TÌM KIẾM GIÁ TRỊ TUYỆT ĐỐI

TÌM KIẾM GIÁ TRỊ TUYỆT ĐỐI

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Cách đây khoảng 10 năm, tại bang California bên Mỹ, có hiện tượng thanh niên tự tử hàng loạt. Tất cả đều là những thanh niên trẻ tuổi, con nhà giàu, có học thức. Nguyên nhân tự tử là vì họ mong về Thiên đàng. Năm ấy có sao chổi xuất hiện. Họ cho rằng sao chổi chính là chuyến xe về Thiên đàng. Mấy mươi năm mới có một chuyến, nên họ vội vàng ra đi, sợ nhỡ chuyến.

Tính tỉ lệ những người tự tử, ta thấy thanh niên các nước giàu tự tử nhiều hơn thanh niên các nước nghèo. Hiện nay trong nước ta, tại các thành phố lớn, đang có hiện tượng các thanh niên đua xe gắn máy, liều lĩnh coi thường mạng sống. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy đó là những thanh niên con nhà giầu có.

Những hiện tượng đó đáng cho ta suy nghĩ. Những người nghèo đói thật vất vả khổ sở. Họ chỉ mong sao cho có đủ cơm ăn áo mặc. Có cơm ăn áo mặc đã là hạnh phúc. Nhưng khi người ta đã có đủ cơm đủ áo, đủ mọi phương tiện, người ta vẫn không hạnh phúc. Nhìn những thanh niên giầu có chán đời đi tìm cái chết; nhìn những thanh niên chán cảnh nhà cao cửa rộng, chăn êm nệm ấm đeo ba-lô đi du lịch bụi đời, ta thấy rằng vật chất không phải là tất cả. Và những khao khát của con người là vô tận. Hôm nay tôi chưa đủ ăn thì tôi mong cho có đủ ăn. Ngày mai đủ ăn rồi, tôi lại muốn ăn ngon hơn. Hôm nay còn đi bộ, tôi mong được một chiếc xe đạp. Có xe đạp rồi tôi mong có xe máy. Có xe máy rồi tôi mong có ô – tô. Có ô – tô rẻ tiền rồi, lại mong có cái tốt hơn, tiện nghi hơn, chạy nhanh hơn, êm ái hơn. Có tất cả rồi, người ta vẫn chưa hài lòng. Cuộc đời vẫn còn thiếu một cái gì đó. Bao tử hết bị hành hạ, thì lập tức tâm hồn cảm thấy những cơn đói khác dày vò: đói bình an, đói tình yêu, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời, đói những điều cao thượng. Những cơn đói khát tinh thần này rất mãnh liệt. Nên con người mãi mãi khắc khoải đi tìm. Mà hạnh phúc dường như luôn luôn ở ngoài tầm tay với.

Hôm nay, đứng trước đoàn người hăm hở đi tìm lương thực, Đức Giêsu đã cảnh báo họ: “Đừng lo tìm những thứ lương thực hay hư nát, nhưng hãy tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh”. Vì Người đã rõ giá trị tạm bợ của miếng cơm manh áo. Người cũng thấu rõ tâm hồn con người mau chán những gì đạt được. Người đã tạo dựng tâm hồn con người, nên Người hiểu lòng khao khát của con người là vô biên. Chỉ có những giá trị tuyệt đối mới có thể lấp đầy những khát khao ấy. Người đã mở đường để tâm hồn con người thoát khỏi những ràng buộc của vật chất, vươn lên tìm kiếm những giá trị thiêng liêng cao cả, xứng với tầm vóc con Thiên chúa.

Thế nhưng ta tìm đâu ra những giá trị tuyệt đối để lấp đầy nỗi khao khát vô biên?  Ta tìm đâu ra thứ bánh làm dịu được cơn đói hạnh phúc?  Hôm nay, Đức Giêsu giới thiệu cho ta thứ bánh đó.  Đó là bánh đích thực, vì ăn rồi ta sẽ không bao giờ đói nữa.  Đó là bánh ban sự sống, ai ăn sẽ không chết nữa.  Đó là bánh ban hạnh phúc, ăn vào sẽ không còn khao khát điều gì khác.  Đó là bánh Thiên Chúa ban chứ loài người không ban được.  Đó là bánh từ trời chứ trần gian không sản xuất được.  Tấm bánh đó là chính bản thân Người, Đức Giêsu Kitô.

Những người Do thái đã sai lầm khi đi tìm Đức Giêsu để được ăn bánh.  Đức Giêsu đã cảnh tỉnh họ khi cho họ biết rằng không nên tìm bánh, vì như thế họ sẽ thất vọng.  Bánh ăn rồi sẽ lại đói.  Nhưng phải tìm chính Đức Giêsu.  Ở đây ta nhớ tới bài học Chúa đã dậy tổ phụ Ápraham.  Thoạt tiên, Chúa kêu gọi tổ phụ Ápraham đi theo Chúa và hứa cho ông được một đất nước chảy sữa và mật,  và một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Nghe theo lời hứa, tổ phụ đã lên đường.  Nhưng khi ông sinh được một người con trai duy nhất trong tuổi già, Chúa lại bảo ông phải sát tế dâng cho Chúa.  Đây là một thử thách lớn lao, nhưng cũng là một lời mời gọi vươn lên.  Ápraham được mời gọi thoát khỏi sự ràng buộc của lợi lộc vật chất.  Theo Chúa chỉ vì Chúa chứ không phải vì lợi lộc vật chất.  Ông hoàn toàn có lý vì ông đã chọn Chúa là sự Thiện tuyệt đối chứ không chỉ lựa chọn một vài sự thiện tương đối.  Ông đã lựa chọn Chúa là nguồn mạch hạnh phúc chứ không đuổi theo những ảo ảnh của hạnh phúc.  Đức tin của ông hoàn toàn trưởng thành, nên ông đã trở thành Cha của những kẻ tin.

Hôm nay, Chúa mời gọi tôi, hãy noi gương tổ phụ Ápraham. Đừng tìm những mảnh vụn hạnh phúc, nhưng hãy đi đến nguồn mạch hạnh phúc.  Đừng lo nắm giữ những của cải phù du, nhưng hãy tìm chiếm giữ kho tàng bền vững mối mọt không đục khoét được.  Đừng đuổi theo những giá trị tương đối, nhưng hãy biết tìm kiếm giá trị tuyệt đối là chính Chúa.  Chính Chúa sẽ làm ta no thoả.  Chính Chúa sẽ lấp đầy những khát vọng của ta.  Chính Chúa ban cho ta hạnh phúc tràn đầy, vĩnh viễn.

Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với thánh Âucơtinh: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Amen.

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Tôi có người em nhỏ

“Tôi có người em nhỏ”,

Xanh xanh đôi hàng mi

Môi hồng vừa đương độ

Chưa biết sầu biệt ly.”

(Nguyễn Hiền/Thiệu Giang – Người Em Nhỏ)

Trần Ngọc Mười Hai

(Êphêsô 5: 1-2)

Nghe anh hát, tôi lại bảo: có người Em nào mà chẳng nhỏ lại vẫn “xanh xanh đôi hàng mi” cơ chứ! Nếu không thì, ai ai cũng sẽ gọi người ấy là “em họ” hoặc “Em” theo nghĩa học trò, người xa kẻ lạ ít tuổi hơn. Ngôn-ngữ người mình văn-hoa là như thế. Văn hoa, có nghĩa như gió thoảng/mây trôi lại mang tính thi-ca, ngọc ngà ướt mượt. Chả thế mà, nghệ sĩ nhà mình lại sẽ hát thêm:

“Ngày tôi đi vàng nắng

Nghiêng nghiêng một hàng cau

Mai ta nhìn mây trắng

Gửi lời về thương nhau

Chiều nay buồn viễn xứ

Nhớ người em gái xưa

Tôi thấy phương trời cũ

Giăng giăng một hàng mưa.

Mơ về đôi môi thắm

Cười ngày tôi lên đường

Quê ta chừng xa lắm

Giờ em có nhớ thương.”

(Nguyễn Hiền/Thiệu Giang – bđd)

Hỏi rằng: “Giờ Em có nhớ thương”, hay còn hỏi gì đi nữa, cũng bằng thừa. Bởi, đã là người em rất nhỏ rồi, thì chắc hẳn ai cũng đều thương, đều nhớ. Thương và nhớ, cả một thánh hội toàn những người/anh người chị thân thương, đầy ý-nghĩa.

“Giờ Em có nhớ thương” hay sao đó, vẫn là nỗi nhớ niềm thương của người em hoặc anh hoặc chị cứ là dắt tay nhau đi vào vùng trời ở Vương Quốc Nước Trời nay gần gũi có những lời nhắn-nhủ, dài muôn thuở, như sau:

“Anh chị em hãy bắt chước Thiên Chúa,

vì anh chị em là con cái được Người yêu thương,

và hãy sống trong tình bác ái,

như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta

và vì chúng ta,

đã tự nộp mình làm hiến lễ,

làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt.”

(Êphêsô 5: 1-2)

Hôm nay đây, người người trong nhà Đạo lại vẫn nhớ không chỉ mỗi lời nhắn của đấng thánh hiền tên gọi Phaolô mà thôi, nhưng còn nhớ cả những lời của Đức Giáo Tông Phanxicô hôm rồi gửi đến bà con, những lời như sau:

“Hôm 21 tháng 5 năm 2015, Đức Phanxicô có nhắn-nhủ bà con thân thuộc của vị sĩ-quan Cảnh Sát bị bắn chết hoặc bị thương trầm trọng, những lời như: Xã-hội hôm nay, còn mắc nợ gia đình ta sự thể là người thân của quí vị đây, đã sống đời chân-phương, ngoan-cường, trật-tự.” Đức Phanxicô lại đã ca ngợi các vị đang làm việc trong cơ-quan công-quyền vẫn có lòng quả-cảm giúp giùm người bị nạn cũng như đã ngăn chặn các can-phạm hùng hổ, tấn-kích người hiền ở xã hội. Các sĩ-quan đây như người thân của quý vị, đã không quản-ngại mọi hiểm nguy có thể xảy đến với mình, cả mạng sống có khi lại mất đi cũng không nản lòng trong khi thi-hành phận-sự trong công-quyền. Tiếc rằng, ở xã hội khác, nay lại để mất đi quyết-tâm quả-cảm ấy nên mới gây tai-hại cho mọi người…” (xem tin tức trong tuần trên The Catholic Weekly ngày 31/5/2015, tr. 3)

Lời nhắn nhủ, từ các đấng bậc ngoan-hiền ở thánh hội, lâu nay thì như thế. Trong đời đi Đạo của mỗi người và mọi người, chắc chắn việc này từng xảy ra cũng không thiếu. Bởi thế nên, nghệ-sĩ hôm nay lại có ý/lời ca-tụng những người “em nhỏ” trong đời những lời êm ái sau đây:

“Tôi có người em nhỏ

Xanh xanh đôi hàng mi

Môi hồng còn đương độ

Đã biết sầu biệt ly.”

(Nguyễn Hiền – bđd)

“Sầu biệt ly” đây, có thể là nỗi sầu cũng khó hiểu, do ngộ nhận hoặc sao đó. Nhưng, “sầu ly biệt” này có thể là thứ “sầu buồn” như nhận-định của đấng bậc chủ-quản ở chốn chop bu nhà Đạo khi ngài nói về tình-trạng của xã-hội hôm nay.

“Sầu biệt ly” hôm nay, không chỉ vì Facebook, Twitter, SMS hoặc nhiều thứ trên vi-tính hoặc điện-thoại khôn-ngoan từng đem lại cho cuộc sống vội vàng, chụp-giựt, lười suy-nghĩ.

“Sầu ly-biệt” hôm nay và mai ngày, còn là mối sầu khó tả cứ lai rai, trải dài nơi cuộc sống gia-đình không còn theo khuôn phép cũ/xưa, nhưng rất khác. Khác, về tập-tục lẫn lề-luật cùng cung-cách phụng-thờ, tin-tưởng, khiến nhiều bậc thức-giả trong Đạo, ngoài đời từng bận-tâm tìm nhiều phương-cách để giải-quyết.

Một trong các phương-cách rất thức-thời được đấng bậc chủ quản khi xưa từng tỏ bày bằng những ảnh-hình so-sánh cuộc sống có niềm tin với vụ nổ ở vũ trụ năm nào, như sau:

“Khoa học từng nói cho tôi biết thế giới hiện ta đang sống, lại đã bắt đầu bằng vụ nổ Big Bang từ lâu lắm. Trong khi đó, niềm tin đi Đạo lại bảo tôi, rằng: Big Bang, chính là vụ nổ do Thượng-Đế làm để tỏ-bày Tình Thương của Ngài đối với ta.

Tôi không có khả-năng đưa ra đây bất kỳ chứng-cứ nào mang tính tính khoa-học về niềm tin của ta, nhưng đó là một trong các giải-thích đem đến với mọi người sự thoả-mãn tốt đẹp nhất tìm thấy được ở quanh ta, cả vũ-trụ vật chất lẫn tâm-tư, cũng như tâm-can của chính mình.

Trước nhất, là lượng-mức lớn-lao vẫn trộn lẫn với nhau cách hài-hoà nơi nhân-sinh vũ-trụ, vạn-vật. Và rồi, qua khoảng cách thời-gian kéo dài tưởng chừng như vô-tận, nhiều sự-vật vững-chãi/chắc-nịch lại đã thành-hình như trăng, sao, tinh-tú, cùng các giải ngân-hà lại đã đi vào hiện-thực. Thề-giới vẫn được sắc-màu tuyệt-vời, lộng-lẫy; nhưng lại không có tư-duy, cảm-xúc nào thực-tế khả dĩ đáp trả lại tình Thương yêu Ngài từng tạo ra chúng.

Nhiềy tỷ năm qua, mãi cho đến thời mà hành-tinh địa-cầu mở rộng ra để đón chào mọi hình-thái của sự sống ban đầu mà hiện-hữu. Và rồi, từ biển-khơi, sinh-vật đủ mọi loại cũng từ đó bắt đầu chinh-phục đất liền. Và xảy ra, là: tất cả mọi loại-hình cây cối cùng loài thú, cứ thế phát-triển nhưng không một hữu-thể nào dù sinh-động cách mấy lại có được ý-thực ứng-đáp lại Tình Thương Yêu của Thượng Đế.

Cuối cùng thì, chỉ một số rất ít loài thú mới khởi-sự đứng trụ trên đôi chân hiền của mình mà phát-triển sự sống có ý-thức của chúng. Con người, cũng từ từ biến-hoá theo dạng-thức có tư duy, xúc-cảm để rồi cuối cùng cũng tự mình biết đáp-ứng với Tình Thương Yêu của Chúa Trời là Đấng tạo-dựng nên mình.

Từ vụ nổ Tình Thương Yêu rất Big Bang đến giai-đoạn đáp trả đầy ý-thức đối với Tình Thương Yêu của Chúa Trời lại đã kéo dài những 13,8 tỷ năm liền và ngang qua thời-gian dài đằng d0ẵng ấy, Chúa Trời vẫn cứ đợi và cứ đợi. Ngài vẫn đợi mãi, mà không xen vào mọi chuyện của bất cứ loài nào. Ngài vẫn kiên-tâm đến vô cùng vô tận, nên đã cho phép mọi sự được triển-khai theo nhịp-độ và cung-cách của chính nó.

Con người lâu nay, vẫn rắp ranh tìm-hiểu gốc-nguồn và ý-nghĩa của thế-giới, với thế-gian, mặc dù lần rắp ranh đầu thường chỉ dính-dự bằng truyện kể về các thần-linh tranh-chấp với các anh-hùng cùng siêu-nhân.

Và rồi, dân con Israel lại đã biết tin tưởng vào chỉ một Chúa Trời và phát-triển niềm tin-tưởng ấy viết lại cuộc hành-trình đầy đạo-đức lẫn tâm-linh của mình thành truyện kể. Hành-trình này khởi từ ý-tưởng về sự lớn lao/cao cả và trả đũa với hận-thù (Kn 4: 17-24), và rồi tuần tự dấy lên ý-tưởng tôn-trọng phẩm-cách của mọi giống nòi cùng quyền-lợi của loài khác từng tuôn chảy từ phẩm cách này như sách Xuất hành từng nói đến (Xh 20: 1-17). Rồi từ đó, lại có ý-tưởng diễn-tả đòi hỏi mọi loài phải yêu-thương kẻ đồng-loại cùng như phải yêu thương lẫn nhau như sách Lêvi còn viết dặn (Lv 19:18), và cả việc thương yêu Chúa Trời như Ngài từng yêu-thương hết mọi loài (ĐNL 6: 4-9); (Giôna 4: 9-11).

Từ đó đến nay, vẫn có những bước chân âm-thầm tiến về phía trước hoặc lui về dĩ-vãng, như truyện kể về sự tăng-trưởng đạo-đức cũng như tâm-linh phản ánh sự tăng-trưởng trong thiên-nhiên.

Có một vị tên là Giêsu, đến từ Đức Chúa, đã tiếp-nhận mọi sự tốt đẹp từ truyện này, nhưng Ngài còn đưa câu truyện tạo-dựng của Chúa Trời đi xa hơn bằng cách trưng cho thế-giới một mức-độ thương yêu từng phản-ánh từ vụ nổ tình-thương của Đức Chúa trong tạo-dựng. Ngài làm thế, để rồi có hy-vọng là mọi người và mọi loài lại sẽ noi gương bắt chước tình thương yêu này và phát-triển nó trong tăng-trưởng.

Đức Chúa xưa nay, vào mọi lúc, vẫn đợi chờ cho sự tăng-trưởng này được thành-tựu; và nếu cần, Ngài còn chờ, còn đợi mãi bao lâu kế-hoạch thiên-định được thực-hiện. Thiết tưởng, mục-tiêu tối hậu của kế-hoạch Ngài đưa ra là loài người sẽ phải tiếp-tục tặng-trưởng mãi cả về mặt đạo-đức lẫn tâm-linh, theo cách nào đó, cho đến khi biến thế-giới trở về lại với tình thương-yêu từ đó nó xuất xứ. Thật ra, chẳng ai biết được sự việc ấy mang hình-thức như thế nào, nhưng ai cũng tin tưởng là đó là mục-tiêu tối-hậu của loài người. Dù có trải dài thêm 13 hoặc 14 tỷ năm hoặc hơn nữa, cũng được đi, vì Đức Chúa đã biết chờ, thì Ngài sẽ còn chờ, còn đợi mãi cũng không sao.

Đức Giêsu khi xưa từng sống chỉ cách nay có hơn hai ngàn năm, tức một khoảnh-khắc rất nhỏ so với cả tỷ năm tạo-dựng. Và Đức Chúa vẫn cứ đợi cứ chờ bao lâu người theo chân Đức Giêsu cần phát-triển và áp-dụng ý-định của Ngài theo cách-thức nào toàn thể-thế-giới có khả-năng phát-triển cách an-toàn đi vào mục-tiêu tối hậu này.

Mọi chứng-cứ sẽ chỉ-dẫn để ta thấy rằng vào những ngày sớm-sủa nhất ở truyện kể của Đạo Chúa, như nó từng là thành-phần của truyện kể bảo rằng: thế-giới này sẽ quay về với tình thương-yêu là gốc-nguồn từ đó nó được sinh ra.” (x. Gm Geoffrey Robinson, The 2015 Synod, The Crucial Questions: Divorce & Homosexuality  ATF Press 2015, tr. 2-5)

Trích-dẫn nhận định của đấng-bậc chủ-quản từng chủ-trì Tổng Giáo-phận Sydney, hôm nay, chính là để bạn và để tôi, ta có một cái nhìn chín-chắn về sự tin-tưởng trong sống Đạo giữa đời, có nhiều lời bàn ra tán vào về nhiều thứ.

Trích và dẫn, không chỉ dẫn và trích những gì được nói hoặc được viết trên giấy trắng mực đen, thôi.

Trích và dẫn, còn là dẫn-giải về nhiều thứ chuyện trong đời của con người. Những sự và những việc có liên quan đến đời sống của nhiều người trong ngoài Đạo Chúa hay đạo Bụt, ở mọi nơi. Trích và dẫn, còn là cứ dẫn và cứ trích những sự vụ hoặc lời kể ở nhiều nơi, vẫn gửi vể để bà con ta có chút gì mà nhớ mà thương, như sau:

“Có 5 điều mà các bậc cha mẹ nên học từ các bạn bên đạo Bụt tiếp tục phát triển rộng ở nhiều nước bên phương Tây ít nhiều thì giáo lý của Đạo cũng đã và đang được đưa vào thảo luận quanh đề-tài “Làm sao Trở Thành Bậc Cha Mẹ Tốt. Các khái-niệm về Thiền, Từ Bi, và Chánh Niệm dễ dàng đi vào suy nghĩ của chúng ta; nhưng các khái niệm này thực sự có nghĩa gì trong thực tập?

Tác giả cuốn sách có tựa đề là ‘Brave Parenting’ (Bậc Cha Mẹ Dũng Cảm), lấy hứng từ đạo Bụt về vấn đề làm cha làm mẹ, đã vui thích kết hợp triết lý đạo Bụt với việc làm cha mẹ trong đời sống hằng ngày. Một trong những nguyên tắc rút từ phương pháp này là kích thích sự chín chắn nơi cảm xúc và khả năng tự lực cánh sinh của trẻ/bé. Trong khi đó, việc cha mẹ chu-toàn bổn-phận cũng ngày một dễ dàng hơn.

Tác-giả khẳng định điều đó không có nghĩa mình phải giữ yên tịnh và tĩnh tâm vào mọi lúc. Đây là việc chuyển hóa quan hệ đơn thuần của ta với con cái để có mặt thật sự với con mình. Đây còn trải-nghiệm các cấp-độ cảm xúc mà không tạo phản ứng.

Dưới đây là năm nguyên tắc căn bản lấy hứng từ đạo Bụt hầu giúp bạn trong hành trình sống:

1. Thấy được tâm định tĩnh là tâm vững vàng

Theo đạo Bụt, cuộc sống là một giòng chảy liên tục. Chính vì thế sự ổn định không có từ ngoại cảnh, mà từ cung-cách ta tiếp-cận với nó thế nào: ta có thể gieo trồng hạt giống của tâm định tĩnh.

Hầu hết chúng ta đều có trạng-thái tinh-thần hứng-khởi rồi huỷ-diệt trong các hoạt động thường ngày. Ta tiếp-cận chúng với động-thái xấu/tốt lẫn lộn. Chẳng hạn như, bằng cách ôm hôn, cười với con là đều tốt; cả khi bị kẹt xe và trễ giờ đi họp có thể là xấu. Đạo Bụt khuyên ta nên xem các sự việc ấy bằng tâm xả. Vạn vật đều như thế. Và chính mình cũng cảm nhận cách sâu sắc sức mạnh nằm ở việc chấp nhận như thế. Bạn có thể dạy con cái mình bằng tấm gương của chính mình. Thiền tập như thế là cách hay nhất để nuôi dưỡng hạt giống tâm-định rất tĩnh.

2. Mỉm cười với vô thường

Văn hóa của ta, phần lớn đều lo ngại do bởi ý niệm vạn-vật vẫn liên hồi thay đổi. Ta thích lề thói, tập quán và mọi sự vĩnh cữu. Nhưng, Bụt dạy: vạn vật vẫn liên-tục vận-động và hơn nữa, tất cả đều vô thường.

Ta không muốn bị bệnh tật hoặc chết chóc, nhưng chính những cái ấy là một phần của cuộc sống. Có sinh có diệt. Điều đó là chuyện tự nhiên của kiếp người, thôi! Ta có thể dạy con biết điều này không làm cho chúng sợ  mà cho chúng hiểu về quá-trình của kiếp sống: hoa cũng tàn, cây trái cũng có ngày bị hư hoại, lá vẫn rơi rụng vào mùa thu.

Trong cuộc sống hàng ngày, ta học cách chấp nhận hơn là lo sợ, đó là sự chuyển vận to lớn. Ta dạy cho con cái biết: thay đổi là việc tự nhiên. Và cách tốt nhất để am-hiểu lẽ vô thường nơi vạn-vật là thái độ cảm-hoá biết ơn vào mỗi ngày mình sống, bởi mỗi ngày đều duy nhất, rất khác biệt.

3. Hãy nói ‘Cũng tốt thôi!’ với những điều mình đang lo lắng

Người thường đều rõ biết, do tính vô thường mà nỗi-niềm lo lắng luôn tiềm-ẩn, tồn tại. Nỗi niềm ấy là dấu hiệu cho thấy có cái gì đó ‘không ổn’; nó là trải nghiệm của tình trạng sống trong thế giới vô thường này. Thế nên, đây không là những gì ta có thể tự ‘chỉnh sửa’ nơi người mình, cũng như nơi con em của ta. Nỗi-niềm lo-lắng là cảm xúc thường-tình mà mỗi người đều cảm nhận. Nỗi-niềm chịu đựng sự việc như thế sẽ chóng tiêu tan khi ta nhận diện và chấp nhận nó.

4. Biết quan tâm đến những cảm xúc của trẻ; các cảm xúc ấy được Đạo khuyến khích ta quan tâm ngang qua những thăng trầm của cuộc sống và nhận biết rằng ta đang trải qua giai-đoạn đó. Chính vì thế, mà mọi cảm xúc đều không xấu, không tốt. Người người nên nhận biết cho đúng cảm xúc ấy để hiểu được rằng: chúng là những ‘nhân tố’ báo cho ta biết tình trạng hiện thời của ta ra sao.

Hiểu được sinh khởi và hoại diệt của cảm xúc, ta sẽ dạy cho con cái mình biết đối diện với cảm xúc của chúng theo cách tự nhiên nhất. Đó là  bình-an trú-ngụ trong hiện tại và trải nghiệm được cảm xúc ấy cho tới khi chúng biến mất. Bậc cha mẹ không cần xen vào việc tiến-trình này để chỉnh-sửa hay chuyển-đổi cảm nhận của con cái.

5. Tin rằng con mình đủ sức tự lập

Trong đời sống hàng ngày, dĩ nhiên có mất mát và thất vọng. Các bậc phụ-huynh ngày nay thương yêu bảo bọc con em mình khỏi mặt trái của cuộc sống và đây là bản năng tất yếu, không thoát khỏi. Tuy nhiên, ta cũng thách-thức bậc phụ huynh để cho con mình tự giải quyết các vấn đề do chúng mắc phải.

Các vấn đề mà trẻ thường hay mắc phải là sự thất vọng trong sinh hoạt hằng ngày, chúng thấy khó khăn khi mang bài tập về nhà, hoặc cứ cãi vã với anh chị, bạn bè, hoặc chống-đối nội quy, công việc, v.v…. Khi con em được phép đấu tranh, chúng có xu hướng khởi-đầu giải quyết vấn đề và tập sống tự lực trước mọi khó khăn cũng như các thuận lợi của cuộc sống mà không cần cha mẹ giúp đỡ.

Đại sư Tịch Thiên từng dạy, là: ‘Đi trên đất với đôi chân trần bạn có thể bị đứt. Bạn có thể trải miếng da trên đường đi, hoặc bao bọc chân mình bằng miếng da gọi là giày dép.’

Làm cha mẹ, ta đang bọc lót các miếng da bảo vệ con cái mình, hơn là dạy chúng biết cách tự làm giày để chúng biết xoay sở trước những trở ngại và để chúng phát huy tính tự lực cánh sinh của chùng. (Theo mindbodygreen.com)

Kể thế rồi, nếu như bạn và tôi, ta vẫn chưa thấy thuyết phục cho lắm về các ý-kiến này, nay lại xin gửi đến tôi và đến bạn truyện kể mang tên “Kẻ lang thang muốn đổi chỗ cho Bụt ở Chùa, giống thánh hiền Đạo Chúa đứng ngồi như tượng thần, cũng rất thần và rất tượng như sau:

Có một kẻ lang thang, đi vào chùa, thấy Bụt ngồi trên Đài Sen nhận cúng bái của mọi người, anh ta vô cùng ngưỡng mộ. Kẻ lang thang nói với Bụt:

Tôi có thể đổi chỗ ngồi với Người một lát không?”

Bụt trả lời:

-Chỉ cần anh không mở miệng.

Kẻ lang thang ngồi lên Đài Sen. Trước mắt anh là cả một ngày hỗn loạn và ầm ĩ, người đến viếng hầu hết đều cầu điều này chuyện nọ. Anh vẫn cố chịu đựng trước sau không mở miệng. Một ngày nọ, có phú ông đến. Phú ông xin:

-Cầu Bụt ban cho con đức tính tốt.

Nói xong ông dập đầu, đứng dậy, ví tiền rớt xuống mặt đất. Kẻ lang thang vừa muốn mở miệng nhắc nhở, nhưng kịp nhớ đến điều kiện do Bụt đưa ra, nên lại thôi.

Sau khi phú ông đi, có người nghèo nọ bước vào, nói:

-Cầu Bụt cho con ít tiền. Người nhà con lâm bệnh nặng, đang rất cần tiền ạ.

Cầu xong ông dập đầu, đứng dậy, nhìn thấy một túi tiền rơi trên mặt đất. Người nghèo thốt lên câu:

-Bụt đây quả thật rất linh.

Ông cầm túi tiền cất bước ra đi. Kẻ lang thang muốn mở miệng nói không phải linh với hiển gì đâu, mà chỉ là đồ người ta đánh rơi, nhưng anh nhớ đến điều kiện do Bụt đưa ra, nên lại thôi. Lúc này, lại có ngư-dân bước vào. Ngư dân cầu xin cùng Bụt như sau:

-Cầu Bụt ban cho con bình an, ra biển không gặp sóng gió.

Đoạn dập đầu, đứng dậy, ông vừa muốn đi, lại bị phú ông túm chặt áo đòi lại túi tiền. Chỉ vì túi tiền, mà hai người đánh nhau túi bụi. Phú ông cho rằng ngư-dân này đã lấy túi tiền của ông, còn ngư-dân lại thấy oan-ức không chịu nổi. Kẻ lang thang, ngồi trên nhìn xuống không thể nhịn được nữa, anh liền hô to:

-Dừng tay! Nói thế rồi, anh đem hết câu truyện kể lại cho hai người hiểu. Nhờ thế, hai người này không còn tranh chấp, cãi vã hoặc đánh nhau nữa, nên đã yên.

Lúc ấy Bụt bèn nói:

-Ngươi thấy làm như thế có được không? Hãy tiếp tục làm kẻ lang thang đi mà sống đúng chức-năng của mình! Ngươi mở miệng, tự cho mình là công bằng, nhưng người nghèo vì vậy mà không có tiền chữa-trị người thân; người giàu không có cơ-hội tu-thân tạo đức hạnh; ngư-dân ra biển gặp sóng gió chôn thân dưới đáy biển. Nếu ngươi không mở miệng, mạng sống người nhà của kẻ nghèo sẽ được cứu; người giàu có tốn chút tiền thật đấy, nhưng lại giúp được người khác hầu tích đức; ngư dân cũng vì dây dưa không cách nào lên thuyền, tránh được mưa gió, bão bùng có thể còn sống sót.”

Kẻ lang thang im lặng bước ra khỏi chùa chiền, suy-nghĩ rất nhiều. Nghĩ rằng: nhiều sự việc trong đời, nó có thế nào vẫn là như thế. Cứ để nó tiến-triển theo luật tự nhiên, kết quả sẽ tốt hơn. Khi đối mặt với sự việc, ai biết được kết quả đem lại cho mình và cho người, chứ? Cứ yên-lặng theo dõi mọi diễn biến, đó chính là năng-lực có thực! Thuận theo luật tự nhiên, lại cũng là một loại hạnh phúc, ở trên đời! (truyện kể do Minh Quân dịch)

Truyện kể hay những đoạn trích-dẫn ở trên, vẫn dẫn đưa bạn và tôi trở về tình-huống có lời ca tiếng hát vẫn nhắc nhở mọi người, bằng ca-từ đầy ý-tứ như sau:

Ngày tôi đi vàng nắng

Nghiêng nghiêng một hàng cau

Mai ta nhìn mây trắng

Gửi lời về thương nhau

Chiều nay buồn viễn xứ

Nhớ người em gái xưa

Tôi thấy phương trời cũ

Giăng giăng một hàng mưa.”

(Nguyễn Hiền/Thiệu Giang – bđd)

Hát thế rồi, tôi và bạn lại cứ hiên ngang đầu cao mắt sáng cứ tiến thẳng về phía trước, không sợ đớn đau, sầu buồn hoặc trở ngại ở đâu đó, dù rất khó.

Hát thế rồi, nay xin bạn và tôi, ta lại sẽ triển-khai những gì học được từ đấng bậc rất hiền lành, ở trong Đạo hoặc ngoài đời, rất thức thời.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những quyết tâm

Sẽ học mãi hết mọi người

Cả trong Đạo lẫn ngoài đời

Thì hai đứa còn đâu cơ hội nữa,

“Thì hai đứa còn đâu cơ hội nữa,”

“Tình đã đến trong những ngày nhuộm đỏ,

trong những ngày Thượng đế phải ra đi,

Trong những ngày giá-trị của lương-tri,

được thẩm-định bằng tín-điều duy vật!”.

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mai Tá, lược dịch

Với nhà thơ, thoì như thế. Như những gì người đời vẫn nghĩ suy. Với nhà Đạo qua Tin Mừng thánh Gioan, thì lại khác. Trình-thuật nay vẫn kể dân con đồ đệ nghe Chúa nói chuyện và dẫn-giải , thường có thái độ rối như tơ lòng, nhiều giây nhợ.

Thật tình, họ ít khi hiểu rõ được ý nghĩa thâm sâu, Lời Chúa nói. Thái độ của họ, giống như cặp tình nhân nọ, đã ghé thăm vùng đầy tuyết ở Seattle, trong hai tuần. Để tỏ bày sự thân tình trìu mến, họ gọi nhau bằng vợ bằng chồng, thật gần gũi. Họ còn lên kế hoạch men theo Nam tuyến, đi xuống phía Florida, để có thêm chút ánh sáng mặt trời. Người chồng, ngưng mọi công việc từ ngày hôm trước, đã trực chỉ về hướng biển bờ Miami, nơi đó sẽ gặp vợ, ngày hôm sau.

Cả hai người, đều trông mong sẽ có được thời gian ở bên nhau, thật hấp dẫn để vui hưởng ánh nắng mặt trời, chói sáng. Nhưng không may, có một chuyện ngoài ý muốn xảy đến ngay ở cửa lên tầu, người chồng được bảo: có lẽ anh phải chờ qua đêm, vì món rượu mạnh đặc biệt.

Anh tìm cách khiếu nại lên vị thủ trưởng ở đó, nhưng vô hiệu. Vừa kịp đến khách sạn, vào hôm sau, anh bèn khám phá ra rằng Biển Miami vừa xảy ra cơn sóng mang giòng nước nóng, và thời tiết hôm ấy lên cao đến độ không thể chịu đựng được, ngược hẳn thời tiết quá lạnh, ở Seattle. người tiếp tân ở quầy cho hay, vợ anh sẽ kịp đến, như dự định.

Anh nóng lòng chờ đợi đến mức độ phải chay bay biến xuống khu vực hồ bơi, để lấy lại hơi mát cần có, và vội vàng anh gửi cho vợ, một điện thư. Thư diện của anh lại được chuyển đến nhà phu nhân của vị giảng thuyết có người chồng già vừa qua đời, chỉ một ngày trước đó. Khi vị phu nhân mở điện thư ra đọc, thoáng chốc bà nhìn vào màn hình nhỏ, bất chợt kêu lên một tiếng thất thanh, rồi gục đầu tắt thở, ngay tại chỗ.

Gia đình chạy vội vào phòng xem cớ sự, tức thì bắt gặp bức điện thư ngắn gọn từng chữ, mồn một ghi rõ trên màn hình, những giòng chảy:

“Gửi người vợ thân yêu nhất của anh, ra đi hôm qua như em biết đấy, vừa kịp đến mới xong phần khám xét. Đôi chút hiểu lầm ở ngang cửa. Khiếu nại bị bác bỏ. Vừa được xác nhận em sẽ đến đây vào ngày mai. Chồng yêu quý của em. Chú thích: Mọi sự không như chúng mình nghĩ. Em sẽ rất đỗi ngạc nhiên về sức nóng, ở dưới này.”

Theo sau việc phát thức ăn cho hơn 5000 người, dân chúng cứ tưởng rằng: khi Chúa nói Ngài là Bánh Sự Sống, tức là Ngài có ý nói đến nguồn cung cấp thức ăn cho buổi hôm sau. Nếu việc này quả đúng là sự thật, thì có lẽ phải ghi trên vòng quay số, đôi ba giòng chữ có nghĩa tương tự như khi người diễn trò sử dụng từ ngữ “quán cà phê Công Giáo”

Tuy thế, Đức giêsu chỉ muốn dẫn người nghe đến sự thể chính Ngài làm cho mọi người dịu mọi cơn đói. Vì khi ấy, ta sẽ chẳng bao giờ còn đói hoặc khát, nữa.

Đói, là chuyện rất quan trọng. Nó đòi ta phải thường xuyên chú ý đến. Đói thể xác, cho thấy ta cần được nuôi dưỡng. Ta cần có nước trong người. Cần luyện tập và ngủ nghỉ. Ta từng học cách thức đọc ra được các dấu hiệu của thể xác. Nếu cứ tảng lờ, ta sẽ chết. Ta cũng có cơn đói cảm xúc. Vào lúc đó, ta cần được yêu thương. Chấp nhận. Có đôi tai biết lắng nghe. Nếu cứ giả lơ giả tảng những dấu hiệu này, tâm thần ta sẽ trở nên tệ hại hơn. Và, chất lượng cuộc sống nơi ta, sẽ mai một.

Tuy là thế, Đức giêsu cũng cảnh giác ta về cơn đói thần thiêng. Đây chính là nhu cầu ta cần có đối với Ngài. Cần có mục tiêu  và ý nghĩa. Cần cho niềm tin. Cho Tình yêu. Hy vọng. Nếu cứ tảng lờ cơn đói này, ta sẽ để luột mất tầm nhìn về nơi ta xuất phát. Về lý do, tại sao ta hiện diện ở đây. Và về điểm đích, ta đi tới.

Chương 6 Tin Mừng thánh Gioan tiếp tục được diễn nghĩa, qua đó cho thấy Đức Giêsu càng diễn tả thật rõ nét hơn, về vai trò Ngài đến. Ngài đến, để làm cho người được no đầy. Kẻ khát, có đủ nước uống.

Và khi Ngài gỡ rối bòng bong cho dân chúng, họ lại cảm thấy như bị chạm nọc. Đức Giêsu, là Bánh Sự Sống. Ngài quan tâm nhiều đến chúng ta. Quan tâm trong việc giải những cơn đói lòng thể xác, xúc cảm và thần thiêng của ta, ở thế gian này. Giải cơn đói, theo cung cách thoáng nhìn thấy sự sống sẽ đến nơi Ngài. Ở sự sống ấy, mọi kẻ đói khát sẽ được tràn đầy, không thèm muốn.

Cầu mong sao Tiệc Thánh này chuẩn bị chúng ta cho ngày giờ khi việc ta ra đi khỏi thế giới gian trần sẽ trờ tới.

Cầu mong sao khi ấy, sẽ không có chuyện chộn rộn nơi cửa ngõ. Lúc đó, chẳng cần gì phải khiếu nại.

Cầu mong sao, ta được hiệp thông nối kết với những người mà ta hằng yêu mến. Để ta được sưởi ấm nơi tình thương yêu của Chúa. Để Ngài chỉ định chỗ ngồi nơi Bàn tiệc Vĩnh cửu, Ngài dọn cho ta. Bởi, nơi Tiệc ấy, không còn người đói kẻ khát, về mọi thứ.

Cảm-nghiệm điều ghi đậm nét như thế, ta ngâm tiếp lời thơ đời trắng trợn nhiều tình tiết, như:

“Có những điều ta muôn hôn em, rồi khóc,

Mùa bình-an nào chờ-đợi uyên-ương?”

(Nguyễn Tất Nhiên – Uyên Ương)

Uyên ương tình người, nhiều lúc cũng hơi khác. Khác, cả vào khi ta được dẫn-giải rất nhiều lần. Tình nhà Đạo, còn khác nhiều lời thơ đời. Khác, cả hình-thức lẫn nội-dung như nhiều người vẫn cảm-nghiệm trong đau thương, sầu buồn. Nhưng vẫn một lòng tìm đến với Đức Chúa để Ngài dẫn-giải ý-nghĩa của mọi sự-kiện diễn ra ở đời. Với con người.

Lm Richard Leonard sj biên soạn –

Mai Tá, lược dịch

Tin Mừng (Ga 6: 14-25)

Vậy khi dân chúng thấy Đức Giê-su cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Caphácnaum tìm Người. Khi gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.” Họ liền hỏi Người: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến.” Họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: “Người đã cho họ ăn bánh bởi trời.”

Đức Giêsu đáp:”Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian.” Họ liền nói:“Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.” Đức Giêsu bảo họ:”Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”

MUA ĐÂU RA BÁNH CHO NHỮNG NGƯỜI NÀY ĂN

MUA ĐÂU RA BÁNH CHO NHỮNG NGƯỜI NÀY ĂN

Một toán du khách đi thăm dấu vết của trại Đa-sô (Dachau), một trại giam nổi tiếng của phát xít Đức thời Hitler.  Người hướng dẫn khách du lịch hôm đó là một cựu tù nhân của Đa-sô xưa, ông đã bị nhốt lâu năm và may mắn thoát chết.  Hôm đó là Chúa nhật, nhiều toán khách du lịch đến thăm di tích lịch sử này.  Khắp nơi vương vãi những rác rưởi lẫn với đồ ăn thức uống.  Gặp một mẩu bánh mì nằm bên lề đường, người hướng dẫn toán du lịch nhào tới lượm lên, ông nói giọng run run: “Một mẩu bánh mì!  Tôi không thể chịu được khi thấy một mẩu bánh mì bị bỏ phí.  Mấy năm thoi thóp trong tù, đối với tôi mẩu bánh mì đồng nghĩa với sự sống.  Nó là ranh giới giữa sống và chết”.

Trong các bản năng Chúa trao ban cho con người, có lẽ bản năng sinh tồn là tha thiết nhất.  Bất cứ ai đã có lần bị xâu xé trong cơn đói thì sẽ ghi nhớ suốt đời.  Chắc Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm trong bốn mươi ngày đêm ăn chay nơi sa mạc, nên người rất cảm thương những người bị đói.  Đám dân lũ lượt đi theo Chúa vào sa mạc, có những người vì tin tưởng muốn nghe lời Chúa, nhưng cũng có người chỉ vì tò mò, vui chân theo bạn bè, họ cứ đi mà không nghĩ đến ăn uống.  Giờ này, Chúa biết họ đói bụng, và Chúa nghĩ phải kiếm gì cho họ ăn.  Và có lẽ qua niềm cảm thông với tình cảnh đói khát của con người như vậy, Chúa đã nghĩ tới việc lập Bí Tích Thánh Thể.  Qua Bí Tích này, Chúa ở lại gần gũi với nhân loại hơn.  Đồng thời cũng là để thỏa mãn phần nào sự đói khát tâm linh của tín hữu.  Từ lương thực no đủ cho thân xác, con người nghĩ về Chúa như một nhu cầu thiết yếu của linh hồn mình.  Chúa đã mở rộng cõi lòng và cái nhìn của ta để ta dễ tiếp nhận mầu nhiệm Thánh Thể bằng một phép lạ vĩ đại: Bánh hóa nhiều.  Chúa làm cho 5 ổ bánh hóa nhiều để nuôi 5 ngàn người, cốt cho chúng ta nhớ tới Chúa là bánh thật, bánh trường sinh, là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta.  Sự đói khát Chúa khó cảm thấy, nhưng cũng gây mệt mỏi cho con người như đói cơm bánh vậy.

Tại sao Chúa phải hỏi Philipphê về việc mua bánh?  Ngài có thể phán một lời là có ngay nhiều bánh nhiều cá.  Tuy nhiên Chúa muốn thực hiện một phép lạ với sự cộng tác của Tông đồ và thiện chí của một em bé.  Đó cũng là một qui luật tự nhiên mà Chúa hằng tôn trọng: do lòng tin mà có phép lạ.  Chúng ta còn nhớ phép lạ trong tiệc cưới Cana.  Chúa có thể từ không mà làm ra rượu, nhưng Chúa đã đợi người ta đổ nước lã đầy các chum.  Những người giúp việc đang mệt mỏi mà phải đi múc nước từ giếng sâu, cũng là một cố gắng, có thể nói được là một hành động biểu lộ đức tin.

Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa đã ban lời Chúa và Thánh Thể làm lương thực nuôi sống linh hồn chúng con.  Xin giúp chúng con hiểu và tin những mầu nhiệm Chúa muốn mạc khải cho chúng con.  Chúng con xin tạ ơn Ngài.

Noel Quesson

HÃY CHO HỌ ĂN

HÃY CHO HỌ ĂN

AM. TRẦN BÌNH AN

Trích EPHATA 651

Vào một đêm nọ, có một người đàn ông đến nhà chúng tôi và nói: “Có một gia đình với tám đứa con. Họ đã chẳng có gì ăn suốt mấy ngày nay.” Tôi đem theo môt ít thức ăn và ra đi. Khi tôi đến gia đình đó, tôi thấy khuôn mặt của những đứa bé méo xệch đi vì đói. Không có một nỗi buồn đau nào trên những gương mặt ấy, chỉ có vết hằn sâu của sự đói khát. Tôi đưa gạo cho người mẹ. Bà chia túi gạo ra làm hai, rồi đi ra ngoài, mang theo một nửa. Khi trở lại, tôi hỏi: “Chị đi đâu vậy ?” Bà bình thản trả lời: “Sang những người hàng xóm của tôi, họ cũng đang đói !” Tôi không ngạc nhiên vì bà đã san sẻ số gạo ấy, vì quả thực những người nghèo rất hào phóng. Tôi chỉ ngạc nhiên là bà ấy biết họ đang đói. Vì một lẽ tự nhiên, khi chúng ta chịu đựng một nỗi thống khổ nào đó, chúng ta có xu hướng quá tập trung vào bản thân mình, đến nỗi chẳng có thời gian cho người khác.

Cách đây một thời gian, tôi đã có một chuyến đi đến Ethiopia. Các chị em chúng tôi đã làm việc ở đó suốt mùa hạn kinh khủng năm ấy. Khi sắp rời đi, tôi nhận thấy có rất nhiều trẻ em vây quanh mình. Mỗi em đều cầm trên tay một thứ gì đó, nói: “Hãy đem thứ này về cho các em ! Hãy đem thứ này về cho các em !” Chúng có nhiều món quà muốn gửi đến người nghèo của chúng tôi. Rồi một đứa bé, vốn dĩ lần đầu tiên trong đời có được một thỏi sôcôla, đã đến bên tôi nói: “Con không muốn ăn nó, Mẹ hãy đem nó về cho các bạn.” Đứa bé ấy đã cho thật nhiều, vì miếng kẹo ấy là tất cả những gì quý giá mà em có.

Một bữa nọ, tôi nhận được mười lăm đôla từ tay một người đàn ông đã bị bại liệt trong hai mươi năm. Căn bệnh quái ác đã khiến ông chỉ còn dùng được tay phải của mình. Bầu bạn duy nhất của ông là thuốc lá. Ông nói với tôi: “Tôi đã ngưng hút thuốc lá một tuần nay. Tôi gửi cho Mẹ số tiền mà tôi tiết kiệm được nhờ không mua thuốc.” Đó hẳn phải là một hy sinh vô bờ bến của ông ta. Tôi mua bánh mì bằng tiền của ông, đem cho những người đang đói. Thế là cả người cho và người nhận đều có được niềm vui.

Trao tặng là chia sẻ. Tôi không muốn bạn cho tôi thứ mà bạn đã bỏ đi, mà cho đi thứ bạn muốn, thứ bạn cần. Tôi muốn bạn cho đi bản thân mình. Tình yêu mà bạn đặt vào sự ban tặng là điều quan trọng nhất. Cơ hội chia sẻ tình yêu của chúng ta với người khác chính là một món quà của Chúa. ( Bích Nga, Ngọc Sáu, Hoa Phượng, Mẹ Têrêsa, Trên Cả Tình Yêu ).

Tin Mừng theo Thánh Gioan hôm nay thuật lại Đức Giêsu làm phép lạ năm chiếc bánh và hai con cá cho năm ngàn người đàn ông ăn no dư thừa, chưa kể phụ nữ và trẻ em, còn dư mười hai thúng. Đôi bờ đói no của nhân loại hôm nay vẫn còn xa cách vời vợi hơn bao giờ. Nên năm chiếc bánh và hai con cá của cậu bé dâng hiến hẳn âm thầm gửi đến Kitô hữu nhiều thông điệp sâu xa thấm thía.

Chiếc bánh thứ nhất: Yêu thương

Vừa gặp lại các Tông Đồ trở về sau một hành trình Đi Gieo, Đức Giêsu vui mừng thân thương nhắc nhở các ông vào nơi thanh vắng nghỉ ngơi. Nhưng thấy đám người đông lũ lượt tìm đến, thì Người chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” ( Mc 6, 34 ). Tình yêu tha nhân, lòng thương xót của Đức Giêsu, vô cùng mãnh liệt, ưu tiên trổi vượt, lấn át và vô hiệu hóa những chương trình, dự tính, ý muốn riêng tư của ngay chính Người.

Chiếc bánh thứ hai: Trách nhiệm

Đức Giêsu hăng say giảng dạy dân chúng cho đến nhá nhem tối mới tạm ngừng. Người hỏi Philipphê: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn ?” Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm” ( Ga 6, 5 ). Thánh Maccô ghi lại chi tiết khá minh bạch: Vì bấy giờ đã khá muộn, các môn đệ đến gần Người và thưa: “Xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm, làng mạc chung quanh mà mua gì ăn.” Người đáp: “Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi” ( Mc 6, 35-37 ).

Tuy câu nói của Đức Giêsu qua hai Thánh ghi chép Tin Mừng có khác nhau về hình thức, nhưng cùng chung một ý tưởng. Đó là thay vì để các môn đệ tránh né bổn phận chăm sóc cộng đoàn, thì Đức Giêsu trao trách nhiệm chính thức cho các ông phải quan tâm giải quyết những nhu cầu chính đáng, cấp bách của cộng đoàn, không thể vịn cớ gì lạnh lùng lảng tránh, từ chối.

Chiếc bánh thứ ba: Quảng đại

“Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người” ( Ga 6, 9 ). Đây là điều Đức Giêsu đang trông chờ ngay từ đầu vụ việc. Tuy Chúa quyền năng vô song, tác tạo và biến hóa mọi sự, nhưng Chúa luôn đòi hỏi, cần có sự đồng điệu, hợp tác, dâng hiến của con người, vì Người tôn trọng sự tự do, không ép buộc bất cứ ai.

Cậu bé rộng rãi, quảng đại, nhân ái, đã không ích kỷ giữ bánh và cá cho riêng mình, mà với cả tấm lòng thành, hoàn toàn dâng hiến tất cả, chia sẻ, cho đi mọi sự cho Chúa. Người luôn chờ đợi một tấm lòng hiến dâng trọn vẹn như thế. “Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ. Ta muốn sự hiểu biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn thiêu” ( Hs 6, 6 ). Chính Đức Giêsu cũng tái xác nhận: “Ta muốn lòng nhân, chứ đâu cần lễ tế” ( Mt 9, 13 ).

“Kitô giáo là cho đi”. Chúng ta phải cho đi, dù phải đến mức đau đớn nhất. Để trở thành một tình yêu thương thật, thì tình yêu thương phải có cái giá của nó. Đối với Chúa Giêsu, cái giá đó là tình yêu chúng ta. Ngay cả Thiên Chúa cũng có cái giá của tình yêu: Ngài đã trao ban con một Ngài cho chúng ta” ( Mẹ Têrêsa Calcutta ).

Chiếc bánh thứ tư: Nhân hậu

“Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích” ( Ga 6, 11 ). Từ năm chiếc bánh và hai con cá dâng hiến của cậu bé, Đức Giêsu đã biến ra nhiều cho cả vạn người ăn dư thừa. Sự cho đi dẫu nhỏ bé, chẳng đáng kể, lại được tình yêu hồi đáp bằng đại lượng kỳ diệu. Lòng nhân hậu của Chúa khôn lường vô cùng. Người tiếp tục chạnh lòng thương dân chúng đói khát, làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều thêm lần thứ hai ( x. Mc 8, 1-10 ). Bởi vì “Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương, Người không nỡ với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta” ( Tv 103, 8-10 ).

Đức Giêsu giảng dạy và hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng hôm nay, là dấu chỉ Người sẽ còn tận tình chiêu đãi dân chúng bữa tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể sau này. Các Tông Đồ sau khi tham dự sứ mạng rao giảng, cũng được Đức Giêsu trao phó công việc chăm sóc và nuôi dưỡng đoàn chiên.

Chiếc bánh thứ năm: Công bình

“Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích.” Không phân biệt nam nữ, già trẻ, giầu nghèo, chức tước, địa vị, Đức Giêsu phân phát bánh và cá tùy theo nhu cầu mỗi người. Hết thảy đều no đầy phúc đức. Hồng ân Thiên Chúa luôn phổ quát, công bình và phong phú cho mọi người, như hạt giống gieo vãi, như mưa sa, nắng ấm. Bởi vì “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” ( Mt 5, 45 ).

Con cá thứ nhất: Thanh bần

Trong tinh thần nghẻo khó, thanh bần, Đức Giêsu không muốn hoang phí bỏ đi bánh và cá dư thừa, vì còn bao kẻ đói khát đang còn mong chờ được trao tặng lương thực. “Khi họ đã ăn no nê, Người bảo các môn đệ: “Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi”. Họ thu lại được mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư.” Tần tiện, tiết kiệm để chia sẻ với người cơ nhỡ, cũng như trân trọng dành dụm của ngọc thực để tích cốc phòng cơ, đó chính là một khía cạnh của đức thanh bần.

“Đừng rộng rãi với của người ta, đừng keo kiệt với của riêng con, đừng phung phí với của công cộng” ( Đường Hy Vọng, số 412 ).

Con cá thứ hai: Thiên ​Quốc

“Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: “Thật ông này là Đấng tiên tri phải đến trong thế gian”. Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình” ( Ga 6, 15 ). Hưởng phúc lợi tràn trề, được chữa bệnh, được cho ăn no nê, dân chúng hăm hở muốn tôn vinh Đức Giêsu làm hoàng đế, vì thấy Người đúng là Đấng Messia mà họ hằng mong đợi, sẽ giải thoát dân Do Thái khỏi ách đô hộ của Rôma. Đó cũng là cơn cám dỗ thứ ba của Đức Giêsu trong hoang mạc, quyền lực thế gian.

Lúc này, Đức Giêsu nhìn thấy rõ tà tâm trong lòng dân chúng háo lợi, thực dụng, chỉ muốn người lãnh đạo cung phụng cho họ, theo ý muốn thấp hèn của họ mà thôi. “Các ông đi tìm tôi, không phải vì các ông đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” ( Ga 6, 26 ). Trong khi Nước Chúa đâu lệ thuộc vào thế gian phù phiếm, mau biến đổi và hư nát. Bơi chưng, “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc Trong Thánh Thần” ( Rm 14, 17 ).

“Với năm cái bánh và hai con cá của em bé, Chúa đã làm phép lạ nuôi năm ngàn người. Chúa vẫn toàn năng, nhưng Chúa yêu thương thiện chí của con” ( Đường Hy Vọng, số 824 ).

Lạy Chúa Giêsu, chúng con thường thiếu lòng quảng đại, không dám cho đi những gì chúng con đang có, chỉ vì sợ mất mát, thua thiệt, chì vì thiếu Tình Yêu, thiếu niềm tin và thiếu lòng cậy trông vào Chúa Quan Phòng. Xin Chúa mở lòng trí chúng con, thấu hiểu ý nghĩa cao trọng của phép lạ hóa bánh ra nhiều, để chúng con sẵn sàng cho đi mọi sự, kể cả bản thân, với tình yêu tha thiết chân tình, như cậu bé dâng hiến tất cả bánh và cá cho Chúa dưỡng nuôi tha nhân.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã dâng hiến trọn đời cho Chúa, xin cầu bầu, dạy bảo, hướng dẫn chúng con noi theo Mẹ, hiến dâng lên Chúa tất cả mọi sự, từ thân xác, tâm hồn đến linh hồn, để có thể phục vụ hữu ích cho tha nhân. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

THÁNH GIACÔBÊ TÔNG ĐỒ

THÁNH GIACÔBÊ TÔNG ĐỒ

Thánh Giacôbê, quê quán tại Bethsaida, là con ông Giêbêđê và là anh em với thánh Gioan.  Ngài là một trong ba Tông đồ, ngoài những biến cố quan trọng trong cuộc đời công khai của Chúa, còn được phúc chứng kiến sự kiện biến hình trên núi Tabor và thảm cảnh trong vườn Cây Dầu.  Lòng nhiệt thành của hai anh em đã khiến Chúa đặt cho cái tên là ‘Con Sấm Sét’.

Thánh Giacôbê đã tiến hành công cuộc tông đồ tại Giuđêa và Samaria.  Theo truyền tụng, thánh nhân đã đến rao giảng Phúc Âm tại Tây Ban Nha.  Khi trở lại Palestine vào năm 44, ngài đã trở thành vị Tông Đồ đầu tiên được phúc tử vì đạo dưới thời vua Hêrôđê Agrippa.  Thi hài thánh nhân được cải về Santiago de Compostela bên Tây Ban Nha, và nơi đây đã trở thành một trong những nơi hành hương nổi tiếng thời Trung Cổ, và là một đền thánh đức tin cho toàn thể Châu Âu.

Uống chén của Chúa

Khi đang đi dọc theo bờ biển Galilê, Chúa Giêsu nhìn thấy Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, đang vá lưới, Người đã gọi họ, và đặt cho tên là Boannerges, nghĩa là “con của sấm sét”.

Mọi sự bắt đầu khi một số ngư phủ trên biển hồ Tibêria được Chúa Giêsu thành Nagiarét mời gọi theo Người.  Họ đã đáp lời mời gọi của Chúa Giêsu, đi theo, và sống với Người gần ba năm trời. Họ đã chia sẻ đời sống thường nhật của Chúa Giêsu, làm chứng nhân cho những lời cầu nguyện, cũng như lòng nhân lành và quyền năng của Người dành cho các tội nhân và những người đau khổ.  Họ chăm chú lắng nghe lời Chúa, những lời họ chưa từng bao giờ được nghe.

Suốt ba năm chung sống với Chúa, các Tông Đồ cảm nghiệm một thực tại rồi ra sẽ chiếm đoạt họ mãi mãi, đó là cuộc sống với Chúa Giêsu.  Đó là một kinh nghiệm phá vỡ nếp sống trước kia của họ; họ phải từ bỏ mọi sự – gia đình, nghề nghiệp, và tài sản của họ – để đi theo Người.  Tóm lại, họ đã được dẫn vào một con đường sống hoàn toàn mới mẻ.

Một ngày nọ, Chúa Giêsu mời gọi Giacôbê đi theo Người.  Giacôbê là anh của Gioan, và là con của bà Salômê, một phụ nữ đã dùng tài sản để giúp Chúa Giêsu và sau cùng cũng có mặt trên núi Canvê.  Giacôbê đã biết Chúa Giêsu trước khi được Chúa gọi.  Cùng với Phêrô và em trai mình, Giacôbê được Chúa Giêsu yêu thương cách riêng.  Ngài là một trong ba vị được chứng kiến biến cố Biến Hình trên núi Tabor.  Ngài cũng có mặt khi Chúa cho con gái ông Giairô sống lại, và là một trong ba Tông Đồ cùng đi với Chúa Giêsu vào vườn Cây Dầu lúc khởi đầu cuộc Thương khó.

Phúc Âm ngày lễ thánh Giacôbê kể cho chúng ta một biến cố lạ lùng trong đời Ngài.  Chúa Giêsu loan báo về cuộc Khổ nạn và cái chết sắp đến của Người: “Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp vào tay các trưởng tế và ký lục, họ sẽ kết án tử và giao nộp Người cho dân ngoại chế nhạo, chúng sẽ đánh đòn và đóng đinh Người vào thập giá.  Nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. Chúa cảm thấy cần chia sẻ những tâm tình sâu lắng nhất đang chất chứa trong lòng cho các môn đệ. Khi ấy, bà mẹ của các con ông Giêbêđê cùng với hai con đến gặp Chúa Giêsu, và bà bái lạy và kêu xin Người một điều: Bà xin Chúa dành cho các con của bà hai chỗ ưu tiên trong nước vinh quang của Người sắp đến.  Chúa Giêsu quay sang hai anh em và hỏi họ có thể chia sẻ số phận với Người không. Chúa đề nghị họ hãy uống chung chén của Người.  Thời xưa, việc trao chén mình cho ai uống là một dấu chỉ của tình thân hữu.  Các vị liền đáp: “Thưa được!”  Những lời ấy nói lên một tấm lòng thuần thục và quảng đại.  Những lời ấy phản ánh thái độ của mọi người trẻ và của mọi tín hữu thành tâm, nhất là của những ai sẵn sàng làm tông đồ để loan báo Tin Mừng.  Chúa Giêsu đã chấp nhận lời đáp quảng đại ấy và phán bảo: ‘Chén của Ta, các con cũng sẽ uống”, các con sẽ chia sẻ những đau khổ của Ta, các con sẽ hoàn tất cuộc Khổ nạn của Ta nơi thân xác các con.  Không bao lâu sau đó, vào năm 44, Giacôbê đã bị xử trảm tử vì đạo.  Còn Gioan đã chịu bách hại đủ kiểu trong cuộc đời trường thọ của Ngài.

Kể từ khi Chúa Kitô cứu chuộc chúng ta trên thập giá, tất cả đau khổ của các tín hữu là cùng uống chén của Chúa Kitô qua việc chia sẻ cuộc Thương khó, Tử nạn, và Phục sinh của Người.  Nhờ đau khổ, một cách nào đó, chúng ta hoàn tất cuộc Khổ nạn của Chúa, và kéo dài trong thời gian với những hoa trái của công cuộc ấy.  Những đau khổ nhân loại chỉ mang ý nghĩa cứu độ khi được liên kết mật thiết với sự khổ nhục Chúa Giêsu đã chịu.  Với lòng nhân lành, Chúa đã cho chúng ta chia sẻ chén đắng của Người.  Trước những khó khăn, bệnh tật hoặc đau khổ của chúng ta, Chúa Giêsu cũng nêu lên một câu hỏi: “Con có thể uống chén của Ta không?”  Nếu hợp nhất với Chúa, chúng ta sẽ tích cực đáp lại và chịu đựng tất cả những gian khổ về phương diện nhân loại vì danh Người.  Trong sự hợp nhất với Chúa Kitô, ngay cả những đau đớn và thất bại của chúng ta cũng sẽ biến thành niềm vui và bình an.  Cuộc cách mạng vĩ đại của Kitô giáo chính là việc đã biến đau khổ thành đau khổ hiệu quả, biến một điều xấu thành một điều tốt.  Chúng ta đã tước thứ vũ khí này của ma quỉ, và với thứ vũ khí này, chúng ta có thể đạt được sự sống vĩnh cửu.

Đừng chán nản trước những khuyết điểm bản thân – Hãy tìm sức mạnh nơi Chúa

Từ lúc Giacôbê bày tỏ những tham vọng không được cao thượng của Ngài cho đến khi được chịu tử vì đạo là một cuộc biến chuyển nội tâm lâu dài.  Sự nhiệt thành của Ngài trước kia chống lại những người Samaria không muốn tiếp đón Chúa Giêsu – dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giêrusalem – nhưng về sau đã biến nên lòng nhiệt thành vì các linh hồn.  Từng bước một, tuy không làm mất cá tính hăng hái, nhưng Giacôbê biết rằng nhiệt tâm vì quyền lợi Thiên Chúa không thể dính dáng đến bạo lực hoặc chua chát. Chỉ có vinh quang Thiên Chúa là khát vọng duy nhất xứng đáng mà thôi.  Thánh Clêmentê thành Alexandria kể lại khi vị tông đồ nước Tây Ban Nha được điệu ra trước tòa xử, thần thái của ngài liêm chính đến độ kẻ tố cáo ngài sau đó đã đến xin ngài tha lỗi.  Thánh Giacôbê suy tư… và sau đó ôm hôn kẻ tố cáo mình, và nói: “Anh hãy bình an”.  Hai người sau đó cùng được lãnh nhận triều thiên tử đạo.

Khi suy niệm về cuộc đời thánh Giacôbê tông đồ, chúng ta được lợi rất nhiều khi nhìn thấy những khuyết điểm của Thánh nhân cũng như của các Tông đồ khác.  Các Ngài không can trường, không khôn ngoan, mà cũng chẳng đơn sơ.  Chúng ta thấy các ngài đôi khi rất ham hố, hay tranh cãi, và thiếu đức tin.  Tuy nhiên, thánh Giacôbê là vị Tông đồ đầu tiên được tử đạo.  Như thế, hiển nhiên là sự phù trợ của Thiên Chúa cũng có thể thực hiện những phép lạ nơi chúng ta.  Ngày nay trên thiên quốc, thánh Giacôbê ắt phải tri ân Thiên Chúa rất nhiều vì đã hướng dẫn ngài trên con đường khác với con đường ngài đã mơ tưởng trước đó.  Thiên Chúa là Đấng tốt lành, vô cùng khôn ngoan, và đầy yêu thương vượt quá trí tưởng của chúng ta.  Trong nhiều trường hợp, Người không ban cho chúng ta những điều chúng ta xin, nhưng đó lại là điều thích hợp và lợi ích nhất cho chúng ta.

Theo các trình thuật Phúc Âm, như các Tông đồ, Giacôbê cũng có những khuyết điểm rõ ràng và không thể chối cãi.  Tuy nhiên, bên cạnh những khiếm khuyết ấy, thánh nhân cũng có một tâm hồn và một con tim vĩ đại.  Chúa Giêsu lúc nào cũng nhẫn nại với Ngài cũng như với các Tông đồ khác. Thầy Chí Thánh cho các ngài thời gian để hấp thụ những bài học mà Người đã dùng sự khôn ngoan và tình thương để truyền dạy cho họ.  Thánh Gioan Kim khẩu viết: “Chúng ta hãy xét Chúa đặt câu hỏi tương tự như một lời mời gọi và một lời kích lệ như thế nào.  Chúa không nói: ‘Ngươi có thể chịu thất bại được không? Ngươi có dám chịu đổ máu không?’ nhưng Chúa lại hỏi: ‘Ngươi có thể uống…’ Để khích lệ họ, Chúa còn thêm: ‘… chén Ta sẽ uống hay không?’  Tưởng nghĩ đến việc uống chính chén của Chúa đã đưa các Tông đồ đến sự đáp ứng quảng đại hơn.  Chúa Giêsu gọi cuộc Khổ nạn của Người là ‘phép rửa’ để nhấn mạnh những đau khổ của Người sẽ là nguyên nhân cho cuộc thanh tẩy toàn thế giới.”

Chúa cũng đang mời gọi chúng ta.  Ước chi chúng ta đừng đầu hàng sự chán nản khi những khuyết điểm và yếu đuối của chúng ta trở nên rõ rệt.  Nếu chúng ta đến với Chúa Giêsu để xin phù giúp, Người sẽ ban cho chúng ta ơn can đảm để tiếp tục trung thành dấn bước, bởi vì Chúa luôn nhẫn nại và cho chúng ta thời giờ cần thiết để cải thiện.

Sưu tầm

Hạnh Phúc Thay Ai Kính Sợ THIÊN CHÚA, Ăn Ở Theo Đường Lối Ngài

Hạnh Phúc Thay Ai Kính Sợ THIÊN CHÚA, Ăn Ở Theo Đường Lối Ngài

Ngay từ thơ bé tôi được song thân giáo dục phải luôn luôn chú ý đến tha nhân, đặc biệt người nghèo

Bà Anna Maria Rizzante làm việc tông đồ với tư cách thừa sai giáo dân tại Amazzonia bên nước Ba-Tây thuộc Châu Mỹ La Tinh. Bà cùng với hiền phu Sandro và hai con – một trai một gái – dấn thân phục vụ người nghèo. Thời thiếu nữ, Anna Maria có ý định dâng mình cho THIÊN CHÚA trong Hội Dòng Đaminh thánh nữ Caterina thành Siena. Hội Dòng có một Cộng Đoàn tại Scandolara (Bắc Ý) nơi quê sinh của thiếu nữ. Nhưng THIÊN CHÚA Quan Phòng định liệu cách khác. Không thực hiện được ước nguyện tu trì, Anna Maria dấn thân phục vụ người nghèo, những ai cần sự trợ giúp. Sau khi lập gia đình, bà tiếp tục lý tưởng tông đồ. Bà cùng chồng và hai con tình nguyện đi truyền giáo tại Ba-Tây với tư cách thừa sai giáo dân. Xin nhường lời cho bà Anna Maria Rizzante.

Chính Song Thân gieo vào lòng tôi thiện ý dâng hiến cuộc đời phục vụ anh chị em xa xôi và nghèo khổ. Trước tiên, Cha Mẹ tôi nêu cao gương sáng về cuộc sống vị tha xả kỷ. Ngay từ thơ bé tôi được song thân giáo dục phải luôn luôn chú ý đến tha nhân, đặc biệt người nghèo. Tâm tình trìu mến thương yêu người nghèo theo sát và đưa tôi đến Bologna rồi đến Roma. Nơi thủ đô Roma tôi trải qua 10 năm của thời thiếu nữ trong việc học hành, cầu nguyện và các công tác thiện nguyện. Đó là những năm tuyệt vời để lại nơi tôi những kỷ niệm khó quên.

Từ các năm tháng này, chín mùi nơi tôi ước muốn dấn thân hoạt động tông đồ. Quyết định chung kết đưa tôi từ Roma sang làm việc tại Amazzonia bên Ba-Tây, với tư cách thừa sai giáo dân. Cùng với các tín hữu Công Giáo tại địa phương chúng tôi dành ưu tiên cho các hoạt động nhằm thăng tiến cuộc sống nữ giới. Chúng tôi lắng nghe và chia sẻ cuộc sống của phụ nữ trong một xã hội có nhiều nghèo đói và bất công. Chúng tôi cố gắng làm sao cho cuộc sống của nữ giới có ý nghĩa, diễn ra trong tự do hoàn toàn và mang lại nhiều hoa quả phong phú.

Tôi kết hôn với Sandro và chúng tôi có hai con, một trai một gái. Chúng tôi sẽ hân hạnh trở thành ông bà nội ngoại của các cháu. Tôi là người mẹ người vợ Công Giáo may mắn. Bởi vì, cùng với hiền phu Sandro, chúng tôi chia sẻ trong mọi lãnh vực. Chẳng những chúng tôi hợp tác trên bình diện hôn nhân và gia đình mà còn chung mối hiệp thông sâu xa về lý tưởng và cuộc sống. Thật tuyệt vời! Niềm hiệp thông vợ chồng chúng tôi nhận lãnh với niềm tri ân chân thành như hồng ân cao cả đến từ THIÊN CHÚA. Niềm hiệp thông khuyến khích chúng tôi sống trung tín tình nghĩa phu-thê và trung tín với ơn gọi mà mỗi người được kêu mời thực hiện.

Nhưng trước hết và trên hết, chúng tôi thề hứa trung tín với THIÊN CHÚA của người nghèo và trung tín với người nghèo của THIÊN CHÚA, cũng như trung tín với đất đai của THIÊN CHÚA. Chính trong ý hướng sau cùng này mà chúng tôi dấn thân hoạt động trong lãnh vực Mục Vụ Điền Địa, trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Ba-Tây. Chúng tôi tranh đấu cho dân nghèo có cuộc sống xứng đáng hợp nhân phẩm, thắng vượt bất công, nghèo đói và đàn áp từ nhiều phía.

Tranh đấu của chúng tôi không đi theo chiều hướng chính trị nhưng nằm trong lãnh vực xã hội theo đúng tinh thần Tin Mừng của Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Hoạt động của các thừa sai giáo dân chúng tôi luôn luôn được Lời Chúa soi sáng hướng dẫn. Cuộc sống của chúng tôi không dễ dàng xuôi chảy nhưng tràn đầy khó khăn. Tấm gương của biết bao thừa sai bị giết vì các hoạt động tranh đấu cho dân nghèo luôn luôn ở trước mắt chúng tôi. Chúng tôi không nao núng sợ hãi. Đôi khi công việc hoạt động tông đồ của chúng xem như vô ích và thất bại. Nhưng chính lúc ấy, chúng tôi cảm nhận sâu xa quyền năng vô biên của THIÊN CHÚA. Chính THIÊN CHÚA sẽ ra tay can thiệp đúng thời đúng lúc. Chính Ngài giải phóng và cứu thoát dân nghèo của Ngài. Chúng tôi – đầy tớ của THIÊN CHÚA – chúng tôi hoàn toàn đặt trọn tin tưởng phó phác nơi Tình Yêu của Ngài.

… ”Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ THIÊN CHÚA, ăn ở theo đường lối của Ngài. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ôliu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn. Đó chính là phúc lộc THIÊN CHÚA dành cho kẻ kính sợ Ngài. Xin THIÊN CHÚA từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu. Nguyện chúc Israel vui hưởng thái bình” (Thánh Vịnh 128 (127).

(”Allez, Allez Petites”, Quadrimestrale della Congregazione delle Suore Domenicane di Santa Caterina da Siena, Numero 3, Anno II, Santa Natale 2008, trang 13-15)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Chứng từ của một Tân Tòng về Quyền Năng của Chúa Thánh Thần

Chứng từ của một Tân Tòng về Quyền Năng của Chúa Thánh Thần

Thanhlinh.net

Chứng từ của một Tân Tòng về Quyền Năng của Chúa Thánh Thần

Tôi, Một tân Tòng được làm con cái Chúa sau 39 năm bị trói buộc bởi quyền lực của Satan, tôi muốn lần lượt viết lại tất cả những gì đã xảy đến cho tôi trong một thời gian rất dài, một hành trình về nhà Cha một cách lạ kỳ và đầy dẫy những trông gai hiểm trở.  Tạ ơn Chúa vì Ngài đã kiên nhẫn chờ đợi tôi, mặc dầu tôi là kẻ hèn mọn; vô ơn và bất xứng với tình yêu của Ngài. Tôi không biết phải nói lên ngôn ngữ nào của loài người để có thể diễn tả một Thiên Chúa quyền năng vô biên nhưng lại hạ mình yêu tôi vô điều kiện, mặc dầu tôi chỉ là một người ngọai đạo.

Chúa hiện hữu qua Đức Mẹ

Năm 1976, qua một tai nạn cướp xe, họ đập vào sau gáy tôi bằng một thanh sắt dài,  tôi được đem đến bệnh viện Chợ Rẫy, qua Xray  tôi bị nứt sọ và bị chấn thương rất trầm trọng, tuy không chảy máu nhưng đầu tôi xưng phồng như trái bưởi, chỉ có thể ngồi dựa lưng vào ghế 24/24 vì không thể nằm, không ăn, cũng như không ngủ được một chút nào.

Tôi la khóc suốt ngày đêm với ơn đau dữ dột từ não. Thời gian đó tôi không được uống thuốc giảm đau vì tài chánh eo hẹp, thuốc lại rất hiếm. Bác sĩ quyết định giải phẩu vào 8h sáng ngày hôm sau.

9h tối đêm đó, từ sâu thẳm tâm linh, tôi nghe một tiếng chớp như sấm sét và một Tượng Đức Mẹ mấu trắng hiện ra cách tôi một mét, trên tay bà cầm trái địa cầu nhỏ mầu trắng.

Từ bức tượng phát ra một tiếng nói rất rõ bằng tiếng Việt: Ta là Mẹ Maria đến để cứu con, vết nứt sẽ tự lành, không phải mổ. và bức tượng biến mất. Quả thật sáng hôm sau, vết nứt đã tự lành tôi không phải mổ và cơn đau cũng biến mất. Tôi trờ về với cuộc sống bình thường. Tạ ơn Chúa và Mẹ Maria đã cứu chữa con một cách thật nhiệm mầu, mặc dầu con không cầu khẩn vì không nhận biết Ngài là Thiên Chúa của con.

Năm 1980 gia đình tôi nhận được giấy bảo lãnh của  chị tôi từ Canada. Tôi đạp xe xuống nhà thờ Đức Bà, Sài Gòn. Qùi dưới chân tượng Chúa, tôi khẩn cầu cho chuyến bay được bình an, mọi việc được suông sẻ .

Đêm đó tôi nằm mơ, từ trong tâm tôi nghe một tiêng nói dặn dò: Chuyến bay vào tuần thứ nhất sẽ bị hoãn lại và con sẽ đi vào chuyến bay tuần thứ hai. Quả thật, chuyến bay của tuần thứ nhất có danh sách gia đình tôi bị hoãn lại và đúng 7 ngày sau chúng tôi được đi vào chuyến thứ hai y như  lời đã báo trước với tôi trong giấc mơ.

Chết Đi Sống Lại.

Sáng 1/1/2002 tôi không dậy được. Lúc đó là 11 giờ sáng, chồng tôi vào đánh thức thì thấy người tôi đã cứng ngắc. Anh kêu xe cứu thương đến, họ cho biết tôi đã chết được 4 giờ. Họ đưa tôi vào bệnh viện, tôi bị hôn mê sâu, họ đưa tôi vào phòng hồi sinh. Sau 24 giờ ở phòng hồi sinh, tôi vẫn không tỉnh dậy, họ đưa tôi vào nhà xác, họ bảo sẽ để tôi ở đây trong vòng 72 giờ. Qua hai ngày tôi vẫn không thức dậy. Đến ngày thứ ba thì cô y tá thấy tay tôi nhúc nhích. Cô báo cho bác sĩ, bác sĩ thấy tim tôi đập lại và ông cho tôi về. Ông cho biết tôi sẽ bất động trong 6 đến 7 tuần.

Trong khi tôi ở trong tình trạng hôn mê sâu, tôi mơ thấy có một ông đi ngang, đầu đội mũ gai, tôi hỏi: Ông là ai?. Ông trả lời: Ta là Giêsu và tôi thấy ông bị đưa lên đồi. Ông nói với tôi bằng tiếng Việt rất rõ: Con lấy khăn trắng  nhúng nước sông lau mặt đi, con sẽ sống lại vào ngày thứ ba. Ông nói chữ đi rất mạnh, như một mệnh lệnh. Tôi chạy tới bờ sông, ở đó có một chiếc khăn trắng, tôi nhúng nước lau mặt Chúa vì tôi thấy trên má Chúa có vết máu nhưng Chúa nói: Con lau mặt cho con và con đừng đi theo Ta, con đứng lại đi, và tôi tỉnh lại.

Mùa hè năm 2005 gia đình anh chị tôi từ bang California đến thăm tôi, vừa bước vào cửa nhà, chị dâu tôi đã khựng lại chỉ tay vào tấm hình tôi treo trên tường, đối diện với cửa chính. Chị hỏi tôi về nguồn gốc của tấm hình, và tôi có tấm hình này lúc nào? Tôi kể rằng: có một tầu ngọai quốc trong lúc đang cứu vớt những thuyền nhân bị nạn, ông thấy một vật lạ từ xa phóng tới, vội vàng ông lấy máy ra chụp khi rửa ra thì nó hiện nguyên hình ảnh của một con Rồng rất dài, trên 10 mét và mình nó rất  lớn. Mặt nó rât dữ tợn nhe răng như sẵn sàng nuốt chửng ai ở gần nó. Toàn thân nó bốc lửa, trên đầu con rồng có  một Người Nữ  mặc áo trắng, nhìn như thể Phật Bà Quan Âm, một tay cầm lọ Cam Lồ, một tay kia cầm cành Dương Liễu, tay bà có nhiều vết bầm tím.  Chị dâu tôi giải thích cho tôi biết là con rồng là hiện thân của Satan, quỷ dữ,  Đồng thời chị cũng cho tôi đọc một đọan Thánh Kinh để xác tín vế điều chị nói. Chị nói khi chị vừa bước vào nhà thì chị cảm thấy như có một tà lực từ hướng con rồng đẩy chị ra khỏi cửa, chị phải cầu nguyện mới có thể bước vào trong nhà.

Chị khuyên tôi nên bỏ tấm hình này đi và đừng thờ lạy nó nữa, nếu không nó có thể gây họa đến cho tôi và gia đình. Tôi cứ ừ hử cho qua chuyện vì trong lòng tôi vẫn yêu thích tấm ảnh này.

Tôi kể cho chị dâu tôi nghe về phép lạ mà Me Maria đã cứu tôi năm 1976 và tôi ngỏ ý muốn viết sách để vinh Danh Mẹ. Chị nói với tôi: ” em nên vào đạo Công Giáo để vinh Danh Chúa và Mẹ thì tốt hơn là viết sách. Hoặc em chỉ nên viết sách sau khi rửa tội thì mọi người sẽ tin em.” Chị khuyên tôi nên vô đạo để được làm con cái Chúa. Những ngày chị ở Canada chị luôn chia sẻ về niềm  vui của chị khi được là công Chúa nước trời. Chị cũng chia sẻ những kinh nghiệm của chị khi phải sống  trong quyền lực tối tăm qua bệnh tật, yếu đuối, và tội lỗi. Chị nói với tôi rất nhiều về một Thiên Chúa Ngôi Ba, đó là Chúa Thánh Thần. Chính Ngài đã Thánh hóa, chữa lành và giúp chị được biến đổi.

Sau khi rời Canada trở về nhà chị, chị luôn gọi tôi  và nhắc tôi phải phá hủy tấm hình đó càng sớm càng tốt, nếu không tôi sẽ tiếp tục gặp biết bao tai ương lẫn bệnh tật do nó đem lại . Quả tình đã có một lần tôi nghe lời chị, bắc thang leo lên để gỡ tấm hình nhưng tôi nghe một tiếng nói : “đừng, đừng làm như vậy” . Và điều đó như có một sức mạnh khiến tôi không thể tháo tấm hình xuống được.

Chúa lại cứu tôi

Năm 2007, tôi bị tai biến mạch máu não, tôi không bị liệt nhưng không còn nhớ gì. Tôi mơ thấy Thánh  Anrê thành Montréal. Thánh Anrê nói với tôi: 7 tuần sau con sẽ nhớ lại, con không cần phải mổ và con sẽ đi làm lại. Đúng sau 7 tuần, tôi hồi phục lại trí nhớ và tôi đi làm lại.

Chúa cứu mạng tôi một lần nữa qua cha Trương Bửu Diệp.

Tôi được biết đến cha Diệp qua một tờ báo, thấy người ta đăng báo tạ ơn cha rất nhiều. Tôi có cắt tấm hình cha đem về nhà, một vài lần tôi đã cầu nguyện xin ơn cho tôi, con và chồng, đều được cha nhận lời theo lời thỉnh cầu của chúng tôi.

Tháng 1, 2014

Từ Walmart về nhà tôi chỉ độ 5 phút nhưng vì trời đang bão băng tuyết bao phủ cả thước, mặt đường bị đóng băng, gió rất mạnh và tôi bị té trong lúc băng qua ngã tư, xương sườn đập mạnh xuống lớp đá cứng, vì té ngay trên đường xe chạy, quá đau tôi đã không thể tự đứng lên được. Trời tối đen, tôi lần mò tìm cell phone trong túi áo manteau gọi 911, nhưng không kịp vì một chiếc xe từ xa phóng tới. Tôi thét lên: Cha Diệp, và tức khắc có 2 bàn tay của ai đó nhấc bổng tôi lên và đem tôi khỏi con đường. Chiếc xe chạy qua mắt tôi rồi lui lại, tài xế hỏi tôi có sao không? Tôi đứng chết trân vì sự kiện sảy ra thật quá bất ngờ và khiếp đảm. Bà nói rằng tôi nhìn thấy một người đàn ông mặc áo chùng đen, mang thánh giá, có râu mép nhấc cô ra khỏi con đường, nếu không tôi đã không thể thắng  kịp và đã cáng ngang cô. Bà nói, ông đang đứng đàng sau cô đó. Tôi quay lại và không thấy gì, nhưng tôi biết người đó chính là cha Trương bửu Diệp. Cơn đau xương sườn của tôi cũng biến mất.

Qua tai nạn này tôi tình nguyện làm thỉnh nguyện viên đi xin chữ ký  khắp mọi nơi cũng như đến nhà thờ VN vào mỗi thánh lễ Chúa nhật. Đi đến đâu, tôi cũng chia sẻ chứng từ cha Diệp cứu tôi khỏi tai nạn. Niềm khao khát của tôi là cha Trương Bửu Diệp sớm được phong thánh và tôi quyết tâm dùng toàn thời gian rảnh rỗi để thu thập chữ ký của cả người lương cũng như  người công giáo.

Tháng 1 năm 2014, tôi nằm mơ thấy cha Trương Bữu Diệp bấm chuông, cha dắt tôi đi chùa. Cha mang thánh giá. Đến trước chùa, cha nói: Con vào đi, cha mang thánh giá cha không vào được. Cha đứng ngoài chờ tôi. Tôi thấy cha đứng ngoài trời nắng và đổ mồ hôi hột. Tôi rất xúc động, từ  giấc mơ đó tôi biết tôi phải đi theo Chúa.

Tháng 4 năm 2014, tôi kể các chuyện này cho chị dâu tôi nghe, chị nói với tôi: Người trong giấc mơ năm 2002 của em là Chúa Giêsu đó và Ngài nói lấy chiếc khăn trắng nhúng nước lau mặt là dấu chỉ Ngài muốn em rửa tội đó

Tôi hân hoan vui mừng vô cùng, tôi hiểu ra là Chúa thương yêu và gìn giữ mạng tôi tuy tôi là người ngọai đạo… Đến thánh đường tôi chảy nước mắt khi nhìn hình ảnh Ngài uy nghi sáng tỏa khắp nhà thờ. Tôi yêu Chúa đến nỗi không đến đườc nhà thờ là tôi bồn chồn, tiếc nuối và khóc rưng rức, nên dù có bận rộn cách mấy tôi cũng cố gắng đi dự lễ. Nhưng trong thâm tâm tôi như có một cản trở vô hình nào đó khiến tôi không sãn sàng nghĩ đến chuyện Rửa Tội. Mà thật tình tôi không hiểu vì sao ? Lúc đó tôi nghĩ rất hạn hẹp, dù rửa tội hay không rửa tội, miễn tôi yêu Chúa, tin Chúa và ca tụng Chúa là đủ, đủ để Ngài vui lòng khi thấy tôi không quên ơn Ngài. Đủ thứ chuyện làm tôi không hề muốn phải nặng lòng khi nghĩ đến 2 chữ vô đạo , tôi lo lắng viện đủ mọi lý do : sợ mình không hiểu về bài vở và sẽ bị rớt giáo lý; không đủ điểm để vào Công Giáo. Liệu chồng tôi có chấp nhân hoặc sẽ cùng vào đạo với tôi hay không?

Tôi vẫn tiếp tục đi chùa hằng tuần cùng lúc tôi cũng đi nhà thờ. Tôi không có sự chọn lựa chính xác, nói trắng ra tôi rất tránh né 2 chữ Rửa Tội; mặc dầu tâm tư tôi lúc đó hoàn toàn dâng trọn cho Chúa, tôi nhân ra sự bình an mỗi khi tôi ngắm nhìn và nghĩ đến Ngài, lúc đó tôi nhận ra 2 chữ đáng sùng bái nhất là: Giêsu KiTô.

Khi đi nhà thờ tôi có nói với  linh mục ĐTS là tôi được rất nhiều ơn lành của Chúa và đó là lý do cha thấy tôi đi nhà thờ mỗi tuần. Cha nói: vậy còn chần chờ gì nữa , bao giờ chị sẵn sàng thì cho tôi biết để tôi thông báo khi có khóa học giáo lý. Tôi lại kiếm chuyện từ khước: Thưa cha con rất bân….

Tôi không bao giờ nghĩ đến việc đi học giáo lý, cứ hẹn tới hẹn lui, không sốt sắng lắm mặc dầu trong thâm tâm tôi biết là tôi đang hướng về Chúa và tôi rất yêu Ngài.

Trong thời gian này tôi lại bị chứng trầm cảm, tôi sợ nghe tíếng người, sợ gặp người, ngoài trừ Chúa Nhật tôi đến nhà thờ dự lễ, hoặc phải đi làm còn tất cả thời gian còn lại tôi ngồi ở một xó tường, hoặc  trùm mền kín mít từ đầu đến chân, suất ngày nghỉ, đầu óc hoang mang, trống rỗng, không suy nghĩ, chán đời , nỗi buồn vô hình cứ đè nặng trong não tôi mà không biết lý do gì để buồn. Tôi có ýnghĩ tự tử cho thóat đi cảnh buồn chán này.

Từ từ tôi sống khép kín, không hăng say họat động, làm việc, suy nghĩ hay đọc sách như  trước. Cả ngày tôi chỉ uống một ly cafe độc nhất, đến tối tôi lết vô bếp nấu cơm cho mọi người, phần tôi chỉ ăn sơ sơ rồi lại đi tìm chỗ nằm tiếp. Thật sự tôi sợ cả việc hằng ngày trong đời sống, như chuyện chải đầu, nấu cơm… chuyện mà bình thường phải làm trong đời sống hằng ngày, nhất là phải ra đường vì tôi rất sợ gặp đám đông.

Tôi tự biết mình đang bị bệnh trầm cảm, lười nói, biếng ăn, đêm ngủ không thẳng  giấc, tôi cứ bị giật mình vào lúc nửa đêm và thức tới sáng. Tôi gầy và xanh sao, xuống cân cả chục ký chỉ trong vòng 2 tháng. Tôi bắt đầu sợ luôn ánh sáng mặt trời, tôi đóng kín tất cả màn trong nhà lại và một mình ngồi trong xó trong những ngày nghỉ. Tinh thần và thể xác tôi xuống dốc một cách thê thảm. Ý nghĩ tự tử cứ lởn vởn trong đầu óc tôi.

Nhưng chỉ có một điều lạ lùng duy nhất là tôi cứ mong đến Chúa Nhật để tôi đi nhà thờ, vì bão tuyết nên tôi không thể lái xe nên phải ngồi xe bus cả tiếng mới đến nơi. Bước vô nhà thờ, tôi cảm nhận được sư bình an khôn tả và đó là lý do tôi khao khát được đến nhà thờ.

Chúa Giải thóat tôi trong Quyền Năng  của Chúa Thánh Thần

Một buổi tối, tháng Năm 2014, cầm tấm ảnh cha Diệp tôi thủ thỉ với Ngài: Xin Cha cầu cùng Chúa cho con thóat khỏi cơn bệnh suy xụp tâm linh và thể xác này đi, cho con được trở lại trạng thái bình thường như trước. Lúc này tôi chỉ còn biết cậy trông vào phép lạ của Chúa. Và tôi bật khóc khi cảm thấy người mình nóng ran lên, ấm áp lạ thường như có một ngọn lửa nhỏ, rất nhẹ nhàng , từ từ hâm nóng toàn thân tôi, mặc dù thời tiết vẫn còn rất lạnh . Tôi lóe lên một tia hy vọng là Chúa đã nhậm lời.

Cùng thời điễm này chị dâu tôi cũng gọi cho tôi,chị ngỏ ý muốn được Rửa tôi trong Thánh Thần để tôi được biến đổi và đươc chữa lành. Chị hỏi tôi có chấp nhận dâng mình cho Chúa Giêsu và từ bỏ tất cả những gì không thuộc vế Chúa không? tôi bằng lòng và tuyên hứa tôi đồng phục Chúa và từ bỏ Satan  và những gì liên hệ đến chúng. Chị nói với tôi: Em đọc và hát theo chị mấy câu này nha, chị cầu nguyện và xin Chúa rửa em trong Thánh Thần.

Lúc đó tôi không hiểu câu chị nói là gì? tại sao phải Rửa trong Thánh Thần? tôi cũng không thắc mắc, chị đọc câu nào tôi lập lại câu đó. chị hát: Send your spirit….Alleluia …

Chị hát bao nhiêu lần tôi hát theo bấy nhiêu, chị đọc câu nào tôi lập lại câu ấy .

Tôi nói với chị: Em thấy có bóng người mặc áo trắng đặt tay trên vai em, ai vậy chị? chị trả lời: Chính Chúa, Ngài đến để ban Thánh Thần cho em qua lời khấn xin của chị em mình. Thật là mầu nhiệm và tôi cảm thấy bình an khôn tả.

2 tiếng sau, chồng tôi đi làm về tôi có kể cho anh nghe tất cả mọi việc. Anh chợt nói nếu đã quyết chọn Thiên Chúa thì nên chấm dứt tất cả những liên hệ bên chùa và đừng đi chùa nữa, chọn một bên thôi. Giọng anh chắc nịch như một mệnh lệnh, tôi giật mình sững sờ nhìn anh, vô cùng sung sướng vì không ngờ câu nói đó lại phát suất từ anh, một người vô thần, chẳng tin vào tôn giáo nào.

Cũng từ giây phút đó, ngay chiều hôm chị Rửa tôi trong Thánh Thần, tinh thần tôi bỗng hết trầm uất , trạng thái vui tươi và bình an khôn tả, tôi thích ra đường ngắm nhìn bầu trời trong xanh và tưởng tượng Chúa trên cao đang vui tươi nhìn tôi và tôi thật hạnh phúc.Tôi trở về sống với sinh họat bình thường, Chúa ban cho tôi một công việc mới vì tôi bị mất việc bởi bệnh trấm cảm.

Tôi can đảm gỡ bỏ tất cả những ảnh tượng không thuộc về Chúa, nhất là tấm hình có con rồng rực lửa. Lúc này tôi mới nhớ lời chị dâu tôi nói khi chị mới bước vào nhà tôi:” Nó là hình ảnh của quỷ dữ, Satan nếu em thờ lạy nó em sẽ phải khốn khổ vì nó’. Quả tình kể từ ngày tôi “thỉnh”  nó về biết bao nhiêu đại họa đã sảy ra cho tôi, tôi đã mang trong mình đủ lọai bệnh tật, bao nhiêu tai biến mà tôi đã kể trên. Tệ nhất là ước muốn tự tử. Tôi ném tất cả những vật này thật xa, cách nhà tôi khảng 2 cây số. Theo lời chị dâu tôi dặn là xin nước phép trong nhà thờ và với niềm tin mạnh mẽ tôi có thể nhân Danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần thanh tẩy căn nhà của tôi, xua trừ mọi sự không thuộc về Chúa ra khỏi nhà tôi. Tôi  bắt đầu trưng Thánh Giá, tượng Đức Mẹ và hình cha Trương Bửu Diệp.

Chồng tôi bỗng dưng cho tôi biết là anh sẽ cùng tôi vào đạo. Điều này làm tôi muốn khóc, vì sau khi được Rửa trong Thánh Thần, ngày đêm tôi mong được ghi danh học giáo lý càng sớm, càng tốt. Tôi luôn nghĩ anh sẽ là một trở ngại cho tôi, ngay cả đi học giáo lý vào ngày Chúa Nhật anh cũng không thể vì là ngày đi làm của anh, và chính tôi cũng không đủ can đảm để đề nghị anh vô đạo vì tôi hiểu tính chồng tôi rất cứng cỏi, việc trước nhất là anh phải xin nghỉ việc ngày Chúa Nhật, nhưng làm sao có thể nghỉ được vì ngày cuối tuần là ngày họp của cả sở và đó là việc anh làm suất 20 năm. Chồng tôi nói anh đã khấn xin với cha Diệp 2 điều, một là anh xin được chữa lành gót chân bị tật không chữa được. điều thứ hai là xin cho bà boss cho anh được nghỉ ngày Chúa Nhật để đi học giáo lý. Điều thứ nhất cha đã nhận lời phục hồi gót chân anh, thế nên anh tin là phép lạ thứ 2 sẽ sảy ra.

Khi chồng tôi gặp bà boss và xin được nghỉ bà có hỏi lý do thì anh trả lời: tôi muốn vào đạo công giáo nhưng lớp dạy giáo lý không có ngày nào khác ngoài ngày Chúa Nhật. Nghe vậy bà hưởng ứng rất mau mắn : Tôi sẽ giúp anh và từ đây cả hãng sẽ họp vào ngày Thứ Bẩy và anh sẽ được nghỉ vào ngày chúa Nhật.

Lễ Phục Sinh  2015 vợ chồng tôi đã chính thức được rửa tội để làm con cái Chúa, lúc cha đổ nước trên đầu tôi một sự mầu nhiệm ập xuống toàn thân tôi , tôi hạnh phúc khôn tả khi nhớ lại Lời Nói khi xưa: Con hãy lấy tấm khăn trắng xuống sông rửa mặt 3 ngày sau sẽ sống lại.

Lời chị dâu tôi nói với tôi:” Chính Chúa Thánh Thần đã làm tất cả cho em vì em đã dâng mình em cho Chúa Giêsu và Ngài đã ban Thánh Thần cho em  để Ngài biến đổi mọi sự tốt lành cho em. Chỉ sau khi em được rửa trong Chúa Thánh Thần em đã trở thành một con người mới, cũng có nghĩa là em đã được Tái Sanh trong thần khí. Kể từ nay em sẽ xin vâng để Ngài có thể dùng em là công cụ của Ngài.” Chị cũng nói với tôi chính chị cũng được Rửa trong Thánh Thần trong dịp chị đi dự  khóa Canh Tân Đặc Sủng  sau khóa tĩnh tâm chị đã được chữa lành căn bệnh nan y mà khoa học đã bó tay và đồng thời dứt đi được căn bệnh trầm cảm giống như tôi.

Hôm nay tôi viết ra những lời này để làm chứng nhân cho quyền năng của Chúa Thánh Thần và tôi thật sự muốn vinh Danh Ngài. Đồng thời tôi cũng nói lên quyền lực của Satan, qủi dữ. Ước gì mọi người nhất là những người ngọai giống như tôi nhận biết được Thiên Chúa là Vua các vua, Chúa các Chúa, Ngài đang chờ đợt tất cả mọi người để ban ơn cứu độ cho họ, không phân biệt một tôn giáo nào. Hơn hết Ngài là Cha. Cha của tất cả mọi người, sẵn sàng tha thứ mọi lỗi phạm và ban ơn làm công chúa và hoàng tử nước trời cho những ai đón nhận Ngài.

Lạy Cha, con nguyện xin mọi người nhân biết Cha. Amen.

Anna Maria Phanxicô Nguyễn Dung,

Canada

Họ để Người ở đâu?

Họ để Người ở đâu?

Lạy Chúa, Chúa đã chịu chết và sống lại,
xin dạy chúng con biết chiến đấu
trong cuộc chiến mỗi ngày
để được sống dồi dào hơn.

Chúa đã khiêm tốn và kiên trì
nhận lấy những thất bại trong cuộc đời
cũng như mọi đau khổ của thập giá,
xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách
chúng con phải gánh chịu mỗi ngày,
thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến
và trở nên giống Chúa hơn.

Xin dạy chúng con biết rằng
chúng con không thể nên hoàn thiện
nếu như không biết từ bỏ chính mình
và những ước muốn ích kỷ.

Ước chi từ nay,
không gì có thể làm cho chúng con
khổ đau và khóc lóc
chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa phục sinh.

Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha,
là hy vọng hạnh phúc bất diệt,
là ngọn lửa tình yêu nồng nàn;
xin lấy niềm vui của Người
mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ
và trở thành mối dây yêu thương,
bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.

(Chân phước Têrêxa Calcutta)

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

ĐỜI SỐNG CẦN CÓ CHÚA

ĐỜI SỐNG CẦN CÓ CHÚA

Cố Lm. GB. HỒNG PHÚC ( 1921 – 1999 )

Sau Ngôn Sứ Amos, xuất thân từ một người chăn chiên hiền lành biến thành một con sư tử “gầm thét” tội ác của các nhà lãnh đạo Dân Chúa, nay đến Ngôn Sứ Giêrêmia lên tiếng: “Khốn cho các mục tử làm tản mác và xâu xé đàn chiên”.

Họ đã làm cho nước mất nhà tan, hàng ngàn người chết, hàng vạn người phải lưu đầy qua Babylone, trong số đó chính vị Ngôn Sứ là nạn nhân. Những nhà lãnh đạo Israel phải là kẻ đem lại hòa bình và hiệp nhất cho Dân Chúa, trung thành với giao ước Sinai, vậy mà nay họ lại phản lại Thiên Chúa, gây khốn khổ cho Israel. Nhưng Thiên Chúa là Đấng trung thành, vị Ngôn Sứ nhìn thấy ở chân trời, một Đấng Mục Tử xuất hiện từ chi tộc Đavít. Ngài sẽ đem lại hòa bình và công chính. Tuy nhiên, với điều kiện là đoàn chiên biết nghe lời Ngài. Lịch sử Do Thái là hình ảnh lịch sử nhân loại.

Thánh Phaolô, trong thư gởi giáo đoàn Êphêsô, cho chúng ta thấy Đấng đã làm “cho đôi bên nên một, phá đổ bức tường ngăn cách, tiêu diệt hận thù”, chính là Chúa Giêsu. Ngài đến loan báo Tin Mừng bình an. Ngài đến hiệp nhất chúng ta lại. Chúng ta hãy nhìn lên Thập Giá, Ngài chịu treo lên, như gạch nối giữa đất và trời, hai tay giang ra như để ôm chầm cả nhân loại.

Qua bài Phúc Âm, chúng ta thấy Marcô mô tả việc Chúa Giêsu và các môn đệ sau những ngày làm việc mệt nhọc, đã để ra một vài ngày nghỉ ngơi trong yên tĩnh. Quần chúng bao quanh đến nỗi “Ngài không có cả thì giờ để ăn”. Một thời gian để tĩnh dưỡng cho mình và các môn đệ là điều hợp lý.

Và chúng ta thấy Chúa Giêsu biết chọn những chỗ thích hợp, như “trên một ngọn núi cao, xa vắng” ( 9, 2 ), trên bức thành đá ven bờ hồ Tibêriađê ( 5, 1 ), bờ biển Phênicia ( 7, 24-31 ) hay gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hermon ( 8, 27 ). Đây là một cuộc tĩnh tâm của Thầy và các môn đệ, vừa nghỉ ngơi vừa huấn luyện. Các Tông Đồ thuật lại cho Thầy nghe các kinh nghiệm Tông Đồ của mình ( 6, 30 ), Thầy thông cảm với các cộng sự của mình: “Sáng sớm tinh sương, Ngài trỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện ở đó” ( 1, 35 ). Như vậy, khi trở về gặp lại dân chúng, lời giảng pha lẫn với lời kinh của Chúa và của môn đệ hứa hẹn một mùa gặt tốt.

Nhưng Chúa Giêsu và môn đệ không thể tĩnh dưỡng lâu, xa quần chúng. Vì Ngài đến vì dân chúng và dân chúng cũng cảm thấy không thể thiếu Ngài. Họ đi tìm Chúa, “họ như bầy chiên không có kẻ chăn”. Họ cần có Chúa.

Tất cả chúng ta đều cảm thấy cần có Chúa, thiếu Chúa đời ta thiếu tất cả, bơ vơ và lạc lõng. Thánh Augustinô kêu lên: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, và tâm hồn con sẽ không bình yên khi nó không an nghỉ trong Chúa”.

Chúng ta thấy Chúa Giêsu tỏ ra rất thương yêu và am tường các nhu cầu vật chất và tinh thần của các môn đệ. Đời sống Tông Đồ là một đời sống tận hiến tất cả, đầy gian lao và xả thân, nhưng phải luôn luôn trở về nguồn. Phải để ra những ngày nghỉ ngơi, im lặng và cầu nguyện, những ngày sống thân mật với Chúa, chuẩn bị cho những ngày xuất quân mới, đầy nghị lực và tình thương.

Đức Gioan XVIII được gọi là vị Giáo Hoàng năng tĩnh tâm. Mặc dù công việc Giáo Hội bề bộn, với bao nhiêu vấn đề phải suy tư giải quyết. Ngài hằng “trở về nguồn”. Đặc biệt, ngài rất năng tĩnh tâm, tạm dẹp công việc lại một bên, để dành cho Chúa một thời gian. Ngài dọn một phòng riêng ở Vatican, để sống những giờ âm thầm bên Chúa hoặc nghe lời giảng day… Trước khi khai mạc Công ĐồNG Vaticanô II, ngài đã tĩnh tâm một thời gian rồi đi hành hương ở Loretto, nơi lưu giữ ngôi nhà của Đức Mẹ, để xin cho Công Đồng được kết quả.

“Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi…

Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi,

Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng”.

Cố Lm. GB. HỒNG PHÚC ( 1921 – 1999 )

Bạn lòng thân mến,

“Bạn lòng thân mến,”

đây giây phút thần tiên

Nghe chan chứa hương đời.

Nhạc lời êm ái tôi ca ấm vành môi,

Mong sao đến bên người.”

(Nhạc: Hoàng Trọng/Lời: Hồ Đình Phương – Bạn Lòng)

Trần Ngọc Mười Hai

(Lc 6: 36-38)

Lời nhắn gọi như trên, mà lại nghe được từ loa phóng thanh hơi bị lớn tiếng vẫn không hay bằng những tâm tình tỉ-tê trên ipod, ipad hoặc iphone, đấy chứ nhỉ? Chưa đâu. Bắt đầu bài hát chỉ là lời nhắn hoặc tiếng gọi mời mà thôi. Trứ-danh hơn, phải nghe câu tiếp mới thật trời ơi…sao lại như thế, đến thế này:

“Bạn là trăng sáng,

Trong đêm tối hồn tôi,

Soi lên bao ánh tươi.

Bạn là hoa thắm,

trên hoang vắng tình tôi,

vun lên một mùa mới!

Gặp nhau năm ấy,

trao câu hát làm tin,

Đem cung phím gieo tình.

cùng yêu sông núi,

yêu duyên nước trời xanh,

yêu hương lúa thơm lành.

Đời ta chung hướng,

bao nhiêu ý chờ mong,

Xay đắp nên mái tranh.

Để cùng vui sống,

Say sưa đón bình minh,

Chứa chan mộng ngày xanh.”

(Hồ Đình Phương – bđd)

Vâng. Quả có thế. Chẳng cần ới gọi gì nhiều. Sơ sơ chỉ vài ba lời nhắn thôi, người nghe hát hay nghe được lời nhủ này, cũng sẽ thấy tuyệt vời trên mức tuyệt diệu. Ai đời, sống vui, sống mạnh chỉ những là: “Say sưa đón bình minh”, “Chứa chan mộng ngày xanh”, “Xay đắp nên mái tranh”.

Thế còn, đắp xây mái nhà thần-học của Hội rất thánh là Nước Trời thì thế nào?

Để trả lời thật vắn gọn, thì đây, xin mời bạn và mời tôi ta nghe thử những lời nhắn rất nhè nhẹ của đấng bậc chủ quản cả một Giáo hội/hội rất giáo điều, như sau:

“(Anh chị em) hãy cởi mở đối với chiều-kích xã-hội và Giáo-hội rộng lớn hơn, mời gọi cả những người có dịp tiếp-xúc với đoàn sủng của anh chị em, tuy không thường xuyên tham-dự các sinh-hoạt của nhóm…

Thật là đẹp, khi giúp đỡ cả những người gặp khó khăn và vất vả nhiều hơn trong việc sống đức tin của họ, giúp họ tiếp xúc với Mẹ Giáo-hội…

Tôi khuyến khích anh chị em hãy ‘luôn đi xa hơn!’ trung-thành với đoàn-sủng của mình! Hãy giữ cho lòng nhiệt-thành, ngọn lửa của Chúa Thánh Linh luôn thúc-đẩy các tín-hữu Chúa tìm đến những người ở xa, ra khỏi cuộc sống tiện-nghi, thoải-mái của mình và có can-đảm đi tới mọi khu ngoại-ô đang cần đến ánh sáng Tin Mừng” (Phong trào Cursillo trích Lời Đức Phanxicô kêu gọi trong buổi tiếp 7,000 thành viên Châu Âu hôm 30/4/2015, Lm Trần Đức Anh, OP dịch)

Vâng. Rất đúng như thế. Nếu không đi xa, ra ngoài khuôn khổ đạo-giáo/nhà thờ, thì làm sao nghe được những ‘lời nhắn’ không từ iphone, ipad hoặc ipod, mà từ loa phóng thanh hồi đó những lời lẽ rất như sau:

“Tôi đang còn ghi nhớ sớm nào,

trời đẹp màu nắng.

Ta cùng hòa nhịp đồng tâm trong câu:

“Ôi không gì êm ấm cho bằng,

Tinh bạn vừa kết tâm đầu,

Rồi hẹn đừng có xa nhau.

Bạn lòng thân mến,

đây tôi hiến bài ca.

mong ai hát vui hòa.

Bạn là xuân thắm,

Cho tôi đón nhiều hoa,

gieo hương mái tranh nhà.

Rồi ta chung ngắm,

Đôi chim lướt trời xa,

Say sưa muôn tiếng ca.

Để hồn vui nhớ, câu mơ ước ngày xưa,

Nay dâng đẹp tình thơ.”

(Hoàng Trọng/Hồ Đình Phương – bđd)

Vâng. Rất như thế, một lời vừa nhận-định đúng múc, vừa nhắn nhủ rất dễ thương như thấy nhiều trong cuộc đời ở ngoài, nhiều hơn trong “nhà thờ”. Bạn không tin ư? Thế thì, xin mời bạn và mời tôi, ta cứ tiếp tục ‘đi xa’ hơn nữa, rồi sẽ thấy sẽ nghe được những lời lẽ như thế vầy:

“Có phải Ngài muốn đưa người khác đi vào sứ-vụ của Ngài? Phải công-nhận là: việc dùng cụm-từ “sứ-vụ” cốt để mô-tả những gì Đức Giêsu từng thực-hiện, bởi: việc Ngài làm, mang nhiều ý-nghĩa hơn lối sống riêng-tư của Ngài.

Dĩ nhiên, ý của tôi không phải bảo: ta nên hiểu cụm-từ “sứ-vụ” là toàn-bộ công-trình Ngài quyết làm; chẳng hạn như hành-trình kéo dài nhiều tháng/ngày của ông Phaolô xuyên vùng Địa Trung Hải, cũng là những điều nói về việc rao-giảng Tin Mừng của các tín-hữu thời sau này.

Nhưng đối với riêng tôi, rõ ràng là: Đức Giêsu có tầm-nhìn tuyệt-vời về Vương-Quốc-Nước-Trời ở đây, dưới đất này; và Ngài đã sống-thực tầm nhìn ấy.

Cũng thế, những gì còn rõ hơn nữa, đối với tôi, là việc Ngài trợ-lực rất nhiều người khác để tất cả sẽ tham-gia/can dự một cách năng-động trong sứ-vụ này, với Ngài.

Hẳn bà con còn nhớ, chính ông Gioan Tẩy Giả cũng đã lập nên cộng-đoàn gồm những người được tẩy rửa, để rồi họ sẽ lan-truyền xuyên-suốt đất/miền người Do-thái ngõ hầu kỳ-vọng Thiên-Chúa có hành-động trả thù giùm cho họ.

Tôi vẫn nghĩ: Đức Giêsu khi xưa cũng thiết-lập phong-trào nào đó, nhưng Ngài vẫn đính kèm một sứ-điệp rất khác từ một Thiên-Chúa, cũng khác lạ. Ta có thể gọi sự việc này là tình thân-thương kết bạn nhiều hỗ-trợ và đỡ-nâng,.

Đức Giêsu thực-thi “tiệc bàn rộng mở” và Ngài cũng đã chữa-lành miễn phí rất nhiều người. Theo tôi, sứ-vụ của Ngài đặt nền-tảng thế này: Ngài mời gọi mọi người mặc vào mình lối sống có thách-thức, nhưng đầy trợ-lực.

Trọng-tâm cuộc vận-động do Ngài thành-lập từ đầu là cùng tham-gia “tiệc bàn rộng mở” và Ngài còn chữa-lành miễn phí cho nhiều người. Phối-hợp việc sẻ-san chất-lượng ăn uống bằng chất-liệu thiêng-liêng để chữa-lành như thế, còn thấy rõ nơi cốt-lõi của sứ-vụ Đức Giêsu thực-hiện.

Tiến-trình này, còn đưa vào thứ linh-đạo khác biệt hẳn về nền-tảng. Sự việc này, nhằm mục-tiêu đưa các bản-thể gộp chung vào cộng-đoàn vốn trải-nghiệm tình thương-yêu Chúa đặt nơi bạn đồng-hành cùng một cảm-tính, không chỉ ngang qua mỗi động-thái đồng-hành ấy, mà thôi.

Ngài không theo hệ-cấp trên/dưới nối kết chủ-nhân với người trung-gian/môi giới; cũng chẳng kết-hợp với người ở thế đứng trung-lập trong xã-hội vốn tạo cơ-cấu Đạo/đời ở Địa Trung Hải. Đức Giêsu sống-thực quan-hệ rộng mở và trực-tiếp với Thiên-Chúa và Ngài mời gọi mọi người hãy hành-xử giống như Ngài.

Vương-Quốc-Nước-Trời không là chương-trình dành cho người đơn chiếc, tách-biệt nhưng là đường lối sống đại-đồng có trợ-lực người tham-gia/can-dự để họ có thể tiếp-cận trực tiếp với Thiên Chúa, thay vì trở-thành thứ gì đó thay cho thách-thức này.

Tiếp theo đây là đoạn Tin Mừng từng đề-cập đến sứ-vụ này:

“[Đức Giêsu] bảo các ông: Anh em hãy ra đi. Này, Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.”

“Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình-an cho nhà này!” Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình-an, thì bình-an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình-an đó sẽ trở lại với anh em. Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. [Với tác-giả Luca thì như thế; còn tác-giả Mát-thêu lại gọi đó là thực-phẩm] Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia.

“Vào bất cứ thành nào được người ta tiếp đón, hãy cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. Hãy chữa-lành người đau yếu trong thành, và nói với họ: “Triều-Đại Thiên-Chúa đã đến gần các ông.”

Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em hãy ra quảng-trường mà nói: “Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên, các ông nên biết điều này: Triều-Đại Thiên-Chúa đã gần kề.” (Lc 10: 2-11, cộng thêm một đôi điều để nhấn mạnh)

Ở đây, một số câu hỏi cần đặt ra để ta tra-vấn đoạn này. Trước nhất, hỏi rằng: Ai là người được Đức Giêsu sai lên đường thực-hiện sứ-vụ như thế? Trình-thuật tác-giả Thomas ghi, chỉ nói: họ là những người “dấn bước theo” Ngài, thôi. Còn, trình-thuật Tin Mừng Nguồn (tức Quelle) lại qui về “70 tông-đồ khác”.

Trong khi đó, trình-thuật tác-giả Mác-cô qui về nhóm “Mười Hai”. Nên, câu trả lời của tôi ở đây, cho vấn-nạn này là: các vị được Đức Giêsu sai đi, không thuộc nhóm/hội gần-cận với Ngài và chẳng phải môn-đồ đặc-biệt.

Nhưng, có thể là, một số các vị lại không là người từng tự-ý từ-bỏ hết mọi sự, mà là thừa-sai vừa để mất tất cả mọi thứ. Các vị này được định-danh là người tách-bạch nghèo đói khỏi niềm tuyệt-vọng.

Ở nơi đó, đã thấy ló rạng tiến-trình thành-thị-hoá do người La Mã áp-đặt nặng-nề lên những người nhà quê chân-chất, ở thôn làng. Không phải mọi nông-gia đều ra như tuyệt-vọng hết, nhưng cuộc sống của họ lại đã trở-nên bấp-bênh, bất ổn.

Theo tôi, Đức Giêsu đã tạo hệ-thống chữa-lành mang tính khải-huyền sẻ-san cho mọi người hệt như ông Gioan cũng đã tạo hệ-thống các kỳ-vọng được san sẻ.

Điểm đặc-trưng/đặc-thù tôi đưa ra để bàn về chuyện này, là cụm-từ “vốn dĩ là người…” Kịp khi tác-giả Mác-cô kể truyện, ông đã đặt vào miệng Đức Giêsu lệnh-bài sai nhóm Mười Hai ra đi từng hai người một.

Ở đây, ta nên hỏi: sao lại thế? Nhìn về đoạn trước, khi hướng về truyện kể mang tính biểu-trưng để ta được học nhiều điều hơn nữa. Học kỹ-lưỡng các chương/đoạn nói về Phục Sinh –như truyện “Trên đường Emmaus” chẳng hạn, ta nhận ra được ý-nghĩa làm nền cho việc thực-hiện thừa-sai theo phương-cách đi từng cặp “hai người một”.

Truyện kể hai đồ-đệ dấn bước theo chân Đức Giêsu đi từ Giêrusalem đến Emmaus vào Chúa Nhật Phục Sinh hôm ấy, thì: một vị mang tên Cleopas, là nam-nhân. Còn vị kia, không được nêu danh-tánh, nhưng ta vẫn đoán được vị ấy là nữ-phụ.

Tuy thế, cũng nên nhớ rằng: thừa-tác-viên nữ này chưa từng được Kinh Sách định-danh gọi là vợ của đồ-đệ mang tên Cleopas, bao giờ hết. Nên, ta phải hiểu câu “Hãy đi từng cặp hai người một” theo nghĩa nào, ở đây?

Tác-giả Phaolô, khi bàn về sinh hoạt mục-vụ của ông ở “thư thứ nhất gửi giáo-đoàn Côrinthô”, ông lại viết: “Phải chăng tôi không có quyền đem theo một chị/em tín-hữu như tông-đồ khác, như anh em của Chúa và như ông Kê-pha sao?” (ICor 9: 5)

Tiếng Hy-Lạp, nghĩa đen của cụm từ “chị-vợ” dịch sang Anh-ngữ lại trở-thành “là vợ và cũng là kẻ tin”. Ông Phaolô, trên thực-tế, không lập gia-đình với ai hết. Thế nên, theo tôi thì, khi định-danh bằng cụm-từ “chị-vợ”, ta không nên qui về người phối-ngẫu trong hôn-nhân, mà chỉ là thừa-tác-viên nữ từng tháp-tùng các nam thừa-tác-viên như ta thường thấy thế-giới bên ngoài làm thế.

Nữ-phụ đi cùng đồ-đệ Cléopas ấy, chắc-hẳn không là ai khác ngoài bà vợ của ông. Thế nhưng, hỏi rằng: Sao phải đi từng cặp hai người một như thế? Câu trả lời, hẳn sẽ rõ là: có làm thế mới, bảo-vệ được nữ thừa-tác-viên về mặt xã-hội, vốn dĩ là người từng lữ-hành ở thế-giới do nam-nhân chuyên cầm-cân-nẩy-mực, chuyên khuynh-loát theo cung-cách rất bạo-lực.

Theo tôi, đó là chủ-đích ban đầu của Đức Giêsu khi Ngài sai-phái mục-tử “đi-từng-cặp-hai-người-một” cốt để cho nữ-giới cũng được phép làm công-tác mục-vụ, như nam-nhân.

Sinh-hoạt mục-vụ “đi-từng-cặp” như thế có nghĩa rất rõ ở điểm: nó không chỉ giúp ta hiểu được ý của Đức Giêsu, nhưng còn cho phép nữ-giới có vai-trò đáng kể nơi Đạo Chúa, ở thời hiện-đại.

Đoạn trên, giúp ta có cái nhìn thận-trọng hơn qua lời dặn: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép [đó là lời dặn-dò các giới-chức]. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.” Đây là hình-ảnh về những gì mà ngày nay ta thường gọi là “qui-định về sắc-phục” đặt ra cho cuộc vận-động Vương-Quốc-Nước-Trời. (X. John Dominic Crossan, Who is Jesus, Westminster John Knox Press 1999, tr.88-89)

Thế đấy! Ra đi với người ở ngoài, ngoài Đạo/ngoài đời là như thế. Không sắc-phục lộng-lẫy, cũng không phận-biệt gái/trai, già/trẻ. Ra đi, trong tư-thế thoải-mái, dễ chịu như những người không còn gì để sợ mất. Nhưng, là giúp người khác không sợ mất mát gì. Bởi, người đời vẫn cứ bảo-ban và nhắn-nhủ những lời như:

“Bạn lòng thân mến

đây tôi hiến bài ca

mong ai hát vui hòa

Bạn là xuân thắm

Cho tôi đón nhiều hoa

gieo hương mái tranh nhà

Rồi ta chung ngắm

Đôi chim lướt trời xa

Say sưa muôn tiếng ca

Để hồn vui nhớ, câu mơ ước ngày xưa

Nay dâng đẹp tình thơ.”

(Hoàng Trọng/Hồ Đình Phương – bđd)

Nay dâng đẹp tình thơ” qua điệu nhạc, là như thế. Như thế, tức: vẫn đẹp một cuộc đời giống như lời kể ở cốt truyện nhè nhẹ như sau:

Tại một quán ăn ở Thượng Hải, có một cô hầu bàn phụ trách mang thức ăn lên cho chúng tôi, nhìn cô ấy trẻ trung tựa như một chiếc lá non.

Khi cô ấy bê cá hấp lên, đĩa cá bị nghiêng. Nước sốt cá tanh nồng rớt xuống, rơi xuống chiếc cặp da của tôi đặt trên ghế. Theo bản năng tôi nhảy dựng lên, nộ khí xung lên, khuôn mặt trở nên sầm xuống.

Thế nhưng, khi tôi chưa kịp làm gì, con gái yêu của tôi bỗng đứng dậy, nhanh chóng đi tới bên cạnh cô gái hầu bàn, nở một nụ cười dịu dàng tươi tắn, vỗ vào vai của cô bé và nói: “chuyện nhỏ thôi, không sao đâu”

Nữ hầu bàn vô cùng ngạc nhiên, luống cuống kiểm tra chiếc cặp da của tôi, nói với giọng lúng túng: “Tôi… để tôi đi lấy khăn lau … ”

Không thể ngờ rằng, con gái tôi bỗng nói: “Không sao, mang về nhà rửa là sạch rồi. Chị đi làm việc của chị đi, thật mà, không sao đâu, không cần phải đặt nặng trong tâm đâu ạ.”

Khẩu khí của con gái tôi thật là nhẹ nhàng, cho dù người làm sai là cô hầu bàn. Tôi trừng mắt nhìn con gái, cảm thấy bản thân mình như một quả khí cầu, bơm đầy khí trong đó, muốn phát nổ nhưng không nổ được, thật là khốn khổ.

Con gái bình tĩnh nói với tôi, dưới ánh đèn sáng lung linh của quán ăn, tôi nhìn thấy rất rõ, con mắt của nó mở to, long lanh như được mạ một lớp nước mắt.

Tối hôm đó, sau khi quay trở về khách sạn, khi hai mẹ con nằm lên giường, nó mới dốc bầu tâm sự:

Con gái tôi phải đi học ở London 3 năm. Để huấn luyện tính tự lập cho nó, tôi và chồng không cho nó về nhà vào kỳ nghỉ, chúng tôi muốn nó tự lập kế hoạch để đi du lịch, đồng thời cũng muốn nó thử trải nghiệm tự đi làm ở Anh Quốc.

Con gái tôi hoạt bát nhanh nhẹn, khi ở nhà, mười đầu ngón tay không phải chạm vào nước, những công việc từ nhỏ tới lớn cũng không đến lượt nó làm. Vậy mà khi rơi vào cuộc sống lạ lẫm tại Anh Quốc, nó lại phải đi làm bồi bàn để thể nghiệm cuộc sống.

Ngày đầu tiên đi làm, nó đã gặp phải rắc rối.

Con gái tôi bị điều đến rửa cốc rượu trong nhà bếp. Ở đó có những chiếc cốc thủy tinh cao chân trong suốt, mỏng như cánh ve, chỉ cần dùng một chút lực nhỏ là có thể khiến chiếc cốc bị vỡ, biến thành một đống vụn thủy tinh.

Con gái tôi thận trọng dè dặt, như bước đi trên băng, không dễ dàng gì mà rửa sạch hết một đống lớn cốc rượu. Vừa mới thả lỏng không chú ý, nó nghiêng người một chút, va vào một chiếc cốc, chiếc cốc liền rơi xuống đất, “xoảng, xoảng” liên tục những âm thanh vang lên. Chiếc cốc hoàn toàn biến thành đống thủy tinh vụn lấp lánh trên mặt đất.

“Mẹ ơi, vào thời khắc đó, con có cảm giác bị rơi xuống địa ngục.” giọng nói của con gái tôi vẫn còn đọng lại sự hồi hộp lo lắng.

“Thế nhưng, mẹ có biết người quản lý ca trực đó phản ứng thế nào không? Cô ấy không hề vội vàng mà bình tĩnh đi tới, kéo con lên và nói: Em gái, em không sao chứ?”

Sau đó, cô ấy quay đầu lại nói với những người khác: Các bạn mau đến giúp cô gái này dọn dẹp sạch đống thủy tinh nhé!

Đối với con, ngay đến cả một chữ nửa câu trách móc cũng không có!”

Lại một lần nữa, khi con rót rượu, không cẩn thận làm đổ rượu vang nho lên chiếc váy trắng của khách, khiến cho chiếc váy trở nên loang lổ.

Cứ tưởng vị khách đó sẽ nổi trận lôi đình, nhưng không ngờ cô ấy lại an ủi con: “không sao đâu, rượu ấy mà, không khó giặt.”

Vừa nói, vừa đứng lên, nhẹ nhàng vỗ vào vai con, từ từ đi vào phòng vệ sinh, không nói toang lên, cũng không làm ầm ĩ, khiến con tròn mắt như con chim yến nhỏ vì quá đỗi ngạc nhiên.

Giọng nói của con gái tôi, mang đầy tình cảm: “Mẹ à, bởi vì người khác có thể tha thứ lỗi lầm của con trước đây, nên mẹ hãy coi những người phạm sai lầm kia như con gái của mẹ, mà tha thứ cho họ nhé!”

Lúc này, không khí trở nên tĩnh lặng như màn đêm, tròng mắt của tôi ướt đẫm lệ…

Tha thứ cho người khác chính là tha thứ cho chính mình. Như tác giả nổi tiếng Andrew Matthews từng viết: “Bạn tha thứ cho mọi người vì chính lợi ích thiết thân của bạn. Nó sẽ làm cho bạn hạnh phúc hơn.”

Bạn thân mến, chúng ta cảm động khi người khác cảm động, điều đó khiến chúng ta có thể thay đổi hành vi và lời nói của chính mình, hãy để những thiện ý này lưu truyền mãi về sau … như thế, mỗi ngày của chúng ta sẽ đều là hạnh phúc và may mắn!” (Theo NTDTV)

Nghe truyện kể nhè nhẹ như thế rồi, nay lại xin bạn, xin tôi ta hãy về với vườn nho đầy Lời Nhắn rất thanh tao, nhè nhẹ ở Kinh Sách, như sau:

“Anh chị em hãy có lòng nhân từ,

như Cha anh chị em là Đấng nhân từ.

Anh em đừng xét đoán,

thì anh chị em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán.

Anh chị em đừng lên án,

thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án.

Anh chị em hãy tha thứ,

thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha.

Anh chị em hãy cho,

thì sẽ được Thiên Chúa cho lại.

Người sẽ đong cho anh chị em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn,

mà đổ vào vạt áo anh chị em.

Vì anh chị em đong bằng đấu nào,

thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh chị em bằng đấu ấy.”

(Lc 6: 36-38)

Nghe Đấng Thánh Nhân-hiền trong Đạo bảo thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta lại nghe hát thêm một lần nữa, những lời êm ả, nhè nhẹ như câu ca vẫn nghe thấy:

“Bạn lòng thân mến,

đây tôi hiến bài ca,

mong ai hát vui hòa.

Bạn là xuân thắm,

Cho tôi đón nhiều hoa,

gieo hương mái tranh nhà.

Rồi ta chung ngắm,

Đôi chim lướt trời xa,

Say sưa muôn tiếng ca.

Để hồn vui nhớ,

câu mơ ước ngày xưa,

Nay dâng đẹp tình thơ.”

(Hoàng Trọng/Hồ Đình Phương – bđd)

Có hát lời ‘dâng hiến một bài ca’ thôi, cũng rất đủ. Bởi, cứ hát như thế mãi rồi ra cũng có ngày bạn và tôi, ta thực hiện được những lời nhắn ở trong Đạo, lẫn ngoài đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn nghe những lời

Từng nhắn và nhủ cũng rất nhiều.

Nhưng, nhớ và thực hiện

Vẫn chẳng được bao nhiêu.

Thế mới chết!

Ngươi giam chí lớn vòng cơm áo,

“Ngươi giam chí lớn vòng cơm áo,”

Ta trói thân vào nợ nước mây.

Ai biết thương nhau từ thuở trước,

Bây giờ gặp nhau trong phút giây.”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

Mai Tá, lược dịch

“Ai biết thương nhau từ thuở trước, nên vẫn trói thân vào nợ nước mây”, lời thơ đời nhiều lúc cũng xứng-hợp với tâm-tình nhà Đạo, vào những ngày có Chúa tỏ bày sự thật tình thương yêu với nhiều người, dù thiếu thốn. Tình nhà Đạo hôm nay, lại được diễn-bày một lần nữa bằng nhiều thứ cả truyện kể dân gian, lẫn trình thuật.

Về truyện kể, mới đây tôi được mời đến ăn tối ở nhà người bà con, thân thuộc. Gia đình lúc ấy đang ở trong tình huống lúng túng với cô con gái tuổi mới 13, mà tinh khí đã thất thường. Trước mặt khách quan, mà cô bé vẫn tỏ thái độ bất cần đời, nổi loạn. Cô không thích món rau trộn mẹ cô làm. Nên, mặt mày cô ủ rũ, nhất quyết tuyệt thực, để phản đối. Tự nhiên, món rau trộn trở thành đầu giây mối nhợ cho một mâu thuẫn, nghịch thường giữa hai thế hệ, mẹ và con.

Bà mẹ cố nhỏ nhẹ thuyết phục con gái yêu bằng những lời lẽ, rất ôn tồn: “Con à, phí của giời như thế, tội chết! Con biết không, trên thế giới còn rất nhiều người thèm được ăn cọng rau con bỏ đi, đấy. Họ mà ăn được đĩa sà-lát này, chắc sẽ nhớ ơn suốt đời”. Nghe thế, chẳng nói chẳng rằng, cô bé vụt dậy, bỏ đi nơi khác.

Hồi sau trở lại, cầm chiếc phong bì lớn với cây bút nét đậm, cô đổ luôn đĩa rau vào phong bì, dán lại rồi vùng vằng nói: “Vậy chứ, bà muốn tôi gửi gói rau thúi cho đứa chó chết nào đây? Địa chỉ đâu?” Chứng kiến cảnh ‘hỡi ôi’ ấy, tôi thấy, ở đời làm cha làm mẹ không phải chuyện dễ. Sống độc thân như tôi, có khi thế mà lại hay. Nhưng, tất cả vẫn là: thông cảm, hoà hoãn, và kết hợp.

Phúc âm hôm nay cho thấy, khi biến 5 chiếc bánh và 2 con cá nuôi đủ 5 ngàn người, Đức Kitô nói thêm: “Mấy ông hãy thu nhặt các vụn vặt, còn thừa. Đừng bỏ phí.” Nghe Ngài nói, chắc người phương Tây chúng ta cũng chẳng bao giờ mường tượng nổi cái cảnh bụng đói cồn cào mà người dân ở các nước chậm phát triển đang gặp, hằng ngày.

Có chứng kiến cảnh người nghèo đói chết dọc đường, các nước Âu Mỹ mới biết họ đang phung phí của ăn thức uống, đến chừng nào. Có lẽ, phải là thân thuộc người nhà đang chết dần chết mòn vì đói, hẳn mọi người mới thấy quý cuống rau, hột gạo. Và, dân tộc nào một khi đã kinh qua cảnh kinh tế suy thoái, chiến tranh điêu tàn, mới thấu hiểu ý nghĩa của câu nói: “Đừng bỏ phí!”.

Ngày nay, những ai có kinh nghiệm về đói-nghèo, đều đã cảnh giác trước những tình huống phung phí, đổ bỏ. Trong khi đó, ngược lại, vẫn có nhiều người tìm cách quên đi những tháng ngày cồn cào, thời bĩ cực. Họ chỉ biết quan tâm đến chuyện ‘khoan khoái’, hưởng thụ. Với người sống ở các nước đã phát triển, như cô bé tuổi 13 vừa kể, đói và khát chỉ là chuyện trong sách vở, quá khứ. Con người ngày nay đã quen đi các thảm cảnh xưa cũ, đang ‘ăn vào’ thân xác của mình, để rồi cứ thế béo phì, dư mỡ.

Có người còn cho rằng: câu truyện Phúc âm về 5000 người được nuôi béo, đủ ăn, hoàn toàn có tính cách tượng trưng, giả tưởng. Chẳng cần tranh cãi, câu truyện Tin Mừng hôm nay qui chiếu về Thân Mình Đức Kitô, nơi đó chúng ta đang được Đức Chúa nuôi dưỡng bằng tình thương yêu, linh đạo. Tin Mừng của Chúa còn soi dọi về bữa tiệc lòng mến viên mãn, kéo dài. Ở nơi đó, không còn ai bụng đói, chết thèm. Dù chỉ cuống rau, hột gạo hoặc giọt nước trong lành.

Tin Mừng của Chúa đòi chúng ta nhìn vào thế giới hôm nay, với nhãn giới Vương quốc Nước Trời; ở đó, vị Chúa tể Tình thương vẫn san sẻ, quyết rời bỏ chốn ngai vàng bệ cao, ngõ hầu những người bụng cồn dạ đói, mới có được sự đỡ nâng, no đầy. Và, lúc ấy, các người giàu sang, phung phí lâu nay chẳng đoái hoài gì chuyện sẻ san, nuôi sống kẻ khác, sẽ bị án phạt, chúc dữ.

Có một yếu tố được gọi là sự ‘lầm-lỡ ân-tình’. Chính nhờ yếu tố này, chúng ta biết được những gì ta chịu làm, hoặc vẫn không muốn làm, ngõ hầu đem Vương quốc Nước Trời về với thế-giới-có-quá-nhiều-thức-ăn-thừa-mứa.

Nếu biết rằng, trên thế giới, mỗi ngày bình quân có đến 29,000 người đã và đang chết một cách lãng phí, chỉ vì thiếu thức ăn, nước uống; và từ đó, là bệnh tật do thiếu thốn, do thái độ cố ý quên lãng nơi những người dư ăn, dư mặc là chúng ta; thì thử hỏi: phải chăng đây là một đáp trả có lý lẽ, hẳn hòi?

Vấn đề đặt ra hôm nay, là: có một khoảnh khắc trầm lặng, lành mạnh nào đó khơi dậy cuộc sống của chúng ta, về một chuyển đổi các thứ tự ưu tiên trong mọi sự việc. Chuyển đổi các thứ tự ưu tiên trong hành động, để rồi dẫn đến kêu gọi phải có thay đổi trong quyết định đối xử với nước nghèo, người nghèo?

Cụ thể hơn, cần có một thay đổi về hệ cấp ưu tiên trong hành xử; ưu tiên cao, từ nay, không còn tùy vào số lượng và kết quả của súng ống bom đạn nữa, mà là số lượng các bé lê lết thân gầy, những bụng cồn, dạ đói, đang chết khát.

Tôi vẫn tự hỏi: Đức Chúa nghĩ gì khi Ngài nghe người các nước giàu sang biện luận rằng: sở dĩ họ không chia sớt thức ăn, của cải cho người nghèo đói, là vì tại đây vẫn còn các nhà độc tài, tự cao tự mãn, chuyên ăn trên ngồi chốc, không lo cho con dân của mình; thậm chí, vẫn cứ vơ vét tiền tài, vật chất đem chôn giấu tại các ngân hàng úp mở ở Thụy sỹ -hay đâu đó- hoặc vẫn bỏ tiền ra quyết xây dựng thật nhiều vũ khí hạt nhân, qui ước. Và, muôn ngàn lý do khác khả dĩ biện minh cho thái độ ơ hờ, quên lãng.

Dù có phải đối đầu với những vấn đề phức tạp như thế, chúng ta vẫn còn khá nhiều phương thế thực tiễn hầu cứu sống người đói kém, nghèo hèn. Bởi, người nghèo đói có được cứu sống, đỡ nâng tăng cường sinh lực, thì một ngày no đó, mới có khả năng lo cho đất nước, dân tộc của chính mình.

Với câu nói xấc xược của cô bé tuổi 13: “Vậy chứ, bà muốn tôi gửi mớ rau thúi cho đứa nào đây?” tôi đã có câu trả lời: “Này cháu, hãy viết chính tên mình vào bì thư mà gửi. Bởi, chính sự dư dật thừa mứa lâu nay đã biến cháu thành người có nhiều nhu cầu nhất thế giới đó.”

Cầu mong Tiệc thánh hôm nay giúp ta làm được đôi chuyện cho trái đất này, như ta sẽ làm ở nơi cao, chốn vĩnh hằng, muôn thuở. Bởi, Vương quốc Nước Trời chính là chốn có nhiều người bụng đói, môi miệng khát thèm dù chỉ một giọt nước trong lành. Bởi, nơi đó, mọi người không kể đói no giàu nghèo, đều được đón tiếp, ăn uống thỏa thuê. Bởi, những gì ‘dư thừa còn sót’ đã được các đấng công chính thu nhặt lại, chẳng bỏ phí. Và, ở nơi đó, chẳng có gì để vứt bỏ, phung phí.

Quả là, trần gian còn đó nỗi buồn. Buồn, vì vẫn còn nghịch lý, trớ trêu. Trớ trêu, vì lý lẽ rất nghịch là bởi người đời sống với nhau rất gần, kéo dài nhiều năm tháng, nhưng vẫn chẳng tìm đâu ra nỗi niềm hân hoan, trao đổi. Người người vẫn cứ quan hệ đối trao, nhưng nào có được sự cảm thông, kết hợp. Chí ít, là thông cảm thắm thiết tình mẹ con, chồng vợ.

Nỗi buồn trần gian cứ mãi miên trường, không dứt. Và, trớ trêu vẫn chỉ chấm dứt, khi những người con trâng tráo, xấc xược biết thông cảm, hiểu được mẹ hiền. Nghịch lý cuộc đời sẽ chỉ kết thúc, một khi kẻ giàu người sang biết san sẻ tiền tài, vật chất với dân hèn mạt kiếp, đang cồn cào đói khát hiệp thông, chia sớt.

Chia của ăn thức uống, sớt tình thương yêu, vỗ về, khi ấy, Nước Trời đã trở thành hiện thực. Vương quốc Đức Kitô đã nên ngời sáng. Đấy mới là nhu cầu ‘ắt và đủ’ trong cuộc sống, người đời.

Bằng động-thái san sẻ tình thương-yêu qua bánh/cá, ta lại sẽ ngâm tiếp lời thơ trên, rằng:

“Ai biết thương nhau từ thuở trước,

Bây giờ gặp nhau trong phút giây.”

(Nguyễn Bính – Hành Phương Nam)

Thương nhau từ thuở trước, là thương và san sẻ cho nhau những gì những gì người còn thiếu thốn. Sẻ và san tất cả, để mỗi người và mọi người sẽ còn nhớ mãi tình Chúa yêu thương hết muôn người. Thương yêu mọi người, Ngài luôn tỏ bày trong mọi tình-huống có sẻ san, giùm giúp rất đùm bọc, ở trong đời. Với mọi người.

Lm Richard Leonard sj biên soạn – Mai Tá, lược dịch

Tin Mừng ((Ga 6: 1-15)

Sau đó, Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ ở Galilê, cũng gọi là Biển Hồ Tibêriat. Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái.

Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”

Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. Ông Philípphê đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.” Một trong các môn đệ, là ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, thưa với Người: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” Đức Giêsu nói: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi.” Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. Vậy, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi.” Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói:”Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian! ” Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.