“Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”

“Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”

(14.9.2015 – Thứ Hai – Lễ Suy Tôn Thánh Giá)

Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc,
Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.

“Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”
(Ds 21, 4b-9 và Ga 3, 13-17)

4 Từ núi Ho, họ lên đường theo đường Biển Sậy, vòng qua lãnh thổ Ê-đôm; trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Ít-ra-en mất kiên nhẫn.5 Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê rằng: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này.”

6 Bấy giờ ĐỨC CHÚA cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết.7 Dân đến nói với ông Mô-sê: “Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách ĐỨC CHÚA và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu ĐỨC CHÚA để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi.” Ông Mô-sê khẩn cầu cho dân.

8 ĐỨC CHÚA liền nói với ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.”9 Ông Mô-sê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống.

13 Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống.14 Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy,15 để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.

16 Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.17 Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

BA CUỘC ĐỜI – BA CÁCH CHẾT

BA CUỘC ĐỜI – BA CÁCH CHẾT

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

Trên đồi Golgotha cách đây hơn hai ngàn năm, có 3 tử tội trên thập giá.  Ba con người đều chết trên thập giá với ba thái độ khác nhau.  Đó chính là Thầy Giêsu ở giữa.  Một người bên hữu được gọi là trộm lành.  Một người bên tả truyền thống vẫn gọi là trộm dữ.  Tại sao cùng một hoàn cảnh mà cách thức đón nhận lại khác nhau?  Đâu là điểm khác biệt giữa ba con người?

Trước hết đó là Thầy Giêsu, một con người đã tự nguyện vác thập giá để cứu độ chúng sinh.  Ngài chấp nhận đi vào cái chết không phải do tội của mình mà vì tội của nhân gian.  Ngài đã chết để thí mạng vì bạn hữu.  Cả cuộc đời của Ngài đã sống vì người khác.  Ngài đã sống một cuộc đời để yêu thương và yêu thương cho đến cùng.  Ngài đã đi đến tận cùng của yêu thương là thí mạng mình vì bạn hữu.  Cái chết của Ngài là bằng chứng cho tình yêu.  Đau khổ Ngài chịu cũng vì yêu thương nên Ngài không than vãn, không uất hận vì đời đen bạc.  Không nguyền rủa cuộc đời vì những gánh nặng đang đè trên vai.  Vì yêu đối với ngài không chỉ là tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, mà còn dám chết cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Thế nên, đau khổ đối với Ngài là niềm vui.  Và ngài đã đi vào cái chết trong thanh thản vì đã hoàn thành sứ mạng đời mình: “yêu thương và phục vụ cho” người mình yêu.  Ngài không hối tiếc về cuộc sống đã qua.  Ngài không hối hận vì việc mình đã làm.  Ngài rất vui vì đã đi trọn con đường của tình yêu.  Ngài đã trút hơi thở cuối cùng trong an bình khi Ngài nói cùng nhân loại “mọi sự đã hoàn tất” và nói cùng Chúa Cha “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn trong tay Cha.”

Người thứ hai là anh trộm lành. Anh là một tội nhân.  Anh đón nhận hình phạt và cái chết vì chính tội của mình.  Nhưng anh là một con người biết phải trái.  Anh biết việc mình làm là đáng tội, là đáng phải chịu hình phạt.  Cuộc đời anh chưa làm điều gì tốt cho tha nhân . Anh đã sống một cuộc đời chỉ làm hại người khác.  Thế nên, anh đã nói với Chúa: “Tôi đã bị như thế này là xứng đáng với tội của tôi.”  Anh đón nhận thập giá để đền bù những lầm lỗi đã qua.  Anh chấp nhận cái chết nhục nhã như là hình phạt đích đáng vì tội của mình.  Anh đã tìm được bình an trong giờ phút cuối cùng của đời người.  Anh cũng biết rằng anh không xứng đáng chung phần hạnh phúc thiên đàng với Thầy Giêsu, anh chỉ mơ ước Thầy Giêsu nhớ tới anh khi Thầy về thiên đàng.  Đối với anh thập giá là cơ hội để anh để anh đền bù lầm lỗi.  Thập giá là nhịp cầu đưa anh vào thiên đàng.  Thế nên, anh đón nhận thập giá với lời xin vâng theo mệnh trời.  Anh không oán trời, oán đất.  Anh đi vào cái chết với tâm hồn thanh thản vì anh đã đền bù những lầm lỗi của quá khứ cuộc đời.

Người thứ ba là anh trộm dữ. Anh lao vào cuộc đời như con thú đang tìm mồi.  Cuộc đời anh chỉ tìm hưởng thụ cho bản thân.  Vì ham muốn danh lợi thú anh đã sẵn sàng hạ thấp nhân phẩm mình và chà đạp phẩm giá của tha nhân.  Anh đang có nhiều toan tính để hưởng thụ.  Thế nên, anh không chấp nhận thập giá trên vai anh.  Anh không chấp nhận kết thúc cuộc đời bằng cái chết bi thảm trên thập giá.  Anh đòi quyền sống.  Sống để hưởng thụ.  Anh nổi loạn vì đời anh còn quá trẻ, còn quá nhiều tham vọng nên anh không thể chấp nhận cái chết đến với mình.  Thế nhưng, anh vẫn phải chịu hình phạt vì tội của mình.  Công lý đòi buộc anh phải thi hành, dầu anh không muốn.  Thập giá làm cho anh đau khổ.  Cái chết làm cho anh nổi loạn.  Anh nguyền rủa trời, nguyền rủa đất và xúc phạm cả đến Thầy Giêsu, một con người đang phải chịu cái chết vì đã liên đới với anh.  Anh đã chết trong sự hoảng loạn và khổ đau.

Mỗi người chúng ta đang sống một cuộc đời cho chính mình.  Mỗi người chúng ta đang đón nhận thập giá với thái độ khác nhau.  Có người chấp nhận thập giá để đền tội.  Có người chấp nhận thập giá vì lòng yêu mến tha nhân.  Và cũng có người đang từ chối thập gía trong cuộc đời.  Hạnh phúc hay đau khổ tuỳ thuộc vào việc chọn lựa sống của chúng ta.  Nhưng dù con người có muốn hay không?  Thập giá vẫn hiện diện.  Thập giá của bổn phận.  Thập giá của hy sinh từ bỏ những tham lam bất chính, những ham muốn tội lỗi, những ích kỷ tầm thường.  Đón nhận thập giá sẽ mang lại cho ta tâm hồn bình an vì đã sống đúng với bổn phận làm người.  Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta đền bù những thiếu sót trong cuộc sống của mình và của tha nhân.  Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta tiến tới vinh quang phục sinh với Chúa trên thiên đàng.

Nguyện xin Chúa là Đấng đã vui lòng đón nhận thập giá vì chúng ta, nâng đỡ và giúp chúng ta vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa.  Xin giúp chúng ta biết sống một cuộc đời hy sinh cao thượng để chúng ta không hối hận vì quá khứ, nhưng luôn bình an vì đã sống chu toàn bổn phận của mình với lòng mến Chúa, yêu người.  Amen.

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

Lạy Chúa, Con Đây!

Lạy Chúa, Con Đây!

Lạy Chúa,
con hay có cái nhìn bi quan về cuộc sống.
Dù ở góc độ nào hay hoàn cảnh nào
con cũng thấy cuộc đời đầy những gam màu buồn
với những vệt mờ và bóng tối
những bế tắc và cùng túng
những rác rưởi và cặn bẩn…

Nhưng Chúa ơi,
là cuộc sống đã quá bẩn
hay vì ánh mắt con đã bị nhiễm bẩn quá nhiều
bởi những mặt trái của cuộc sống?
Là cuộc đời quá u buồn ảm đạm,
hay vì thói quen bi quan và yếu đuối
vốn đã là một phần cố hữu trong cái nhìn của con?

Nếu cuộc sống được con dựng nên như một pháo đài
rồi tự giam mình trong một góc cùng túng nhỏ hẹp
trong thái độ thụ động của cố chấp và bảo thủ,
nếu con đánh mất khả năng lắng nghe và học hỏi
chỉ biết xét đoán và kết án
chỉ biết thất vọng và bi quan,
thì không phải là con đang sống
nhưng là đang chết đi từng ngày…

Xin thánh hoá con từ trong cái hình
và thổi vào con tinh thần sống tích cực.
Xin dạy con thắp lên một điểm sáng cho đời
thay vì cứ bi quan và nguyền rủa bóng tối.
Xin tái tạo trong con thiện chí và niềm tin
để con đủ sức băng qua những hoang lạnh mờ tối
mà tìm về vùng trời nắng ấm của cuộc đời.

Tác giả: Minh Gian
http://dongten.net/noidung/52933

TƯỞNG LẦM

TƯỞNG LẦM

Tgm. Giuse NGÔ QUANG KIỆT

Trích EPHATA 658

Trong đời sống có rất nhiều điều hiểu lầm. Chẳng hạn xưa kia khi thấy mặt trời cứ sáng mọc tối lặn, người ta tưởng rằng trái đất đứng yên và mặt trời di chuyển chung quanh trái đất. Nhưng khoa học tiến bộ đã minh chứng mặt trời đứng yên, chính trái đất mới xoay chung quanh mình và chung quanh mặt trời.

Trong đời sống đạo cũng đã có những hiểu lầm như thế. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu Thế sẽ uy nghi từ trên mây trời hiện đến. Không ngờ Người lại do một thôn nữ dưới đất sinh. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu Thế phải ngự trong lâu đài sang trọng của vua chúa. Nhưng không ngờ Người lại sinh ra trong chuồng bò lừa. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu Thế phải uy quyền lẫm liệt. Nhưng không ngờ Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu Thế phải đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do Thái lên địa vị bá chủ. Nhưng không ngờ Người chịu thua hết mọi người, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, chịu chết như một kẻ tội lỗi. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu Thế là một ông vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Người lại quỳ xuống hầu hạ, rửa chân cho các môn đệ.

Có quan niệm sai lầm về Thiên Chúa, người ta cũng sai lầm về người môn đệ. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì sẽ được chức cao quyền trọng trong Nước Chúa. Nên bà Giêbêđê mới xin Chúa cho hai người con là Gioan và Giacôbê được ngồi bên tả và bên hữu Chúa trong Nước Chúa. Nhưng không ngờ Chúa không hứa cho chức quyền mà chỉ hứa cho uống chén Người sẽ uống, nghĩa là phải chết. Người ta cứ tưởng người làm lớn trong Nước Chúa sẽ được trọng vọng, được phục dịch. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai trong anh em muốn làm lớn thì phải phục vụ anh em”. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì Chúa sẽ cho mọi sự may mắn ở đời, được thành công. Được giàu sang. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo”.

Hôm nay, sau khi nghe các môn đệ báo cáo về dư luận quần chúng, Đức Giêsu thấy họ quá sai lầm về Người, về vai trò Cứu Thế của Người, về con đường cứu chuộc. Nên Người đã dậy rõ ràng cho các môn đệ biết Đấng Cứu thế thực là Con Thiên Chúa. Nhưng con đường Người đi là con đường thập giá. Người phải chịu đau khổ, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, và phải chịu chết.

Người cũng cho các môn đệ biết ai muốn theo Người cũng sẽ phải đi vào con đường của Người. Phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Người.

Phải chăng Thiên Chúa muốn hành hạ con người, muốn con người tàn lụi chứ không muốn con người phát triển, muốn con người phải chịu đau khổ chứ không muốn con người được hạnh phúc ? Tại sao trên trần gian, người ta thường hứa hẹn cho những người theo mình hạnh phúc sung sướng mà Chúa thì làm ngược lại, chỉ hứa cho những người theo mình thánh giá và đau khổ ? Thưa, chắc chắn Chúa muốn cho con người được hạnh phúc.

Chính vì muốn con người được hạnh phúc mà Chúa đã phải xuống trần gian để cứu chuộc con người. Nhưng thứ hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho con người không phải là thứ hạnh phúc giả tạo dễ dàng và mau qua. Chúa muốn cho con người được hạnh phúc vĩnh cửu, hạnh phúc đích thật, hạnh phúc không bao giờ tàn úa. Muốn được hạnh phúc đó, con người phải kinh qua những vất vả, đau đớn. Đau đớn nhất là phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình.

Những vất vả đau đớn không phải là vì Chúa độc ác muốn hành hạ con người. Những đau đớn từ bỏ mình không phải là vì Chúa muốn con người đi vào tàn lụi diệt vong. Nhưng đó là qui luật, là điều kiện để được sự sống, được hạnh phúc đích thật. Chính Đức Giêsu cũng phải đi qua con đường thập giá khổ nhục mới đến hạnh phúc. Chính Người phải kinh qua cái chết đau đớn mới tới ngày phục sinh vinh quang. Nên Chúa đã nói với các môn đệ: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.

Thành ra, đau khổ Chúa hứa không phải để hành hạ con người, nhưng là con đường dẫn con người đến hạnh phúc đích thực. Thập giá và cái chết không phải để đưa con người vào tàn lụi, nhưng chính là điều kiện để con người được tái sinh và triển nở trong đời sống mới, đời sống vĩnh cửu với hạnh phúc không bao giờ tàn.

Những lời Chúa nói hôm nay, tuy khó nghe và khó chấp nhận. Nhưng đó là sự thật và là con đường đưa ta đến hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu. Chúa đã không lừa mị ta, không hứa hẹn cho ta những gì dễ dãi, chóng qua. Chúa chỉ cho ta đường ngay nẻo chính. Chúa mời gọi ta phải dũng mạnh, can đảm và quyết liệt trong cuộc chạy đua dành lấy hạnh phúc Nước Trời.

Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình, vác thập giá mình mà bước theo Chúa. Amen.

Tgm. Giuse NGÔ QUANG KIỆT

ĐƯỜNG LỐI CỦA CHÚA (2)

ĐƯỜNG LỐI CỦA CHÚA (phần 2)

Tác giả: Nhà Văn Hương Vĩnh

Nữ Thánh Rita Cascia

(Nữ Thánh Rita Cascia)

Thánh Rita Cascia (1381-1457) 76 tuổi, người nước Italia (Ý), nữ tu Dòng Thánh Augustinô. Thánh Rita sinh năm 1381, tại thành Cascia thuộc tỉnh Umbria, nước Ý. Cha mẹ có tinh thần đạo hạnh, cảm ơn Chúa đã cho sinh con như món quà quí.

Cô muốn dâng mình đi tu, nhưng cha mẹ lại bắt cô lập gia đình. Ban đầu cô hơi bực mình, nhưng Rita hiểu đây là Ý Chúa, nên cô bằng lòng. Rita kết hôn năm 12 tuổi, với một thanh niên quý tộc. Anh ta là người khô đạo, thường xuyên hành hạ vợ mình. Tuy nhiên, với tâm hồn đạo hạnh, Rita vẫn yêu thương, làm tròn bổn phận của người vợ.

Cuối cùng, vì đức hạnh của Rita, người chồng đã thay đổi nếp sống và tận tâm yêu mến bà. Đời sống gia đình kéo dài được 18 năm. Chúa đã chúc lành cho Rita và cho bà sinh 2 con trai. Bà trở thành người vợ và người mẹ tốt lành tận tụy.

Vì có sự bất hòa trong đại gia đình dòng họ, một hôm, chồng bà đã bị kẻ thù giết chết, bà rất đau khổ, nhưng trong tinh thần Công Giáo, bà tha thứ cho kẻ thù đã giết chồng.

Hai con trai của bà khi đến tuổi được phép mang khí giới, không giống như mẹ, chúng quyết tâm nuôi mộng giết kẻ thù để trả hận cho cha mình. Bà lại đau khổ, khuyên can các con và vì biết không thể làm lay chuyển được kế hoạch giết người của chúng, bà đã ngày đêm cầu xin Chúa cất chúng về khi chúng đang còn trong ân sủng của Chúa và chưa phạm tội ác. Chúa đã nhận lời bà. Trong một năm, cả 2 đứa lìa đời.

Sau khi con chết, bà xin vào tu trong nhà dòng nữ Augustinô ở Cascia, nhưng nhà dòng đã 3 lần từ chối không nhận bà. Bà tha thiết cầu nguyện đêm ngày xin Chúa cho bà được thuộc về Chúa như người Bạn Trăm Năm. Sau cùng, 3 vị thánh (Gioan Tẩy giả, Augustinô, Nicholas Tolentino) hiện ra dẫn bà tới nhà Dòng Madalena, đưa bà vào trong, bà mới được nhận vào tu.

Trong 40 năm ở nhà dòng, bà sống trong cầu nguyện và chiêm ngắm, hầu hạ người bệnh và người nghèo, làm việc tay chân được bề trên chỉ định. Bà ước ao chia sẻ những khổ đau cùng Chúa Kitô nên sau 25 tu, Chúa đã ban cho bà được chia sẻ một chút là cho một cái gai trong mũ gai của Chúa cắm vào trán bà. Từ đó, trên trán của bà có vết thương rướm máu.

Các bề trên của bà nghĩ rằng đó là hiện tượng bệnh phong cùi, nên tách riêng bà ra khỏi cộng đoàn nhà dòng và cho bà sống trong một căn phòng nhỏ trong góc tu viện. Bà mang vết thương nầy trong 15 năm, âm thầm chịu đựng ngày đêm và cảm tạ những ơn Chúa Giêsu Kitô đã đặc biệt ban cho bà. Bà bị đau đớn khổ sở cho đến lúc nhắm mắt lìa đời ngày 22 tháng 5 năm 1457.

Người ta gọi bà Thánh Rita là “Người đem hòa bình, Thánh của những trường hợp vô vọng, Bà Thánh xin nhiều quá” (“Peacemaker”, “Saint of the Impossible”, the “Saint Who Asks Too Much”).

Năm 1900, bà được phong thánh, và được coi như “Viên ngọc quí của thành Umbria”. Lòng sùng kính Nữ Thánh Rita không những lan ra khắp nước Ý mà còn ra nhiều nước khác, nêu gương cho phụ nữ mọi thời, mọi nơi, qua nhiều giai đoạn…

III .- ĐƯỜNG LỐI CỦA CHÚA

Ngoài những trường hợp đặc biệt như Thánh Sư Huynh André Bessette và Nữ Thánh Rita Cascia, những giáo dân bình thường như các NT DB, LVC và NĐN trình bày trên đây, đã được Chúa Quan Phòng an bài sống đạo trong cuộc đời thường theo đường lối của Ngài mà không ai hiểu được.

Tu xuất

Ba NT đó thuộc Hội CCSHHN. Ba Vị đã có một thời gian tu học ở Chủng Viện An Ninh thuộc Tổng Giáo Phận Huế.

Sau nhiều năm tháng tìm hiểu ƠN GỌI của mình, qua sự cầu nguyện và tự vấn lương tâm, cũng như nhiều buổi tham vấn với các linh mục linh hướng, quý Vị nhận rõ Thánh Ý Chúa  muốn quý Vị thay đổi hướng đi của đời mình nên đã hồi tục và sống đạo giữa giòng đời, làm chứng nhân cho Chúa Kitô.

Vậy những giáo dân xuất thân từ những chủng viện hay những dòng tu thường được gọi là “tu xuất”. Từ ngữ nầy mang ý nghĩa “tiêu cực” hay “tích cực” tùy theo tầm nhìn khác nhau.

Theo LM Ngô Tôn Huấn:

“Nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô và qua bí tích rửa tội, người tín hữu Chúa Kitô trở nên “giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa  để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh  em ra khỏi miền  tối tăm  vào nơi  ánh sáng diệu huyền. Xưa anh  em chưa phải là một dân. Nay anh  em đã là dân của Thiên Chúa; xưa anh  em chưa được hưởng lòng thương xót (của Chúa), nay anh  em đã được thương xót” (1 Pr 2: 9-10).

Và cũng theo LM Ngô Tôn Huấn:

“Tuy nhiên, sống trong Giáo Hội, người tín hữu không có chung một chức năng và nhiệm vụ  như nhau. Ngược  lại, theo Thánh Phaolô,  thì  “anh  em là thân thể Chúa Kitô, và mỗi người là một bộ phận. Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác…” (1 Cor 12: 27-28).

LM Ngô Tôn Huấn còn nhận xét:

Giáo dân là thành  phần Kitô hữu  đông đảo nhất trong Giáo Hội không thuộc về hàng giáo sĩ  hay tu sĩ, nhưng nhờ phép rửa “đã trở nên Dân Thiên Chúa  và tham dự vào  chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Kitô theo cách thức của họ. Họ là những người đang thực hiện sứ mạng của toàn dân Kitô giáo trong Giáo Hội và trên trần gian theo phần vụ riêng của mình” (Ánh Sáng Muôn Dân, 31)

Vì vậy, các giáo dân “tu xuất” mà trong phạm vi bài viết nầy là những Cựu Chủng Sinh, cách riêng các CCS Tổng Giáo Phận Huế, đang sống Ơn Gọi của mình theo nhiều cách thế khác nhau, theo “những đồng bạc” mà Chúa trao ban cho họ để làm sinh lợi.

Có người là Giáo Sư Đại Học, Khoa Học Gia. Có người là Bác Sĩ, Nhạc Sĩ, Văn Thi Sĩ, Kỹ Sư, Luật Sư, Bình Luận Gia…Có người chỉ là giáo dân tầm thường trong các Giáo Xứ, đảm trách những phần vụ như Giáo Lý Viên, dạy Việt ngữ hoặc thực thi công tác truyền thông trong Giáo Xứ, có khi trên bình diện quốc gia hay quốc tế…   Nói chung đại đa số sống đời sống giáo dân tốt đẹp để làm “Chứng Nhân cho Chúa giữa giòng đời” theo những ân huệ họ được nhận lãnh trong những năm tháng ở trong nhà Chúa! Họ là những cánh tay “nối dài” của các giáo sĩ.

Họ thực hành điều mà theo LN Ngô Tôn Huấn: “Tuy khác nhau về địa vị và trách nhiệm, nhưng cả bốn thành phần giáo sĩ, tu sĩ  và giáo dân (bậc độc thân và bậc có gia đình)  đều chung sứ mạng loan báo Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô cho những người chưa nghe biết, để tất cả đều được hy vọng cứu độ vì “Thiên  Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tim 2:4).

Gương Chứng Nhân của Song Thân Nữ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu

Trong bài “Tựa” quyển sách “MỘT TÂM HỒN”, Kim Thiều viết tại Quần Phương, ngày 24/4/1948 như sau:

Tháng 9 năm 1843, trên con đường dốc và gồ ghề lên nhà Dòng Thánh Bernard xây trên ngọn núi, người ta trông thấy bước đi không nhọc, một thanh niên trạc độ 20 tuổi, dáng bộ rát tư lự và như đang mơ mộng đắm theo một lí tưởng cao khiết của đời sống, đôi mắt nhìn sâu và đượm vẻ rầu rầu, tỏ lộ một tính tình ôn tồn hoà nhã.

Phong cảnh đẹp oai hùng và tráng quan chiêm của dãy núi Alpes, làm nẩy nở trong tâm hồn người trai tráng hàng trăm nghìn tư tưởng quảng bác. Nguồn cảm dũng ứa lên như nước triều dâng, xúc động tấm lòng tri ân Đấng Thiên Chúa uy quyền phép tắc, người thanh niên tấm tắc khen ngợi….. phải dừng bước giờ lâu và để rơi những giọt ngọc… Rồi lại bước đi, đi tới ngọn non xây nhà Dòng. Nhà Dòng như ngọn hải đăng tung ra xa xa tứ phía ánh sáng hi vọng và bác ái.

Cha Bề Trên Dòng phải ngẩn lạ khi nhìn người khách trẻ trung đến thăm: hình dung đẹp oai, nét mặt thẳng thắn, tỏ rõ một linh hồn trung chính và to lớn. Cha tiếp đãi rất lịch thiệp. Cha vấn an quí thân phụ, quí quán và quí danh. Qúi danh cậu là Louis-Martin, sinh ngày 22 tháng 8 năm 1823 ở thành Bordeaux nơi từ mẫu ở hồi hiền phụ sung chức Đại Uý trong đoàn quân pháo thủ binh giặc ở Tây Ban Nha. Hiện nay gia quyến ở tỉnh Alencon, mà cậu là trưởng tử.

(Chân Phước  Louis Martin – Thân Phụ Nữ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu)

Có phải vì muốn du lịch, muốn lên thăm nhà Dòng mà người trai anh tuấn kia bước đi đường miền cảnh đẹp như ru, nhưng xa xăm và hiểm trở? Từ Normandie đến Suisse nhiều lần phải chống gậy dò từng bước. Không, không phải người thanh niên ấy muốn du lịch, muốn đến xin tạm trú một đêm ở ngọn núi hiu quạnh này đâu. Người thanh niên muốn xin ở tu trọn đời.

Cha Bề Trên hỏi :

Cậu đã học mãn khoá La tinh chưa?

– Lạy cha, chưa.

– Đáng tiếc thật, đó là một điều kiện cốt yếu để nhận vào Dòng, nhưng cũng không lo, cậu về học thêm và sau đó chúng tôi sẽ hân hạnh được nhận cậu.

Người khách bất mãn của chúng ta lộn đường trở xuống. Ngày ấy cuộc đời cậu đáng gọi là cuộc lưu ly; nhưng trong tâm trí cậu đã cảm thấy rằng: Dòng Thánh Bernard chỉ là kỉ niệm êm ái trong cuộc đời cậu. Cuộc đời cậu, Đức Chúa Trời đã có một chương trình khác.

Cũng trong thành Alencon, mấy năm sau, một buổi sáng mát dịu dàng, trên đường phố trở lại Dòng thánh Vincent de Paul, ngọn cây, ngành cây hai bên vỉa hè rung rung theo gió, xô đi giồ lại như giùng giằng… ngần ngại… một thiếu nữ dáng thuỳ mị nết na, gương mặt tươi tỉnh gợn nhiều nét đoan chính và can trường, tên cô là Marie-Guérin (Marie-Azélie Guérin Martin), cùng với bà mẹ nhẹ nhàng gót sen bước lại phía nhà các bà Sơ (Soeur). Lòng thiếu nữ ôm đã lâu một chí tu tác, nhưng chợt trông thấy cô, bà Bề Trên được ơn soi sáng ngay, nên sau mấy lời niềm nở cười nói chào hỏi, bà trả lời dứt khoát rằng: Chúa không muốn.

(Chân Phước Marie-Guérin – Thân Phụ & Thân Mẫu Nữ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu)

Cô Marie-Guérin ngậm ngùi trở lại nhà, ở cùng chị cả và một em trai – người em trai này được nhắc đến nhiều lần trong Truyện Một Tâm Hồn.

Hiểu là việc tu không thành, cô thiếu nữ không nghĩ gì đến tu nữa. Ngày đêm cô thầm thì trong lòng lời cầu xin chất phác này:

“Lạy Chúa, con không dám làm bạn trăm năm Chúa như chị con, con vui lòng kết duyên trao ngãi với người thế gian đề hoàn thành ý Chúa. Trong bậc vợ chồng, xin Chúa cho con được sinh nhiều con cái: con sẽ cho đi tu hết.”

Chúa đã để dành cho cô một thanh niên xứng đáng trao gửi hồn xác mà chúng ta vừa đọc trên. Và một ngày đã định, ngày 13 tháng 8 năm 1853, trong nhà thờ Đức Bà thành Alecon, ngươi ta thấy cử hành trọng thể lễ cưới cô Marie-Guérin đẹp duyên cùng cậu Louis-Martin.

Chính chiều ngày lễ cưới, Louis-Martin đã tỏ ra lời tâm huyết cùng bạn trẻ: mình ước ao gìn giữ và chỉ yêu dấu bạn như em yêu dấu nhất thôi… Nhưng qua mấy tháng tâm tình trao đổi, Louis-Martin hiều thấu tâm ý bạn, mơ ước bạn, thì đã đồng tâm hiệp ý cùng bạn ước mơ thấy có đàn con nhởn nhơ nô chơi để vui ấm cửa nhà và rồi cho đi tu hết. Lúc ấy, như thánh Tobias, đã có thể cầu xin cùng Chúa:

Lạy Chúa, Chúa biết lòng tôi, tôi đi kết bạn chỉ vì ao ước có dòng dõi để chúc tụng Chúa đời đời

Tổ uyên ương ấy nở được 9 bông hoa trắng: 4 bông vừa nở, thiên-đàng ngắt ngay lấy đem về làm cảnh, còn 5 bông sau lần-lượt hái dâng cho hai dòng: Dòng Kín và Dòng Thăm-Viếng.

Têrêsa là út của 6 chị 2 anh: chị Louise, chị Pauline, chị Hélène sống có 4 năm, chị Céline, chị Mélanie-Thérèsa sống được 3 tháng. Hai anh: Louis được 5 tháng và Jean-Baptiste được 9 tháng thi mất cả.

……

(Nữ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu)

Về cô gái út này, một văn hào giá trị đã viết:

Têrêsa là một vị truyền giáo lạ lùng của đời này, có tiếng nói đanh thép và vô địch, có cuộc đời vui tươi và dịu ngọt mãi, linh hồn nào đã có lần được nếm mùi dịu ngọt ấy quyết không còn muốn giam cầm mình trong vũng nước bùn lạnh hôi tanh tội lỗi.”

Về cha mẹ của Têrêsa, một cha dòng Tên đã viết trên đầu cuốn truyện MỘT TÂM HỒN dịch sang tiếng Bồ Đào Nha trước nhất lời đề tặng này:

Muôn đời kính nhớ thân phụ phúc hậu chị Têrêsa Hài Đồng GIÊSU, đáng là mô phạm cho bậc làm cha mẹ trong các gia đình Công giáo”.

Câu đề tặng đó, đủ để khen ngợi quý thân phụ Têrêsa, khen ngợi cái tinh thần truyền giáo muôn cách cũng bằng khen ngợi cái tinh thần giáo hoá đàn con nên lành thánh.

Hai Ông Bà Louis và Marie-Azélie Martin được tuyên bố “Bậc Đáng Kính” ngày 26 tháng 3 năm 1994 bởi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

Họ được phong Chân Phước ngày 19 Tháng 10 năm 2008: Đức Hồng Y Jose Saraiva Martins – Đặc Sứ của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI – chủ sự thánh lễ phong Chân Phước trong Vương Cung Thánh Đường Thánh Têrêsa ở thành phố Lisieux.

Ngày 27 tháng 6 năm 2015, tại một Hội Nghị Công giáo của các Hồng Y ở Roma, Đức Thánh Cha Phanxicô đã phê chuẩn nghị định phong Thánh cho Chân Phước Louis và Chân Phước Zélie Martin. Thánh Lễ phong Thánh sẽ được diễn ra vào Chúa nhật, ngày 18 tháng mười 2015 tới đây ở Roma.

Trong mọi hoàn cảnh, Kitô hữu phải luôn luôn tâm niệm Lời Chúa như dưới đây:

Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. (Is 55, 8-9)

Vancouver BC Canada

Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời

(15/8/2015)

ĐƯỜNG LỐI CỦA CHÚA (1)

ĐƯỜNG LỐI CỦA CHÚA ( phần 1)

Tác giả: Nhà Văn Hương Vĩnh

Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.

Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy.

(Is 55, 8-9)

Hè về! Hè về!

Vào những thập niên 50 – 70, bài hát “Hè Về” của Hùng Lân trở nên quen thuộc mỗi độ Xuân tàn và Hè sang. Những câu hát dễ thương dưới đây thường vang vọng trên cửa miệng của đám học sinh non dại thời bấy giờ:

Trời hồng hồng sáng trong trong

Ngàn phượng rung nắng ngoài song

Cành mềm mềm gió ru êm

Lọc mầu mây bích

Ngọc qua mầu duyên

Đàn nhịp nhàng hát vang vang

Nhạc hoà thơ đón hè sang.


Hè về trong khóm trúc mềm đầu bờ

Hè về trong tiếng sáo diều dật dờ

Hè về gieo ánh tơ.

Bâng khuâng nghe nắng đùa mây trắng đàn chim cánh đo trời

Phân vân đôi mái chèo lữ thứ thuyền ai biếng trôi

Xa xa lớp lúa dồn cao sóng vàng leo dốc chân đồi

Thanh thanh hương sen nồng ướp gió trắng khi chiều rơi.”

…….

Ở Bắc Mỹ, “hè về” là dịp cư dân miền Tây đi du lịnh miền Đông vì khí hậu mùa hè ở đây dễ chịu hơn thời tiết băng giá mùa đông!

Trong bối cảnh đó, mỗi dịp hè, tôi thường “thiên di” từ miền Tây sang miền Đông Canada để thay đổi không khí, đồng thời thăm viếng gia đình sinh sống nơi đây. Mùa hè nầy, tôi “thiên di” một tháng (giữa tháng 7 – giữa tháng 8/2015).

I.- THÀNH PHỐ MONTREAL

Thành Phố với trăm tháp chuông

Điểm dừng chân đầu tiên của tôi là Thành Phố Montreal, vốn rất thân quen với tôi. Từ thời xa xưa, Thành Phố Montreal được mệnh danh là “Thành phố với trăm tháp chuông” (Ville aux cent clochers), vì rải rác trong Thành Phố, xuất hiện rất nhiều ngôi thánh đường Công Giáo.

Montreal là thành phố thuộc tỉnh bang Québec – cái nôi của Giáo Hội Công Giáo ở Bắc Mỹ. Rất nhiều con đường ở Montreal còn mang tên các vị Thánh Công Giáo.

Đền Thánh Giuse Montreal và Thánh Sư Huynh André Bessette

(Đền Thánh Giuse Montreal)

Khi đến Montreal, du khách không thể không đi kính viếng Đền Thánh Giuse Montreal. Ngoài địa điểm du lịch, Đền Thánh Giuse còn là nơi linh thiêng để nhiều người đến cầu khẩn xin ơn với Thánh Giuse và rất nhiều người được toại nguyện, kể cả những người ngoài Công Giáo.

Ðền Thánh Giuse Montréal gồm nhiều kiến trúc khác nhau, tạo thành một ngọn đồi thánh thiêng chiếm lãnh trên 500 mẫu tây.

Ngay cạnh nhà tiếp đón du khách có một tháp chuông cao với một bộ chuông gồm 56 chuông lớn nhỏ khác nhau. Trọng lượng bộ chuông lên tới 11 tấn. Bộ chuông này do Chính phủ Pháp đặt làm để trang trí trên Tháp Eiffel tại Thủ Ðô Paris, nhưng vì lý do kỹ thuật, nhà sản xuất Paccard et Frères đã dâng tặng Ðền Thánh năm 1955, nhân kỷ niệm 50 năm xây cất Đền Thánh.

Bên cạnh đó là Nguyện Ðường Khấn Thánh Giuse với 8 phù điêu lớn do điêu khắc gia người Canada Joseph Guardo thực hiện năm 1948, theo TÁM tước hiệu mà truyền thống Công Giáo vẫn suy tôn Thánh Giuse: Ðấng Bảo Trợ các Gia Ðình, Bổn Mạng giới Thợ Thuyền, Đấng Bảo Trợ các Tâm Hồn Thanh Khiết, Bổn Mạng Người Chết Lành, Đấng Nâng Ðỡ những ai Ðau Khổ, Niềm Hy Vọng của Bệnh Nhân, Đấng Xua Đuổi thần dữ và Ðấng Bảo Trợ Giáo Hội.
Dọc theo hành lang nguyện đường, treo la liệt trên tường hàng ngàn chiếc nạng, và những bia đá cẩm thạch mà các người hành hương đã để lại hầu tri ân Thánh Giuse, vì họ đã được lành bệnh lạ thường nhờ sự chuyển cầu của Thánh Nhân trước tòa Chúa.
Từ hành lang nguyện đường nhỏ, tiến sang phía tay phải là ngôi mộ lớn bằng đá cẩm thạch màu đen huyền, nơi an nghỉ của Sư Huynh André. Vì có quá nhiều phép lạ xảy ra nhờ lời chuyển cầu của thày André, nên Đức Gioan Phaolô II đã suy tôn Thày lên bậc Chân Phước ngày 23 tháng 5 năm 1982. Và Đức Biển Đức XVI suy tôn lên hàng Hiển Thánh ngày 17/10/2010.

(Thánh Sư Huynh André Bessette)

Bên cạnh đó là Nhà Thờ Hầm (The Crypt Church). vì nằm dưới Vương Cung Thánh Ðường, có trên 1,000 chỗ ngồi, được xây cất năm 1916.
Chính giữa cung thánh là tượng Thánh Cả Giuse, cao 2m75, nặng 2, 3 tấn, do nghệ sĩ người Ý là ông A. Giacomini, đã tạc bằng đá hoa cương màu trắng rất quý hiếm gọi là carrara.

Trên những bức tường nhà thờ hầm là những tranh màu bằng kính (The Stained Glass Windows) mô tả những giai đoạn chính trong cuộc đời Thánh Cả Giuse. Ðây là công trình nghệ thuật của hai nghệ sĩ Canada – ông Perdriau và ông O’ Shea – hoàn thành năm 1919.
Từ nhà thờ hầm bước ra là cầu thang máy cuốn để lên trên lầu. Đây là phòng nghỉ chân cho khách hành hương. Bên ngoài là ban công khá cao, có thể phóng tầm mắt để nhìn bao quát thành phố Montréal trước mặt. Phía đối diện là trường trung học Notre Dame, nơi mà Sư Huynh André đã phục vụ như một người gác dan cổng trường trên 40 năm.
Sau đó lên lầu là khu triển lãm nhỏ về cuộc đời Sư Huynh André. Ngoài những bức tranh trên tường chụp căn nhà bé nhỏ tồi tàn Sư Huynh đã cất tiếng khóc chào đời, cho đến những tài liệu, những hình ảnh chụp lúc sinh thời và khi qua đời, người ta thấy có 4 phòng lớn:

– Phòng I mô tả cảnh thày André làm người gác dan suốt 40 năm tại cổng trường trung học Notre Dame (1870-1909).

– Phòng II là văn phòng nơi Sư Huynh đón tiếp và săn sóc các bệnh nhân.

– Phòng III là căn phòng ngủ đơn sơ, có một giường cá nhân, một bàn nhỏ và chiếc ghế, một cái dù (cái ô) đen treo trên tường.

– Phòng IV là một phòng nhỏ bằng sắt mạ đồng, có lan can chung quanh, chính giữa có đặt trái tim đã khô của Sư Huynh trong một hộp nhỏ bằng vàng. Ðây là truyền thống lâu đời của nước Pháp và nước Ý, thường lấy trái tim của các bậc vĩ nhân nổi tiếng để dân chúng tri ân và tôn vinh.
Bên cạnh phòng nghỉ chân là cả một khu vườn rất rộng, cây cối và hoa cảnh cắt xén mỹ thuật, do kiến trúc sư phối cảnh Frederick G. Todd thiết kế để dựng 14 chặng đàng Thánh Giá, với những bức tượng màu trắng rất mỹ thuật do hai nghệ sĩ Ercolo Barieri và Louis Parent tạc bằng đá cẩm thạch quý giá. Những bức tượng 14 đàng Thánh gia này với kích thước như một người trung bình được chiếu sáng ban đêm do một hệ thống ánh sáng do chuyên viên Jean d’Orsay nghiên cứu.

Tại khu vườn này có một tương Chúa Kitô Phục sinh, dưới chân tượng là một hệ thống phun nước khá lớn, giúp người hành hương có những giây phút trầm lặng suy tư về cuộc đời.
Kế đó là Bảo Tàng Viện chiếm cả một khu vực lớn cạnh Vương Cung Thánh Ðường với chủ đề Thánh Gia Thất Chúa Kitô, Ðức Mẹ và Thánh Giuse, chiếm cả hai tầng lầu mênh mông là một công trình thu thập các tác phẩm nghệ thuật quý giá, qua nhiều năm khác nhau, khởi đầu từ khi xây cất đền thờ nhỏ đầu tiên từ năm 1905.
Bước vào bảo tàng viện, người ta sẽ bị choáng ngợp bởi một bức tranh sơn dầu thật lớn do nghệ sĩ André Bergeron thực hiện cùng với rất nhiều tác phẩm nghệ thuật của các nghệ sĩ Canada và hầu hết các quốc gia trên thế giới.

Có 2 khu vực khác nhau:

Bảo tàng viện bằng sáp do nghệ sĩ Joseph Guardo thực hiện năm 1955, gồm 10 cảnh sinh hoạt của Thánh Gia Thất, với 76 bức tượng bằng sáp, với kích thước giống như người thật.

Bảo tàng viện Giáng Sinh, bao gồm 330 máng cỏ do các nghệ sĩ của 130 quốc gia trên khắp thế giới thực hiện. Từ chủ đề Chúa Kitô Giáng Sinh, mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể đã được các nghệ sĩ của các quốc gia Âu Châu, Mỹ Châu, Phi Châu, Á Châu và Châu Thái Bình Dương tìm nguồn cảm hứng và thể hiện bằng rất nhiều hình thức khác nhau…Những máng cỏ bằng gỗ, bằng pha lê, bằng kiếng, bằng vải, sơn dầu, tranh thủy mạc, bằng sứ, bằng sành v.v… đã nói lên tinh hoa và văn hóa của mỗi dân tộc.

Tại đây có hai bộ hang đá máng cỏ của Việt Nam: một bằng rễ cây đẽo gọt rất tinh vi mỹ thuật và một tranh sơn mài vẽ Chúa Kitô, Ðức Mẹ và Thánh Giuse dưới y phục và dáng vóc người Việt nam. Hai hang đá máng cỏ này do Nhà văn Phạm Ðình Khiêm, Sàigòn, kính tặng bảo tàng viện năm 1992.

Ngoài ra còn có các máng cỏ từng quốc gia như Nhật Bản, Phi Luật Tân, Tiệp Khắc, Pháp, Ðức v.v…

Điểm nổi bật nhất của Đền Thánh là Vương Cung Thánh Ðường kính Thánh Giuse, dài 105 mét, rộng 65 mét, chiều cao từ nền đến mái vòm 60 mét, nếu tính chung từ nhà thờ hầm đến chóp đỉnh thánh giá 319 mét, đường kính mái vòm bên trong 26 mét, mái vòm bên ngoài 39 mét.

Toàn bộ Vương Cung Thánh Ðường cao 263 mét sánh với mặt biển. Đây cũng là ngọn tháp cao nhất thành phố Montréal. Năm 2005, nhân dịp kỷ niệm 100 năm khởi công xây dựng, chính phủ Canada đã ghi Đền Thánh Giuse Montreal vào sổ các Danh Lam Thắng Cảnh Lịch Sử Quốc Gia.

Quả thật Chúa Quan Phòng thật kỳ diệu, đã sử dụng những con người tầm thường, bé nhỏ, ít học, bình dân như Sư Huynh André – vị sáng lập Ðền Thánh Giuse Montréal – để thực hiện giữa trần gian những chương trình vĩ đại của Ngài.

Sống chứng nhân trong cuộc đời thường

Hai tuần lễ ở Montreal đã mang lại cho tôi một niềm thích thú lớn lao là được diện kiến hai Niên Trưởng (NT) của Hội Cựu Chủng Sinh Huế Hải Ngoại (CCSHHN). Đó là các NT DB và LVC. Hai Vị nầy đã ngoại bát tuần. NT DB tương đối còn khoẻ mạnh và minh mẩn hơn NT LVC.

Tôi gặp hai Vị ở nhà NT DB – một căn nhà khang trang – là nơi NT DB và Phu Nhân sinh sống. Hai Vị có 6 người con và 11 cháu gồm 8 nội và 3 ngoại.

Hằng ngày, các con gái hay con dâu mang thức ăn lại cho hai Vị. NT DB chỉ cắm nồi cơm điện là xong. Riêng Phu Nhân của NT phải ngồi xe lăn. Hôm đó Phu Nhân ngồi xe lăn ở trong phòng ngủ, nhìn ra ngôi vườn phía sau và tràng hạt trên tay. Mỗi ngày không biết Phu Nhân đã lần bao nhiêu tràng chuỗi.

NT DB cho biết hằng ngày con gái/dâu, có khi cả cháu nữa, phụ giúp Phu Nhân tắm rửa. Riêng mùa hè, mỗi khi tốt trời, chiều chiều các cháu nội/ngoại thay nhau đẩy xe lăn đưa Phu Nhân ra đường dạo chơi! Đó là cảnh tượng không phải mọi gia đình VN ở hải ngoại có thể thực hiện được. Tạ Ơn Chúa!

Đối với cả hai NT DB và LVC, tuy đã lớn tuổi, nhưng trang mạng CCSHHN là niềm vui của hai Vị và không ngày nào hai Vị không truy cập.

Riêng NT LVC rất vui mỗi khi vào trang mạng CCSHHN và NT đã đọc rất kỹ những tin tức cũng như những bài chia sẻ trên đó. NT đã đọc với niềm thích thú và ghi nhớ nhiều điều! Một điểm hơi buồn là sức khoẻ của NT LVC không được khả quan lắm: tai nghe không rõ, mặc dù có mang máy thính thị trên tai, đi đứng hơi khó khăn và phần nào hơi lẫn nên các con đã kiếm một viện dưỡng lão thích hợp để NT vào đó ở, kể từ sau lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, hầu NT được săn sóc chu đáo hơn.

II.- NEW JERSEY VÀ PHILADELPHIA

Trong hai tuần lễ ở New Jersey, Hoa Kỳ, tôi có dịp ghé thăm NT NĐN ở Thành Phố Philadelphia, tiểu Bang Pennsylvania, đồng thời kính viếng Đền Nữ Thánh Rita.

Sống đạo giữa giòng đời

NT NĐN thuộc Hội CCSHHN với 10 năm tù CS vì là một cựu sĩ quan cấp tá của Quân Lực VNCH. Trong lúc NT đi tù, Phu Nhân đã buôn bán tần tảo trong thời gian bao cấp, kinh tế khó khăn, để nuôi 11 người con – 5 trai và 6 gái còn nhỏ dại (không kể một cháu gái qua đời lúc mấy tháng tuổi).

Ngoài việc 7 người con vượt biên 3 lần từ trước, NT, Phu Nhân và 1 người con được qua Mỹ theo diện H.O. năm 1990. Riêng 3 người con đã lập gia đình phải ở lại chờ bảo lãnh và đến Mỹ đầu năm 2001.

Ngoài 11 con, hiện nay NT và Phu Nhân có 11 dâu/rễ, 30 cháu nội/ngoại, 7 cháu dâu/rễ và 7 chắt. Hiện NT có 3 gia đình ở 2 tiểu bang xa, còn lại 8 gia đình các con, 7 gia đình các cháu ở Philadelphia và New Jersey, cách xa nhau khoảng 30 phút lái xe. Con cháu chịu khó học hành và thành đạt.

Sau vài năm định cư tại đây, gia đình NT có ra một Tập san nội bộ “Gia Đình LÒNG MẸ”, tự thực hiện: từ chụp hình, viết bài, ghi lại những tin sinh hoạt gia đình trong tháng, sưu tầm các đề tài giáo dục, lay-out, in ấn và đóng thành tập khá đẹp, mỗi 2 tháng phổ biến 1 số, do NT và các con phụ trách, làm phương tiện liên lạc và giáo dục, đã ra từ số 1 đến số 100. Hiện nay vì NT tuổi già sức yếu nên bài vở liên lạc được thay đổi bằng những tâm tình và lời khuyên qua hệ thống e-mail trên cell phone, giản dị, tiện lợi và nhanh chóng hơn.

Hằng năm, vào những dịp Tết, Giáng Sinh hay sinh nhật của hai Vị, các con bàn bạc việc tổ chức những buổi họp mặt để chung vui cùng hai Vị. Ngoài ra mỗi năm vào dịp nghỉ hè, tất cả đều quy tụ về Philadelphia họp mặt thường niên và cùng nhau chia sẽ những biến cố vui buồn. Khi có việc cần bàn thảo, các con trai bàn việc với trưởng nam, còn các con gái bàn việc với trưởng nữ. Tất cả con cháu dâu rễ đoàn kết và rất thương yêu nhau. Đó là điều rất quí hiếm, một ân ban của Chúa!

Theo lời Đức Cha Giacôbê Giáo Phận Vĩnh Long lúc Ngài còn sống thì NT thực là cha xứ của một Gíáo Xứ thu hẹp, nhưng rất sống động. Đúng là một Giáo Hội bé nhỏ tại gia!

Đến nay được 15 năm, NT và Phu Nhân sống trong một căn phòng đôi thuộc cao ốc Seniors Housing của Chính Phủ Hoa Kỳ, ở tầng lầu 16, nhìn ra con sông Delaware thơ mộng mà bên kia là Tiểu Bang New Jersey.

Căn nhà của NT và Phu Nhân chẳng khác nào một phòng tu ở trong Đan Viện. Hằng ngày, ngoài việc lần hạt, hai Vị đều đọc Kinh Thần Vụ sáng, trưa, chiều và tối.

Riêng Phu Nhân là một thành viên Dòng Ba Cát Minh nên trước đây mỗi ngày Phu Nhân theo gương Cha Thánh Piô lần 40 chuỗi, nhưng nay vì tuổi già nên Phu Nhân chỉ còn lần 12 chuỗi thôi. Vào lúc 3 giờ trưa mỗi ngày, Phu Nhân quỳ gối dang hai tay lần chuỗi Lòng Thương Xót Chúa!

Hằng ngày NT và Phu Nhân tham dự Thánh Lễ ở Đền Nữ Thánh Rita. NT giúp lễ và làm thừa tác viên Mình Thánh Chúa: điều đó phụ giúp các cha ở đây rất nhiều.

Vào mùa hè, chiều chiều NT và Phu Nhân tản bộ nơi công viên gần cư xá, để tăng chất luợng cho sức khoẻ.

Đền Nữ Thánh Rita Cascia ở Philadelphia

(Đền Nữ Thánh Rita Cascia ở Philadelphia)

Tại Thành Phố Philadelphia, Tiểu Bang Pennsylvania, nước Hoa Kỳ, có đền kính Nữ Thánh Rita – một trong 3 địa điểm hành hương của Giáo Phận Philadelphia, xây từ năm 1907,  và do các cha dòng Thánh Augustinô trông coi.

Người khởi xướng là linh mục Villanova dòng Thánh Augustinô. Cha có ý định xây dựng ngôi nhà thờ cho giáo xứ 10 ngàn người Ý di cư tới Mỹ ở ngoại ô Thành Phố Philadelphia. Để đặt tên ngôi thánh đường, họ chọn Thánh Nữ Rita là người Ý, mới được phong thánh năm 1900. Các linh mục dòng tổ chức các tuần cửu nhật để giáo dân trong xứ cầu xin và tạ ơn.

Năm 1915, tầng trên Đền Thánh hoàn tất và đã trở thành Trung Tâm Tôn Kính Nữ Thánh Rita trên nước Mỹ.

Ngày nay, sau những thế hệ ban đầu, lòng sùng kính Nữ Thánh Rita vẫn còn tiếp tục và phát triển. Tại đền này, tầng lầu trên là nhà thờ, tầng dưới là đền kính Nữ Thánh Rita.

Hằng ngày có rất nhiều người tại địa phương cũng như từ phương xa đến xin bà Thánh Rita khẩn cầu cùng Chúa cho họ. Vì nhiều người đã nhận được ơn lạ nên Nữ Thánh Rita được mang danh hiệu là “Vị Thánh cầu bầu cho các hoàn cảnh vô phương cứu vãn.”

Nhiều gia đình Việt Nam ở Philadelphia cũng ở trong số những người được Nữ Thánh Rita cầu bàu cùng Chúa nhận lời họ kêu xin.

Địa chỉ của Đền Nữ Thánh Rita:Shrine of Saint Rita of Cascia 1166 South Broad Street, Philadelphia, PA 19146 .

Xin xem tiếp phần 2

THIÊN HẠ NÓI THẦY LÀ AI?

THIÊN HẠ NÓI THẦY LÀ AI?

Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia Anh đã tổ chức một cuộc triển lãm, và họa sĩ Cô-xê (Smith Kosse) đã trưng bày một bức ảnh tựa đề: “Người bị khinh chê chối bỏ.”  Họa sĩ vẽ Chúa Giêsu đứng trước nhà thờ chính tóa Thánh Phaolô, trong một khu phố đông đúc ở trung tâm Luân đôn, nhưng không một ai để ý tới Chúa.  Một người đàn ông vừa đi vừa đọc báo, suýt đâm thẳng vào Chúa.  Một khoa học gia bận bịu với những ống nghiệm, không nhìn lên Chúa.  Một chức sắc trong hàng giáo phẩm hiên ngang ngẩng đầu tiến bước, nhưng không thấy Đức Kitô.  Có một nhà thần học đang hăng say thuyết minh về Đức Kitô mà không nhìn về Người.  Duy chỉ có một nữ tu nhìn về Chúa, nhưng vẫn tiếp tục đi con đường của mình.

Ông Barclay (William Barclay), một học giả Kinh Thánh nổi tiếng đã bình luận về bức họa: “Những hoàn cảnh này thường xảy ra trong cuộc sống hôm nay.  Nếu Đức Kitô tái xuất hiện, có lẽ cũng chả ai chú ý tới.  Người ta còn bận tâm về đủ thứ chuyện cao sâu hơn là việc lưu tâm tới Chúa hoặc theo dõi Lời Chúa.  Chuyện đó lạ đời, nhưng lại thực sự xảy ra ngay lần Chúa xuống trần gian hai ngàn năm trước.  Sau một thời gian Chúa xuất hiện rao giảng Tin Mừng Cứu độ.  Người đã làm bao phép lạ sôi nổi, gây chấn động trong dân chúng, rồi Chúa hỏi các môn đệ xem người ta bảo Chúa là ai, thì mỗi người lại nói mỗi khác.  Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả Phục Sinh, người nói là Êli, người khác bảo là một ngôn sứ…  Tất cả nói đúng nhưng chưa đủ.  Chỉ có Phêrô mới có thể nói đúng và đầy đủ về Chúa: “Thầy là Đấng Cứu Thế.”

Lời tuyên bố của Phêrô là câu trả lời Chúa Giêsu muốn có.  Nhưng Chúa cũng nói ngay đó là do Cha trên trời tỏ bày cho, chứ không phải nhờ học hỏi hay nghiên cứu.  Phêrô và các Tông đồ được ơn soi sáng, được dạy dỗ và hướng dẫn để hiểu biết sự thật về Đức Kitô, vì các ông là môn đệ Chúa, sẽ tiếp tục sự nghiệp Chúa nơi trần thế.  Lời tuyên bố này rõ ràng là một ơn mạc khải, vì chính Phêrô nói ra mà cũng không hiểu tường tận về lời mình nói.  Ngay lúc đó Chúa Giêsu đã nói cho các môn đệ về số phận của Người.  Chúa nói sẽ chịu đau khổ nhiều, bị bắt, bị hành hạ, bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại.  Nghe vậy, các môn đệ khó chịu, các ông đã không để ý tới việc Chúa sẽ sống lại, và cho là Chúa thất bại, thua kẻ thù.  Vì thế, Phêrô kéo Chúa ra một chỗ và can ngăn Chúa đừng nói vậy, đừng để chuyện đó xảy ra.  Vì thế, Chúa Giêsu nổi giận mắng ông: “Satan, hãy lui đi!”

Chúa Cứu Thế sẽ cứu chuộc trần gian bằng thập giá.  Đó là điều quan trọng vì Chúa đòi buộc các môn đệ của Người cũng đi con đường này: “Ai muốn theo Thầy hãy bỏ mình đi, vác thập giá mà theo. Vì ai muốn cứu mạng mình thì sẽ mất.  Còn ai sẵn sàng bỏ mạng sống vì Thầy và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được sự sống mình.”

Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu biết Chúa hơn để chúng con biết vác thập giá đi theo Chúa và được vào hưởng vinh quang với Chúa.

Noel Quesson.

“CON ĐƯỜNG EM ĐI ĐÓ, ĐÚNG HAY SAO EM ?”

“CON ĐƯỜNG EM ĐI ĐÓ, ĐÚNG HAY SAO EM ?”

Lm. VĨNH SANG, DCCT

Trích EPHATA 657

Có một nhóm bạn trẻ mang tên “Giêsu yêu bạn” mời tôi đàm luận đôi điều trong chương trình chuẩn bị lễ bổn mạng của các bạn sắp tới ( Thánh Vinh Sơn Bác Ái ). Tôi được biết các bạn là những người trải qua các đau khổ cuộc đời nhưng may mắn được Chúa chữa lành, từ đó các bạn tìm được bình an và hạnh phúc trong cuôc sống hiện tại, các bạn muốn quy tụ lại để được tiếp tục chữa lành, được cùng nhau cất lời ca tụng Chúa và để làm chứng cho quyền năng và tình yêu của Chúa chữa lành cho anh em, cho mọi người.

Sống được trải nghiệm quyền năng của Chúa trong đời mình, các bạn muốn mách bảo cho những ai bị tổn thương: hãy tìm đến với quyền năng của Chúa. Các bạn xác tín một khi được Chúa chữa lành, các bạn không còn buồn phiền, không còn lo lắng, không còn đau khổ nữa. Nghe các bạn chia sẻ và quan sát cuộc sống của các bạn, tôi nghe vang dội đâu đây lời của Đức Thánh Cha Phanxicô trong Tông Huấn “Niềm Vui của Tin Mừng”. Mở đầu Tông Huấn, ngài nói: “Niềm vui của Tin Mừng đổ đầy trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp Chúa Giêsu. Những ai chấp nhận lời đề nghị cứu độ của Người thì được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn” ( Bản dịch của Ủy Ban Loan Báo Tin Mừng ). Quả thật, chỉ những ai đã đi qua những tổn thương, nhưng được Chúa chữa lành mới cảm nhận được kinh nghiệm nội tâm mà Đức Thánh Cha đề cập đến trong Tông Huấn.

Nhân loại đã bị tổn thương quá nhiều do tội lỗi của con người gây ra, bản thân mỗi người không tìm được sự bình an, cứ luôn bị nhốt kín trong cay đắng, giận hờn, ganh tỵ. Cứ luôn chạy đuổi theo quyền lực thế gian, đam mê vật chất, thù hằn và kiêu ngạo. Một thế giới la liệt những kẻ mù, què, tê bại, phong cùi tinh thần không sao thoát được. Chúng ta cần biết bao quyền năng chữa lành của Thiên Chúa, chỉ khi nào chúng ta gặp được Chúa đích thật, dám mở lòng ra để đón nhận lời cứu độ của Chúa, khi ấy sẽ hết muộn phiền, hết đố kỵ, hết cô đơn và hết tuyệt vọng.

Chúng tôi nói với nhau về kinh nghiệm đi gặp Chúa, nẻo đường hẹp khó khăn gian nan dẫn đến cuộc hẹn hò với Chúa. Chúng tôi nói với nhau về cảm nhận của sự gặp gỡ Chúa, khi Chúa không xuất hiện nơi những gì là quyền cao chức quý, nhưng ngài lại luôn hóa thân nơi những người nghèo khổ. Chưa có trang Tin Mừng nào mô tả Chúa hiện diện nơi những cung điện cao sang hay những nơi phô diễn quyền lực thế gian, nhưng Tin Mừng lại nói Chúa hiện diện nơi “gã” làm vườn, nơi “anh” lữ khách không nhà, nơi “kẻ” lang thang ngoài bờ biển…

Lời ngôn sứ Chúa lầy làm ứng nghiệm cho sứ vụ của Ngài lại là lời tuyên bố: “Thần khí Chúa ở trên tôi, bởi Người đã xức dầu cho tôi, Người đã sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó, ban bố ân xá cho kẻ tù đày, cho người đui mù được thấy, cho kẻ bị áp bức được giải oan; loan báo năm hồng ân của Chúa.” ( Bản dịch của Lm. Nguyễn Thế Thuấn, DCCT ).

Rõ ràng đối tượng được xác định chính là người nghèo khó, kẻ bị tù đày, người đui mù và những kẻ bị áp bức. Thật khó và rất ngượng miệng nếu muốn nói bâng quơ và cắt nghĩa chỉ theo ý tinh thần các chữ nghèo khó, tù đày, đui mù và áp bức.

Chiều thứ hai tuần 22 mùa Thường Niên,  ngày 31.8.2015 vừa qua, có một vị Giám Mục đến thăm các cha các thầy ở Nhà Hưu Dưỡng Tỉnh DCCT Việt Nam. Khi ngài đang thăm viếng, có một số anh em Linh Mục trẻ đến chào ngài, trong số đó có một vị đang lo việc đào tạo, ngài hỏi: “Cha có nhớ bài Tin Mừng hôm nay không ( Lc 4, 14 tt. ) ?” Không đợi trả lời, vị Giám Mục chia sẻ luôn: “Chúng ta thường không làm theo lệnh sai đi, nếu có làm thì lại thường làm sai nội dung của lệnh. Anh em cẩn thận nhé”. Tôi đứng đấy, nghe trọn vẹn lời nhắc của vị Giám Mục đáng kính mà lòng băn khoăn mãi. Con đường mình đang đi đúng hay sai ?

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 4.9.2015
( tựa đề lấy từ bài hát “Không tên cuối cùng”
của Vũ Thành An, Nguyễn Trung Tín )

ỨNG NGHIỆM LỜI KINH THÁNH

ỨNG NGHIỆM LỜI KINH THÁNH

“Tôi đã luôn mong muốn là một người Kitô Hữu không chỉ sống bên những ánh đèn cầy, nhưng được sống ở dưới ánh nắng mặt trời” Lm. Chính Thống Giáo Alexander Men

Đây là một lời tuyên xưng của một vị linh mục người Nga sống dưới thời đại Stalin, ông không chỉ là một Kitô Giáo trong lời cầu nguyện, nhưng với chính cuộc sống hằng ngày của mình.  Mỗi giây phút trong đời, vị linh mục này đã miệt mài đi tìm Chúa Giêsu.  Ông đi tìm Chúa Giêsu nơi chính kinh nghiệm của mình, trong sách vở, nơi những hội trường, và nơi chính đất nước Nga đang đẫm máu của nhân dân ông.  Khi làm công việc mục vụ, ông đã nhiều lần bị chính quyền gọi vào để điều tra, và ông cũng đã có nhiều cơ hội để đi ra khỏi nước, nhưng ông vẫn kiên trì ở lại với đất nước thân yêu của mình và ông đã bị đổ máu trong một vụ ám sát.  Đây là cuộc đời của một vị linh mục Chính Thống Giáo miệt mài đi tìm Đấng mà đã mời gọi ông “hãy đến mà xem” (Ga 1:46) mà các tiên tri, các thánh, và những người đi trước ông đã nói đến.

Câu chuyện về Chúa Giêsu trong bài phúc âm được thuật lại bởi Thánh Sử Luca khi Ngài công khai tuyên báo giữa hội trường về chính Ngài là người mà bao nhiêu ngôn sứ đã nhắc đến, người mà người dân Do Thái đang mong đợi:

Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.  Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.

Ngay từ nhỏ Chúa Giêsu luôn tỏ cho mọi người xung quanh biết Ngài là ai (cf. Lc 2:41-52), và sứ mạng của Ngài là làm theo ý Thiên Chúa Cha.  Bởi thế cuộc sống của Ngài là một cuộc sống luôn được hướng dẫn bởi Thần Khí.  Nhưng Chúa Giêsu không vì vậy mà bắt buộc mọi người phải tin vào Ngài, thấy những gì Ngài thấy, hoặc cảm nhận được những gì Ngài cảm nhận, Chúa Giêsu chỉ mời gọi chúng ta “đến mà xem” để biết và cảm nhận thật sự Ngài là ai.  Như khi xưa Chúa Giêsu đã mời gọi Nathaniel hãy đến mà xem, và qua thế hệ này đến thế hệ khác Ngôi Lời Nhập Thể vẫn mời gọi bao tâm hồn đến để cảm nhận cho chính mình Ngài là ai.  Vì chỉ khi chúng ta thật sự cảm nhận bằng con tim Chúa Giêsu là ai, lúc đó chúng ta mới thật sự mở tâm hồn để cho Ngài ngự trị, chúng ta mới biết buông thả những bám víu của mình để đưa tay cho Ngài dẫn dắt.  Những bám víu ở đây không phải là những tánh hư tật xấu cần phải bỏ, nhưng là những lo sợ, những sự bảo đảm không tồn tại chẳng hạn như sức khoẻ, công danh, tiền tài, v.v.  Không phải là chúng ta không cần sức khoẻ hoặc tiền bạc, nhưng chúng ta đón nhận chúng như những món quà Thiên Chúa ban cho hôm nay, và chúng ta sống trong hiện tại với Ngài qua những món quà ấy.  Những món quà ấy Thiên Chúa ban không phải để cho chúng ta giữ cho chính mình, nhưng để giúp chúng ta sống và làm sáng tỏ hình ảnh của Ngài trong ta.

Như Linh Mục Alexander, chúng ta hãy dành một chút thời gian trong ngày để đến mà xem Đấng mà Thiên Chúa đã xức dầu tấn phong, Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến để làm một với con người và đi loan báo Tin Mừng, Đấng mà giúp ta gỡ bỏ những xiềng xích của lo sợ, ganh tị, kiêu căng, mê muội, đau khổ, hầu giúp chúng ta sống tự do, và trong sự tự do đó chúng ta cùng Ngài công bố hồng ân của Thiên Chúa.  Nhưng để thật sự được cùng Ngài đi công bố hồng ân, chúng ta không thể chỉ gặp Chúa Giêsu bằng cách nghe người khác nói, hay kinh nghiệm của những người xung quanh, nhưng hãy để những kinh nghiệm và lời nói của người khác làm cho chúng ta biết tìm hiểu hoặc xác thực kinh nghiệm của chính mình. Như Linh Mục Alexander tâm sự:

Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu là một cái gì đó mà mỗi người phải trải qua, như toán học không có thể chứng minh vẻ đẹp âm nhạc của Beethoven hoặc một bức hoạ.  Bạn chỉ có thể đến trước là để nghe, để nhìn thấy nó, và để những gì bạn thấy và nghe đi sâu vào tâm hồn mình – cũng thế chúng ta cũng cần cố gắng đi tìm và gặp Đức Giêsu Kitô.  Nếu chúng ta không có cuộc gặp gỡ này, chẳng có gì có thể thuyết phục được chúng ta, những gì chúng ta nghe và thấy bởi những kinh nghiệm của người khác sẽ vẫn chỉ là một cái gì đó mông lung và thiếu sức sống.  Chúng ta tin vào Đức Giêsu Kitô không vì một ai đó nói với chúng ta, nhưng bởi vì những lời này mời gọi chúng ta đến và tìm hiểu.

Đức tin đến từ nghe Lời của Ngài, như Thánh Phao-lô nói.  Nhưng hãy nhớ những gì đã xảy đến với những người Sa-ma-ri khi người phụ nữ đến nói với họ về Chúa Giêsu, Đấng đã “nói với tôi mọi việc tôi đã làm.”  Họ ngạc nhiên, nhưng khi tự bản thân họ đi và đã nghe Chúa Giêsu, họ đã kết luận: Bây giờ chúng tôi mới thật sự gặp Đấng mà chị đã nói đến, “không còn phải vì lời chị kể lại mà chúng tôi tin.  Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (Ga 4:39-42).

Vậy chúng ta hãy đi tìm gặp Đấng mà qua Ngài lời Kinh Thánh đã được ứng nghiệm ở đâu và bằng cách nào?  Chúng ta có thể đi tìm Ngài qua những lời kinh nguyện và bằng cuộc sống của mình như vị Linh Mục Alexander Men, như Nathanaen qua lời giới thiệu của Philípphê, hoặc như những người thành Sa-ma-ri đã không khinh chê người phụ nữ có năm đời chồng nhưng đã tin và đi tìm kiếm “Đấng cứu độ trần gian.”  Chúng ta hãy đi tìm gặp Ngài nơi những hàng cây trụi lá của mùa đông, ở những bãi cỏ phủ đầy sương trắng của những đêm giá lạnh, ở những lời nguyện cho những anh chị em vô gia cư vào những ngày mưa dầm dã, ở những em bé bán vé số trên đường phố Việt Nam với khuôn mặt lấm bụi, ở những chiếc bánh chưng xanh đang mong chờ ngày tết đến… chúng ta hãy cầu xin cho tìm được Đấng ban cho chúng ta sức sống mọi nơi và mọi lúc.

Ước gì chúng ta mang trong con tim nỗi mơ ước được gặp Đức Giêsu, Đấng đã được xức dầu và tấn phong.  Trong khi mong chờ cho giây phút gặp gỡ huyền diệu ấy, xin cho chúng ta biết sống bằng những lời chứng của những người khác và kiên trì đi tìm kiếm Ngài qua những sinh linh đang sinh hoạt dưới ánh nắng mặt trời, những người ta gặp gỡ hàng ngày, trong lời kinh nguyện, những người gieo cho ta vết thương lòng, và đặc biệt là chính trong con người của chúng ta.  Amen!

Củ Khoai

BÀI GIÁO LÝ CỦA ĐTC PHANXICÔ VỀ CẦU NGUYỆN TRONG GIA ĐÌNH

BÀI GIÁO LÝ CỦA ĐTC PHANXICÔ VỀ CẦU NGUYỆN TRONG GIA ĐÌNH

Tác giả:  Phaolô Phạm Xuân Khôi

“Nếu tình yêu đối với Thiên Chúa không thắp lên ngọn lửa, thì tinh thần cầu nguyện không sưởi ấm thời gian được.… Một tâm hồn được tình yêu đối với Thiên Chúa cư ngụ biến ngay cả một tư tưởng không lời, hay một lời khẩn cầu trước một ảnh thánh, hoặc một nụ hôn gửi đến nhà thờ, thành lời cầu nguyện.”

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý của ĐTC Phanxicô được ban hành ngày 26 tháng 8 năm 2015 trong buổi Triều Yết Chung tại Quảng trường Thánh Phêrô.  Hôm nay ĐTC tiếp tục chu kỳ Giáo Lý về Gia Đình.  Ngài giải thích về tầm quan trọng của việc Cầu Nguyện trong gia đình.

* * *

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Sau khi suy nghĩ về cách các gia đình sống thời gian nghỉ lễ và làm việc, giờ đây chúng ta xét đến thì giờ cầu nguyện. Lời than phiền thông thường nhất của các Kitô hữu về thì giờ là: “Tôi đáng lẽ phải cầu nguyện nhiều hơn…; tôi muốn làm điều ấy, nhưng tôi thường không có thì giờ.”  Chúng ta thường xuyên nghe thấy lời than ấy.  Sự hối tiếc này chắc chắn là chân thành, bởi vì tâm hồn con người luôn luôn tìm cách cầu nguyện, ngay cả khi không ý thức điều ấy; và nếu không tìm được nó thì không thấy bình an.  Nhưng để chúng gặp nhau, chúng ta phải vun trồng trong tâm hồn mình một tình yêu “nồng nàn” với Thiên Chúa, một tình yêu trìu mến.

Chúng ta có thể đặt ra một câu hỏi rất đơn giản.  Thật tốt khi hết lòng tin vào Thiên Chúa, thật tốt khi hy vọng Ngài giúp chúng ta lúc gặp khó khăn, thật tốt khi cảm thấy có bổn phận phải cảm tạ Ngài.  Rất tốt.  Nhưng chúng ta có yêu Chúa, dù một chút không?  Suy nghĩ về Thiên Chúa có làm cho chúng ta cảm động, ngạc nhiên và mềm lòng không?

Chúng ta hãy nghĩ đến công thức của điều răn trọng nhất, là điều răn nâng đỡ tất cả các điều răn khác: “Ngươi hãy kính mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi” (Đnl 6:5; x Mt 22:37).  Công thức này sử dụng ngôn ngữ mãnh liệt của tình yêu, đổ dồn vào Thiên Chúa. Đấy, tinh thần cầu nguyện sống trước hết ở đây.  Và nếu nó ở đây thì nó ở luôn mãi và không bao giờ đi ra nữa.  Chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa như là cái vuốt ve giữ cho chúng ta được sống, mà trước đó không có gì không?  Một cái vuốt ve mà không có gì, ngay cà cái chết, có thể tách chúng ta ra được không?  Hay có phải chúng ta chỉ nghĩ rằng Ngài là Đấng cao cả, Đấng Toàn Năng, đã tạo nên mọi sự, là vị Thẩm Phán kiểm soát mọi hành động của chúng ta?  Đương nhiên, tất cả là sự thật.  Nhưng chỉ khi Thiên Chúa là tình thương mến trên tất cả các tình thương mến của chúng ta, thì ý nghĩa của những lời này mới trở nên trọn vẹn.  Khi ấy, chúng ta cảm thấy hạnh phúc, dù hơi “bối rối”một chút, vì Ngài nghĩ đến chúng ta và đặc biệt yêu thương chúng ta!  Đó không phải là điều cảm động sao?  Không cảm động sao khi Thiên Chúa vuốt ve chúng ta bằng tình yêu của một người Cha?   Thật quá đẹp!  Ngài đã có thể đơn thuần làm cho người ta nhận biết Ngài là Đấng Tối Cao, ban hành các giới răn của Ngài và chờ đợi kết quả.  Nhưng thay vào đó, Thiên Chúa đã và đang làm hơn điều này một cách vô cùng.  Ngài đồng hành với chúng ta trên đường đời, che chở và yêu thương chúng ta.

Nếu tình yêu đối với Thiên Chúa không thắp lên ngọn lửa, thì tinh thần cầu nguyện không sưởi ấm được thời gian.  Như Chúa Giêsu nói, chúng ta có thể đọc nhiều lời “như dân ngoại làm”; hoặc thậm chí phô trương các nghi lễ của mình, “như những người Biệt Phái đã làm” (Mt 6:5.7).  Một tâm hồn được tình yêu đối với Thiên Chúa cư ngụ biến ngay cả một tư tưởng không lời, hay một lời khẩn cầu trước một ảnh thánh, hoặc một nụ hôn gửi đến nhà thờ, thành lời cầu nguyện.  Và tốt đẹp thay khi các bà mẹ dạy những đứa con nhỏ của họ gửi một nụ hôn đến Chúa Giêsu hay Đức Nữ Trinh Maria.  Có biết bao nhiêu sự dịu dàng trong việc này!  Khi ấy trái tim của trẻ em biến thành một nơi cầu nguyện.  Và đó là một hồng ân của Chúa Thánh Thần.  Đừng bao giờ quên cầu xin hồng ân này cho mỗi người chúng ta!  Bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa có cách nói đặc biệt của Ngài trong tâm hồn chúng ta, “Abba” – “Cha ơi”, Ngài dạy chúng ta nói “Cha ơi” như Chúa Giêsu đã nói, một cách nói mà chúng ta không bao giờ có thể tự mình tìm ra được (xem Gl 4: 6).  Chính trong gia đình mà chúng ta học cầu xin hồng ân này của Chúa Thánh Thần và trân quý nó. Nếu anh chị em học nó với cùng một sự bộc phát như khi anh chị em học cách gọi “cha ơi” và “mẹ ơi”, thì anh chị em đã học được nó mãi mãi.  Khi điều này xảy ra, thời gian cho toàn thể cuộc sống gia đình được bao bọc trong cung lòng của tình yêu Thiên Chúa, và chúng ta tự nhiên tìm được thì giờ cầu nguyện.

Như chúng ta biết rõ, thì giờ của gia đình là thì giờ phức tạp và eo hẹp, bận rộn và bận tâm.  Nó luôn luôn ít, không bao giờ đủ, có quá nhiều điều để làm. Ai đã có gia đình sớm học được cách giải một phương trình mà ngay cả các nhà toán học vĩ đại cũng không làm sao mà giải nổi: người ta làm gấp đôi trong vòng hai mươi bốn giờ!  Có những bà mẹ và những người cha có thể thắng giải Nobel vì việc biến 24 giờ thành 48 giờ này:  Tôi không biết họ làm điều ấy thế nào, nhưng họ tra tay và làm!  Có quá nhiều công việc trong một gia đình!

Tinh thần cầu nguyện dâng thì giờ cho cho Thiên Chúa, ra khỏi sự ám ảnh của một cuộc sống luôn thiếu thì giờ, tìm thấy sự bình an nơi những điều thiết yếu, và khám phá ra niềm vui của những món quà bất ngờ.  Hai vị hướng dẫn tốt cho việc này là hai chị em cô Martha và Mary, được đề cập trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe; hai cô đã học được từ Thiên Chúa sự hài hòa của các nhịp điệu trong gia đình: vẻ đẹp của ngày lễ nghỉ, sự thanh thản của công việc và tinh thần cầu nguyện (x. Lc 10:38-42).  Cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu, Đấng mà họai cô yêu mến, là ngày lễ của hai cô.  Tuy nhiên, là một ngày mà cô Martha đã học được rằng công việc tiếp đãi khách, dù quan trọng, nhưng không phải là tất cả, mà việc lắng nghe Chúa, như cô Maria, lại là điều thiết yếu, là “phần tốt nhất” của thì giờ.  Cầu nguyện phát sinh từ việc lắng nghe Chúa Giêsu, từ việc đọc Tin Mừng.  Anh chị em đừng quên đọc một đoạn Tin Mừng mỗi ngày. Cầu nguyện phát sinh từ lòng tin tưởng vào Lời Chúa.  Chúng ta có lòng tin tưởng này trong gia đình của mình không?  Chúng ta có sách Tin Mừng trong nhà không?  Chúng ta có đôi lúc mở nó ra để đọc với nhau không?  Chúng ta có suy niệm về nó khi đọc kinh Mân Côi không? Tin Mừng được đọc và suy niệm trong gia đình giống như một bánh bổ dưỡng nuôi tâm hồn mọi người.  Vào buổi sáng và buổi tối, và khi chúng ta ngồi vào bàn ăn, chúng ta học cách cùng nhau đọc một lời cầu nguyện, rất đơn sơ: chính là Chúa Giêsu đến giữa chúng ta, như Người đã đến với gia đình các cô Martha, Maria và Lazarô.  Có một điều mà tôi giữ mãi trong lòng vì tôi đã nhìn thấy trong thành: có những trẻ em đã không học làm Dấu Thánh Giá! Nhưng anh chị em, bậc cha mẹ, hãy dạy con con cái mình cầu nguyện, làm Dấu Thánh Giá: đây là một nhiệm vụ cao quý của các bà mẹ và các người cha!

Trong lời cầu nguyện của gia đình, trong những lúc mạnh mẽ cũng như những khi khó của nó, chúng ta được Chúa trao phó cho nhau, để mọi người trong gia đình được tình yêu của Thiên Chúa che chở..

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

http://giaoly.org/vn/

Nguyên bản: http://w2.vatican.va/content/francesco/it/audiences/2015/documents/papa-francesco_20150826_udienza-generale.html

Tác giả:  Phaolô Phạm Xuân Khôi

CON BẢO THẦY LÀ AI?

CON BẢO THẦY LÀ AI?

(Suy niệm Tin Mừng Mác-cô (8, 27-35) thuộc Chúa Nhật 24 thường niên B)

Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

Hôm ấy, “Đức Giê-su và các môn đệ của Ngài đi tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê. Dọc đường, Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai? ” Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó” (Mc 8, 27-28).

Như thế, người Do-thái đương thời không biết đích xác Chúa Giê-su là ai. Họ tưởng Ngài chính là Gio-an Tẩy Giả bị Hê-rô-đê trảm quyết nay sống lại. Có kẻ thì tưởng lầm Ngài là ngôn sứ Ê-li-a xưa kia được đưa lên trời nay lại giáng lâm. Kẻ khác thì cho rằng Ngài là một ngôn sứ nào đó.

Sau khi nghe các môn đệ cho biết dư luận quần chúng về mình, Chúa Giê-su quay sang hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? ” Ông Phê-rô trả lời: “Thầy là Đấng Ki-tô” (Mc 8, 29).

Thế là ngoài Phê-rô, dường như chẳng ai biết được chân tướng của Chúa Giê-su. Phê-rô quả có phúc lớn vì được biết căn tính của Thầy mình.

Hôm nay, Chúa Giê-su cũng đặt lại câu hỏi nầy với mỗi người chúng ta. Ngài muốn chúng ta bày tỏ nhận định của ta về Ngài: “Về phần con, Thầy là ai đối với con?”
Thầy là Thẩm Phán khắt khe

Khi câu hỏi nầy được đặt ra với một nhóm thanh niên đang ngồi tận ngoài cổng nhà thờ sáng Chúa nhật, vừa hút thuốc vừa dự lễ, thì họ trả lời qua khói thuốc: “Đối với chúng tôi, Chúa Giê-su là một vị Thẩm Phán khắt khe, hay bắt bẻ những người phạm luật. Dù chẳng yêu mến gì Chúa Giê-su, nhưng vì sợ bị khép vào tội bỏ lễ chúa nhật, nên chúng tôi miễn cưỡng đến ngồi đây dự lễ.”

Thầy là một vị Thần Tài

Khi câu hỏi nầy được nêu ra với một số doanh nhân tất bật với việc làm ăn buôn bán, thì họ trả lời rằng: “Đối với chúng tôi, Chúa Giê-su là một ông Thần Tài. Dù chẳng yêu mến gì ổng, nhưng chúng tôi biết đối xử sòng phẳng với ổng. Nếu ổng phù hộ chúng tôi ăn nên làm ra, thì chúng tôi còn đặt ổng lên bàn thờ, có nhang đèn hoa trái hẳn hoi. Nếu ổng không giúp chúng tôi phát đạt, chúng tôi mời ổng đi chỗ khác.”

Thầy là tấm phao cứu hộ

Khi câu hỏi nầy được nêu lên với một nhóm người khác đang theo đuổi lạc thú, họ đáp: “Chúa Giê-su là ai ư? Thật tình chẳng mấy khi chúng tôi nghĩ đến. Có lẽ khi nào chúng tôi già yếu, lâm bệnh nguy kịch, hoặc gặp gian nan khốn đốn trong cuộc đời, chúng tôi sẽ tìm đến với Ngài… Vâng, lúc đó, chúng tôi sẽ cần đến Ngài như những người đi biển gặp nạn cần đến tấm phao!”

Thế là đối với một số người, Thiên Chúa chỉ là vị Thẩm Phán khắt khe, một Thần Tài xa lạ hay đơn giản chỉ là một tấm phao cứu sinh hay là một nô bộc phục dịch con người. Đúng như lời Chúa Giê-su: “Dân nầy tôn kính Ta ngoài môi miệng còn lòng chúng thì quá xa cách Ta.” (Mc 7,6)

Thiên Chúa đau buồn biết bao khi đoàn con yêu dấu của Ngài nhận định về Ngài như thế.

Khi thấy dân chúng chẳng hiểu căn tính của mình, ngay cả các môn đệ cũng chẳng biết Đấng Ki-tô là ai, Chúa Giê-su liền bày tỏ cho họ biết Ngài chính là Đức Ki-tô, nhưng không phải là một “Đức Ki-tô vinh thắng” chinh phục các lân bang và báo thù cho dân riêng của Chúa như người Do-thái mong đợi, nhưng là một “Đức Ki-tô nhẫn nhục” hiến mạng sống mình chết thay cho muôn dân. Ngài tỏ cho môn đệ biết: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31).

Ước gì, đừng có ai trong chúng ta xem Chúa là thẩm phán khắt khe để rồi đến với Chúa vì sợ hình phạt chứ không vì lòng yêu mến; thờ Chúa như Thần Tài để xin ân huệ mà thiếu lòng yêu mến; xem Chúa như tấm phao và chỉ tìm đến Chúa khi gặp gian nan nguy khốn.

Dostoyevsky, văn hào vĩ đại nhất của nước Nga vào thế kỷ 19, đã tôn Đức Giê-su làm Thần Tượng của mình và đã tuyên xưng:

“Đối với tôi, không có gì đẹp đẽ, sâu  xa, dễ mến, hợp lý và hoàn hảo cho bằng Đức Ki-tô, và hơn thế nữa, dù có ai chứng minh với tôi rằng Đức Ki-tô ở ngoài chân lý, thì tôi không ngần ngại chọn ở lại với Đức Ki-tô hơn là chiều theo chân lý” ( Thư gửi bà Von Vizine ).

Lạy Chúa Giê-su,

Nếu hôm nay Chúa đến và hỏi: Về phần con, con bảo Thầy là ai, thì con xin thưa:

Chúa là Đấng đã nộp mình chịu chết để đền tội cho con. Chúa đã hy sinh đời mình cho con được sống. Chúa là Đấng yêu thương con hết lòng hết sức trên hết mọi sự.

Vì thế, con xin chọn Chúa làm Thần Tượng của đời con. Con xin dành chỗ nhất cho Chúa trong trái tim con.

Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà