nhìn thấy được những điều cao cả thuộc về thượng giới hơn?

Có lẽ khi chữ “yêu” kết hợp với chữ “không” sẽ giúp người trong cuộc hiểu rõ nghĩa từ thâm sâu huyền nhiệm của chữ “không” hơn.  Tùy theo mức độ “yêu” để hiểu nghĩa chữ “không”.  “Không” đi một mình thì thuần túy chỉ là “không” đúng nghĩa trắng đen, chẳng cần phải“yêu” cũng có thể hiểu.  Nhưng “không” đi với hơi thở của con tim, với ánh mắt tha thiết yêu thương, với độ rung cảm của linh hồn, chữ “không” chắc hẳn không còn là “không” nữa.  Người trong cuộc sẽ hiểu tại sao Thiên Chúa lại nói “không” với mình, khi Thiên Chúa đã dám cho đi cái qúy nhất của Ngài.  Chắc hẳn phải có lý do ẩn khuất đằng sau chữ “không” đắng chát kia.  Nghĩa chữ “không” vời vợi khó hiểu!  Có lẽ cần phải “yêu” nhiều hơn nữa mới có thể hiểu được chữ “không” của Thiên Chúa Tình Yêu.

Phêrô và Giuđa, cả hai cùng theo Thầy ròng rã ba năm trời, trực tiếp nghe những lời giáo huấn từ miệng Thầy, hiểu rõ tấm lòng yêu thương vị tha của trái tim Thầy.  Đến giây phút thử thách, cả hai cùng phản bội tình yêu của người Thầy yêu dấu.  Một người bán Thày cho các tư tế, còn một thì leo lẻo chối Thày giữa đám đông.  Với tình yêu, sự phản bội nào cũng xấu xa như nhau.  Cuối con đường, cả hai đã hoà âm lại chữ “không” theo hai nghĩa khác nhau.  Giuđa hiểu rằng Thầy đã nói “không” với mình.  Thế là hết, là xong mối tình thầy trò ba năm!  Không còn con đường nào khác cho kẻ phản bội, và ông đã đi đến ngõ cụt của chữ “không” lối thoát đó bằng cái chết thắt cổ của mình.  Phêrô thì can đảm hơn để nhìn lên ánh mắt của Thầy và đọc được một sứ điệp trái ngược.  “Không, cho dù con xấu xa phản bội, Thầy vẫn yêu thương con.  Không, đừng bỏ đi, con ơi!  Cho dù con vấp ngã chối Thầy nhưng Tình Yêu chấp nhận cái tốt lẫn cái xấu.  Không, con phải đứng lên bằng chính đôi chân của mình!  Cho dù con phản bội nhưng Thầy vẫn thứ tha và chờ đợi…  Không, con không được bỏ cuộc!  Thầy và anh em vẫn cần con và mong con quay về….” Thế là Phêrô cất bước trở lại với anh em, với sứ mạng Thầy đã giao phó và cuối cùng đã chết vì người Thầy mình đã một thời chối bỏ.  Phải chăng vì Phêrô yêu Thầy hơn Giuđa yêu Thầy, nên ông hiểu nghĩa chữ “không” đúng với tâm tình của Thầy hơn?

Hai cách hiểu chữ “không” khác nhau dẫn đến hai kết cục khác nhau.  Dù hai cách hiểu hay nghìn cách hiểu, ý tưởng của tác giả cũng chỉ có một.  Thiên Chúa là Đấng trung thành với lời hứa, với những gì Ngài đã nói.  Ngài hằng mong muốn nhân loại nhìn lên cái chết ô nhục đau thương của Người Con Một trên thập giá, để hiểu cho đúng ý nghĩa yêu thương của trời cao, để mỗi khi gặp phải chữ “không” lạnh lùng trong cuộc sống thì đừng vội tuyệt vọng chán nản, đừng vội bỏ cuộc và  đừng bao giờ diễn dịch chữ “không” cao siêu nhiệm mầu của Thiên Chúa theo ý phàm tục riêng mình.  Tác giả Nguyễn Ánh 9 trong bài phỏng vấn đã kêu gọi ca sĩ khi trình bày nhạc phẩm “Không”, hãy tôn trọng tâm tình của người viết nhạc và linh hồn bài hát.  Ca sĩ là người dùng nghệ thuật âm nhạc, giọng hát, cách diễn đạt để lột tả cho trọn vẹn ý tưởng của tác giả gởi gắm trong ca khúc đó chứ không phải phiên dịch lại theo ý mình.  Cùng là một thân phận nghệ sĩ, chắc hẳn Thiên Chúa cũng có một tâm tình như nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9.  Mong sao thế nhân hiểu cho đúng, diễn tả cho trọn cái tâm tình của Thiên Chúa gởi gắm trong những tác phẩm nghệ thuật của Ngài, mà đỉnh cao của những tác phẩm nghệ thuật đó chính là cây thánh giá cheo leo trên đồi Golgotha năm xưa và Lời Yêu Thương được gói ghém trong cuốn Thánh Kinh.

Qua tình khúc “Không” của điệu Slock Rock, người nghe cảm nhận được nỗi đau, vị chát, men cay, sự thất bại ê chề của người nói chữ “không”, hơn là kẻ được nghe chữ “không”. Mâu thuẫn thay, tôi lại cảm nhận được nỗi tuyệt vọng cay đắng của người nghe chữ “không”, nhưng chưa bao giờ tôi thử tìm hiểu xem cõi lòng của Thiên Chúa ra sao khi Ngài phải nói chữ “không” với tôi!  Đến bao giờ tôi mới hiểu được tâm sự của người nói chữ “không“?  Chẳng biết tôi có thể hiểu được hay không, khi tôi cứ mãi gục xuống trong cơn đau của mình?

****************************************

Lạy Thiên Chúa là Đấng thấu hiểu mọi sự, con viết bài này cho vơi bớt cơn đau,  cho quên nỗi ưu phiền vì Chúa cũng đang nói “không” với con trong lúc này đây.  Linh hồn con đang bên bờ tuyệt vọng vì không hiểu sao Chúa cứ mãi nói “không”! Con không muốn xin gì thêm nữa vì đã quá mỏi mệt, vì dư âm đắng nghét của chữ “không” vẫn còn đọng nơi đầu môi.  Con chỉ xin một điều duy nhất là cho con biết luôn cậy trông và phó thác vào tình yêu thẳm sâu nhiệm mầu của Chúa.  Gọi là nhiệm mầu vì đôi lúc con không hiểu được tình yêu đó.  Phần còn lại, Chúa muốn cho gì thì cho, vì Chúa đã trao ban Người Con duy nhất của Ngài cho con rồi thì chắc Chúa chẳng tiếc gì những thứ khác nữa.  Amen!

Lang Thang Chiều Tím

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi